PHẦN I: CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT, PHÁP LỆNH NĂM 2014
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (đề nghị đổi tên thành Luật bảo hiểm xã hội (sửa đổi) và lùi thời hạn trình từ cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 sang cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6, thông qua tại Kỳ họp thứ 7).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (lùi thời hạn trình từ cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, thông qua tại Kỳ họp thứ 6 sang cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6, thông qua tại Kỳ họp thứ 7).
Sự cần thiết ban hành
Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Chuyển giao công nghệ. Luật Chuyển giao công nghệ được ban hành thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc quan tâm đến nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Nhằm cụ thể hoá Luật Chuyển giao công nghệ, năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 133/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.
Sau gần 4 năm thi hành, với kỳ vọng Luật Chuyển giao công nghệ sẽ tạo ra một bước đột phá trong việc thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ nhưng những kết quả thu được cho thấy một số quy định của Luật cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Việc bổ sung, sửa đổi một số nội dung của Luật nhằm phù hợp với thực tế phát triển KT-XH, đồng thời đảm bảo chức năng quản lý của nhà nước trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam là cần thiết.
Do những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật Chuyển giao công nghệ là rất cần thiết nhằm: Khắc phục những bất cập, vướng mắc, không còn phù hợp với thực tế trong quá trình triển khai thực hiện Luật Chuyển giao công nghệ. Đảm bảo thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình chuyển giao và tiếp nhận công nghệ. Đảm bảo tính phù hợp, thống nhất giữa Luật Chuyển giao công nghệ với thông lệ quốc tế.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Nội dung chính
- Về đối tượng công nghệ được chuyển giao: Trong Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006, đối tượng công nghệ được chuyển giao bị thu hẹp lại so với định nghĩa về công nghệ do Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP) đưa ra và đã được sử dụng trong thời gian gần đây, trong đó khái niệm công nghệ được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Ngày nay, các lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng,… đang phát triển một cách mạnh mẽ, do vậy việc mở rộng đối tượng công nghệ chuyển giao trong Luật Chuyển giao công nghệ nên được nghiên cứu kỹ để bổ sung cho phù hợp với thực tế.
- Về 03 Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao, Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao và Danh mục công nghệ cấm chuyển giao, nếu để Chính phủ ban hành và sửa đổi, bổ sung Danh mục như quy định trong Luật hiện nay thì rất khó vì 3 Danh mục này thường xuyên phải cập nhật, bổ sung, nếu để Chính phủ ban hành thì sẽ phải qua trình tự, thủ tục ban hành phức tạp, khó đáp ứng được việc sửa đổi, bổ sung, cập nhật Danh mục một cách thường xuyên và liên tục trong thời đại mà công nghệ biến đổi không ngừng như hiện nay.
- Về quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, qua 4 năm thực hiện, việc quản lý các luồng công nghệ nhập rất khó khăn do việc đăng ký chuyển giao không bắt buộc, chính vì vậy, cơ quan quản lý không biết chính xác hằng năm có bao nhiêu công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam. Đặc biệt đối với loại hình chuyển giao công nghệ từ Công ty Mẹ ở nước ngoài cho Công ty con thành lập tại Việt Nam cần phải có cách thức quản lý chặt chẽ hơn để tránh tình trạng chuyển giá qua chuyển giao công nghệ.
- Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công nghệ: Quy định như Điều 19 của Luật Chuyển giao công nghệ là chưa chặt chẽ vì trong thực tế có những Hợp đồng chuyển giao công nghệ quy định thời hạn hiệu lực của Hợp đồng trước cả thời điểm ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ 1-2 năm. Do vậy cần phải quy định cụ thể hơn để tránh hiện tượng lách luật.
- Theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ, không còn chế độ báo cáo đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ, chỉ những tổ chức, cá nhân chuyển giao công nghệ thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao mới phải thực hiện chế độ báo cáo, do vậy việc kiểm tra, giát sát tình hình thực hiện sẽ khó khăn. Việc bổ sung thêm quy định tất cả các tổ chức, cá nhân khi được cấp Giấy phép và Giấy chứng nhận đăng ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ, hằng năm phải gửi báo cáo tình hình triển khai hoạt động chuyển giao công nghệ đến cơ quan cấp Giấy phép/Giấy chứng nhận đăng ký là cần thiết, có như vậy mới quản lý được luồng công nghệ nhập ngoại.
- Về dịch vụ chuyển giao công nghệ: Hoạt động của các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ góp phần không nhỏ vào thành công của hoạt động chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, các tổ chức này phải là các tổ chức có đủ điều kiện mới hoạt động tốt vì bản thân công nghệ là một loại hàng hoá vô hình, do vậy, cần phải coi đây là một loại kinh doanh có điều kiện để từ đó có những quy định về điều kiện thành lập và phương thực hoạt động cho phù hợp.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Khoa học và công nghệ. Ngân sách do nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Về thời gian trình Quốc hội: cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 7 năm 2014.
Dự án này đã được trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuy nhiên Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định rút ra khỏi Chương trình năm 2012. Nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị đưa vào Chương trình năm 2014 để trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại một Kỳ họp thứ 7.
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT ĐẦU TƯ CÔNG
Trong giai đoạn 2001-2010, tổng mức đầu tư toàn xã hội liên tục tăng và duy trì ở mức cao. Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã tăng từ 35,4% năm 2001 lên khoảng 41% năm 2010. Trong đó, bình quân giai đoạn 2001-2005 là 39,1%, giai đoạn 2006-2010 khoảng 42,7%. Tính chung cả giai đoạn 2001-2010, tổng đầu tư xã hội bình quân đạt 41,9% GDP, cao hơn so với mục tiêu đề ra và cao hơn so với mức 30,7% GDP giai đoạn 1991-2000. Trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội, đầu tư từ nguồn vốn nhà nước có một vị trí quan trọng: Bình quân giai đoạn 2001-2010, chiếm 46,3% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Đầu tư của nhà nước bao gồm các nguồn chủ đạo là ngân sách nhà nước (NSNN), tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Phần vốn Nhà nước (chỉ tính phần ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ), chủ yếu đầu tư vào các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia thuộc các lĩnh vực phục vụ công ích, chiếm tỷ trọng 56,8% tổng vốn nhà nước (giai đoạn 2001-2010). Phần vốn này trong giai đoạn 2001-2005 khoảng 304,8 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 24,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong giai đoạn 2006-2010 đạt gần 834 nghìn tỷ đồng, khoảng 27% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Giai đoạn năm 2011-2015, dự kiến tỷ trọng phần vốn đầu tư này cũng khoảng 22%, thấp hơn giai đoạn 2006-2010.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định với sự nỗ lực của các cơ quan liên quan; đồng thời Quốc hội và Chính phủ đã quan tâm và chỉ đạo rất sát sao, nhưng tình trạng đầu tư dàn trải, kéo dài, hiệu quả thấp còn khá phổ biến. Do vậy, việc tiếp tục đổi mới về quản lý và sử dụng có hiệu quả phần vốn đầu tư này là rất quan trọng và cần thiết.
Về các quy định trong việc quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước: Trong thời gian qua, chủ yếu được quy định tại các văn bản dưới luật, như Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, trong đó có quy định về nội dung kế hoạch đầu tư, quản lý đầu tư các dự án; Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009, số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; Quyết định số 135/2009/QĐ-TTg ngày 04/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; Nghị định số 113/2009/NĐ-CP ngày 15/12/2009 về giám sát, đánh giá đầu tư…
Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã dần hình thành hệ thống pháp luật quản lý đầu tư công và đã có đóng góp nhất định trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Tuy nhiên, những văn bản nêu trên chưa đáp ứng toàn diện trong lĩnh vực quản lý đầu tư công và còn nhiều bất cập, như:
- Các quy định hiện hành về quản lý đầu tư công được đề cập ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, có sự mâu thuẫn, chồng chéo, không đầy đủ, thiếu cụ thể và sửa đổi chắp vá, gây khó khăn cho việc áp dụng và thi hành.
- Chưa có quy định hoặc quy định không rõ về yêu cầu, nội dung cần quản lý trong quá trình đầu tư công như: Quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án, theo dõi, kiểm tra và đánh giá dự án, quản lý và sử dụng vốn đầu tư, vận hành dự án, v.v...;
Để khắc phục những tồn tại nêu trên cần có một văn bản luật thống nhất, có cơ sở pháp lý cao hơn để điều chỉnh toàn bộ các hoạt động đầu tư sử dụng vốn nhà nước một cách có hiệu quả và phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính hiện nay. Do vậy, việc sớm ban hành Luật Đầu tư công là cần thiết.
II. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT ĐẦU TƯ CÔNG
1. Hoàn thiện chính sách đầu tư công phù hợp với chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế nói chung và chủ trương tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công nói riêng.
2. Tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý sử dụng vốn nhà nước đối với toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu quyết định chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến quá trình quản lý khai thác, vận hành dự án.
3. Góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước theo định hướng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; chống thất thoát, lãng phí, dàn trải và đảm bảo tính minh bạch, công khai trong hoạt động đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước;
4. Phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính: giảm thiểu tối đa các nội dung cần hướng dẫn thực hiện sau khi ban hành Luật. Nội dung các quy định của Luật rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ, dễ hiểu, dễ kiểm tra, đánh giá cho mọi đối tượng áp dụng Luật;
5. Kịp thời bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư công phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ các Hiệp định song phương, khu vực và đa phương.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT
Dự án Luật Đầu tư công đã được chuẩn bị từ năm 2007 theo Nghị quyết số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc hội, tiếp tục được chuẩn bị trong năm 2010 theo Nghị quyết số 883/2010/UBTVQH12 ngày 09/02/2010 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bộ Tư pháp đã có văn bản thẩm định số 791/BTP-PLDSKT ngày 26/3/2010. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã họp và có báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án Luật (ngày 27/4/2010).
Thực hiện Nghị quyết số 07/2011/QH13 ngày 06 tháng 8 năm 2011 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011; Quyết định số 1681/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012; Các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các văn bản: số 4319/VPCP-PL ngày 14/6/2012, số 4510/VPCP-QHQT ngày 21/6/2012, số 5179/VPCP-PL ngày 13/7/2012 về việc tách dự án Luật Đầu tư công, mua sắm công thành hai luật: Luật Đầu tư công và Luật Đấu thầu sửa đổi; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã khẩn trương tiến hành chuẩn bị và soạn thảo Dự án Luật để trình Chính phủ và Quốc hội theo quy định.
Ngày 13/9/2012, Chính phủ có Nghị quyết số 55/NQ-CP, trong đó giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan hoàn chỉnh Dự án Luật đầu tư công theo ý kiến chỉ đạo của các thành viên Chính phủ, trình Chính phủ xem xét trước khi báo cáo Quốc hội xem xét cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4.
Tại Thông báo số 347/TB-VPCP ngày 9/10/2012 của Văn phòng Chính phủ, thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc hoàn thiện dự án Luật Đầu tư công và đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép lùi thời gian trình dự án Luật Đầu tư công sang kỳ họp thứ 5 của Quốc hội.
Công tác soạn thảo dự án Luật Đầu tư công đã được tiến hành theo trình tự quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong quá trình nghiên cứu soạn thảo Dự án Luật, Ban soạn thảo đã nhận được nhiều ý kiến góp ý bằng văn bản của các cơ quan liên quan (xin xem báo cáo tổng hợp các ý kiến góp ý Dự thảo Luật kèm theo). Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức nhiều hội thảo xin ý kiến các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và nhà tài trợ. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các cơ quan, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chỉnh sửa, hoàn chỉnh Dự thảo Luật Đầu tư công. Trong tháng 8 và tháng 9/2012, Chính phủ và Thường trực Chính phủ đã họp và có ý kiến chỉ đạo việc hoàn thiện Dự thảo Luật.
Trên cơ sở các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn chỉnh Dự thảo Luật, trình Chính phủ.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT ĐẦU TƯ CÔNG .
1. Bố cục dự thảo Luật đầu tư công
Dự thảo Luật Đầu tư công (dưới đây gọi tắt là Luật) gồm 6 chương và 81 điều. Cụ thể như sau:
CHƯƠNG I: Những quy định chung, gồm 7 điều (Điều 1 - Điều 7), quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng đầu tư công, nguyên tắc quản lý đầu tư công, các hành vi bị cấm trong hoạt động đầu tư công, việc áp dụng pháp luật trong đầu tư công...
CHƯƠNG II: Kế hoạch đầu tư công gồm 10 điều (Điều 8 - Điều 17): Kế hoạch đầu tư công là một bộ phận của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm. Nội dung chủ yếu của Chương này là quy định về quản lý đầu tư theo kế hoạch, bao gồm: Các loại kế hoạch, thẩm quyền phê duyệt và yêu cầu đối với việc lập kế hoạch đầu tư ở các cấp; Nội dung của kế hoạch đầu tư, điều chỉnh kế hoạch đầu tư ở các cấp; Xác định danh mục chương trình, dự án trong kế hoạch đầu tư; và Tổ chức thực hiện kế hoạch.
Đây là một nội dung mới chưa có trong quy định của các văn bản pháp luật hiện nay.
CHƯƠNG III: Chương trình đầu tư công, gồm 13 điều (Điều 18 - Điều 30) quy định việc lập các loại chương trình đầu tư công, trình tự lập, phê duyệt và điều chỉnh các chương trình đầu tư công; tổ chức quản lý thực hiện chương trình, các tổ chức liên quan đến chương trình đầu tư công. Việc thực hiện chương trình đầu tư công là để tập trung nguồn lực thực hiện một hay một số mục tiêu theo quy hoạch hoặc chiến lược phát triển của toàn quốc hay vùng lãnh thổ.
Dự thảo Luật quy định 2 loại chương trình đầu tư công: Chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình mục tiêu khác.
CHƯƠNG IV: Dự án đầu tư công, chương này được kết cấu thành 5 mục: mục 1. Lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư, gồm 03 điều (Điều 31 đến Điều 33); mục 2. Lập, thẩm định, quyết định dự án đầu tư công, gồm 8 điều (Điều 34 - Điều 41); mục 3. Quản lý thực hiện dự án đầu tư công, gồm 18 điều (Điều 42 - Điều 59); mục 4. Các hình thức đầu tư công khác theo đề án, gồm 2 điều (Điều 60, 61) và mục 5. Các tổ chức, cá nhân liên quan đến dự án đầu tư công, gồm 9 điều (Điều 62 - Điều 70).
Nội dung của chương này quy định đồng bộ về các giai đoạn trong chu trình dự án đầu tư công. Bao gồm:
- Giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án: Quy định về lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư và lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư công.
- Giai đoạn thực hiện dự án đầu tư: Quy định có tính nguyên tắc các nội dung chính cần thực hiện. Dự thảo Luật Đầu tư công không quy định nội dung chi tiết cho giai đoạn thực hiện đầu tư dự án về đấu thầu lựa chọn nhà thầu, thi công, xây lắp, mua sắm thiết bị dự án...; các nội dung này cần thực hiện theo Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng và pháp luật liên quan khác...
Ngoài ra, để từng bước khắc phục mặt hạn chế trong quản lý đầu tư hiện nay là thiên về quản lý, kiểm tra quá trình thực hiện theo quy định, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý hướng đến kết quả và hiệu quả cuối cùng; Dự thảo Luật bổ sung quy định về hình thức quản lý mới về ủy thác đầu tư dự án, đánh giá kết thúc và đánh giá tác động dự án.
- Giai đoạn tổ chức vận hành, khai thác dự án: Quy định nguyên tắc là sẽ thực hiện theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và các Luật liên quan khác. Tuy nhiên, để đảm bảo điều kiện cho tổ chức vận hành, khai thác có hiệu quả dự án sau đầu tư; đã bổ sung quy định Tổng mức đầu tư dự án cần tính toán thêm chi phí vận hành, khai thác và dự kiến nguồn vốn đảm bảo các hoạt động này (ngoài chi phí đầu tư như đã tính hiện nay).
Ngoài ra, Dự thảo Luật nghiên cứu, đề xuất bổ sung các quy định về lập Đề án bán và cho thuê quyền khai thác các dự có khả năng thu hồi một phần vốn đầu tư và các trường hợp khác đầu tư theo Đề án khi sử dụng các nguồn thu của Nhà nước để lại không đưa vào ngân sách Nhà nước.
CHƯƠNG V: Quản lý nhà nước về đầu tư công gồm 8 điều (Điều 71- Điều 78). Chương này gồm các nội dung chính sau:
1. Nội dung quản lý nhà nước trong đầu tư công, bao gồm các mặt phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong quản lý kinh tế nói chung như: xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực thi pháp luật, chính sách về đầu tư công; giải quyết các vướng mắc; kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư công; giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư công theo thẩm quyền; xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, v.v...
2. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó quy định quyền hạn và trách nhiệm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ, các bộ quản lý tổng hợp về đầu tư (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên và Môi trường), các bộ quản lý ngành và Ủy ban nhân dân các cấp.
CHƯƠNG VI: Điều khoản thi hành, gồm 3 điều (Điều 79 - Điều 81) quy định việc xử lý các dự án đã và đang thực hiện trước khi ban hành Luật này của các bộ, ngành, địa phương trong cả nước, thời hạn có hiệu lực của Luật và việc hướng dẫn thi hành Luật.
Dự kiến thời gian trình: Cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6, thông qua tại Kỳ họp thứ 7.
Sự cần thiết ban hành
Luật Tổ chức Chính phủ ra đời năm 2001 thay thế Luật tổ chức Chính phủ năm năm 1992 trên cở sở căn cứ Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2010/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10. Qua 10 thực hiện, Luật Tổ chức Chính phủ là cơ sở pháp lý quan trọng với các quy định về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, đã giúp cho các cơ quan thực thi nhiệm vụ, quyền hạn được thống nhất thông suốt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Theo tiến trình phát triển chung trong nước và quốc tế từ khi Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 ban hành đến nay đã có nhiều thay đổi, Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã có sự đánh giá nghiêm túc, toàn diện trên các mặt về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trong giai đoạn 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX và nhìn lại 20 năm đổi mới, phát triển của đất nước, đề ra các định hướng phát triển của đất nước cho phù hợp với tình hình mới. Đối với tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Nghị quyết Đại hội X đã chỉ rõ: Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng: Xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiện đại. Luật hóa cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực. Theo đó, điều chỉnh chức năng của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển. Chính phủ tập trung vào việc hoạch định chính sách, xây dựng giải pháp, cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, thanh tra thực hiện thể chế; xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội của cơ quan công quyền các cấp. Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm hợp lý đầu mối, phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh; tổ chức Chính phủ tinh gọn và hợp lý; tăng cường dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh; xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương giải pháp phù hợp cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cấp chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao. Đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Từ định hướng nêu trên của Đảng, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ, việc xem xét và điều chỉnh sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ trong giai đoạn hiện nay là cần thiết và thuận lợi trong điều kiện nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Đánh giá hoạt động của Chính phủ theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 trước yêu cầu của Nghị quyết Đại hội X và XI của Đảng và so với thực tế tình hình phát triển chung của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế đã bộc lộ những vấn đề vướng mắc, bất cập chưa giải quyết được và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý đất nước trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
- Các quy định của Luật Tổ chức Chính phủ có một số nội dung quy định về chức năng nhiệm vụ đã có nhiều điểm chưa theo kịp với tiến trình phát triển của đất nước chưa có quy phạm điều chỉnh phù hợp, gây khó khăn trong công tác điều hành của Chính phủ.
- Luật Tổ chức Chính phủ hiện hành chưa có quy định có tính chất nguyên tắc về tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực theo Nghị quyết của Trung ương Đảng. Nội dung phân cấp chưa được cụ thể hóa trong quy định văn bản luật.
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên là các Bộ trưởng chưa rõ; vai trò trách nhiệm của thành viên Chính phủ với vai trò trách nhiệm của Bộ trưởng chưa được phân định rành mạch, còn nhiều điểm chung chung, chưa phát huy được hiệu quả hoạt động của thành viên Chính phủ.
- Một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đang có nhiều bất cập, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội và xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay; thực tiễn đang đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với một số vấn đề đặt rất cấp thiết như: Công tác quản lý đất đai, khoáng sản, tài nguyên quốc gia, tài sản công, vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp, quản lý năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng; bảo vệ và cải thiện môi trường; ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và các diễn biến phức tạp của thiên tai; quản lý đô thị, kiến trúc,nhà ở; cải cách hành chính; phòng chống tham nhũng; quản lý nhà nước về các hội, các tổ chức phi chính phủ.
- Một số nội dung nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Nghị quyết Đại hội X và XI của Đảng chưa được cụ thể hóa trong Luật nên chưa có tính khả thi trước yêu cầu thực tế đòi hỏi.
- Các vấn đề nêu trên cần được xem xét, bổ sung hoàn chỉnh hơn trong một văn bản luật thống nhất, nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cao hơn để phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước cao nhất trong giai đoạn hiện nay và có tính ổn định lâu dài trong tương lai.
Phạm vi điều chỉnh
Dự án Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi) quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thành viên Chính phủ, mối quan hệ giữa các thành viên của Chính phủ.
Đối tượng áp dụng
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Những quan điểm chỉ đạo, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm định hướng sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ
Thể chế hóa được những vấn đề chủ yếu cải cách tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Kế thừa những quy định còn phù hợp trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung phải đảm bảo hoàn thiện tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Chính phủ hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Bảo đảm tính khả thi của Dự án Luật để khi ban hành sẽ trở thành căn cứ pháp lý tháo gỡ những vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ hiện nay.
Luật hóa cơ cấu tổ chức Chính phủ, tiếp tục tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển trong tình hình mới của đất nước.
Điều chỉnh mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ là Bộ trưởng; mối quan hệ giữa cơ quan thực hiện chức năng hành pháp với lập pháp và tư pháp; mối quan hệ giữa Chính phủ với chính quyền địa phương. Dự án Luật phải đảm bảo ổn định lâu dài, điều chỉnh hiệu quả hoạt động đối với tổ chức bộ máy Chính phủ khóa tới và các khóa tiếp theo.
Bảo đảm sự nhất quán giữa các quy định của Luật Tổ chức Chính phủ với các quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và các luật pháp khác trong nước và quốc tế có liên quan; việc sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ phải gắn với các nội dung, yêu cầu sửa đổi Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và đặt trong tổng thể đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nội dung các quy định của Luật rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ, dễ hiểu, dễ thực hiện; giảm thiểu tối đa các nội dung cần hướng dẫn thực hiện sau khi ban hành Luật.
Nội dung cơ bản của dự án Luật
Dự kiến đề xuất theo hai phương án:
Phương án 1. Trình Chính phủ dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.
- Tác động tích cực:
+ Việc sửa đổi một số điều của Luật tổ chức Chính phủ sẽ không ảnh hưởng nhiều đến kết cấu của Luật cũ, không phải sửa đổi Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc Hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
+ Chi phí cho việc sửa đổi sẽ thấp hơn chi phí cho việc thay thế luật mới.
- Tác động tiêu cực:
+ Phạm vi sửa đổi hẹp, chỉ sửa đổi về thể thức, cấu trúc văn bản, tên gọi các Điều, điều chỉnh thứ tự các Điều; bổ sung một số nhiệm vụ đối với Chính phủ, các thành viên Chính phủ; phân định rõ hơn chức năng nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các Bộ ngành, thành viên Chính phủ; phân định rõ vai trò của Thành viên Chính phủ là Bộ trưởng với vai trò của Bộ Trưởng đứng đầu Bộ ngành.
+ Nội dung sửa đổi chưa mang tính cơ bản, toàn diện, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, không có tính ổn định lâu dài nên phạm vi, mức độ tác động điều chỉnh sẽ hạn chế.
Phương án 2. Trình Chính phủ dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ mới, thay thế Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.
- Tác động tích cực:
+ Luật tổ chức Chính phủ mới được bổ sung cơ bản các nội dung phù hợp, cụ thể hóa được Nghị quyết của Đảng sẽ điều chỉnh hoạt động của Chính phủ đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, bảo đảm được thống nhất, thông suốt; tránh được tình trạng quy định không đầy đủ, không cụ thể, không rõ ràng, chồng chéo, bảo đảm việc quản lý hoạt động của Chính phủ, các thành viên Chính phủ sẽ được thống nhất và chặt chẽ; góp phần cải cách mạnh về phương thức hoạt động và lãnh đạo điều hành của Chính phủ; giảm tối đa các loại văn bản hướng dẫn của Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan;
+ Luật tổ chức Chính phủ là công cụ pháp lý quan trọng để theo dõi, đánh giá, kiểm tra kịp thời, chặt chẽ hoạt động của Chính phủ và các thành viên Chính phủ, bảo đảm hoạt động của Chính phủ có hiệu quả cao; khắc phục những vấn đề thiếu hụt, bất cập trong quản lý, điều hành của Chính phủ hiện nay; góp phần nâng cao vai trò của Chính phủ, tạo tiền đề cho các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung; góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, đảm bảo ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.
+ Các nội dung sửa đổi của Luật tổ chức Chính phủ là cơ sở pháp lý để sửa đổi các văn bản luật khác và văn bản dưới luật có liên quan có nội dung bất cập, mà chưa được xem xét điều chỉnh bổ sung để hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ.
+ Luật tổ chức Chính phủ có liên quan phù hợp tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho tổ chức, hoạt động của Chính phủ; mối quan hệ của Chính phủ với Quốc hội, Tòa án tối cao, Viện kiểm sát tối cao và các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội cũng như các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội có liên quan.
- Tác động tiêu cực:
+ Luật tổ chức Chính phủ có liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp và luật khác, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là một nhiệm vụ lớn đòi hỏi phải nghiên cứu và đánh giá toàn diện để nội dung quy định trong Dự án Luật được đầy đủ, thống nhất đảm bảo tính ổn định lâu dài để hạn chế việc xáo trộn, không ổn định làm ảnh hưởng hoạt động Chính phủ và các cơ quan tổ chức có liên quan.
+ Đòi hỏi chi phí về tài chính từ ngân sách nhà nước, nguồn nhân lực bảo đảm cho công tác xây dựng cao đến mức cần thiết trong quá trình soạn thảo Dự án Luật, soạn thảo văn bản hướng dẫn thi hành và triển khai việc tuyên truyền, phổ biến để pháp luật được vào cuộc sống.
Lựa chọn phương án:
Từ phân tích trên, để thực sự đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại thì việc xây dựng hoàn thiện văn bản Luật tổ chức Chính phủ theo hướng thay thế Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 là cần thiết và có nhiều ưu điểm, trên cơ sở kế thừa Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 và hoàn thiện, bổ sung các nội dung mới phù hợp và mang tính ổn định lâu dài.
Xác định phương án lựa chọn xây dựng Luật thay thế Luật tổ chức Chính phủ, từ đó đề ra kế hoạch rà soát, đánh giá một cách tổng thể nội dung cần sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ có liên quan đến Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện hành. Xây dựng chương trình sửa đổi, bổ sung đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật nói chung, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Đây là một chương trình mang tính tổng thể và phức tạp, đề nghị nghiên cứu và lấy ý kiến tham gia của các cơ quan, các cấp, các ngành để tạo được sự đồng thuận và hạn chế những vướng mắc phát sinh trong quá trình xây dựng luật nói chung và xây dựng dự thảo Luật tổ chức Chính phủ nói riêng.
Cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp
Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì soạn thảo.
Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và một số Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8.
Dự kiến nguồn tài chính.
Theo quy định của pháp luật.
Sự cần thiết xây dựng dự án Luật
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội thông qua năm 2003 đã góp phần quan trọng vào việc kiện toàn và củng cố một bước tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp những năm qua và yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới cho thấy Luật hiện hành đã bộc lộ những hạn chế:
- Cơ cấu, tổ chức và nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp quy định trong luật chưa thể hiện rõ vai trò của mỗi cấp hành chính. Trách nhiệm, thẩm quyền giữa cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã chưa được phân định rõ, ràch mạch. Mô hình tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được áp dụng chung cho tất cả các cấp hành chính, không phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của đơn vị hành chính ở mỗi cấp; chưa phân biệt rõ mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
- Luật hiện hành chưa cụ thể hoá được chủ trương, quan điểm trong các Nghị quyết của Đảng về phân cấp mạnh và rõ hơn giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương theo hướng ''việc nào do cấp nào quản lý và giải quyết sát thực tiễn hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó''.
- Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể chưa rõ, do đó chưa đề cao được trách nhiệm của tập thể Uỷ ban nhân dân trong việc quyết định các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền; chưa có cơ chế nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên Uỷ ban nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền được giao. Tính tự quản của Hội đồng nhân dân cấp xã là xu hướng chung cần từng bước có cơ chế thực hiện, song chưa được quy định trong luật nên hạn chế trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền cơ sở.
- Luật hiện hành chưa phân định rõ về thẩm quyền, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân các cấp nên trong thực tế có tình trạng cùng một vấn đề cả ba cấp Hội đồng nhân dân đều bàn bạc và ra nghị quyết thông qua; một văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành chỉ được chính quyền địa phương triển khai thực hiện khi có văn bản hướng dẫn của cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp; một số nhiệm vụ Luật quy định Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã không có khả năng thực thi; vai trò đại diện cho quyền lực Nhà nước ở địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp chưa được thể hiện rõ.
- Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường; thí điểm nhất thể hoá chức danh Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở một số đơn vị hành chính cũng đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hiện hành cho phù hợp.
Từ những căn cứ nêu trên, việc xây dựng Dự án Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) nhằm khắc khục những hạn chế, tồn tại trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, tạo khung pháp lý hoàn chỉnh đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp trong nhiệm kỳ mới là cần thiết.
Phạm vi điều chỉnh
Quy định mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo hướng đổi mới, xác định và phân định rõ mô hình tổ chức, chức năng, thẩm quyền của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp, quy định việc phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương.
Đối tượng áp dụng
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Quan điểm chỉ đạo, chính sách cơ bản
Thể chế hoá được tinh thần đổi mới của Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả;
Trong quá trình xây dựng Dự án Luật, cần bám sát quan điểm, định hướng của Đảng trong Văn kiện Đại hội X và Văn kiện đại hội XI của Đảng, gắn với các định hướng sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 về chính quyền địa phương.
Xây dựng Dự án Luật trên tinh thần sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 hiện hành; cải cách mạnh đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
Xác định rõ vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong mô hình tổng thể chính quyền địa phương trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất của bộ máy hành chính từ Trung ương đến cơ sở; nghiên cứu mô hình tổ chức, nhiệm vụ, thẩm quyền của chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo; phân biệt mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền và cơ chế hoạt động giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
Tiến hành phân cấp hợp lý nhiệm vụ, thẩm quyền giữa cấp Trung ương với chính quyền cấp tỉnh; đẩy mạnh phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương (cấp tỉnh,cấp huyện và cấp xã) đi đôi với nâng cao chất lượng quy hoạch, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương và chính quyền cấp trên, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền giữa các cấp chính quyền địa phương.
Nội dung cơ bản của Dự án Luật
Về tên gọi:
Dự án Luật được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung điều, khoản, trong đó có xây dựng cơ quan hành chính địa phương các cấp theo mô hình mới, không còn là Ủy ban nhân dân các cấp, nếu giữ tên gọi là ‘‘Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân’’ thì không còn phù hợp nên đề xuất tên gọi của Dự án Luật là Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Về tổ chức chính quyền địa phương:
Dự án Luật nghiên cứu xây dựng mô hình mới về tổ chức chính quyền địa phương theo các phương án như sau:
Phương án I: Phương án tổ chức theo mô hình chính quyền hai cấp là cấp tỉnh và cấp dưới tỉnh, cụ thể:
- Phân định rõ chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn;
- Chỉ tổ chức Hội đồng nhân dân ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Không tổ chức Hội đồng nhân dân ở cấp dưới tỉnh;
- Cơ quan hành chính ở cấp tỉnh và cấp dưới tỉnh gọi chung là Uỷ ban hành chính;
- Người đứng đầu cơ quan hành chính ở đô thị là Thị trưởng;
- Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc do Hội đồng nhân dân thành phố bầu ra và Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu cử;
- Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới;
- Người đứng đầu cơ quan hành chính ở nông thôn là Chủ tịch Uỷ ban hành chính. Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc do Hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra và Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu cử. Người đứng đầu cơ quan hành chính dưới cấp tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh bổ nhiệm.
Phương án II: Phương án tổ chức chính quyền địa phương theo ba cấp, song có phân biệt rõ mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
- Đối với chính quyền đô thị (thành phố trực thuộc Trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, phường).
+ Chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã: gồm có cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính là Tòa thị chính, đứng đầu là Thị trưởng, là một hình thức của chính quyền địa phương, thuộc hệ thống tổ chức của Chính phủ (hệ thống hành pháp).
+ Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã do nhân dân bầu. Cơ quan hành chính đứng đầu là Thị trưởng do Hội đồng nhân dân bầu, kết quả bầu Thị trưởng vẫn do cấp trên phê chuẩn. Chỉ có một đến hai phó Thị trưởng, do Thị trưởng đề nghị Hội đồng nhân dân phê chuẩn.
- Đối với quận.
+ Quận là cấp chính quyền không hoàn chỉnh. Không thiết lập Hội đồng nhân dân, chỉ tổ chức cơ quan hành chính quận.
+ Người đứng đầu cơ quan hành chính quận là Quận trưởng do Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm; trực thuộc Quận trưởng là một hoặc một số Phó Quận trưởng do Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm theo đề nghị của Quận trưởng.
+ Tổ chức bộ máy hành chính quận theo hướng cơ quan hành chính quận là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính thành phố.
- Đối với Phường:
+ Phường là một cấp chính quyền không hoàn chỉnh, không thiết lập Hội đồng nhân dân, có cơ quan hành chính phường.
+ Người đứng đầu cơ quan hành chính phường có Phường trưởng do Quận trưởng, Thị trưởng thành phố, thị xã thuộc tỉnh bổ nhiệm. Phường có một hoặc hai Phó Trưởng phường, do Phường trưởng đề nghị Quận trưởng, Thị trưởng thành phố, thị xã thuộc tỉnh bổ nhiệm.
+ Tổ chức bộ máy hành chính phường theo hướng cơ quan hành chính phường là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Đối với chính quyền nông thôn:
+ Chính quyền tỉnh: Gồm có cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính. Đứng đầu cơ quan hành chính tỉnh là tỉnh trưởng do Hội đồng nhân dân bầu, kết quả bầu tỉnh trưởng do Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Có một đến ba Phó Tỉnh trưởng do Tỉnh trưởng đề nghị Hội đồng nhân dân phê chuẩn.
+ Đối với chính quyền huyện:
* Huyện tổ chức theo mô hình chính quyền nông thôn.
* Xác định huyện là cấp hành chính trung gian, không phải là cấp chính quyền hoàn chỉnh, do đó không tổ chức Hội đồng nhân dân mà chỉ có cơ quan hành chính.
* Người đứng đầu cơ quan hành chính huyện là huyện trưởng do tỉnh trưởng hoặc Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm; trực thuộc huyện trưởng là một hoặc một số Phó Huyện trưởng do Tỉnh trưởng hoặc Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm theo đề nghị của Huyện trưởng.
* Tổ chức bộ máy hành chính huyện theo hướng cơ quan hành chính huyện là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
+ Đối với chính quyền xã, thị trấn.
* Xã, thị trấn được tổ chức là một cấp chính quyền hoàn chỉnh, bao gồm Hội đồng nhân dân do người dân trực tiếp bầu ra. Thiết lập cơ chế xã trưởng do cấp trên bổ nhiệm.
* Mô hình tổ chức xã, thị trấn về cơ bản như Hiến pháp và luật hiện hành.
Phương án III: Phương án cải cách một bước mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo hướng không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
- Tổ chức chính quyền địa phương vẫn theo ba cấp như Hiến pháp và Luật hiện hành.
- Không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
- Tổ chức lại bộ máy hành chính địa phương theo hướng cơ quan hành chính (Uỷ ban hành chính) huyện, quận, phường là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp.
- Thực hiện chế độ bổ nhiệm trong bộ máy hành chính tại nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
- Kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, cụ thể:
+ Tăng số lượng thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân; thay chức danh Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân thành chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
+ Tăng số Ban của Hội đồng nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó đối với thành phố trực thuộc Trung ương cần có Ban về quản lý đô thị, xây dựng, giao thông, môi trường. Nghiên cứu thành lập Ban Hội đồng nhân dân xã, thị trấn nếu vẫn tổ chức Hội đồng nhân dân ở các đơn vị hành chính này.
- Tăng cường hoạt động Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân (đặt tại huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã) để thực hiện hiệu quả quyền đại diện của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tại địa bàn. Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ đảm bảo hiệu quả hoạt động của các đại biểu của Tổ, nhất là hoạt động giám sát đối với các cơ quan nhà nước trên địa bàn; đồng thời là nơi tiếp thu các ý kiến, kiến nghị của nhân dân trên địa bàn cho Hội đồng nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Tăng số lượng đại biểu và đại biểu chuyên trách của Hội đồng nhân dân: Mỗi Ban có ít nhất 02 đại biểu chuyên trách. Trong đó Trưởng các Ban nhất thiết phải là đại biểu chuyên trách. Mỗi Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân (đặt tại huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã) có 01 đại biểu chuyên trách theo dõi địa bàn.
Về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ chế hoạt động của chính quyền địa phương.
* Đối với Hội đồng nhân dân các cấp
- Xác định Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương; quyết nghị các vấn đề thuộc thẩm quyền của địa phương và thực hiện các chức năng mang tính tự quản địa phương.
- Phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế hoạt động của Hội đồng nhân dân thuộc chính quyền đô thị (thành phố trực thuộc Trung ương, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và chính quyền nông thôn (tỉnh, xã, thị trấn).
- Nghiên cứu theo hướng không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường nên trong Dự án Luật sẽ không quy định nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
- Nghiên cứu tăng thẩm quyền đối với Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương và tỉnh trong điều kiện tổ chức chính quyền đô thị (không tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số đơn vị hành chính); tăng thẩm quyền đối với Hội đồng nhân dân thành phố, thị xã khi không có Hội đồng nhân dân phường.
* Đối với cơ quan hành chính (Toà thị chính hoặc Uỷ ban hành chính) các cấp
- Xác định rõ, cụ thể hơn vị trí, vai trò của cơ quan hành chính các địa phương theo hướng tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.
- Cơ quan hành chính cấp dưới là đại diện của cơ quan hành chính cấp trên đặt tại địa bàn để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của chính quyền cấp trên.
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính các cấp trên các lĩnh vực quản lý. Phân biệt nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan hành chính khu vực đô thị (thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường) khác với cơ quan hành chính nông thôn (tỉnh, huyện, xã, thị trấn).
- Phân định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp với tập thể theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương.
- Nghiên cứu xác định mô hình cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động đặc thù đối với một số đô thị (thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại I, loại II) và các huyện đảo. Luật Chính quyền địa phương (mới) quy định khung áp dụng, trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành Nghị định quy định cụ thể nội dung này của Luật.
Về cách thức quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính trong Dự án Luật.
Dự án Luật nghiên cứu quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính theo một trong hai phương án sau:
Phương án 1: Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính trong Dự án Luật:
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính trên các lĩnh vực quản lý.
- Phân biệt nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính khu vực đô thị (thành phố trực thuộc Trung ưoơg, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường) khác với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính khu vực nông thôn (tỉnh, huyện, xã, thị trấn).
- Phân định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của nguời đứng đầu Uỷ ban hành chính và tập thể Uỷ ban hành chính theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
Phương án 2: Không quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính trong Dự án Luật mà sẽ do các luật khác và văn bản dưới luật chuyên ngành quy định
Hiện nay, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân các cấp đã được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Do đó, nếu quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính trong Luật Chính quyền địa phương (mới) vừa không đầy đủ vừa dễ trùng lặp với các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Vì vậy, theo Phương án trên, sẽ nghiên cứu quy định theo hướng: Luật Tổ chức Chính quyền địa phương chỉ quy định về tổ chức và cơ chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính thực hiện theo các quy định của Luật chuyên ngành như: Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Giáo dục.
Cơ quan chủ trì, phối hợp
- Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Cơ quan phối hợp gồm: Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Ban Công tác đại biểu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cùng một số Bộ, ngành có liên quan.
Kế hoạch thực hiện
Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8.
16.1. Sự cần thiết ban hành văn bản
Thực tế cho thấy, kể từ khi được ban hành lần đầu tiên vào năm 1989, tiếp đó được sửa đổi, xây dựng mới vào năm 2004, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự đã phát huy được tác dụng to lớn trong lĩnh vực điều tra tội phạm. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, hoạt động điều tra tội phạm của các cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã thu được những kết quả rất quan trọng, góp phần giữ vững an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế, tình hình an ninh, trật tự của đất nước ta vẫn đang có những diễn biến phức tạp, các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, các tội phạm về ma tuý, kinh tế và tham nhũng... có xu hướng ngày càng gia tăng. Nhiều hành vi phạm tội mới xuất hiện như tội phạm lợi dụng công nghệ cao, tội phạm về tin học, rửa tiền... Thực tế này đã gây nhiều khó khăn, vướng mắc cho hoạt động điều tra tội phạm, nhất là trong tình hình Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 21/6/2005 của Bộ Chính trị; vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng dự án Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự là cần thiết, dự án Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được đưa vào Chương trình chuẩn bị của Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2012 (Nghị quyết số 07/2011/QH13).
16.2. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng liên quan đến hoạt động tổ chức điều tra hình sự như những quy định chung về tổ chức bộ máy, thẩm quyền điều tra cụ thể của cơ quan điều tra, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong hoạt động điều tra của các cơ quan nhà nước khác theo lĩnh vực hoạt động của mình; mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan, tổ chức khác.v.v..
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự áp dụng đối với tất cả cơ quan, tổ chức cá nhân trong nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
16.3. Quan điểm xây dựng, nội dung chính của văn bản
Quan điểm xây dựng văn bản
- Thể chế hoá đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về cải cách tư pháp trong đó có hệ thống Cơ quan điều tra; bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra tuân thủ các quy định của Hiến pháp, pháp luật; phù hợp với nguyên tắc và thực tiễn tổ chức bộ máy của Nhà nước ta hiện nay và tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
- Việc xây dựng dự án Luật được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; đáp ứng yêu cầu của công tác điều tra tội phạm trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
- Tạo cơ sở pháp lý mới đầy đủ hơn và tương xứng hơn cho tổ chức hoạt động điều tra hình sự ở Việt Nam và hợp tác quốc tế trong tổ chức hoạt động điều tra hình sự.
- Tham khảo có chọn lọc pháp luật về tổ chức và hoạt động điều tra hình sự của một số nước phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, pháp luật, thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Những nội dung chính của văn bản
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự gồm những nội dung cơ bản sau:
- Những quy định chung.
- Tổ chức và thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra.
- Quyền hạn điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra.
- Kiểm sát, kiểm tra và giám sát hoạt động điều tra.
- Tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên.
- Bảo đảm hoạt động của Cơ quan điều tra.
- Hợp tác quốc tế trong tổ chức điều tra hình sự.
- Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động điều tra.
- Điều khoản thi hành.
16.4. Dự kiến nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác bảo đảm xây dựng văn bản
Về nguồn lực tài chính
Việc xây dựng Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
Nhân lực và các nguồn lực khác
Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, như: Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ...
16.5. Dự kiến thời gian trình văn bản
Trình Quốc hội xem xét,cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết ban hành
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thay thế Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002, Luật đã quy định rõ chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản, nội dung, hình thức, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật… Qua 3 năm thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần đưa công tác xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật vào nề nếp hơn, như quy trình lập chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh hành năm và của từng khoá Quốc hội, hình thức văn bản quy phạm pháp luật cũng được đơn giản hoá… Mặc dù Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới được sửa đổi nhưng qua 3 năm thực hiện cũng đã bộc lộ một số nội dung cần được làm rõ hơn như khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy trình một luật sửa nhiều luật, theo dõi thi hành pháp luật,…
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, hiện đang là cơ sở pháp lý cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp. Qua 7 năm thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý, đưa hoạt động ban hành văn bản của chính quyền địa phương đi vào nề nếp. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 đã bộc lộ nhiều nội dung hạn chế, bất cập như thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hình thức, nội dung văn bản bản quy phạm pháp luật, quy trình ban hành văn bản, đánh giá tác động văn bản, hợp nhất văn bản, pháp điển quy phạm pháp luật...Trong thời gian tới Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 phải được nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với lý luận và thực tiễn ban hành văn bản QPPL ở địa phương.
Hiện nay, pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đang phân tách thành hai cấp: cấp Trung ương và cấp địa phương, tương ứng là 02 Luật khác nhau. Theo đó, việc ban hành văn bản QPPL thuộc thẩm quyền của các cơ quan Trung ương chịu sự điều chỉnh của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Ban hành văn bản QPPL thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 3 cấp: tỉnh, huyện, xã) chịu sự điều chỉnh của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 2004. Về cơ bản, phạm vi và đối tượng điều chỉnh của 02 Luật này gần giống nhau: quy định về trình tự thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, từ giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến tham gia, thẩm định và ban hành đến các giai đoạn sau khi ban hành như kiểm tra, rà soát hệ thống hoá văn bản. Việc tồn tại hai Luật song song cùng điều chỉnh một hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật sớm bộc lộ những hạn chế, bất cập và mâu thuẫn làm ảnh hưởng đến tính khả thi và hiệu lực thực tế trong quá trình áp dụng.
Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua thang 3/2012, sắp tới Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ thông qua Pháp lệnh Pháp điển hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Sự ra đời của 02 pháp lệnh này cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành 02 pháp lệnh về quy trình và kỹ thuật hợp nhất văn bản và pháp điển hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo ra những thay đổi cơ bản trong quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Từ những lý do nêu trên, việc hợp nhất 02 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp là cần thiết, nhằm khắc phục được những bất cập đồng thời nâng cao được tính hiệu lực thực tế, tính khả thi trong quá trình áp dụng.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Luật mới sẽ thay thế Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 quy định về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật,… của các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ các cơ quan Trung ương đến địa phương.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm xây dựng văn bản
Thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; chiến lược cải cách tư pháp trong đó có định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện thể chế trong đó hướng đến xây dựng một quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất ở Trung ương và địa phương.
- Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động pháp điển.
- Kế thừa và phát huy các quy định hợp lý trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004.
- Nghiên cứu, học tập và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số nước, đặc biệt là các nước đã thực có hệ thống văn bản luật hoàn chỉnh.
Nội dung chính
Hợp nhất Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004, trên cơ sở đó cần tập trung làm rõ các nội dung sau:
- Quy định rõ hơn khái niệm “văn bản quy phạm pháp luật”. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng pháp luật ở địa phương, vì nếu là văn bản quy phạm pháp luật thì việc soạn thảo, thẩm định, thông qua, công bố…phải tuân theo trình tự, thủ tục được Luật quy định.
- Quy định cụ thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo hướng đơn giản hoá các hình thức văn bản quy phạm pháp luật (bỏ bớt một số hình thức văn bản quy phạm pháp luật cũng như chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Thu gọn hình thức văn bản QPPL của chính quyền địa phương, đặc biệt là UBND theo hướng mỗi cơ quan chỉ ban hành một hình thức văn bản, cụ thể là: HĐND ban hành Nghị quyết; UBND ban hành Quyết định. Quy định theo hướng này cũng phù hợp với quy định của Luật 2008, theo đó, mỗi cơ quan có thẩm quyền từ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ chỉ ban hành một hình thức văn bản QPPL.
Quy định rõ các biện pháp để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản do chính quyền địa phương ban hành. Cần có những quy định về tính khoa học trong việc lập chương trình, về tính khả thi của văn bản, sự tham gia của cán bộ tư pháp ngay từ khi soạn thảo, vai trò của cán bộ pháp chế của các Sở, ban, ngành ở địa phương, vai trò của Sở Tư pháp trong công tác thẩm định…
Nghiên cứu rút bớt cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật: có thể chỉ giữ lại cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, còn cấp huyện và cấp xã chỉ là cấp thi hành, không ban hành văn bản QPPL. Vấn đề này có liên quan đến việc sửa đổi Luật tổ chức HĐND và UBND, xử lý vấn đề phân cấp, phân quyền giữa các cấp chính quyền địa phương.
- Quy định cụ thể, phân định rõ ràng nội dung của từng hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
- Quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tương ứng với mỗi laọi hình văn bản. Xác định rõ cơ chế tham gia ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp của các tổ chức, cá nhân, sự tiếp thu ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền.
- Quy định quy trình xây dựng văn bản theo thủ tục rút gọn, một văn bản sửa nhiều văn bản…quy định cụ thể về đánh giá tác động văn bản, hiệu quả thi hành văn bản.
- Nội dung hợp nhất văn bản, pháp điển hệ thống văn bản quy phạm pháp luật kể cả đối với văn bản của địa phương.
- Quy định thẩm quyền ban hành văn bản của địa phương, nội dung văn bản của địa phương, cơ chế giám sát, kiểm tra văn bản của đại phương,…
- Quy định các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản và thi hành pháp luật của các bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của UBND.
- Quy định rõ hơn về quy trình rút gon, quy trình một văn bản sửa nhiều văn bản.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Kinh phí xây dựng: ngân sách nhà nước, các nguồn tài trợ khác.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan tổ chức soạn thảo văn bản này.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8
Sự cần thiết ban hành
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 (Luật HKDDVN 2006) là cơ sở quan trọng trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, đánh dấu bước đột phá về công tác quản lý Nhà nước cũng như tạo khung pháp lý cho các hoạt động trong ngành hàng không dân dụng. Luật HKDDVN 2006 đã tách chức năng quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất kinh doanh trong hoạt động hàng không dân dụng.
Quyết định số 94/2009/QĐ-TTg ngày 16/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ chính thức xác lập tư cách Nhà chức trách hàng không của Cục Hàng không Việt Nam đã đáp ứng một phần tiêu chuẩn quốc tế và góp phần nâng cao năng lực quản lý Nhà nước chuyên ngành Hàng không dân dụng. Các Tổng công ty Cảng hàng không và Tổng công ty quản lý bay Việt Nam được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã tạo cơ sở cho việc phát triển toàn diện các doanh nghiệp theo hướng thương mại hóa bên cạnh các dịch vụ công ích. Các cảng vụ hàng không được tách ra và trực thuộc Cục Hàng không Việt Nam góp phần nâng cao năng lực quản lý Nhà nước chuyên ngành hàng không dân dụng tại các cảng hàng không, sân bay - đặc biệt trong lĩnh vực an ninh – an toàn hàng không và quản lý quy hoạch. Qua gần 5 năm thực hiện Luật HKDDVN 2006 đã cho thấy hầu hết các lĩnh vực trong hoạt động hàng không dân dụng đã được luật hóa và tạo cơ sở pháp lý, chuẩn mực hoạt động cho các doanh nghiệp, cơ quan đơn vị trong ngành hàng không
Như vậy, Luật HKDDVN 2006 và các văn bản hướng dẫn là một bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp tại Việt Nam và khẳng định được vai trò là văn bản pháp lý trung tâm của hệ thống pháp luật hàng không; là cơ sở pháp lý điều chỉnh hệ thống tổ chức của hoạt động hàng không dân dụng; góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, dù đã được soạn thảo công phu nhưng Luật HKDDVN 2006 vẫn còn nhiều điều khoản mang tính chất khung và cần phải có các văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể , điều này dẫn đến chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị khi xác định hạn chế việc sử dụng các văn bản dưới Luật để triển khai Luật vào cuộc sống. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, các chủ thể tham gia vào quan hệ được điều chỉnh bởi Luật HKDDVN 2006 cũng phát hiện ra nhiều bất cập giữa quy định của nhiều văn bản pháp luật khác nhau đối với cùng một vấn đề như: quản lý đất đai, cạnh tranh, xử lý vi phạm hành chính, quản lý tĩnh không, quản lý giá/phí. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển của hoạt động hàng không quốc tế cũng như của Việt Nam còn một số vấn đề đã được phát hiện và xử lý qua các VBQPPL dưới Luật nay cần được Luật hóa để bảo đảm tính pháp lý cao như vấn đề: vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của nhà chức trách hàng không; bảo đảm tiêu chí kiểm soát hữu hiệu hãng hàng không; bảo đảm an ninh hàng không;…
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của văn bản theo quy định của Luật HKDD 2006
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các nội dung về phát triển kinh tế, trong đó có ngành HKDD bằng các quy định của Luật; xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng pháp luật;
Tiến hành đồng bộ với cải cách thủ tục hành chính, dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật; các quy phạm của văn bản luật càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội, hạn chế việc Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Hoàn thiện các quy định về xử lý các hành vi vi phạm, công tác phối hợp xử lý các sự cố, góp phần nâng cao ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động hàng không.
Củng cố và đơn giản hóa hệ thống cấp giấy phép cho cơ sở cung cấp dịch vụ, nhân viên hàng không, thiết bị kỹ thuật được hoàn thiện góp phần củng cố bảo đảm an toàn, an ninh hàng không.
Bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động và đầu tư vào lĩnh vực hàng không dân dụng được ghi nhận trong Luật.
Thiết lập Cơ quan quản lý Nhà nước về HKDD đủ năng lực, quyền hạn và nhiệm vụ để phản ứng nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo công tác quản lý về an toàn, an ninh hàng không theo nghĩa vụ của quốc gia thành viên ICAO.
Nội dung chính
Về vị trí, chức năng nhiệm vụ của Nhà chức trách Hàng không: ICAO đã khuyến cáo Việt Nam cần luật hóa vai trò của Nhà chức trách Hàng không trong Luật HKDD Việt Nam 2006. Công ước HKDD quốc tế (Annex 6 Chương 2.1 và Doc 9734 Chương 3.2.5 của ICAO) cũng đòi hỏi việc ban hành các quy định pháp luật và tổ chức thực hiện phải được giao cho Nhà chức trách hàng không để đảm bảo sự nhanh chóng phản ứng đối với vấn đề an toàn hàng không trong công tác quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Cục HKVN cần phải đáp ứng được các chuẩn mực chung của các Nhà chức trách Hàng không về thẩm quyền ban hành các quy định có tính bắt buộc thực hiện trong lĩnh vực HKDD. Bộ GTVT đề nghị sửa đổi Luật HKDDVN 2006 quy định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Cục Hàng không Việt Nam với tư cách là Nhà chức trách Hàng không của Việt Nam.
Vấn đề xác định cơ quan trực thuộc Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các nhiệm vụ cụ thể được xác định trong Luật tuy không phổ biến nhưng đã có ít nhất 04 luật đã giải quyết vấn đề theo hướng này (Luật điện lực 2004 xác định Cơ quan điều tiết điện lực thuộc Bộ Công thương được quy định tại Điều 66 khoản 2, thực hiện các hoạt động điều tiết điện lực cụ thể tại Điều 66 khoản 1; Luật cạnh tranh 2004 xác định Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức, bộ máy của Cơ quan quản lý cạnh tranh tại Điều 49 khoản 1, Cơ quan quản lý cạnh tranh thực hiện các nhiệm vụ cụ thể tại Điều 49 khoản 2, Trách nhiệm quyền hạn của Thủ trưởng Cơ quan quản lý cạnh tranh và việc Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ công thương quy định tại Điều 50; Luật Tần số Vô tuyến điện 2009 (Điều 6) xác định Cơ quan quản lý chuyên ngành tần số vô tuyến điện là cơ quan thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện theo sự phân công, phân cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Luật Viễn thông 2009 (Điều 10) Cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông là cơ quan thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về viễn thông theo sự phân công, phân cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.)
Thực hiện chức năng điều tiết, kiểm soát thị trường bằng việc quản lý giá, phí các dịch vụ hàng không: Pháp lệnh giá 2002 hiện đang được nghiên cứu sửa đổi để trình Quốc hội vào năm 2011, theo định hướng phân cấp quản lý và điều hành giá đối với trách nhiệm của các Bộ, ngành và giao nhiệm vụ cụ thể hơn cho các Bộ, ngành trong việc thực hiện các biện pháp bình ổn giá. Trên thực tế, nhiều Bộ, ngành khác cũng đã được giao nhiệm vụ tham gia vào công tác bình ổn giá và điều hành giá cả theo quy định tại các luật chuyên ngành mới được ban hành gần đây như: Luật đất đai (UBND cấp tỉnh quy định về giá đất), Luật Điện lực (Cơ quan điều tiết điện lực, Bộ Công thương quy định giá điện), Luật Dược (Bộ Y tế quy định giá thuốc); Luật kinh doanh BĐS (Bộ Xây dựng thẩm định giá BĐS). Do vậy, đề nghị sửa đổi Luật HKDD 2006 quy định thẩm quyền định giá, khung giá dịch vụ hàng không, dịch vụ vận chuyển hàng không cho Bộ Giao thông vận tải.
Kinh doanh, vận chuyển hàng không: Nội dung chủ yếu là rà soát, chuyển hóa các nội dung của Nghị định 76/2007/NĐ-CP ngày 09/5/2007 của Chính phủ về kinh doanh vận chuyển HK và hoạt động HK chung và Thông tư số 26/TT-BGTVT ngày 28/10/2009 của Bộ GTVT quy định về vận chuyển HK và hoạt động HK chung và các nội dung về hoạt động nhượng quyền khai thác của các hãng hàng không, quy định về việc sử dụng thương hiệu (bao gồm tên, biểu tượng) của các hãng hàng không trong lĩnh vực vận tải hàng không tại Việt Nam vào Luật. Các quy định về vận chuyển hàng không trong Luật HKDDVN 2006 và Nghị định số 76/2007/NĐ-CP của Chính phủ chưa cụ thể, rõ ràng về vấn đề quản lý nhượng quyền thương mại, nhượng quyền thương hiệu, sử dụng logo của các hãng hàng không gây tranh cãi giữa các doanh nghiệp với các cơ quan chức năng và giữa các cơ quan chức năng với nhau trong việc hiểu và áp dụng pháp luật. Ngoài ra, các quy định nhằm thực hiện quyền kiểm soát hữu hiệu và sở hữu phần lớn thông qua biện pháp hạn chế tỷ lệ vốn góp không quá 30% của bên nước ngoài trong doanh nghiệp vận chuyển hàng không tại Nghị định 76/2007/NĐ-CP đã không còn phù hợp với Luật doanh nghiệp 2005 liên quan đến quy định cho phép tổ chức, cá nhân nắm từ 26 -30% vốn điều lệ đã có quyền phủ quyết đối với các quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
An ninh Hàng không: Nghiên cứu chuyển hóa một số điều của Nghị định 81/2010/NĐ-CP ngày 14/07/2010 về An ninh hàng không dân dụng vào Luật HKDD 2006 sửa đổi. Việc thực hiện Luật HKDDVN 2006 và các văn bản hướng dẫn đã giúp cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh hàng không trong những năm qua có bước phát triển lớn mạnh và hiệu quả; hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh hàng không được nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên nhiều quy định quan trọng mang tính nguyên tắc thiết lập hệ thống bảo đảm an ninh hàng không, xây dựng lực lượng an ninh hàng không còn nằm ở văn bản dạng Nghị định cần phải được luật hóa.
Quản lý tĩnh không: Bổ sung quy định này để giải quyết các vấn đề về công tác phối hợp liên quan đến hình thức quản lý chướng ngại vật hàng không, cấp phép độ cao công trình. Điều 92 khoản 2 Luật HKDDVN 2006 quy định Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm công bố công khai các bề mặt giới hạn chướng ngại vật trong khu vực sân bay; khu vực giới hạn bảo đảm hoạt động bình thường của các đài, trạm vô tuyến điện hàng không; giới hạn chướng ngại vật của khu vực lân cận cảng hàng không, sân bay và danh mục chướng ngại vật tự nhiên, nhân tạo có thể ảnh hưởng đến an toàn của hoạt động bay. Điều 9 khoản 1 Nghị định số 20/2009/NĐ-CP quy định Bộ Quốc phòng có trách nhiệm chủ trì, Bộ Giao thông vận tải phối hợp để thống nhất việc quản lý độ cao chướng ngại vật hàng không đối với các sân bay và các trận địa quản lý, bảo vệ vùng trời. Trong khu vực lân cận cảng hàng không, sân bay còn có các bề mặt giới hạn chướng ngại vật của các trận địa quản lý, bảo vệ vùng trời do Bộ Quốc phòng quản lý và thuộc lĩnh vực bố trí, phòng thủ bảo đảm an ninh quốc gia. Theo Nghị định số 20/2009/NĐ-CP còn có 2 tiêu chuẩn bề mặt hạn chế chướng ngại vật hàng không khác nhau cho càng hàng không, sân bay dùng chung (tiêu chuẩn sân bay quân sự và sân bay dân dụng). Do thiếu cơ chế phối hợp cụ thể cho nên đến nay vẫn chưa xây dựng được bề mặt giới hạn chướng ngại vật tại cảng hàng không, sân bay để công bố. Mặt khác chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cục Tác chiến và Cục HKVN trong việc cấp phép chấp thuận độ cao công trình, do vậy một số công trình có thể ảnh hưởng đến hoạt động bay dẫn đến tình trạng có một số trường hợp vi phạm tĩnh không theo tiêu chuẩn hàng không dân dụng.
Các vấn đề liên quan đến cải cách thủ tục hành chính: Các nội dung chi tiết liên quan đến đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) thuộc lĩnh vực hàng không dân dụng đã và sẽ được tiếp tục triển khai trong khuôn khổ Đề án 30 của Chính phủ. Trong quá trình xây dựng các VBQPPL, các quy định liên quan đến thủ tục hành chính sẽ được kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng theo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về Kiểm soát thủ tục hành chính và tập trung vào các nội dung như: hiệu quả quản lý thông qua TTHC; khả năng lựa chọn giải pháp thay thế; tính đồng bộ thống nhất của thành phần hồ sơ; hiệu lực của TTHC và các quy định cụ thể khác liên quan đến thực hiện TTHC.
Về vị trí, chức năng nhiệm vụ của Nhà chức trách Hàng không: Mặc dù đã được “khai sinh” tại Nghị định số 51/2008/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giao thông vận tải và được Thủ tướng Chính phủ quy định chức, năng nhiệm vụ và quyền hạn tại Quyết định số 94/2009/QĐ-TTg nhưng địa vị pháp lý của Cục Hàng không Việt Nam vẫn không đáp ứng được chuẩn mực của ICAO khi đòi hỏi tư cách Nhà chức trách Hàng không cần phải được xác lập bởi văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam về hàng không dân dụng (Luật HKDDVN). Như vậy, từ đòi hỏi về đáp ứng các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam có nghĩa vụ phải tuân thủ và các vấn đề phát sinh từ thực tiễn trong những năm qua, vấn đề xem xét, nghiên cứu để sửa đổi vị trí chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Nhà chức trách Hàng không Việt Nam (Cục Hàng không Việt Nam) là việc làm cần thiết và cấp bách.
Thực hiện chức năng điều tiết, kiểm soát thị trường bằng việc quản lý giá, phí các dịch vụ hàng không:
Điều 11 và Điều 116 Luật HKDDVN 2006 quy định nguyên tắc quản lý giá: Nhà nước quản lý tất cả các loại giá hàng không ( giá dịch vụ hàng không và giá cước vận chuyển) theo hai hình thức: Nhà nước định giá hoặc doanh nghiệp tự quy định trong khung giá. Tuy nhiên Luật HKDDVN 2006 lại giao thẩm quyền quy định giá, khung giá cho Bộ Tài chính dẫn đến các bất hợp lý sau: Có rất nhiều giá nên việc giao nhiệm vụ cho Bộ Tài chính dẫn đến khó khăn cho Bộ Tài chính với tư cách là cơ quan quản lý chung về vấn đề tài chính của toàn bộ nền kinh tế. Mất tính chủ động linh hoạt trong hoạt động quản lý Nhà nước về hàng không dân dụng của Bộ Giao thông vận tải. Hệ thống văn bản QPPL dưới luật về giá hiện nay chưa thực sự phù hợp với tính chất độc quyền đương nhiên của hệ thống cảng hàng không, sân bay (đòi hỏi Nhà nước phải quản lý tất cả các giá bằng khung giá). Tính chất kinh tế - xã hội của mạng đường bay, tính mùa vụ của dịch vụ vận chuyển (yêu cầu Nhà nước quản lý giá bằng khung giá đối với tất cả mạng đường bay, chống sự đẩy giá lên quá cao vào mùa cao điểm). Ngoài ra, hiện đã có các quy định giao thẩm quyền cho một số Bộ trong vấn đề quản lý giá như Luật Dược, Luật Điện lực, Luật Đất đai, Luật Bất động sản.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Nhân sự cho việc nghiên cứu xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật HKDDVN được bảo đảm từ Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng không Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Tổng công ty hàng không Việt Nam, các hiệp hội và các Bộ, ngành liên quan khác như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ;
Về Tài chính: kinh phí phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng Dự án Luật và trang thiết bị phục vụ Dự án luật sẽ được bảo đảm từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp thông qua Bộ Giao thông vận tải và các nguồn hỗ trợ khác (nếu có).
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
- Thời gian Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội cho ý kiến: Tháng 5/2014;
- Thời gian Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội thông qua: Tháng 10/2014.
Sự cần thiết ban hành Luật NSNN (sửa đổi):
Luật NSNN năm 2002 đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16 tháng 12 năm 2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004. Đây là đạo Luật quan trọng trong hệ thống luật pháp về tài chính của nước ta. Luật NSNN năm 2002 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại của Luật NSNN năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 1998), với mục tiêu quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tài sản nhà nước, tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Triển khai thực hiện Luật NSNN, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các Bộ đã khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, nhằm đưa Luật vào thực hiện kịp thời, có hiệu quả, tạo nên hệ thống văn bản pháp lý trong lĩnh vực quản lý NSNN khá đầy đủ và đồng bộ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật đã bộc lộ nhiều hạn chế nêu trên nên việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung Luật NSNN là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội và nền tài chính quốc gia trong tình hình mới.
Tóm tắt nội dung Dự án Luật:
Sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà nước một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý tài chính trong giai đoạn mới, với các mục tiêu sau:
- Đổi mới thể chế ngân sách nhà nước bảo đảm quản lý thống nhất về ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của ngân sách cấp trên; tăng cường tính chủ động cho ngân sách cấp dưới để giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; đảm bảo thống nhất về mục tiêu, chính sách và cơ chế quản lý ngân sách nhà nước.
- Xác định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp trong công tác quản lý tài chính - ngân sách nhà nước đảm bảo tính chủ động và thực quyền đối với chính quyền địa phương trong việc lập, quyết định, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước. Tăng cường trách nhiệm quản lý, sử dụng ngân sách của các cấp, các cơ quan, đơn vị gắn với trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị chuyên môn.
- Nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong quản lý ngân sách nhà nước. Tăng cường thuyết minh, giải trình về hiệu quả quản lý sử dụng ngân sách nhà nước của các cấp ngân sách, các cơ quan, đơn vị; đồng thời đổi mới thể chế giám sát tài chính và hiện đại hoá công nghệ giám sát.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý ngân sách phù hợp với tiến trình cải cách hành chính của Nhà nước. Đổi mới phương thức quản lý sử dụng ngân sách gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo nguyên tắc hiệu quả và tiết kiệm. Tăng cường công tác dự báo tài chính - ngân sách nhà nước trung hạn, gắn với công tác xây dựng dự toán ngân sách hàng năm để việc định hướng và phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nước có hiệu quả hơn.
- Từng bước phù hợp với thông lệ chung của quốc tế, đồng thời phù hợp với Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức HĐND và UBND,...
Dự kiến các nguồn lực
- Nguồn kinh phí: từ ngân sách nhà nước cấp; hỗ trợ từ các dự án hợp tác – hỗ trợ của các nước, tổ chức trong và ngoài nước (nếu có)
- Các điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo: sử dụng nguồn lực của Bộ Tài chính (Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 2873/BTC-TCDN ngày 12/11/2012 về việc thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh với các thành viên là bao gồm đại diện các Bộ, ngành, cơ quan liên quan).
Dự kiến lộ trình xây dựng Luật: Trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp tháng 5/2014 và thông qua tại kỳ họp tháng 10/2014.
Sự cần thiết ban hành
Nhà ở là tài sản quan trọng và có giá trị lớn không chỉ của mỗi hộ gia đình, cá nhân mà còn đối với mỗi quốc gia. Vấn đề nhà ở có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - kinh tế như qui hoạch, đất đai, tài chính, đầu tư, y tế, giáo dục...Để có cơ sở giải quyết tổng thể vấn đề nhà ở, năm 2005, Quốc hội khoá 12 đã thông qua Luật Nhà ở (Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006). Luật Nhà ở đã điều chỉnh hầu hết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực nhà ở từ phát triển nhà ở, sở hữu nhà ở, quản lý sử dụng nhà ở, giao dịch về nhà ở, quản lý nhà nước về nhà ở và việc xử lý vi phạm các vấn đề về nhà ở. Sau 05 năm triển khai thi hành Luật Nhà ở, lĩnh vực nhà ở đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: số lượng nhà ở đã tăng nhiều so với trước đây, chất lượng nhà ở cũng được nâng cao, điều kiện sống của dân, đặc biệt là những người nghèo, người có thu nhập thấp cũng từng bước được cải thiện, hoạt động quản lý nhà nước về nhà ở cũng từng bước đi vào nề nếp, bảo đảm quyền và lợi ích của người có nhà ở, tạo điều kiện để các cơ quan chức năng quản lý tốt lĩnh vực nhà ở.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã được thì sau một thời gian triển khai thi hành, Luật Nhà ở đã và đang bộc lộ nhiều tồn tại, vướng mắc cần phải khắc phục, trong đó có những quy định đã không còn phù hợp với tính hình thực tiễn cuộc sống, có những vấn đề mới phát sinh nhưng Luật Nhà ở chưa có quy định để điều chỉnh và cũng có những quy định được ban hành nhưng chưa thống nhất với các đạo luật có liên quan. Những tồn tại này đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà ở, làm ảnh hưởng xấu đến cảnh quan, kiến trúc và mỹ quan đô thị...Các tồn tại cụ thể như sau:
Về quy định trong việc phát triển nhà ở: Mặc dù Luật Nhà ở đã có những quy định cụ thể về việc phát triển nhà ở. Tuy vậy, vẫn còn nhiều quy định chưa có tính khả thi, chưa khuyến khích được các chủ thể tham gia phát triển nhà ở, dẫn đến chưa tạo điều kiện để tăng nguồn cung cho thị trường, làm cho quan hề cung - cầu về nhà ở vẫn còn mất cân đối và nhiều bất cập. Luật chưa có quy định cụ thể để điều tiết thị trường nhà ở, đặc biệt là điều tiết về giá cả, các phân khúc nhà ở, các loại nhà ở...Nhiều quy định về phát triển nhà ở đã không còn phù hợp với thực tiễn như: vấn đề lập, thẩm định và phê duyệt dự án, thủ tục đầu tư xây dựng nhà ở, về xây dựng nhà ở riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân...Mặt khác, do Luật Nhà ở chưa điều chỉnh hết các vấn đề liên quan đến nhà ở, do vậy trong quá trình triển khai thực hiện, để điều chỉnh kịp thời các vấn đề mới phát sinh, đồng thời để thể chế hoá chủ trương của Đảng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phải ban hành một số cơ chế, chính sách bổ sung như: chính sách xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên; nhà ở cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị; nhà ở cho người nghèo khu vực nông thôn... Mặc dù đây là những nội dung mang tính quy phạm pháp luật nhưng tính pháp lý không cao, trong khi nhiều nội dung cần phải được thế chế bằng luật do Quốc hội ban hành để bảo đảm tính thực thi có hiệu quả.
Sự thiếu đồng bộ giữa quy định về nhà ở với các quy định về đất đai, đầu tư, quy hoạch, tài chính: lĩnh vực nhà ở có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như quy hoạch, đất đai, đầu tư xây dựng, tài chính...,trong đó mỗi một lĩnh vực lại thuộc chức năng quản lý của một cơ quan nhà nước khác nhau, như vấn đề đất đai thuộc chức năng quản lý của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, vấn đề thủ tục đầu tư xây dựng thuộc chức năng quản lý của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, vấn đề tài chính, thuế thuộc chức năng quản lý của Bộ Tài chính...Hiện nay, theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XIII thì có một số đạo luật có liên quan đến Luật Nhà ở như: Luật đất đai năm 2003, Luật Xây dựng năm 2003, Bộ Luật dân sự năm 2005... đang được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Như vậy, nếu không tiến hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở thì sẽ dẫn đến sự không đồng bộ, thống nhất với các đạo luật này, từ đó sẽ gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh nhà ở của các doanh nghiệp và người dân.
Sự thiếu đồng bộ trong chính sách đầu tư xây dựng nhà ở tại khu vực nông thôn: Trong thời gian vừa qua, Luật Nhà ở khi quy định về nhà ở tại khu vực nông thôn thì mới chỉ chủ yếu tập trung vào việc quy định chính sách hỗ trợ, cải thiện nhà ở cho các hộ gia đình nghèo và khu vực bị ngập lụt, các hộ gia đình có khó khăn về nhà ở mà chưa có những quy định cụ thể về việc đầu tư xây dựng nhà ở tại khu vực này như vấn đề quy hoạch, kiến trúc, yêu cầu, tiêu chuẩn và chất lượng nhà ở, vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu...nên dẫn đến chất lượng xây dựng nhà ở nông thôn còn ở mức thấp, điều kiện và môi trường sống của các hộ dân tại khu vực nông thôn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra như không đồng bộ về hệ thống hạ tầng, kỹ thuật và hạ tầng xã hội (hệ thống cấp nước sạch, cấp điện chiếu sáng, hệ thống xử lý vệ sinh môi trường, trường học, bệnh viện…). Tồn tại này cần được khắc phục thông qua việc bổ sung các quy định trong Luật Nhà ở hiện hành.
Sự hạn chế về quy định các mô hình phát triển nhà ở để đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: Phần lớn nguồn cung về nhà ở trong thời gian vừa qua chủ yếu do các hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng, chỉ có một số đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng…bắt đầu quan tâm đến việc phát triển nhà ở theo dự án với sự đồng bộ về hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật, tạo ra bộ mặt đô thị văn minh, hiện đại, còn lại nhiều địa phương chủ yếu vẫn thực hiện hình thức chia lô, bán nền để người dân tự xây dựng nhà ở. Nhà ở được xây dựng thiếu quy hoạch, trái quy hoạch dọc theo các trục đường giao thông, các đê sông, kênh rạch đang diễn ra ở nhiều địa phương. Quy mô các dự án vẫn còn nhỏ lẻ, chưa bảo đảm kết nối đồng bộ giữa các dự án với nhau và trong khu vực, kiến trúc công trình và nhà ở tại các dự án vẫn thiếu nhất quán và không hợp lý, dẫn đến sau khi dự án được hoàn thành thì việc sử dụng nhà ở của người dân vẫn chưa bảo đảm yêu cầu đặt ra như thiếu hệ thống hạ tầng xã hội, hệ thống kết nối với hạ tầng chung…Các tồn tại nêu trên xảy ra là do Luật Nhà ở chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm trong việc phát triển nhà ở theo dự án của các địa phương, chưa có những quy định hạn chế việc xây dựng khi chưa có quy hoạch xây dựng và đặc biệt là quy định về xử phạt vi phạm chưa có tính răn đe cao.
Sự thiếu đồng bộ trong hệ thống các quy định về tài chính về nhà ở: Trên thực tế, Nhà nước đã ban hành một số chính sách về tài chính, tín dụng bất động sản, nhưng nhìn chung các quy định này vẫn tản mát ở nhiều văn bản khác nhau, Luật Nhà ở chưa có quy định cụ thể về vấn đề tài chính nhà ở như: quy định về huy động vốn, về liên kết, hợp tác đầu tư... Đặc biệt, Luật chưa có quy định về việc thành lập một số quỹ để thúc đẩy phát triển nhà ở như: lập Quỹ phát triển nhà ở, Quỹ tín thác bất động sản, thị trường thế chấp bất động sản…nên chưa tạo ra được nguồn vốn để xây dựng nhà ở. Mặt khác, Luật Nhà ở cũng chưa có quy định bắt buộc mọi giao dịch nhà ở phải thanh toán qua ngân hàng để quản lý về thuế và hạn chế rủi ro cho người dân khi thực hiện các giao dịch về nhà ở. Những tồn tại này nếu không tiến hành nghiên cứu, sửa đổi Luật Nhà ở sẽ có tác động không tốt đến thị trường bất động sản nói chung và ảnh hưởng đến việc tăng nguồn cung cho thị trường.
Các thủ tục hành chính trong lĩnh vực nhà ở còn rườm rà, phức tạp: Mặc dù thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực phát triển nhà ở đã có nhiều cải tiến và đổi mới so với thời gian trước khi có Luật nhà ở, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà và không thống nhất với quy định của Luật Xây dựng, Luật Đầu tư nên các chủ đầu tư phải thực hiện nhiều thủ tục, làm chậm tiến độ thực hiện dự án và gây tốn kém thêm chi phí, dẫn đến làm tăng giá thành của nhà ở.
Cơ cấu, bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về nhà ở còn nhiều hạn chế: Hiện nay, hệ thống cơ cấu, tổ chức và bộ máy về phát triển và quản lý nhà nhà ở từ trung ương đến địa phương vẫn còn mỏng về số lượng và yếu về chất lượng. Ở Trung ương, đầu mối quản lý nhà nước về lĩnh vực này là Bộ Xây dựng với một cơ quan cấp Cục trực tiếp giúp Bộ trưởng Bộ Xây dựng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nhà ở; tại các địa phương cơ cấu tổ chức vẫn chưa được hoàn thiện, một số Sở Xây dựng vẫn gộp chức năng quản lý nhà ở và thị trường bất động sản cùng với bộ phận khác, những Sở Xây dựng đã thành lập Phòng Quản lý nhà ở và thị trường bất động sản riêng thì số lượng cán bộ phụ trách lại mỏng (chỉ có từ 3 đến 5 người). Tại cấp huyện, chức năng quản lý nhà ở được gộp vào chức năng quản lý giao thông, công thương, xây dựng với số lượng cán bộ chuyên trách về nhà ở và xây dựng chỉ từ 1 đến 3 người. Còn tại cấp xã thì không có cán bộ chuyên trách riêng về nhà ở mà do cán bộ địa chính cấp xã đảm nhận. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của những người làm trong lĩnh vực nhà ở vẫn còn yếu, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và điều kiện thực tế của địa phương.
Sự phát triển của nền kinh tế và xã hội dẫn đến phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở hiện hành: Luật Nhà ở được ban hành năm 2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006), tính đến năm 2014 đã triển khai thi hành được hơn 8 năm, đến thời điểm đó tình hình kinh tế – xã hội của đất nước, xây dựng và phát triển đô thị, đặc biệt là tình hình phát triển của thị trường bất động sản sẽ có nhiều thay đổi so với thời điểm năm 2006, nên nhiều quy định của Luật Nhà ở ban hành năm 2005 đã không còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống, cụ thể như: quy định về vấn đề phát triển nhà ở (việc lập, thẩm địnhvà phê duyệt dự án phát triển nhà ở tại đô thị, tại nông thôn, về việc xây dựng nhà ở riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân, vấn đề tài chính cho thị trường nhà ở, vấn đề xây dựng nhà ở cho các đối tượng chính sách...); các quy định về quản lý sử dụng nhà ở (quản lý sử dụng nhà ở chung cư, nhà ở cho thuê, vấn đề bảo hành, bảo trì nhà ở, quy định về phá dỡ nhà ở..); các quy định về giao dịch nhà ở; quy định về quản lý nhà nước về nhà ở...Do đó, cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các nội dung nêu trên của Luật Nhà ở cho phù hợp với tình hình mới.
- Đại hội Đảng lần thứ XI đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2020. Để thực hiện Chiến lược này, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành ban hành Chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết của Đảng, trong đó có Chương trình nghiên cứu để trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật quan trọng có liên quan đến vấn đề nhà ở như: Bộ Luật dân sự, Luật thuế thu nhập cá nhân, pháp luật về thuế - tín dụng, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản...Để bảo đảm phù hợp và thống nhất với nội dung cũng như xu hướng sửa đổi các đạo luật này thì cần thiết phải nghiên cứu xây dựng Luật Nhà ở mới để thay thế cho Luật Nhà ở hiện hành.
- Đất đai và nhà ở là hai lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến nhau, theo chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh thì trong năm tới Quốc hội sẽ sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003. Sau khi Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi thì cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi Luật Nhà ở để bảo đảm tính đồng bộ, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh bất động sản, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành mạnh và minh bạch.
- Luật Nhà ở ban hành năm 2005 nhưng đã có một số nội dung bị bãi bỏ hoặc được sửa đổi, bổ sung như: vấn về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đã bị bãi bỏ bởi Luật số 38/2009/QH12 năm 2009; vấn đề sở hữu nhà ở của ngưêi Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được sửa đổi bởi Luật số 34/2009/QH12 năm 2009; vấn đề mua và sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài được bổ sung bởi Nghị quyết số 19/2008/QH12 năm 2008 của Quốc hội. Mặt khác, theo yêu cầu của Chính phủ, để thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính, thì trong năm 2012 Chính phủ sẽ trình Quốc hội ban hành Luật chung về cải cách thủ tục hành chính, trong đó có yêu cầu sửa đổi một Điều của Luật Nhà ở hiện hành liên quan đến vấn đề công chứng, chứng thực các hợp đồng về nhà ở. Để bảo bảo đảm tính nhất quán và tránh sự phân tán tại nhiều văn bản luật khi điều chỉnh vấn đề nhà ở thì cần thiết phải sửa đổi Luật Nhà ở trong năm 2014 để quy định thống nhất các vấn đề có liên quan đến nhà ở (gồm cả vấn đề đã được sửa đổi, bổ sung và nội dung mới bổ sung) trong một văn bản luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc áp dụng, tránh chồng chéo, mẫu thuẫn và hạn chế việc phải nghiên cứu, đối chiếu nhiều đạo luật khác nhau khi triển khai thực hiện.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Để khắc phục các tồn tại, vướng mắc trong lĩnh vực nhà ở, bảo đảm các quy định của Luật có tính thực thi cao và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng nhà ở, Chính phủ dự kiến sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Nhà ở hiện hành theo hướng:
Ban hành thống nhất các quy định có liên quan đến nhà ở vào Luật Nhà ở để bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ, tránh hiện tượng phân tán tại nhiều văn bản khác nhau: Dự kiến sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở trên cơ sở gộp Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12 của Quốc hội ban hành năm 2008 về thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam, Luật số 34/2009/QH12 ban hành năm 2009 về sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai, nội dung dự kiến sửa đổi về công chứng các hợp đồng về nhà ở quy định trong Luật chung về cải cách thủ tục hành chính dự kiến được Quốc hội ban hành vào năm 2013 vào Luật Nhà ở để tạo thành một văn bản Luật thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi và áp dụng luật;
Sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Nhà ở hiện hành. Dự kiến sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Nhà ở hiện hành cho phù hợp với tình hình thực tế và phù hợp với xu hướng sửa đổi các Luật có liên quan đến nhà ở như Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Bộ Luật dân sự.., bao gồm các vấn đề cơ bản sau đây:
- Về vấn đề sở hữu nhà ở: quy định cụ thể chế định công nhận quyền sở sở hữu nhà ở theo từng hình thức sở hữu như: sở hữu nhà ở của tổ chức, sở hữu nhà ở của hộ gia đình, cá nhân; sở hữu nhà ở của cộng đồng dân cư; sở hữu nhà ở của nhiều ngưêi; sở hữu nhà ở hỗn hợp...;
- Về vấn đề phát triển nhà ở: quy định cụ thể việc lập, thậm định, phê duyệt dự án phát triển nhà ở, điều kiện làm chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở, việc huy động vốn phát triển nhà ở; tiêu chuẩn thiết kế nhà ở thương mại, nhà ở xã hội...;
- Về vấn đề quản lý sử dụng nhà ở: quy định cụ thể về quy chế quản lý nhà chung cư, nhà ở thuộc sở hữu chung; vấn đề bảo trì, cải tạo, phá dỡ nhà ở;
- Về giao dịch về nhà ở: quy định cụ thể các hình thức giao dịch về nhà ở, các loại và mẫu hợp đồng về nhà ở; điều kiện ký kết hợp đồng; yêu cầu về hợp đồng nhà ở, các nội dung cơ bản có hợp đồng về nhà ở...;
- Về quản lý nhà nước về nhà ở: quy định cụ thể Chiến lược phát triển nhà ở; Chương trình phát triển nhà ở; việc điều tra, thống kê nhà ở; về xử lý các hành vi vi phạm....
Bổ sung các quy định mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành trong thời gian vừa qua có liên đến nhà ở để bảo đảm hiệu lực pháp lý cao, sự thống nhất và bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN: Vấn đề tài chính nhà ở (các hình thức tài chính cho phát triển nhà ở); Chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội cho công nhân khu công nghiệp, nhà ở cho học sinh, sinh viên, nhà ở cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị, ngưêi nghèo tại khu vực nông thôn; Chính sách xây dựng nhà ở cho đồng bào miền trung, khu vực thường xuyên bị ngập lũ; Các quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng xây dựng nhà ở để chống thiên tai, động đất và biến đổi khí hậu; Vấn đề xây dựng nhà ở riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân (yêu cầu, điều kiện, hình thức xây dựng nhà ở...); Việc quản lý sử dụng nhà biệt thự (phân loại nhà biệt thự, bảo trì, cải tạo, phá dỡ, nguyên tắc quản lý, sử dụng nhà biệt thự tại đô thị...); Việc quản lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước (tổ chức quản lý, hình thức quản lý, xử lý vi phạm...); Vấn đề xử phạt vi phạm trong đầu tư kinh doanh nhà ở; Cơ chế ưu đãi, khuyến khích xây dựng nhà ở thương mại cho thuê, nhà ở sinh thái, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường...
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Bộ Xây dựng là cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và một số Bộ có liên quan.
- Kinh phí thực hiện: kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí hỗ trợ từ nguồn sự nghiệp kinh tế của Bộ Xây dựng.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
- Trình Quốc hội cho ý kiến: tháng 5/2014
- Trình Quốc hội thông qua: tháng 10/2014
Sự cần thiết ban hành
Qua nghiên cứu Bộ Xây dựng thấy rằng, việc nghiên cứu, soạn thảo và trình Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung Luật Kinh doanh bất động sản số 63/2006/QH11 là rất cần thiết bởi một số lý do sau đây:
- Đảm bảo tính thống nhất hệ thống pháp luật. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII, Quốc hội đã thông qua hai Luật sửa đổi là Luật số 34/2009/QH12 về sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật đất đai năm 2003 về quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam và Luật số 38/2009/QH12 về sửa đổi, bổ sung một số Điều của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành số văn bản nghị định mới trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư và cải cách hành chính (Nghị quyết số 33/2008/NQ-CP, Nghị định số 71/2010/NĐ-CP, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP, Nghị định số 55/2010/NĐ-CP). Nhiều quy định liên quan đến việc xác định vốn pháp định đối với ngành nghề kinh doanh bất động sản; điều kiện năng lực tài chính của chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản; thủ tục chuyển nhượng vốn, dự án cấp II được sửa đổi và bổ sung. Trong thời gian tới, việc sửa đổi, bổ sung các Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Đất đai hiện hành, việc ban hành mới Luật Đô thị sẽ được đưa vào trong chương trình xây dựng Luật nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIII. Trước thực tế có nhiều sự thay đổi các quy định, chính sách liên quan đến lĩnh vực đầu tư kinh doanh bất động sản, Luật kinh doanh bất động sản cần thiết phải được sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống quy định pháp luật.
Sửa đổi, bổ sung các nội dung còn bất cập của Luật Kinh doanh bất động sản. Luật Kinh doanh bất động sản số 63/2006/QH11 được Quốc Hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007. Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện, nhiều nội dung quan trọng của Luật Kinh doanh bất động sản đã đi vào cuộc sống và đã đạt được nhiều kết quả góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và bền vững của thị trường bất động sản. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta đã có nhiều thay đổi, nội dung của Luật Kinh doanh bất động sản 2006 chưa điều chỉnh được hết các lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản quan trọng, nhiều nội dung của Luật không còn phù hợp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, sửa đổi Luật kinh doanh bất động sản cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay là rất cần thiết.
Đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về thị trường bất động sản trong tình hình mới. Sự phát triển lớn mạnh của thị trường bất động sản đặt ra yêu cầu nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản để đạt được mục tiêu thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bền vững, tăng cường vai trò kiểm soát chặt chẽ của nhà nước đối với thị trường, có các giải pháp, cơ chế, chính sách hữu hiệu để quản lý thị trường bất động sản hoạt động lành mạnh, sử dụng vốn đầu tư an toàn hiệu quả, chống đầu cơ, thao túng giá cả trong lĩnh vực này. Trước tình hình nêu trên, đòi hỏi hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bất động sản cũng phải được thay đổi hoàn thiện hơn để tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của thị trường. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với việc sửa đổi Luật Kinh doanh bất động sản hiện nay là rất cần thiết.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Các nội dung cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung:
Phạm vi hoạt động kinh doanh bất động sản của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, các hình thức đầu tư kinh doanh bất động sản của tổ chức, cá nhân nước ngoài: Quy định toàn diện và hợp lý hơn về phạm vi hoạt động kinh doanh bất động sản của tổ chức, cá nhân trong nước; Xem xét mở rộng hợp lý hơn phạm vi hoạt động kinh doanh bất động sản của nhà đầu tư nước ngoài; Quy định về các hình thức đầu tư bất động sản.
- Điều kiện của tổ chức cá nhân kinh doanh bất động sản, điều kiện của bất động sản kinh doanh, điều kiện của dự án kinh doanh bất động sản. Xây dựng các tiêu chí, điều kiện của dự án kinh doanh bất động sản, nội dung thẩm định các dự án kinh doanh bất động sản; Quản lý các giao dịch có tính chất kinh doanh phát sinh lợi nhuận liên quan đến bất động sản do các tổ chức, cá nhân không có chức năng kinh doanh bất động sản thực hiện (mua bán, cho thuê bất động sản do các tổ chức không có chức năng kinh doanh bất động sản thực hiện).
- Mô hình tổ chức và hoạt động của Sàn giao dịch bất động sản và giao dịch bất động sản thông qua Sàn. Quy định về mô hình và tư cách pháp nhân của Sàn giao dịch bất động sản phù hợp với các quy định về pháp nhân trong Luật Dân sự; Quy định thủ tục tạm ngưng, chấm dứt hoạt động Sàn giao dịch bất động sản. Quy định chi tiết thủ tục công bố thông tin tại Sàn, và quy tắc giao dịch qua Sàn để đảm bảo muc tiêu công khai, minh bạch trong giao dịch. Thời điểm cấp Giấy xác nhận giao dịch bất động sản giao dịch qua sàn, giá trị của Giấy xác nhận giao dịch thông qua sàn, điều chỉnh biến động giao dịch.
- Hợp đồng trong hoạt động kinh doanh bất động sản. Quy định việc áp dung các hợp đồng mẫu hoặc đăng ký các mẫu hợp đồng áp dụng trong giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cho thuê bất động sản, nhất là nhà ở của các chủ đầu tư. Quy định một số nội dung quan trọng bắt buộc phải có trong hợp đồng giao dịch và trách nhiệm thực hiện của các chủ đầu tư dự án trong việc bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo về quyền lợi người tiêu dùng, cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước.
- Về việc huy động vốn và quản lý sử dụng vốn huy động để thực hiện dự án của các chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở: Quy định cụ thể và chi tiết các hành vi, hoạt động bị cấm trong hoạt động huy động vốn của các chủ đầu tư dự án. Quy định việc bắt buộc các chủ đầu tư phải thực hiện thanh toán các giao dịch qua trung gian là các tổ chức tín dụng. Vốn huy động phải được quản lý tại các tổ chức tín dụng, chủ đầu tư chỉ được sử dụng vốn đúng dự án và mục đích huy động vốn. Quy định bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện giải ngân vốn cam kết đầu tư trên thực tế. Giám sát và quản lý chặt việc huy động vốn của nhà đầu tư nước ngoài từ các tổ chức, cá nhân có nhu cầu trong nước để thực hiện dự án phát triển nhà ở. Quy định về năng lực tài chính của chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở và vốn pháp định của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản.
- Về lĩnh vực thông tin thị trường bất động sản. Quy định về chế độ báo cáo, thống kê về tình hình phát triển và kinh doanh các dự án bất động sản, nhà ở. Quy định về việc cung cấp thông tin giao dịch bất động sản của các chủ đầu tư, và các tổ chức kinh doanh bất động sản; Quy định việc lưu trữ thông tin và cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo yêu cầu nhằm phục vụ công tác quản lý.
- Các hình thức giao dịch bất động sản (Mua bán nhà, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng). Quy định cụ thể hơn về giá trị của Giấy xác nhận bất động sản đã giao dịch qua Sàn. Khuyến khích các hình thức thuê và thuê mua bất động sản, nhất là nhà ở phát triển.
- Kinh doanh dịch vụ bất động sản. Ban hành các quy định về quy chế quản lý hoạt động môi giới, trách nhiệm của người cung cấp dịch vụ môi giới và bảo hiểm nghề nghiệp. Quy định chi tiết về các loại phí và hoa hồng môi giới.
- Chuyển nhượng dự án. Quản lý hoạt động chuyển nhượng dự án thông qua hoạt động chuyển nhượng vốn, mua bán doanh nghiệp; Quy định về việc chuyển nhượng các loại hình dự án khác không phải là dự án khu đô thị mới, khu nhà ở, hạ tầng khu công nghiệp. Việc chuyển nhượng dự án thành phần trong dự án đầu tư. Quản lý việc chuyển nhượng sự án thông qua việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Đào tạo nghiệp vụ bất động sản và cấp chứng chỉ hành nghề môi giới, định giá bất động sản. Đưa nội dung của Quyết định số 29/2007/QĐ-BXD về chương trình khung đào tạo nghiệp vụ môi giới, định giá bất động sản và quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản vào trong Luật. Quy định điều kiện của các cơ sở đào tạo; hoạt động đào tạo, cấp chứng chỉ hành nghề; giá trị và thời hạn sử dụng của chứng chỉ hành nghề.
- Bộ máy quản lý nhà nước về thị trường bất động sản. Quy định bộ máy tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về thị trường bất động sản thống nhất từ trung ương đến địa phương.
- Thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường bất động sản. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thị trường bất động sản
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Bộ Xây dựng là cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và một số Bộ có liên quan.
- Kinh phí thực hiện: kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí hỗ trợ từ nguồn sự nghiệp kinh tế của Bộ Xây dựng.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
- Trình Quốc hội cho ý kiến: tháng 5/2015
- Trình Quốc hội thông qua: tháng 10/2015
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung luật
Ngày 14/11/2008, kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tế thi hành Luật Thi hành án dân sự cho thấy đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, đòi hỏi cần nghiên cứu, khắc phục, cụ thể là:
1. Quy định đơn yêu cầu thi hành án phải có thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
Một trong những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự là quy định người được thi hành án có trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Do vậy, trường hợp đơn yêu cầu thi hành không có đầy đủ các nội dung quy định và người được thi hành án không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành án dân sự căn cứ khoản 2 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, quy định này chưa cụ thể về biện pháp xử lý trong trường hợp đã hướng dẫn nhưng người được thi hành án vẫn không cung cấp thông tin hoặc không yêu cầu Chấp hành viên xác minh tài sản.
2. Bổ sung quy định chủ động ra quyết định thi hành án đối với “lệ phí”
Khoản 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định liên quan đến một số loại tiền, tài sản, nhưng không bao gồm lệ phí Toà án, trong khi thực tiễn cho thấy, có những bản án, quyết định của Tòa án có phần lệ phí Tòa án (đối với các việc dân sự), do đó cần bổ sung khoản lệ phí Tòa án vào loại chủ động ra quyết định thi hành án tại điểm a khỏan 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự: a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án.
3. Về xác minh điều kiện thi hành án
Điều 44 Luật Thi hành án dân sự quy định, việc xác minh điều kiện thi hành án phải lập thành biên bản, có xác nhận của Tổ trưởng tổ dân phố, UBND cấp xã, Công an xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh. Tuy nhiên trên thực tế, Tổ trưởng tổ dân phố tuy nắm rõ điều kiện của người phải thi hành án, nhưng phần lớn thời gian đi làm vắng, không thường xuyên ở nhà nên khó liên hệ, mặt khác họ sợ trách nhiệm và ngại va chạm. Trong khi đó, Nhà nước lại chưa có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và không có cơ chế quy trách nhiệm đối với họ, nên họ thường không nhiệt tình hợp tác.
4. Chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án đối với doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá
Quy định tại điểm e khoản 1 Điều 54 của Luật Thi hành án dân sự và Điều 10 Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần về chuyển giao nghĩa vụ thi hành án đối với doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phẩn hoá có điểm khác nhau nên đã gây khó khăn trong việc xử lý các vụ việc trên thực tế.
5. Việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án
Điều 59 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp theo bản án, quyết định mà một bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị tài sản họ được nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá tài sản thay đổi và một trong các bên đương sự có yêu cầu định giá tài sản đó thì tài sản được định giá theo quy định tại Điều 98 của Luật này để thi hành án”. Tuy nhiên, điều luật lại không quy định cụ thể việc định giá để thi hành án chia theo tỷ lệ như thế nào, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này cũng chưa quy định chi tiết.
Vì vậy, cần sửa đổi theo hướng cụ thể như sau: “Trường hợp theo bản án, quyết định mà một bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị tài sản họ được nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá tài sản thay đổi và một trong các bên đương sự có yêu cầu định giá tài sản đó thì Chấp hành viên tổ chức định giá tài sản theo quy định tại Điều 98 của Luật này để thi hành án bằng tiền tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản được chia tại thời điểm thi hành án”.
6. Điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
Điều 61 Luật Thi hành án dân sự và khoản 1 Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định điều kiện xét miễn, giảm đối với người phải thi hành án phải “đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch” là bắt buộc. Do vậy, nếu người phải thi hành án chưa thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, thì chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án. Chính vì thế, đối với các trường hợp mà người phải thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước trên 5.000.000 đồng không thực hiện được việc xét miễn, giảm thi hành án vì người phải thi hành án quá nghèo, không thể thi hành được 1/20 khỏan phải thi hành án, thì những hồ sơ này sẽ treo mãi tại cơ quan thi hành án mà không có hướng ra, không thể miễn, giảm được, dẫn đến án tồn đọng.
7. Chi phí thông báo về thi hành án dân sự và chi phí xác minh điều kiện thi hành án
Khoản 4 Điều 39 và khoản 1 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự quy định về chi phí thông báo thi hành án và chi phí xác minh điều kiện thi hành án, nhưng cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể về nội dung, mức chịu, thủ tục thu, nộp khoản này. Do vậy, cơ quan thi hành án dân sự chưa có cơ sở thu chi phí xác minh của người được thi hành án.
8. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án gắn liền với tài sản của người khác
- Thực tế hiện nay trong hoạt động thi hành án có vướng mắc, đó là việc phải xử lý nhà ở của người phải thi hành án được xây dựng trên đất của người khác. Trong nhiều trường hợp, người phải thi hành án chỉ có tài sản duy nhất là ngôi nhà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhưng nằm trên đất mượn, cơ quan thi hành án dân sự đã tiến hành kê biên ngôi nhà để đảm bảo thi hành án, nhưng hầu như không thể xử lý tiếp được. Trong khi đó, Luật Nhà ở không cấm chủ sở hữu nhà đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu tham gia các giao dịch. Khi các giao dịch này được thực hiện, phát sinh tranh chấp, sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền, đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án thường gặp phải khó khăn nêu trên.
Trường hợp khác cơ quan thi hành án cũng gặp phải khó khăn tương tự đó là việc xử lý quyền sử dụng đất nhưng trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác. Đây là tình huống mà cơ quan thi hành án thường xuyên gặp phải trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định mà để xử lý được thì mất nhiều thời gian, chi phí.
- Xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở: Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2005 đăng ký là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của sự chuyển quyền sở hữu hoặc sử dụng tài sản, nhưng cũng theo quy định tại Điều 168, nguyên tắc này sẽ bị loại trừ nếu trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo Khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở thì quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng. Như vậy, nhà ở cũng là một trong những loại tài sản thuộc diện loại trừ của Điều 168 Bộ luật dân sự vì theo quy định trên quyền sở hữu đối với nhà ở được chuyển kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng. Vấn đề đặt ra là: nếu như có trường hợp chủ sở hữu nhà là người phải thi hành án đã tiến hành bán ngôi nhà đó, hợp đồng bán nhà đã được công chứng tại Phòng công chứng, nhưng người mua chưa làm thủ tục sang tên đối với ngôi nhà đó. Nếu theo Bộ luật dân sự và Luật đất đai thì quyền sử dụng đất chưa được chuyển giao cho người mua (vì chưa đăng ký), nhưng nếu theo Khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở thì ngôi nhà đã được chuyển quyền sở hữu cho người mua. Trường hợp đó, cơ quan thi hành án dân sự xử lý ngôi nhà trên để thi hành án gặp phải sự phản ứng gay gắt của đương sự, cũng như sự vướng mắc giữa các quy định của pháp luật.
- Khoản 1, Điều 89 Luật Thi hành án dân sự quy định: " Trước khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu..., Chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch, đăng ký" và tại khoản 1 Điều 111 có quy định: "Khi kê biên quyền sử dụng đất, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan thi hành án dân sự". Theo Bộ Luật dân sự và Luật đất đai năm 2003 thì thời điểm chuyển quyền sử dụng đất được tính từ khi đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, trong khi đó Luật Nhà ở năm 2005 quy định thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở được tính kể từ khi hợp đồng mua bán được công chứng, chứng thực. Như vậy, nếu không xác định rõ phải áp dụng quy định nào để thực hiện kê biên tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên rất dễ bị khiếu nại, có nguy cơ dẫn đến phải bồi thường. Ví dụ như: Việc kê biên nhà ở sau khi đã có hợp đồng mua bán được công chứng: Nếu người phải thi hành án là người mua nhà thì sau khi kê biên, có thể bị người bán nhà khiếu nại vì giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở vẫn còn thuộc người bán nhà. Hoặc là, nếu người phải thi hành án là người bán nhà thì sau khi kê biên, người mua nhà sẽ căn cứ vào hợp đồng mua bán đã công chứng để xác định nhà đã thuộc quyền sở hữu của họ theo Luật nhà ở và dẫn đến khiếu nại. Nếu không kê biên nhà đất của người phải thi hành án (trường hợp vẫn còn giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, dù nhà đã bán và có công chứng) thì người được thi hành án sẽ khiếu nại vì cho rằng Chấp hành viên tạo điều kiện cho người phải thi hành án tẩu tán tài sản.
9. Bảo đảm quyền ưu tiên mua tài sản chung
Theo Điều 74 của Luật thì trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế. Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án. Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự không quy định cụ thể về điều kiện bán tài sản, cách thức thực hiện quyền ưu tiên mua, bán tài sản chung, trong khi đó quyền định đoạt tài sản chung được quy định tại Điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005 nhưng cũng không cụ thể. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Toà án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
Trước đây, tại điểm d khoản 1 mục IV Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT-BTP-VKSTC ngày 26/02/2001 của Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quy định: “Trước khi bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, các đồng sở hữu được quyền ưu tiên mua lại tài sản trong thời hạn ba tháng đối với bất động sản, một tháng đối với động sản theo giá Hội đồng định giá tài sản đã định. Hết thời hạn ưu tiên mà các đồng sở hữu không mua thì tài sản được bán đấu giá theo thủ tục chung”. Tuy nhiên, kể từ ngày 15/9/2010 theo quy định tại Điều 11 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự” thì Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT-BTP-VKSTC ngày 26/02/2001 của Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã bị Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 nêu trên thay thế, nhưng không quy định về nội dung này.
Do đó, cần quy định việc bán tài sản chung quy định tại khoản 3 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự 2008 thực hiện theo Điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005 và quy định cụ thể theo hướng trước khi thực hiện việc bán tài sản chung trong thi hành án dân sự, nhất là tài sản cưỡng chế kê biên đảm bản thi hành án, nhằm hạn chế khiếu nại, tố cáo và đảm bảo việc bán tài sản chung công khai, đúng pháp luật, cơ quan thi hành án căn cứ Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2005 cần yêu cầu người phải thi hành án, người được thi hành án thống nhất giá bán tài sản chung và các điều kiện khác về bán tài sản để thông báo cho người có có tài sản chung với người phải thi hành án thực hiện quyền ưu tiên mua tài sản trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán (cần nêu rõ giá bán tài sản, thời hạn ưu tiên mua, nếu tài sản không bán được thì sẽ được hạ giá để bán.v.v.). Trường hợp các đương sự thống nhất việc bán tài sản cho chủ sở hữu chung theo giá khởi điểm mà không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba, thì chủ sở hữu chung được ưu tiên mua tài sản theo giá khởi điểm. Trường hợp các đương sự không thống nhất bán tài sản cho chủ sở hữu chung theo giá khởi điểm hoặc có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba, vi phạm pháp luật, thì không có cơ sở ưu tiên bán cho chủ sở hữu chung tài sản theo giá khởi điểm. Trường hợp nhiều chủ sở hữu chung muốn mua tài sản, thì phải được sự đồng ý của những chủ sở hữu chung khác. Hết thời hạn ưu tiên mà không có chủ sở hữu nào mua, thì cơ quan thi hành án tổ chức việc bán đấu giá tài sản theo quy định chung để đảm bảo thi hành án.
10. Định giá tài sản đã kê biên
Luật Thi hành án dân sự quy định về định giá tài sản trong thi hành án dân sự chưa đầy đủ, có một số vướng mắc cần được quy định một số nội dung sau:
- Về việc Chấp hành viên xác định giá tài sản kê biên
Khi xác định giá đối với tài sản kê biên theo khoản 3 Điều 98 Luật Thi hành án dân sự và Điều 15 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ, Chấp hành viên cần lưu ý:
Trường hợp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên chưa có tổ chức thẩm định giá, thì Chấp hành viên yêu cầu đương sự thoả thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá ở địa bàn khác. Nếu đã yêu cầu mà đương sự không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì Chấp hành viên tiến hành xác định giá tài sản kê biên theo quy định.
Việc tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan trước khi xác định giá tài sản kê biên theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP cần được thực hiện bằng văn bản. Trường hợp cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn không có ý kiến theo đề nghị của Chấp hành viên thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự báo cáo, đề nghị Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo các cơ quan nói trên có ý kiến để Chấp hành viên xác định giá tài sản kê biên.
- Về bảo đảm quyền yêu cầu định giá lại tài sản kê biên
Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại tài sản kê biên trước khi có thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự (không phân biệt bán đấu giá tài sản lần thứ mấy), thì Chấp hành viên tổ chức định giá lại tài sản kê biên. Chấp hành viên thông báo cho đương sự biết về việc người yêu cầu định giá lại phải chịu chi phí định giá lại tài sản theo quy định của pháp luật.
- Lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản kê biên trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật Thi hành án dân sự
Nếu đương sự có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó. Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn là tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên hoặc tổ chức thẩm định giá trên địa bàn khác. Việc thoả thuận của đương sự về lựa chọn tổ chức thẩm định giá cũng được thực hiện đối với việc định giá lại tài sản kê biên.
Các trường hợp khác, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc TW nơi có tài sản kê biên.
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về định giá tài sản kê biên
Trường hợp khiếu nại việc xác định giá tài sản của Chấp hành viên và khiếu nại về hành vi của Chấp hành viên trong việc ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá (như: thời hạn, trình tự, thủ tục ký hợp đồng v.v.) thì được giải quyết theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Khiếu nại (tranh chấp) về kết quả định giá tài sản của tổ chức thẩm định giá được giải quyết theo pháp luật về thẩm định giá. Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá và Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày 13/3/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 101/2005/NĐ-CP quy định: Tổ chức thẩm định giá chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và kết quả thẩm định giá. Việc xử lý tranh chấp về kết quả thẩm định giá thực hiện theo Điều 23 Nghị định số 101/2005/NĐ-CP nêu trên.
Như vậy, đối với những khiếu nại về kết quả thẩm định giá tài sản hoặc hành vi, quyết định của tổ chức thẩm định giá thì cơ quan thi hành án dân sự không thụ lý giải quyết. Nếu đương sự không đồng ý với kết quả thẩm định giá do tổ chức thẩm định giá đưa ra và yêu cầu định giá lại tài sản kê biên trước khi thông báo công khai việc bán đấu giá, thì Chấp hành viên tổ chức định giá lại theo quy định.
11. Xử lý tài sản bán đấu giá không thành
Điều 100 của Luật Thi hành án dân sự về giao tài sản để thi hành án quy định: Trường hợp đương sự thoả thuận để người được thi hành án nhận tài sản đã kê biên để trừ vào số tiền được thi hành án thì Chấp hành viên lập biên bản về việc thoả thuận; việc giao tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án được thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có thoả thuận. Như vậy, theo Điều luật này thì việc giao tài sản để thi hành án phải có sự thỏa thuận của các bên đương sự. Tuy nhiên, Điều 104 Luật Thi hành án dân sự về xử lý tài sản bán đấu giá không thành quy định như sau: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá 10% giá đã định. Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án”.
Trong trường hợp này Luật Thi hành án dân sự lại không quy định rõ là cần có thỏa thuận của các bên đương sự không hay chỉ cần người được thi hành án đồng ý là cơ quan thi hành án thực hiện việc giao tài sản cho người đó để khấu trừ tiền thi hành án. Trong khi đó, hiện nay các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự cũng không quy định cụ thể thêm về vấn đề này. Do vậy, trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án đồng ý nhận tài sản bán đấu giá không thành, nhưng người phải thi hành án không đồng ý giao, thì chưa có sở pháp lý để giao tài sản đó cho người được thi hành án.
Vì thế, tài sản bán đấu giá không thành, Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá, khi đó người được thi hành án được tham gia mua đấu giá tài sản như những người khác. Nếu chỉ có người được thi hành án tham gia mua đấu giá tài sản, thì thực hiện việc bán đấu giá tài sản trong trường hợp chỉ có một người tham gia đấu giá theo quy định tại Điều 37 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản: “Trong trường hợp đã hết thời hạn đăng ký tham gia đấu giá tài sản mà chỉ có một người đăng ký mua tài sản bán đấu giá hoặc có nhiều người đăng ký tham gia đấu giá nhưng chỉ có một người tham gia cuộc bán đấu giá và trả giá ít nhất bằng giá khởi điểm thì tài sản được bán cho người đó, nếu người có tài sản bán đấu giá đồng ý. Việc bán tài sản trong trường hợp này chỉ được tiến hành sau khi đã thực hiện đầy đủ việc niêm yết, thông báo công khai, trưng bày tài sản và không có khiếu nại liên quan đến trình tự, thủ tục cho đến khi quyết định bán tài sản”.
Trường hợp đương sự thoả thuận để người được thi hành án nhận tài sản đã kê biên để trừ vào số tiền được thi hành án thì căn cứ Điều 100 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên lập biên bản về việc thoả thuận. Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì người nhận tài sản phải được sự đồng ý của những người được thi hành án khác và phải thanh toán lại cho những người được thi hành án khác số tiền tương ứng tỷ lệ giá trị mà họ được hưởng. Việc giao tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án được thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có thoả thuận.
Tuy nhiên, trường hợp người phải thi hành án không nhận tài sản để thi hành án hoặc người phải thi hành án không đồng ý cho người được thi hành án nhận tài sản khi tài sản đã giảm đến mức thấp hơn chi phí cưỡng chế thi hành án, thì vẫn phải tổ chức hạ giá, bán tài sản là không khả thi.
Vì thế, cần sửa đổi quy định về bán đấu giá tài sản theo hướng sau khi giảm giá một số lần (03 lần) mà không có người mua thì giao tài sản kê biên cho người được thi hành án để trừ vào số tiền được thi hành án; nếu người được thi hành án không nhận thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án.
12. Về thi hành quyết định về tuyên bố phá sản
Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp, khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán phụ trách vụ việc ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Tổ quản lý, thanh lý tài sản áp dụng các quy định của Luật Phá sản và pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy nhiên, hiện nay nhiều vụ việc phá sản tồn đọng, không giải quyết dứt điểm được do nhiều nguyên nhân khác nhau như không xác định được địa chỉ, chủ thể là con nợ của doanh nghiệp phá sản cũng như chủ nợ của các doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản vì những thông tin này trong danh sách mà toà án cung cấp rất chung chung hoặc thông tin đã lạc hậu.... Đối với những trường hợp đã có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, chuyển sang giai đoạn thi hành án thì những vướng mắc tương tự cũng không khắc phục được.
Để phần nào khắc phục được những vướng mắc này, Toà án có thẩm quyền, Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản doanh nghiệp cần xác minh, tìm hiểu và lập hồ sơ về danh sách các chủ nợ, con nợ của doanh nghiệp một cách chi tiết, đầy đủ. Mặt khác, đối với những quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp, cần có sự rà soát, đánh giá lại để tìm ra những bất cập, hạn chế nhằm sớm sửa đổi, hoàn thiện, đảm bảo việc áp dụng trên thực tế được hiệu quả hơn.
13. Cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác
Theo quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự: "Trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết". Thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp đương sự thực hiện khởi kiện tại Toà án theo hướng dẫn của Chấp hành viên, nhưng Toà án không thụ lý vụ việc, trong khi đó cũng theo Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền. Việc Toà án không thụ lý trong trường hợp này dẫn đến hậu quả khó xử lý tài sản đã kê biên, vì không thể xác định được quyền sở hữu tài sản mà Chấp hành viên đã tiến hành kê biên. Do đó, trong trường hợp này, Bộ luật Tố tụng dân sự cần có Điều luật quy định cụ thể về thời hạn, căn cứ, lý do cho việc thụ lý hay không thụ lý và bổ sung vào loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
Mặc dù Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối để xác định 3 trường hợp đề nghị Tòa án xác định hoặc xác lập quyền sở hữu, sử dụng tài sản và tranh chấp tài sản đã kê biên, nhưng Bộ luật tố tụng dân sự chưa quy định cụ thể loại vụ việc này thuộc thẩm quyền gaiir quyết của Tòa án.
14. Cưỡng chế đối với tài sản kê biên là quyền sở hữu trí tuệ
Một trong những quy định mới của Luật Thi hành án dân sự là cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định tại Điều 16 chưa hướng dẫn về trình tự thủ tục, phương pháp định giá quyền sở hữu trí tuệ (theo yêu cầu tại khoản 2 Điều 85 Luật Thi hành án dân sự); quy định tại Điều 17 chưa hướng dẫn về trình tự, thủ tục bán đấu giá trong khi loại tài sản này cần phải có quy định riêng, không thể thực hiện như các loại tài sản hữu hình khác. Tương tự, việc kê biên quyền sở hữu trí tuệ để thực hiện Điều 84 Luật Thi hành án dân sự cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể vì trong quyền sở hữu trí tuệ có rất nhiều loại như tác phẩm, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, bằng sáng chế..., trong đó mỗi loại có quyền nhân thân, quyền tài sản. Với sự đa dạng và phức tạp của quyền sở hữu trí tuệ, nếu không có hướng dẫn cụ thể thì Chấp hành viên (là người chưa có hiểu biết nhiều và chưa có kinh nghiệm về quyền sở hữu trí tuệ) rất dễ nhầm lẫn, sai sót, có thể dẫn đến bồi thường. Vì thế, cần quy định chi tiết, cụ thể hơn.
15. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án
Điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán”.
Quy định này chưa cụ thể, dẫn đến 02 các hiểu khác nhau:
- Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó, nghĩa là chỉ những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế nhưng quyết định cưỡng chế đó phải căn cứ theo đơn yêu cầu thi hành án của họ mới được thanh toán. Đối với những người được thi hành án không thuộc quyết định cưỡng chế đó, mặc dù đã có đơn yếu cầu thi hành án trước khi có quyết định cưỡng chế, thì không được ưu tiên thanh toán.
- Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó, nghĩa là thanh toán cho tất cả những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó, không phụ thuộc vào việc đơn yêu cầu thi hành án có phải là căn cứ để cưỡng chế hay không.
16. Lãi chậm thi hành án
a) Về mức lãi suất chậm thi hành án
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không quy định về lãi phát sinh do chậm thi hành án, tuy nhiên đây là một nghĩa vụ dân sự được quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005.
Trước đây, là khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự năm 1995 và khoản 1 mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính quy định lãi chậm thi hành án tính theo mức “lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định”. Hiện nay, mức lãi này là “lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố” quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005 và Công văn số 165/KHXX ngày 18/10/2007 của Tòa án nhân dân tối cao.
Thực tế, nhiều trường hợp bản án, quyết định trước thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực có tuyên lãi chậm thi hành án theo mức “lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định” đến nay chưa thi hành xong, thì việc tính lãi theo mức mới hay vẫn phải thi hành đúng nội dung bản án.
b) Về thời điểm tính chậm thi hành án
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 này không quy định rõ trong trường hợp người được thi hành án chỉ yêu cầu phần tiền gốc mà chưa yêu cầu thi hành án đối với khoản lãi chậm thi hành án, thì thi hành như thế nào. Do đó, sau khi trao đổi, thống nhất với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, ngày 24/02/2005 Bộ Tư pháp đã có Công văn số 404/TP-THA hướng dẫn tại điểm 1.3 mục 1 về ra quyết định thi hành án đối với khoản lãi suất chậm thi hành án và mục 14 về việc tính lãi suất chậm thi hành án, song ngày 27/4/2009 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 861/QĐ-BTP hủy bỏ Công văn số 404/TP-THA nêu trên.
Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào thay thế hoặc hủy bỏ Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997, nên Thông tư này vẫn được áp dụng, trừ những nội dung không còn phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó như quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005 thay cho “lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định” theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự năm 1995).
Vì vậy, cách xác định thời điểm tính lãi phát sinh do chậm thi hành án hiện nay căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005, Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997, Công văn số 165/KHXX ngày 18/10/2007 của Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thanh toán. Khi tính lãi chậm thi hành án chỉ tính lãi của số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền chưa trả trong quá trình thi hành án.
c) Về phương thức thanh toán lãi suất chậm thi hành án
Trong trường hợp người phải thi hành thi hành nhiều lần thì phương thức thanh toán tiền lãi suất được thanh toán trừ trước hay thanh toán tiền gốc rồi mới thanh toán tiền lãi.
17. Cưỡng chế buộc nhận người lao động trở lại làm việc
Điều 121 Luật Thi hành án dân sự quy định về cưỡng chế buộc nhận người lao động trở lại làm việc, theo đó điểm mới là chấp hành viên có quyền đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người sử dụng lao động không chấp hành án, nhưng vì không có Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao nên nếu cơ quan thi hành án dân sự đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 Bộ luật Hình sự thì cũng khó chấp nhận.
Do đó, cần có Thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
18. Cơ chế phối hợp giữa cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thu tiền thi hành án
Khoản 3 Điều 180 Luật Thi hành án dân sự quy định cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành dân sự thu tiền thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, thời gian quan, khi cơ quan thi hành án dân sự có văn bản phối hợp và cử cán bộ đến các trại giam, trại tạm giam xác minh tiền lưu ký, thu tiền thi hành án thì các trại giam, trại tạm giam cho biết chưa có văn bản hướng dẫn của Bộ Công an, đồng thời yêu cầu phải có giấy giới thiệu của Bộ Công an, mới thực hiện. Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án, quyền của người phải thi hành án (trong các đợt xét đặc xá, xét giảm thời gian chấp hành hình phạt tù cho các phạm nhân), gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự, nhất là các trại giam, trại tạm giam không đóng trên cùng một địa bàn tỉnh.
19. Tương trợ tư pháp về thi hành án dân sự
Khoản 3 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự quy định đối với giấy tờ liên quan đến tài sản, nhân thân của đương sự thì hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày thông báo nếu đương sự không đến nhận, Chấp hành viên làm thủ tục chuyển giao cho cơ quan đã ban hành giấy tờ đó xử lý theo quy định. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định trường hợp cơ quan ban hành giấy tờ có trụ sở ở nước ngoài thì thực hiện trả lại giấy tờ như thế nào.
Mặt khác, Điều 181 Luật Thi hành án dân sự quy định tương trợ tư pháp về thi hành án như sau:
“1. Việc yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án, việc tiếp nhận và xử lý uỷ thác tư pháp về thi hành án của nước ngoài trong quá trình thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.
2. Cơ quan thi hành án dân sự có yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án phải lập hồ sơ uỷ thác tư pháp theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp”.
Việc thi hành án dân sự đối với bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài hiện nay pháp Luật Thi hành án dân sự hiện hành chưa có quy định cụ thể thủ tục uỷ thác tư pháp quốc tế về thi hành án dân sự hoặc việc xác minh điều kiện thi hành án và thực hiện việc thi hành án tại nước ngoài như thế nào. Do đó, việc chỉ đạo về thi hành án đối với người nước ngoài có khó khăn.
Do đó, cần quy định cụ thể về ủy thác tư pháp trong thi hành án dân sự, trong đó lưu ý:
- Trong trường hợp cơ quan ban hành giấy tờ có trụ sở ở nước ngoài thì thực hiện tương trợ tư pháp. Văn bản yêu cầu tương trợ tư pháp và các tài liệu kèm theo được dịch ra ngôn ngữ quy định tại Điều 5 Luật Tương trợ tư pháp và gửi tới Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp đề nghị uỷ thác cho cơ quan có thẩm quyền.
- Đối với trường hợp bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, ngươì phải thi hành án là người nước ngoài, đang cư trú ở nước ngoài có địa chỉ rõ ràng. Cơ quan thi hành án cần gửi 03 bộ hồ sơ thi hành án (01 bản gốc và 02 bản sao) kèm công văn đề nghị Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ tới cơ quan có thẩm quyền (nơi người phải thi hành án cư trú) để tiếp tục thi hành bản án.
Chính sách cơ bản, mục tiêu của chính sách
Dự án Luật được soạn thảo trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau đây.
1. Tiếp tục thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính và cải cách tư pháp nhằm phát triển đội ngũ cán bộ công chức ngành Thi hành án về số lượng và chất lượng , tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và Chiến lược, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Quy định đầy đủ và toàn diện các vấn đề về thi hành án dân sự nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự, đồng thời tiếp tục bổ sung những quy định còn thiếu, giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong công tác thi hành án dân sự.
3. Tăng cường các biện pháp, cơ chế để đảm bảo tính công bằng, công khai và minh bạch trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự.
4. Tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ công chức ngành thi hành án dân sự, đặc biệt là tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nguyên tắc nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề nâng cao vị trí, vai trò của hoạt động thi hành án dân sự trong xã hội.
5. Thực hiện xã hội hoá công tác thi hành án dân sự, nâng cao vai trò của tổ chức Thừa phát lại, bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động Thi hành án dân sự, phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và chế độ tự quản của tổ chức Thừa phát tại.
Phạm vi điều chỉnh
Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự là Dự án Luật sửa đổi bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008, theo đó điều chỉnh những vấn đề cơ bản như: Phạm vi điều chỉnh. Bản án, quyết định được thi hành. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tổ chức trong thi hành án dân sự, Thủ tục thi hành án dân sự. Biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án, một số trường hơp thi hành án cụ thể.
Những nội dung chính của dự án luật
Dự án Luật dự kiến điều chỉnh những nội dung cơ bản sau đây.
1. Phạm vi điều chỉnh: Bổ sung quy định về thi hành bản án, quyết định hành chính, phù hợp với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
2. Chức năng kiểm sát việc thi hành án của Viện kiểm sát. Dự án Luật sửa đổi theo hướng bỏ nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát của Viện kiểm sát đổi với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án.
3. Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự.
- Bổ sung các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa Phát lại.
- Bổ sung các quy định về quản lý nhà nước đối với tổ chức Thừa Phát Lại trên tinh thần của Nghị định 61/NĐ-CP và theo hướng tăng cường quản lý nhà nước , vừa bảo đảm sự hoạt động độc lập của tổ chức Thừa Phát Lại.
4. Về thủ tục thi hành án dân sự.
- Bổ sung quy định trách nhiệm chứng minh của đương sự về việc không khởi kiện tại Toà án đối với Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về xác minh điều kiện thi hành án theo hướng: Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, người được thi hành án tự xác minh điều kiện thi hành án hoặc yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh, việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản. Quy định này vừa đảm bảo quyền của người dân, đồng thời quy định trách nhiệm của Chấp hành viiên trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Mặt khác, bổ sung quy đinh về biện pháp xử lý trong trường hợp Chấp hành viên đã hướng dẫn nhưng người được thi hành án vẫn không cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án hoặc không yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án.
- Bổ sung quy định về chủ động ra quyết định thi hành án đối với khoản “lệ phí” của Toà án.
- Sửa đổi quy định chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án đối với doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, theo đó doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần mà trước đó chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của mình thì sau khi chuyển đổi, doanh nghiệp là công ty cổ phần tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án
- Sửa đổi quy định việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án theo hướng: Trường hợp theo bản án, quyết định mà một bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị tài sản họ được nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá tài sản thay đổi và một trong các bên đương sự có yêu cầu định giá tài sản đó thì Chấp hành viên tổ chức định giá tài sản theo quy định tại Điều 98 của Luật này để thi hành án bằng tiền tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản được chia tại thời điểm thi hành án.
- Sửa đổi quy định về điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án theo hướng bỏ điều kiện “người phải thi hành án đã thi hành được một phần (1/20) khoản thu nộp ngân sách nhà nước” mà không có tài sản để thi hành án thì có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ.
- Bổ sung quy định về kê biên tài sản gắn liền với đất.
- Sửa đổi quy định việc bán tài sản chung tại khoản 3 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự 2008 theo hướng trước khi thực hiện việc bán tài sản chung trong thi hành án dân sự, yêu cầu người phải thi hành án, người được thi hành án thống nhất giá bán tài sản chung và các điều kiện khác về bán tài sản để thông báo cho người có có tài sản chung với người phải thi hành án thực hiện quyền ưu tiên mua tài sản nhằm hạn chế khiếu nại, tố cáo và đảm bảo việc bán tài sản chung công khai, minh bạch.
- Sửa đổi Điều 98 luật Thi hành án dân sự, theo hướng không hạn chế tổ chức thẩm định giá theo địa bàn, lãnh thổ để thực hiện ký hợp đồng thẩm định giá với Chấp hành viên.
- Sửa đổi quy định về giao tài sản về thi hành án và xử lý tài sản bán đấu giá không thành theo hướng sau khi giảm giá một số lần (03 lần) mà không có người mua thì giao tài sản kê biên cho người được thi hành án để trừ vào số tiền được thi hành án; nếu người được thi hành án không nhận thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án.
- Bổ sung quy định về thứ tự thanh toán tiền thi hành án theo hướng: chỉ những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế nhưng quyết định cưỡng chế đó phải căn cứ theo đơn yêu cầu thi hành án của họ mới được ưu tiên thanh toán trước.
- Bổ sung quy định về lãi chậm thi hành án, theo đó quy định cụ thể mức lãi suất chậm thi hành án, thời điểm tính chậm thi hành án, phương thức thanh toán lãi suất chậm thi hành án.
- Bổ sung quy định về thủ tục uỷ thác tư pháp quốc tế về thi hành án dân sự hoặc việc xác minh điều kiện thi hành án và thực hiện việc thi hành án tại nước ngoài
- Sửa đổi quy định về trường hợp hoãn thi hành án theo hướng bỏ yêu cầu tự mình thực hiện thi hành án đối với người phải thi hành án, do đó quy định: Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên … hoặc vì lý do chính đáng mà người phải thi hành án không thể thực hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định.
5. Thi hành án trong một số trường hợp cụ thể
Bổ sung Mục: Thi hành bản án, quyết định hành chính.
6. Về quản lý nhà nước
Dự án quy định theo hướng nâng cao vai trò quản lý nhà nước, phát huy vai trò tự quản của tổ chức Thừa phát lại đối với hoạt động thi hành án dân sự. Đồng thời phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, danh giới trách nhiệm của các cơ quan thi hành án và tổ chức Thừa phát lại; quan hệ phối hợp hoạt động của các cơ quan thi hành án với tổ chức Thừa phát Lại nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Dự kiến nguồn lực và các điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo luật và thời gian trình
- Kinh phí: ngân sách nhà nước.
- Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ chủ trì việc soạn thảo Dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Tổng cục Thi hành án dân sự chủ trì giúp Bộ Tư pháp thực hiện.
Dự kiến thời gian trình : Trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết ban hành Luật thú y
Phù hợp với tình hình thực tiễn sản xuất, đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ phát triển trong tình hình mới
Trong những năm qua, Pháp lệnh Thú y điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực thú y tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan nhà nước thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về thú y, từng bước đưa hoạt động thú y vào nề nếp, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động thú y nhằm đạt được mục tiêu đặt ra khi xây dựng Pháp lệnh: “Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh lây lan nhằm bảo vệ và phát triển động vật, cung cấp động vật và sản phẩm động vật có chất lượng cao cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sinh thái.”
Đến nay, qua hơn 08 năm thực hiện, về cơ bản, Pháp lệnh Thú y năm 2004 đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra như đã kết hợp được giữa yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ với các biện pháp quản lý nhà nước về thú y; đã quy định tương đối đầy đủ về phòng, chống, khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật; kiểm dịch, kiểm soát giết mổ động vật, kiểm tra vệ sinh thú y; quản lý thuốc thú y; hành nghề thú y, đồng thời hình thành khung pháp lý để quản lý các hoạt động thú y.
Tuy nhiên, Pháp lệnh Thú y cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, không còn đáp ứng được thực tiễn sản xuất, yêu cầu cũng như nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong tình hình mới, cụ thể như sau:
a) Về phòng, chống, khống chế và thanh toán dịch bệnh
Thực tiễn trong những năm gần đây cho thấy một số quy định về phòng, chống dịch bệnh trong Pháp lệnh Thú y năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, không đạt hiệu quả mong muốn. Cụ thể như quy định về điều kiện công bố dịch bệnh phải phụ thuộc vào báo cáo tình hình dịch bệnh của UBND cấp huyện hoặc có kết luận chẩn đoán của phòng thí nghiệm, dẫn đến hiện tượng không công bố dịch ở một số địa phương; quy định cấm đưa vào, mang ra khỏi vùng có dịch động vật mẫn cảm với bệnh dịch đã công bố, gây ảnh hưởng đến sản xuất, lưu thông động vật và sản phẩm động vật của các cơ sở chăn nuôi đã được công nhận là an toàn dịch; thiếu những quy định về quyền lợi của người chăn nuôi trong việc xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật nên chưa tạo được động lực thúc đẩy hoạt động này; chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc ra quyết định tiêu huỷ động vật chết, động vật mắc bệnh dịch để kịp thời ngăn chặn dịch bệnh lây lan; chưa quy định việc chủ động giám sát, dự báo dịch bệnh đối với cơ quan chuyên ngành để giúp người chăn nuôi có biện pháp phòng bệnh, ngăn chặn sự phát sinh dịch bệnh.
b) Về kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y
Trong lần sửa đổi, ban hành năm 2004, Pháp lệnh Thú y đã bổ sung một số quy định về kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y để phù hợp với tình hình phát triển chăn nuôi, thương mại động vật, sản phẩm động vật trong những năm qua. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng một số quy định đã không còn theo kịp với xu hướng phát triển chăn nuôi, mua bán, trao đổi, lưu thông động vật và sản phẩm động vật.
Khái niệm về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật cần nghiên cứu, quy định phù hợp với quốc tế. Các quy định về xây dựng cơ sở giết mổ động vật tập trung, về kiểm tra vệ sinh thú y trong giết mổ động vật... trong quá trình triển khai thực hiện không đạt hiệu quả, đã ảnh hưởng tiêu cực đến công tác phòng, chống dịch bệnh động vật cũng như bảo đảm vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm.
Ngoài ra, việc Pháp lệnh Thú y năm 2004 cũng chưa bổ sung các quy định về trách nhiệm và quyền hạn của Việt Nam trong xuất khẩu, nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật để phù hợp với Luật Thú y của OIE; chưa quy định việc đánh dấu, lưu giữ thông tin về động vật, sản phẩm động vật trong chăn nuôi, giết mổ động vật, chế biến sản phẩm động vật để phục vụ việc truy nguyên nguồn gốc ổ dịch cũng như các trường hợp không đảm bảo vệ sinh thực phẩm; việc kiểm tra thực phẩm theo chuỗi từ “trang trại đến bàn ăn” cũng chưa được Pháp lệnh quy định cụ thể.
c) Về quản lý thuốc thú y
Pháp lệnh Thú y năm 2004 đã bổ sung một số nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với việc sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, thử nghiệm, khảo nghiệm, sử dụng thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y ở dạng nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm nhằm bảo vệ lợi ích người chăn nuôi, người sản xuất, người sử dụng sản phẩm động vật, bảo đảm vệ sinh môi trường. Những quy định này được áp dụng trên thực tiễn đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển của ngành sản xuất thuốc thú y, nâng cao một bước chất lượng sản phẩm thuốc thú y.
Thực tế qua 08 năm áp dụng cho thấy một số quy định hiện không còn phù hợp, gây ách tắc cho sản xuất: quy định thuốc thú y chỉ được phép sản xuất, sử dụng khi có trong Danh mục do Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành hàng năm; mặt khác Pháp lệnh lại chưa có quy định về giải quyết khiếu nại về chất lượng các sản phẩm trong lĩnh vực thú y đã gây khó khăn cho cơ quan quản lý trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm; chưa bổ sung quy định việc áp dụng nguyên tắc tiêu chuẩn “Thực hành tốt phân phối thuốc - GDP”, “Thực hành tốt nhà thuốc - GPP” trong khi khâu bảo quản, kinh doanh thuốc ở nước ta đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thuốc thú y chất lượng tốt.
d) Về hành nghề thú y
Pháp lệnh Thú y năm 2004 đã có một chương quy định về hành nghề thú y nhằm đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động thú y và giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Thực tiễn qua 08 năm thực hiện Pháp lệnh đã cho thấy cần sửa đổi, bổ sung một số quy định để quản lý người hành nghề có hiệu quả, nâng cao chất lượng của hoạt động hành nghề, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc xã hội hóa các hoạt động thú y.
Qua phân tích những hạn chế nêu trên, việc sửa đổi các quy định trong cả bốn lĩnh vực: phòng chống, khống chế và thanh toán dịch bệnh; kiểm dịch động vật, kiểm tra vệ sinh thú y; quản lý thuốc thú y và hành nghề thú y để đáp ứng được thực tiễn sản xuất hiện nay và nhiều năm tới đã trở thành một yêu cầu cấp thiết.
Đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, tạo thành một hệ thống pháp luật thống nhất
Những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp nói chung và lĩnh vực thú y nói riêng như Luật Dược (6/2005), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (6/2006), Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (5/2007), Luật An toàn thực phẩm (10/2010)....
Đối chiếu với quy định tại các luật này, Pháp lệnh Thú y năm 2004 đã bộc lộ một số điểm không phù hợp, cụ thể như sau:
a) Về chất lượng sản phẩm hàng hóa
Tại thời điểm được ban hành năm 2004, dựa trên cơ sở quy định của Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa, Pháp lệnh Thú y đã quy định điều kiện cũng như đưa ra các tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt Nam và quy định việc công bố phù hợp tiêu chuẩn nhằm đảm bảo tính an toàn của các sản phẩm hàng hóa như thuốc thú y, chế phẩm sinh học... trước khi đưa vào lưu thông trên thị trường.
Tuy nhiên, với việc Quốc hội ban hành Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, những quy định nêu trên của Pháp lệnh Thú y trở nên lỗi thời, gây nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng, yêu cầu phải nhanh chóng được sửa đổi, bổ sung và nâng cấp hiệu lực pháp lý để phù hợp.
b) Về hệ thống tiêu chuẩn sử dụng trong ngành thú y
Tại Điều 7, Pháp lệnh Thú y năm 2004 quy định hệ thống tiêu chuẩn vệ sinh thú y, hệ thống tiêu chuẩn thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y bao gồm tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn cơ sở.
Đối chiếu với quy định hệ thống tiêu chuẩn chỉ bao gồm tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn cơ sở của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 thì các quy định về hệ thống tiêu chuẩn gồm 3 cấp đã nêu của Pháp lệnh Thú y hoàn toàn không còn phù hợp. Thực tiễn cho thấy, tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn ngành là như nhau về đối tượng, phạm vi áp dụng và cấp thẩm quyền ban hành; do đó, việc quy định 3 cấp tiêu chuẩn dẫn tới sự chồng chéo, thiếu nhất quán về đối tượng và nội dung tiêu chuẩn hóa, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều tiêu chuẩn ngành vừa ban hành đã nhanh chóng lạc hậu so với thực tiễn, mức độ hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế thấp.
Hơn nữa, Pháp lệnh Thú y năm 2004 cũng không quy định về việc công bố hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy, quy định về hệ thống quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc áp dụng vì vậy, có thể nói các sản phẩm hàng hóa chuyên ngành sẽ không đảm bảo tính an toàn, không có sức cạnh tranh trên thị trường.
c) Về trách nhiệm quản lý nhà nước trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm
Luật An toàn thực phẩm, được Quốc hội ban hành tháng 10/2010, đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm. Tại Điều 63 của Luật quy định Bộ Nông nghiệp chịu trách nhiệm “Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, thu gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản và sản phẩm thủy sản...các sản phẩm từ trứng, sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản phẩm từ mật ong..”.
Với việc Pháp lệnh Thú y năm 2004 chỉ quy định Bộ Nông nghiệp có trách nhiệm quản lý trong một vài khâu của chuỗi thực phẩm như chăn nuôi, giết mổ động vật, sơ chế, lưu thông sản phẩm động vật tươi sống...là không đầy đủ phạm vi quản lý, không bao quát toàn bộ chuỗi thực phẩm vì vậy không phù hợp với những quy định mới của Luật An toàn thực phẩm.
Trên đây chỉ điểm qua một vài điểm hạn chế cơ bản của Pháp lệnh Thú y mà thực tế đã chứng minh không theo kịp với quy định của một số Luật được ban hành gần đây. Việc nâng cấp Pháp lệnh Thú y và quy định các chính sách phù hợp với các văn bản pháp luật mới này để tạo thành một hệ thống pháp luật thống nhất và đồng bộ đã trở thành một yêu cầu cấp thiết.
Phù hợp, hài hòa với luật pháp và thông lệ quốc tế
Với sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 01/2007, ký kết các Hiệp định TBT (hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại), Hiệp định SPS (hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật).. một số quy định về thương mại động vật và sản phẩm động vật, về phòng chống dịch bệnh của Pháp lệnh đã không còn phù hợp về nhiều mặt.
Trong số các hiệp định đã ký kết, Hiệp định SPS có một tầm quan trọng đặc biệt đối với ngành nông nghiệp nói chung và ngành thú y nói riêng, nhất là lĩnh vực kiểm dịch động vật. Hiệp định SPS đề cập đến quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của các thành viên WTO, nhấn mạnh đến một số nguyên tắc chính như tính hài hòa, tính tương đương, mức độ bảo vệ phù hợp, đánh giá rủi ro, các điều kiện của khu vực và tính minh bạch. Theo quy định của Hiệp định, các quốc gia thành viên được quyền áp dụng biện pháp đánh giá nguy cơ và áp dụng mức bảo vệ vệ sinh dịch tễ thích hợp. Việc Pháp lệnh Thú y năm 2004 không quy định áp dụng các biện pháp này trong kiểm dịch động vật nhập khẩu là một hạn chế không nhỏ vì đây là những biện pháp kỹ thuật đã được các quốc gia thành viên của Hiệp định áp dụng rộng rãi, nhằm giảm tối đa nguy cơ dịch bệnh xâm nhập, bảo vệ sức khỏe động vật trong nước.
Cũng theo Hiệp định, để đảm bảo tính hài hòa hóa thì Việt Nam phải thiết lập, công nhận và áp dụng một số biện pháp dịch tễ chung giữa các quốc gia thành viên; để đảm bảo tính tương đương thì các biện pháp SPS được Việt Nam áp dụng phải tuân thủ theo chuẩn quốc tế do các tổ chức như Tổ chức Thú y thế giới (OIE), Ủy ban tiêu chuẩn Thực phẩm (CODEX) xây dựng.
Do đó, để có thể đáp ứng đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý khi tham gia Hiệp định, đồng thời để đảm bảo quyền lợi của mình khi hội nhập với môi trường thương mại quốc tế động vật và sản phẩm động vật, Việt Nam phải bổ sung các quy định quốc tế về phòng chống dịch bệnh, an toàn dịch bệnh, thông báo dịch bệnh; quản lý sử dụng thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi; trách nhiệm, quyền hạn trong xuất khẩu, nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật, đánh giá nguy cơ...trong pháp luật về thú y.
Từ những yêu cầu nêu trên, để pháp luật về thú y của Việt Nam hài hòa, tương đồng với luật pháp quốc tế, phù hợp với các hiệp định đã tham gia, ký kết thì việc sửa đổi, nâng cấp Pháp lệnh Thú y trở nên cần thiết.
Đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính
Một trong những mục tiêu quan trọng mà Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã đặt ra là phải “thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt nhất cho nhân dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân”.
Thực tế hiện nay, trong một số lĩnh vực có liên quan đến ngành thú y, việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp còn thiếu cụ thể, dẫn đến sự chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ trong quá trình thực hiện, vì vậy đã không đảm bảo các yêu cầu đặt ra của công cuộc cải cách hành chính. Có thể nêu ra một số tồn tại trong việc phân cấp quản lý như sau:
- Đối với thủy, hải sản tiêu dùng trong nước nhất là ở các chợ chưa được kiểm tra chất lượng.
- Việc sử dụng thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y trong chăn nuôi ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm động vật nhưng hiện nay, việc kiểm tra vệ sinh thú y đối với thức ăn chăn nuôi, việc quản lý, sử dụng thuốc thú y còn nhiều tồn tại, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo yêu cầu của Luật Thú y do Tổ chức Thú y thế giới (OIE) xây dựng, việc kiểm tra vệ sinh thú y phải được thực hiện tại tất cả các khâu từ “trang trại tới bàn ăn”. Đây cũng là vấn đề đòi hỏi chúng ta cần tổ chức quản lý chặt chẽ hơn.
- Xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung, quản lý việc giết mổ chưa giao cụ thể cho ngành nào, cấp nào chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, do đó ở nhiều địa phương tình trạng giết mổ tại gia đình không bảo đảm vệ sinh thú y, vệ sinh môi trường vẫn còn rất phổ biến, không thể kiểm soát. Điều này tạo nên một hiện tượng nghịch lý là các cơ sở giết mổ tập trung, đầu tư dây chuyền giết mổ hiện đại nhưng lại rất thiếu hụt nguyên liệu dẫn đến việc không hoạt động hoặc sử dụng không hết công suất, làm hiệu quả đầu tư kém, sản phẩm không thể cạnh tranh về giá với giết mổ nhỏ lẻ, mất vệ sinh. Chính vì vậy, Luật Thú y cần quy định rõ trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc chỉ đạo giết mổ động vật tại các cơ sở đủ điều kiện vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm và sự phối hợp giữa các ban, ngành ở địa phương thì mới có thể giải quyết được tồn tại này.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 cũng đặt ra mục tiêu “xoá bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân”. Thực hiện chủ trương trên, trong ba năm gần đây, một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực kiểm dịch động vật, quản lý thuốc đã được sửa đổi theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện đã nêu. Tuy nhiên, việc sửa đổi chưa hoàn toàn triệt để do còn vướng các quy định “gốc” của Pháp lệnh.
Do đó, những vấn đề trên cần đưa vào dự thảo Luật Thú y để làm cơ sở cho việc tăng cường công tác quản lý nhà nước, trong việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thú y. Có như vậy mới có thể đáp ứng được những mục tiêu, yêu cầu về cải cách hành chính mà Nghị quyết số 17-NQ/TƯ và Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đặt ra.
Nâng cấp địa vị pháp lý của pháp luật về thú y
Với những lý do trên đây, việc xây dựng Luật Thú y là cần thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất, xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính, với các Luật có liên quan, đồng thời phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng khi Việt Nam là thành viên của WTO.
Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu của việc soạn thảo luật thú y
Quan điểm trong việc soạn thảo Luật Thú y
Việc soạn thảo Luật Thú y phải tuân thủ các quan điểm sau đây:
a) Quán triệt chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về nội dung tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững. Nghị quyết số 26 - NQ/TW về nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã nhấn mạnh đến mục tiêu phát triển ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch bệnh; phát triển sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp; tổ chức lại và hiện đại hoá cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm.
b) Quán triệt quan điểm bảo vệ và phát triển động vật, bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ môi trường; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về thú y; nâng cao hiệu quả phòng chống dịch bệnh tiến tới khống chế, thanh toán dịch bệnh động vật; nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
c) Hoàn thiện và đảm bảo hệ thống pháp luật về thú y, hòa hợp với luật pháp quốc tế, phù hợp với thực tiễn. Bảo đảm kế thừa những quy phạm pháp luật hiện hành có tính khả thi còn phù hợp, đồng thời bổ sung những quy định mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển, phục vụ công tác quản lý nhà nước, bảo đảm sự thống nhất với các luật, pháp lệnh khác có liên quan mới được ban hành.
Các mục tiêu và yêu cầu trong quá trình soạn thảo Luật Thú y
a) Khắc phục được những hạn chế của pháp luật về thú y hiện hành. Nâng cao địa vị pháp lý của pháp luật về thú y trên cơ sở bổ sung mới và kế thừa các quy định còn khả thi.
b) Quy định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp trong quản lý nhà nước về thú y và tạo thuận lợi cho các đối tượng có hoạt động liên quan đến thú y.
c) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thú y, nâng cao hiệu quả công tác phòng chống dịch bệnh động vật.
d) Phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay và những năm tới.
e) Hài hòa với luật pháp quốc tế, đồng thời phù hợp với yêu cầu hội nhập về nhiều mặt của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
g) Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động thú y nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước và phù hợp hơn với cơ chế kinh tế thị trường.
Chính sách cơ bản của Luật và mục tiêu của chính sách
1. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực thú y, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh gây ra, tăng cường phòng chống dịch bệnh động vật bằng việc nâng cấp Pháp lệnh thành Luật Thú y. Luật sẽ là cơ sở để đảm bảo việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về thú y.
2. Từng bước hoàn thiện thể chế, hệ thống tổ chức ngành thú y từ trung ương đến địa phương trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, mục tiêu của Nghị quyết số 17-NQ/TW, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.
3. Quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở, quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan chuyên môn có liên quan đối với việc thực hiện một số nhiệm vụ của ngành thú y; đồng thời bổ sung các cơ chế, chính sách để đảm bảo hiệu lực của quá trình thực hiện luật.
4. Sửa đổi các quy định còn lạc hậu, bổ sung các cơ chế chính sách mới nhằm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ pháp lý, các cam kết quốc tế trong lĩnh vực thú y mà Việt Nam đã tham gia, ký kết trong thời gian qua, đồng thời khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông thương quốc tế các sản phẩm hàng hóa chuyên ngành.
5. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động thú y, giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư của Quốc hội về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
6. Thông qua các quy định về phòng chống dịch bệnh, kiểm soát giết mổ, xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung sẽ gián tiếp giảm thiểu và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng trong lĩnh vực thú y; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bố cục và những nội dung chủ yếu của luật thú y
Bố cục Dự thảo Luật Thú y
Dự thảo Luật Thú y gồm 06 chương với 80 điều.
Chương I. Những quy định chung.
Chương II. Phòng bệnh, chữa bệnh cho động vật; chống dịch bệnh động vật.
Chương III. Kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật; kiểm tra vệ sinh thú y sản phẩm động vật.
Chương IV. Quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y.
Chương V. Hành nghề thú y.
Chương VI. Quản lý nhà nước về thú y.
Chương VII. Điều khoản thi hành.
Những nội dung mới của Dự thảo Luật Thú y
Chương I. Những quy định chung
a. Phạm vi điều chỉnh:
Dự thảo Luật Thú y (gọi tắt là Dự thảo) quy định về phòng bệnh, chữa bệnh, chống dịch bệnh động vật; kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ động vật, sơ chế, chế biến, kinh doanh sản phẩm động vật; kiểm tra vệ sinh thú y sản phẩm động vật; quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, hóa chất dùng trong thú y; hành nghề thú y; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về thú y; trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến thú y.
So sánh với phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh Thú y năm 2004, Dự thảo đã bổ sung nội dung về chế biến sản phẩm động vật, quản lý vệ sinh thực phẩm theo chuỗi để phù hợp với Luật An toàn thực phẩm có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011. Đây là một điểm rõ nét thể hiện sự đồng bộ của Luật Thú y đối với các luật chuyên ngành được ban hành trong thời gian gần đây.
b. Khái niệm về kiểm dịch động vật:
Pháp lệnh Thú y quy định kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật là việc “thực hiện các biện pháp chẩn đoán, xét nghiệm động vật, sản phẩm động vật để phát hiện đối tượng kiểm dịch động vật”. Về cơ bản, khái niệm này không còn phù hợp với Luật Thú y của OIE và của các nước, tạo nên sự nhầm lẫn, khó hiểu đối với chuyên gia nước ngoài khi nghiên cứu pháp luật về thú y của Việt Nam.
Do đó, cần nghiên cứu, quy định chỉ sử dụng khái niệm kiểm dịch đối với động vật, sản phẩm động vật khi lưu thông thương mại quốc tế; còn đối với động vật, sản phẩm động vật vận chuyển lưu thông trong nước nên quy định việc kiểm tra trước khi cho phép vận chuyển.
c. Trách nhiệm đối với động vật:
Đây là một nội dung hoàn toàn mới, được bổ sung trong Dự thảo để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Hiện nay, khi Việt Nam đã tham gia sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự giao lưu, trao đổi, thông thương động vật, sản phẩm động vật được mở rộng, không còn bó hẹp trong một số thị trường như trước thì việc pháp luật về thú y bổ sung các quy định về trách nhiệm của của tổ chức, cá nhân đối với động vật trong suốt quá trình chăn nuôi, vận chuyển, giết mổ cũng là một điểm tích cực về chính sách, thể hiện rõ nét quan điểm, chủ trương hội nhập của Việt Nam.
Chương II. Phòng bệnh, chữa bệnh cho động vật; chống dịch bệnh động vật.
a. Về phòng bệnh:
Pháp lệnh Thú y đã có những quy định chung về phòng, chống dịch bệnh, tuy nhiên để đảm bảo thực hiện mục tiêu khi xây dựng Luật là nâng cao hiệu quả công tác phòng bệnh, Dự thảo đã bổ sung một số quy định về đánh dấu, ghi chép, lưu giữ số liệu về động vật, về xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật (ATDB), chương trình khống chế, thanh toán bệnh động vật để tạo nên nhóm các quy định thống nhất.
b. Về chống dịch bệnh động vật:
Dự thảo đã kế thừa các quy định còn khả thi được quy định tại Pháp lệnh hiện hành và bổ sung một số quy định mới, cụ thể hơn để phù hợp với điều kiện hiện nay: quy định trách nhiệm và quyền hạn của chủ tịch UBND cấp huyện, xã trong việc thông báo và bãi bỏ khu vực cấm lưu thông động vật, sản phẩm động vật khi bệnh dịch xẩy ra ở diện hẹp, chưa đủ điều kiện để công bố dịch; quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xử lý tiêu hủy, giết mổ bắt buộc đối với động vật trên cạn trong trường hợp có quyết định công bố dịch, trong trường hợp có ổ dịch bệnh nhỏ lẻ nhằm khống chế dịch nhanh và hiệu quả.
Điểm mới nữa là Dự thảo đã quy định mở về việc lưu thông động vật mẫn cảm với dịch bệnh đang được công bố và các loại sản phẩm của chúng ra khỏi vùng có dịch. Quy định này nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ động vật, sản phẩm động vật có nguồn gốc từ các cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh nằm trong vùng có dịch, tránh được hiện tượng “bế quan, tỏa cảng”, dẫn đến ứ đọng sản phẩm động vật như đã từng xảy ra trong các vụ dịch Cúm gia cầm, Tai xanh thời gian qua.
Chương III. Kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật; kiểm tra vệ sinh thú y sản phẩm động vật
a. Về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật:
Điểm mới của Dự thảo là sửa đổi quy định về nguyên tắc kiểm dịch động vật, không còn dựa trên “số lượng lớn, khối lượng lớn” như Pháp lệnh Thú y năm 2004 đã quy định. Nguyên tắc mới sẽ đảm bảo phù hợp với cả hai loài động vật trên cạn và thủy sản, với khả năng quản lý của ngành thú y trong điều kiện hiện nay và có thể thay đổi để thích ứng với từng thời kỳ.
Đồng thời, Dự thảo còn đưa ra quy định mở về điều kiện động vật, sản phẩm được vận chuyển, lưu thông, buôn bán. Cụ thể, không chỉ động vật có nguồn gốc từ vùng, cơ sở an toàn bệnh động vật được phép vận chuyển mà cả động vật có nguồn gốc từ vùng, cơ sở không có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm theo quy định đối với từng loài động vật cũng được phép vận chuyển khi có đủ các điều kiện theo quy định. Quy định này là để phù hợp hơn nữa với tình hình chăn nuôi, dịch bệnh ở nước ta.
Dự thảo cũng bổ sung các quy định về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển cửa khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam; trách nhiệm và quyền hạn của Việt Nam trong việc xuất khẩu, nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật để phù hợp với Luật Thú y của OIE; về điều kiện đối với động vật, sản phẩm động vật nhập khẩu và đánh giá rủi ro khi nhập khẩu động vật, sản phẩm động vật để phù hợp với quy định của Hiệp định SPS.
b. Về kiểm soát giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật:
Điểm mới trong nhóm các quy định về kiểm soát giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật là bổ sung khâu chế biến sản phẩm động vật vào quy trình kiểm soát để phù hợp với Luật An toàn thực phẩm. Dự thảo còn quy định cụ thể về việc quy hoạch địa điểm các cơ sở giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật; về việc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc điều kiện vệ sinh thú y đối với từng loại quy mô cơ sở. Ngoài ra, Dự thảo cũng đã quy định cụ thể hơn điều kiện buôn bán động vật sống nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường, ngăn chặn lây lan dịch bệnh.
c. Kiểm tra vệ sinh thú y, giám sát vệ sinh thú y đối với sản phẩm động vật:
Về nguyên tắc, Dự thảo quy định việc kiểm tra vệ sinh thú y (VSTY) phải được tiến hành đối với các đối tượng thuộc diện phải kiểm tra trong suốt quá trình chăn nuôi, vận chuyển, giết mổ động vật, sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh sản phẩm động vật. Điểm mới là Dự thảo đã bổ sung quy định về giám sát VSTY đối với sản phẩm động vật, một khâu quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm của sản phẩm động vật mà Pháp lệnh Thú y đã không có những quy định cụ thể.
Chương IV. Quản lý thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y.
Để phù hợp với các quy định của pháp luật về thương mại, Dự thảo đã bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu thuốc thú y; cơ sở bán buôn, bán lẻ, làm dịch vụ bảo quản, dịch vụ kiểm nghiệm thuốc, đồng thời quy định có lộ trình việc áp dụng các tiêu chuẩn GMP với từng đối tượng quản lý cụ thể.
Chương V. Hành nghề thú y
Để phù hợp hơn với thực tiễn hiện nay, Dự thảo thu gọn các loại hình hành nghề thú y, đồng thời bổ sung quy định về Giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề thú y nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành nghề thú y.
Chương VI. Quản lý nhà nước về thú y
Tại Chương này, điểm mới là Dự thảo quy định phân công trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành có liên quan đến lĩnh vực thú y để phù hợp với Luật An toàn thực phẩm.
Chương VII. Điều khoản thi hành
Chương này quy định về hiệu lực và hướng dẫn thi hành
Dự kiến một số tác động của dự án luật và các giải pháp để thực hiện
Dự kiến một số tác động của dự án Luật
Nhìn chung, khi triển khai dự án Luật sẽ có thể khắc phục được những tồn tại hiện nay trong công tác phòng, chống dịch bệnh ở động vật; các địa phương chủ động khống chế dịch bệnh khi còn trong diện hẹp; các cơ quan chuyên môn phải nghiên cứu, dự báo được dịch bệnh. Đồng thời từng bước khắc phục tình trạng mất vệ sinh trong việc giết mổ gia súc, gia cầm; cải thiện tình hình sử dụng thuốc thú y và thức ăn chăn nuôi, giảm thiểu việc tồn dư thuốc kháng sinh trên các sản phẩm hàng hóa chuyên ngành thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật như thịt, trứng, sữa, mật ong..; thông qua những quy định mở về kiểm dịch vận chuyển động vật và sản phẩm động vật sẽ thúc đẩy giao thương động vật và sản phẩm động vật.
Tuy nhiên, do Dự thảo quy định một số biện pháp mới, chủ yếu trong lĩnh vực kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ và quản lý thuốc thú y, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm thực tế của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới nên khi thực hiện Luật này chắc chắn sẽ có một số khó khăn nhất định, cần được chủ động giải quyết:
- Quy định về đánh dấu, ghi chép, lưu giữ số liệu về động vật trong quá trình chăn nuôi, giết mổ, sơ chế, chế biến để phục vụ việc truy nguyên nguồn gốc động vật, sản phẩm động vật còn tương đối mới với những khu vực chăn nuôi hàng hóa chưa phát triển, bước đầu sẽ bỡ ngỡ, gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.
- Quy định địa điểm các cơ sở giết mổ động vật, sơ chế, chế biến sản phẩm động vật tập trung hoặc cơ sở chưa đạt quy mô tập trung đều phải theo quy hoạch của chính quyền địa phương. Đây là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều yếu tố khách quan như liên quan đến nhiều bộ ngành, các cấp chính quyền, quỹ đất của địa phương giới hạn...đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của các bên thì mới có thể giảm cơ bản tình trạng giết mổ mất vệ sinh thú y, cải thiện chất lượng an toàn thực phẩm.
- Quy định cơ sở sản xuất thuốc thú y phải có lộ trình áp dung thực hành sản xuất tốt GMP, cơ sở làm dịch vụ bảo quản thuốc phải đạt GSP, cơ sở làm dịch vụ kiểm nghiệm thuốc phải đạt GLP. Đây là những tiêu chuẩn hoặc của khu vực hoặc của quốc tế, đòi hỏi việc đầu tư lớn, do đó chỉ một số ít doanh nghiệp, cơ sở hoạt động trong lĩnh vực thú y đủ nguồn lực có thể triển khai áp dụng. Tuy nhiên, việc đầu tư tài chính để triển khai chính sách này là cần thiết vì nó sẽ góp phần tạo ra một thị trường sản xuất, tiêu thụ thuốc thú y ổn định, lành mạnh, tạo ra các sản phẩm có chất lượng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên có liên quan như người tiêu dùng, người sản xuất, kinh doanh.
Các điều kiện, giải pháp để triển khai thực hiện Luật:
Từ những nội dung của Dự thảo như đã trình bày và những mặt thuận lợi, khó khăn dự kiến sẽ phát sinh nêu trên, để triển khai tốt Luật này cần phải:
- Có sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng từ Trung ương xuống cơ sở, các cấp chính quyền; sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, đoàn thể.
- Tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thú y, đảm bảo hoạt động thú y được thông suốt, không chồng chéo, trì trệ. Đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động thú y, thu hút được nguồn lực từ khu vực tư nhân, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tập huấn, hướng dẫn các nội dung của Luật nhằm tạo sự thống nhất cao về quan điểm, sự đồng thuận, ủng hộ của người dân.
- Xây dựng dự thảo Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành trình các cấp có thẩm quyền ban hành để Luật có thể thực sự đi vào đời sống.
- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với quốc tế.
- Xây dựng được cơ sở dữ liệu về đánh dấu động vật, xuất nhập khẩu động vật và sản phẩm động vật giúp cho việc truy nguyên nguồn gốc động vật, sản phẩm động vật trong các trường hợp phát sinh dịch bệnh được dễ dàng, thuận lợi hơn.
- Quy định cụ thể trách nhiệm của các ban ngành, các cấp có liên quan trong việc thực hiện các chính sách lớn: xây dựng cơ sở giết mổ tập trung, quy hoạch chăn nuôi, tăng số lượng các cơ sở chăn nuôi quy mô tập trung, áp dụng các tiêu chuẩn GSP, GLP, GDP, GPP...(sẽ được nêu trong dự thảo Nghị định của Chính phủ).
Dự kiến nguồn lực, điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo Luật thú y
Sử dụng nguồn nhân lực của Bộ Nông nghiệp và PTNT và các bộ ngành có liên quan.
Sử dụng nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước theo các quy định hiện hành và kết hợp với nguồn tài chính hỗ trợ của các tổ chức, dự án quốc tế như FAO, OIE, USAID, STAR Vietnam...
Cơ quan chủ trì soạn thảo
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Các cơ quan phối hợp là Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Hải quan, Công thương, Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Khoa học công nghệ của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Lộ trình được dự kiến như sau:
Tháng 5/2014 trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ nhất tháng 5/2014; trình Quốc hội thông qua kỳ họp thứ hai tháng 10/2014.
Sự cần thiết ban hành văn bản
Để đáp ứng nhu cầu đi lại, giao dịch của nhân dân và góp phần quản lý xã hội, kể từ khi đất nước giành độc lập đến nay, Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về căn cước công dân như Quyết định số 143/CP ngày 09/8/1976 về cấp giấy chứng minh nhân dân, Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03/2/1999 về chứng minh nhân dân, Nghị định số 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03/2/1999 về chứng minh nhân dân... Các văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để cấp, quản lý chứng minh nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, giao dịch của nhân dân, phục vụ yêu cầu nghiệp vụ công tác Công an, góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm trật tự, an toàn xã hội.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về căn cước công dân phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn, nhưng cho đến nay, các quy định này còn tản mạn, chủ yếu được ban hành dưới hình thức nghị định của Chính phủ. Mặt khác, trước sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là yêu cầu hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, nhiều quy định của pháp luật hiện hành không còn phù hợp; quản lý nhà nước về căn cước công dân còn mang nặng cơ chế xin cho; trình tự, thủ tục cấp, cấp đổi, cấp lại chứng minh nhân dân còn rườm rà, phức tạp, chưa thật sự dân chủ; kỹ thuật, công nghệ cấp, quản lý, khai thác và sử dụng chứng minh nhân dân hiện tại đã lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của nhân dân, chưa bảo đảm phục vụ tốt yêu cầu nghiệp vụ Công an và hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng Luật căn cước công dân là cần thiết, dự án Luật này đã được đưa vào Chương trình chính thức thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (Nghị quyết số 20/2011/QH13).
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
Luật căn cước công dân quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng liên quan đến căn cước công dân như trình tự, thủ tục, thẩm quyền, đối tượng được cấp, cấp đổi, cấp lại chứng minh nhân dân; quyền, nghĩa vụ công dân trong sử dụng chứng minh nhân dân; quản lý chứng minh nhân dân; quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan…
Luật căn cước công dân áp dụng đối với công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc quản lý, sử dụng chứng minh nhân dân.
Quan điểm xây dựng, nội dung chính của văn bản
Quan điểm xây dựng văn bản
- Quán triệt và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về căn cước công dân, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính; phù hợp với tiến trình hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế; phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
- Trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội, góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong đi lại, giao dịch.
- Tạo cơ sở pháp lý mới đầy đủ hơn và tương xứng hơn cho công tác cấp, quản lý, sử dụng chứng minh nhân dân.
- Tham khảo có chọn lọc pháp luật về quản lý căn cước công dân của một số nước phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, pháp luật, thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Những nội dung chính của văn bản
Luật căn cước công dân gồm những nội dung cơ bản sau:
- Những quy định chung
- Trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp chứng minh nhân dân.
- Trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp lại, cấp đổi chứng minh nhân dân.
- Trình tự, thủ tục, thẩm quyền thu hồi chứng minh nhân dân.
- Sử dụng chứng minh nhân dân.
- Kiểm tra chứng minh nhân dân.
- Quản lý chứng minh nhân dân.
- Cơ sở dữ liệu về căn cước công dân.
- Bảo đảm hoạt động của các cơ quan cấp, cấp đổi, cấp lại, thu hồi, quản lý chứng minh nhân.
- Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động cấp, cấp đổi, cấp lại, thu hồi, quản lý chứng minh nhân dân.
- Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác bảo đảm xây dựng văn bản
Về nguồn lực tài chính
Luật căn cước công dân được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
Nhân lực và các nguồn lực khác
Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, như: Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ…
Dự kiến thời gian trình văn bản
- Trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII (tháng 5 năm 2014).
- Trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII (tháng 11 năm 2014).
Sự cần thiết ban hành Luật Chứng thực
Ở Việt Nam, quá trình phát triển của hoạt động chứng thực luôn gắn liền với quá trình phát triển của hoạt động công chứng. Trong một thời gian dài, hai hoạt động này luôn được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật: Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc công chứng nhà nước; Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng (hướng dẫn thực hiện Thông tư số 574); Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước; Thông tư số 276/TT-CC ngày 20/4/1991 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về tổ chức và quản lý Công chứng nhà nước; Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về quản lý hoạt động công chứng, chứng thực.
Tuy nhiên, thực hiện chủ trương tách bạch về bản chất giữa hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực của Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội Khóa XI tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Công chứng và Luật này điều chỉnh tổ chức, hoạt động công chứng. Hoạt động chứng thực chỉ được điều chỉnh bởi Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
Tại kỳ họp Quốc hội Khóa XI, một số đại biểu Quốc hội đã đề xuất xây dựng Luật Chứng thực và trong phiên họp thường kỳ tháng 8/2011 của Chính phủ, các thành viên Chính phủ đã thảo luận và Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến kết luận đối với đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ Khóa XIII, trong đó có Luật Chứng thực. Như vậy, ban hành Luật Chứng thực là cần thiết và cấp bách xuất phát trên cơ sở những lý do chính sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động chứng thực. Chứng thực là một hoạt động hành chính tư pháp, do cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện nhằm xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản; tính xác thực của bản sao từ bản chính, của chữ ký người dịch, chữ ký cá nhân trong các giấy tờ, văn bản. Hoạt động chứng thực là hoạt động có tính chuyên sâu, có phạm vi và đối tượng tác động lớn đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông qua hoạt động chứng thực giúp cho người dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Những sự kiện pháp lý này thường xảy ra đồng thời đối với nhiều chủ thể khác nhau nên tạo ra những áp lực cho cả cơ quan Nhà nước và người dân, từ đó gây ra những bức xúc không đáng có của người dân đối với chính quyền, làm giảm hiệu quả quản lý và uy tín của cơ quan hành chính Nhà nước.
Thực tế, hoạt động chứng thực chưa thực sự khẳng định được vị trí của mình trong đời sống xã hội và cũng chưa được coi trọng: rất nhiều người dân, thậm chí cả các tổ chức, các cơ quan nhà nước… vẫn còn nhầm lẫn hai khái niệm “công chứng” và “chứng thực”… ở nhiều địa phương, do chưa nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành nên cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động chứng thực còn hết sức thiếu thốn, nghèo nàn… chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
Chính vì vậy, việc ban hành Luật Chứng thực là khẳng định sự thừa nhận, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta một cách kịp thời, cấp bách đối với công tác chứng thực, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, của người dân và toàn xã hội đối với công tác này; góp phần củng cố, phát triển về chiều sâu hoạt động chứng thực ở nước ta và trên hết là để phục vụ người dân ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, tính không tương thích về cấp độ giữa văn bản pháp luật về chứng thực với các văn bản pháp luật khác có liên quan đến lĩnh vực chứng thực. Hoạt động công chứng, được coi như hoạt động “song sinh” với hoạt động chứng thực, đã được điều chỉnh bởi Luật Công chứng. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động công chứng đã được Nhà nước và xã hội thừa nhận, khẳng định. Tuy nhiên, văn bản pháp lý có thang giá trị quy phạm cao nhất điều chỉnh hoạt động chứng thực mới dừng lại ở cấp độ Nghị định. Trong khi đó, một số lĩnh vực khác có liên quan đến lĩnh vực chứng thực hầu hết đã được ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp độ luật: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Đất đai; Luật Nhà ở… Do vậy, các vấn đề liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về chứng thực hoàn toàn phải phụ thuộc và tuân theo các quy định ở các văn bản ở cấp độ Luật chuyên ngành khác. Mặt khác, vì hoạt động chứng thực được điều chỉnh bởi văn bản pháp lý có giá trị thấp hơn nên sự tuân thủ của các cơ quan, tổ chức và toàn xã hội đối với các quy định của pháp luật về chứng thực còn chưa cao, còn bị chi phối bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
Thứ ba, Nghị định 79/2007/NĐ-CP phát sinh những bất cập cần được kịp thời chỉnh sửa. Có thể nói, Nghị định này là văn bản đầu tiên đánh dấu sự ra đời của hoạt động chứng thực với tư cách là một hoạt động độc lập. Nghị định 79/2007/NĐ-CP đã tạo nền tảng để hoạt động chứng thực ổn định và đi vào nền nếp, giải tỏa sự ách tắc, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh những bất cập:
Một là, những việc chứng thực khác chưa được điều chỉnh trong Nghị định 79/2007/NĐ-CP. Hiện nay, có nhiều loại việc chứng thực khác mà chính quyền các cấp thực hiện cũng như các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nhà nước yêu cầu thực hiện nhưng việc chứng thực những loại việc này phải tuân theo trình tự, thủ tục như thế nào, giá trị pháp lý của những hành vi chứng thực này… chưa được quy định. Trên thực tế, nhiều văn bản chứng thực được công nhận một cách tự phát, theo thói quen mà không có cơ sở pháp lý rõ ràng, chưa được điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nước hoặc có quy định nhưng chưa đầy đủ. Do đó, mỗi cơ quan thực hiện chứng thực một cách khác nhau đối với cùng loại việc, ví dụ: Cùng là chứng thực Sơ yếu lý lịch nhưng có cơ quan thực hiện chứng thực theo hình thức chứng thực chữ ký, có cơ quan chứng thực nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của người khai Sơ yếu lý lịch…
Hai là, việc chứng thực chữ ký người dịch và những quy định kèm theo như người dịch, phí dịch thuật chưa được quy định rõ ràng, cụ thể. Theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì Phòng Tư pháp cấp huyện có thẩm quyền chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế thời gian qua, việc thực hiện quy định này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do một số cán bộ làm công tác chứng thực tại Phòng Tư pháp cấp huyện trình độ còn hạn chế, chưa nhận thức rõ bản chất của việc chứng thực chữ ký người dịch nên tự thấy đây là việc vượt quá khả năng của mình; mặt khác một số địa phương lại có vướng mắc trong việc tổ chức đội ngũ cộng tác viên dịch thuật…
Ba là, quy định về lưu trữ giấy tờ, văn bản chứng thực. Nghị định 79 chỉ quy định thời hạn lưu trữ bản sao mà không quy định thời hạn lưu trữ văn bản chứng thực chữ ký. Vì vậy, cần thiết phải quy định về thời hạn lưu trữ văn bản chứng thực chữ ký tạo điều kiện để đối chiếu khi cần thiết thuận lợi cho địa phương thực hiện chứng thực.
Bốn là, thẩm quyền ký chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Tại Công văn số 6551/VPCP-PL ngày 16/9/2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý để Bộ Tư pháp nghiên cứu giao thẩm quyền ký văn bản chứng thực cho cán bộ Tư pháp - hộ tịch, thay vì giao cho Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã như hiện nay để đảm bảo trách nhiệm cá nhân rõ ràng đồng thời đảm bảo thực hiện kịp thời yêu cầu chứng thực của người dân. Trong khi đó, Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã không phải là một chức danh tư pháp nên nhiều trường hợp không có trình độ chuyên môn về luật, do đó ảnh hưởng đến chất lượng của văn bản chứng thực. Tuy nhiên, khi sửa đổi, bổ sung Nghị định 79/2007/NĐ-CP thì vấn đề này gặp phải khó khăn trong việc ký văn bản và sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ tư, là nhằm hạn chế tối đa việc yêu cầu và sử dụng bản sao chứng thực, hiện tượng “sính” bản sao. Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của cơ quan, tiếp nhận bản sao nhưng trên thực tế phần lớn các cơ quan đều yêu cầu bản sao có chứng thực mà không chấp nhận bản sao và đối chiếu với bản chính. Đây là hành vi vi phạm quy định pháp luật nhưng chưa có chế tài hoặc cơ chế phù hợp để chấn chỉnh hiện tượng này. Mặt khác, hoạt động chứng thực nếu thực hiện trong những trường hợp không cần thiết sẽ là gây tốn kém cả về thời gian, nhân lực, vật lực cho cả Nhà nước và người dân: lệ phí chứng thực, trả thù lao dịch thuật trong trường hợp cần chứng thực bản sao tiếng nước ngoài phải chứng thực chữ ký người dịch… Nhà nước phải tổ chức thực hiện chứng thực: địa điểm, bố trí thời gian cũng cán bộ thực hiện, sau đó phải lưu trữ và tiêu hủy khi hết thời hạn lưu trữ…
Tóm lại, Mục tiêu của Luật Chứng thực ra đời nhằm đưa hoạt động này vào chiều sâu, hay nói cách khác Luật chỉ đặt ra vấn đề chứng thực trong những việc thực sự cần thiết không thể không có bản sao chứng thực chứ không khuyến khích chứng thực. Có lẽ đây là điểm khác biệt lớn nhất so với sự cần thiết ban hành Luật so với các lĩnh vực khác và chính sự khác biệt này là lý do quan trọng cần thiết ban hành Luật Chứng thực.
Mục tiêu của việc ban hành Luật Chứng thực
Việc ban hành Luật Chứng thực nhằm hướng tới các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Bảo đảm tính tương thích (về cấp độ) và tính đồng bộ giữa văn bản pháp luật về chứng thực với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác;
- Giúp cho người dân dễ dàng tiếp cận các quy định của pháp luật trong lĩnh vực chứng thực; tạo cơ chế thực hiện, sử dụng giấy tờ, văn bản chứng thực hợp lý, hợp pháp, đúng mục đích, qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
- Hoàn thiện các trình tự, thủ tục chứng thực, bảo đảm tính minh bạch, công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng thực trong việc thi hành pháp luật về áp dụng pháp luật, góp phần tích cực vào tiến trình cải cách thủ tục hành chính của Đảng và Nhà nước
4. Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp trên tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Luật Chứng thực điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý và thực hiện chứng thực. Bao gồm các loại việc: Cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực chữ ký người dịch và trình tự thủ tục.
Đối tượng điều chỉnh của Luật chứng thực là: hoạt động chứng thực trên toàn quốc và tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Cụ thể là người có yêu cầu chứng thực và các cơ quan thực hiện việc chứng thực. Do đó, Luật Chứng thực điều chỉnh không chỉ các quan hệ phát sinh trong quá trình chứng thực mà còn cả các quan hệ phát sinh trong quản lý chứng thực giữa các cơ quan liên quan, giữa cơ quan thực hiện chứng thực và công dân. Bảo đảm tính thống nhất về thẩm quyền, trình tự, thủ tục.
Luật áp dụng đối với các cơ quan thực hiện chứng thực, cán bộ Tư pháp - hộ tịch, người dịch, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động chứng thực như cơ quan, tổ chức yêu cầu và tiếp nhận giấy tờ, văn bản chứng thực.
Những quan điểm, chính sách cơ bản
Quan điểm: Xây dựng Luật Chứng thực thành đạo luật chung, được áp dụng thống nhất về chứng thực trong toàn quốc và các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
- Xây dựng dự thảo trên cơ sở tổng kết thực tiễn quản lý Nhà nước về chứng thực ở Việt Nam, trên cơ sở các văn bản pháp luật quy định về chứng thực đã có ở nhiều văn bản khác nhau và tham khảo, vận dụng kinh nghiệm của các nước có lịch sử lâu dài về chứng thực, phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, không mâu thuẫn với Bộ Luật Dân sự, Luật Công chứng.
- Xây dựng quy trình, thủ tục thực hiện chứng thực đảm bảo tính khoa học, minh bạch, chính xác, đơn giản và không gây phiền hà cho người dân, phù hợp với xu hướng cải cách hành chính, trong đó lấy cải cách thủ tục hành chính làm trung tâm, đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của hoạt động chứng thực.
- Hướng tới việc hạn chế tối đa việc chứng thực bản sao từ bản chính, trào lưu “sính” bản sao ở Việt Nam những năm vừa qua nhằm quy định chặt chẽ các việc chứng thực và đưa hoạt động này về đúng bản chất của nó.
Các nội dung của dự thảo Luật Chứng thực
Trong dự thảo Luật Chứng thực, về cơ bản các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục chứng thực sẽ được nâng tầm từ các nghị định hiện hành, trên cơ sở tiếp thu những nội dung còn tốt của các nghị định này, bên cạnh đó phải đặc biệt quan tâm đến yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, lấy việc phục vụ lợi ích của người dân làm mục tiêu. Ngoài ra, dự thảo Luật Chứng thực còn tập trung vào một số vấn đề mới, những vấn đề mới này sẽ tạo ra bước đột phá trong hoạt động chứng thực. Cụ thể như sau:
1. Giá trị pháp lý của bản dịch do các thành viên của Công ty Dịch thuật có tư cách pháp nhân dịch. Theo quy định của pháp luật về chứng thực thì bản dịch do người dịch (đủ điều kiện theo quy định của pháp luật dịch) phải được chứng thực chữ ký người dịch, Dự thảo Luật Chứng thực quy định theo hướng nếu bản dịch do thành viên của các tổ chức có tư cách pháp nhân dịch thuật thực hiện, có chữ ký của người dịch, xác nhận của người đứng đầu doanh nghiệp, đóng dấu của tổ chức đó thì không cần chứng thực. Bởi xuất phát từ bản chất và mục đích của việc chứng thực này suy cho cùng là chứng thực hình thức:
Bản chất của việc chứng thực chữ ký người dịch là chứng thực đúng chữ ký của cá nhân người dịch đó, không bao hàm việc chứng thực tính chính xác của nội dung bản dịch; tính chính xác của nội dung bản dịch hoàn toàn do người dịch chịu trách nhiệm.
Mục đích của việc chứng thực chữ ký người dịch chỉ là nhằm ràng buộc trách nhiệm cá nhân của người dịch đối với tính chính xác của bản dịch, tăng cường trách nhiệm của người dịch chứ không phải là sự xác nhận lại nội dung bản dịch.
Tóm lại, người dịch phải là chịu trách nhiệm trực tiếp về tính chính xác của bản dịch không cần sự xác nhận chữ ký của cơ quan hành chính Nhà nước. Với quy định này, một mặt giảm tải lượng việc chứng thực chữ ký người dịch của Phòng Tư pháp cấp huyện, mặt khác tạo thuận lợi cho người dân mà vẫn đảm bảo chất lượng của bản dịch.
2. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức yêu cầu và tiếp nhận bản sao. Tại điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của cơ quan, tiếp nhận bản sao, cụ thể đối với trường hợp người nộp giấy tờ, văn bản là bản sao không chứng thực thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận có trách nhiệm đối chiếu với bản chính và người đối chiếu ký xác nhận vào bản sao và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính. Có nghĩa, người dân có quyền nộp bản sao chứng thực hoặc bản sao không chứng thực kèm bản chính để đối chiếu. Thực tế, phần lớn các cơ quan đều yêu cầu bản sao có chứng thực mà không chấp nhận bản sao và đối chiếu với bản chính, bởi người tiếp nhận không muốn phải chịu trách nhiệm. Đây là hành vi vi phạm quy định pháp luật nhưng chưa có chế tài hoặc cơ chế phù hợp để chấn chỉnh hiện tượng này. Mặt khác, hoạt động chứng thực nếu thực hiện trong những trường hợp không cần thiết sẽ là gây tốn kém cả về thời gian, nhân lực, vật lực cho cả Nhà nước và người dân.
Dự thảo Luật Chứng thực quy định theo hướng các bên tham gia giao dịch có quyền nộp bản sao chưa chứng thực trong trường hợp nộp trực tiếp và kèm theo bản chính để đối chiếu trừ trường hợp các giấy tờ, văn bản này lại được tập hợp trong một bộ hồ sơ khác để phục vụ giao dịch khác hoặc giao dịch 3 bên. Như vậy, hạn chế các trường hợp phải chứng thực so với quy định hiện nay.
Bố cục của Luật Chứng thực
Dự thảo Đề cương Luật Chứng thực dự kiến gồm 8 chương và 45 điều, trong đó:
Chương I. Những quy định chung gồm 14 điều
Chương II. Chứng thực bản sao từ bản chính gồm 4 điều
Chương III. Chứng thực chữ ký gồm 7 điều
Chương IV: Chứng thực hợp đồng giao dịch gồm 6 điều
Chương V: Cấp bản sao từ sổ gốc gồm 4 điều
Chương VI: Lưu trữ gồm 2 điều
Chương VII: Xử lý vi phạm gồm 2 điều
Chương VIII: Quản lý nhà nước về chứng thực gồm 4 điều
Chương IX: Điều khoản thi hành gồm 2 điều
Các nội dung cơ bản của dự thảo Luật Chứng thực
Chương I: Quy định chung
Đây là chương quy định những nội dung có tính nguyên tắc của Luật Chứng thực Trong đó đặc biệt là những vấn đề liên quan đến việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật Chứng thực, mục đích của quản lý nhà nước về chứng thực, thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hoạt động chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản chứng thực .…
Chương II. Chứng thực bản sao từ bản chính
Chương này quy định về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực bản sao từ bản chính, quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính, nghĩa vụ và quyền của người thực hiện chứng thực, thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính, hồ sơ chứng thực bản sao từ bản chính, địa điểm chứng thực bản sao từ bản chính, thời hạn thực hiện chứng thực. Ngoài ra còn có quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức yêu cầu bản sao; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao nhằm giảm bớt các yêu cầu về chứng thực bản sao hiện nay.
Chương III. Chứng thực chữ ký
Chương này quy định hai mục: chứng thực chữ ký và chứng thực chữ ký người dịch.
Mục 1: Chứng thực chữ ký quy định những trường hợp chứng thực chữ ký, người yêu cầu chứng thực chữ ký, trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực nội dung văn bản chứng thực chữ ký, thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực chữ ký, thủ tục chứng thực chữ ký, hồ sơ chứng thực chữ ký, thời hạn chứng thực chữ ký.
Mục 2: Chứng thực chữ ký người dịch quy định tiêu chuẩn, điều kiện của người dịch, thủ tục chứng thực chữ ký người dịch.
Chương IV. Chứng thực hợp đồng, giao dịch
Chương này quy định về những loại hợp đồng, giao dịch được chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã; trình tự, thủ tục chứng thực hợp đồng giao dịch, thời hạn chứng thực hợp đồng, giao dịch và một số quy định chi tiết khác.
Chương V. Cấp bản sao từ sổ gốc
Chương này quy định về thẩm quyền, thủ tục chứng thực và trách nhiệm của cơ quan giữ sổ gốc và người có quyền yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc.
Chương VI. Lưu trữ
Chương này quy định về sổ chứng thực và việc lưu trữ các giấy tờ, văn bản được chứng thực.
Chương VII. Xử lý vi phạm
Chương này quy định về xử lý vi phạm đối với người thực hiện chứng thực, về việc xử lý vi phạm đối với người yêu cầu chứng thực khi có hành vi sửa chữa, sử dụng giấy tờ giả mạo, nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Chương VIII. Quản lý nhà nước về chứng thực
Chương này quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về chứng thực của các cơ quan như: Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, UBND các cấp và các cơ quan khác.
Chương VIII: Điều khoản thi hành
Chương này quy định về hiệu lực của Luật và việc xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.
Dự kiến thời gian trình QH:
Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết ban hành Luật an toàn thông tin số
Bối cảnh, thực trạng quan hệ xã hội đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển kinh tế trong xu thế hội nhập toàn cầu. Công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT) được coi là động lực quan trọng của quá trình phát triển, được ứng dụng và phát triển mạnh trong nhiều năm qua, góp phần quan trọng vào thúc đẩy phát triển đất nước. CNTT&TT đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực chính trị-kinh tế-xã hội-văn hóa-lịch sử-đời sống,… đặc biệt trong các cơ sở hạ tầng thông tin trọng yếu cho hoạt động của các cơ quan Chính phủ và các lĩnh vực y tế, dầu khí, cung cấp nước, năng lượng điện, viễn thông, tài chính, ngân hàng, thương mại và giao thông vận tải,….
Tuy nhiên, CNTT&TT hàng năm luôn phải đối mặt với nhiều loại hình tấn công trên mạng ngày càng thường xuyên hơn như làm biến dạng trang tin, lừa đảo trên mạng, tấn công từ chối dịch vụ, phát tán mã độc hại và virút máy tính, thư rác, đánh cắp thông tin, phá hoại dữ liệu, làm gián đoạn và phá rối hoạt động của các hệ thống thông tin, phần mềm gián điệp, tấn công hệ thống ngân hàng và mạng bán hàng trực tuyến, nhắn tin lừa đảo, đe dọa, tống tiền,… Theo số liệu thống kê của Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam (VNCERT) thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, chỉ riêng các tấn công lừa đảo qua mạng điển hình được Trung tâm xử lý tính từ 01/01/2010 đến 30/11/2010 đã là 168 vụ, tăng 85% so với cả năm 2009. Số thư rác ước tính năm sau gấp ba lần năm trước. Báo cáo của Bộ Công an cũng cho thấy trong năm 2008 có tới khoảng 60 triệu lượt máy tính bị nhiễm virút, 461 trang chủ bị tấn công với ước tính thiệt hại khoảng 30.000 tỷ đồng (tăng 10 lần so với năm 2007). Thống kê hàng năm của VNCERT và Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam (VNISA) kể từ 2008 tới nay cho thấy mỗi năm có khoảng từ 35% đến 45% cơ quan, doanh nghiệp trên toàn quốc bị tấn công. Tính đến tháng 11/2010, vẫn còn tới trên 50% trang chủ và cổng thông tin điện tử của các cơ quan, doanh nghiệp luôn tồn tại các lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng có thể bị tin tặc lợi dụng tấn công. Các vụ tấn công điển hình là thay đổi trang chủ của báo điện tử Vietnamnet tháng 11/2010, đột nhập và thay đổi trang chủ của Bộ Giáo dục và Đào tạo tháng 11/2006, thay đổi nội dung và mã truy cập của 38 hồ sơ trong trang chủ của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hồ Chí Minh tháng 7/2006, tấn công chiếm đoạt tên miền làm tê liệt khoảng 10.000 trang chủ thuộc Công ty PAViệt Nam tháng 7/2008, tấn công chiếm đoạt thẻ tín dụng và chuyển tiền trái phép qua mạng Internet, tấn công trang chủ của Ngân hàng Techcombank tháng 7/2008, tấn công phá sập Cổng thông tin điện tử của tỉnh Nam Định tháng 7/2008, tấn công và xóa toàn bộ cơ sở dữ liệu của hệ thống quảng cáo liên kết Lienket247 tháng 10/2008,…
Ngoài những tấn công mạng trong nước, các hệ thống thông tin của Việt Nam còn chịu nhiều tấn công từ mạng nước ngoài. Theo thống kê của một tổ chức bảo mật quốc tế đáng tin cậy (Zone-H), số lượng tấn công từ mạng nước ngoài vào các trang tin của Việt Nam đã tăng nhanh theo hàm mũ với 8 vụ trong năm 2002 lên đến gần 800 vụ trong năm 2008. Thống kê của VNCERT và VNISA trong ba năm qua cho thấy, trong số các cuộc tấn công trên mạng, các cơ quan, tổ chức trong nước mới chỉ ước tính được khoảng 20% tấn công có nguồn gốc từ mạng nước ngoài. Theo các báo cáo mới đây của các công ty bảo mật hàng đầu thế giới như Kaspersky Lab, Symantec và McAfee, Việt Nam là một trong số 10 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của vấn nạn thư rác, trong đó chủ yếu là lượng thư rác từ nước ngoài.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với sự gia tăng phát triển CNTT&TT càng làm tăng nguy cơ, hiểm họa mất an toàn thông tin. Mạng thông tin càng phát triển mở rộng, số người sử dụng mạng càng nhiều, tốc độ truy nhập càng cao thì nguy cơ mất an toàn thông tin và mức độ thiệt hại do các tấn công càng lớn. Do thông tin được truyền lan tỏa nhanh chóng như hiện nay, bất cứ thông tin sai lệch nào cũng sẽ gây ra các hậu quả nặng nề đối với xã hội và nhà nước. Ngày càng xuất hiện xu hướng tin tặc chuyên nghiệp hoạt động có tổ chức, với nhiều hình thức và phương tiện tinh vi hơn, diễn biến phức tạp hơn. Ngoài những tấn công đánh cắp thông tin, phá hoại, gây rối, ngày càng có thêm nhiều tấn công mang tính vụ lợi. Các sự cố an toàn thông tin đã tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, kéo theo những thiệt hại về vật chất, tiền bạc và những thiệt hại vô hình khác, gây ra ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan nhà nước, thiệt hại cho doanh nghiệp và người dân, bức xúc cho xã hội.
Các sự cố mất an toàn thông tin ngăn cản sự phát triển của CNTT&TT, làm mất lòng tin của đối tác đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng không nhỏ đến giao dịch qua mạng, gây thất thoát trong và ngoài nước. Nguy cơ, hiểm họa mất an toàn thông tin đã trở thành thách thức lớn đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam trong quá trình phát triển bền vững. An toàn thông tin là lĩnh vực khá mới và ngày càng phức tạp đối với Việt Nam, đòi hỏi cần tiếp tục có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực an toàn thông tin. Nhiệm vụ quản lý nhà nước và nhiệm vụ nâng cao ý thức cộng đồng trong lĩnh vực này ngày càng trở nên cấp thiết.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện nhiều chương trình, dự án tăng cường đảm bảo an toàn thông tin. Việc đầu tư trang bị các hệ thống thiết bị bảo vệ, đưa ra các chính sách, tăng cường các biện pháp quản lý, các chương trình nâng cao nhận thức đã góp phần quan trọng nâng cao khả năng đảm bảo an toàn thông tin.
Tuy nhiên, công tác quản lý về an toàn thông tin vẫn còn những thách thức và bất cập. Trên 50% cơ quan, tổ chức còn chưa quan tâm đến an toàn thông tin. Gần 40% cơ quan, tổ chức không báo cáo sự cố cho cơ quan quản lý do chưa nhận thức được tầm quan trọng hoặc không nhận biết được tấn công. Công tác điều phối ứng cứu, hỗ trợ vẫn còn thiếu cơ sở pháp lý. Công tác quản lý đảm bảo an toàn thông tin còn chưa thống nhất từ Trung ương đến địa phương, còn thiếu cơ chế phối hợp và tính đồng bộ. Đầu tư cho an toàn thông tin còn chưa đủ mức cần thiết. Nhận thức cộng đồng về an toàn thông tin còn nhiều hạn chế. Các biện pháp chế tài còn thiếu, một số biện pháp đã có nhưng chưa cụ thể. An toàn thông tin là lĩnh vực mới, có tính xuyên suốt mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đòi hỏi có sự điều chỉnh mới của pháp luật. Những hạn chế trên ảnh hưởng nhiều đến công tác quản lý an toàn thông tin, đặc biệt với sự tiến triển phức tạp của tình hình an toàn thông tin hiện nay.
Trước tình hình đó, việc kiến nghị với Chính phủ trình Quốc hội đưa dự án xây dựng Luật An toàn thông tin số vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội Khóa XIII là hết sức cần thiết, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.
Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến các quan hệ xã hội cần điều chỉnh
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ đã có sự quan tâm đặc biệt về vấn đề xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về công tác đảm bảo an toàn thông tin thể hiện qua việc ban hành các Luật, các Nghị định, các Quyết định, Chỉ thị,… có các nội dung liên quan đến đảm bảo an toàn thông tin tại Việt Nam.
Chỉ thị số 58-CT/TW, ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nêu các yêu cầu về đảm bảo an toàn thông tin tại điểm 2 và điểm 4 mục II.
Các Luật và Pháp lệnh quan trọng thể hiện các nội dung đảm bảo an toàn thông tin gồm có:
- Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29/6/2006 có nêu các quy định việc quản lý an toàn thông tin trong hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, gồm các khoản 3 Điều 6, khoản 2 Điều 7, Điều 60, Điều 71, Điều 72, Điều 73.
- Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 có các Điều từ 44 đến 49 quy định việc đảm bảo an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử.
- Luật Viễn thông số 41/2009/QH12 ngày 04/12/2009 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010, thay thế cho Pháp lệnh Bưu chính viễn thông) có Điều 5, Điều 6 quy định về việc bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin, bảo đảm bí mật thông tin.
Đáp ứng nhu cầu thực tiễn về thi hành pháp luật đối với an toàn thông tin, nhiều Nghị định đã được Chính phủ ban hành trong những năm qua, điển hình như:
- Nghị định 64/2007/NĐ-CP quy định đảm bảo an toàn thông tin cho ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước với các Điều 41, 42, 43.
- Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử đã nêu ra các nội dung về an toàn thông tin tại Điều 4, Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10.
- Nghị định 90/2008/NĐ-CP quy định các nội dung cụ thể về chống thư rác, bao gồm cả thư điện tử rác và tin nhắn rác.
Ngoài ra, an toàn thông tin cũng được đề cập trong một số Quyết định quan trọng khác như:
- Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông”, trong đó đã nêu các yêu cầu đảm bảo an toàn thông tin trong các nhiệm vụ 3, nhiệm vụ 5, nhiệm vụ 6 đồng thời cũng đưa ra nhóm giải pháp 1 và nhóm giải pháp 3 cho đảm bảo an toàn thông tin.
- Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 13/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Phát triển An toàn thông tin số Quốc gia đến năm 2020 nêu rõ các quan điểm, 4 nhóm mục tiêu tổng quát đến năm 2020, 5 nhóm mục tiêu phát triển đến năm 2015, 4 nhóm giải pháp, 3 nhóm nhiệm vụ và 5 dự án ưu tiên trong lĩnh vực an toàn thông tin.
Với nhiệm vụ được giao theo Nghị định 187/2007/NĐ-CP, hàng năm Bộ Thông tin và Truyền thông đều có báo cáo tổng kết về kết quả quản lý, điều hành của Bộ, trong đó có kết quả thực hiện công tác quản lý về an toàn thông tin. Từ kết quả công tác quản lý, điều hành của Bộ, kết quả rà soát các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan và từ thực tiễn đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông nhận thấy các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến công tác đảm bảo an toàn thông tin còn có những vấn đề bất cập nhất định.
Thứ nhất, chưa có một văn bản luật thống nhất điều chỉnh toàn diện công tác đảm bảo an toàn thông tin. Các văn bản pháp quy thường được xây dựng tập trung vào nhiệm vụ quản lý của từng lĩnh vực đơn lẻ nên chỉ đề cập đến công tác đảm bảo an toàn thông tin ở từng phạm vi hẹp đối với lĩnh vực quản lý như Luật Viễn thông, Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin,… Tuy các văn bản luật nêu trên đều có nêu một số quy định về công tác đảm bảo an toàn thông tin, song chưa đề cập đến đầy đủ các nguy cơ, hiểm họa mất an toàn thông tin khác. Chưa xem xét đến các khía cạnh về cơ chế điều phối, theo dõi giám sát tấn công mạng, quy trình quản lý, các vấn đề về tài chính, đầu tư cho an toàn thông tin,… Đặc biệt, các văn bản luật nêu trên còn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, góp phần giải quyết được những bức xúc trong xã hội hiện nay về an toàn thông tin. Việc điều chỉnh, nâng cấp các văn bản này một cách đơn thuần để giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực an toàn thông tin là điều khó khả thi, dễ dẫn đến tính thiếu nhất quán, thiếu tính hệ thống hóa, thiếu sự toàn diện.
Thứ hai, các văn bản pháp luật đã có đề cập đến vấn đề đảm bảo an toàn thông tin song các quy định còn rải rác, chưa đầy đủ, chưa bao quát được lĩnh vực an toàn thông tin, có thể gây chồng chéo trong lĩnh vực quản lý điều hành trong lĩnh vực an toàn thông tin, gây khó khăn nhất định khi áp dụng. Ví dụ, quy định về đảm bảo an toàn, bí mật thông tin nằm rải rác ở các văn bản pháp luật ở các phạm vi và mức độ khác nhau. Tương tự như vậy là các quy định về bảo đảm cơ sở hạ tầng thông tin. Trong khi đó vẫn còn những khoảng trống chưa được điều chỉnh, khi xảy ra sự cố thì vẫn thiếu các quy định phối hợp thực thi tổng thể.
Thứ ba, quy định trong các lĩnh vực cụ thể của an toàn thông tin còn chung chung, nhiều điểm chưa rõ ràng, khó tra cứu và vận dụng khi thực thi. Cụ thể là các quy định về các quy trình phòng ngừa, ứng cứu, khôi phục, điều phối ứng cứu đang nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật. Các quy định về khen thưởng, xử phạt còn chưa rõ ràng, khiến ý thức của người dân trong việc tuân thủ các biện pháp về phòng chống các nguy cơ mất an toàn thông tin chưa cao.
Thứ tư, tuy các văn bản pháp luật đã cho phép ngăn chặn và xử lý các hành vi gây mất an toàn thông tin, song việc xác định tính pháp lý của chứng cứ điện tử còn gặp nhiều khó khăn. Đồng thời chế tài đối với các loại tội phạm mới này còn chưa đầy đủ để răn đe.
Như vậy có thể thấy, tuy các văn bản pháp lý đã tạo một hành lang pháp lý cơ sở cho việc thực thi quản lý nhà nước về lĩnh vực an toàn thông tin và vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện dần, song các văn bản pháp lý vẫn chưa đầy đủ và chưa có tính hệ thống hóa, chưa toàn diện cho lĩnh vực an toàn thông tin. An toàn thông tin đã trở thành lĩnh vực xuyên suốt mọi lĩnh vực đời sống xã hội và có tầm quan trọng đặc biệt đối với các cơ sở hạ tầng thông tin trọng yếu quốc gia. Do đó, việc xây dựng Luật An toàn thông tin số là cấp thiết, là để đổi mới, hệ thống hóa một cách toàn diện và hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực an toàn thông tin.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về an toàn thông tin
Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác đảm bảo an toàn thông tin từ nhiều năm qua, đặc biệt trong quá trình phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin. Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17 tháng 10 năm 2000 của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nhấn mạnh mục tiêu cần “có các biện pháp chủ động và các quy định cụ thể về an toàn và an ninh thông tin” nhằm tạo môi trường thuận lợi cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. “Phát triển, quản lý viễn thông và Internet đồng thời phải có biện pháp toàn diện, đồng bộ để ngăn chặn những hành vi lợi dụng gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị Trung ương khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để phát triển kinh tế cũng đã nêu: “…có đối sách đảm bảo an ninh chính trị, an ninh tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh phòng chống tội phạm có tổ chức, các hành vi tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại… Xây dựng cơ chế xử lý các vấn đề xuyên biên giới và an ninh phi truyền thống”.
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã nhấn mạnh nguy cơ tiếp tục gia tăng “các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường…” và đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu về đảm bảo phát triển bền vững, tăng cường tiềm lực ngăn chặn, đối phó.
Ngày 13/01/2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển an toàn thông tin số quốc gia đến năm 2020. Mục tiêu tổng quát của quy hoạch cho đến năm 2020 được xác định bao gồm việc đảm bảo an toàn mạng và hạ tầng thông tin; đảm bảo an toàn cho dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin; phát triển nguồn nhân lực và nâng cao nhận thức về an toàn thông tin; hoàn thiện môi trường pháp lý về an toàn thông tin
Quy hoạch cũng đề ra các mục tiêu phát triển cụ thể đến năm 2015 về việc đảm bảo an toàn thông tin cho cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia, đảm bảo an toàn dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương và toàn xã hội, đảm bảo an toàn cho giao dịch điện tử, phát triển nhân lực và nâng cao nhận thức của xã hội về an toàn thông tin, hoàn thiện các cơ sở pháp lý và hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, khuyến khích nghiên cứu phát triển, khuyến khích và hỗ trợ xây dựng các sản phẩm nội địa về an toàn thông tin.
Sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ về an toàn thông tin còn thể hiện qua các cam kết về tăng cường an toàn thông tin trong khu vực ASEM tại Hội nghị cấp cao ASEM 5; Chủ trương thành lập Cục An toàn thông tin; Chủ trương đầu tư cho các dự án an toàn thông tin; Các cam kết quốc tế về đảm bảo an toàn thông tin.
Nội dung cam kết trong các điều ước quốc tế
Kể từ khi mở cửa hội nhập, tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế quan trọng, Việt Nam đã rất tích cực tham gia xây dựng và đóng góp ý kiến, sáng kiến xây dựng các Nghị quyết của các hội nghị quốc tế, trong đó có các nội dung về đảm bảo an toàn thông tin. Các văn kiện điển hình gồm:
- Các Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc và các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ.
- Nghị quyết Hội nghị cấp cao 10 của các nước APEC ở Lốt Ca-bốt, Mê-hi-cô năm 2002 thông qua tuyên bố chung về an toàn thông tin, trong đó có nêu các vấn đề về xây dựng luật và các văn bản pháp luật, công ước quốc tế về an toàn thông tin.
- Nghị quyết Hội nghị Cấp cao ASEM 5 (2004 tại Hà Nội) thông qua 9 sáng kiến hợp tác, trong đó có sáng kiến 6 là về tăng cường an toàn mạng trong khu vực ASEM.
- Nghị quyết Hội nghị thượng đỉnh về Xã hội thông tin (WSIS) 2005 tại Tunisia.
- Các cam kết trong Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), Tổ chức Viễn thông Châu Á - Thái Bình Dương (APT).
- Nghị quyết các Hội nghị quan chức cấp cao viễn thông (TELSOM) và Hội nghị Bộ trưởng Viễn thông (TELMIN) của ASEAN tổ chức hàng năm đều có các khuyến nghị cho các nước về lĩnh vực an toàn thông tin.
Các tác động của Luật An toàn thông tin số
Luật An toàn thông tin số sẽ có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội.
- Đối với cơ quan nhà nước, Luật An toàn thông tin số sẽ là yếu tố đảm bảo thành công và thúc đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Chính phủ, đồng thời góp phần ngăn chặn việc lợi dụng CNTT&TT với mục đích gây mất trật tự an ninh xã hội.
- Đối với doanh nghiệp, Luật An toàn thông tin số sẽ giúp tổ chức và doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào CNTT&TT để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh. Trong thương mại điện tử và hợp tác quốc tế, Luật An toàn thông tin số góp phần tạo dựng uy tín quốc gia, mở rộng và hủy bỏ các rào cản đang hạn chế sự phát triển kinh tế (thanh toán điện tử, tài chính và ngân hàng, hàng không, du lịch, v.v…).
- Đối với người dân, Luật An toàn thông tin số sẽ góp phần tăng cường việc đảm bảo quyền lợi của người dân và cộng đồng trong sử dụng các ứng dụng do CNTT&TT mang lại.
Quan điểm chỉ đạo xây dựng luật an toàn thông tin số
Luật An toàn thông tin số cần được xây dựng theo những quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:
- Thể hiện tính nhất quán, hệ thống và toàn diện về lĩnh vực an toàn thông tin; đảm bảo phù hợp với các quy định pháp lý về CNTT&TT và các lĩnh vực liên quan.
- Thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển bền vững kinh tế-xã hội nói chung và về phát triển CNTT&TT nói riêng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thể hiện được những điểm đổi mới về cơ chế, chính sách trong hoạt động an toàn thông tin, tạo môi trường thuận lợi và an toàn cho các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển ứng dụng CNTT&TT theo hướng chủ động hội nhập quốc tế đồng thời tạo môi trường an toàn và tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư, thương mại tại Việt Nam.
- Kế thừa những ưu điểm của các văn bản luật pháp trước đây đã được thực tế kiểm nghiệm, có học tập, đúc rút kinh nghiệm của các nước phát triển sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Dự kiến phạm vi điều chỉnh, đối tương áp dụng của Luật an toàn thông tin số
Phạm vi điều chỉnh của Luật An toàn thông tin số dự kiến sẽ quy định về các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin.
An toàn thông tin được hiểu là các hoạt động quản lý, nghiệp vụ và kỹ thuật đối với hệ thống thông tin nhằm bảo vệ, khôi phục các hệ thống, các dịch vụ và nội dung thông tin đối với nguy cơ tự nhiên hoặc do con người gây ra. Đảm bảo an toàn thông tin là nhằm bảo đảm cho các dịch vụ thông tin trên mạng và dữ liệu thông tin được lưu giữ trong các thiết bị mạng hoặc truyền đi trên mạng có tính sẵn sàng, tính toàn vẹn và tính bí mật cao.
Cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa chung nhất và thống nhất về an toàn thông tin. Trong các văn bản quy phạm pháp luật đã nêu trong mục I.2, thuật ngữ “an toàn thông tin” đã bao hàm cả an toàn cơ sở hạ tầng thông tin, an toàn mạng, an toàn mạng viễn thông, an toàn nội dung thông tin. Ngoài ra, một số văn bản còn đề cập đến cả lĩnh vực an ninh thông tin (liên quan đến phòng chống và xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&TT đặc biệt là các hành vi lợi dụng mạng thông tin và truyền thông để tuyên truyền, phổ biến, phát tán thông tin chống phá cách mạng, không phù hợp với tuần phong mỹ tục Việt Nam,...).
Do đó, Luật An toàn thông tin số được xây dựng trong phạm vi nhằm bảo đảm cho các hệ thống thực hiện đúng chức năng, phục vụ đúng đối tượng một cách sẵn sàng, chính xác và tin cậy; đảm bảo tính sẵn sàng, toàn vẹn và bí mật cho dữ liệu thông tin được lưu giữ, xử lý trong các thiết bị mạng hoặc truyền đi trên mạng; phòng ngừa và ngăn chặn những hành vi bất hợp pháp đối với hệ thống và dịch vụ. Thuật ngữ “an toàn thông tin” trong Luật An toàn thông tin số chỉ giới hạn đề cập đến các nội dung liên quan đến an toàn thông tin (bảo vệ và bảo mật thông tin, an toàn dữ liệu, an toàn máy tính, an toàn mạng và an toàn cơ sở hạ tầng thông tin).
Công tác đảm bảo an toàn thông tin được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam và hợp tác quốc tế về lĩnh vực an toàn thông tin giữa Việt Nam với các quốc gia, khu vực trên thế giới.
Về đối tượng áp dụng, Luật An toàn thông tin số dự kiến sẽ áp dụng cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước tham gia vào hoạt động đảm bảo an toàn thông tin tại Việt Nam. Đối tượng chịu tác động của Luật An toàn thông tin số là toàn bộ các yếu tố ảnh hưởng tới việc đảm bảo an toàn thông tin.
Nội dung cơ bản của Luật an toàn thông tin số
Nội dung cơ bản của Luật An toàn thông tin số dự kiến bao gồm:
- Các quy định chung: Phạm vi, đối tượng điều chỉnh, giải thích từ ngữ, các quy định về chính sách nhà nước.
- Quản lý nhà nước về an toàn thông tin.
- Các quy định về đảm bảo an toàn cơ sở hạ tầng thông tin trọng yếu quốc gia.
- Các quy định về đảm bảo an toàn cho dữ liệu và ứng dụng CNTT&TT
- Các quy định về xác định, cảnh báo, dự báo, theo dõi giám sát an toàn thông tin.
- Các quy định về phòng ngừa, quản lý rủi ro, giảm nhẹ thiệt hại.
- Các quy định về ứng cứu xử lý sự cố.
- Các quy định về khôi phục hệ thống, dịch vụ, dữ liệu, khắc phục hậu quả.
- Các quy định về lưu vết, bằng chứng điện tử.
- Nguồn tài chính phục vụ công tác đảm bảo an toàn thông tin.
- Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong hoạt động đảm bảo an toàn thông tin và thực hiện cung cấp dịch vụ đảm bảo an toàn thông tin.
- Giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại trong các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin, sử dụng các dịch vụ đảm bảo an toàn thông tin.
- Hợp tác quốc tế về an toàn thông tin.
- Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm.
- Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực tài chính, điều kiện đảm bảo cho xây dựng Luật an toàn thông tin số
Nguồn lực tài chính đảm bảo cho quá trình triển khai xây dựng dự án Luật An toàn thông tin số sẽ dựa trên cơ sở chế độ chi ngân sách nhà nước và có phần hỗ trợ của các nước và các tổ chức quốc tế.
Nguồn nhân lực sẽ do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan và các chuyên gia độc lập trong và ngoài nước.
Dự kiến thời gian trình văn bản
Trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết ban hành
Luật Nghĩa vụ quân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII thông qua tại kỳ họp thứ hai ngày 30 tháng 12 năm 1981; đã sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 21 tháng 12 năm 1990; sửa đổi, bổ sung lần thứ hai ngày 22 tháng 6 năm 1994; sửa đổi, bổ sung lần thứ ba ngày 14 tháng 6 năm 2005. Sau nhiều năm triển khai thực hiện, Luật Nghĩa vụ quân sự đã đi vào cuộc sống, là cơ sở pháp lý bảo đảm cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với Tổ quốc; quyền, lợi ích hợp pháp của quân nhân được bảo đảm và không ngừng được nâng cao; góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cấp uỷ, chính quyền các cấp đã nghiên cứu, quán triệt và xác định việc thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự là nhiệm vụ chính trị quan trọng của công tác quân sự, quốc phòng ở địa phương. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp của cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội chặt chẽ, kịp thời nên đã phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện. Hội đồng nghĩa vụ quân sự các cấp thường xuyên được kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt vai trò tham mưu giúp ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc, công khai, dân chủ, đúng quy trình chuẩn bị và tuyển chọn công dân nhập ngũ. Công tác đăng ký, quản lý công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự trong ngạch dự bị được quan tâm, việc sắp xếp, hình thành các đơn vị dự bị động viên được triển khai tích cực và có đổi mới; công tác huấn luyện quân nhân dự bị được tăng cường, nâng cao khả năng sẵn sàng động viên và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị. Kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm nên đã có tác dụng tích cực trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định của pháp luật về nghĩa vụ quân sự đã được triển khai có nền nếp, bằng nhiều hình thức đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội; nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và công dân đối với nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tại các đơn vị Quân đội, việc quản lý quân nhân tại ngũ được thực hiện chặt chẽ và có nhiều chuyển biến tiến bộ; công tác giáo dục chính trị, pháp luật được đề cao; tổ chức huấn luyện quân sự theo chương trình, nội dung đúng quy định của Bộ Quốc phòng; chú trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, chấp hành kỷ luật, nâng cao nhận thức về chính trị, kỹ thuật, chiến thuật của quân nhân, góp phần nâng cao chất lượng hoàn thành nghĩa vụ của công dân trong Quân đội, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các chế độ, chính sách đối với quân nhân từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển về mọi mặt của đất nước và những yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật Nghĩa vụ quân sự hiện hành (tuy đã được sửa đổi ba lần), nhưng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, đó là:
Thứ nhất: Những năm qua, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta đã từng bước được hoàn thiện. Nhiều văn bản luật, pháp lệnh có liên quan đến Luật Nghĩa vụ quân sự đã được ban hành để phù hợp với thực tiễn cuộc sống và sự phát triển của xã hội trong công cuộc đổi mới. Do đó, một số nội dung của Luật Nghĩa vụ quân sự hiện hành không còn phù hợp, ảnh hưởng đến tính thống nhất của pháp luật, tạo kẽ hở phát sinh những tiêu cực trong quá trình triển khai thực hiện, gây khó khăn cho địa phương, cơ sở.
Thứ hai: Một số địa phương nhất là vùng sâu, vùng xa; các thành phố, thị xã đông dân cư (nơi có nhiều cơ quan, doanh nghiệp, trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề) việc đăng ký, quản lý chưa hết đối tượng nên có ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân cũng như chính sách công bằng xã hội. Chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm chưa đủ mạnh, tính giáo dục và răn đe chưa cao.
Thứ ba: Luật hiện hành quy định thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan, binh sĩ là mười tám tháng; thời gian ngắn phải tổ chức gọi công dân nhập ngũ một năm hai đợt, ảnh hưởng tới nhiệm vụ của các địa phương và đơn vị Quân đội. Mặt khác, do thời gian ngắn đã ảnh hưởng đến chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội, nhất là các đơn vị quân chủng, binh chủng; chưa đáp ứng được mục tiêu yêu cầu xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Thứ tư: Luật hiện hành quy định đối tượng tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình quá rộng, công dân được tạm hoãn gọi nhập ngũ hàng năm chiếm tỷ lệ cao so với tổng số công dân trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ, gây khó khăn cho các địa phương trong quá trình xét gọi nhập ngũ. Mặt khác, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay phát triển rất đa dạng với nhiều loại hình đào tạo và nhiều ngành nghề đào tạo chỉ thực hiện xét tuyển (không thi tuyển) nên số lượng công dân tham gia học tập ngày càng tăng đã ảnh hưởng tới chất lượng tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ hàng năm.
Thứ năm: Việc quy định quân nhân chuyên nghiệp có thể phục vụ tại ngũ từng thời hạn hoặc dài hạn đến 50 tuổi, đến nay không còn phù hợp với yêu cầu xây dựng Quân đội và các văn bản luật khác. Tuổi phục vụ tại ngũ của quân nhân chuyên nghiệp thấp hơn so với sĩ quan có cùng cấp bậc quân hàm là không phù hợp, gây tốn kém trong đào tạo, chưa tận dụng hết khả năng của quân nhân chuyên nghiệp nhất là ở các quân chủng, binh chủng và đơn vị kỹ thuật của Quân đội.
Thứ sáu: Thể thức và kỹ thuật soạn thảo văn bản của Luật Nghĩa vụ quân sự hiện hành không còn phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 03 tháng 6 năm 2008.
Thứ bảy: Dự án Luật Quân đội nhân dân Việt Nam đang được Bộ Quốc phòng chủ trì xây dựng, dự kiến trình Quốc hội thông qua cuối năm 2014; trong đó có nhiều nội dung của Luật Nghĩa vụ quân sự được chuyển tải quy định vào Dự án Luật này. Nay, Bộ Chính trị chỉ đạo tạm dừng xây dựng Luật Quân đội nhân dân Việt Nam, vì vậy việc xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự là cần thiết, để kịp thời khắc phục những điểm bất cập nêu trên của Luật hiện hành. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là Luật hiện hành đã sửa đổi, bổ sung ba lần (năm 1990, năm 1994 và năm 2005), nếu tiếp tục sửa đổi, bổ sung lần thứ tư sẽ không còn phù hợp, bởi có những nội dung được sửa đổi nhiều lần; quy trình xây dựng luật sửa đổi, bổ sung đều phải triến hành theo trình tự các bước như xây dựng luật sửa đổi (thay thế). Mặt khác, Hiến pháp năm 1992 đang được tiến hành sửa đổi, bổ sung để thể chế hoá Cương lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Do vậy, việc xây dựng Luật Nghĩa vụ quân sự thay thế Luật hiện hành là phù hợp và cần thiết.
Nội dung chính
1. Tiêu đề: Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi).
2. Nội dung cụ thể:
2.1. Phạm vi điều chỉnh:
Luật này quy định về chế độ nghĩa vụ quân sự của công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự.
2.2. Đối tượng áp dụng:
a) Công dân đủ mười tám tuổi trở lên, không phân biệt dân tộc, thành phần, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam:
- Phục vụ tại ngũ có thời hạn;
- Phục vụ tại ngũ theo chế độ chuyên nghiệp;
- Phục vụ trong ngạch dự bị.
b) Cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến chế độ nghĩa vụ quân sự.
c) Tổ chức, cá nhân nước ngoài, cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam về chế độ nghĩa vụ quân sự.
2.3. Bố cục dự án Luật (dự kiến):
a) Những quy định chung;
b) Chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ;
c) Đăng ký nghĩa vụ quân sự:
d) Gọi nhập ngũ, xuất ngũ;
đ) Chế độ phục vụ tại ngũ và nghĩa vụ, quyền lợi của quân nhân chuyên nghiệp (sĩ quan chuyên môn kỹ thuật);
e) Chế độ phục vụ tại ngũ và nghĩa vụ, quyền lợi của hạ sĩ quan, binh sĩ;
g) Chế độ phục vụ và nghĩa vụ, quyền lợi của hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị;
h) Chế độ phục vụ và nghĩa vụ, quyền lợi của quân nhân chuyên nghiệp dự bị (sĩ quan chuyên môn kỹ thuật dự bị);
i) Việc gọi nhập ngũ theo lệnh tổng động viên hoặc lệnh động viên cục bộ, việc xuất ngũ theo lệnh phục viên;
k) Xử lý các vi phạm;
l) Điều khoản thi hành.
Quan điểm chỉ đạo
Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và Nghị quyết Trung ương 8 Khoá IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Việc xây dựng Luật thay thế Luật Nghĩa vụ quân sự hiện hành phải phù hợp với sự phát triển của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đất nước.
Giải quyết và thực hiện tốt hơn công bằng xã hội trong việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự của công dân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Bảo đảm tính khả thi của pháp luật, phù hợp với quy định của Hiến pháp và đồng bộ với các văn bản pháp luật khác, phù hợp với sự phát triển của xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước.
Mục tiêu, chính sách và giải pháp
Tạo nguồn lực để nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bảo đảm cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến chế độ nghĩa vụ quân sự và các cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân.
Đảm bảo tính thống nhất với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và các văn bản luật khác có liên quan.
Quy định quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến nghĩa vụ quân sự; góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết Trung ương 8 Khoá IX về chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và pháp luật về nghĩa vụ quân sự, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực và nhận thức trách nhiệm đối với hệ thống chính trị các cấp, toàn quân và toàn dân.
Tích cực tuyên truyền sâu rộng các văn bản quy phạm pháp luật về nghĩa vụ quân sự nhằm nâng cao nhận thức, thấy rõ đây là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện đường lối quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình mới, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyển quân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhất là cấp uỷ đảng cơ sở đối với việc thi hành pháp luật về nghĩa vụ quân sự, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội để chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong thực hiện pháp luật về nghĩa vụ của cơ quan các cấp, các ngành để thực hiện công tác tuyển quân và dự bị động viên đạt hiệu quả cao.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm, năng lực của cơ quan quân sự địa phương và ban, ngành, đoàn thể các cấp để làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự. Làm tốt công tác giáo dục quốc phòng - an ninh cho toàn dân để nâng cao ý thức, trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự.
Thường xuyên kiện toàn nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nghĩa vụ quân sự các cấp, hoạt động có chiều sâu, hiệu quả theo chức năng, nhiệm vụ và phát huy vai trò của các thành viên trong Hội đồng. Làm tốt công tác đăng ký, quản lý, nắm chắc số lượng, chất lượng công dân tuổi 17 và trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ, quân nhân dự bị thực hiện tốt công tác tuyển quân hàng năm đảm bảo đúng quy trình, đủ chỉ tiêu, có chất lượng tốt, dân chủ, công bằng, công khai, đúng luật định.
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách cho quân nhân tại ngũ, quân nhân xuất ngũ, quân nhân dự bị phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước tạo điều kiện cho quân nhân yên tâm công tác.
Kết hợp chặt chẽ giữa địa phương với các đơn vị nhận quân trong suốt quá trình tuyển nhận, huấn luyện đến khi quân nhân hết hạn phục vụ tại ngũ. Các đơn vị Quân đội thực hiện nghiêm công tác quản lý, sử dụng quân số, bảo đảm tốt đời sống, vật chất, tinh thần cho bộ đội; nâng cao chất lượng huấn luyện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Tăng cương công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Chú trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, khen thưởng, xử lý các vi phạm và kịp thời có những giải pháp giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự.
Dự kiến thời gian trình Quốc hội khoá XIII: Cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014), thông qua tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014)./.
30. Luật Công an nhân dân (sửa đổi)
Dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi) được đưa vào Chương trình chuẩn bị thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013 (Nghị quyết số 23/2012/QH13 ngày 12/6/2012); tuy nhiên, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Thông báo số 111-TB/TW ngày 08/11/2012 về việc đưa dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi) từ Chương trình chuẩn bị sang Chương trình chính thức của Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013, Bộ Công an đã tiến hành các thủ tục đề nghị Chính phủ đưa dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi) vào Chương trình chính thức của Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013.
Dự kiến thời gian trình văn bản
- Trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII (tháng 5 năm 2013).
- Trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII (tháng 11 năm 2013).
Dự án này đã được đưa vào Chương trình chính thức năm 2013 (trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6), nay Chính phủ đề nghị lùi sang năm 2014.
Sự cần thiết ban hành văn bản sửa đổi
Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 đã có những quy định phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước nên đã phát huy được những tác động tích cực, như: góp phần điều tiết, định hướng sản xuất, tiêu dùng đối với một số hàng hoá, dịch vụ cần hạn chế, góp phần nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi tiêu dùng nhằm bảo vệ môi trường, góp phần bảo đảm công bằng xã hội và góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng cho Ngân sách nhà nước; đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế TTĐB đối với bia, rượu.
Qua 3 năm triển khai thực hiện, trước những diễn biến phát triển của nền kinh tế, Luật thuế TTĐB đã bộc lộ một số tồn tại cần sửa đổi, bổ sung cụ thể: đối tượng chịu còn hạn chế so với mục tiêu điều tiết của sắc thuế này hoặc chưa được quy định rõ như trò chơi điện tử trực tuyến, các loại hình dịch vụ nhắn tin trúng thưởng và một số hàng hoá, dịch vụ khác; mức điều tiết một số hàng hoá, dịch vụ cần hạn chế sử dụng chưa đáp ứng yêu cầu điều tiết tiêu dùng như thuốc lá, đồ uống có cồn và một số hàng hoá, dịch vụ ảnh hưởng đến môi trường như xăng, dầu; giá tính thuế đối với một số loại hàng hoá chưa phù hợp với quá trình toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế, chưa bảo đảm công bằng giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá nhập khẩu.
Do đó, cần thiết phải có sửa đổi, bổ sung Luật vào năm 2014 để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế và hội nhập.
Quan điểm, nội dung sửa đổi
a) Quan điểm sửa đổi
- Quán triệt và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và trong thời gian tới.
- Phù hợp, thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp, các bộ luật và luật hiện hành; phù hợp với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên.
- Kế thừa và phát huy những ưu điểm, những quy định vẫn còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khắc phục được những hạn chế, bất cập trong những quy định của Luật thuế TTĐB hiện hành; bảo đảm tính ổn định, đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tạo môi trường pháp lý, thủ tục hành chính đơn giản, thuận lợi cho đối tượng thi hành luật.
b) Nội dung sửa đổi:
Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế:
Về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế TTĐB
Luật hiện hành quy định 9 loại hàng hoá và 6 loại hình dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Quy định này cơ bản là phù hợp, song trong quá trình thực hiện cũng có phát sinh một số vấn đề vướng mắc. Cụ thể là:
Đối với mặt hàng ô tô:
Luật thuế TTĐB hiện hành quy định ô tô dưới 24 chỗ ngồi thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB, quy định này là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế và điều kiện giao thông của nước ta, nhằm hạn chế sử dụng ô tô du lịch và các loại xe có ít chỗ ngồi chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân, khuyến khích sử dụng ô tô để phục vụ sản xuất kinh doanh, vận chuyển hành khách công cộng. Tuy nhiên, trong thực tế phát sinh một số trường hợp nếu áp dụng "cứng" theo quy định của Luật sẽ không phù hợp với mục tiêu hướng dẫn tiêu dùng, điều tiết thu nhập của sắc thuế này, cụ thể là:
- Đối với một số loại xe không tham gia giao thông như: xe ô tô chạy trong phạm vi khu kinh tế cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn hoặc xe không tham gia giao thông, chạy trong phạm vi của nhà máy (tương tự như ô tô chạy trong khu vui chơi, giải trí, thể thao không đăng ký lưu hành và không tham gia giao thông), xe ô tô chở người dưới 24 chỗ được gia cố, bổ sung chức năng theo thiết kế của nhà sản xuất phục vụ cho mục đích an ninh, quốc phòng (xe quét tần số, xe bọc thép phóng thang, xe truyền hình lưu động dùng cho mục đích cơ động,…). Việc thu thuế đối với những loại xe này chưa phù hợp với mục đích của chính sách thuế quy định tại Luật thuế TTĐB (xe ô tô du lịch chở người dưới 24 chỗ ngồi), không đảm bảo công bằng giữa các xe cùng loại và thêm khó khăn, phức tạp trong quá trình thực hiện.
Đối với xe mô tô:
Theo quy định hiện hành mặt hàng xe mô tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. Thực tế hiện nay cho thấy xe 125 phân khối khá phổ biến. Vì vậy, Quy định đối tượng chịu thuế TTĐB đối với xe 125 phân khối là chưa phù hợp, cần thiết phải nghiên cứu xem xét nâng lên 130 phân khối trở lên thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB hoặc phân loại theo thuế suất tuỳ thuộc vào phân khối của xe (quy định này giống như phân loại rượu bia để đánh thuế).
Đối với tàu bay, du thuyền:
Tàu bay sử dụng cho mục đích dân dụng, du thuyền là những mặt hàng cao cấp phục vụ cho các đối tượng có thu nhập cao trong xã hội. Do sự phát triển của nền kinh tế, một bộ phận dân cư có thu nhập cao có khả năng sở hữu tàu bay, du thuyền để phục vụ nhu cầu tiêu dùng riêng cho tổ chức, cá nhân, gia đình vì vậy cần thiết bổ sung vào đối tượng chịu thuế TTĐB. Theo đó, để đảm bảo chức năng điều tiết thu nhập, định hướng tiêu dùng của sắc thuế Luật thuế TTĐB đã bổ sung tàu bay và du thuyền cá nhân vào đối tượng chịu thuế TTĐB (trừ tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch). Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu tàu bay về không phải là doanh nghiệp chuyên kinh doanh vận tải hàng hoá, hành khách mà cũng không phục vụ cho mục đích cá nhân như: Phục vụ an ninh, quốc phòng, phục vụ đào tạo phi công. Do đó, cần thiết phải bổ sung quy định để loại trừ ra khỏi đối tượng chịu thuế TTĐB.
Cần nghiên cứu bổ sung một số hàng hoá, dịch vụ cần định hướng tiêu dùng hoặc cần điều tiết thu nhập của người có thu nhập cao:
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống nhân dân được cải thiện khá nhanh, một số hàng hóa dịch vụ trước đây là xa xỉ thì nay đã trở nên phổ biến như đã nêu trên. Tuy nhiên, bên cạnh đó xuất hiện một số hàng hoá, dịch vụ mới đòi hỏi phải có sự quản lý và định hướng tiêu dùng.
- Các loại hàng hoá, dịch vụ cần định hướng tiêu dùng:
Hiện nay, trò chơi điện tử trực tuyến đang phát triển khá nhanh với đối tượng chơi chủ yếu là thanh thiếu niên còn trong độ tuổi đi học. Theo Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (Vinasa), năm 2010 Việt Nam có khoảng 80 công ty kinh doanh trò chơi điện tử trực tuyến với số khách trung bình 20.000 người một công ty. Doanh thu bình quân 01 khách/năm là 50 đô la Mỹ. Tổng doanh số trò chơi điện tử trực tuyến khoảng 80 triệu đô la Mỹ, tăng 30 triệu về số tuyệt đối và tăng 60% về số tương đối so với năm 2007. Theo báo cáo nghiên cứu của Niko Partners, năm 2015 các doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử của Việt Nam có thể tăng gấp đôi doanh số so với năm 2011, đứng đầu 6 nước Đông Nam Á (gồm Thái Lan, Philippines, Indonexia, Malaysia, Singapore và Việt Nam, có tổng doanh số năm 2011 khoảng 474 triệu đô la Mỹ). Tổng số người chơi trong khu vực là khoảng 100 triệu người.
Với ý nghĩa là trò chơi có tính giải trí, song nếu chơi nhiều quá tới mức "nghiện" thì có thể gây ảnh hưởng không tốt tới sức khoẻ, sinh hoạt của một bộ phận thanh thiếu niên. Vì vậy, về mặt quản lý nhà nước bên cạnh những quy định quản lý về nội dung các trò chơi, cần có chính sách khác để góp phần định hướng tiêu dùng, tránh để việc chơi điện tử trực tuyến quá nhiều ảnh hưởng đến học tập, sinh hoạt và các vấn đề xã hội khác phát sinh.
Do đó đề nghị bổ sung dịch vụ trò chơi điện tử trực tuyến vào Biểu thuế TTĐB. Về thuế suất, bước đầu nên áp dụng từ 30%, tương tự như dịch vụ không khuyến khích là trò chơi có thưởng.
Xét về mặt quản lý, việc thu thuế không phức tạp vì chỉ cần quản lý tập trung qua công ty phát hành trò chơi.
Về thu NSNN, nếu thu thuế TTĐB với thuế suất 30% tính trên số lượng người chơi và doanh thu ước tính năm 2011 là 80 triệu đô la Mỹ thì số thu dự tính là khoảng 24 triệu đô la Mỹ/năm (khoảng 480 tỷ đồng/năm).
Về giá tính thuế;
- Giá tính thuế đối với hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường:
Từ ngày 01/01/2012, Luật thuế bảo vệ môi trường số 57/2010/QH12 có hiệu lực thi hành và thuế bảo vệ môi trường là khoản thuế gián thu (khoản 1 Điều 2 của Luật) tính bằng mức tuyệt đối cộng vào giá bán của hàng hoá chịu thuế do người mua, người nhập khẩu hàng hoá trả.
Tại khoản 1, Điều 3 Luật thuế bảo vệ môi trường có quy định: Xăng, dầu, mỡ nhờn thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường.
Tại Luật thuế TTĐB quy định giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán ra, giá cung ứng dịch vụ chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt và chưa có thuế giá trị gia tăng
Do đó, quy định về giá tính thuế TTĐB đối với hàng hoá chịu thuế bảo vệ môi trường cũng phải sửa lại cho phù hợp.
Về giá tính thuế TTĐB đối với hoạt động kinh doanh sân gôn:
Tại tiết đ, khoản 2 Điều 2 Luật thuế TTĐB quy định: Kinh doanh gôn (gôn) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB.
Quy định như trên dẫn đến một số vướng trong quá trình thực hiện:
- Đối với tiền bán vé sân tập gôn và một số dịch vụ cho thuê xe điện (buggy) và người giúp việc trong khi chơi gôn (caddy): đây là dịch vụ bắt buộc phải có không thể tách rời trong hoạt động kinh doanh gôn và nó được kết cấu trong giá bán vé chơi gôn. Vì vậy, nhằm đảm bảo minh bạch chính sách, tránh gian lận trong việc tính thuế phải sửa đổi quy định về giá tính thuế đối với hoạt động kinh doanh sân gôn bao gồm cả bán vé tập gôn và các dịch vụ kèm theo nêu trên.
Về thuế suất:
- Về thuế suất thuế TTĐB đối với thuốc lá:
Ở Việt Nam, theo kết quả điều tra Điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002, 56,1% nam giới và 1,8% nữ giới Việt Nam hút thuốc lá. Tỷ lệ sử dụng thuốc lá ở nam thanh thiếu niên độ tuổi từ 17 - 24 là khá cao - 43,6%. Tuổi bắt đầu hút thuốc chủ yếu là từ 15-22 tuổi. Ước tính, nếu trẻ em tại Việt Nam bắt đầu hút thuốc với tỷ lệ như bố mẹ trước đây, hơn 5 triệu người dưới tuổi 15 hiện nay sẽ chết sớm do các căn bệnh có liên quan đến thuốc lá. Với khoảng 30% dân số (21 triệu người) ở độ tuổi dưới 15 tuổi, việc phòng chống tác hại thuốc lá tại Việt Nam là rất quan trọng. Tỷ lệ sử dụng thuốc lá cao tồn tại ở những người làm nghề liên quan đến xây dựng, giao thông, phía Nam hút thuốc nhiều hơn phía Bắc, những người nghèo có xu hướng bắt đầu hút thuốc sớm hơn người có thu nhập cao. Do đó, số người tử vong do sử dụng thuốc lá sẽ ngày càng tăng nếu không có những biện pháp can thiệp hữu hiệu. Do đó, tại khoản 2, Điều 4 Luật phòng chống tác hại của thuốc lá có quy định: “Áp dụng chính sách thuế phù hợp để giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá”.
Theo bảng trên, trung bình tỷ trọng thuế đối với thuốc lá chiếm khoảng 44,9% giá bán của nhà sản xuất, chiếm khoảng 41% giá bán lẻ trên thị trường (với tỷ suất lợi nhuận của khâu thương mại ước tính 10%). Tỷ trọng này thấp hơn nhiều so với mức khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới về tỷ trọng thuế trong giá bán lẻ ở Việt Nam nên ở mức là từ 66% đến 80%. Các nước trong khu vực ASEAN cũng có mức tỷ trọng thuế trên giá bán thuốc lá cao hơn Việt Nam, như Malaysia 54%, Singapore 69%, Thái Lan 70%; Singapore là 69%; Indonesia: 52%; Myanmar: 50%; Malaysia: 45%; Việt Nam đứng thứ sáu với tỷ lệ 45%.
Như vậy, tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ thuốc lá còn thấp so với các nước trong khu vực, theo khuyến nghị của Tổ chức y tế thế giới Việt Nam cần tiếp tục tăng tỷ lệ thuế trong giá bán lẻ lên mức 65%. Do đó, để phù hợp với thông lệ quốc tế và Luật phòng chống tác hại của thuốc lá cần thiết từng bước tăng thuế TTĐB đối với thuốc
Về khấu trừ, hoàn thuế:
Luật thuế hiện hành đang quy định: Người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng nguyên liệu đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt nếu có chứng từ hợp pháp thì được khấu trừ số thuế đã nộp đối với nguyên liệu khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp ở khâu sản xuất.
Việc quy định người nộp thuế sản xuất hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB được khấu trừ số thuế TTĐB đã nộp dẫn đến cách hiểu khác nhau là chỉ áp dụng khấu trừ đối với nguyên liệu chịu thuế TTĐB nhập khẩu mà không khấu trừ đối với nguyên liệu chịu thuế TTĐB mua của các doanh nghiệp trong nước từ đó gây bất lợi cho doanh nghiệp trong nước vì thuế TTĐB của nguyên liệu sản xuất phải tính vào giá thành sản phẩm. Để đảm bảo công giữa nguyên liệu sản xuất trong nước và nguyên liệu nhập khẩu, đồng thời hạ giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với doanh nghiệp nước ngoài cần thiết phải quy định rõ trường hợp mua nguyên liệu chịu thuế TTĐB trong nước về sản xuất hàng chịu thuế TTĐB để xuất khẩu hoặc bán trong nước thì được khấu trừ tương ứng với số thuế TTĐB đã nộp của nguyên liệu sản xuất hàng hóa bán ra.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh:
Luật sửa đổi quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, thuế suất, khấu trừ thuế.
Dự kiến các nguồn lực
- Nguồn kinh phí: từ ngân sách nhà nước cấp; hỗ trợ từ các dự án hợp tác – hỗ trợ của các nước, tổ chức trong và ngoài nước (nếu có)
- Các điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo: sử dụng nguồn lực của Bộ Tài chính.
Dự kiến lộ trình xây dựng Luật: Trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại cùng một kỳ họp (tháng 10/2014).
Dự kiến các nguồn lực
- Nguồn kinh phí: từ ngân sách nhà nước cấp; hỗ trợ từ các dự án hợp tác – hỗ trợ của các nước, tổ chức trong và ngoài nước (nếu có)
- Các điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo: sử dụng nguồn lực của Bộ Tài chính.
Dự kiến lộ trình xây dựng Luật:
Trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ 8.
Sự cần thiết ban hành
Ngày 17/6/2003, Quốc hội đã thông qua Luật kế toán, đây là văn bản pháp lý cao nhất và toàn diện nhất cho việc thực hiện công tác kế toán. Qua gần 8 năm triển khai áp dụng, Luật kế toán đã bộc lộ một số nội dung không phù hợp cần sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển. Đặc biệt để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, tạo nền tảng cho thị trưởng vốn, thị trường tài chính phát triển lành mạnh, Luật Kế toán phải quy định thêm nguyên tắc giá trị thị trường cho một số loại tài sản tài chính để phù hợp với thông lệ và Chuẩn mực kế toán quốc tế cũng như thực trạng của công tác quản trị, điều hành doanh nghiệp của Việt Nam. Ngoài ra, đáp ứng các yêu cầu mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, Luật Kế toán cần có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay. Cụ thể:
- Về việc ghi nhận giá trị tài sản theo giá trị hợp lý: hiện nay thị trường tài chính và thị trường vốn phát triển mạnh, phát sinh nhu cầu cần thiết phải đánh giá giá trị tài sản của doanh nghiệp theo giá trị hợp lý; Ngoài ra, theo chuẩn mực kế toán quốc tế, giá trị tài sản cũng được ghi nhận theo giá gốc và giá trị thị trường để phù hợp với thực trạng quản trị và điều hành doanh nghiệp trong điều kiện mới. Vì vậy, nguyên tắc xác định giá trị tài sản cần được nghiên cứu, xem xét cho phù hợp với thực tế.
- Về bổ sung quy định liên quan đến tỷ giá ngoại tệ: Các quy định hiện hành chưa quy định rõ một số nội dung liên quan đến tỷ giá ngoại tệ hoặc phù hợp với thực tế, như nguồn tham chiếu để quy đổi các loại ngoại tệ khác đồng Việt Nam, tính phù hợp của việc áp dụng tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố khi lập báo cáo tài chính. Do đó, cần thiết bổ sung các quy định thống nhất về tỷ giá ngoại tệ.
- Về hoàn thiện và bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm: Luật Kế toán đã quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm, ví dụ: giả mạo, khai man hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man tẩy xoá tài liệu kế toán… Tuy nhiên, hiện nay có một số hành vi vi phạm khác chưa được quy định như thuê tổ chức, cá nhân hành nghề kế toán không đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Để có cơ sở xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực kế toán, cần thiết phải nghiên cứu, bổ sung thêm các hành vi bị nghiêm cấm.
- Về hoàn thiện các quy định phù hợp với điều kiện công nghệ tin học kế toán: Để hoàn thiện các quy định về hình thức ghi sổ kế toán phù hợp với thực tế hiện nay thì cần thiết phải sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan đến công nghệ tin học trong lĩnh vực kế toán.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Luật quy định về công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán và hoạt động nghề nghiệp kế toán.
Đối tượng áp dụng: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; Đơn vị sự nghiệp, tổ chức không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam; chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; Hợp tác xã; Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; Người làm kế toán, người khác có liên quan đến kế toán.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Nội dung chính
Sửa đổi, bổ sung Điều 2 về đối tượng áp dụng của Luật Kế toán là các ban quản lý dự án đầu tư, các chi nhánh của doanh nghiệp trong nước. Hiện nay trong điều 2 chỉ quy định đối với chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài, chi nhánh trong nước chưa có cơ sở pháp lý quy định.
Sửa đổi Điều 7 (Nguyên tắc kế toán): khoản 1 điều 7 quy định Giá trị tài sản được tính theo giá gốc. Tuy nhiên, hiện nay do thị trường tài chính và thị trường vốn phát triển mạnh mẽ, đã phát sinh nhiều loại công cụ tài chính như cổ phiếu và trái phiếu được niêm yết trên thị trường, trái phiếu chuyển đổi… hoặc những tài sản như TSCĐ và một số tài sản khác theo thông lệ và Chuẩn mực kế toán quốc tế được đánh giá theo giá trị thị trường. Vì vậy, Luật kế toán cần bổ sung nguyên tắc ghi nhận giá trị tài sản theo giá trị thị trường để đảm bảo phù hợp với thực trạng quản trị và điều hành doanh nghiệp trong điều kiện mới
Điều 11 (Đơn vị tính sử dụng trong kế toán) do Những quy định hiện hành bộc lộ một số bất cập như sau: Ngân hàng Nhà nước chỉ công bố tỷ giá của một số loại ngoại tệ và chỉ công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng của đồng Đô la Mỹ. Tuy nhiên, chưa quy định nguồn tham chiếu để quy đổi các loại ngoại tệ khác ra đồng Việt Nam. Vì vậy Luật cần bổ sung giao Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về việc này. Hiện nay tỷ giá bình quân liên ngân hàng luôn thấp hợp tỷ giá giao dịch thực tế. Vì vậy, cần xem xét lại việc áp dụng tỷ giá Bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố để đảm bảo báo cáo tài chính phản ánh trung thực tình hình tài chính của đơn vị kế toán tại thời điểm báo cáo.
Điều 12 (chữ viết, chữ số sử dụng trong kế toán): Luật kế toán quy định sau chữ số hàng nghìn, triệu, tỷ… đặt dấu chấm. chữ số sau chữa số hàng đơn vị ghi dấu phảy. Quy định chặt này hiện gây ra nhiều khó khăn không đáng có cho một số đơn vị kế toán hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính hoặc các đơn vị sử dụng các phần mềm nước ngoài do thông lệ quốc tế sau chữ số hàng ngìn, triệu, tỷ…là dấu phảy, sau chữ số hàng đơn vị là dấu chấm. Vì vậy, cần nghiên cứu để sửa đổi theo hướng linh hoạt hơn quy định của Luật hiện nay.
Điều 14 (các hành vi bị nghiêm cấm): Hiện nay do nghề nghiệp kế toán đã phát triển nên cần bổ sung vào Luật về một số hành vi bị nghiêm cấm như vi phạm quy định về hành nghề kế toán, cho thuê, cho mượn chứng chỉ hành nghề kế toán, ghi chép các giao dịch với các bên liên quan, ……
Điều 29 (báo cáo tài chính): Điều 29 quy định báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động kinh doanh gồm: bảng Cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính (Phần Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu được gộp chung trong thuyết minh báo cáo tài chính). Tuy nhiên, theo thông lệ và CMKT quốc tế, báo cáo biến động vốn chủ sở hữu là một báo cáo rất quan trọng và được trình bày tách biệt với thuyết minh báo cáo tài chính. Vì vậy, để phù hợp với thông lệ và CMKT quốc tế trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, rộng của Việt Nam, cần tách báo cáo biến động vốn chủ sở hữu khỏi thuyết minh báo cáo tài chính thành một báo cáo riêng trong hệ thống báo cáo tài chính.
Điều 51- Bổ sung quy định những người không được làm kế toán
Bổ sung một điều quy định về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Về cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán. Hiện nay Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán - Bộ Tài chính là đơn vị tham mưu cho Bộ trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán. Tuy nhiên Vụ mới chủ yếu thực hiện được chức năng hoạch định chế độ chính sách, chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành chế độ kế toán - kiểm toán chưa thực hiện được. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện tốt chức năng quan lý Nhà nước, cần nâng cấp Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán lên thành Cục quản lý giám sát kế toán - kiểm toán. Vì vậy, Luật kế toán cần bổ sung quy định này.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Tài chính. Cơ quan phối hợp là Bộ Tư pháp và các bộ, ngành có liên quan.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Dự kiến đưa dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật kế toán trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết sửa đổi Luật Thống kê
Luật Thống kê được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2004.
Trong 7 năm qua, Luật Thống kê đã tạo ra môi trường pháp lý cơ bản và quan trọng cho hoạt động thống kê ở nước ta, giúp lĩnh vực này khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội thông qua việcthực hiện ngày càng tốt chức năng cung cấp thông tin thống kê một cách trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời phục vụ các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài. Có thể khẳng định, thống kê ngày càng trở thành một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng của Đảng và Chính phủ và điều này có phần đóng góp không nhỏ của Luật Thống kê.
Tuy nhiên, cũng qua 7 năm thi hành, Luật Thống kê cũng đã bộc lộ những hạn chế như sau:
(1) Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng chưa đầy đủ:
- Luật Thống kê chưa điều chỉnh hoạt động thống kê do các tổ chức và cá nhân ngoài hệ thống tổ chức thống kê nhà nước tiến hành.
- Luật chưa bao hàm các đối tượng áp dụng mới hình thành, bao gồm Tập đoàn kinh tế, công ty mẹ-con nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, trang trại, tổ sản xuất...
- Luật Thống kê không quy định tổ chức bộ máy thống kê ở Sở, ngành trực thuộc UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc hệ thống thống kê nhà nước.
(2) Một số quy định của Luật không phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn và môi trường pháp lý chung ở nước ta hiện nay:
- Một số quy định của Luật Thống kê và Nghị định số 40/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê mà có liên quan đến vị trí pháp lý của hệ thống thống kê tập trung (Tổng cục Thống kê - sau đây viết tắt là TCTK) không còn phù hợp sau khi TCTK được chuyển vào Bộ KH&ĐT theo quy định tại Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 04/01/2007. đó là:
+ Quy định về thẩm quyền quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của hệ thống thống kê tập trung;
+ Quy đinh về thẩm quyền công bố thông tin của Tổng cục trưởng TCTK;
+ Quy định về cơ quan thống kê trung ương giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thuộc nội dung quản lý nhà nước về thống kê;
- Từ điểm a nêu trên dẫn đến nhiều quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thống kê, đặc biệt quy định về thẩm quyền của Chính phủ, không phù hợp với điều kiện thực tiễn và vị trí pháp lý hiện tại của TCTK, đó là:
+ Quy định về cơ quan quy định điều tra thống kê của các tổ chức, cá nhân ngoài hệ thống tổ chức thống kê nhà nước.
+ Quy định về thẩm quyền ban hành các bảng phân loại thống kê.
+ Quy định về cơ quan quy định việc tiến hành các cuộc điều tra ngoài chương trình điều tra thống kê quốc gia.
+ Quy định về cơ quan quy định cụ thể về thời hạn, phương tiện và phạm vi công bố thông tin thống kê.
+ Quy định về thẩm quyền quyết định phương án điều tra đối với các cuộc Tổng điều tra thống kê do Thủ tướng quyết định.
(3) Một số quy định của Luật không đầy đủ, không rõ ràng hoặc còn chồng chéo:
- Luật không quy định về thẩm quyền của TCTK trong việc thẩm định về chuyên môn, nghiệp vụ thống kê đối với các bảng phân loại thống kê do các Bộ, ngành ban hành.
- Quy định về cơ quan quản lý nhà nước về thống kê tại địa phương vừa giao cho Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vừa giao cho TCTK thực hiện thông qua hệ thống dọc của cơ quan này.
- Quy định về kinh phí thực hiện các cuộc điều tra thống kê vừa không cụ thể (không nêu rõ loại điều tra thống kê chỉ thuộc Chương trình điều tra thống kê quốc gia hay bao gồm cả những cuộc điều tra thống kê ngoài Chương trình điều tra thống kê quốc gia), vừa không bao hàm nguồn kinh phí do các tổ chức nước ngoài tài trợ ngay cả đối với một số điều tra thống kê thuộc Chương trình điều tra thống kê quốc gia (như Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cũng sử dụng một phần đáng kể kinh phí do UNFPA tài trợ).
- Quy định về thẩm quyền công bố thông tin thống kê mới chỉ giới hạn đối với Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, còn thiếu đối với các hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và hệ thống chỉ tiêu thống kê bộ, ngành.
- Quy định về thống kê xã, phường không nêu rõ thống kê xã, phường, thị trấn là tổ chức hay là nhiệm vụ.
Như vậy, việc sửa đổi Luật Thống kê và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật là một việc làm rất cần thiết. Trong Đề án Đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê (ban hành kèm Quyết định số 312/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ), tại Mục V khoản 2 điểm b đã quy định Bộ Kế hoạch và Đầu tư (sau đây viết tắt là Bộ KH&ĐT) "trong năm 2010, đánh giá việc thực hiện Luật Thống kê và các văn bản pháp lý có liên quan, trên cơ sở đề nghị cấp có thẩm quyền bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản pháp lý về thống kê".
Mục tiêu sửa đổi Luật Thống kê
Thực tế nêu trên đã và đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của Luật Thống kê nhằm:
- Tiếp tục cải thiện môi trường thống kê; phù hợp với định hướng nêu tại Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030: “Thống kê Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở hoàn thiện hệ thống tổ chức, bảo đảm đủ số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng đồng bộ các phương pháp thống kê tiên tiến và tăng cường sử dụng công nghệ hiện đại; hình thành hệ thống thông tin thống kê quốc gia tập trung, thống nhất, thông suốt và hiệu quả với số lượng thông tin ngày càng đầy đủ và chất lượng thông tin ngày càng cao, phục vụ việc hoạch định chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp cũng như nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân khác trong nước và ngoài nước; phấn đấu đến năm 2020 Thống kê Việt Nam đạt trình độ khá và năm 2030 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
- Hoàn thiện các quy định của Luật nhằm giải quyết những khó khăn trong hoạt động thống kê.
- Nâng cao hiệu quả và hiệu lực công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động thống kê, đồng thời hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý thống kê đảm bảo thực hiện có hiệu qủa công tác quản lý nhà nước, tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát và phối hợp giữa các cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương.
Nội dung sửa đổi
Căn cứ kết quả rà soát và các mục tiêu, quan điểm nêu trên, Luật Thống kê dự kiến hoàn thiện theo hướng sau:
- Mở rộng phạm vi điều chỉnh (gồm cả hoạt động thống kê do các tổ chức và cá nhân ngoài hệ thống tổ chức thống kê nhà nước) và đối tượng áp dụng, nhất là làm rõ đối tượng cung cấp thông tin là các cơ quan trong bộ máy nhà nước (lập pháp, tư pháp, hành pháp), hoặc những loại hình kinh tế mới hình thành (tập đoàn kinh tế, công ty mẹ - con nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, trang trại, tổ sản xuất…)
- Sửa đổi, bổ sung cả về kết cấu cũng như những nội dung không phù hợp liên quan đến phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng hoạt động thống kê, tổ chức thống kê, quản lý nhà nước về thống kê, thanh tra thống kê.
- Xác định rõ và tiếp tục nâng cao vị trí pháp lý của hệ thống tổ chức thống kê tập trung, tăng cường tính độc lập, khách quan trong việc quản lý nhà nước về công tác thống kê
- Bổ sung một số quy định và làm rõ hơn về thẩm quyền của cơ quan thống kê Trung ương trong việc thẩm định về chuyên môn nghiệp vụ; Về quản lý nhà nước phải làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về thống kê trên địa bàn giữa Bộ, ngành được giao nhiệm vụ thống kê với UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Bổ sung các quy định liên quan đến cơ chế điều phối thông tin thống kê giữa cơ quan thống kê Trung ương với các Bộ, ngành, các vấn đề về phát triển công nghệ thông tin trong công tác thống kê…
- Tăng cường vai trò công nghệ thông tin cho hoạt động thống kê:Vai trò của CNTT & TT ngày càng lớn và đặc biệt trong tất cả các khâu của qui trình sản xuất thống kê cho nên cần quy định một chương về Ứng dụng CNTT & TT
- Bổ sung hoạt động dịch vụ thống kê: Xác định bản thân hoạt động thống kê nhà nước là dịch vụ công vì nguồn kinh phí hoạt động là ngân sách nhà nước.
Dự kiến kinh phí bảo đảm việc soạn thảo
Do ngân sách nhà nước cấp và hỗ trợ cho việc xây dựng luật theo quy định hiện hành.
Dự kiến nhân lực soạn thảo
Ban soạn thảo dự án Luật Thống kê sửa đổi và Tổ biên tập do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thành lập với sự tham gia của các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan.
Dự kiến thời gian trình dự án Luật: trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết:
Chính sách tiền lương tối thiểu đóng vai trò hết sức quan trọng để bảo vệ người lao động trong kinh tế thị trường, là công cụ quan trọng nhất trong chính sách tiền lương để Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô về tiền lương và điều tiết quan hệ cung - cầu lao động, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, cần thiết phải xây dựng và ban hành Luật Tiền lương tối thiểu, cụ thể:
a) Trong các chủ trương, quan điểm của Đảng đều khẳng định việc luật hóa chính sách tiền lương tối thiểu nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động theo kinh tế thị trường định hướng XHCN, cụ thể:
- Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó quy định “Nghiên cứu ban hành Luật Tiền lương tối thiểu”.
- Kết luận số 23-KL/TW ngày 8/4/2008 của Bộ Chính trị về những công việc cần cụ thể hoá để thực hiện các Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X), phân công chỉ đạo chuẩn bị và thời gian hoàn thành các đề án, trong đó có việc nghiên cứu xây dựng Luật Tiền lương tối thiểu.
- Kết luận số 20-KL/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X thông qua Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2008 - 2012, trong đó xác định nhiệm vụ xây dựng và ban hành Luật Tiền lương tối thiểu.
b) Về quy định của pháp luật hiện hành, chính sách tiền lương tối thiểu ở Việt Nam bước đầu đã được luật hoá trong Bộ Luật Lao động. Tuy nhiên, nội dung về lương tối thiểu hiện nay mới chỉ được quy định bằng một điều trong Bộ Luật Lao động (Điều 56). Toàn bộ phạm vi, đối tượng áp dụng về lương tối thiểu chung, lương tối thiểu vùng, lương tối thiểu ngành; tiêu chí, căn cứ, cơ chế hình thành, xác định mức lương tối thiểu mới quy định rất chung chung, chưa được luật hóa cụ thể, đầy đủ, rõ ràng mà chủ yếu được thể hiện bằng các văn bản dưới luật, dẫn đến việc thực hiện chưa thống nhất, đồng bộ, linh hoạt theo nguyên tắc thị trường; mức lương tối thiểu thấp, phân biệt theo loại hình doanh nghiệp tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng; vấn đề thương lượng, thỏa thuận tiền lương và giám sát thực hiện, vai trò của tiền lương tối thiểu trong việc bảo vệ người lao động, nhất là lao động yếu thế còn hạn chế.
c) Trong quá trình triển khai thực hiện đang đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với chính sách tiền lương tối thiểu:
- Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào (với tổng dân số năm 2010 khoảng 86,8 triệu người), tuy nhiên chất lượng lao động còn thấp (lao động được đào tạo nghề là 26,6%), số lượng, tỷ trọng lao động hưởng mức lương tối thiểu hoặc cận mức lương tối thiểu vẫn chiếm số lượng, tỷ trọng cao. Do mức lương tối thiểu hiện nay vẫn còn thấp, chưa được điều chỉnh linh hoạt, dẫn đến đời sống của người lao động nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn.
- Hiện nay, thị trường lao động ở Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể, số lượng doanh nghiệp nhiều, ngành nghề đa dạng, nhưng chủ yếu vẫn là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động có trình độ tay nghề thấp; Tình trạng phát triển không đồng đều của thị trường lao động giữa các vùng, xu hướng dịch chuyển lao động từ nông thôn đến thành thị, từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực khác cũng tạo thêm áp lực đối với cầu về lao động... đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách tiền lương tối thiểu phù hợp để bảo vệ nhóm những người lao động yếu thế này khỏi bị trả lương thấp.
- Trong kinh tế thị trường, tiền lương do hai bên thỏa thuận, nhưng người lao động phải được chia sẻ những rủi ro hoặc hưởng thêm lợi ích từ việc tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, năng lực thỏa thuận của người lao động, vai trò của công đoàn cơ sở còn hạn chế, sức ép việc làm lớn, cho nên tiền lương phụ thuộc chủ yếu vào sự ấn định của doanh nghiệp. Xu hướng của các doanh nghiệp là ép tiền công của người lao động. Người lao động phần lớn không được doanh nghiệp chia sẻ khi giá cả tăng, lạm phát tăng cao hoặc được chia sẻ các lợi ích từ việc tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Về bản chất đây là sự bóc lột sức lao động của người lao động.
Để đáp ứng yêu cầu thực tế bảo vệ người lao động khỏi bị trả lương thấp, quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc chia sẻ những rủi ro hoặc chia sẻ lợi ích từ việc tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì phải luật hóa đầy đủ trong chính sách tiền lương tối thiểu.
d) Theo Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) mà Việt Nam đã ký kết (Công ước số 131) và kinh nghiệm của các nước trên thế giới (khoảng trên 90% số quốc gia có quy định tiền lương tối thiểu, trong đó gần 70 quốc gia là thành viên của ILO có Luật Tiền lương tối thiểu) thì mức lương tối thiểu phải đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động; các nội dung của chính sách tiền lương tối thiểu phải được thể chế cụ thể, rõ ràng, minh bạch về: căn cứ xác định; tiêu chí xác định và điều chỉnh; tần xuất/thời gian điều chỉnh; tổ chức định chế, xác định, điều chỉnh, công bố mức lương tối thiểu; quản lý nhà nước, kiểm tra, giám giát, đánh giá định kỳ để điều chỉnh mức lương tối thiểu.
Từ những căn cứ nêu trên, Việt Nam cần thiết phải xây dựng Luật Tiền lương tối thiểu để phát huy vai trò của tiền lương tối thiểu trở thành lưới an toàn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động, ngăn chặn sự nghèo đói, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, củng cố và phát triển thị trường lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc tách riêng thành Luật Tiền lương tối thiểu sẽ không ảnh hưởng đến nội dung của Bộ Luật Lao động (cũng tương tự như việc tách riêng Luật Bảo hiểm xã hội, Luật đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài). Trong Bộ luật lao động vẫn có một số Điều, khoản quy định những vấn đề/nguyên tắc chung về chính sách tiền lương tối thiểu, còn nội dung cụ thể, chi tiết được thể hiện trong Luật Tiền lương tối thiểu (hiện nay dự thảo Bộ Luật Lao động sửa đổi đang soạn thảo theo hướng này).
Quan điểm chỉ đạo soạn thảo Luật Tiền lương tối thiểu:
a) Việc soạn thảo và ban hành Luật Tiền tiền lương tối thiểu là rất cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý, tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động, tiền lương với giải quyết việc làm; bảo vệ quyền lợi của người lao động; tạo sự ổn định và thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của doanh nghiệp; giải quyết hài hoà về lợi ích của các bên trong quan hệ lao động; tăng sức cạnh tranh trên thị trường; góp phần củng cố và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
b) Bảo đảm tính mềm dẻo, linh hoạt của chính sách tiền lương phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiền lương tối thiểu phải trở thành lưới an toàn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động, ngăn chặn sự nghèo đói, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, ngăn ngừa, hạn chế tranh chấp lao động và đình công, củng cố và phát triển thị trường lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục tiêu của chính sách tiền lương tối thiểu:
Xây dựng Luật Tiền lương tối thiểu nhằm thể chế hóa cụ thể, rõ ràng, minh bạch chính sách tiền lương tối thiểu, bao gồm: căn cứ xác định; tiêu chí xác định và điều chỉnh; tần xuất/thời gian điều chỉnh; tổ chức định chế, xác định, điều chỉnh, công bố mức lương tối thiểu; quản lý nhà nước, kiểm tra, giám giát, đánh giá định kỳ để điều chỉnh mức lương tối thiểu, điều hành theo nguyên tắc kinh tế thị trường nhằm ngăn ngừa sự bóc lột và đói nghèo, bảo vệ người lao động có tiền lương thấp bảo đảm được mức sống tối thiểu; tạo động lực cho người lao động trong quá trình lao động và được chia sẻ một phần lợi ích từ tăng trưởng kinh tế.
Phạm vi, đối tượng điều chỉnh:
- Luật Tiền lương tối thiểu điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động trong việc thực hiện mức lương tối thiểu; quy định vai trò, chức năng của tiền lương tối thiểu, căn cứ, nguyên tắc xác định, cơ chế áp dụng, cơ chế điều chỉnh, quản lý nhà nước về tiền lương tối thiểu.
- Đối tượng áp dụng Luật tiền lương tối thiểu là người lao động làm việc theo hợp đồng lao động theo quy định của Bộ Luật Lao động và các công ty, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân theo phạm vi điều chỉnh của Luật.
Nội dung cơ bản dự kiến trong Luật Tiền lương tối thiểu:
a) Phần I: Những quy định chung:
- Luật hoá khái niệm, loại hình tiền lương tối thiểu.
- Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật Tiền lương tối thiểu.
- Đối tượng, phạm vi không áp dụng
b) Phần II: Nội dung chính của Luật:
- Quy định các căn cứ xác định tiền lương tối thiểu.
- Quy định các tiêu chí xác định và điều chỉnh tiền lương tối thiểu.
- Quy định tần xuất/thời gian điều chỉnh tiền lương tối thiểu.
- Quy định tổ chức định chế, xác định, điều chỉnh tiền lương tối thiểu.
- Quy định thời gian công bố/áp dụng mức lương tối thiểu.
- Quy định về đánh giá định kỳ để điều chỉnh mức lương tối thiểu.
c) Phần III: Quy định nội dung quản lý nhà nước về tiền lương tối thiểu:
- Quy định về vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, đại diện người sử dụng lao động, đại diện người lao động trong việc xác định và thực hiện mức lương tối thiểu.
- Quy định thành phần, chức năng, quyền hạn của Hội đồng Quốc gia về tiền lương;
- Quy định các chế tài xử lý vi phạm và việc thanh tra, kiểm tra và giám sát thực hiện Luật Tiền lương tối thiểu.
d) Phần IV: Điều khoản thi hành:
Dự báo tác động kinh tế xã hội:
- Nâng cao tính pháp lý, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động, nhất là những người có mức lương thấp để bảo đảm mức sống tối thiểu; xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong trả lương; giảm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp; tác động đến người sử dụng lao động trả lương cao hơn khi có tăng trưởng kinh tế; góp phần ngăn chặn đói nghèo, thúc đẩy sự phát triển thị trường lao động.
- Tạo hành lang pháp lý bình đẳng trong chính sách tiền lương của Nhà nước, tạo sự ổn định và thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của doanh nghiệp; giải quyết hài hoà về lợi ích của các bên trong quan hệ lao động; tăng sức cạnh tranh trên thị trường; góp phần củng cố và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
- Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Nhà nước, đại diện người sử dụng lao động, đại diện người lao động trong xác định và điều chỉnh tiền lương tối thiểu phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, làm cơ sở xây dựng quan hệ hợp tác ba bên và quan hệ lao động lành mạnh, ngăn ngừa và hạn chế tranh chấp lao động và đình công.
Chủ trì soạn thảo và dự kiến nguồn lực:
a) Về nhân lực:
- Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Tiền lương tối thiểu.
- Các cơ quan tham gia việc soạn thảo Luật Tiền lương tối thiểu, gồm: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các sở ban ngành của một số tỉnh, thành phố.
b) Về tài chính:
Nguồn kinh phí để xây dựng Luật từ ngân sách nhà nước và các nguồn huy động huy động hợp pháp khác theo quy định.
Kế hoạch, tiến độ xây dựng:
Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết ban hành Luật Quản lý ngoại thương
Trong suốt quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ năm 1995, Việt Nam đã liên tục cải thiện chính sách, công cụ pháp luật để thực hiện quản lý ngoại thương phù hợp với điều kiện hội nhập. Sau khi gia nhập WTO, chúng ta vẫn đang nỗ lực hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước về thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế để tận dụng tối đa cơ hội hội nhập đồng thời hạn chế những bất lợi về vị thế và năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, mặc dù hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra vô cùng sôi động và có đóng góp quyết định cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước cũng như công tác quản lý nhà nước về ngoại thương đã vừa chặt chẽ hơn, vừa thông suốt hơn, minh bạch hơn, hiệu quả hơn, song thực tiễn cho thấy chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực này còn nhiều điểm chưa hoàn chỉnh, cần hoàn thiện, hệ thống hóa, cụ thể:
- Hệ thống pháp luật hiện hành chưa thể hiện rõ ràng định hướng của Nhà nước đối với công tác quản lý nhà nước về ngoại thương.
- Hệ thống pháp luật về quản lý ngoại thương hàng hóa còn nhiều bất cập: Chưa tập trung, tản mát và chủ yếu tồn tại ở hình thức văn bản dưới luật dẫn đến sự thiếu minh bạch, gắn kết của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương.
- Bối cảnh quốc tế đã có nhiều thay đổi cơ bản, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước về ngoại thương.
- Công tác quản lý nhà nước về ngoại thương trong bối cảnh mới còn thiếu nhiều công cụ điều tiết quan trọng, được phép theo cam kết quốc tế chưa được thể chế hóa, các công cụ hiện hành còn chưa bao quát, hiệu quả chưa cao cần được hoàn thiện, tăng cường.
Do đó, giải pháp để giải quyết tất cả các vấn đề nêu trên là cần phải pháp điển hóa bằng cách đưa ra một đạo luật (Luật Quản lý ngoại thương) thống nhất điều chỉnh các nội dung cơ bản trong lĩnh vực ngoại thương đảm bảo tính ổn định, minh bạch, cho phép tạo công cụ và sử dụng công cụ chính sách một cách có hiệu quả.
Mục tiêu, nguyên tắc xây dựng Luật
- Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, phát triển hoạt động ngoại thương.
- Phải là đạo luật chủ đạo điều chỉnh hoạt động quản lý ngoại thương thông qua việc đảm bảo quy định bao quát tất cả công cụ quản lý ngoại thương; quy định cơ chế mở cho việc sử dụng, ban hành các công cụ quản lý ngoại thương mới trong tương lai để đảm bảo tính linh hoạt trong việc xây dựng chiến lược ngoại thương và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
- Cân bằng lợi ích giữa hoạt động quản lý nhà nước về ngoại thương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động ngoại thương của thương nhân.
- Tập trung hoàn thiện cơ chế điều hành, quản lý hoạt động ngoại thương thông qua chế định cơ quan quản lý nhà nước về ngoại thương và cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến ngoại thương.
- Hoàn thiện, bổ sung các quy định liên quan đến công cụ xúc tiến thương mại mới để nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến ngoại thương.
- Hệ thống hóa, pháp điển hóa đến mức có thể các quy định pháp luật về quản lý hoạt động ngoại thương hiện hành, nội luật hóa các điều ước quốc tế trong chừng mực nhất định.
Tên gọi, bố cục và những nội dung cơ bản của Luật
Về tên gọi của Luật
Tại Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2011 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII và Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày 17 tháng 02 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, tên của Dự Luật đã được dự kiến là “Luật Quản lý ngoại thương”. Tên gọi này xuất phát từ lý do sau:
Hiện nay, các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa thương nhân với thương nhân trong thương mại quốc tế (quan hệ tư) và các quy định điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan nhà nước với thương nhân (quan hệ công) còn tồn tại đồng thời trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật là Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, với vai trò là một đạo luật quan trọng, có giá trị pháp lý cao nhất trong việc điều chỉnh hoạt động ngoại thương nhưng những quy định của Luật Thương mại mới chỉ chủ yếu đề cập đến các quan hệ tư trong khi quan hệ công – yếu tố quản lý nhà nước lại được đề cập rất mờ nhạt và chủ yếu chỉ mang tính nguyên tắc.
Do đó, tên của Dự Luật được đặt tên là Luật Quản lý ngoại thương với ý nghĩa rằng đây là đạo luật chỉ đề cập đến khía cạnh quản lý nhà nước trong việc sử dụng các công cụ điều tiết, kiểm soát ngoại thương, sự tập trung, đầu mối và công tác phối hợp, phân cấp giữa các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến ngoại thương,… mà không điều chỉnh đối với các hoạt động ngoại thương giữa thương nhân với thương nhân.
Về bố cục của Luật
Dự thảo Luật Quản lý ngoại thương dự kiến bao gồm 9 Chương, 68 Điều, cụ thể như sau:
- Chương I – Những quy định chung: gồm 5 Điều (từ Điều 1 đến Điều 5). Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương, nguyên tắc áp dụng luật.
- Chương II – Quản lý các hoạt động ngoại thương: gồm 24 Điều (từ Điều 6 đến Điều 29). Chương này có 7 Mục với các nội dung như sau:
+ Mục 1: Quy định chung
+ Mục 2: Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
+ Mục 3: Các phương thức ngoại thương khác
+ Mục 4: Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không vì mục đích thương mại
+ Mục 5: Quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đối với khu vực hải quan riêng
+ Mục 6: Hoạt động ngoại thương đối với các nước có chung đường biên giới
+ Mục 7: Cấp giấy chứng nhận xuất xứ.
- Chương III – Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương: gồm 4 Điều (từ Điều 30 đến Điều 33). Chương này quy định về các trường hợp áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp đối với hàng hóa, các biện pháp kiểm soát khẩn cấp, nguyên tắc áp dụng và thẩm quyền áp dụng các biện pháp kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương.
- Chương IV – Điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại: gồm 14 Điều (từ Điều 34 đến Điều 42). Chương này quy định về các biện pháp phòng vệ thương mại, nguyên tắc, điều kiện áp dụng, nội dung điều tra, cơ quan điều tra, Hội đồng xử lý vụ việc phòng vệ thương mại,…
- Chương V – Quản lý chất lượng hàng hóa, vệ sinh dịch tễ, an toàn thực phẩm xuất khẩu, nhập khẩu: gồm 9 Điều (từ Điều 43 đến Điều 51). Chương này gồm 2 Mục với các nội dung sau đây:
+ Mục 1: Quản lý chất lượng hàng hóa
+ Mục 2: Kiểm dịch động vật, thực vật xuất khẩu, nhập khẩu
- Chương VI – Xúc tiến ngoại thương: gồm 9 Điều (từ Điều 52 đến Điều 60). Chương này gồm 2 Mục với các nội dung sau đây:
+ Mục 1: Chính sách xúc tiến ngoại thương
+ Mục 2: Các biện pháp xúc tiến ngoại thương.
- Chương VII – Trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương: gồm 2 Điều (Điều 61 và Điều 62). Chương này quy định về nội dung quản lý nhà nước về ngoại thương và trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại thương.
- Chương VIII – Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm: gồm 4 Điều (từ Điều 63đến Điều 66). Chương này quy định về nguyên tắc tham gia giải quyết tranh chấp về ngoại thương của cơ quan quản lý nhà nước, các hành vi bị cấm của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương, xử lý vi phạm pháp luật.
- Chương IX – Điều khoản thi hành: gồm 2 Điều (Điều 67 và Điều 68). Chương này quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp.
Những nội dung cơ bản của Luật
Chương I - Những quy định chung
Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, các nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương và áp dụng Luật. Trong đó, các nội dung có sự thay đổi căn bản đối với quy định của pháp luật hiện hành như sau:
a) Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Do dự án Luật Quản lý ngoại thương được xây dựng theo mô hình luật công nên dự thảo Luật điều chỉnh chủ yếu: (1) Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương bao gồm các công cụ, biện pháp quản lý, điều hành hoạt động ngoại thương (hoạt động thông thường, khẩn cấp, phòng vệ thương mại, xúc tiến ngoại thương…) có liên quan đến mua bán hàng hóa quốc tế; (2) Không điều chỉnh các hoạt động cụ thể của thương nhân, giữa các thương nhân với nhau; (3) Đối tượng áp dụng chính là cơ quan quản lý nhà nước về ngoại thương, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, thương nhân (điều này khác cơ bản với Luật Thương mại 2005 trong đó đối tượng áp dụng chỉ là thương nhân).
b) Về nguyên tắc quản lý nhà nước và áp dụng Luật
Căn cứ quan điểm chỉ đạo, chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ cũng như để phù hợp với xu thế hội nhập sâu rộng của nền kinh tế vào nền kinh tế khu vực và thế giới, dự án Luật đã làm rõ các nguyên tắc sau: (1) Tiếp tục đẩy mạnh tự do hóa thương mại; (2) Kiểm soát nhập khẩu phù hợp với cam kết quốc tế Việt Nam là thành viên; (3) Đảm bảo tính linh hoạt, bao quát, đầy đủ của công tác quản lý nhà nước; (4) Thúc đẩy sản xuất trong nước, xuất khẩu, tiến tới cân bằng cán cân ngoại thương.
Nguyên tắc áp dụng do vậy cũng có sự khác biệt căn bản: (i) Liên quan đến nguyên tắc, công cụ, biện pháp quản lý ngoại thương thì ưu tiên áp dụng Luật này; (ii) các hoạt động cụ thể liên quan đến hoạt động của thương nhân, quan hệ giữa thương nhân với nhau thì áp dụng pháp luật thương mại và pháp luật khác có liên quan; (iii) Trong áp dụng cam kết quốc tế, các biện pháp không trái với cam kết thì áp dụng.
Chương II – Quản lý các hoạt động ngoại thương
Chương này quy định các nội dung chung liên quan đến việc quản lý quyền xuất khẩu, nhập khẩu của các đối tượng thương nhân khác nhau (thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, thương nhân nước ngoài không có hiện diện ở Việt Nam, thương nhân là các chủ thể đặc biệt như doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, đơn vị sự nghiệp,…mà không phải là thương nhân).
Chương này cũng quy định các nội dung quản lý nhà nước đối với từng loại hàng hóa cụ thể. Trong đó, các biện pháp quản lý được nêu rõ là danh mục hàng hóa cần quản lý (theo diện cấm, hạn chế, có điều kiện), phương thức quản lý (cấp phép, đăng ký, đăng ký đủ điều kiện, thông báo đủ điều kiện…). Bên cạnh đó, thực tiễn đã và sẽ phát sinh nhiều loại hình hàng hóa cần có biện pháp điều chỉnh cụ thể như xuất khẩu theo hạn ngạch (tự nguyện hạn chế xuất khẩu), xuất khẩu, nhập khẩu theo dạng trao đổi hàng hóa, xuất khẩu theo danh mục tự nguyện nhập khẩu của đối tác thương mại (trường hợp đối tác thương mại hạn chế nhập khẩu một mặt hàng và mở rộng nhập khẩu hàng hóa khác cùng giá trị,…).
Chương này cũng quy định các nội dung quản lý nhà nước đối với các phương thức xuất nhập khẩu chính như tạm nhập, tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hóa cụ thể. Trong đó, các biện pháp quản lý nhà nước trong lĩnh vực này phụ thuộc nhiều vào ý chí quản lý của Chính phủ trong từng thời kỳ hoặc theo cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các biện pháp cụ thể là cấm, tạm dừng, cấp phép, đăng ký, chứng nhận đủ điều kiện... cùng với đó là các trường hợp cụ thể áp dụng các biện pháp kể trên. Bên cạnh đó, các quy định của Chương này có tính đến các phương thức xuất khẩu, nhập khẩu khác theo sự phát triển của nền kinh tế như xuất nhập khẩu theo gia công, xuất nhập khẩu tại chỗ,…
Chương này cũng quy định các nội dung quản lý nhà nước liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu theo diện hàng hóa không vì mục đích thương mại. Đây là một nội dung mới chưa được quy định trong hệ thống pháp luật ngoại thương hiện hành (trừ các mặt hàng sử dụng vì phục vụ mục đích ngoại giao). Trên thực tiễn có nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh có thể xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa với số lượng hạn chế (hoặc không hạn chế vì mục đích nhân đạo) như phục vụ dự án quốc tế triển khai tại Việt Nam, viện trợ không hoàn lại bằng hiện vật (thiết bị y tế, máy móc, dụng cụ học tập), vì mục đích thử nghiệm, nghiên cứu khoa học, vì mục đích thăm dò thị trường…Do nhiều mục đích khác nhau và với nhiều loại hàng hóa khác nhau, với giá trị của các loại hàng hóa rất chênh lệnh nhưng là nhu cầu chính đáng của tổ chức, cá nhân kinh doanh nên việc cần thiết có một hành lang pháp lý là cần thiết. Các biện pháp quản lý bao gồm: phân loại danh mục mặt hàng theo mục đích sử dụng, cơ chế cho phép thông quan và kiểm tra, kiểm soát hợp đồng liên quan đến loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo dạng này, số lượng hàng hóa theo mục đích sử dụng, các điều kiện để lưu thông các mặt hàng này trong nội địa…
Bên cạnh đó, Chương này cũng quy định các nội dung quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa với khu vực hải quan riêng. Trong đó, nội dung quản lý bao gồm việc phân định rõ quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu giữa nội địa với các khu vực hải quan riêng, giữa các khu vực hải quan riêng với nhau cũng như giữa khu vực hải quan riêng với bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, việc phân định như vậy sẽ đi kèm với chính sách mặt hàng, chính sách thuế, chính sách quản lý thương nhân (quyền, nghĩa vụ),…
Ngoài ra, Chương này còn quy định các nội dung quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa với các nước có chung đường biên giới. Trong đó, nội dung quản lý bao gồm việc quy định các ưu đãi đối với cư dân biên giới, quy định hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân trong các chợ biên giới, thông qua các loại hình cửa khẩu biên giới cũng như việc cơ chế, tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua tại khu vực này, chính sách mặt hàng được xuất khẩu, nhập khẩu thông qua hình thức này.
Chương này cũng quy định quản lý nhà nước về cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, theo đó, Luật quy định thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa phải có giấy chứng nhận xuất xứ, cơ chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa bao gồm giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa do cơ quan có thẩm quyền nhà nước cấp và giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa do thương nhân tự cấp. Việc tự cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa của thương nhân hoặc giấy chứng xuất xứ hàng hóa do cơ quan có thẩm quyền cấp đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam có cam kết.
Chương III - Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương
Chương này quy định các nội dung quan trọng liên quan đến kiểm soát xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong trường hợp khẩn cấp.
Các nội dung chính tại Chương này bao gồm quy định cụ thể một số trường hợp chính cần có sự can thiệp khẩn cấp đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa từ một hoặc một số đối tác thương mại xuất phát từ yếu tố khách quan (dịch bệnh đối với thực phẩm, giá hàng hóa cao do thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, độc quyền, sản phẩm không đảm bảo an toàn, tiêu chuẩn kỹ thuật đã bị cơ quan chức năng nước sở tại đình chỉ lưu thông…) hoặc chủ quan (mất cân bằng cán cân thanh toán nghiêm trọng, giảm phát hoặc lạm phát quá cao…).
Bên cạnh đó, các quy định tại Chương nêu rõ các biện pháp can thiệp khẩn cấp trong các trường hợp như vậy đối với các loại hàng hóa cụ thể phù hợp với điều kiện kiểm soát của Việt Nam (cấm nhập khẩu vĩnh viễn, tạm ngừng, kiểm soát đặc biệt thông qua hạn ngạch, kiểm soát đặc biệt thông qua kiểm tra hải quan – bao gồm trước và sau, kiểm soát đặc biệt thông qua chỉ định cửa khẩu nhập khẩu…).
Ngoài ra, do việc ban hành các chính sách kiểm soát khẩn cấp có quan hệ mật thiết với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như có ảnh hưởng lớn đến chủ trương lớn về tự do hóa thương mại nên việc áp dụng các biện pháp cần phải thực hiện theo một số nguyên tắc như minh bạch, có cơ sở khoa học, có kiềm chế và trong những trường hợp thực sự cần thiết.
Cuối cùng, Chương này quy định cụ thể thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp theo hướng phân biệt phù hợp tính chất nghiêm trọng, lâu dài, có ảnh hưởng lớn hay không, theo phạm vi quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực liên quan chính đến xuất nhập khẩu hàng hóa để phân cấp quyết định cho phù hợp.
Chương IV - Điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại
Phương án 1: Chương IV quy định về việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Trên cơ sở các nguyên tắc, căn cứ, quy trình điều tra chi tiết đã được quy định cụ thể tại các Pháp lệnh và văn bản quy định chi tiết thi hành có liên quan (Chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ), Luật này chỉ quy định bổ sung nguyên tắc áp dụng các biện pháp này trong trường hợp cần thiết phải áp dụng đồng thời các biện pháp hoặc áp dụng các biện pháp riêng rẽ do trong nhiều trường hợp các biện pháp này không mâu thuẫn với nhau. Dự thảo đang quy định theo phương án này.
Phương án 2: Chương IV pháp điển hóa các nội dung cơ bản của việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại như nguyên tắc áp dụng, căn cứ áp dụng, nguyên tắc điều tra, tổ chức cơ quan điều tra, xử lý. Các nội dung điều tra, quy trình cụ thể sẽ được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Chương V – Quản lý chất lượng hàng hóa, vệ sinh dịch tễ, an toàn thực phẩm xuất khẩu, nhập khẩu
Phương án 1: Chương V quy định việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, an toàn của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (TBT, SPS).
Đối với nhập khẩu, việc thực hiện các hàng rào TBT, SPS sẽ được coi như đáp ứng đủ điều kiện để lưu thông hàng hóa trong nội địa chứ không phải là điều kiện để nhập khẩu: việc hàng hóa có đủ điều kiện để nhập khẩu hay xuất khẩu hay không phụ thuộc chính vào việc đáp ứng các yêu cầu về hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu khác mà không phải thông qua một quy trình kiểm tra, kiểm soát tại cửa khẩu. Thực hiện theo phương án này mang tính chất hậu kiểm và đặt chủ yếu trách nhiệm vào cơ quan kiểm soát các nội dung liên quan khi hàng hóa lưu thông trong nội địa.
Đối với xuất khẩu, việc thực hiện sản xuất, kinh doanh hàng hóa có liên quan đến hoạt động xuất khẩu chỉ cần đáp ứng các điều kiện về TBT, SPS trong nước để xuất khẩu hàng hóa.
Do đó, Chương này còn quy định nguyên tắc, công tác điều tra về việc đáp ứng TBT, SPS khi có gian lận của thương nhân khi khai báo thủ tục hải quan và thông quan hàng hóa.
Phương án 2: Chương V quy định việc áp dụng các tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, an toàn của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (TBT, SPS).
Đối với nhập khẩu, việc thực hiện các hàng rào TBT, SPS sẽ được coi như đáp ứng đủ điều kiện nhập khẩu: việc hàng hóa có đủ điều kiện để nhập khẩu hay xuất khẩu hay không bên cạnh phụ thuộc vào việc đáp ứng các yêu cầu về hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu khác phải đáp ứng các điều kiện TBT, SPS. Thực hiện theo phương án này mang tính chất tiền kiểm và phải tổ chức một hệ thống các cơ quan, cơ sở kiểm soát tại biên giới để việc thực thi pháp luật được triển khai có hiệu quả trong thực tế.
Đối với xuất khẩu, việc thực hiện sản xuất, kinh doanh hàng hóa có liên quan đến hoạt động xuất khẩu bên cạnh phải thực hiện các quy định về TBT, SPS trong nước thì trong một số loại hàng hóa còn phải thực hiện các quy định khác của nước nhập khẩu, nhằm đảm bảo uy tín, tính bền vững của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.
Việc quy định theo hướng này sẽ đặt ra yêu cầu nguyên tắc, trình tự kiểm tra, kiểm soát các nội dung trên trong mối quan hệ với các quy trình, kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, thương nhân nhập khẩu, xuất khẩu hàng hóa nhận thức rõ hơn về trách nhiệm, thủ tục thực hiện theo quy định của pháp luật.
Phương án 3: Quy định tại Chương V của dự thảo chủ yếu thực hiện theo các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành theo đó việc thực hiện các thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa được thực hiện theo 02 hướng chính sau:
- Thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm dịch, kiểm tra y tế: Thực hiện tại cửa khẩu và là điều kiện để thông quan theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm tra chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm thì thực hiện bên trong biên giới: cho nhập khẩu vào nhưng phải đủ điều kiện về chất lượng, quy chuẩn, tiêu chuẩn, vệ sinh an toàn thực phẩm trước khi đưa ra thị trường.
Chương VI - Xúc tiến ngoại thương
Chương này quy định về chính sách chung trong hoạt động xúc tiến ngoại thương. Theo đó, chính sách xúc tiến ngoại thương thực hiện các nguyên tắc cụ thể (phù hợp cam kết quốc tế, ưu tiên hỗ trợ cho một số đối tượng…). Bên cạnh các chính sách chung về xúc tiến ngoại thương (áp dụng cho mọi đối tượng, theo các chương trình, biện pháp xúc tiến thông thường như hội chợ, triển lãm, tìm hiểu thị trường…), Dự thảo cũng quy định một số chính sách xúc tiến đặc thù cho các đối tượng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản phẩm nông nghiệp (có thể hỗ trợ trực tiếp bằng tiền theo cam kết quốc tế), sản phẩm tiểu thủ công nghiệp hay cho các vùng địa lý đặc biệt khó khăn.
Chương này cũng quy định nội dung cụ thể các biện pháp xúc tiến ngoại thương bao gồm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu, các chương trình xúc tiến xuất khẩu tổng hợp, chương trình hỗ trợ chuyên biệt (thương hiệu) và nội dung liên quan đến xúc tiến tại chỗ và thông qua hệ thống cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà nước ở nước ngoài.
Trong đó, hoạt động tín dụng xuất khẩu hay bảo hiểm xuất khẩu sẽ được thể chế hóa bằng quy định pháp lý (hiện còn đang thí điểm) thực hiện một cách bài bản, có hệ thống theo Chiến lược về ngoại thương nhằm tránh sự phân tán nguồn lực. Bên cạnh đó, các biện pháp xúc tiến này cũng đảm bảo sự ưu tiên cho các lĩnh vực mũi nhọn, cho các đối tượng đặc thù (SME, vùng sâu vùng xa, sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp…).
Ngoài ra, Dự thảo cũng quy định việc đổi mới công tác tổ chức các mạng lưới của tổ chức xúc tiến thương mại ở nước ngoài phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cũng như thông lệ quốc tế. Việc tổ chức mạng lưới này phải được xây dựng, phê duyệt theo quy hoạch và quyết định của cấp có thẩm quyền. Cùng với đó, mô hình tổ chức xúc tiến thương mại này cũng sẽ được hoàn thiện theo hướng hợp tác công – tư theo đó Nhà nước có thể hỗ trợ việc thành lập, hoạt động nhưng triển khai hoạt động, tài chính thì có thể giao các doanh nghiệp hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực này đảm trách.
Cuối cùng, Dự thảo cũng quy định một Điều riêng về kinh phí hoạt động xúc tiến ngoại thương. Kinh phí phục vụ cho hoạt động xúc tiến ngoại thương chủ yếu được sử dụng cho các Chương trình xúc tiến ngoại thương bao gồm các chương trình phục vụ cho đối tượng ưu tiên (doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng hóa tại các vùng khó khăn…) theo quy định tại Dự thảo.
Trong thực tiễn, một trong những vướng mắc lớn nhất cho hoạt động xúc tiến ngoại thương là kinh phí ngày càng thu hẹp: Kinh phí do Bộ Tài chính cấp cho Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia – Chương trình duy nhất phục vụ cho hoạt động xúc tiến thương mại đã bị tiết giảm 300% (từ hơn 170 tỷ đồng còn 55 tỷ đồng). Hơn nữa, với kinh phí đã bị tiết giảm, Chương trình phải phục vụ nhiều mục tiêu hơn bao gồm xúc tiến ngoại thương, xúc tiến thương mại nội địa, xúc tiến thương mại biên giới, miền núi, hải đảo. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy kinh phí xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến ngoại thương nói riêng đều ở mức độ cao hơn ta rất nhiều cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối (chi tiết tại Báo cáo thực trạng hoạt động ngoại thương). Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy việc tính toán kinh phí cho hoạt động ngoại thương đều dựa trên một trong hai biện pháp sau: kinh phí xúc tiến là một mức % trên tổng kim ngạch ngoại thương hoặc kinh phí là một khoản cố định nhưng mức tăng được “neo” theo tốc độ tăng trưởng của kim ngạch ngoại thương theo một hệ số phù hợp.
Chương VII - Trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngoại thương
Chương này quy định về cơ quan quản lý nhà nước về ngoại thương theo đó nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công Thương; nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của cơ quan quản lý ngoại thương (trực thuộc Bộ Công Thương) trong việc quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra, điều tra, phối hợp thực hiện chính sách liên quan đến hoạt động ngoại thương.
Chương VIII - Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm
Chương này quy định nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực ngoại thương có liên quan đến cơ quan của Chính phủ. Theo đó, nguyên tắc chung là các vụ việc có tranh chấp giữa doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp Nhà nước) phải được giải quyết theo thỏa thuận cũng của các bên cũng như theo quy định trong tố tụng dân sự. Chính phủ chỉ tham gia giải quyết tranh chấp trong trường hợp liên quan đến lợi ích quốc gia, trong quan hệ giữa Chính phủ với Chính phủ theo các quy định của pháp luật quốc tế.
Chương này cũng quy định các hành vi vi phạm bị cấm của cơ quan quản lý nhà nước trong điều hành hoạt động ngoại thương.
Chương IX - Điều khoản thi hành
Chương này quy định về việc tổ chức thi hành và chuyển tiếp đối với hoạt động quản lý ngoại thương.
Để không làm ảnh hưởng đến hoạt động của công tác quản lý Nhà nước của các cơ quan quản lý chuyên ngành, qua đó đảm bảo hoạt động ngoại thương của thương nhân diễn ra bình thường, dự thảo quy định khoảng thời gian chuyển tiếp để cơ quan quản lý nhà nước có điều kiện tiến hành tổ chức hoạt động quản lý, cơ sở kỹ thuật, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để phù hợp với quy định của luật này. Theo đó, quy định này phân biệt: (i) các quy định có thể áp dụng ngay; (ii) các quy định phải tiến hành theo lộ trình chuyển tiếp.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo văn bản
- Nguồn nhân lực: Bộ Công Thương đã có Quyết định thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập Dự án Luật Quản lý ngoại thương, theo đó các thành viên bao gồm đại diện của các cơ quan, tổ chức, đơn vị: Bộ Tư pháp; Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; Văn phòng Chính phủ; Bộ Tài chính; Bộ Nội vụ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Y tế; Viện Nhà nước và Pháp luật; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Trường Đại học Ngoại thương và các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Công Thương.
- Kinh phí: trích từ nguồn kinh phí trong ngân sách nhà nước.
Dự kiến thời gian trình:
Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết ban hành Luật
Bối cảnh, thực trạng quan hệ xã hội đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật
Qua nghiên cứu thực tiễn và pháp luật cho thấy có một số vấn đề bất cập cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hiện nay có một số vấn đề bất cập liên quan đến QĐHC như sau: (1) quá trình ban hành QĐHC chưa bảo đảm khách quan, công bằng (thiếu minh bạch, chưa có thủ tục cho phép người có quyền lợi được tiếp xúc, nghiên cứu hồ sơ...), ngược lại, pháp luật cũng không hạn chế một số cá nhân có liên quan (người thân) không được trực tiếp ban hành QĐ trong trường hợp có lợi ích liên quan; (2) người dân khó tiếp cận QĐHC ngay cả khi liên quan đến lợi ích của họ do không có quy định về công bố QĐHC; (3) quá trình ban hành QĐHC có tác động, ảnh hưởng đến nhiều người nhưng không có thủ tục tham khảo ý kiến của người có lợi ích liên quan (quyết định cho cấp phép đầu tư; xây dựng nhà máy, cảng biển...); (4) thẩm phán hành chính thiếu cơ sở pháp lý để đối chiếu QĐHC bị vi phạm bởi lý do nào và mức độ vi phạm đến đâu; (5) tuỳ tiện trong uỷ quyền ban hành QĐHC; (6) công chức hành chính lúng túng và thiếu căn cứ trong việc gia hạn, thu hồi, huỷ bỏ QĐHC... trong trường hợp các luật chuyên ngành chưa điều chỉnh.
Thứ hai, nghiên cứu hệ thống pháp luật cho thấy hiện nay còn thiếu các quy định cơ bản đối với một QĐHC nói chung, không chỉ là thủ tục ban hành QĐHC, cụ thể là: thẩm quyền ban hành, khái niệm QĐHC, hình thức QĐHC; sự tham gia của người liên quan, bên thứ ba vào quá trình ban hành QĐHC, cử người đại diện của người có lợi ích liên quan, lịch hẹn, thông báo; điều kiện để một QĐHC được coi là hợp pháp; hiệu lực, gia hạn, thu hồi, hủy bỏ QĐHC nói chung (ví dụ: chưa rõ khi nào một QĐHC có hiệu lực, kể từ khi ban hành hay kể từ khi đến tay người thi hành hoặc người có lợi ích liên quan được biết?; chưa rõ trường hợp nào cần thu hồi QĐHC; chưa rõ khi nào thì một QĐHC bị coi là vi phạm pháp luật; hệ quả của việc thu hồi QĐHC là phải hoàn trả lại những quyền lợi đã được hưởng như thế nào...).
Những vấn đề nêu trên hầu như chưa được pháp luật điều chỉnh. Do vậy, việc ban hành Luật là nhằm khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật hiện hành, không chỉ về trình tự, thủ tục ban hành QĐHC mà cả các vấn đề khác liên quan đến một QĐHC như gia hạn, thu hồi, huỷ bỏ... QĐHC.
Thứ ba, thủ tục ban hành QĐHC đa dạng, phong phú nhưng không dựa trên nguyên tắc công bằng, khách quan, bảo đảm tính hợp lý, tính hiệu quả; điều này cũng cản trở đến tính phục vụ của nền hành chính nói chung.
Rà soát hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước ta cho thấy mặc dù đã có nhiều văn bản quy định về trình tự, thủ tục ban hành các QĐHC (cấp phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ, phê duyệt dự án đầu tư ...) thuộc các lĩnh vực khác nhau (Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật kế toán, Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Giao thông đường bộ, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật bảo vệ môi trường, Luật Công chứng, Luật Nuôi con nuôi, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính...) nhưng các quy định muôn hình muôn vẻ và đặc biệt là không dựa trên tiêu chí, nguyên tắc nào khi xây dựng các văn bản đó.
Trên thực tế, có lĩnh vực có văn bản luật quy định trình tự, thủ tục ban hành QĐHC, có lĩnh vực lại không có luật hoặc văn bản dưới luật điều chỉnh. Cùng liên quan đến đảm bảo lợi ích của người khác trong quá trình cấp phép, có lĩnh vực được điều chỉnh chặt chẽ (ví dụ: quy định cấp giấy phép xây dựng, cải tạo nhà cho một người phải có văn bản đồng ý của các hộ liền kề, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một người phải hỏi ý kiến của những người có thể chịu ảnh hưởng của việc cấp giấy chứng nhận đó...); có lĩnh vực lại được điều chỉnh quá lỏng lẻo hoặc bỏ qua không điều chỉnh (ví dụ: pháp luật thừa nhận quyền sử dụng nước của người dân nhưng khi cấp quyền khai thác nước cho một tổ chức có thể ảnh hưởng tới việc sử dụng nước của người dân không hỏi ý kiến của những người sử dụng nước tại khu vực; cấp phép khai thác khoáng sản và khoáng sản độc hại không hỏi ý kiến của người dân khu vực khai thác...). Cùng đề cập đến QĐHC, có luật quy định cụ thể về gia hạn, thu hồi, có luật không quy định.
Chính vì thiếu các nguyên tắc nhất định chi phối hoạt động của nền hành chính nên trong thực tiễn, các quyền và lợi ích của công dân không được quan tâm bảo vệ thích đáng, hay nói cách khác, pháp luật hiện hành chưa đủ cơ sở pháp lý chặt chẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực tế khác là trong quá trình ban hành QĐHC có tác động đến nhiều người (quy hoạch đô thị, quyết định cho phép xây dựng các nhà máy lớn, cảng biển, sân ga, bến cảng... ), không phải quyết định nào cũng chú ý đến việc tham vấn ý kiến người dân để bảo vệ lợi ích chính đáng của họ, hoặc không đánh giá tác động tiêu cực, tích cực của việc ban hành quyết định, dẫn đến việc phải thu hồi, huỷ các QĐHC (ví dụ: xây dựng Nhà máy Posco, xây dựng Công viên Thống Nhất) vừa gây tốn kém, vừa làm giảm lòng tin của người dân vào các cấp chính quyền nhà nước.
Thứ tư, sơ bộ rà soát tổng thể hệ thống pháp luật liên quan đến quyết định hành chính cho thấy, trên thực tế, các luật được sửa đổi, bổ sung gần đây có xu hướng gia tăng các quy định nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của người dân hơn (đặc biệt là các luật kinh tế) trong đó có bổ sung thủ tục ban hành QĐHC minh bạch hơn và bảo đảm sự tham gia của người dân. Tuy vậy, vẫn chưa có văn bản luật hay văn bản dưới luật nào quy định đầy đủ hay có hệ thống về các biện pháp xử lý đối với các quyết định hành chính (hiệu lực, gia hạn, thu hồi...) trong từng lĩnh vực, nhất là đối với các quyết định hành chính nói chung, khi không có văn bản riêng điều chỉnh cho từng lĩnh vực cụ thể. Cũng chưa có một văn bản nào điều chỉnh cụ thể, đầy đủ và có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc về các nguyên tắc cơ bản cho hoạt động của nền hành chính, quy trình ban hành quyết định và các quy định nhằm bảo đảm sự công khai, minh bạch, hiệu quả trong quy trình ban hành quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước.
Thứ năm, trong hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan hành chính còn có những bất cập trong việc ủy quyền ban hành quyết định hành chính. Do chưa có nguyên tắc, quy định pháp luật về việc ủy quyền nên đã dẫn đến tình trạng tuỳ tiện khi ủy quyền (ủy quyền không giới hạn phạm vi, không giới hạn đối tượng được ủy quyền, không rõ trách nhiệm của người ủy quyền, người được ủy quyền, không xác định hậu quả pháp lý của việc ủy quyền; nhiệm vụ được giao cho chủ thể này lại tiếp tục được ủy quyền cho chủ thể khác…) và tình trạng hoạt động của cơ quan hành chính rườm rà, thiếu nguyên tắc và thiếu sự minh bạch.
Thứ sáu, pháp luật hiện hành liên quan đến hành chính mới chú trọng đến việc đơn giản hoá thủ tục hành chính hay cải cách thể chế, con người, tài chính công, tuy nhiên các quy trình tối thiểu, các nguyên tắc nhất định cũng như quy trình ban hành quyết định hành chính chưa được quy định ở một văn bản cụ thể, nhất là có thể áp dụng thống nhất trên toàn quốc. Thậm chí, còn có nhiều cách hiểu khác nhau thế nào là cơ quan hành chính, thế nào là quyết định hành chính. Do đó, thiếu cơ sở để xác định trách nhiệm của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình quản lý hành chính. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của nền hành chính không minh bạch, tham nhũng và ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với các cơ quan hành chính nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung. Hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính chỉ có thể bảo đảm hiệu quả, đồng thời bảo đảm các quyền của tổ chức, công dân khi các cơ quan hành chính tuân thủ các nguyên tắc và quy trình nhất định, bảo đảm tính minh bạch trên cơ sở các quy định pháp luật đã rõ ràng, theo đó, tổ chức, công dân có thể giám sát việc thực hiện quy trình, nguyên tắc đó.
Thứ bẩy, xét trên nguyên tắc công bằng và tính hợp lý thì tổ chức, cá nhân có nhiều vụ việc có thể đưa ra khiếu nại, khiếu kiện; tuy nhiên, cơ sở pháp luật không rõ ràng nên đã có nhiều vụ việc xảy ra vô lý, gây bất bình và mất niềm tin đối với người dân (ví dụ vụ thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vương huyện Tiên Lãng, Hải Phòng vừa qua đã gây bức xúc trong dư luận, không xác định được quyết định hành chính có hiệu lực như thế nào?, quan điểm của các cơ quan quản lý nhà nước, tòa án... không thống nhất gây mất niềm tin vào hệ thống chính trị nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng cũng một phần do sự thiếu rõ ràng của pháp luật).
Việc Việt Nam chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong việc thực hiện các quyền của người dân và bảo đảm các cơ quan hành pháp hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Việc ban hành quyết định hành chính đúng trình tự, thủ tục không chỉ có ý nghĩa tạo khuôn khổ hoạt động cho nền hành chính mà còn có ý nghĩa bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức. Thực vậy, một số quyết định hành chính được ban hành trái pháp luật đã làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, nếu không được huỷ bỏ kịp thời sẽ làm giảm lòng tin của người dân đối với cơ quan nhà nước.
Vì vậy, cần thiết ban hành Luật ban hành quyết định hành chính nhằm góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, làm tăng tính hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước. Việc ban hành Luật còn bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân, thúc đẩy công bằng, tiến bộ xã hội trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Việc ban hành Luật ban hành quyết định hành chính cũng là cần thiết, nhằm bảo đảm hoạt động của các cơ quan hành chính đi vào nề nếp, bảo đảm sự minh bạch, công khai, khách quan thông qua việc tuân thủ các quy trình tối thiểu, các nguyên tắc nhất định; qua đó, bảo đảm các quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong quá trình ban hành QĐHC; bảo đảm cho người dân có cơ sở để khiếu nại các QĐHC có vi phạm pháp luật; thẩm phán có cơ sở pháp lý rõ ràng để đưa ra phán quyết là QĐHC hợp pháp hay không hợp pháp. Bên cạnh đó, góp phần hạn chế các QĐHC được ban hành không hợp lòng dân, gây lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước. Thực tiễn thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996 và năm 2008) những năm qua cho thấy Luật này phát huy tác dụng đáng kể đối với việc đưa quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đi vào nề nếp, nâng cao chất lượng và tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Việc ban hành Luật ban hành quyết định hành chính sẽ là cơ sở cho việc thực hiện Luật khiếu nại, là nền tảng cho việc xây dựng và hoàn thiện các luật chuyên ngành có liên quan đến việc ban hành các quyết định hành chính. Việc ban hành Luật này không có nghĩa là sẽ thay thế các quy định của luật chuyên ngành hay pháp luật chuyên ngành mà theo nguyên tắc, nếu các luật chuyên ngành chưa kịp điều chỉnh cụ thể thì sẽ áp dụng các quy định của Luật liên quan đến các QĐHC (ban hành, công bố, gia hạn, thu hồi, huỷ bỏ...); đồng thời, các nguyên tắc cơ bản của Luật cũng sẽ là các nguyên tắc cần thiết, tối thiểu để các luật chuyên ngành cụ thể hóa hơn.
Việc ban hành Luật này không phụ thuộc vào việc đã có Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2010 về kiểm soát thủ tục hành chính ngay cả khi ban hành Luật thủ tục hành chính dựa trên Nghị định số 63 nêu trên.
Về vấn đề nêu trên, Chính phủ đã có Nghị quyết giao cho Bộ Tư pháp thực hiện nghiên cứu Đề án về quy trình ban hành quyết định hành chính (Chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính).
Bộ Tư pháp cũng đã triển khai thực hiện nghiên cứu và hoàn thành hai Đề tài nghiên cứu khoa học, đó là Đề tài cấp Bộ: “Hoàn thiện pháp luật về ban hành quyết định hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước” và Đề tài cấp cơ sở: “Thực trạng ủy quyền, pháp luật hiện hành về ủy quyền trong lĩnh vực quản lý, điều hành hành chính và các giải pháp hoàn thiện”.
Tại Thông báo số 43/TB-VPCP ngày 10 tháng 2 năm 2012 của Văn phòng Chính phủ thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ về vụ việc cưỡng chế thu hồi đất ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng: "Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất xây dựng thể chế để kiểm soát việc ban hành các quyết định hành chính của chính quyền các cấp".
Vì những lý do nêu trên, việc đưa Dự án Luật ban hành quyết định hành chính vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ XIII (năm 2011- 2016) của Quốc hội là rất cần thiết và phù hợp với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước.
Mục tiêu
Thứ nhất, mục đích cơ bản của việc ban hành Luật này là hoàn thiện quy trình ban hành quyết định hành chính nhằm góp phần đảm bảo tính minh bạch, tính hiệu quả trong việc ban hành các quyết định hành chính;
Thứ hai, bảo đảm việc thực hiện các nguyên tắc, điều kiện cơ bản trong hoạt động của các cơ quan hành chính trong một Nhà nước pháp quyền; xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động ban hành quyết định hành chính;
Thứ ba, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành chính, nâng cao tính trách nhiệm, tính phục vụ của cơ quan hành chính;
Thứ tư, bảo đảm các quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong quá trình ban hành quyết định hành chính; qua đó tăng niềm tin của người dân đối với các cơ quan nhà nước có hoạt động ban hành quyết định hành chính;
Thứ năm, việc ban hành Luật còn góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, tạo thuận lợi cho cuộc sống của nhân dân.
Các vấn đề cần giải quyết
Qua nghiên cứu thực tiễn và hệ thống pháp luật hiện hành cho thấy, có những vấn đề bất cập sau đây về mặt thực tiễn, lý luận cũng như pháp luật về ban hành quyết định hành chính cần phải được giải quyết:
- Các quyết định hành chính chưa thật sự công bằng, khách quan, bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân;
- Người dân khó tiếp cận các thông tin liên quan đến quyết định hành chính hoặc người dân không dám khiếu nại, khiếu kiện vì không biết các quyết định hành chính liên quan đến mình có thể bị vi phạm quy định nào, ở giai đoạn nào. Mặt khác, các đề nghị của người dân thường bị rơi vào quên lãng;
- Cơ quan có thẩm quyền thiếu dữ kiện có cơ sở để phán quyết quyết định hành chính bị vi phạm bởi lý do nào và mức độ vi phạm đến đâu;
- Việc uỷ quyền trong ban hành quyết định hành chính thiếu nguyên tắc, tuỳ tiện, dẫn đến tình trạng không rõ giới hạn của uỷ quyền, không rõ trách nhiệm của từng cấp, cơ quan, chủ thể do pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể điều kiện ủy quyền, hậu quả pháp lý của việc ủy quyền trong ban hành quyết định hành chính;
- Chưa có các quy định nhằm khắc phục tình trạng ban hành quyết định hành chính trái pháp luật, thiếu khách quan; các quyết định hành chính không được công khai đến các đối tượng có quyền và nghĩa vụ liên quan; tạo điều kiện cho việc trục lợi, tham nhũng trong quá trình quản lý nhà nước;
- Pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc xác định hiệu lực của một quyết định hành chính như: khi nào một quyết định hành chính có hiệu lực? kể từ khi ban hành hay kể từ khi đến tay người thi hành hoặc người có lợi ích liên quan được biết?.
Pháp luật cũng như khoa học pháp lý hầu như còn bỏ ngỏ về vấn đề hiệu lực của quyết định hành chính. Pháp luật chưa có quy định về các trường hợp thu hồi quyết định hành chính có vi phạm pháp luật. Theo thông lệ quốc tế, một quyết định hành chính vi phạm pháp luật, ngay cả khi hết thời hạn phản đối, có thể bị thu hồi lại toàn bộ hoặc một phần hiệu lực trong tương lai hoặc trong quá khứ. Một quyết định hành chính đã tạo ra quyền hoặc một quyền lợi về mặt pháp lý (quyết định hành chính có lợi), chỉ được thu hồi lại trong khuôn khổ quy định hạn chế. Nếu quyết định hành chính bị thu hồi lại, thì phải hoàn trả lại những quyền lợi đã được hưởng như thế nào...
Tổng kết, đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến các quan hệ xã hội cần điều chỉnh
Tổng kết, đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến việc ban hành quyết định hành chính cho thấy:
Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định về trách nhiệm, thẩm quyền, quy trình soạn thảo, ban hành quyết định hành chính; quy trình kiểm tra việc thực hiện quyết định hành chính; quy định về điều kiện để ra một quyết định hành chính được coi là hợp pháp; quy định về vấn đề hiệu lực, vấn đề gia hạn, thu hồi hay hủy bỏ quyết định hành chính nói chung.
Do pháp luật hiện hành còn thiếu các quy định mang tính nguyên tắc để có thể áp dụng cho tất cả các cơ quan khi ban hành quyết định hành chính, nên chưa có khuôn khổ pháp luật cho hoạt động của các cơ quan hành chính để các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, nghiêm minh.
Trên thực tế, có lĩnh vực có văn bản quy định trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính, có lĩnh vực lại không có văn bản điều chỉnh; có lĩnh vực được điều chỉnh chặt chẽ, có lĩnh vực lại được điều chỉnh quá lỏng lẻo hoặc bỏ qua không điều chỉnh, quy trình ban hành quyết định hành chính trong các văn bản vừa phức tạp, vừa không thống nhất, gây lúng túng cho việc thực hiện nhiệm vụ của công chức cũng như bảo đảm quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân.
Mục tiêu bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Bảo đảm thực hiện các quyền và tự do cơ bản và bảo đảm lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân có liên quan đến quyết định hành chính là một trong những mục tiêu quan trọng của việc ban hành Luật này. Ví dụ: Luật có thể quy định trách nhiệm của cơ quan ban hành các quyết định hành chính có tác động đến một số nhóm đối tượng trong xã hội (như quy hoạch đất đai, đề án xóa đói giảm nghèo, chương trình đào tạo nguồn nhân lực, chương trình giảm biên chế, kế hoạch phòng, chống bão lụt...) sẽ phải tham vấn ý kiến của các đối tượng liên quan; Luật có thể làm rõ vấn đề quyết định hành chính như thế nào thì được coi là trái pháp luật, và trái như thế nào, đến mức nào thì mới được sử dụng biện pháp thu hồi quyết định và hậu quả pháp lý của việc thu hồi là gì.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý ngành, lĩnh vực có quan hệ xã hội cần điều chỉnh
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 định hướng Chính phủ tiến hành: ''Đơn giản hóa và công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp…'', ''đồng thời bảo đảm tính thông suốt, hiệu quả của quản lý hành chính''.
Chương trình hành động của Chính phủ năm 2009 cũng đã giao Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ nghiên cứu đề án về quy trình ban hành quyết định hành chính.
Nội dung cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc có kế hoạch trở thành thành viên liên quan đến ngành, lĩnh vực có quan hệ xã hội cần điều chỉnh
Việc ban hành Luật ban hành quyết định hành chính cũng nhằm thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực, thực hiện các cam kết quốc tế đa phương và song phương mà Việt Nam là thành viên (ví dụ: đoạn 505, 507, 515, 518 của Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO) với định hướng: hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quy trình ban hành quyết định hành chính công khai, minh bạch, khách quan; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm các nguyên tắc và điều kiện hoạt động của nền hành chính trong một Nhà nước pháp quyền.
Đối tượng áp dụng và phạm vi điều chỉnh
Đối tượng áp dụng: Các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan nhà nước khác là chủ thể ban hành quyết định hành chính
Phạm vi điều chỉnh của Luật: Luật ban hành quyết định hành chính sẽ điều chỉnh những vấn đề chính sau đây: trách nhiệm, thẩm quyền, quy trình ban hành quyết định hành chính; quy trình kiểm tra việc thực hiện quyết định hành chính; điều kiện để ra một quyết định hành chính được coi là hợp pháp; hiệu lực của quyết định hành chính và trách nhiệm của các cơ quan có liên quan; các trường hợp quyết định hành chính bị vô hiệu, các trường hợp thu hồi quyết định hành chính (thu hồi quyết định hành chính vi phạm pháp luật, thu hồi quyết định hành chính hợp pháp); các trường hợp hủy bỏ quyết định hành chính; các vấn đề liên quan đến ủy quyền ban hành quyết định hành chính.
Nội dung chính của văn bản
Các nội dung chính của văn bản luật được dự kiến bao gồm:
- Phạm vi và đối tượng điều chỉnh: Như đã nêu ở mục trên.
- Một số định nghĩa. Ví dụ: thế nào là quyết định hành chính: Quyết định hành chính bao gồm toàn bộ hay bất kỳ phần nào của các quy định, mệnh lệnh, hình phạt, chế tài do một cơ quan hành chính đặt ra hoặc một biện pháp tương đương, hoặc hành vi từ chối, hoặc không thực hiện một nhiệm vụ được coi là hành động cuối cùng của cơ quan hành chính có tên các bên tham gia tiến hành thủ tục liên quan và có ngày hiệu lực của quyết định (Luật thủ tục hành chính Bang Colorado, Hoa Kỳ); thế nào là cơ quan hành chính...; người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan đến quyết định hành chính...
- Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính, bao gồm các quy định, điều kiện liên quan cần phải áp dụng để ban hành một quyết định hành chính; quy định bắt buộc cần phải có sự tham gia của cơ quan, tổ chức vào quy trình ra quyết định hành chính đối với một số loại quyết định hành chính; về sự bắt buộc có mặt của người dân có liên quan vào quá trình ra quyết định hành chính trong một số trường hợp đặc biệt; hoặc các trường hợp phải loại trừ sự tham gia của các cá nhân có liên quan tham gia vào quá trình ra quyết định hành chính.
- Quy định đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch hóa quy trình ra quyết định hành chính; trách nhiệm phải giữ bí mật; quyền được tiếp cận tài liệu của người có liên quan; trách nhiệm công bố quyết định hành chính; trách nhiệm thông tin của các cơ quan hành chính.
- Quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính phải công bố các thông tin liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân.
- Về việc gia hạn, thu hồi, hủy bỏ quyết định hành chính:
Bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến quyết định hành chính như vấn đề gia hạn, hồ sơ, hiệu lực của quyết định hành chính, vấn đề vô hiệu và các trường hợp thu hồi quyết định hành chính vi phạm pháp luật hay các trường hợp rút lại một quyết định hành chính hợp pháp...
Về vấn đề gia hạn quyết định hành chính, khoa học pháp lý một số nước có phân loại về gia hạn quyết định hành chính, có loại quyết định hành chính không thể gia hạn vì đơn giản là chúng không có hoặc không được phép ấn định điều khoản về thời hạn có hiệu lực; có loại quyết định hành chính có điều khoản về thời hạn có hiệu lực của quyết định, muốn kéo dài hiệu lực của quyết định thì phải gia hạn quyết định; có loại quyết định không có điều khoản thời hạn của quyết định nhưng một phần nội dung của quyết định có ấn định thời hạn phải thi hành, tức là hiệu lực một phần nội dung của quyết định là có thời hạn, và muốn kéo dài hiệu lực của nội dung. Do vậy, pháp luật cần quy định rõ hơn các trường hợp gia hạn quyết định hành chính.
Về thu hồi quyết định hành chính: Trên thực tế ở nước ta thời gian qua, việc các cơ quan hành chính nhà nước ra quyết định thu hồi quyết định hành chính là tương đối phổ biến nhưng do chưa có quy định cụ thể của pháp luật nên việc nhận thức và thực hiện còn rất khác nhau. Trên thực tế thì không chỉ có quyết định hành chính trái pháp luật, tức là không bảo đảm tính hợp pháp, mới bị thu hồi, mà còn cả những quyết định không bảo đảm tính hợp lý, không khả thi cũng bị thu hồi, thậm chí cả những quyết định giải quyết khiếu nại hành chính cũng bị thu hồi do đương sự khởi kiện vụ việc ra Tòa hành chính để tránh nguy cơ cơ quan hành chính hoặc người đã ra quyết định bị triệu tập ra Tòa hoặc quyết định hành chính bị Tòa án hủy. Ngoài ra, một số quyết định hành chính có thể bị thu hồi do dư luận báo chí can thiệp quá sâu, gây dư luận bất bình. Các trường hợp thu hồi một quyết định hành chính cần phải được pháp luật xác định rõ.
Về hủy bỏ quyết định hành chính: Khi nào thì sửa đổi, khi nào thì hủy bỏ đối với quyết định hành chính trái pháp luật? Nếu một quyết định hành chính hết thời hiệu khiếu nại, tức là hết hiệu lực khiếu nại, mà có thông tin, phát hiện ra và khẳng định quyết định đó là trái pháp luật thì xử lý thế nào? Đây là vấn đề pháp luật chưa quy định. Một nhà nước phục vụ, một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì không thể bỏ qua những hành động sai trái của cơ quan hành chính đối với người dân và đối với xã hội, kể cả hành động trong quá khứ, do vậy quyết định hành chính đó cần phải được xử lý theo hướng hoặc là sửa đổi, thu hồi hoặc hủy bỏ tùy theo tính chất và mức độ sai trái của quyết định hành chính. Một quyết định hành chính có thể bị coi là trái pháp luật nếu như quyết định đó được ban hành do sự gian dối, lừa đảo hoặc qua đe dọa hoặc hối lộ, hoặc đơn giản là do cơ quan ban hành quyết định không đủ thông tin hoặc thông tin không chính xác (Ví dụ: ban hành quyết định trợ cấp thương tật cho một người không phải là thương binh, bệnh binh; quyết định nghỉ hưu đối với một người chưa đủ năm công tác liên tục; quyết định bắt buộc một người không nghiện ma túy phải đi cai nghiện ma túy… là những quyết định hành chính trái pháp luật). Một quyết định hành chính cũng có thể bị coi là trái pháp luật nếu nó được ban hành trái thẩm quyền, vượt quá thẩm quyền; nội dung của quyết định đòi hỏi phải thực hiện một việc trái pháp luật có thể dẫn đến vi phạm pháp luật hình sự hoặc vi phạm hành chính, hoặc vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục ban hành theo quy định của pháp luật.
Chính sách cơ bản của luật và mục tiêu của chính sách
Thứ nhất, thiết lập các nguyên tắc hoạt động của nền hành chính
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định về vấn đề này, các cơ quan hành chính thường quy định nghĩa vụ cho dân mà ít chú ý quy định nghĩa vụ của các cơ quan hành chính. Do đó, cần thiết lập các nguyên tắc hoạt động của nền hành chính: bảo đảm có sự tham gia của các đối tượng có quyền và lợi ích liên quan; “khắc phục tình trạng khép kín” trong ban hành thủ tục hành chính cũng như ra quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước; bảo đảm tính minh bạch, công khai của quy trình ra quyết định; bảo đảm việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, các quy định về quy trình, thủ tục ban hành quyết định hành chính cũng như các thủ tục gia hạn, thu hồi, hủy bỏ quyết định hành chính cần phải được quy định rõ ràng. Tóm lại, các quy định mang tính nguyên tắc về ban hành quyết định hành chính có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của nền hành chính và sự tôn trọng của người dân đối với nền hành chính, củng cố niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Thứ hai, bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dân chủ trong việc ban hành quyết định hành chính
Việc lấy ý kiến của tổ chức, cá nhân trong giai đoạn ban hành quyết định hành chính là một khâu quan trọng, đòi hỏi phải có sự phối hợp với các tác nhân kinh tế, xã hội trên cơ sở lắng nghe ý kiến phản hồi từ người dân, đánh giá tác động dự kiến về kinh tế - xã hội – môi trường của quyết định hành chính sẽ được ban hành. Các quyết định đưa ra phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, quy định rõ ràng, cụ thể, lường trước được những phản ứng của xã hội khi phải thi hành quyết định đó. Đối với một số loại quyết định hành chính có tác động sâu rộng trong xã hội thì trước khi ban hành, các cơ quan nhà nước phải phối hợp với các tổ chức, cá nhân để định ra những giải pháp đồng bộ, tổng thể, thống nhất và sau cùng, bảo đảm cho các quyết định được ban hành có khả năng được tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành.
Người dân cần phải được tạo điều kiện để có thể dễ dàng tiếp cận với các quy định về quy trình, thủ tục hành chính; dễ dàng tiếp cận các thông tin, quyết định hành chính. Các cơ quan hành chính nhà nước có thể tạo điều kiện cho công dân phát biểu ý kiến của mình trong quá trình ban hành quyết định hành chính (ví dụ: tổ chức lấy ý kiến trong quá trình xây dựng các quy hoạch đất đai, giao thông, đô thị, xây dựng các dự án, khu công nghiệp…). Ngoài ra, cũng cần quy định nguyên tắc công bố, công khai các quyết định hành chính có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhiều người dân.
Bên cạnh đó, cần hạn chế việc ban hành quyết định hành chính mang nặng tính áp đặt, thậm chí can thiệp quá sâu vào các quan hệ kinh tế, dân sự cũng như hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, cá nhân. Trong rất nhiều trường hợp, các cơ quan quản lý nhà nước đã vội vàng ban hành các quyết định hành chính mang tính ép buộc, áp đặt để giải quyết các vấn đề đa dạng của cuộc sống thay vì thực hiện các giải pháp khác (...) khiến cho sự việc trở nên phức tạp, khó thực hiện, gây tác động xấu trong dư luận.
Thứ ba, bảo đảm tính khả thi, tính dự báo, tính khách quan trong việc ban hành quyết định hành chính
Hiện nay, nhiều quyết định hành chính được ban hành không có tính khả thi do chưa có quy định của pháp luật về việc cần phải có đánh giá tác động đối với các quyết định hành chính có tác động sâu rộng đến xã hội, nên trong thời gian qua có khá nhiều các quyết định hành chính được ban hành không hợp lòng dân, gây lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước.
Trước khi ban hành một quyết định hành chính, cơ quan chuẩn bị phải đánh giá tác động dự kiến mình đưa ra như: Tại sao lại chọn phương án này? Nếu thực hiện phương án này thì kết quả đạt được là gì? Nguồn lực bảo đảm thi hành đã sẵn sàng chưa? Có hợp lý không?
Các giải pháp để thực hiện chính sách
Các giải pháp để thực hiện các chính sách nêu trên bao gồm:
- Ban hành Luật ban hành quyết định hành chính; hoàn thiện các các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật khiếu nại, tố cáo, Luật tố tụng hành chính và các đạo luật khác để bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
- Thực hiện đồng bộ với các chương trình cải cách hành chính.
- Tăng cường nhận thức cho cán bộ, công chức hành chính thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền pháp luật.
- Tăng cường cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về hành chính của các cơ quan công quyền.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo văn bản
Nhân lực
+ Cơ quan chủ trì soạn thảo: Dự kiến này áp dụng cho trường hợp cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Tư pháp.
+ Các cơ quan phối hợp soạn thảo: Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính và các bộ khác có liên quan;
+ Cơ quan, tổ chức phối hợp soạn thảo, nghiên cứu:
- Các trường, viện nghiên cứu về pháp luật
- Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
- Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp
- Các thành viên đã tham gia Đề tài khoa học cấp Bộ: Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về ban hành quyết định hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước ’’ và Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Thực trạng ủy quyền, pháp luật hiện hành về ủy quyền trong lĩnh vực quản lý, điều hành hành chính và các giải pháp hoàn thiện’’.
Kinh phí
- Sử dụng nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước theo các quy định hiện hành.
- Kết hợp sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ của các dự án, tổ chức quốc tế (nếu có)
- Kinh phí cụ thể : Kinh phí nghiên cứu xây dựng luật hàng năm (3 năm chuẩn bị) theo quy định của Nhà nước và kinh phí soạn thảo, ban hành Luật.
Dự kiến trình Quốc hội: Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết ban hành
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản và chính sách về dân số nhằm điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số bao gồm quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và đảm bảo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Pháp lệnh Dân số (PLDS 2003) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua ngày 09/01/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2003. Đây là văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước ta trong lĩnh vực dân số đã khắc phục được tình trạng tản mạn, phân tán việc điều chỉnh dân số ở nhiều văn bản trước đây. PLDS 2003 quy định phạm vi điều chỉnh là khá rộng, và toàn diện bao gồm những vấn đề liên quan đến kết quả của dân số (quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số); và đến quá trình dân số ( quá trình sinh, tử, di dân, phát triển về thể chất, trí tuệ và tinh thần của con người); quy định các nội dung quản lý nhà nước về dân số và công tác dân số.
PLDS 2003 khẳng định công dân có những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền sinh sản. Nhà nước bằng những biện pháp kinh tế, xã hội, pháp luật bảo đảm sự bình đẳng, quyền tự quyết định có trách nhiệm của mỗi cá nhân gia đình trong kiểm soát sinh sản (quyết định thời gian sinh con, số con, khoảng cách giữa các lần sinh), chăm sóc SKSS, lựa chọn nơi cư trú và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước và điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, gia đình. Kể từ ngày có hiệu lực thi hành đến nay, PLDS 2003 đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao trách nhiệm của công dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong việc kiểm soát sinh sản, lựa chọn nơi cư trú, thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. Trên thực tế hầu như không còn tình trạng cản trở hay cưỡng bức thực hiện KHHGĐ, vi phạm quyền phát triển toàn diện con người.
Nhà nước và xã hội đã không ngừng nâng cao trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong kiểm soát sinh sản, thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. Nhiều địa phương đã đảm bảo khá tốt quyền của công dân về công tác dân số, đặc biệt là trong các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình. Kết quả điều tra cho thấy mặc dù còn có sự khác nhau, việc thực hiện quyền ‘được cung cấp các dịch vụ dân số có chất lượng, thuận tiện, an toàn và được giữ bí mật theo quy định của pháp luật’ có sự tiến bộ rõ nét, nhất là ở các Trung tâm đô thị. Có những nơi, dịch vụ do khối y tế tư nhân cung cấp được người dân tín nhiệm cao hơn so với dịch vụ y tế công.
Tuy nhiên, sau 7 năm thi hành, PLDS 2003 đã bộc lộ một số hạn chế và công tác quản lý dân số vẫn còn vướng phải một số bất cập sau:
- Khá nhiều quy định của PLDS 2003 còn nặng tính nguyên tắc, chung chung, thiếu cụ thể và không áp dụng được trong thực tiễn.
- Thiếu các quy định về quyền, trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội đối với việc giải quyết những vấn đề cụ thể.
- Không quy định cụ thể các quy trình, các điều kiện đối với các đối tượng, đối với các tổ chức trong việc thực hiện các dịch vụ dân số.
- Thiếu quy định cụ thể về đối tượng ưu tiên, mức ưu tiên và chính sách ưu tiên với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và khó khăn (vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số..), người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn.
- Chưa có văn bản quy định trách nhiệm trong công tác dân số, KHHGĐ của cơ quan tổ chức quản lý lao động Việt nam ở nước ngoài và cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài; chưa có cơ chế quản lý và văn bản hướng dẫn thực hiện bảo đảm thi hành các quyền và nghĩa vụ trong công tác dân số đối với công dân Việt Nam cư trú ở ngoài lãnh thổ nước Việt Nam.
- Chưa có văn bản quy định chính sách DS-KHHGĐ cho nhóm đối tượng người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam (chưa có tài liệu truyền thông, giáo dục, các quy định riêng về chế độ thực hiện các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ dành cho nhóm đối tượng này); chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức quản lý và cung cấp dịch vụ dân số, KHHGĐ đối với nhóm đối tượng này. Vì chưa có số liệu thống kê cụ thể nên chưa thể lượng giá tác động của PLDS 2003 đối với nhóm này cũng như mức độ hạn chế quyền tiếp cận các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ với tư cách là công dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập quốc tế, thực tế này sẽ ngày một phổ biến hơn cần được xem xét điều chỉnh trong Luật Dân số, bảo đảm quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử của nhóm đối tượng này trong lĩnh vực dân số, chăm sóc SKSS/KHHGĐ.
- Một trong những vấn đề nổi cộm xuất hiện trong dân số Việt Nam đó là hiện tượng di cư diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhu cầu tư vấn và cung cấp phương tiện, dịch vụ KHHGĐ cho người di cư ngày càng lớn. Điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2004 cho thấy 64% người di cư thuộc nhóm 15-29 tuổi và gần 70% chưa kết hôn. Vì vậy nhu cầu truyền thông về hôn nhân, KHHGĐ, bảo vệ sức khỏe sinh sản, cung cấp phương tiện và dịch vụ thích hợp cho hàng triệu người di cư là cần thiết và rất lớn nhưng cũng khó khắc phục hơn do tính chất biến động cao của họ. Vấn đề này cần được đưa vào xem xét điều chỉnh trong Luật Dân số để đảm bảo sự phân bố dân số hợp lý phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội quốc gia.
- Dân số nước ta đang bước vào giai đoạn cơ cấu dân số vàng đồng thời cũng bước vào giai đoạn già hóa dân số. Năm 2007 Việt Nam có tỷ lệ người cao tuổi là 9,45%, đến năm 2020 số người cao tuổi của nước ta sẽ vượt quá 10 triệu người và chiếm trên 10% dân số. Hiện có 73% người cao tuổi sống ở nông thôn trong đó rất ít người được hưởng lương hưu, trợ cấp mà đa phần sống bằng chính sức lao động của mình hoặc hố trợ từ gia đình, 60%-70% số người cao tuổi có bệnh ốm đau cần được chăm sóc sức khỏe, nhưng không có thẻ bảo hiểm y tế mà do gia đình chi trả phí dịch vụ và tự chăm sóc bệnh nhân. Như vậy có thể nói Việt Nam đang đứng trước nguy cơ rơi vào tình trạng “Già trước khi giàu”. Đây là một thực tế đang hiện ra ngày một rõ nét, là bài toán đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước cần được đưa vào xem xét trong Luật Dân số.
- Chất lượng dân số đã tăng nhưng chậm được cải thiện. HDI của nước ta không ngừng tăng lên tuy nhiên so với thế giới thứ hạng còn thấp năm 2009 vẫn xếp thứ 116 trong số 182 nước, chưa bao giờ lọt vào tốp 100 nước phát triển nhất. Hiện nay, nhiều mô hình nâng cao chất lượng dân số được nghiên cứu thử nghiệm và tưng bước mở rộng tại 30 tỉnh, thành phố trong cả nước tuy nhiên vẫn còn những bất cập: Nhiều bà mẹ mang thai còn chưa được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh…, còn có sự khác biệt khá lớn về chỉ báo sức khỏe trẻ em giữa các vùng miền.
- Trong xã hội hiện nay, một hiện tượng nữa nổi lên đó là việc đẻ thuê, đẻ hộ, mua bán tinh trùng, noãn đang diễn ra khá phổ biến nhưng vẫn chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh… Đây là một trong những vấn đề khá nhức nhối ảnh hưởng đến chất lượng dân số Việt Nam cần được xem xét điều chỉnh trong Luật Dân số.
Do đó việc xây dựng, ban hành Luật Dân số là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay để tạo cơ sở hành lang pháp lý vững chắc cho việc quản lý dân số và công tác dân số được hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy đất nước ngày một phát triển.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh: Luật Dân số điều chỉnh những vấn đề liên quan đến kết quả của dân số (quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số) và đến quá trình dân số (quá trình sinh, tử, di dân, phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần của con người); quy định các tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình thực hiện các dịch vụ dân số, sức khỏe sinh sản; quy định cụ thể chính sách ưu tiên đối với việc sử dụng biện pháp tránh thai; quy định các nội dung quản lý nhà nước về dân số và công tác dân số.
Đối tượng áp dụng: Luật Dân số áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân Việt Nam; tổ chức nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, người nước ngoài thường trú trên lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
- Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của Việt Nam để đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội, trình độ, nhận thức của người dân.
- Kế thừa những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến các vấn đề dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình đang phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn.
- Tập hợp, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình thực hiện các dịch vụ dân số, sức khỏe sinh sản; quy định cụ thể chính sách ưu tiên đối với việc sử dụng biện pháp tránh thai nằm rải rác trong các văn bản có liên quan để đưa vào Luật.
Những nội dung chính
Chương I. Những quy định chung. Chương II. Chất lượng dân số. Chương III. Sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình. Chương IV. Cơ cấu dân số. Chương V. Phân bố dân cư. Chương VI. Thực hiện công tác dân số. Chương VII. Trách nhiệm tổ chức thực hiện Chương VIII. Điều khoản thi hành.
Duy trì mức sinh thấp hợp lý để sớm ổn định quy mô dân số dưới 120 triệu vào giữa thế kỷ 21. Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số lớn (đứng thứ 13 thế giới). Mật độ dân số Việt Nam hiện nay khoảng 260 người/km2, thuộc nhóm các nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Hệ quả của bùng nổ dân số trong những năm 75-95 dẫn đến số phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ sẽ gia tăng trong 10 năm tới, số phụ nữ bước vào tuổi 20-34 là nhiều nhất, là giai đoạn mắn đẻ nhất trong cuộc đời. Cần tiếp tục điều chỉnh mức sinh thông qua vận động các cặp vợ chồng sinh muộn, sinh thưa, sinh ít con.
Mặc dù Việt Nam đó đạt mức sinh thay thế, nhưng dân số nước ta vẫn đang trong giai đoạn nhạy cảm với cỏc yếu tố tác động đến mức sinh. Việc “duy trì mức sinh thấp hợp lý” là một lựa chọn.
Thực hiện phổ cập về sức khỏe sinh sản bao gồm cả kế hoạch hóa gia đình. Mặc dù có sự cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn sự cách biệt lớn giữa các vùng về nhiều chỉ báo SKSS như tỷ số chết mẹ, tỷ suất chết trẻ em và tỷ lệ suy dinh dưỡng; khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau sinh, chăm sóc sơ sinh ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ lệ phá thai, phá thai lặp lại còn khá phổ biến và có xu hướng tăng ở vị thành niên và thanh niên. Tỷ lệ vô sinh, nhất là vô sinh thứ phát khá cao, có xu hướng tăng, nhưng khả năng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ sinh sản còn hạn chế. Nhiễm khuẩn đường sinh sản khá phổ biến, bệnh lây truyền qua đường tình dục, tỷ lệ nhiễm HIV và ung thư đường sinh sản vẫn có xu hướng gia tăng. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS), sức khỏe tình dục (SKTD) cho các nhóm đối tượng yếu thế, vị thành niên, thanh niên chưa sẵn có và chưa dễ tiếp cận. Việc đáp ứng nhu cầu thông tin, kiến thức, dịch vụ về SKSS, sức khỏe tình dục (sau đây viết tắt là SKTD) cho các nhóm dân số đặc thù như người chưa thành niên, thanh niên, nam giới, người di cư, người khuyết tật, người có HIV, nạn nhân của bạo lực tình dục, người dân trong thảm họa thiên tai...; Bạo lực gia đình, bạo hành giới trong SKSS, SKTD vẫn còn là vấn đề bức xúc. Sàng lọc phát hiện ung thư vú và ung thư cổ tử cung chưa được thực hiện rộng rãi.
Kiểm soát tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh. Hiện tượng nổi lên trong thập kỷ qua là tỷ số giới tính khi sinh tăng nhanh và bước vào mức cao, mấy năm gần đây có dấu hiệu tăng đột biến. Nếu không có giải pháp tích cực thì sẽ xảy ra tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tác động mạnh đến cơ cấu giới tính của dân số trong khoảng hai thập niên tiếp theo, dẫn đến tình trạng dư thừa nam giới so với phụ nữ cùng độ tuổi. Sự khan hiếm phụ nữ trong độ tuổi kết hôn sẽ gây áp lực đối với việc kết hôn đồng thời có nguy cơ làm gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, buôn bán phụ nữ...
Phát huy lợi thế của cơ cấu dân số vàng.Dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) tăng nhanh cả về tỷ trọng và số lượng (khoảng 65 triệu người vào năm 2020). Điều này là cơ hội cho phát triển song cũng tạo ra những thách thức lớn về giáo dục, đào tạo nghề, tạo việc làm cho hàng chục triệu người lao động, đặc biệt là thanh niên. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phân bố lao động giữa các vùng. Việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất thời gian qua đã tạo việc làm cho người lao động, góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế của nhiều địa phương song cũng dẫn đến việc tăng giảm nhanh quy mô dân số của một số địa phương, mất cân bằng cục bộ về cơ cấu giới, tuổi dẫn đến những vấn đề mới gia đình và xã hội.
Chủ động thích ứng với dân số già. Dân số Việt Nam đang trong quá trình già hóa, số lượng người cao tuổi ngày càng tăng, cùng với bối cảnh mức sinh thấp, quy mô gia đình nhỏ, chủ yếu là gia đình hạt nhân gồm cha mẹ và con cái, đòi hỏi phải có các loại hình chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi phù hợp ngày càng bức thiết.
Nâng cao tổng thể chất lượng dân số cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số. Nâng cao chất lượng dân số có nghĩa là nâng cao thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số. Thể chất, trí tuệ và tinh thần của một dân tộc phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố (a) thu nhập bình quân của người dân và phúc lợi xã hội; (b) sức khoẻ cộng đồng và điều kiện dinh dưỡng; (c) điều kiện chăm sóc về y tế trong đó có CSSKSS; (d) Chất lượng giáo dục và môi trường phát triển trí tuệ; (đ) điều kiện giải trí về văn hoá và tinh thần; (e) điều kiện môi trường sống. Vì thế nâng cao chất lượng dân số liên quan đến nhiệm vụ của nhiều bộ, ngành.
Quy hoạch, đô thị hóa, phúc lợi cho người di cư: Dân số thành thị tăng nhanh, chủ yếu do tác động của quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Dân số nông thôn từ các tỉnh vào các thành phố, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có quy mô ngày càng lớn và góp phần đáng kể cho tăng trưởng dân số của các thành phố, tăng tỷ lệ dân số thành thị. Đa số người nhập cư vào các khu vực đô thị, công nghiệp phát triển là di cư tự do, dân số lưu động (di cư theo mùa vụ) chưa được đào tạo chuyên môn, có trình độ học vấn thấp hơn người sở tại, đa phần là người có thu nhập thấp và mang theo mình những đặc trưng của lối sống nông thôn. Những yếu tố này chắc chắn sẽ ảnh hưởng nhiều tới sự phát triển nguồn nhân lực của các khu vực đô thị hoá.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Bộ Y tế chủ trì soạn thảo trên cơ sở nguồn ngân sách do nhà nước cấp.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII.
Căn cứ pháp lý để nghiên cứu xây dựng Luật AT-VSLĐ
Vấn đề bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm ngay từ ngày thành lập nước, và tại Điều 56, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1946) đã quy định: “ Nhà nước ban hành các chính sách và chế độ về bảo hộ lao động”; năm 1991, Pháp lệnh bảo hộ lao động đã được Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 19/9/1991; năm 1994, các nội dung về an toàn lao động, vệ sinh lao động đã đưa vào một chương ( Chương IX) và ở các chương khác của Bộ luật Lao động. Trong xu thế Hội nhập nền kinh tế thế giới, đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong nhiều thập kỷ tới của Việt Nam. Chính vì vậy, chủ trương xây dựng Luật An toàn lao động, vệ sinh lao động đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý tại Quyết định số 233/2006/QĐ-TTg ngày 18/10/2006 khi phê duyệt Chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động đến năm 2010 ( Tại điểm a, khoản 1 Mục IV GIẨI PHÁP THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH nêu như sau: Tiếp tục thực hiện, thể chế hoá chủ trương, đường lối của đảng và Nhà nước về bảo hộ lao động; sửa đổi, bổ sung nội dung an toàn-vệ sinh lao động trong Bộ luật Lao động; xây dựng Luật An toàn-Vệ sinh lao động; xây dựng Quỹ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) và tại Quyết định số 2281/QĐ-TTg ngày 10/12/2010 phê duyệt Chương trình quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động giai đoạn 2011-2015 ( Tại điểm c, khoản 1, Mục II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH: Nghiên cứu xây dựng luật An toàn lao động, vệ sinh lao động).
Ngày 26/11/2011, Quốc Hội ban hành Nghị quyết số 20/2011/QH13 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc Hội nhiệm kỳ XIII trong đó có Luật An toàn, vệ sinh lao động và ngày 17 tháng 2 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 207/QĐ-TTg về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc Hội nhiệm kỳ XIII, trong đó đã giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì xây dựng Luật An toàn, vệ sinh lao động.
40.1. Sự cần thiết phải ban hành Luật ATVSLĐ
Sự bất cập, chồng chéo, phân tán của hệ thống pháp luật về ATVSLĐ hiện nay gây khó khăn cho việc thực hiện các quy định về an toàn - vệ sinh lao động. Nội dung về ATVSLĐ hiện đang được quy định trong nhiều văn bản luật (Bộ luật Lao động, Luật Hoá chất, Luật Khoáng sản, Luật Công Đoàn, Luật Môi trường, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Hợp tác xã, Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn; Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá) và nhiều văn bản do Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành. Các văn bản này tuy khá đầy đủ nhưng phân tán, đang tạo ra một hệ thống phức tạp, chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực thi). Vì vậy phải có đạo luật riêng về an toàn - vệ sinh lao động thống nhất, dễ thực hiện;
Về đối tượng điều chỉnh trong Bộ luật lao động hiện nay chỉ điều chỉnh, áp dụng đối với hoạt động lao động có quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội khác có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Trong khi đó, công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động (ATLĐ,VSLĐ) liên quan đến cả những đối tượng không thuộc phạm vi trên, ví dụ như: Cá nhân có sử dụng máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ,VSLĐ; chủ nhà thuê lao động làm công việc dân sự (bốc vác, sửa chữa nhà cửa, giúp việc nhà ...); nông dân, ngư dân, diêm dân và lao động tự do; người lao động trong các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ không có giao kết hợp đồng lao động như trong các hộ gia đình, các làng nghề...;
Việc tuân thủ pháp luật về ATVSLĐ của phần lớn các doanh nghiệp hiện nay chưa nghiêm, nhiều doanh nghiệp thực hiện các quy định có tính chất chống đối sự kiểm tra của cơ quan quản lí nhà nước. Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp còn xảy ra nghiêm trọng, hàng năm theo thông kê chưa đầy đủ, trung bình 600 người chết và gần 6000 người bị thương vì tai nạn lao động; tần suất tai nạn lao động chết người hiện nay là 5,5/100.000 lao động; Việt Nam đang có 26.982 người bị bệnh nghề nghiệp, trong đó bệnh bụi phổi silíc chiến 75%, bệnh điếc do tiếng ồn chiếm 15%. Nguyên nhân chủ yếu của tai nạn lao động do người sử dụng không trang bị thiết bị đảm bảo an toàn, không tổ chức huấn luyện cho người lao động, không tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn và không lập các biện pháp an toàn (chiếm 24% tổng số vụ tai nạn lao động chết người) và do người lao động vi phạm các biện pháp an toàn và không sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân (chiếm 38% tổng số vụ tai nạn lao động chết người).
Điều này cho thấy các quy định về ATVSLĐ cần được pháp điển hoá trong Luật mang tính pháp lý cao hơn và có đầy đủ chế tài xử phạt nghiêm minh.
Các quy định trong Bộ luật Lao động hiện nay chủ yếu tập trung vào những yêu cầu đối với NSDLĐ, NLĐ, các cơ quan quản lý và các chế độ, chính sách cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Trong khi có nhiều nội dung quan trọng về ATVSLĐ chưa được quy định hoặc không thể quy định rõ trong trong Bộ luật Lao động, mà cần phải có một luật riêng mới thể hiện được như: Đối tượng điều chỉnh đã nêu ở trên; các quy định về tổ chức quản lý về ATLĐ; việc quản lý các cơ sở, cá nhân sản xuất, chế tạo các loại máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ; quỹ bồi thường TNLĐ, BNN; Văn hóa an toàn và các quy định về phòng ngừa TNLĐ, BNN; phát triển và quản lý hoạt động các dịch vụ ATVSLĐ; lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn AT-VSLĐ;
Sự phát triển nhanh và mạnh của doanh nghiệp phải đi đôi với phát triển bền vững, đảm bảo môi trường và ATVSLĐ. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát sinh những yếu tố nguy hiểm, độc hại mới kéo theo người lao động phải làm việc trong điều kiện có nhiều nguy cơ mất an toàn. TNLĐ, BNN có xu hướng tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng, công tác ATVSLĐ ngày càng trở nên cần thiết và phải được coi trọng.
Xu thế hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi các nước phải tuân thủ các tiêu chuẩn về ATVSLĐ, vấn đề bảo đảm sức khỏe cho người lao động cần được đặt lên hàng đầu. Luật ATVSLĐ là cơ sở để thúc đẩy thực hiện các công ước đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế về ATVSLĐ của Việt Nam.
40.2. Những vấn đề tồn tại, vướng mắc trong thực thi pháp luật về an toàn - vệ sinh lao động hiện nay.
- Những bất cập về cơ chế, chính sách: Những quy định chồng chéo trong các văn bản pháp luật hiện nay; vấn đề thanh tra lao động được quy định hợp nhất nhưng không đảm bảo nguồn lực để thực hiện nên giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; chế tài xử phạt chưa nghiêm, chưa đủ sức răn đe; những quy định về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của các bên chưa được quy định đầy đủ; thiếu quy định và cơ chế quản lý đối với các cơ sở dịch vụ ATVSLĐ (dịch vụ kiểm định an toàn; dịch vụ đo kiểm môi trường lao động, dịch vụ huấn luyện và tư vấn an toàn, vệ sinh lao động); chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật cho người lao động làm trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc hại chưa phù hợp, mức bồi dưỡng hiện vật đối với người lao động đã lạc hậu; hoạt động kiểm định các máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ chưa được quản lý chặt chẽ về chất lượng; quy định về cấp Giấy chứng nhận huấn luyện còn thiếu rõ ràng gây khó khăn cho việc quản lý; quy định về khai báo, điều tra, lập biên bản, thống kê và báo cáo tai nạn lao động có vướng mắc về thời hạn điều tra làm chậm điều tra, kết luận ảnh hưởng tới việc giải quyết các chế độ cho người lao động, vướng mắc trong quá trình phối hợp điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh giữa cơ quan công an và cơ quan lao động – thương binh và xã hội địa phương.
Công tác huấn luyện ATVSLĐ cho người sử dụng lao động của các địa phương đạt tỷ lệ thấp so với tổng số doanh nghiệp trên địa bàn; công tác quản lý huấn luyện còn lỏng lẻo. Hiện nay thị trường huấn luyện an toàn vệ sinh lao động hình thành các cơ sở dịch vụ huấn luyện an toàn vệ sinh lao động. Tuy nhiên phần lớn các cơ sở huấn luyện an toàn vệ sinh lao động cho người lao động chỉ nêu nội dung có tính chất đại cương về an toàn, vệ sinh lao động, thiếu hẳn các biện pháp kĩ thuật an toàn lao động đối với nghề, công việc mà người lao động đang làm;
- Những tồn tại, vướng mắc trong việc triển khai và áp dụng các văn bản hướng dẫn ví dụ như: trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn (quy định về việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn lao động trong Bộ luật Lao động, Nghị định số 06/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ và Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn quy định chưa thống nhất nên có vướng mắc khó thực hiện); hoạt động kiểm định KTAT các loại máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động chồng chéo giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Công Thương trong việc ban hành tiêu chí, điều kiện hoạt động kiểm định và đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện kiểm định viên;
- Tình hình thực hiện pháp luật về ATVSLĐ của các doanh nghiệp: vi phạm pháp luật của NSDLĐ và NLĐ (không tổ chức huấn luyện, không có biện pháp cải thiện điều kiện lao động, không đo kiểm môi trường lao động, không thực hiện các chế độ BHLĐ cho người lao động, không tổ chức khám sức khoẻ định kỳ, không thực hiện chế độ bồi dưỡng hiện vật cho người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố độc hại (có doanh nghiệp đã không thực hiện chế độ này mà đối phó với đoàn thanh tra, kiểm tra pháp luật lao động bằng cách lấy chứng từ và hiện vật của bữa ăn ca xuất trình thay cho việc bồi dưỡng độc hại), vi phạm quy trình và các tiêu chuẩn KTAT trong sử dụng máy thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ, không trang bị và sử dụng PTBVCN); bên cạnh đó việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ATVSLĐ chưa nghiêm; tỷ lệ số doanh nghiệp báo cáo TNLĐ thấp (khoảng 5%) nên không phản ánh đúng tình hình TNLĐ hiện nay; nhiều doanh nghiệp không tổ chức bộ máy làm công tác ATVSLĐ theo đúng hướng dẫn và kinh phí đầu tư cho công tác còn hạn hẹp.
- Công tác kiểm tra, giám sát: Số liệu điều tra ở một số lĩnh vực còn thiếu và chưa đầy đủ vì vậy thiếu cơ sở để đánh giá, viện dẫn; thanh tra ATVSLĐ nằm trong Thanh tra chung nên còn nhiều bất cập, hạn chế; nguồn lực cho công tác về ATVSLĐ, lực lượng thanh tra lao độngcó chuyên môn kỹ thuật để triển khai thanh tra, kiểm tra về ATVSLĐ ngày càng càng ít, có địa phương không có;
40.3. Kinh nghiệm xây dựng và triển khai Luật AT-VSLĐ của Hàn Quốc và một số nước trên thế giới
Tại Hội thảo, chuyên gia ILO Băng Cốc và chuyên gia thuộc Cơ quan an toàn - vệ sinh lao động Hàn Quốc đã chia sẽ nhiều kinh nghiệm về việc xây dựng và triển khai Luật AT-VSLĐ tại Hàn Quốc và một số quốc gia trên thế giới, như sau:
- Công ước số 155 về ATVSLĐ được Hội nghị toàn thể của ILO thông qua ngày 22/6/1981 mà Việt Nam và một số nước khác đã phê chuẩn (kể cả Công ước 187 về Cơ chế tăng cường công tác ATVSLĐ Việt Nam đang chuẩn bị phê chuẩn) có khuyến nghị các nước đã phê chuẩn Công ước xây dựng Luật ATVSLĐ. Nguyên tắc chính của Công ước 155 là NLĐ, NSDLĐ và những cơ quan có thẩm quyền có một số quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm phải được xác định và chức năng chính của Luật và chính sách là ghi nhận các quyền và nghĩa vụ đó và trao các quyền và trách nhiệm sao cho tương xứng; các nguyên tắc khác như thiết lập hệ thống ATVSLĐ và kết nối các đối tác xã hội, nguyên tắc đưa ra những quy định để bảo vệ quyền của người lao động;
- Những nước đã xây dựng Luật ATVSLĐ cho thấy về hình thức, Luật ATVSLĐ được thiết kế theo 2 nhóm: Luật nằm trong Bộ luật Lao động (Brunei, Campuchia, Indonêxia, Lào) hoặc Luật ATVSLĐ riêng ( Nhật Bản, Philippine, Hàn Quốc, Malaysia, Trung quốc, Singapore, Mông Cổ, Thái Lan). Ở những quốc gia có Luật ATVSLĐ riêng thì công tác ATVSLĐ được thực hiện hiệu quả hơn. ILO khuyến nghị Việt Nam nên xem xét và tham khảo Luật ATVSLĐ của Malaysia, Singapore và Hàn Quốc vì các luật này điều chỉnh đến nhiều đối tượng lao động. Tuy nhiên, ILO cũng thông tin thêm là việc áp dụng đối với tất cả các đối tượng trên của Singapore thực tế vẫn chưa được triệt để, chủ yếu vẫn tập trung vào người lao động trong những ngành có nguy cơ cao. Luật mới của VN nên mở rộng phạm vi áp dụng các quy định liên quan đến ATVSLĐ và bảo hộ tới tất cả các ngành kinh tế bao gồm cả lao động tự do, lao động di cư… Việc mở rộng phạm vi đối với Luật ATVSLĐ sẽ dễ dàng hơn việc mở rộng phạm vi và đối tượng trong Bộ luật Lao động hiện nay. Tuy nhiên tuỳ điều kiện VN cũng nên xem xét lộ trình và cân nhắc các đối tượng mới đến đâu làm sao khi quy định phải áp dụng được;
- Ban chuyên gia của ILO về đánh giá thực hiện Công ước 155 của Việt Nam cũng đề nghị chính sách quốc gia về ATVSLĐ của Việt Nam nên bao gồm các biện pháp phòng ngừa và biện pháp hạn chế nguy cơ gây ra những rủi ro thường thấy tại nơi làm việc. Quá trình xây dựng Luật AT-VSLĐ nên tham vấn các tổ chức của NSDLĐ và người lao động và Ban chuyên gia cũng đưa ra những yêu cầu về các trách nhiệm cụ thể đối với các bên liên quan như Chính phủ, các cơ quan nhà nước, NSDLĐ, NLĐ;
- Chương trình nghị sự và Việc làm bền vững của ILO chỉ ra rằng việc làm bền vững không chỉ cho con người sinh nhai trong ngắn hạn mà còn cho con người quyền được sống và làm việc cho chính mình và chịu trách nhiệm về môi trường làm việc; quyền được bảo vệ trước những nguy cơ và sự thay đổi của cuộc sống và công việc đối với người lao động và gia đình;
- Việt Nam cũng nên tham khảo các tiêu chuẩn quốc tế có ý nghĩa đối với khung pháp luật mới của Việt Nam về ATVSLĐ và xem xét các mối quan hệ liên quan như Luật Lao động với thị trường; giữa Luật ATVSLĐ và Bộ luật Lao động; Luật ATVSLĐ và thương mại quốc tế; thừa nhận rộng hơn về khái niệm an toàn và sức khỏe, khái niệm an toàn và vệ sinh cần bao gồm những yếu tố về thể chất và tinh thần ảnh hưởng tới sức khoẻ và trực tiếp liên quan đến an toàn và vệ sinh trong công việc. Bộ luật Lao động và các quy định hiện tại chỉ đưa ra một định nghĩa hẹp về an toàn và sức khoẻ không bao gồm các yếu tố tinh thần ảnh hưởng tới sức khoẻ;
- Hàn Quốc xây dựng Luật AT-VSLĐ riêng từ năm 1981 và sửa đổi vào 1990. Phạm vi đề cập Luật ATVSLĐ được mở rộng tới tất cả các nơi làm việc. Phạm vi tất cả các doanh nghiệp và nơi làm việc bao gồm cả nhà nước, cơ quan địa phương và các tổ chức khác. Bên cạnh đó, Hàn Quốc đã thực hiện nhiều Chương trình phòng ngừa tai nạn lao động (lần thứ thứ 1 năm 1983 và lần thứ 2 từ năm 1990 đến 1996, tần suất tai nạn lao động giai đoạn này đã giảm từ 1,62% xuống còn 0.93%.
Thực hiện Luật AT-VSLĐ, Hàn Quốc đã thành lập Cơ quan An toàn công nghiệp Hàn Quốc (năm 1987) và phát triển nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động về an toàn - vệ sinh lao động, như Hiệp hội an toàn lao động Hàn Quốc, Hiệp hội sức khoẻ công nghiệp Hàn Quốc...Đồng thời đã tổ chức nhiều hoạt động về ATVSLĐ cấp quốc gia như Tuần lễ Quốc gia AT-VSLĐ hàng năm (từ 1968 cho đến nay).
Hiện nay Hàn Quốc cũng là một trong những quốc gia có Quỹ bồi thường tai nạn lao động, trong đó có Quỹ phòng ngừa tai nạn lao động đi đầu trong xây dựng chiến dịch văn hoá an toàn phòng ngừa (Tại Đại hội thế giới về ATVSLĐ năm 2008 tổ chức tại Seoul Hàn Quốc đã thông qua Tuyên bố Seoul về An toàn và Sức khoẻ tại nơi làm việc). Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tổ chức và hoạt động ATVSLĐ rất mạnh trên thế giới.
- Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới từ năm 2007 và phải tham gia hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, phải đàm phán và kí kết các hiệp định thương mại, các quyền lao động cần phải được chú ý, vấn đề ATVSLĐ luôn được xem xét, cộng đồng quốc tế quan tâm các nhà đầu tư không chỉ tối đa hoá lợi nhuận mà cần phải quan tâm đến điều kiện lao động. Hội nhập quốc tế đồng thời chúng ta cũng phải tuân thủ những tiêu chuẩn quốc tế. Luật pháp quốc gia cũng cần hoà đồng với các tiêu chuẩn quốc tế, vấn đề ATVSLĐ mang tính toàn cầu. Đồng thời, người dân các quốc gia nhập khẩu sản phẩm của Việt nam cũng quan tâm nhiều đến việc cải thiện điều kiện lao động, môi trường lao động, đảm bảo an toàn lao động của những người công nhân làm ra sản phẩm đó. Các quốc gia đầu tư vào Việt Nam cũng rất quan tấm đến các quy định về ATVSLĐ của Việt Nam. Việc ban hành Luật An toàn - vệ sinh lao động một cách hệ thống, với các quy định được cập nhật phù hợp với quốc tế là một xu thế trong quá trình hội nhập.
40.4. Tác động của việc ban hành Luật AT-VSLĐ
- Việc nghiên cứu xây dựng Luật An toàn lao động, vệ sinh lao động theo hướng tách ra từ Bộ luật Lao động để xây dựng thành một luật riêng như: luật Bảo hiểm xã hội, luật Dạy nghề, luật người cao tuổi, luật người khuyết tật...sẽ làm đơn giản hoá thủ tục hành chính, chỉ rõ trách nhiệm của Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và các đối tượng liên quan nhằm đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành góp phần làm cho khung pháp lý về an toàn lao động, vệ sinh lao động của Việt Nam ngày càng trở lên mạnh mẽ hơn. Mặt khác, việc tách thành Luật An toàn lao động, vệ sinh lao động cũng không ảnh hưởng đến kết cấu và tính chất của Bộ luật Lao động hiện hành.
- Hiệu lực pháp lí sẽ được nâng cao, loại bỏ việc chồng chéo trong quản lí nhà nước trong An toàn vệ sinh lao động, vệ sinh lao động. Góp phần giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh, phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tạo bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động; Tạo tiền để triển khai các biện pháp tổng thể và hiệu quả hơn để phòng chống tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe người lao động.
- Thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà nước đến việc chăm lo sức khỏe người lao động
40.5. Đề xuất từ Hội thảo
- Nội dung Luật phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đầy đủ, tiến bộ, hội nhập, khắc phục được nhiều vấn đề còn tồn tại trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về ATVSLĐ;
- Quá trình nghiên cứu, xây dựng Luật phải quán triệt và thấm nhuần sâu sắc các quan điểm, đường lối của Đảng, Bác Hồ và Nhà nước ta về ATVSLĐ, quy định phù hợp với đặc điểm khí hậu, thiên nhiên, con người Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và truyền thống văn hóa của dân tộc; quán triệt chủ trương xã hội hoá vì đây là chủ trương đã được quốc tế hoá, công tác ATVSLĐ là “trách nhiệm của toàn xã hội” vì vậy công tác này cần huy động được nguồn lực của toàn xã hội.
- Về nội dung điều chỉnh Luật phải đầy đủ hơn đến những nội dung về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật ATLĐ; văn hoá an toàn và phòng ngừa TNLĐ; đào tạo nghề về ATVSLĐ; phải gắn ATVSLĐ với việc bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu; vấn đề xã hội hoá các dịch vụ an toàn, vệ sinh lao động; cơ chế nguồn lực cả về tài chính và con người cho công tác này (về cơ chế kinh phí chỉ đưa có tính nguyên tắc không quy định cụ thể, về nguồn lực đưa vào phải có nghiên cứu, cơ sở đánh giá); phải đưa ra các giải pháp về cơ chế trách nhiệm chủ trì, phối hợp, trong đó giao cho một cơ quan chủ trì và thống nhất quản lý chung và trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan; quy định rõ trách nhiệm của nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và các đối tượng liên quan làm khung pháp lý về ATVSLĐ; cơ chế đối với các cơ sở dịch vụ về ATVSLĐ; chế tài xử phạt phải rõ và nghiêm.
- Về tên gọi của Luật hiện đang có nhiều đề xuất như : Luật ATVSLĐ (Dự thảo Luật hiện nay), Luật An toàn - vệ sinh lao động và sức khoẻ nghề nghiệp (Bộ Y tế); Luật An toàn và Sức khoẻ nghề nghiệp (Hội KHKT ATVSLĐ Việt Nam), Luật Bảo hộ lao động... Vì vậy, tên của luật cần được nghiên cứu, xem xét khi xây dựng Luật. Vì tên luật khi đã đăng ký thì thường khó thay đổi. Việc quy định tên Luật liên quan đến nội dung Luật và liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan chủ trì và phối hợp soạn thảo, xây dựng. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng việc đặt tên như thế nào để không làm xáo trộn các quy định hiện hành và điều quan trọng là những nội dung quy định ở trong Luật.
- Về đối tượng và phạm vi điều chỉnh nên áp dụng tất cả các đối tượng lao động bao gồm có quan hệ lao động và không có quan hệ lao động (trong doanh nghiệp, ngoài doanh nghiệp, lao động trong nông nghiệp, lao động gia đình…). Tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng việc mở rộng đối tượng là nên nhưng phải có lộ trình để làm sao vừa thực hiện được những khuyến nghị nhưng cũng phải phù hợp với điều kiện Việt Nam. Việc đưa ra các quy định thì phải đảm bảo áp dụng được, tránh mắc phải hạn chế như một số nước hiện nay Luật thì áp dụng cho tất cả các đối tượng nhưng trên thực tế vẫn chỉ áp dụng được đối với người lao động trong những ngành, nghề nặng nhọc, độc hại, có nguy cơ cao.
- Cần phải tiến hành điều tra các lĩnh vực để có cơ sở, số liệu viện dẫn (tình hình thực hiện pháp về ATVSLĐ, nguồn lực, TNLĐ trong làng nghề, nông nghiệp; điều tra về nhận thức…). Đặt ra các chuyên đề để sơn tiến hành nghiên cứu làm căn cứ đề xuất các nội dung xây dựng luật;
- Việc trao đổi kinh nghiệm xây dựng Luật của các nước là cần thiết. Cần phải tranh thủ sự hỗ trợ của các các tổ chức quốc tế, đặc biệt là ILO, WHO và các tổ chức An toàn - vệ sinh lao động có truyền thống hợp tác để có những hỗ trợ hữu ích về tài chính, kỹ thuật, tác động đến cơ quan lập pháp và cộng đồng xã hội.
Dự kiến thời gian trình: Trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8.
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự
Bối cảnh, thực trạng quan hệ xã hội đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự, mục tiêu và các vấn đề cần giải quyết
Bối cảnh, thực trạng quan hệ xã hội đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000. Kể từ năm 2000, Bộ luật hình sự dã góp phần quan trong vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Bộ luật hình sự 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và để khắc phục một bước những bất cập, hạn chế này, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999 đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
Trong lần sửa đổi, bổ sung này, Bộ luật hình sự mới chỉ được sửa đổi, bổ sung trong phạm vi hẹp, tập trung vào một số loại tội phạm cụ thể nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách nhất của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà chưa có điều kiện để sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện nội dung của Bộ luật. Vì thế, nhiều bất cập, hạn chế của Bộ luật hình sự vẫn còn hiện hữu, chưa được khắc phục, như một số bất cập trong các quy định tại phần chung Bộ luật hình sự về chế định tội phạm, chế định hình phạt…, các quy định tại phần các tội phạm cụ thể về cấu thành tội phạm, các yếu tố định tội, định khung, khung hình phạt, …cũng như những hạn chế trong các quy định về chính sách hình sự, nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và đối với những tội phạm xâm hại người chưa thành niên, v.v.... Điều này gây không ít khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự là hết sức cần thiết nhằm góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Quốc hội khóa XII nêu tại Nghị quyết số: 33/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự là giao cho "Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ... phối hợp với các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu các điều khoản của Bộ luật hình sự có vướng mắc, bất cập trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà chưa có điều kiện sửa đổi, bổ sung để chuẩn bị phương án cho việc sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự".
Mục tiêu
Việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự nhằm các mục tiêu sau đây:
Thứ nhất, góp phần thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp, khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng tăng cường tính nhân đạo, góp phần đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, bảo đảm tính công bằng, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ ba, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường sống lành mạnh cho mọi người dân.
Thứ tư, góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực, thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên (như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trên lĩnh vực con nuôi nước ngoài, Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tôi tệ nhất, Công ước quốc tế về phòng, chống tham nhũng…), đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện những yêu cầu trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đang có kế hoạch trở thành thành viên (như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các nghị định thư kèm theo…).
Các vấn đề cần giải quyết
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định hiện có của BLHS, cụ thể:
- Một số quy định liên quan đến các chế định về tội phạm và hình phạt tại Phần chung BLHS chưa thực sự rõ ràng, hợp lý. Một số quy định còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều lúng túng, không thống nhất,…
- Nhiều quy định về các tội phạm cụ thể còn quá chung, quy định về khung hình phạt của nhiều tội tại Phần các tội phạm còn quá rộng gây khó khăn cho việc xác định tội danh cũng như áp dụng thống nhất pháp luật. Đặc biệt, một số quy định về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đã gây khó khăn trong việc định tội và định khung hình phạt ...
- Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như người chưa thành niên là đối tượng bị tội phạm xâm hại chưa thực sự phù hợp với yêu cầu về bảo vệ người chưa thành niên trong điều kiện hiện nay, cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và những đòi hỏi của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, cần nghiên cứu một số vấn đề mới để có phương án bổ sung vào BLHS, ví dụ như:
- Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Đây là vấn đề đã được đặt ra nhiều lần trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS (năm 1999 và năm 2009) và là một trong những yêu cầu của các Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF).
- Vấn đề tha tù trước thời hạn. Đây là một chế định mang tính nhân đạo đã được ghi nhận trong luật pháp của một số nước và vấn đề này đã được triển khai nghiên cứu trong năm 2009 khi tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS nhưng do chưa có nhiều thời gian nghiên cứu kỹ nên vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu để có phương án bổ sung vào BLHS.
- Vấn đề "tổ chức tội phạm". Đây là một vấn đề mang tính quốc tế được ghi nhận trong Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các Nghị định thư kèm theo Công ước và cũng đã được đặt ra trong năm 2009 khi khi tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS. Hiện nay, nước ta đang chuẩn bị phê chuẩn Công ước này. Do vậy, vấn đề "tổ chức tội phạm" cần được tiếp tục nghiên cứu để có phương án bổ sung vào BLHS.
Tổng kết, đánh giá thực trạng những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành có liên quan đến các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung
Tổng kết, đánh giá thực trạng những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành có liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung cho thấy:
- Hiện nay, Bộ luật hình sự chưa có quy định về các khái niệm “phạm nhiều tội” và “phạm tội nhiều lần” nên trong thực tiễn chưa có cách hiểu thống nhất về các khái niệm này, vẫn còn có nhầm lẫn giữa “phạm tội nhiều lần” với “phạm nhiều tội” dẫn đến tình trạng có trường hợp hai hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị xét xử về một tội hoặc một hành vi nguy hiểm cho xã hội lại bị xét xử về hai tội. Thêm vào đó, một số quy định của Bộ luật hình sự, đặc biệt là những quy định mới chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn kịp thời và đầy đủ trong khi tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nên các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong quá trình áp dụng.
- Một số quy định tại phần chung Bộ luật hình sự về chế định tội phạm có thể liệt kê như: quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự (Điều 2) chưa xác định rõ thế nào là trách nhiệm hình sự, thời điểm phát sinh và kết thúc trách nhiệm hình sự; quy định về khái niệm tội phạm (Điều 8) chưa thật khái quát; chế định đồng phạm (Điều 20) chưa rõ ràng về người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 46 và 48) chưa rõ ràng dẫn đến khó áp dụng thống nhất,...
- Một số quy định tại Phần chung BLHS về chế định hình phạt có thể liệt kê như: quy định về hình phạt cảnh cáo (Điều 29) không có tác dụng giáo dục, răn đe người phạm tội trong thực tiễn. Các quy định của BLHS hiện hành dẫn đến một bất hợp lý là các biện pháp tư pháp, hình phạt không tước tự do như cải tạo không giam giữ không được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Quy định về hình phạt bổ sung tước một số quyền công dân còn mâu thuẫn với các quy định tại các điều luật cụ thể của Phần các tội phạm...;
- Một số quy định về các tội phạm cụ thể có thể kể ra như: một số điều luật không mô tả hành vi khách quan nên khó xác định chính xác tội danh và áp dụng thống nhất (Điều 119, 120, 134, 136, 137, 138…); nội dung quy định trong cấu thành của một số tội phạm còn có những bất cập, khó thực hiện, khó chứng minh trên thực tế (Điều 80, 84, 104, 105, 119 …); nhiều tội danh quy định ghép các hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau vào cùng một điều luật, gây khó khăn trong việc định tội và định khung hình phạt (điều 120, 180, 181, 194...)...;
- Những quy định về các khung hình phạt tại Phần các tội phạm có thể liệt kê như: mức khởi đầu và mức cuối của khung hình phạt tù có thời hạn quá dài (khoản 3 Điều 104, khoản 1 Điều 133,...); khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tiền còn quá rộng (Điều 271, 133...).. dẫn đến khả năng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện;
- Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như người chưa thành niên là đối tượng bị tội phạm xâm hại (nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên, hệ thống hình phạt đối với người chưa thành niên…) chưa thực sự phù hợp với thực tiễn hiện nay và chưa đáp ứng yêu cầu của các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung
Các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung của Bộ luật hình sự dự kiến bao gồm:
Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chế định tội phạm
- Cơ sở của trách nhiệm hình sự, khái niệm tội phạm, nguyên tắc xử lý.
- Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
- Chế định đồng phạm, phạm tội có tổ chức.
- Vấn đề miễn trách nhiệm hình sự.
Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chế định hình phạt
- Hệ thống các hình phạt và nguyên tắc áp dụng.
- Hệ thống các biện pháp tư pháp và nguyên tắc áp dụng.
- Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Nguyên tắc quyết định hình phạt.
- Vấn đề miễn, giảm hình phạt; đình chỉ, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt.
- Vấn đề xóa án tích
Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
- Nguyên tắc xử lý.
- Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Một số ưu đãi đối với người chưa thành niên phạm tội liên quan đến các vấn đề về quyết định hình phạt, miễn, giảm hình phạt, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, xóa án tích.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về cấu thành của các tội phạm cụ thể
- Xuất phát thực tiễn đấu tranh với các loại tội phạm như tội phạm kinh tế, tội phạm môi trường, tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, … chúng ta thấy quy định hiện hành còn nhiều bất cập trong yếu tố cấu thành tội phạm, các tình tiết định khung cũng như mức hình phạt làm giảm hiệu quả phòng ngừa và gây khó khăn khi áp dụng các quy định nói trên. Cụ thể là, với các tội phạm kinh tế thì nên nghiên cứu tăng cường chế tài vật chất để nâng cao tính răn đe đối với loại tội phạm này; các tội phạm môi trường với các yếu tố cấu thành quá chặt chẽ như hiện nay không thể áp dụng được trong thực tiễn; các tội phạm mua bán phụ nữ, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em cũng do yếu tố cấu thành chưa rõ ràng nên gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật... Việc hoàn thiện các quy định về các tội phạm này bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền con người, ... Vì vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi các quy định này là vấn đề cần thiết.
- Một số quy định của Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em, tội khủng bố, tài trợ khủng bố, rửa tiền cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu của cam kết quốc tế. Cụ thể: quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em cần tương thích với các quy định của Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Nghị định thư về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung Công ước Quyền trẻ em; quy định về tội phạm khủng bố cần phải đáp ứng yêu cầu của các điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt Nam đã là thành viên; quy định về các tội phạm liên quan đến rửa tiền phải tuân thủ yêu cầu của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền.
Nghiên cứu, bổ sung một số vấn đề mới
- Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân:
Để xử lý tội phạm một cách triệt để, nhất là các tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, môi trường, ... đã đến lúc cần phải đặt lại vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nhất là pháp nhân kinh tế, bởi vì, hiện nay không ít tổ chức kinh tế (pháp nhân), vì chạy theo lợi ích cục bộ mà đã thực hiện nhiểu hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm (ví dụ: đầu cơ, trốn thuế, kinh doanh trái phép, buôn lậu hoặc vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường, về bảo hộ lao động gây hậu quả nghiêm trọng, v.v...), trong khi đó, chính sách hình sự của nhà nước ta hiện nay mới chỉ xử lý đối với cá nhân phạm tội, còn tổ chức (pháp nhân) cũng có hành vi vi phạm tương tự thì không bị xử lý về hình sự mà bị áp dụng các chế tài xử phạt khác (hành chính, kinh tế, dân sự). Việc xử lý như vậy là chưa thật thoả đáng, chưa truy xét đến cùng trách nhiệm đối với hành vi phạm tội. Pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nhất là đối với pháp nhân kinh tế (từ năm 1997 Bộ luật Hình sự Trung Quốc quy định rất rõ vấn đề này).
Tuy nhiên, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một vấn đề lớn liên quan đến nhiều chế định tại Phần chung của BLHS. Việc bổ sung chế định này vào BLHS sẽ làm thay đổi hoàn toàn các quan niệm từ trước đến nay về cơ sở trách nhiệm hình sự, năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi, hình phạt, ... Do vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng để chuẩn bị cho việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự.
- Về chế định trả tự do trước hạn có điều kiện:
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới có áp dụng chế định này. Thực chất đây là việc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với người bị áp dụng các chế tài tước tự do và đã chấp hành chế tài được một thời gian nhất định, tích cực cải tạo, có nhiều tiến bộ, với điều kiện là sau khi được trả tự do, người đó phải tuân thủ một số điều kiện nhất định như phải tuân thủ pháp luật, tích cực thực hiện các nghĩa vụ công dân, tham gia vào một số chương trình dịch vụ xã hội nhằm khắc phục nguyên nhân, điều kiện pháp tội như liệu pháp tậm lý, giáo dục kỹ năng sống, cai nghiện rượu hoặc ma túy..., dưới sự giám sát của các cán bộ giám sát trong một thời gian nhất định. Chế định này có nhiều ưu điểm như khuyến khích gia đình, các đoàn thể xã hội, cộng đồng tham gia vào việc giáo dục, phục hồi đối với người bị kết án, cho phép tăng cường giảm án, tha tù trước thời hạn, nhờ đó mà giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và tình trạng quá tải trong trại giam nhưng vẫn bảo đảm phòng ngừa tái phạm; khuyến khích người phạm tội tích cực cải tạo... Chính vì thế, chế định này rất phù hợp với chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta và chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án. Vì thế việc nghiên cứu bổ sung chế định này vào quy định của Bộ luật hình sự là vấn đề cần thiết.
- Về vấn đề "tổ chức tội phạm":
Đây là một khái niệm mang tính quốc tế và đã có trong pháp luật của các nước. Tuy nhiên, ở nước ta thì đây là một vấn đề "mới", chưa được pháp luật hình sự ghi nhận, mặc dù trên thực tế cũng đã có một số băng nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu "xã hội đen". Vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung chế định này vào BLHS là góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong nước và hội nhập quốc tế.
Các giải pháp cần thực hiện sau khi Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung toàn diện
Các giải pháp để thực hiện bao gồm:
1. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm bảo đảm việc thực hiện các quy định của BLHS một cách thống nhất, đồng bộ.
2. Tăng cường nhận thức cho đội ngũ cán bộ, quần chúng nhân dân thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền pháp luật.
Các tác động tích cực, tiêu cực của việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự
Trong việc đánh giá tác động sơ bộ của việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự, những chi phí, lợi ích cho việc sửa đổi, bổ sung và thực thi những quy định này chủ yếu được phân tích dưới góc độ định tính; cần phải nói rằng tác động đáng kể hay không đáng kể của việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự còn phụ thuộc vào việc thông qua, áp dụng phương án nào cho một số quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi. Tại phần này, chúng tôi đánh giá các tác động của việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự dựa trên các phương án tối ưu được lựa chọn.
Có thể nêu những tác động sau đây nếu sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự.
Tác động tích cực
Việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự sẽ có những tác động tích cực sau đây:
- Góp phần thể chế hóa được chủ trương, chính sách về cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, làm cho chính sách hình sự ngày càng mang tính nhân đạo hơn.
- Tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc mà các cơ quan thực thi pháp luật đang gặp phải trên thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay, góp phần vào việc đảm bảo tính khách quan, dân chủ, minh bạch, công khai, hạn chế sự tùy tiện trong quá trình áp dụng pháp luật.
- Góp phần đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, bảo đảm tính công bằng, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Góp phần nâng cao hiệu quả trong việc đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Góp phần tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế khi những quy định của Bộ luật này về cơ bản sẽ đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc sẽ là thành viên trong thời gian tới.
Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên thì việc thực thi BLHS sau khi đã được sửa đổi, bổ sung toàn diện sẽ làm tăng thêm một phần chi phí từ ngân sách nhà nước. Các chi phí này bao gồm:
- Chi phí cho việc nghiên cứu soạn thảo và tổ chức thực hiện các văn bản hướng dẫn thi hành một số quy định mới được sửa đổi, bổ sung của BLHS;
- Chi phí tập huấn cho đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện các quy định của BLHS;
- Chi phí tuyên truyền, nâng cao nhận thức của công chúng về quyền, lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến những vấn đề mới được sửa đổi, bổ sung (chi phí tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và in ấn các tài liệu, các tờ rơi);
- Chi phí nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức nhà nước;
- Các chi phí có thể phát sinh khác;
Tuy nhiên, những chi phí này chỉ phát sinh trong một hai năm đầu khi bắt đầu áp dụng những quy định mới được sửa đổi, bổ sung của BLHS và sẽ giảm trong những năm tiếp theo.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo văn bản
Nhân lực
- Cơ quan chủ trì soạn thảo: Dự kiến này áp dụng cho trường hợp cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Tư pháp
- Các cơ quan phối hợp soạn thảo: Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng và các bộ khác có liên quan
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp soạn thảo, nghiên cứu:
+ Các trường, viện nghiên cứu về pháp luật
+ Các chuyên gia, các nhà khoa học mà nòng cốt là những người đã tham gia nghiên cứu Đề tài khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới”.
Kinh phí
- Sử dụng nguồi tài chính từ ngân sách nhà nước theo các quy định hiện hành
- Kết hợp sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ của các dự án, tổ chức quốc tế (nếu có)
- Kinh phí cụ thể: Kinh phí nghiên cứu xây dựng luật hành năm theo quy định của Nhà nước và kinh phí soạn thảo, ban hành Luật.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8, thông qua tại Kỳ họp thứ 9
Sự cần thiết ban hành văn bản
Bảo vệ bí mật nhà nước là một nội dung quan trọng của công tác bảo vệ an ninh quốc gia được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Từ năm 1991 đến nay, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã hai lần ban hành Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước (năm 1991 và năm 2000), Chính phủ, Bộ Công an đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Thông tư số 12/2002/TT-BCA(A11) ngày 13/9/2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 33/2002/NĐ-CP...).
Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước số 30/2000/PL-UBTVQH10 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X thông qua ngày 28/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2001 (sau đây gọi là Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000). Sau 10 năm thực hiện, Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước đã cho thấy những ưu điểm cơ bản, toàn diện, tuy nhiên còn một số tồn tại, vướng mắc như:
Một số quy định của của Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn chưa phù hợp với thực tế các bộ, ngành, địa phương, khó áp dụng. Cụ thể:
- Chưa có quy định rõ về khái niệm bí mật nhà nước, phạm vi từng độ mật Tuyệt mật, Tối mật, Mật quy định còn chung chung dẫn đến các cách hiểu khác nhau và việc xác định độ mật của văn bản tùy tiện như: không mật lại đóng dấu mật, đóng sai độ mật của văn bản...
- Chưa có quy định cụ thể về nội dung hợp tác quốc tế trong bảo vệ bí mật nhà nước ở Pháp lệnh. Trong những năm qua, Việt Nam đã ký Điều ước quốc tế với rất nhiều nước về việc trao đổi thông tin mật như: Hiệp định ký với Nga, Ucraina, Bêlarút, Ba Lan... và sắp tới là ký với Bungari. Việc pháp luật trong nước chưa quy định về vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ bí mật nhà nước, trao đổi thông tin mật dẫn đến khó khăn trong việc triển khai thi hành các điều ước quốc tế mà ta đã ký kết với các nước, cũng như khó khăn khi nội luật hóa các điều ước này.
- Chưa có quy định về bảo vệ bí mật nhà nước trên các lĩnh vực cụ thể như thông tin liên lạc, báo chí, xuất bản, quan hệ hợp tác quốc tế... Hiện nay, việc lộ, mất các thông tin có nội dung bí mật nhà nước trên Internet, báo chí, hội thảo quốc tế... đang xảy ra rất nhiều gây hậu quả nghiêm trọng đòi hỏi cần phải có quy định pháp luật để điều chỉnh.
- Chưa quy định về giải mật bí mật nhà nước, dẫn đến khi giải mật các văn bản trên thực tế không còn mật nữa ở tất cả các Bộ, ban, ngành... gặp rất nhiều khó khăn và là đòi hỏi cấp bách phải đưa quy định này vào điều chỉnh trong các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ bí mật nhà nước.
- Chưa quy định về chế độ chính sách đối với cán bộ chuyên trách làm công tác bảo vệ bí mật nhà nước ở các đơn vị, địa phương dẫn đến các Bộ, ban, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí cán bộ làm công tác này không đủ năng lực, quản lý không thống nhất, chặt chẽ nên chưa động viên được những đối tượng này.
- Chưa quy định riêng ngân sách dành cho công tác bảo vệ bí mật nhà nước dẫn đến rất khó khăn khi mua sắm trang thiết bị bảo mật, áp dụng chế độ chính sách...
Ngoài ra, trước tình hình trong nước và quốc tế diễn biến ngày càng phức tạp, tác động trực tiếp đến an ninh, trật tự, thu thập BMNN luôn là mục tiêu hướng tới của các cơ quan đặc biệt, các cơ quan đại diện nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam. Các cơ quan này đều tổ chức các hoạt động thu thập tin tức thuộc danh mục BMNN phục vụ mục đích chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh, quốc phòng và các lợi ích quốc gia khác của họ. Phương thức mà các cơ quan trên sử dụng để thu thập bí mật nhà nước hết sức đa dạng, trong đó nguy hiểm nhất là cài cắm nội gián vào nội bộ ta để lấy cắp thông tin mật. Qua đấu tranh, cho thấy thời gian qua, các cơ quan đặc biệt nước ngoài đã thâm nhập, thu thập nhiều tin tức thuộc bí mật nhà nước của một số cơ quan Trung ương và địa phương.
Thực tiễn thời gian qua, tình hình lộ, lọt bí mật nhà nước diễn biến hết sức phức tạp. Theo báo cáo của các Bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thời gian qua đã phát hiện 229 vụ với tổng số 757 tài liệu thuộc bí mật nhà nước bị lộ, lọt; trong đó có 212 tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; 24 tài liêu về nhân sự, tổ chức; 111 tài liệu về kinh tế, 337 tài liệu về quốc phòng, an ninh... Trong đó, nhiều tài liệu thuộc danh mục Tuyệt mật, Tối mật đã bị lộ, lọt liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; về đường lối phát triển đất nước, về quan hệ đối ngoại; về chủ trương giải quyết các tranh chấp về biên giới, biển đảo. Đặc biệt là vấn đề nội bộ, liên quan đến cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước.
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đến công tác bảo vệ bí mật nhà nước để nhanh chóng đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Ngày 16/8/2010, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 5724/VPCP-TCCV thông báo ý kiến Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an phối hợp với các cơ quan liên quan tổng kết, đánh giá việc thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 18/3/2011, Bộ Công an ban hành Hướng dẫn số 03/HD-BCA-A81 đề nghị các Bộ, ban, ngành Trung ương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000.
Trên cơ sở tổng kết của các ngành, địa phương, Bộ Công an đang khẩn trương tiến hành tổng kết chung làm cơ sở để đề xuất hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
Từ những tồn tại, vướng mắc nêu trên và yêu cầu công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong thời gian tới, việc nghiên cứu xây dựng dự án Luật bảo vệ bí mật nhà nước là cần thiết, thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 nhằm kịp thời bổ sung những nội dung chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ, chưa phù hợp với thực tế của công tác bảo vệ bí mật nhà nước. Dự án Luật bảo vệ bí mật nhà nước được đưa vào Chương trình chuẩn bị thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (Nghị quyết số 20/2011/QH13).
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
Luật bảo vệ bí mật nhà nước quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng liên quan đến hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước như quy định về bí mật nhà nước, bảo vệ bí mật nhà nước, phạm vi bảo vệ bí mật nhà nước, quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước…
Luật bảo vệ bí mật nhà nước áp dụng đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan điểm, nội dung chính của văn bản
Quan điểm xây dựng văn bản
- Thể chế hóa đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác bảo vệ an ninh quốc gia; bảo đảm cho các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ bí mật nhà nước.
- Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; đáp ứng được yêu cầu bảo vệ bí mật nhà nước trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tiếp theo.
- Tạo cơ sở pháp lý mới đầy đủ hơn, tương xứng hơn cho tổ chức hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ bí mật nhà nước.
- Tham khảo có chọn lọc pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước của một số nước phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, pháp luật, thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Những nội dung chính của văn bản
- Những quy định chung;
- Phạm vi, biện pháp, thẩm quyền trong bảo vệ bí mật nhà nước;
- Quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước;
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân về bảo vệ bí mật nhà nước;
- Cơ quan chuyên trách về bảo vệ bí mật nhà nước và cán bộ chuyên trách làm công tác bảo vệ bí mật nhà nước;
- Quy định về bảo vệ bí mật nhà nước trên các lĩnh vực cụ thể: thông tin liên lạc (Internet, fax, điện thoại...), thông tin truyền thông (báo chí...)...;
- Hợp tác quốc tế trong hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước;
- Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác bảo đảm xây dựng văn bản
Về nguồn lực tài chính
Luật bảo vệ bí mật nhà nước được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
Nhân lực và các nguồn lực khác
Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, như: Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ…
Dự kiến thời gian trình văn bản
- Trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 11 năm 2014).
Sự cần thiết:
Các điều kiện khí tượng thuỷ văn có ảnh hưởng rộng rãi đối với phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và phòng chống thiên tai. Đồng thời, ngành khí tượng thuỷ văn Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài. Hoạt động của ngành được ghi nhận là có đóng góp to lớn đối với xã hội, an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế, xã hội, phòng chống thiên tai. Tuy nhiên, hành lang pháp lý cho hoạt động của ngành nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu. văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp hoạt động khí tượng thuỷ văn là Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thuỷ văn.
Thực tiễn triển khai công tác khí tượng thuỷ văn thời gian qua cho thấy đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập xuất phát từ sự hạn chế về khung pháp lý, cụ thể là:
- Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình khí tượng thuỷ văn chỉ điều chỉnh chủ yếu đến mảng công tác điều tra cơ bản, cụ thể là khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thuỷ văn. Vì vậy đã không bao quát được đầy đủ toàn bộ các mặt hoạt động khác của lĩnh vực khí tượng thuỷ văn. Mặt khác do ban hành ở thời điểm đã quá lâu nên hầu hết các sự thay đổi, phát triển kinh tế - xã hội có liên quan tới hoạt động khí tượng thuỷ văn ở thời điểm hiện nay và các chủ trương, quan điểm xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội không được phản ánh, điều chỉnh đầy đủ trong Pháp lệnh.
Hệ thống văn bản hướng dẫn dưới Pháp lệnh chưa đầy đủ, tạo ra một khoảng trống giữa nhu cầu quản lý và thực tiễn hoạt động khí tượng thuỷ văn. Như vậy, cần thiết phải hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh toàn diện lĩnh vực khí tượng thuỷ văn. Luật Khí tượng thuỷ văn ra đời sẽ đáp ứng toàn diện yêu cầu này.
- Hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực khí tượng thuỷ văn còn nhiết bất cập cả ở trung ương lẫn địa phương do thiếu những văn bản pháp lý. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khí tượng thuỷ văn tại địa phương chưa rõ. Sự phối hợp giữa một bên là cơ quan quản lý nhà nước của địa phương với một bên là cơ quan, đơn vị hoạt động tác nghiệp kỹ thuật về khí tượng thuỷ văn chưa nhịp nhàng, kịp thời. Nhiều khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các cơ quan liên quan tới khí tượng thủy văn tại địa phương chưa được thảo gỡ đồng bộ vì thiếu cơ chế pháp lý đủ mạnh để điều chỉnh.
- Do thiếu những căn cứ pháp lý nên sự phát triển của ngành khí tượng thuỷ văn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế xã hội nước ta phát triển theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa phát triển ngành khí tượng thuỷ văn với phát triển kinh tế xã hội nói chung đặt ra nhiều vấn đề mới. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế, xã hội, trong đó, đặc biệt là quá trình đô thị hoá, phát triển các khu công nghiệp, khu dân cư đã xâm phạm tiêu chuẩn của các hoạt động khí tượng thuỷ văn, điều kiện đảm bảo cho quá trình hoạt động của các trạm quan trắc. Hoặc có thể thấy rõ, nhiều vị trí đặt công trình khí tượng thuỷ văn tỏ ra không tương thích, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Mặc dù Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình khí tượng thuỷ văn trong trường hợp bị xung đột pháp lý với các hoạt động phát triển kinh tế xã hội khác, tuy nhiên, tầm văn bản Pháp lệnh là chưa đủ để xử lý hiệu quả các vấn đề bất cập, hạn chế nêu trên. Hoặc như có thể thấy thông tin khí tượng thuỷ văn chưa được coi trọng đúng mức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều hoạt động cần phải có thông tin khí tượng thuỷ văn, tuy nhiên, tính pháp lý xác thực của thông tin chưa được bảo đảm.
- Nhu cầu phục vụ khí tượng thuỷ văn tăng lên cùng các hoạt động khí tượng thuỷ văn theo hướng xã hội hoá đồng thời đòi hỏi có những đổi mới trong cơ chế phục vụ khí tượng thuỷ văn. Những điều kiện mới nảy sinh này đòi hỏi sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Biến đổi khí hậu cùng với sự gia tăng của thiên tai có nguồn gốc khí tượng thuỷ văn đã và đang trở thành mối đe doạ thường xuyên đối với sản xuất và đời sống. Những mối đe doạ này sẽ ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn khi dân cư tăng lên, các hoạt động kinh tế, xã hội ngày càng phát triển. Mặt khác, sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi phải tính toán những tiềm năng và tài nguyên thiên nhiên để có quy hoạch đúng đắn cho việc phát triển lâu dài. Điều đó đặt ra những yêu cầu rộng lớn đối với các hoạt động khí tượng thuỷ văn. Một số hiện tượng khí tượng thuỷ văn nguy hiểm chưa được Nhà nước quy định phương pháp, cách thức, tiêu chuẩn, quy trình quy phạm quản lý, ví dụ như việc quản lý nhà nước về phòng, chống sét, việc khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả các tài nguyên khí hậu, việc kiểm kê, đánh giá sự suy thoái của khí hậu, khí quyển, bảo vệ tầng ô-zôn…
Trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng rõ, nhiều vấn đề, thách thức tác động từ biến đổi khí hậu đối với ngành khí tượng thuỷ văn đang được đặt ra ngày càng mang tính cấp thiết. Do đó, việc thể chế hoá bằng văn bản luật khí tượng thuỷ văn, trong đó, đề cập đến những nội dung trên là hoàn toàn cấp thiết và xác đáng.
- Về hợp tác quốc tế, Việt Nam là thành viên WMO và tham gia nhiều điều ước quốc tế khác liên quan đến khí tượng thuỷ văn. Một văn bản luật do Quốc hội ban hành sẽ đặc biệt cần thiết để bảo đảm tuân thủ các điều ước quốc tế và tham gia các hoạt động quốc tế có hiệu quả.
Nguyên tắc xây dựng dự án Luật Khí tượng thuỷ văn
- Quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về vị trí quan trọng của công tác khí tượng thuỷ văn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đặc biệt là công tác phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
- Bảo đảm tính thống nhất của Luật Khí tượng thuỷ văn với Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) cũng như là Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi).
- Bảo đảm hoạt động khí tượng thuỷ văn đáp ứng các yêu cầu về phòng tránh thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và các hoạt động kinh tế xã hội liên quan.
- Nghiên cứu có tính kế thừa, không chồng chéo, trùng lấn các văn bản liên quan đã ban hành trước.
- Bảo đảm sự phù hợp với các quy định, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc là thành viên.
- Bảo đảm hiệu quả hoạt động khí tượng thuỷ văn trong công tác cảnh báo, dự báo rủ ro khí hậu, phòng chống thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh, quốc phòng, an toàn tính mạng, tài sản của người dân và toàn xã hội.
- Cơ quan khí tượng thuỷ văn nhà nước có vai trò chủ chốt bảo đảm cung cấp các thông tin khí tượng thuỷ văn phục vụ phòng chống thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và an ninh quốc phòng, thiết lập hệ thông quan trắc, thu thập số liệu và dự báo chủ yếu, đồng thời Nhà nước khuyến khích các ngành, các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động khí tượng thuỷ văn với chủ trương xã hội hoá các hoạt động khí tượng thuỷ văn đáp ứng yêu cầu đa dạng của kinh tế xã hội.
- Nhà nước đề ra các khuôn khổ pháp lý và chủ trương, chính sách phát triển hạ tầng khí tượng thuỷ văn, đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ ứng dụng và phát triển hoạt động khí tượng thuỷ văn.
- Các hoạt động hợp tác quốc tế về khí tượng thuỷ văn thực hiện trên cơ sở các hiệp định quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc công nhận.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng:
Phạm vi điều chỉnh: điều chỉnh toàn diện các hoạt động khí tượng thuỷ văn và các hoạt động liên quan bao gồm: quan trắc, dự báo và cảnh báo khí tượng thuỷ văn, lưu trữ, cung cấp tư liệu khí tượng thuỷ văn và các hoạt động khác có liên quan trên lãnh thổ Việt Nam, kể cả những hoạt động liên quan tới khí tượng thủy văn của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam; toàn bộ hoạt động có phát số liệu khí tượng thuỷ văn quan trắc từ lãnh thổ Việt Nam ra nước ngoài. Lãnh thổ Việt Nam ở đây bao gồm đất liền và lãnh hải.
Trong trường hợp mà Việt Nam phải tuân thủ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Luật thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Đối tượng áp dụng: các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khí tượng thuỷ văn trên lãnh thổ Việt Nam.
Nội dung chính của văn bản:
Dự kiến, Luật Khí tượng Thủy văn có bố cục bao gồm 10 chương chủ yếu, gồm:
Chương 1: Những quy định chung
Chương 2: Hoạt động quan trắc khí tượng thuỷ văn
Chương 3: Dự báo và cảnh báo khí tượng thuỷ văn
Chương 4: Thông tin, tư liệu khí tượng thuỷ văn
Chương 5 Quản lý, khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thuỷ văn
Chương 6 Các biện pháp đảm bảo phát triển khí tượng thuỷ văn
Chương 7 Quản lý Nhà nước và cấp phép về khí tượng thuỷ văn
Chương 8: Hợp tác quốc tế về khí tượng thủy văn
Chương 9: Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động khí tượng thủy văn
Chương 10: Điều khoản thi hành
Gồm các nội dung:
- Những quy định chung và khái niệm: hoạt động khí tượng thuỷ văn được hiểu bao gồm các hoạt động quan trắc, dự báo, cung cấp, sử dụng thông tin khí tượng thuỷ văn và các hoạt động liên quan khác.
- Quy định về các đặc điểm của hoạt động khí tượng thuỷ văn: dự trên các đặc điểm của hoạt động khí tượng thuỷ văn, phân loại các hoạt động khí tượng thuỷ văn như sau:
+ Các hoạt động quan trắc khí tượng thuỷ văn: bao gồm tất cả các hoạt động đo đạc, quan trắc, thu thập số liệu bằng các phương tiện khác nhau, kiểm định máy và thiết bị.
+ Các hoạt động dự báo và cảnh báo khí tượng thuỷ văn: bao gồm các hoạt động thu thập và phân tích số liệu để dự báo, tạo ra các sản phẩm dự báo và cung cấp các thông tin dự báo khí tượng thuỷ văn đến các đối tượng sử dụng.
+ Các hoạt động về tư liệu khí tượng thuỷ văn: bao gồm các hoạt động thu thập, chỉnh lý, lưu trữ và cung cấp tư liệu khí tượng thuỷ văn cho đối tượng sử dụng.
+ Các hoạt động khác liên quan bao gồm: các hoạt động nghiên cứu khoa học, tư vấn, kinh doanh, chế tạo, cung cấp thiết bị về khí tượng thuỷ văn.
- Quy định về hoạt động quan trắc khí tượng thuỷ văn: Quy định hoạt động quan trắc khí tượng thủy văn cung cấp số liệu đo đạc các yếu tố khí tượng thuỷ văn nhằm đáp ứng các yêu cầu:
+ Dự báo thời tiết và thủy văn, kể cả thông báo hiện trạng thời tiết và các dự báo khí hậu hành tháng hoặc dài hơn. Dự báo được từ các hiện tượng thời tiết, thiên tai nguy hiểm như lốc, tố đến quy mô vừa như bão và cả các quá trình quy mô lớn hơn.
+ Đáp ứng các yêu cầu về mô tả và nghiên cứu khí hậu.
+ Cung cấp số liệu cho các hoạt động kinh tế xã hội (hàng không, nông nghiệp, hỗ trợ hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, năng lượng, giao thông).
+ Cung cấp số liệu trao đổi quốc tế, cụ thể là các hoạt động trao đổi và cung cấp số liệu cho dự báo thời tiết, trao đổi cung cấp số liệu cho hệ thống quan trắc khí hậu toàn cầu và các số liệu khác.
- Các quy định về kỹ thuật của quan trắc khí tượng thủy văn:
+ Quy định về phân loại trạm và mật độ trạm
+ Quy định về thiết bị và phương pháp quan trắc
- Quy định về tổ chức tham gia thực hiện, sử dụng số liệu quan trắc khí tượng thuỷ văn:
+ Quy định về các thành phần tham gia hệ thống mạng lưới quan trắc khí tượng thuỷ văn.
+ Hệ thống quan trắc khí tượng thuỷ văn quốc gia
+ Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng
+ Hệ thống quan trắc khí tượng thuỷ văn nhân dân
- Quy định về phương thức quản lý nhà nước đối với hệ thống quan trắc khí tượng thuỷ văn
+ Quản lý về chất lượng
+ Quản lý về thành lập, hoạt động của tổ chức thực hiện quan trắc
+ Quy định về cơ chế phối hợp các hoạt động quan trắc.
+ Quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước, quản lý kỹ thuật của cơ quan khí tượng thủy văn quốc gia.
- Quy định chung về hệ thống dự báo và các phương pháp dự báo khí tượng thuỷ văn:
+ Quy định về các loại sản phẩm dự báo (dự báo hiện trạng, dự báo cực ngắn, hạn ngắn, hạn vừa, hạn xa, hạn dài, dự báo…)
+ Quy định về tiêu chuẩn, khung chất lượng dự báo
- Quy định về tổ chức dự báo của cơ quan khí tượng thuỷ văn quốc gia
+ Do tính chất quan trọng của việc dự báo phòng chống thiên tai phục vụ công cộng nên các Trung tâm dự báo cảu cơ quan khí tượng thuỷ văn quốc gia chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc phát tin dự báo phòng chống thiên tai.
+ Quy định về mô hình cấp trách nhiệm dự báo thời tiết phục vụ phòng chống thiên tai và phục vụ công cộng giữa Trung ương và địa phương.
- Quy định về sự tham gia dự báo của các cơ quan khác và tư nhân: Với đà phát triển của kinh tế xã hội, dự báo thời tiết không còn là độc quyền của các cơ quan khí tượng quốc gia mà đã, đang và sẽ trở thành hoạt động mang tính xã hội. Do đó, Luật sẽ phải quy định về sự tham gia dự báo của các thành phần khác ngoài nhà nước đủ khả năng và có nhu cầu tham gia dự báo.
- Quy định về nhiệm vụ của công tác dự báo:
+ Quy định về trách nhiệm của cơ quan dự báo quốc gia trong cung cấp thông tin thời tiết nguy hiểm phòng chống thiên tai; cung cấp các dự báo thời tiết công cộng…
+ Quy định về trách nhiệm của các tổ chức hoặ công ty tư nhân tham gia làm hoạt động dự báo.
- Quy định về hình thức cung cấp thông tin dự báo khí tượng thuỷ văn
- Quy định về trách nhiệm tiếp nhận, sử dụng bản tin dự báo khí tượng thuỷ văn
- Quy định về trách nhiệm pháp lý của dự báo khí tượng thuỷ văn
- Quy định chung về tư liệu khí tượng thủy văn: Phân loại các ứng dụng của số liệu khí tượng thuỷ văn thành 3 lĩnh vực chủ yếu như sau:
+ Tư liệu khí tượng thuỷ văn phục vụ thiết kế các công trình và lập quy hoạch. Thiết kế thủy điện rất cần số liệu về mực nước, dòng chảy, mưa, nhiệt độ để tính toán thiết kế hồ chứa và lắp đặt các tổ máy. Thiết kế các giàn khoan dầu khí ngoài khơi cần các số liệu về bão, chế độ sóng và dòng chảy, đáy biển và thông tin thành phần đáy, độ sâu, biên giới quốc gia. Các số liệu khí tượng thuỷ văn đã được đưa vào quy chuẩn xây dựng. Các lĩnh vực quy hoạch cũng rất rộng, từ quy hoạch đô thị, quy hoạch sản xuất nông nghiệp, cơ cấu mùa vụ đến quy hoạch quản lý tài nguyên nước.
+ Đánh giá mô tả khí hậu, lập các atlas khí tượng thuỷ văn, sổ nước quốc gia, trong đó có đánh giá các hiện tượng cực đoan: hạn hán, mưa, lũ.
+ Nghiên cứu quan hệ thời tiết, khí hậu và kinh tế xã hội, mô hình cây trồng năng suất, quan hệ thiên tai và phát triển.
- Quy định về chức năng của hệ thống thông tin tư liệu khí tượng thuỷ văn:
+ Hệ thống thông tin lưu trữ là một phần quan trọng của ngành khí tượng thuỷ văn. Cơ sở dữ liệu là sản phẩm của cả một quá trình phức tạp từ thu thập, truyền phát, kiểm tra chất lượng đến lưu trữ. Các số liệu được lưu trữ bao gồm toàn bộ số liệu từ tất cả các trạm quan trắc, đo đạc khí tượng, thuỷ văn và các trạm liên quan khác.
+ Hệ thống lưu trữ tư liệu có trách nhiệm thu thập, chỉnh lý, lưu trữ và cung cấp tư liệu cho người dùng. Nguồn tài nguyên dữ liệu thu thập được từ các trạm là vô giá, cần được lưu giữ lâu dài.
+ Quy định về thu thập số liệu
+ Quy định về chỉnh lý kiểm tra và lưu trữ số liệu
+ Quy định về tính chất thương mại của sản phẩm tư liệu khí tượng thuỷ văn.
- Quy định về tổ chức hệ thống thông tin tư liệu khí tượng thuỷ văn
+ Phần quan trắc, thu thập số liệu
+ Phần chỉnh lý, kiểm tra, lưu trữ và tạo ra các sản phẩm gốc
+ Phần các sản phẩm chuyên dùng
+ Quy định về đối tượng sử dụng sản phẩm tư liệu khí tượng thủy văn
- Quy định về chính sách đối với tư liệu khí tượng thuỷ văn
- Quy định một số vấn đề liên quan tới quản lý, khai thác, sử dụng tư liệu khí tượng thủy văn
- Quy định về đặc điểm của các công trình khí tượng thủy văn và hành lang an toàn:
+ Công trình khí tượng thủy văn bao gồm: đài, trạm khí tượng thuỷ văn , các loại phương tiện, máy móc, thiết bị quan trắc đo đạc khí tượng thuỷ văn, thiết bị thông tin liên lạc, nhà phục vụ trực tiếp hoạt động khí tượng thủy văn, diện tích đất chuyên dùng, hệ thống bảo vệ công triònh, hành lang an toàn kỹ thuật và các công trình phụ trợ khác.
+ Quy định về phân loại các công trình khí tượng thuỷ văn làm 2 loại chính gồm các công trình khí tượng thuỷ văn cơ bản và các công trình chuyên dùng, các trạm bổ sung, các trạm trong mạng lưới nhân dân.
- Quy định về trách nhiệm quản lý và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn: Quy định về các hành vi xâm phạm công trình bao gồm:
+ Xâm phạm, lấn chiếm đất đai của công trình
+ Vi phạm hành lang an toàn
+ Làm hư hỏng, làm cho các thiết bị khí tượng thủy văn không hoạt động hoặc hoạt động không đúng.
+ Di dời vị trí của trạm không được phép có thẩm quyền.
- Quy định về khai thác và sử dụng công trình khí tượng thủy văn
+ Các công trình, thiết bị khí tượng thuỷ văn thuộc loại hiện dại, có giá trị lớn như mạng trạm khí tượng thuỷ văn tự động, rađa thời tiết, siêu máy tính cần được khai thác sử dụng chung để đạt tốt đa hiệu quả sử dụng.
+ Các cơ quan quản lý thiết bị và các cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm phối hợp đưa ra những cơ chế thích hợp để phối hơp sử dụng thiết bị và trao đổi thông tin giưa các ngành có hoạt động khí tượng thuỷ văn.
- Quy định về ngân sách cho hoạt động khí tượng thuỷ văn: Hiện nay, không chỉ có Trung tâm Khí tượng thuỷ văn quốc gia có các hoạt động khí tượng thuỷ văn, nhiều bộ, ngành, địa phương cũng có những hoạt động khí tượng thuỷ văn. Riêng về số trạm quan trắc, số lượng các trạm ngoài ngành đã lớn hơn một nửa các trạm chính thức của Trung tâm Khí tượng thủy văn quốc gia. Xu thế phát triển các trạm quan trắc sẽ còn tăng. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của các hoạt động khí tượng thuỷ văn, ngân sách nhà nước trung ương và địa phương cần có mục riêng cho hoạt động khí tượng thuỷ văn. Mục ngân sách nầy không chỉ đầu tư cho cơ quan khí tượng thủy văn quốc gia mà cho tất cả các bộ, ngành có hoạt động khí tượng thuỷ văn. Các cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào định mức và kết quả hoạt động để phân bổ ngân sách bảo đảm sự thống nhất, nhằm mục tiêu quản lý, sử dụng ngân sách cho hoạt động này đạt hiệu quả.
- Quy định các vấn đề về phí và lệ phí của dịch vụ khí tượng thủy văn
+ Quy định các thông tin, số liệu, những sản phẩm cơ bản của hoạt động khí tượng thủy văn được coi là sản phẩm thương mại, có bản quyền.
+ Quy định về phí bản quyền, phí cung cấp dịch vụ
+ Quy định về quản lý, sử dụng nguồn thu từ phí và lệ phí khí tượng thủy văn.
- Quy định về cơ chế thương mại hoá phục vụ khí tượng thuỷ văn: Quy định về phương thức phục vụ khí tượng thuỷ văn, quy định về sản phẩm khí tượng thủy văn, quy định về loại hình dịch vụ khí tượng thuỷ văn, quy định về đối tượng tham gia thị trường cung cấp sản phẩm khí tượng thủy văn.
- Quy định về quản lý nhà nước hoạt động khí tượng thủy văn: Quản lý tổ chức hoạt động khí tượng thủy văn, quản lý hoạt động quan trắc, quản lý thông tin tư liệu khí tượng thuỷ văn, quản lý thông tin dự báo thiên tai.
- Quy định hợp tác quốc tế về khí tượng thuỷ văn: quyền hạn và nhiệm vụ của Việt Nam khi là thành viên của WMO về mặt luật pháp trong nước: thông tin và cấp phép trao đổi thông tin, số liệu; các vấn đề được tự chủ hợp tác, trao đổi; quyền hạn và chức năng xử lý các hoạt động khí tượng thuỷ văn của nước ngoài tại Việt Nam; Trách nhiệm và quyền lợi của cơ quan, tổ chức tham gia hợp tác quốc tế về khí tượng thuỷ văn.
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan.
Dự kiến thời gian trình Quốc hội cho ý kiến: Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XIII (năm 2014).
Sự cần thiết ban hành Luật Đấu giá tài sản
Ngày 04/3/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP đã khắc phục một bước những bất cập về thể chế trong hoạt động bán đấu giá tài sản, quy định thống nhất, chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục bán đấu giá đối với các loại tài sản phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật, góp phần hạn chế thất thoát tài sản, tiêu cực trong họat động bán đấu giá tài sản, đặc biệt là tài sản thi hành án, tài sản nhà nước và tài sản là quyền sử dụng đất. Có thể nói Nghị định số 17/2010/NĐ-CP là văn bản pháp luật tạo tiền đề quan trọng cho việc xây dựng Luật Đấu giá tài sản. Việc triển khai Nghị định 17/2010/NĐ-CP trên thực tế với những tác động tích cực cũng như hạn chế là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc đánh giá, nghiên cứu xây dựng Luật Đấu giá tài sản trong những năm tới nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Thực tiễn triển khai trong gần 3 năm qua cho thấy, Nghị định 17/2010/NĐ-CP là văn bản có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ cũng như lợi ích của nhiều cấp, ngành ở Trung ương và địa phương, đòi hỏi phải có nhận thức thông suốt, đề cao lợi ích toàn xã hội, có sự phối hợp chỉ đạo, tham gia tích cực của nhiều cơ quan, ban ngành để triển khai hiệu quả ở mỗi cấp, ngành. Tuy nhiên, việc thi hành Nghị định 17 còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, bởi lẽ các quy định ở tầm nghị định có hiệu lực thấp, một số quy định của Nghị định còn mang tính “quá độ”, chưa triệt để và chưa theo kịp với sự phát triển của kinh tế-xã hội. Trong khi phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bán đấu giá tài sản đều ở tầm Bộ luật, Luật, Pháp lệnh với nhiều quy định chưa đồng bộ hoặc mâu thuẫn, chồng chéo (VD: Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại năm 2005, Luật Đất đai năm 2003 ...). Các quy định về bán đấu giá tài sản nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau nên thiếu tính thống nhất, khó thực hiện. Các loại tài sản bán đấu giá ngày càng được mở rộng hơn thông qua các văn bản pháp luật chuyên ngành (Luật, Pháp lệnh, Nghị định), bao gồm cả tài sản là quyền sử dụng đất, bất động sản, hàng dự trữ quốc gia, các quyền tài sản (quyền khai thác khoáng sản, quyền sử dụng tần số vô tuyến điện v.v.). Điều này đòi hỏi pháp luật về bán đấu giá tài sản cần sớm được hoàn thiện, đảm bảo tính khách quan, minh bạch, chặt chẽ, góp phần tránh thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước và ngày càng hỗ trợ đắc lực hơn cho các ngành, lĩnh vực liên quan trong đời sống kinh tế- xã hội. Nhằm thúc đẩy hoạt động bán đấu giá tài sản theo định hướng phát triển dịch vụ chuyên nghiệp, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức bán đấu giá thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thì cần nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh ở tầm đạo luật. Đồng thời phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các lĩnh vực pháp luật có liên quan như: pháp luật dân sự; thương mại; đất đai; thi hành án dân sự; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; xử lý vi phạm hành chính ...
Thực hiện chủ trương của Đảng được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI về tiếp tục củng cố các thiết chế bổ trợ tư pháp, hoàn thiện khung pháp luật về thương mại, dịch vụ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, đặc biệt là các giải pháp thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, thì việc xây dựng Luật Đấu giá tài sản là yêu cầu khách quan và hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh
Phạm vi điều chỉnh:
Dự án Luật quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục bán đấu giá, đấu giá viên, tổ chức bán đấu giá tài sản và quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản. Phạm vi điều chỉnh của Luật cần xác định rõ để phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự, tránh mâu thuẫn, chồng chéo với các luật liên quan như: Luật Thương mại, Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, Luật Đất đai v.v.
Đối tượng áp dụng:
Dự án Luật cần được nghiên cứu và xác định rõ đối tượng áp dụng là đấu giá bắt buộc và đấu giá tự nguyện. Đấu giá bắt buộc là bán đấu giá các loại tài sản thuộc diện phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật: tài sản thi hành án, tài sản là tang vật phương tiện vi phạm hành chính, tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất được bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các loại tài sản khác phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Những loại tài sản này sẽ được bán đấu giá theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục bán đấu giá được quy định thống nhất tại Luật này thông qua tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
Ngoài ra, đấu giá tự nguyện sẽ áp dụng đối với tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nếu có yêu cầu bán đấu giá thông qua tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp và được bán theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này nhằm đưa hoạt động bán đấu giá trong xã hội trở thành một dịch vụ chuyên nghiệp.
Chính sách cơ bản, mục tiêu của chính sách
- Kế thừa một số quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP còn phù hợp; bổ sung các quy định mới nhằm khắc phục tình trạng thiếu thống nhất, đồng bộ của pháp luật về bán đấu giá tài sản, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển dịch vụ đấu giá tài sản mang tính chuyên nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Thống nhất trình tự, thủ tục bán đấu giá đối với các loại tài sản bắt buộc phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc bán đấu giá tài sản thực sự khách quan, công khai, minh bạch, hiệu quả, hạn chế tình trạng tiêu cực, thất thoát tài sản. Tạo cơ chế bán đấu giá tài sản tự nguyện phù hợp với nhu cầu của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài sản bán đấu giá, người mua được tài sản bán đấu giá, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động bán đấu giá tài sản.
- Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa, tạo sự bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp.
- Nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động bán đấu giá tài sản; quy định chặt chẽ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề đấu giá, quản lý đấu giá viên khi hành nghề; điều kiện đăng ký kinh doanh và hoạt động đối với các doanh nghiệp bán đấu giá tài sản.
- Bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với các hoạt động bán đấu giá. Xác định rõ cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản, trong đó thống nhất đầu mối quản lý đối với doanh nghiệp bán đấu giá; cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan. Nâng cao vai trò của UBND cấp tỉnh và cơ quan chủ trì giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản ở địa phương.
Những nội dung chính của Dự án Luật
Dự án Luật dự kiến điều chỉnh những nội dung cơ bản sau đây:
- Nhóm các quy định chung: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, nguyên tắc bán đấu giá tài sản, lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản.
- Nhóm các quy định về đấu giá viên: tiêu chuẩn đấu giá viên, điều kiện hành nghề, đào tạo nghề đấu giá, các trường hợp được miễn đào tạo nghề đấu giá, tiêu chuẩn của cơ sở đào tạo nghề đấu giá, thủ tục cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá, cấp Thẻ đấu giá viên; những trường hợp không được cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá.
- Nhóm các quy định về tổ chức bán đấu giá tài sản: tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp (gồm có: Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản), quyền và nghĩa vụ của tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp; điều kiện hoạt động, đăng ký hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; Hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt.
- Nhóm các quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản: quy định chặt chẽ và minh bạch hơn về trình tự, thủ tục bán đấu giá nhằm hạn chế các hiện tượng tiêu cực. Dự kiến bao gồm: xác định giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá, giám định tài sản bán đấu giá, hợp đồng bán đấu giá, ký kết hợp đồng bán đấu giá, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bán đấu giá; trình tự, thủ tục bán đấu giá (niêm yết, thông báo công khai, đăng ký tham gia đấu giá, xem tài sản, địa điểm, hình thức bán đấu giá, trình tự tiến hành cuộc bán đấu giá); rút lại giá đã trả, từ chối mua tài sản, hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá, quyền và nghĩa vụ của người mua được tài sản bán đấu giá, bán đấu giá tài sản trong trường hợp chỉ có một người tham gia; phí, chi phí bán đấu giá tài sản; chi phí dịch vụ liên quan đến tài sản bán đấu giá; quản lý và sử dụng phí, chi phí; huỷ kết quả bán đấu giá; tổ chức bán đấu giá lại ...
- Nhóm các quy định về quản lý về tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản: trách nhiệm quản lý nhà nước về tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản, trong đó thống nhất đầu mối quản lý đối với doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; hiệp hội bán đấu giá tài sản, trách nhiệm của hiệp hội; xử lý vi phạm đối với tổ chức bán đấu giá tài sản, đấu giá viên, người tham gia đấu giá; xử lý vi phạm đối với cá nhân, tổ chức khác trong hoạt động bán đấu giá.
- Nhóm các quy định về điều khoản thi hành:quy định chuyển tiếp, hiệu lực thi hành, trách nhiệm thi hành.
Dự báo tác động của chính sách
- Luật Đấu giá tài sản là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển hoạt động bán đấu giá tài sản trở thành một dịch vụ chuyên nghiệp, góp phần thúc đẩy các giao dịch dân sự, thương mại trong xã hội và hỗ trợ việc thi hành pháp luật trong nhiều lĩnh vực liên quan như: đất đai; thi hành án dân sự; xử lý vi phạm hành chính; giao dịch bảo đảm...
- Luật Đấu giá tài sản là một trong những công cụ hiệu quả góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thông qua hoạt động bán đấu giá tài sản nhà nước, tài sản của cá nhân, tổ chức.
Dự kiến nguồn lực và các điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo Luật
- Kinh phí xây dựng và triển khai Luật Đấu giá tài sản được đảm bảo bằng ngân sách nhà nước.
- Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ soạn thảo Dự án Luật và hướng dẫn triển khai thi hành Luật này, có sự phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các Bộ, ngành liên quan.
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo và thời gian trình Quốc hội
- Cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ Tư pháp
- Dự kiến thời gian soạn thảo và trình Quốc hội: Tiến hành soạn thảo từ năm 2014, trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp tháng 10 (năm 2015).
Dự án này đã được rút ra khỏi Chương trình năm 2012. Nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị tiếp tục đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Sự cần thiết ban hành
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và xã hội thông tin, xây dựng nền kinh tế tri thức, cơ chế bảo đảm quyền tự do tiếp cận thông tin cần phải được quy định và bảo đảm thực hiện. Nhà nước cần có cơ chế tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, công dân có thể tham gia vào môi trường thông tin mở nhằm bảo đảm tính hiệu quả, cạnh tranh và phát triển. Các cơ quan công quyền có trách nhiệm công bố thông tin cũng như tạo điều kiện cho việc tiếp cận thông tin, tiếp cận các tài liệu hành chính, công khai và minh bạch hoá hoạt động quản lý hành chính. Trong bối cảnh mở cửa, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, yêu cầu về công khai, minh bạch trong quá trình, thủ tục ban hành các quyết định hành chính cũng như công khai các kết quả hoạt động của các cơ quan công quyền cũng là một trong những yêu cầu của WTO.
Hiện nay, ở Việt Nam, việc thiếu các quy định về trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc công khai thông tin đã dẫn đến tình trạng lợi dụng đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin để trục lợi, gây nên sự bất bình đẳng, công bằng trong xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin làm hạn chế sự tham gia của tổ chức, công dân vào hoạt động quản lý nhà nước với tính chất là người giám sát, phản biện nhằm hoàn thiện các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước. Trong việc thi hành pháp luật, do thiếu minh bạch trong hoạt động quản lý đã làm hạn chế về mặt nhận thức, tư duy của những người thi hành pháp luật, trong đó có cả các công chức thực thi pháp luật, dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, thiếu bình đẳng trong việc áp dụng pháp luật. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng dễ dàng tham nhũng, tuỳ tiện của các cơ quan công quyền, dễ dàng vi phạm pháp luật và không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Vì vậy, cần thiết ban hành Luật Tiếp cận thông tin.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh gồm: Quyền của công dân tiếp cận và thu thập các thông tin của cơ quan nhà nước; Trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước có liên quan cho người dân; Các trường hợp hạn chế quyền tiếp cận thông tin (bao gồm những trường hợp không được công khai thông tin: vì lý do an ninh quốc gia và ngoại giao, liên quan đến thông tin cá nhân và bí mật đời tư, thông tin thương mại và bí mật kinh doanh, quá trình điều tra hình sự, các thiết chế tài chính...; Các qui định pháp luật và hệ thống các thiết chế nhà nước cần thiết cho việc thực thi quyền tự do thông tin (ví dụ: trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin, các qui định về thời hạn, phí cung cấp thông tin, thủ tục khiếu nại...).
Đối tượng áp dụng của Luật tiếp cận thông tin tập trung vào các cơ quan hành chính nhà nước. Khi nói đến trách nhiệm cung cấp thông tin, pháp luật các nước đều nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan tư pháp có vai trò kiểm tra sự tuân thủ pháp luật và bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công dân, có thể phán xét hành động của các cơ quan hành chính trong việc thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cũng có thể là một kênh giám sát hoạt động và trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan hành chính.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Luật được xây dựng trên quan điểm bảo vệ và tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền tiếp cận thông tin (trừ những thông tin thuộc bí mật nhà nước) nhằm góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Luật quy định những loại thông tin, tài liệu nào cần được công khai, quy định những loại tài liệu, thông tin cần bí mật, quy định quy trình cung cấp thông tin, tiếp cận và khai thác thông tin; quy định về chi phí do việc khai thác thông tin, quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin, quy định vấn đề công khai, minh bạch về tài chính;
- Về mặt kinh tế, tăng cường và mở rộng thông tin chính là nâng cao tri thức, đặc biệt với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin hiện đại, có thể đem đến những biến chuyển cơ bản trong việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Thông tin công khai, minh bạch còn giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tin tưởng hơn vào các kế hoạch kinh doanh của mình, xây dựng cho mình các kế hoạch đầu tư dài hạn, điều này đem lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế. Luật sẽ góp phần bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, qua đó giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí kinh doanh và các rủi ro đầu tư.
- Về mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội công dân, việc người dân có đầy đủ các nguồn thông tin giúp họ đóng vai trò chủ động hơn trong xã hội và đóng góp nhiều hơn cho Nhà nước và cho sự phát triển đất nước nói chung.
- Về bảo đảm quyền cơ bản của công dân: tiếp cận thông tin vừa là quyền thụ hưởng trực tiếp, vừa là cơ sở để thực hiện các quyền cơ bản khác. Luật được ban hành nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công bằng của người dân, mở rộng các hoạt động xã hội và làm cho đất nước ngày một phồn thịnh, đảm bảo an ninh trật tự. Các lợi ích trong xã hội được duy trì và cân bằng, hài hoà hoá, cùng giúp nhau phát triển.
- Về tăng cường dân chủ, Luật sẽ đưa ra các giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, tạo điều kiện cho người dân tham gia chủ động vào hoạt động quản lý nhà nước và tăng tính trách nhiệm của công dân cũng như các cơ quan công quyền, làm xã hội trở nên năng động và phát triển hơn. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ tạo cơ chế cho người dân tham gia phát hiện tiêu cực, tham nhũng.
- Về góc độ quản lý nhà nước, từ cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong Luật, sẽ hình thành cơ chế giám sát có hiệu quả từ công chúng tới các hoạt động của cơ quan công quyền, đặc biệt là các cơ quan hành chính, qua đó, các cơ quan này cũng sẽ hoạt động có hiệu quả và trách nhiệm hơn.
Qua cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, Luật sẽ đóng vai trò tích cực và có tác động mạnh mẽ đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
- Về lợi ích xã hội, Luật sẽ thúc đẩy năng lực và cơ hội tiếp cận thông tin của công chúng, người dân có thể tự mình cải thiện cuộc sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi có điều kiện tiếp cận đầy đủ thông tin.
- Về lợi ích chính sách công, việc ban hành Luật sẽ thúc đẩy chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, tổ chức, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể sử dụng các kết quả nghiên cứu, điều tra để tránh lãng phí ngân sách nhà nước, chi phí của tư nhân cũng như chi phí của các tổ chức xã hội khác khi tiến hành điều tra, nghiên cứu, do đó tiết kiệm được các nguồn lực cần thiết để sử dụng vào các mục đích khác. Ngoài ra, việc ban hành Luật cũng sẽ giúp khắc phục tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, hoạt động trong các cơ quan công quyền, gây tốn kém kinh phí của Nhà nước.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Kinh phí xây dựng: ngân sách nhà nước, các nguồn tài trợ khác.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan tổ chức soạn thảo văn bản này.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014
Sự cần thiết ban hành
Luật thể dục, thể thao (Luật TDTT) được Quốc Hội thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ 1/7/2007. Sau khi Luật có hiệu lực, Uỷ ban TDTT (trước đây) và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã tham mưu cho Chính phủ hoặc theo thẩm quyền của mình ban hành một số VBQPPL về TDTT, tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và phát triển TDTT. Qua 4 năm thực hiện, Luật TDTT đã từng bước đi vào cuộc sống, phát huy được hiệu quả, hiệu lực trong quản lý các hoạt động TDTT, góp phần quan trọng vào thúc đẩy sự nghiệp TDTT phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng nảy sinh một số vướng mắc, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung. Cụ thể như sau:
Về thể dục thể thao quần chúng: Chỉ tiêu đánh giá phong trào TDTT quần chúng gồm chỉ tiêu về người tập luyện thể thao thường xuyên và gia đình thể thao theo Điều 12 Luật TDTT chưa phù hợp với thực tiễn, chưa bao quát và phản ánh hết sự phát triển TDTT quần chúng tại một đơn vị, địa phương. Từ chỉ tiêu đánh giá phong trào TDTT quần chúng cho thấy, Luật còn thiếu các tiêu chí đánh giá TDTT trong trường học, TDTT trong lực lượng vũ trang và Thể thao thành tích cao. Điều này đòi hỏi cần phải được bổ sung kịp thời. Việc quản lý hoạt động thi đấu thể thao quần chúng có yếu tố nước ngoài chưa được Luật TDTT quy định. Đầu tư cơ sở vật chất cho TDTT quần chúng chưa được quy định cụ thể trong Luật, làm giảm hiệu lực triển khai trong thực tiễn (Nội dung này được quy định trong Nghị định số 112, trong thời gian tới cần được đưa cụ thể vào Luật TDTT sửa đổi, bổ sung).
Về giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường (Chương II, Mục II, từ Điều 20 đến Điều 26. Giáo dục thể chất và thể thao trường học chưa phát huy được hết tiềm năng, đội ngũ giáo viên thể dục vẫn còn thiếu, đặc biệt là cấp tiểu học; chưa hình thành được các thiết chế thể thao trong trường học nhằm khuyến khích người học tham gia tập luyện TDTT nâng cao sức khoẻ, tạo tiền đề cho việc phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thảo trẻ. Thiếu quy định về chuẩn giáo viên, giảng viên TDTT; chuẩn cơ sở vật chất TDTT trong nhà trường. Do đó, việc thực thi các vấn đề về TDTT trong trường học chưa đạt hiệu quả cao.
Về thể dục, thể thao trong lực lượng vũ trang (Mục 3, Chương II, từ Điều 27 đến Điều 30). Nhìn chung các quy định của Luật TDTT về TDTT trong lực lượng vũ trang cơ bản phù hợp với tình hình thực tiễn, nêu cao trách nhiệm của Nhà nước, các Bộ, ngành, đơn vị có liên quan và quyền và nghĩa vụ cụ thể của từng cán bộ, chiến sỹ đối với hoạt động này. Trên cơ sở đó, công tác TDTT trong lực lượng vũ trang từng bước đi vào ổn định, vừa thực hiện nhiệm vụ huấn luyện thể lực phục vụ sẵn sàng chiến đấu, vừa góp phần vào thành tích thể thao chung của đất nước.
Về thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp (Chương III, từ Điều 31 đến Điều 53)
Về Thể thao thành tích cao (Mục 1, Chương III ). Một số quy định về giải thi đấu thể thao, thẩm quyền quyết định tổ chức, trình tự thủ tục đăng cai tổ chức...còn chưa phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt, vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị quyết phê duyệt phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch, trong đó có phương án đơn giản hóa thủ tục đăng cai giải thi đấu thể thao. Chưa có quy định về thẩm quyền ban hành Luật thi đấu thể thao.
Về thể thao chuyên nghiệp. Tuy nhiên thực tiễn thi thành Luật TDTT cho thấy, hoạt động “thể thao thành tích cao” và hoạt động “thể thao chuyên nghiệp” chưa có sự phân biệt rõ ràng do hoạt động thể thao thành tích cao hiện nay cũng thể hiện tính chuyên nghiệp, trong đó VĐV, HLV thể thao thành tích cao hoạt động tập luyện, thi đấu thể thao thường xuyên và hưởng lương, tiền công từ đơn vị quản lý sử dụng. Như vậy cần thiết sửa đổi thuật ngữ “thể thao chuyên nghiệp” thành “thể thao nhà nghề” để thể hiện rõ tính chất thương mại, thị trường của một bộ phận thể thao thành tích cao, từ đó có cơ chế, chính sách đối với thể thao nhà nghề cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Việc thực hiện các quy định về cơ sở thể dục, thể thao. Trong thực tế, loại hình hộ kinh doanh thể thao đang phát triển mạnh ở các địa phương, đặc biệt là ở các khu vực trung tâm, đòi hỏi phải được quản lý nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ phục vụ và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, mô hình này Luật chưa quy định cơ chế quản lý, điều kiện hoạt động…gây nhiều khó khăn, vướng mắc cho cơ quan chức năng ở cơ sở, cũng như nhu cầu tuân thủ đúng pháp luật của bản thân các hộ kinh doanh chân chính. Hiện nay, Luật Giáo dục năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung, trong đó có sửa đổi về điều kiện thành lập nhà trường, điều kiện hoạt động của nhà trường…do đó, các quy định về trường năng khiếu thể thao (Điều 61 Luật TDTT) cũng cần được sửa đổi cho phù hợp. Thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động của doanh nghiệp thể thao cần đơn giản hóa theo phương án đã được phê duyệt.
Về quy định đối với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về thể thao. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đang trình Chính phủ Đề án về chuyển giao các hoạt động tác nghiệp cho các liên đoàn, hiệp hội thể thao quốc gia. Chính vì vậy, đề bảo đảm đúng lộ trình chuyển giao và tạo điều kiện để các tổ chức – xã hội nghề nghiệp về thể thao phát huy tối đa vị trí, vai trò của mình trong phát triển phong trào, trong tổ chức thực hiện các hoạt động tác nghiệp…thì cần thiết phải rà soát và xác định rõ hơn các nhiệm vụ, quyền hạn tại điều 71 của Luật TDTT
Về hợp tác quốc tế. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TDTT theo quy định của Luật còn khá chung chung, trong thời gian tới cần có các văn bản hướng dẫn một số nội dung cụ thể, như vấn đề người Việt Nam ra nước ngoài hoạt động thể thao hoặc người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam hoạt động thể thao tại Việt Nam...
Bên cạnh đó, từ khi có Luật TDTT đến nay, nhiều VBQPPL mới đã được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung như: Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009, Luật Ban hành VBQPPL, Nghị quyết của Quốc hội khóa XII về cơ cấu Chính phủ…Nhiều quy định trong Luật TDTT không còn phù hợp với quy định của một số Luật có liên quan, như: thay thế “Ủy ban Thể dục thể thao” thành “Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch” hay bỏ Chương VIII Khen thưởng và xử lý vi phạm...
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Luật TDTT (sửa đổi) phải thể chế hoá được chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác thể dục thể thao. Phát triển mạnh mẽ phong trào thể dục thể thao rộng khắp, nâng cao thành tích thể thao, phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
Kế thừa các quy định của Luật TDTT năm 2006, khắc phục những bất cập trong hoạt động thể dục, thể thao và phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Luật TDTT (sửa đổi) phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống hoá các VBQPPL về thể dục thể thao, bảo đảm Luật ban hành có thể thực hiện được ngay, hạn chế tối đa các nội dung cần văn bản hướng dẫn; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quản lý của các nước tiên tiến trên thế giới về lĩnh vực này.
Luật TDTT (sửa đổi) phải đảm bảo tính thống nhất với quy định của Luật Giáo dục, Bộ Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Thanh niên và các đạo luật khác có liên quan
Luật TDTT (sửa đổi) phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế nói chung, và trong lĩnh vực thể dục thể thao nói riêng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, hoạt động TDTT đã có bước phát triển với sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng dân cư, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế; nhu cầu chính đáng về tham gia hoạt động cũng như hưởng thụ các giá trị của TDTT trong mọi tầng lớp nhân dân ngày một nâng cao; công tác quản lý, điều hành TDTT trong cơ chế thị trường theo hướng nhà nghề đòi hỏi phải có sự đổi mới; chủ trương xã hội hoá TDTT ngày càng được khẳng định trong thực tiễn với những bước đi, cách làm cụ thể, nhu cầu phát triển mạnh mẽ các dịch vụ TDTT đòi hỏi phải được đáp ứng về mặt thể chế... Bởi vậy, một số quy định trong Luật TDTT không còn phù hợp hoặc không đáp ứng kịp những đòi hỏi của thực tiễn, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung (tổng hợp dự kiến các nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung Luật TDTT gồm bổ sung 03 điều, bỏ 03 điều, sửa đổi nội dung 10 điều )
Nội dung chính
- Bổ sung Điều 6a quy định về Chỉ tiêu phát triển TDTT(Chương I Những quy định chung), trong đó bao gồm chỉ tiêu phát triển TDTT quần chúng, TDTT trường học, TDTT trong lực lượng vũ trang, Thể thao thành tích cao. Bổ sung Điều 11a Cơ sở vật chất cho hoạt động TDTT quần chúng. Bỏ Điều 12 Phong trào TDTT quần chúng. Sửa đổi Điều 13 Thi đấu thể thao quần chúng
Về giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường (Chương II, Mục II, từ Điều 20 đến Điều 26), sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 21 Luật TDTT.
Về Thể thao thành tích cao sửa đổi, bổ sung Điều 37 Giải thi đấu thể thao thành tích cao; bổ sung Điều 38 Thẩm quyền quyết định tổ chức giải thể thao thành tích cao; sửa đổi Điều 40 Thủ tục đăng cai tổ chức giải thi đấu thể thao thành tích cao. Bổ sung Điều 38a Thẩm quyền ban hành Luật thi đấu thể thao. Bổ sung khoản 2 Điều 54 Loại hình cơ sở thể thao. Bổ sung khoản 3 Điều 56 về điều kiện hoạt động của hộ kinh doanh hoạt động thể thao. Sửa đổi, bổ sung Điều 61 về Trường năng khiếu thể thao
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Cơ quan chủ trì xây dựng: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Kinh phí tổ chức xây dựng Luật TDTT (sửa đổi) lấy từ ngân sách nhà nước dành cho công tác xây dựng VBQPPL. Vận động một số tổ chức, cá nhân hỗ trợ thêm để tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Sự cần thiết ban hành văn bản
Tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng nhằm buộc những người có quyết định tạm giữ hoặc lệnh tạm giam cách ly ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để tạo điều kiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù và tử hình.
Hiện nay, trong toàn quốc, lưu lượng giam giữ hàng năm trên 100 ngàn đối tượng. Công tác quản lý tạm giữ, tạm giam trong những năm qua tuy đã có nhiều tiến bộ, đảm bảo phục vụ tốt cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, cụ thể là:
- Công tác quản lý tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo những quy định tại Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam; Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1998/NĐ-CP và Thông tư số 08/2001/TT-BCA ngày 12/11/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế về tạm giữ, tạm giam, các văn bản quy phạm pháp luật này hiệu lực pháp lý không cao.
- Tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý trại tạm giam, nhà tạm giữ được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, còn chưa có sự thống nhất, gây khó khăn cho công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo. Điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính chưa đáp ứng yêu cầu thực tế nên hạn chế hiệu quả quản lý giam giữ.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý trại tạm giam, nhà tạm giữ hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng, chất lượng.
- Nước ta mở cửa, hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề nhân quyền để kích động, chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là lĩnh vực quản lý giam giữ.
Việc xây dựng, ban hành Luật tạm giữ, tạm giam là cần thiết nhằm tháo gỡ những khó khăn, hạn chế bất cập, đảm bảo phục vụ đắc lực cho yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp trong tình hình hiện nay, bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam; phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng để hoạt động chống phá. Dự án Luật tạm giữ, tạm giam được đưa vào Chương trình chuẩn bị của Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2012 (Nghị quyết số 07/2011/QH13).
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
Luật tạm giữ, tạm giam quy định các hoạt động liên quan đến công tác quản lý tạm giữ, tạm giam bao gồm: tổ chức bộ máy, tiêu chuẩn, chế độ, chính sách, điều kiện quản lý trại tạm giam, nhà tạm giữ; tiêu chuẩn trại tạm giam, nhà tạm giữ; tổ chức quản lý giam giữ; các chế độ sinh hoạt đối với người bị tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan...
Những quan điểm, nội dung chính của văn bản
Quan điểm chỉ đạo
Việc xây dựng dự án Luật tạm giữ, tạm giam được thực hiện trên những nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Quán triệt và thể chế hoá kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tạm giữ, tạm giam.
- Tổng kết đầy đủ, toàn diện về tổ chức và hoạt động tạm giữ, tạm giam ở nước ta trong những năm qua, kế thừa những kinh nghiệm tốt của thực tiễn công tác tạm giữ, tạm giam nhằm nâng cao hiệu quả công tác này; tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm về công tác quản lý tạm giữ, tạm giam của một số nước trên thế giới.
- Bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các bộ luật, luật và pháp lệnh khác có liên quan.
Những nội dung chính
- Những quy định chung;
- Tổ chức nhà tạm giữ, trại tạm giam;
- Chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam;
- Chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam;
- Tiêu chuẩn, chế độ đối với cán bộ, chiến sĩ làm công tác tạm giữ, tạm giam;
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý giam giữ;
- Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn khác đảm bảo thi hành văn bản
- Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan, như: Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp...
- Luật tạm giữ, tạm giam được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
4.5. Dự kiến thời gian trình dự án Luật tạm giữ, tạm giam
Đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Sự cần thiết ban hành
Trong thời gian qua, tình hình trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn toàn quốc vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp về an ninh trật tự. Tình trạng tập trung đông người nơi công cộng, trước trụ sở các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội, nhiều trường hợp khiếu nại tập thể, vượt cấp kéo dài, một số phần tử xấu, các phần tử cơ hội, bất mãn trong nước và đối tượng phản động ở nước ngoài lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo các quyền tự do dân chủ khác của công dân để lôi kéo, kích động, mua chuộc quần chúng nhẹ dạ, cả tin tập trung đông người trái phép, gây rối trật tự, an toàn xã hội, chống người thi hành công vụ làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và nhiều hình thức phân phối, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, các hoạt động kinh tế, xã hội diễn ra rất đa dạng, phức tạp. Hoạt động của các thành phần kinh tế trong kinh doanh, dịch vụ tuy đã tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng được các nhu cầu của xã hội, song những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, những hành vi không tuân thủ pháp luật, các quy tắc về trật tự đô thị, trật tự nơi công cộng vì động cơ kinh doanh, dịch vụ, dễ có điều kiện phát sinh, tồn tại. Tình trạng đua xe trái phép, phóng nhanh vượt ẩu, vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông... với những hình thức khác nhau, diễn ra rất phức tạp. Bên cạnh đó, những thói quen tùy tiện, những hành vi tiêu cực, những mâu thuẫn nội bộ nhân dân vẫn đang phát sinh, tồn tại phức tạp trong các bộ phận dân cư, gây ảnh hưởng xấu đến việc đảm bảo trật tự chung, an toàn chung, đến thuần phong mỹ tục, lối sống lành mạnh của xã hội. Vì vậy, tổ chức giữ gìn trật tự, an toàn xã hội giữ vai trò quan trọng đối với việc thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội, phục vụ thiết thực cho công tác quản lý xã hội của Nhà nước nói chung và quản lý trật tự, an toàn xã hội nói riêng.
Trong khi đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội hiện đang trong quá trình hoàn thiện nên còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, các quy phạm pháp luật còn tản mạn trong nhiều văn bản khác nhau. Nhiều vấn đề quan trọng mới chỉ được quy định bằng văn bản dưới luật (Nghị định của Chính phủ hoặc văn bản của các bộ, ngành) đã làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó Nhà nước giao cho lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò chủ công nòng cốt. Để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, vấn đề cần thiết đặt ra hiện nay là phải khẩn trương nghiên cứu, hệ thống hóa các quy định về đảm bảo trật tự, an toàn xã hội xây dựng thành một đạo Luật nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho các cơ quan thực thi pháp luật nhằm thực hiện có hiệu quả các hoạt động đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội sẽ góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, an sinh xã hội nói chung, xây dựng ý thức trách nhiệm của cá nhân, tổ chức với cộng đồng, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, tính mạng, sức khỏe của nhân dân, tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân. Ngoài ra, qua nghiên cứu, tham khảo, nhiều nước trên thế giới cũng đã có Luật bảo đảm, trật tự an toàn xã hội để điều chỉnh về lĩnh vực này như: Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Trung Quốc... Với những lý do trên, việc xây dựng dự án Luật bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là một yêu cầu khách quan và mang tính cấp thiết.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh
Luật bảo đảm trật tự, an toàn xã hội quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, công dân trong việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; quan hệ phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Những quan điểm, nội dung chính
Quan điểm xây dựng luật
- Bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước đã được Hiến pháp quy định nhằm bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
- Tiếp thu và kế thừa những kinh nghiệm, truyền thống về công tác đảm bảo trật tự công cộng, an toàn xã hội trong thời gian vừa qua, bổ sung các vấn đề cần thiết nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công tác này trong thời gian tới. Tham khảo, chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Thể chế hóa và quy định đầy đủ những vấn đề liên quan đến xây dựng cơ chế pháp lý để động viên nhân dân và toàn bộ hệ thống chính trị vào công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Cơ cấu và nội dung chính của Luật
Dự kiến nội dung Luật bảo đảm trật tự, an toàn xã hội bao gồm 6 chương với cơ cấu nội dung như sau:
- Chương I: Những quy định chung.
- Chương II: Biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
- Chương III: Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, công dân trong bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
- Chương IV: Mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
- Chương V: Quản lý nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
- Chương VI: Điều khoản thi hành.
Dự báo tác động kinh tế xã hội
Luật đảm bảo trật tự, an toàn xã hội được ban hành sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; cụ thể hóa chức trách, nhiệm vụ và hoạt động của các lực lượng đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể liên quan… Cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác, Luật sẽ góp phần quan trọng trong việc hình thành khuôn khổ pháp lý đồng bộ và hoàn chỉnh về tổ chức, bố trí lực lượng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác này, tạo điều kiện cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ tính mạng, sức khỏe của nhân dân, tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân.
Dự kiến nguồn lực bảo đảm cho việc soạn thảo
Về nguồn lực
Bộ Công an là cơ quan chủ trì, có sự phối hợp tham gia của các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao...
Về nguồn lực tài chính
Luật đảm bảo trật tự, an toàn xã hội được xây dựng bằng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.
Dự kiến thời gian trình văn bản
Đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Sự cần thiết ban hành
Bối cảnh
Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực Châu Á và là nước thứ hai trên Thế giới phê chuẩn công Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) vào năm 1990, chỉ sau đó một năm, Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua và Chủ Tịch nước đã ký ban hành Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục (BVCS&GD) trẻ em (1991), sau đó được sửa đổi vào năm 2004.
Từ đầu những năm 2000 đến nay, trên phạm vi quốc tế nhận thức về trẻ em, về các quyền của trẻ em, cũng như phương pháp tiếp cận và các biện pháp thúc đẩy thực hiện các quyền của trẻ em cũng đã có sự thay đổi, một trong những sự kiện quan trọng liên quan đến sự thay đổi đó là “Tuyên bố về một thế giới phù hợp với trẻ em” của Liên Hợp Quốc vào năm 2002; Việc tiếp cận bảo vệ chăm sóc trẻ em theo nhóm đối tượng được kéo dài trong 3 thập kỷ 1970-2000 đã tỏ ra chưa thật hiệu quả đã được thay thế bằng phương pháp tiếp cận theo hệ thống, phương pháp tiếp cận này đã thúc đẩy việc ra đời hệ thống bảo vệ trẻ em đa cấp (cấp xã, huyện, tỉnh và toàn quốc) với sự tham gia của nhiều ngành và các tổ chức xã hội dân sự. Phương pháp tiếp cận này đã đưa lại hiệu quả tốt hơn và khắc phục được sự chồng chéo trong việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và dịch vụ phúc lợi xã hội dành cho trẻ em, đồng thời việc sử dụng các nguồn lực huy động được cũng hiệu quả hơn. Việc xây dựng và phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em phải được bảo đảm bằng sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em theo hướng hội nhập và thân thiện với trẻ em; tạo cơ sở pháp lý phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, để bảo vệ trẻ em không bị sao nhãng, ngược đãi, xâm hại, bạo lực và bóc lột; bảo đảm cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và thân thiện. Ngay cả trong trường hợp trẻ em vi phạm pháp luật thì trẻ em cũng được đối xử một cách thân thiện, không bị ngược đãi.
Thứ hai, việc xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ từ cấp trung ương đến địa phương, cơ sở về mặt tổ chức; xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp các dịch vụ bảo vệ trẻ em cũng như việc thiết lập và thực hiện luật pháp, chính sách và các chương trình liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Thứ ba, việc xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em phải đáp ứng được yêu cầu cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em một cách liên tục, từ việc tư vấn, trợ giúp tiếp cận các dịch vụ về y tế, phục hồi thể chất, tâm lý, giáo dục, nhà ở đến các phúc lợi xã hội khác, nhất là trong trường hợp khẩn cấp khi trẻ em bị sao nhãng, ngược đãi, xâm hại, bạo lực và bóc lột; khi trẻ em phải tiếp tục sống trong môi trường có nguy cơ không được bảo đảm an toàn.
Thứ tư, việc xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em phải đáp ứng thực hiện đầy đủ ba chức năng cơ bản, bao gồm: chức năng phòng ngừa hạn chế tình trạng trẻ em bị sao nhãng, ngược đãi, xâm hại, bạo lực và bóc lột, rơi vào hoàn cảnh đặc biệt hoặc bị tổn hại; chức năng phát hiện sớm, can thiệp kịp thời nhằm giảm thiểu nguy cơ rủi ro cho trẻ em và chức năng trợ giúp trẻ em bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị tổn hại được phục hồi về thể chất, tâm lý, tinh thần và hòa nhập cuộc sống cộng đồng.
Việc xử lý chuyển hướng trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật cũng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm và Bộ Tư Pháp của Việt Nam cũng đang trong quá trình thử nghiệm mô hình xử lý chuyển hướng đối với nhóm trẻ em vi phạm pháp luật ở một số địa phương. Việc xử lý chuyển hướng đặt ra yêu cầu giải quyết các trường hợp trẻ em, người chưa thành niên vi phạm pháp luật theo hướng thân thiện hơn, lấy việc giáo dục tại cộng đồng làm chủ yếu, tăng cường trách nhiệm của cộng đồng đối với nhóm trẻ em này, giảm thiểu tình trạng trẻ em, người chưa thành niên vi phạm pháp luật phải vào trường giáo dưỡng, trại giam, trừ trường hợp người chưa thành niên vị phạm pháp luật ở mức đặc biệt nghiêm trọng.
Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam cũng đã và đang chuẩn bị tích cực tham gia phê chuẩn một số Công ước quốc tế, trong đó có một số công ước, điều ước quốc tế liên quan đến các quyền của trẻ em. Cũng trong khoảng thời gian nêu trên, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua và Chủ Tịch nước đã ký ban hành một số Luật cũng như sửa đổi một số Luật , trong đó có một số điều khoản liên quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em như Luật Giáo dục, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Thanh niên…Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về an sinh xã hội để mở rộng độ bao phủ trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội và nâng mức trợ giúp để góp phần ổn định đời sống của các đối tượng xã hội, trong đó có nhiều nội dung liên quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Trong bối cảnh có sự thay đổi về nhận thức, phương pháp tiếp cận, luật pháp, cơ chế, chính sách trợ giúp, biện pháp thúc đẩy thực hiện các quyền của trẻ em, cũng như sự tăng cường cam kết của cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các quyền của trẻ em nêu trên chưa được cập nhập và thể chế hóa trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004; do vậy, việc sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho phù hợp với bối cảnh mới là một nhu cầu tất yếu khách quan.
Sự cần thiết phải sửa đổi luật
Sự ra đời của Luật BVCS&GD trẻ em đã tạo ra khung khổ pháp lý quan trọng cho việc BVCS&GD trẻ em và đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện ngày càng tốt hơn những quyền cơ bản của trẻ em ở Việt Nam, thực hiện Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê chuẩn không bảo lưu bất kỳ điều khoản nào. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng đã thấy bộc lộ một số vấn đề hạn chế như:
i) Một số vấn đề mà Công ước quốc tế và luật pháp quốc tế liên quan đến quyền trẻ em tuy đã được quy định trong Luật pháp của Việt Nam và Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, song chỉ mang tính nguyên tắc, chưa được thể hiện một cách cụ thể và thiếu các quy định về biện pháp thúc đẩy thực hiện, dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau và rất khó thống nhất trong việc thể chế hóa trong các văn bản hướng dẫn thực hiện luật;
(ii) Một số vấn đề quan trọng liên quan đến thực hiện quyền được bảo vệ, quyền tham gia của trẻ em mới được cộng đồng quốc tế đề cập đến trong thời gian từ 2004 đến nay và đang được thực hiện ở Việt Nam chưa được đề cập đầy đủ nội hàm của nó trong Luật BVCS&GD trẻ em và các văn bản dưới Luật;
(iii) Các quy định liên quan đến quy trình, trách nhiệm bảo vệ trẻ em, cơ sở trợ giúp trẻ em, chăm sóc thay thế, trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, xử lý vi phạm quyền trẻ em tuy đã được đề cập song mới dừng lại ở tính nguyên tắc, tính phòng ngừa tổn hại cho trẻ em chưa được thể hiện một cách rõ ràng và đặt nó như một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, do vậy việc thực thi Luật hiệu quả chưa cao;
(iv) Xử lý trẻ em vi phạm pháp luật bằng các biện pháp, chương trình giáo dục, hòa giải, phục hồi ở cộng đồng thay thế quá trình điều tra, xét hỏi theo quy trình tố tụng của Bộ Luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính cũng chưa cụ thể và có một số điểm chưa hòa nhập với số đông các nước trên thế giới;
(v) Cùng với quá trình phát triển, nhiều vấn đề mới đã xuất hiện ở nước ta nhưng cũng chưa được đề cập, quản lý một cách có hiệu quả như phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em, xây dựng đội ngũ cán bộ công tác xã hội với trẻ em, các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em, trung tâm công tác xã hội với trẻ em, văn phòng tư vấn, điểm công tác xã hội, điện thoại tư vấn trẻ em, phát triển đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên làm việc với trẻ em, phát triển các mô hình mái ấm, nhà mở, nhà trẻ do các gia đình, cá nhân, tổ chức xã hội thành lập cũng chưa có quy định cụ thể;
(vi) Độ tuổi của trẻ em quy định trong Luật BVCS&GD trẻ em cũng chưa hội nhập với quốc tế (Việt Nam dưới16 tuổi, Công ước quốc tế dưới 18 tuổi) và cũng còn thiếu sự đồng nhất về độ tuổi so với với các quy định về độ tuổi trong các luật khác (Bộ Luật Lao động, Luật Thanh niên, Bộ Luật Hình sự);
(vii) Một số quy định về trách nhiệm của cha mẹ, gia đình, cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội trong việc bảo vệ và thực hiên các quyền trẻ em trong Luật BVCS&GDTE năm 2004 vẫn chưa có chế tài cụ thể xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm, lợi dụng, thiếu trách nhiệm với trẻ em; việc chấp hành luật chưa mang tính bắt buộc, hiệu quả thi hành luật chưa cao; sự thay đổi cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trách nhiệm mới của các Bộ, ngành có liên quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng cần phải sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.
(viii) Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của nước ta so với luật của một số nước trong khu vực và các công ước quốc tế có liên quan đến các quyền của trẻ em và trách nhiệm thúc đẩy thực hiện các quyền của trẻ em còn nhiều khoảng trống, chưa có quy định như cơ chế khuyến khích khu vực tư nhân cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em hoặc cơ chế nhà nước mua dịch vụ cùa khu vực tư nhân trong việc cung cấpdịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em…
Mục tiêu, định hướng sửa đổi
Mục tiêu
Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ban hành năm 2004 để trình Chính, phủ, Quốc hội ban hành Luật mới vào năm 2014.
Nguyên tắc cơ bản
(i) Quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ luôn là mối quan tâm hàng đầu trong công tác xây dựng pháp luật nói chung và là định hướng quan trọng để xử lý các vi phạm có liên quan tới trẻ em nói riêng. Đây là một trong những nguyên tắc của Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em và yêu cầu làm hài hoà hệ thống pháp luật quốc gia thành viên với Công ước, có ảnh hướng rất lớn đến tính đồng bộ và thống nhất trong hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
(ii) Các quy định pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải bảo đảm tính quy phạm và phải được quy định cụ thể, rõ ràng để việc thi hành được thuận lợi và thống nhất. Việc giám sát thực thi pháp luật có ý nghĩa sống còn đối với một nền pháp chế nói chung và pháp luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói riêng.
(iii) Luật phải đáp ứng đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, hội nhập quốc tế và gắn liền với việc quy định trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể của các cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
(iv) Luật cũng phải hướng tới việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực trong tương lai của đất nước để đáp ứng các yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững đất nước, đồng thời cũng chú trọng phát triển nguồn nhân lực trong việc thực hiện sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em .
Yêu cầu
(i) Kế thừa được truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, kế thừa được tinh hoa của nhân loại trong việc thực hiện các quyền của trẻ em để sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
(ii) Từng bước hội nhập với cộng đồng quốc tế trong việc tạo khung khổ pháp lý phù hợp để thúc đẩy việc thực hiện các quyền của trẻ em;
(iii) Bảo đảm tính tiên tiến, tính hiện đại, loại bỏ sự chồng chéo giữa các quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em với các bộ luật và luật khác.
(iv) Bảo đảm tính thực thi và phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp;
Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung và định hướng sửa đổi
Sau 8 năm thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, với sự cố gắng nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, sự tham gia tích cực của các Bộ, ngành, đoàn thể và tổ chức xã hội, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có chuyển biến cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, nhiều mục tiêu đối với trẻ em đã đạt được kết quả đáng khích lệ. Mặc dù vậy, điều kiện học tập, chăm sóc sức khỏe, vui chơi, giải trí và bảo đảm sự an toàn cho trẻ em còn nhiều khó khăn thách thức; việc trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn nhiều hạn chế; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hiện hành cũng đã bộc lộ một số hạn chế, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Sau đây là một số vấn đề cụ thể:
Sửa đổi tên Luật: Từ năm 1991, lần đầu tiên ban hành hành luật đã có tên gọi là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và sửa đổi vào năm 2004 vẫn giữ nguyên tên gọi này (tên gọi quá dài) và các quy định trong luật này cũng chỉ mang tính nguyên tắc. Trên thực tế việc chăm sóc và giáo dục trẻ em còn bị chi phối bởi các luật khác như luật giáo dục, luật chăm sóc sức khỏe nhân dân…bản thân Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng chưa điều chỉnh hết các khía cạnh, nội hàm của bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đối với trẻ em, do vây, tên luật lần này có thể được rút gọn hơn gọi là LUẬT TRẺ EM, hiện tại có nhiều luật cũng dùng tên gọi ngắn gọn như thế này, ví dụ Luật Thanh niên, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật…
Bổ sung thêm mục một số khái niệm thuật ngữ: Hiện tại có một số khái niệm, thuật ngữ chưa được sử dụng và hiểu một cách thống nhất dẫn đến việc thống kê, báo cáo, quản lý đối tượng, nhận định đánh giá tình hình về bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên phạm vi toàn quốc cũng chưa thống nhất như: trẻ em lao động; trẻ em lao động trong điều kiện tồi tệ; trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt; trẻ em bị tổn hại; trẻ em có nguy cơ bị tổn hại; sao nhãng trẻ em; ngược đãi trẻ em; xâm hại trẻ em; bóc lột trẻ em; bảo vệ trẻ em; dịch vụ bảo vệ trẻ em; trẻ em được chăm sóc; trẻ em bị tai nạn thương tích; ngôi nhà an toàn phòng chống tai nạn thương tích trẻ em (ngôi nhà an toàn); hệ thống bảo vệ trẻ em; xã phường phù hợp với trẻ em; cơ sở trợ giúp trẻ em; xử lý chuyển hướng đối với trẻ em vi phạm pháp luật; điều tra, xét hỏi thân thiện với trẻ em vi phạm pháp luật…
Sửa đổi độ tuổi của trẻ em: trong luật BVCS&GD trẻ em hiện hành quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi, trong khi đó Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Bộ Luật lao động quy định lao động là người từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi (đối với nữ) và 60 tuổi (đối với nam); Lao động trong độ tuổi vị thành niên là từ đủ 15 đến 18 tuổi. Bộ Luật hình sự và luật tố tụng hình sự lại quy định người chưa thành niên là người từ 14 tuổi đến 18 tuổi. Luật Thanh niên lại quy định thanh niên là người từ 15 đến 30 tuổi… Do vậy cần điều chỉnh lại độ tuổi trẻ em đến 18 tuổi cho phù hợp với thông lệ của cộng đồng quốc tế và khắc phục sự chồng chéo giữa các luật. Tuy nhiên, cũng cần cân nhắc nếu quy định độ tuổi trẻ em đến 18 tuổi liệu có mẫu thuẫn với độ tuổi lao động không” và các thức giải quyết mối quan hệ này như thế nào.
Bổ sung độ tuổi lao động tối thiểu: Theo quy định của Bộ luật lao động hiện hành thì mặc nhiên độ tuổi lao động tối thiểu của Việt Nam là từ đủ 15 tuổi và độ tuổi học nghề là từ 13. Trên thực tế trẻ em tham gia hoạt động kinh tế từ khi 8 tuổi và Bộ Luật lao động cũng mới điều chỉnh mối quan hệ lao động ở khu vực chính thức, chưa điều chỉnh mối quan hệ lao động giữa trẻ em với người sử dụng lao động ở khu vực phi kết cấu. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy cần thiết phải cho phép trẻ em lao động ở khu vực phi kết cấu ở độ tuổi thấp hơn độ tuổi lao động được quy định trong Bộ Luật lao động hiện nay, có thể bằng với độ tuổi học nghề là từ 13 tuổi. Một số nước trong khu vực như Philippin cũng quy định độ tuổi lao động tối thiểu là 12 tuổi, đây cũng là kinh nghiệm để nước ta tham khảo.Tuy nhiên, cũng cần có các quy định về danh mục nghề, công việc không cho phép sử dụng lao động trẻ em ở độ tuổi 13-15 hoặc danh mục nghề cho phép sử dụng lao động trẻ em trong độ tuổi nêu trên, để bảo đảm cho trẻ em được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
Bổ sung đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Trên thực tế đã xuất hiện một số đối tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhưng chưa được đưa vào Luật như: trẻ em bị buôn bán, bắt cóc; trẻ em bị ngược đãi, bạo lực, trẻ em sống trong các gia đình nghèo; trẻ em bị tai nạn thương tích; trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh…
Bổ sung chính sách trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt : Mặc dù đã có một số chính sách trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, song độ bao phủ còn nhỏ, mức trợ cấp xã hội còn thấp, do vậy cần bổ sung thêm một số chính sách trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nêu trên như chính sách trợ giúp khám phẫu thuật, điều trị cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh…
Bổ sung thên chính sách đối một số nhóm trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khác: Hiện nay có một số trẻ em không thuộc nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, song cuộc sống của các em rất khó khăn, thiếu các cơ hội tiếp cận với giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi xã hội khác, do vậy cần có các chính sách trợ giúp các em để tạo cho các em bình đẳng hơn về cơ hội phát triển như trẻ em trẻ em dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn; trẻ em sống trong các gia đình nghèo; trẻ em sống trong các gia đình thu nhập thấp; trẻ em bị tổn hại…
Bổ sung các quy định thúc đẩy xã hội hoá công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: Cần bổ sung một số quy định nhằm huy động đông đảo các lực lượng xã hội tham gia vào việc cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, trên cơ sở nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo khung khổ pháp luật, cơ chế và môi trường xã hội thuận lợi cho việc xã hội hóa. Kinh nghiệm một số nước cho thấy họ đã tạo cơ chế mua dịch vụ của các tổ chức khu vực phi nhà nước trong lĩnh vực bảo về, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
Bổ sung các quy định về phòng ngừa các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em: Cần bổ sung các quy định cụ thể liên quan đến phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em, bảo đảm an toàn cho mọi trẻ em .
Bổ sung các quy định liên quan đến cấu trúc tổ chức bảo vệ trẻ em: Việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em không chỉ có ngành Lao động Thương binh và Xã hội mà còn có nhiều ngành khác tham gia, nhất là trong trường hợp cần sự bảo vệ khẩn cấp.Do vậy cần có các quy định cụ thể về cấu trúc bảo vệ trẻ em tạo cơ sở cho việc hình thành hệ thống bảo vệ trẻ em một cách thuận lợi hơn, cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em hiệu quả hơn.
Cùng với quá trình phát triển, nhiều vấn đề mới đã xuất hiện ở nước ta nhưng cũng chưa được đề cập, quản lý một cách có hiệu quả như xây dựng đội ngũ cán bộ công tác xã hội với trẻ em, các dịch vụ bảo vệ chăm sóc trẻ em, trung tâm công tác xã hội với trẻ em, văn phòng tư vấn, điểm công tác xã hội, điện thoại tư vấn trẻ em, đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên, các mái ấm, nhà mở, nhà trẻ do các gia đình, cá nhân, tổ chức xã hội thành lập cũng chưa có quy định cụ thể.
Bổ sung thên về các loại hình dịch vụ bảo vệ trẻ em: Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và thực tiễn thí điểm tại nước ta cho thấy, cần thiết phải nghiên cứu để bổ sung các quy định về các loại dịch vụ bảo vệ trẻ em, từ đó xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, bảo đảm việc cung cấp dịch vụ một cách liên tục trong trường hợp trẻ em cần sự bảo vệ khẩn cấp.
Bổ sung các quy định liên quan đến cơ sở trợ giúp trẻ em: Bên cạnh việc có được một khái niệm đúng và đầy đủ về cơ sở trợ giúp trẻ em cần có các quy định cụ thể hơn về chức năng nhiệm vụ, hoạt động và thẩm quyền cho phép thành lập và hoạt động của các loại hình cơ sở trợ giúp trẻ em, để tránh việc bỏ sót cơ sở và không để chồng chéo các quy định giữa các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Sửa đổi lại trách nhiệm quản lý nhà nước đối với trẻ em : Cơ quan quản lý nhà nước đối với trẻ em trước đây là Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em nay là Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, do vậy cũng cần sửa đổi lại cho phù hợp. Mặt khác cũng cần làm rõ chức năng quản lý nhà nước đối với trẻ em nói chung, chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ trẻ em nói riêng, còn chức năng quản lý nhà nước về giáo dục đối với trẻ em, chăm sóc sức khoẻ đối với trẻ em, vui chơi giải trí đối với trẻ em lại thuộc các bộ ngành khác, do vậy cần có các quy định cụ thể về nội dung này.
Bổ sung các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quyền của trẻ em: Cần rà soát lại các quy định hiện hành về trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân liên quan đến việc thực hiện các quyền của trẻ em , trên cơ sở đó quy định cụ thể hơn trách nhiệm của cha mẹ, gia đình, Nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội trong việc bảo đảm quyền của trẻ em .
Bổ sung thêm quy định về các biện pháp thúc đẩy thực hiện quyền của trẻ em: Cần nghiên cứu bổ sung một số biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy việc thực hiện các quyền của trẻ em đối với gia đình, nhà nước và cộng đồng xã hội cho phù hợp.
Bổ sung thêm các quy định về quyền tham gia: Bổ sung thêm các quy định liên quan đến nội hàm quyền tham gia của trẻ em, các hình thức, biện pháp thể hiện, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, trường học, tổ chức xã hội và gia đình trong việc thực hiện quyền tham gia của trẻ em; nghĩa vụ và bổn phẩn của trẻ em trong việc thực hiện quyền tham gia. Cần cụ hoá một số quy định về quyền than gia như định kỳ 2 năm tổ chức diễn đàn trẻ em quốc gia, hàng năm tổ chức diễn đàn trẻ em cấp tỉnh, Việc hình thành và tổ chức hoạt động câu lạc bộ trẻ em, câu lạc bộ phóng viên nhỏ…
Bổ sung, sửa đổi quy định về xử lý chuyển hướng: Xử lý trẻ em vi phạm pháp luật bằng các biện pháp, chương trình giáo dục, hòa giải, phục hồi ở cộng đồng thay thế quá trình điều tra, xét hỏi theo quy trình tố tụng của Bộ Luật tố tụng hình sự, Luật xử phạt vi phạm hành chính cũng cần được nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh mới và phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế.
Sửa đổi Điều 41: Điều 41 của Chương 4 nêu 4 nguyên tắc, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhưng lại chưa có các quy định trách nhiệm thực hiện của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong nội dung của Luật, do vậy cũng cần sửa đổi bổ sung cho phù hợp;
Sửa đổi, bổ sung các điều từ 51-58: Các nhóm đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong Luật quy định từ Điều 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 còn chung chung, chưa quy định công tác phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Khi trẻ em bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt chưa có quy định về quy trình phát hiện (cơ quan tiếp nhận thông báo), cơ quan chủ trì phối hợp theo dõi, giám sát cả quy trình can thiệp, giải quyết, tái hoà nhập các trường hợp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, bị xâm hại; thời gian giải quyết bao lâu; các dịch vụ can thiệp hỗ trợ giải quyết cụ thể gồm những loại hình nào, do cơ quan nào quản lý, thực hiện; các đối tượng này khi về hồi gia, hoà nhập cộng đồng thì cơ quan nào đứng ra giúp Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở quản lý đối tượng này; các chính sách giúp đỡ vay vốn, tạo việc làm, hỗ trợ chưa được Luật quy định cụ thể. Như vậy, Luật ban hành mà thiếu nhiều quy định cụ thể sẽ khó thực thi và đi vào cuộc sống.
Về xử lý các hành vi vi phạm quyền trẻ em: Cần bổ sung sửa đổi quy định cụ thể hơn về xử lý các hành vi vi phạm quyền trẻ em, đảm bảo tính nghiêm minh và khả thi của pháp luật.
Sửa đổi bổ sung chương IV: Cần nghiên bổ sung, hoàn thiện chương IV về các quy định “chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt” trở thành chương về “bảo vệ trẻ em”, bao gồm các nội dung:
- Đối tượng trẻ em cần sự bảo vệ
- Các cấp độ bảo vệ trẻ em
- Quy trình bảo vệ trẻ em
- Các loại hình dịch vụ bảo vệ trẻ em
- Trách nhiệm pháp lý của các cơ quan, gia đình và công dân trong công tác bảo vệ trẻ em
Vấn đề bạo lực trẻ em: Cần Quy định cụ thể về hành vi bạo lực đối với các em và hành vi để trẻ em chứng kiến bạo lực gia đình;
- Hành vi bạo lực đối với trẻ em là một hành vi xã hội rất đáng bị lên án, cân thiết phải được cụ thể hoá trong luật. Bởi vì bạo lực đối với trẻ em để lại hậu quả nghiêm trọng cho trẻ em, khó khắc phục, làm cho trẻ khó phát triển hài hoà toàn diện.
- Hành vi để trẻ em chứng kiến bạo lực trong gia đình là một hành vi xã hội không lành mạnh, cần thiết phải được cụ thể hóa trong pháp luật. Bởi vì nếu trẻ em thường xuyên chứng kiến những hình ảnh bạo lực gia đình thì đây sẽ là một vết thương khó phai mờ trong trí não trẻ em. Khi trưởng thành trẻ em khó hòa nhập cuộc sống, dễ bị căng thẳng thần kinh, dễ bị kích động bạo lực hoặc có tư tưởng trầm uất. Những bé trai dần dần sẽ hình thành nhận thức rằng làm đàn ông có quyền đánh đập phụ nữ và khi trở thành chồng cũng có cách ứng xử như vậy đối với vợ. Các bé gái chứng kiến cảnh mẹ bị cha đánh chửi thì có thể sau này sẽ cam chịu cảnh bạo lực hoặc ác cảm với đàn ông.
- Trên thực tế, hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em diễn ra ngày càng phổ biến và tinh vi. Bên cạnh đó, tình hình trẻ em bị tai nạn thương tích ngày càng tăng do sự chủ quan, sao nhãng, thiếu quan tâm đến con cái của các bậc làm cha, làm mẹ. Nguyên nhân chính là do nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của cha mẹ, những người có liên quan còn yếu và chưa nghiêm túc. Để bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em một cách tốt nhất thì việc áp dụng biện pháp phòng ngừa, tức là tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn kỹ năng bảo vệ trẻ em, phòng ngừa tai nạn thương tích cho trẻ em, phòng ngừa xâm hại, bạo lực, trừng phạt trẻ em cho cha mẹ, người giám hộ, người làm công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cơ sở nuôi dưỡng, cơ sở giáo dục… là có tính khả thi cao, tránh rủi ro không đáng có xảy ra.
Tháng hành động vì trẻ em cũng cần được quy định cụ thể trong luật và trở thành hoạt động thường niên, dự kiến tháng hành động sẽ diễn ra từ ngày 1/6-30/6 hàng năm, đây được coi là thời điểm cao trào để tổ chức các hoạt động bảo vệ chăm trẻ em;
Bổ sung thêm các quy định về xây dựng điểm vui chơi giải trí và tổ chức lễ hội trung thu cho trẻ em, quy định rõ trách nhiệm của gia đình và các cấp các ngành và uỷ ban nhân dân các cấp trong việc chỉ đạo và tổ chức các hoạt động nêu trên.
Dự kiến nguồn lực thực hiện
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì soạn thảo.
- Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp
Dự kiến thời gian trình
Đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Sự cần thiết ban hành
Bối cảnh, thực trạng quan hệ xã hội đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật, yêu cầu thực tiễn, mục tiêu và các vấn đề cần giải quyết
Luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Sau 6 năm thực hiện, Luật Du lịch đã thực sự phát huy vai trò đối với sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, đã xuất hiện nhiều yếu tố mới tác động đến việc thực hiện Luật Du lịch:
- Việt Nam là nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới ngày 07/11/2006 và có nhiều cam kết trong lĩnh vực du lịch với tổ chức này. Cũng từ năm 2006 đến nay, nước ta đã ký nhiều Hiệp định và Điều ước quốc tế với các nước và các tổ chức quốc tế như: APEC, AFTA, BTA... trong đó, Việt Nam có cam kết mở cửa theo lộ trình.
- Trước sự tác động của những thay đổi quan hệ xã hội và dẫn đến việc thực hiện Luật Du lịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Du lịch còn nhiều bất cập, vướng mắc. Những bất cập, vướng mắc này không thể giải quyết triệt để ở các văn bản quy định chi tiết thi hành do các quy phạm gốc tại Luật Du lịch đã bất cập, không phù hợp nên các quy phạm tại văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành không thể vượt ra ngoài quy phạm gốc. Những bất cập, vướng mắc này làm cho hoạt động du lịch gặp nhiều khó khăn, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch bối rối trong việc ban hành những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động du lịch gây khó khăn trong việc thực hiện các quy định của Luật hoặc những quy định của Luật ra dời thực tế, không có khả năng đi vào đời sống. Có những quy định của luật sau khi có hiệu lực đã gây áp lực lớn đối với thực trạng quan hệ xã hội đang tồn tại như quy định về việc công nhận khu du lịch, điểm du lịch sau khi đã được đầu tư, xây dựng hoàn chỉnh, như vậy sẽ không kêu gọi được xã hội hoá, có nhà đầu tư đầu tư xây dựng khu du lịch, điểm du lịch, các quy định về hướng dẫn viên du lịch quốc tế, ...Có những quy định buông lỏng không quản lý dẫn đến tình trạng quan hệ xã hội phát triển lộn xộn không quản lý được như bỏ mức ký quỹ đối với doanh nghiệp lữ hành nội địa. Nhiều quy định trong Luật Du lịch cần được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại và tương lai khi nước ta hội nhập sâu, rộng với khu vực và quốc tế để thúc đẩy sự nghiệp du lịch phát triển.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng, việc kiến nghị với Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trình Quốc hội đưa Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Du lịch vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014 là rất cần thiết, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.
Tổng kết, đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến các quan hệ xã hội cần điều chỉnh
Việc xây dựng và phát triển ngành dịch vụ du lịch đã được Đảng, Nhà nước tập trung chỉ đạo tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2011-2020 cùng với các dịch vụ, ngành có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế. Việc này cũng đồng nghĩa với việc phải xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đối với ngành dịch vụ du lịch, để du lịch phát triển trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Với nhiệm vụ được giao, hàng năm Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đều có những điều chỉnh và đều có báo cáo tổng kết kết quả quản lý, điều hành của Bộ, trong đó có kết quả thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật. Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức tổng kết việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, trên cơ sở đó, trình Chính phủ cho phép sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạp pháp luật hiện hành hoặc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mới. Từ kết quả của công tác quản lý, điều hành, kết quả rà soát các văn bản hiện hành có liên quan và thực tiễn đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch nhận thấy rằng các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến du lịch còn những vấn đề bất cập nhất định.
Thứ nhất, Trong số các văn bản pháp luật điều chỉnh về du lịch, Luật Du lịch là cơ sở pháp lý rất quan trọng trong lĩnh vực này. Luật có mức độ điều chỉnh khá đầy đủ, xét về các khía cạnh: cơ chế quản lý, chu trình quản lý, tài chính... Tuy nhiên, các quy phạm chưa điều chỉnh được toàn diện còn làm cản trở sự phát triển của một số quan hệ xã hội như việc việc phải công nhận các khu du lịch, điểm du lịch ngay từ giai đoạn quy hoạch nhằm thu hút sự đầu tư nguồn lực từ các nhà đầu tư và bỏ ngỏ một số quan hệ chưa điều chỉnh như nhà nghỉ cũng là một loại hình kinh doanh du lịch nhưng không điều chỉnh.
Thứ hai, hệ thống văn bản quy định chi tiết còn chưa đầy đủ, do có những quy phạm của Luật không thể quy định chi tiết vì không thể quy định chi tiết những nội dung phù hợp với thực trạng quan hệ xã hội nhưng ngoài quy định của Luật. Một số quy định pháp luật trong các văn bản luật khác còn làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của ngành du lịch như những quy định không cho xe du lịch được ưu tiên đón khách du lịch tại cơ sở lưu trú trong khu vực nội thành gây bức xúc và thiệt hại cho các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đồng thời cũng tạo cơ hội cho những tiêu cực phát triển.
Như vậy, trong một chừng mực nhất định, các quy định pháp luật hiện hành về du lịch có thể nói vừa thiếu lại vừa thừa, tính hệ thống chưa cao, nên có thể gây khó khăn nhất định cho việc thực thi. Các quy định về các lĩnh vực cụ thể cần được sửa đổi và bổ sung để du lịch phát triển như một ngành kinh tế mũi nhọn.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý ngành có quan hệ xã hội cần điều chỉnh
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2011-2020 trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Tập trung sức phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có đẳng cấp khu vực... Đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng để đạt đẳng cấp quốc tế”.
Ngày 30/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2473/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, mục tiêu chung của Chiến lược là đến năm 2020 du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới. Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển.
Mục tiêu chung của Chiến lược là huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả phát triển du lịch từ nay đến năm 2020, tạo môi trường kinh doanh du lịch thuận lợi và bảo vệ tài nguyên du lịch, góp phần quan trọng bảo đảm phát triển bền vững của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Chiến lược cũng khẳng định, hoàn thiện thể chế, chính sách về du lịch và liên quan đến du lịch ; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Du lịch tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển du lịch.
Nội dung cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Những năm qua, Việt Nam đã tích cực hợp tác có trách nhiệm, có hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực du lịch. Việt Nam đã tham gia kí kết và gia nhập WTO, APEC, AFTA, BTA ...
Nội dung của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia đều nhấn mạnh đến các nghĩa vụ pháp lý hoặc khuyến nghị các quốc gia xây dựng các văn bản pháp luật về du lịch.
Theo cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực du lịch, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ dưới hình thức liên doanh với đối tác Việt Nam mà không bị hạn chế phần vốn góp của phía nước ngoài. Trong khi đó, Điều 51 Luật Du lịch có phần hạn chế hơn cam kết vì chỉ cho phép liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam, có giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế.
Điều 5 Hiệp định du lịch ASEAN 2002 quy định về du lịch chất lượng
như sau: “Quốc gia thành viên phải đảm bảo du lịch chất lượng:
(1) Khuyến khích chính quyền các cấp và cộng đồng địa phương thực hiện các chương trình bảo tồn, gìn giữ và phát triển các di sản văn hóa, lịch sử và thiên nhiên của các nước thành viên;
(2) Khuyến khích du khách nhận thức, tôn trọng và giúp bảo tồn di sản thiên nhiên, văn hóa và lịch sử của các nước thành viên;
(3) Khuyến khích việc áp dụng, nếu phù hợp, các tiêu chuẩn quản lý môi trường và các chương trình chứng chỉ du lịch bền vững, để đánh giá và giám sát tác động của du lịch đối với cộng đồng, văn hóa và thiên nhiên địa phương, đặc biệt là các khu vực nhạy cảm về văn hóa và môi trường;
(4) Tăng cường sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường để gìn giữ và bảo tồn di sản thiên nhiên, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học và bảo vệ các loài động, thực cũng như các vi sinh vật đang bị đe dọa;
(5) Tăng cường các biện pháp phòng chống các nguy cơ liên quan đến du lịch cả trong việc khai thác di sản văn hóa và các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
(6) Áp dụng các biện pháp nghiêm khắc để ngăn ngừa lạm dụng và bóc lột có liên quan đến du lịch đối với con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.”.
Tương tự, Hiệp định Du lịch ASEAN cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch thông qua việc đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật về an toàn và an ninh du lịch; tăng cường chia sẻ thông tin về các vấn đề xuất, nhập cảnh giữa các cơ quan thực thi pháp luật; áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo hệ thống hỗ trợ liên lạc xử lý những lo ngại của khách du lịch (Điều 6 Hiệp định Du lịch ASEAN).
Như vậy, để những cam kết trên được thực hiện một cách có hiệu quả, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật quốc gia về du lịch như : quy định về doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 51 Luật Du lịch); bảo đảm chất lượng du lịch hay vấn đề bảo đảm an toàn, an ninh cho khách du lịch.
Quan điểm chỉ đạo việc soạn thảo Luật
Việc soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Du lịch cần được tiến hành theo các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây :
- Quan điểm chung
- Thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và Nhà nước du lịch, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền và lợi ích quốc gia; phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và từng địa phương trong giai đoạn hiện nay và các năm tiếp theo.
- Giữ lại và rà soát các quy định còn phù hợp của Luật Du lịch và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, đồng thời bổ sung những quy định mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hạn chế đến mức thấp nhất các văn bản quy định chi tiết Luật.
- Phù hợp với những thông lệ và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
- Dựa trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển du lịch của các nước.
- Phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan ở Trung ương và chính quyền các cấp ở địa phương.
- Quá trình và các bước tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Du lịch phải tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Chính sách cơ bản của luật và mục tiêu của chính sách
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Du lịch thể hiện chính sách:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về du lịch trên phạm vi cả nước; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch là cơ quan thường trực, phối hợp với các cơ quan liên quan có trách nhiệm giúp Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
- Bảo đảm thực hiện đúng chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước và nâng cao trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân hoạt động du lịch. Nâng cao nhận thức đối với du lịch có trách nhiệm nhằm phát triển du lịch bền vững.
- Đầu tư cho du lịch là yếu tố quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững. Nhà nước đảm bảo các nguồn lực cần thiết; đồng thời huy động sự đóng góp của cộng đồng và toàn xã hội để đầu tư cho du lịch. Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở và cơ sở vật chất cho du lịch, đảm bảo hài hoà với thiên nhiên và cảnh quan môi trường, phát triển du lịch bền vững.
- Đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế về du lịch.
Mục tiêu của chính sách này là nhằm huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả phát triển du lịch từ nay đến năm 2020 nhằm đưa du lịch Việt Nam từng bước phát triển trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có đẳng cấp khu vực... Đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng để đạt đẳng cấp quốc tế, tạo thương hiệu bền vững trong khu vực và trên thế giới, góp phần quan trọng bảo đảm phát triển bền vững của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Những nội dung chính của luật và những vấn đề cần xin ý kiến
Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của dự luật kế thừa phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật Du lịch.
Những vấn đề cần được sửa đổi
- Chương I. Những quy định chung
Dự thảo Luật sửa đổi lại các Điều 4 (Giải thích từ ngữ); Điều 5 (Nguyên tắc phát triển du lịch); Điều 6 (Chính sách phát triển du lịch) do một số khái niệm, thuật ngữ chưa phù hợp với thực tế cũng như thông lệ quốc tế;
Sửa đổi, bổ sung Điều 8 (Hiệp hội du lịch) để phát huy vai trò của Hiệp hội trong hoạt động du lịch;
Sửa đổi, bổ sung Điều 10 (Quản lý nhà nước về du lịch) nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch;
- Chương II. Tài nguyên du lịch: sửa đổi các điều từ Điều 13 đến Điều 16.
- Chương III. Quy hoạch phát triển du lịch: sửa đổi các Điều 20, 21.
- Chương IV. Khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch du lịch và đô thị du lịch sửa đổi các Điều 23, 24, 25, 26, 27 và 32.
- Chương V. Khách du lịch sửa đổi Điều 35 và Điều 37.
- Chương VI. Kinh doanh du lịch sửa đổi Điều 38 (về ngành, nghề kinh doanh trong du lịch); Điều 41 và 42 (về văn phòng đại diện); Điều 44, Điều 46, Điều 47 (về kinh doanh lữ hành); Điều 59 (về cấp biển hiệu cho phương tiện chuyên vận chuyển khách du lịch); Điều 62 (về các loại cơ sở lưu trú);
- Chương VII. Hướng dẫn viên du lịch, sửa đổi các Điều 72 và Điều 78 (về thuyết minh viên).
- Chương VIII. Xúc tiến du lịch, sửa đổi các Điều 81 và 82 (về hoạt động xúc tiến của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và của các doanh nghiệp du lịch).
Những vấn đề cần được bổ sung
- Bổ sung thêm chương hoặc mục về Nguồn nhân lực du lịch.
- Bổ sung thêm điều, khoản về quản lý các nhà hàng phục vụ du lịch.
- Bổ sung thêm điều, khoản về quản lý nhà nước về du lịch tại cấp huyện, xã.
Các giải pháp để thực hiện chính sách
Các giải pháp để thực hiện các chính sách nêu trên bao gồm nhiều lĩnh vực, trong đó, giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật là điều kiện tiên quyết để đảm bảo việc thực hiện hiệu quả các giải pháp còn lại.
- Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách về du lịch
+ Có chính sách khuyến khích các hoạt động khoa học công nghệ, thu hút đầu tư, hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực... cho du lịch.
+ Lập quy hoạch, kế hoạch, phân vùng, đánh giá tiềm năng du lịch để từ đó có chính sách phù hợp cho những vùng, địa phương, các khu vực trọng điểm, làm cơ sở cho việc chủ động phát triển du lịch; ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng tại các khu du lịch, cơ sở lưu trú...
+ Rà soát, bổ sung hoàn thiện chức năng nhiệm vụ, quy chế hoạt động, cơ chế phối hợp của Ban Chỉ đạo du lịch Nhà nước, các Hiệp hội du lịch.
+ Chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ làm du lịch. Bồi dưỡng nâng cao nguồn nhân lực du lịch.
- Xã hội hoá và phát triển nguồn nhân lực
- Huy động hiệu quả các nguồn tài chính
- Nâng cao nhận thức của cộng đồng
- Nâng cao năng lực cán bộ quản lý du lịch các cấp
- Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế
Các tác động tích cực, tiêu cực của chính sách
Chính sách được thể hiện trong Luật sửa đổi, bổ sung sẽ có tác động tích cực tạo ra một khuôn khổ pháp lý đồng bộ cùng với Luật gốc giúp huy động nhân lực, vật lực phát triển du lịch để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của Việt Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới đều gặp khó khăn, Luật sửa đổi, bổ sung sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng, thương hiệu du lịch, thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là phát triển du lịch bền vững và có trách nhiệm, góp phần quan trọng bảo đảm phát triển bền vững của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Về cơ bản, chính sách này không có tác động tiêu cực. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách đòi hỏi sự phối hợp của các bộ ngành có liên quan và tăng cường vai trò của Ban Chỉ đạo Nhà nước về du lịch, Hiệp hội du lịch. Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung nhằm tạo ra các văn bản pháp luật có hiệu lực cao, có tính thống nhấtvà phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện đảm bảo cho việc soạn thảo văn bản
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
Sử dụng nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước theo các quy định hiện hành. Kết hợp sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ của dự án ERST trong khuôn khổ Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội do liên minh châu Âu tài trợ.
Sử dụng nguồn nhân lực của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và các bộ ngành có đại diện trong Ban chỉ đạo quốc gia về du lịch. Kết hợp sử dụng nguồn nhận lực hỗ trợ do dự án tuyển dụng.
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo và thời gian trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
Lộ trình dự kiến: đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014
Sự cần thiết
Việt Nam có chiều dài đường bờ biển trên 3.260 km, vùng biển đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng gấp khoảng ba lần diện tích đất liền. Biển và hải đảo của nước ta có vai trò, vị trí quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc ta trong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã nêu rõ “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển và hải đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu, mạnh”.
Vùng biển, ven biển và hải đảo nước ta chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Tài nguyên biển có tính chất chia sẻ và cùng với sự hiện diện ở quy mô lớn của các hệ sinh thái tiêu biểu với năng suất sinh học và tính đa dạng sinh học cao như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, đầm phá, vũng vịnh, bãi triều và cửa sông đã tạo tiền đề cho phát triển đa ngành, đa mục tiêu, là các yếu tố đầu vào và là cơ sở rất quan trọng cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội, trong đó có kinh tế - xã hội vùng ven biển và hải đảo của nước ta.
Hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo rất phong phú và đa dạng, bao gồm các hoạt động của các ngành, lĩnh vực như: hàng hải, thủy sản, khoáng sản, du lịch, dịch vụ biển,… Trên một khu vực biển có thể có nhiều hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên: khai thác trên mặt nước (giao thông, xây dựng công trình biển...), khai thác tài nguyên trong khối nước (thủy, hải sản), khai thác tài nguyên dưới đáy biển (tài nguyên khoáng sản, dầu khí,...)...
Trong thời gian qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên (trong đó có tài nguyên biển, hải đảo) và bảo vệ môi trường đã được thiết lập, bước đầu tạo cơ sở pháp lý để quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chủ yếu mang tính chuyên ngành và chỉ điều chỉnh một hoặc một số loại tài nguyên cụ thể, chưa phù hợp với đặc thù của tài nguyên biển là dạng tài nguyên chia sẻ (trên một không gian biển, có nhiều tổ chức, cá nhân cùng khai thác, sử dụng) đòi hỏi phải có các công cụ định hướng và cơ chế điều phối, phối hợp trong khai thác, sử dụng, bảo đảm cho tài nguyên và môi trường biển, hải đảo được bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả. Mặt khác, quản lý theo chuyên ngành thường chú trọng nhiều đến mục đích phát triển, chưa chú ý thích đáng đến lợi ích của ngành khác nên dẫn đến mâu thuẫn lợi ích giữa ngành này với ngành khác, địa phương này với địa phương khác trong việc sử dụng tài nguyên biển, hải đảo.
Trong những năm qua, việc quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được, đã nảy sinh nhiều vấn đề tồn tại, bất cập, cụ thể như sau:
- Công tác điều tra cơ bản đối với một số loại tài nguyên biển, hải đảo do các Bộ, ngành thực hiện trong thời gian qua đã không ngừng được đẩy mạnh, tuy nhiên, do chưa có quy hoạch tổng thể về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, hải đảo định hướng, nên việc điều tra cơ bản chỉ chú trọng vào yêu cầu phát triển của ngành, lĩnh vực, thiếu sự gắn kết, lồng ghép trong điều tra cơ bản các loại tài nguyên biển, hải đảo; đầu tư cho công tác điều tra cơ bản còn dàn trải do thiếu định hướng về thứ bậc ưu tiên trong từng giai đoạn.
- Biển có tính chất liên thông nên việc khai thác, sử dụng một vùng biển sẽ ảnh hưởng tới các vùng biển khác và xét ở góc độ tổng thể, các hoạt động trên biển có mối liên hệ, tác động nhất định đến nhau, lợi ích của hoạt động này đôi khi là cản trở đối với hoạt động của ngành khác. Điều này làm tăng mâu thuẫn lợi ích giữa ngành này với ngành khác, địa phương này với địa phương khác trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Trong thời gian qua, hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo của các ngành, lĩnh vực về cơ bản đã tuân thủ theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên, quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo của các ngành, lĩnh vực còn thiếu sự gắn kết và hài hòa lợi ích giữa các bên do chưa có Quy hoạch tổng thể về khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo (Quy hoạch sử dụng biển) định hướng cho hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên. Tồn tại này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khai thác quá mức một chức năng, đồng thời ảnh hưởng tới các chức năng khác của biển làm cho tài nguyên biển và hải đảo dần bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm môi trường biển tiếp tục diễn biến phức tạp, nhiều hệ sinh thái quan trọng như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn ... bị tổn thương, dẫn tới sự nghèo nàn của nguồn lợi thủy sản.
- Mặc dù các đạo luật chuyên ngành đã quy định cụ thể về việc xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng nguyên và bảo vệ môi trường môi trường nhưng các quy định này chỉ điều chỉnh trong phạm vi ngành, lĩnh vực. Do vậy, xét trên yêu cầu quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo thì các dữ liệu chuyên ngành bị phân tán, thiếu tính gắn kết và không được tích hợp thành cơ sở dữ liệu chung thống nhất, đồng bộ và hiện đại để quản lý, phục vụ cho hoạch định chính sách phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh, quốc phòng.
- Công tác bảo vệ môi trường biển, hải đảo, đặc biệt là hoạt động kiểm soát ô nhiễm, suy thoái môi trường biển và hải đảo; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, giảm thiểu ô nhiễm và khắc phục sự cố môi trường biển và hải đảo; bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái biển và hải đảo tuy đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác có liên quan. Tuy nhiên, xét trên tính chất liên thông của biển và tính chất lan truyền ô nhiễm trên biển thì các quy định này còn mang tính nguyên tắc, thiếu tổng thể, chỉ tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh trong ngành, lĩnh vực, chưa có các quy định cụ thể về cơ chế phối hợp trong bảo vệ môi trường biển, hải đảo. Do vậy, hiệu quả thực hiện chưa cao, một số quy định chưa phù hợp, thiếu tính khả thi.
- Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường đều đã được quy định trong các đạo luật chuyên ngành và trách nhiệm này do cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện. Hiện nay việc kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển chỉ có lực lượng kiểm ngư thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có năng lực thực hiện. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển nếu thực hiện theo hướng mỗi ngành đều thành lập lực lượng kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển thuộc phạm vi quản lý sẽ dẫn đến tình trạng phân tán, dàn trải, khó có điều kiện để đầu tư thích đáng.
Để khắc phục những bất cập nêu trên, cần phải thiết lập cơ sở pháp lý đồng bộ và hiệu quả cho việc quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo theo phương thức tổng hợp dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái. Cách tiếp cận này chú trọng đến việc duy trì tính toàn vẹn về chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái, trong đó con người là một phần của hệ sinh thái và con người thông qua các hoạt động khai thác tài nguyên đã tác động, làm suy thoái các hệ sinh thái. Do vậy, quản lý tổng hợp biển và hải đảo theo cách tiếp cận hệ sinh thái có vai trò điều chỉnh hoạt động của con người để bảo vệ tính toàn vẹn về chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái, duy trì và cải thiện năng suất của hệ sinh thái, qua đó, bảo đảm tài nguyên biển, hải đảo được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, môi trường biển, hải đảo được tăng cường bảo vệ; hài hòa được lợi ích của các bên liên quan. Tính tổng hợp trong quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo được thể hiện trên 3 phương diện:
- Tổng hợp theo tính hệ thống: mỗi vùng biển và hải đảo được hiểu là một hệ thống tài nguyên thống nhất, được quản lý theo phương thức không cắt rời, chia nhỏ hay xem xét các thành phần của nó một cách riêng biệt để đảm bảo tính toàn vẹn; đồng thời, xem xét vùng biển và hải đảo là hệ thống tương tác giữa tự nhiên và xã hội, giữa các yếu tố sinh học và phi sinh học.
- Tổng hợp theo chức năng: mỗi vùng biển và hải đảo là một hệ thống nhiều chức năng, cần được xem xét sử dụng cho phù hợp với các chức năng đó và trong giới hạn chịu tải của hệ thống, tiểu hệ thống trong khu vực.
- Tổng hợp về phương thức quản lý: phương thức quản lý theo chiều dọc (các cấp) và chiều ngang (các bên liên quan) để đảm bảo tính đa ngành, đa cấp; đồng thời, phải có cơ chế liên kết chặt chẽ giữa các chính sách quản lý và hành động quản lý.
Với cách tiếp cận trên, quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là phương thức quản lý theo phương châm không làm thay quản lý ngành mà đóng vai trò định hướng, điều phối các hoạt động quản lý ngành; giúp khắc phục các xung đột, mâu thuẫn trong quản lý ngành, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên, môi trường và các hệ sinh thái biển, thống nhất các hoạt động quản lý từ trung ương đến địa phương, đảm bảo phát triển bền vững biển và hải đảo. Thực tiễn kinh nghiệm của hầu hết các quốc gia có biển trên thế giới cho thấy phương thức quản lý này là phù hợp và bảo đảm hiệu quả nhất. Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy rằng, khung khổ pháp lý để triển khai phương thức quản lý này là các chính sách, pháp luật, mặc dù có thể có tên gọi khác nhau, nhưng nội hàm cơ bản là quản lý tài nguyên và môi trường biển, hải đảo.
Phương thức quản lý tổng hợp dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái nêu trên cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Từ năm 1972, phương thức quản lý tổng hợp đã được Hoa Kỳ đưa vào Luật về quản lý tổng hợp vùng ven biển. Phương thức này ngày càng được phổ biến rộng rãi và đã được thông qua ở Hội nghị của Liên Hợp quốc vào năm 1992. Tại Hội nghị này đã thông qua Chương trình Nghị sự 21, trong đó dành trọn Chương 17 cho vấn đề quản lý tổng hợp vùng bờ và đại dương với hai quan điểm trung tâm được nhấn mạnh là tính phụ thuộc lẫn nhau và tính tổng hợp. Cho đến nay, phương thức quản lý này đã ngày càng trở lên phổ biến và đã được các quốc gia có biển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Australia… áp dụng . Phương thức này được xem như cứu cánh cho các quốc gia có mong muốn làm giảm tình trạng ô nhiễm môi trường và suy thoái nguồn tài nguyên biển sau nhiều thập kỷ bị khai thác quá mức.
Ở nước ta, công tác quản lý tổng hợp và thống nhất về biển đã được đề cập trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X. Thể chế hóa Nghị quyết nêu trên của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 3 năm 2009 về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo. Hiện nay, Nghị định số 25/2009/NĐ-CP là văn bản quy phạm pháp luật có tính pháp lý cao nhất điều chỉnh về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo. Như vậy, trên thực tế, công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo đã được Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thực hiện từ năm 2009. Tuy nhiên, thực tiễn 03 năm thi hành Nghị định số 25/2009/NĐ-CP cho thấy đã nảy sinh một số tồn tại, bất cập sau:
- Nghị định số 25/2009/NĐ-CP quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo mới dừng lại ở những quy định khung, chưa thể chế hóa đầy đủ và cụ thể nội hàm và các yêu cầu của công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái; chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
- Nghị định số 25/2009/NĐ-CP có tính pháp lý thấp nên không thể điều chỉnh một số vấn đề đã được quy định trong luật chuyên ngành hoặc các vấn đề mới phát sinh (ví dụ như quy định về tính thứ bậc giữa quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo với các quy hoạch chuyên ngành; quy định về xây dựng, quản lý, khai thác hệ cơ sở dữ liệu biển, hải đảo; quy định về công tác giám sát tổng hợp các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo,...).
Từ những nội dung nêu trên cho thấy việc xây dựng và ban hành một văn b ản quy phạm pháp luật có tính pháp lý cao - Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo để quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là cần thiết và là một yêu cầu thực tiễn khách quan.
Trên quan điểm lấy Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 6 tháng 3 năm 2009 của Chính phủ về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo làm nền tảng, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo theo hướng: rà soát lại những nội dung mà Nghị định số 25/2009/NĐ-CP và các luật chuyên ngành đã quy định để xác định tính hợp lý và mức độ cần thiết phải sửa đổi để đưa vào Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Rà soát các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và một số công ước quốc tế về biển mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời cũng xem xét quy định của các luật chuyên ngành liên quan đến vấn đề quy hoạch, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, hải đảo, cấp phép khai thác, sử dụng biển để tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển để cân nhắc đưa các quy định quản lý mang tính tổng hợp, liên ngành vào Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
Nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo
a) Quan điểm và nguyên tắc xây dựng Luật:
- Quán triệt và thể chế hoá chính sách, tư tưởng chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
- Tài nguyên biển và hải đảo phải được quản lý tổng hợp, thống nhất, bảo vệ, khai thác bền vững và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
- Phải giải quyết cơ bản các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo trong quản lý, bảo vệ, khai thác tài nguyên biển và hải đảo giữa các ngành, các cấp; bãi bỏ các quy định bất cập; bổ sung quy định về những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; những vấn đề đã có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn thì phải quy định chi tiết ngay trong nội dung của Luật.
- Tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hiệu quả để quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các bên khai thác, sử dụng tài nguyên trên quan điểm phát triển bền vững.
- Các quy định của Luật phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, không chồng chéo, mâu thuẫn với các luật chuyên ngành và phù hợp với các điều ước quốc tế liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo mà Việt Nam là thành viên; rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, có tính khả thi và gắn với yêu cầu phân cấp, cải cách nền hành chính nhà nước.
b) Chủ trương, chính sách lớn thể chế hóa trong dự thảo Luật:
- Công tác quản lý tài nguyên và môi trường biển và hải đảo phải bảo đảm tiếp cận theo phương thức tổng hợp dựa trên cách tiếp cận hệ sinh thái.
- Mọi hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo phải bảo đảm phát triển bền vững, hài hòa lợi ích giữa các bên; khai thác, sử dụng tài nguyên phải gắn với bảo vệ môi trường biển và hải đảo, bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển.
- Điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển và hải đảo phải đi trước một bước, bảo đảm tính lồng ghép và thống nhất, theo định hướng ưu tiên của từng giai đoạn. Đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, nâng cao chất lượng điều tra, quan trắc, dự báo về tài nguyên và môi trường biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng, quản lý hệ thống mạng quan trắc, giám sát tài nguyên và môi trường biển và hải đảo.
- Hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên và môi trường biển và hải đảo phải được xây dựng thống nhất, đồng bộ, hiện đại phục vụ cho phát triển kinh tế biển, an ninh, quốc phòng.
- Hạn chế, ngăn ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường biển và hải đảo; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, giảm thiểu ô nhiễm và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường biển và hải đảo; bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái biển và hải đảo.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên và môi trường biển và hải đảo trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Từng bước tiến tới thành lập lực lượng giám sát tổng hợp các hoạt động điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
- Phạm vi điều chỉnh: Luật này quy định về quản lý tổng hợp các hoạt động điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và hải đảo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường thuộc các vùng biển và hải đảo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Đối tượng áp dụng: Luật này áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi trường thuộc các vùng biển, hải đảo Việt Nam.
Nội dung chính của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
- Chương I. Những quy định chung: Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; chính sách, nguyên tắc, nội dung quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
- Chương II. Quản lý hoạt động điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển và hải đảo: Chương này quy định về căn cứ, nội dung, trình tự, thẩm quyền lập, phê duyệt quy hoạch điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển và hải đảo; đăng ký hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên biển và hải đảo; xây dựng, quản lý hệ thống mạng quan trắc, hệ thống thông tin, dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; trách nhiệm cung cấp thông tin, chia sẻ dữ liệu điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Quy hoạch điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quy định trong chương này này là quy hoạch tổng thể, bảo đảm hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo của các Bộ, ngành và địa phương được lồng ghép, thống nhất theo định hướng ưu tiên của từng giai đoạn. Quy hoạch này là một trong những căn cứ để các Bộ, ngành và địa phương xây dựng quy hoạch, chương trình, kế hoạch điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển và hải đảo của ngành, địa phương. Đối với quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học biển, hải đảo, sẽ tập trung quy định về nội dung quản lý và hoạt động cấp phép nghiên cứu khoa học biển và hải đảo
- Chương III. Quy hoạch, kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo: Chương này quy định về nguyên tắc, căn cứ, nội dung, thẩm quyền lập, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo; mối quan hệ giữa quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo với quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo của các ngành, lĩnh vực. Quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo là quy hoạch tổng thể, trong đó có nhiệm vụ phân vùng sử dụng biển để định hướng cho quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo của các bộ, ngành và địa phương. Đối với kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo sẽ tập trung quy định về căn cứ, nội dụng, lập và phê duyệt kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo và việc tổ chức thực hiện kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo.
- Chương IV. Quản lý hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo: Chương này quy định về nguyên tắc, nội dung và trách nhiệm quản lý tổng hợp hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo; trình tự, thủ tục, thẩm quyền giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân để khai thác, sử dụng tài nguyên; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được giao khu vực biển để khai thác, sử dụng tài nguyên.
- Chương V. Bảo vệ môi trường biển và hải đảo: Chương này quy định về nguyên tắc, trách nhiệm bảo vệ môi trường biển và hải đảo; xác định các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển và hải đảo (từ đất liền, hoạt động của tàu thuyền, hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…) và quy định các hoạt động quản lý, bảo vệ tương ứng; vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, trong đó có vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới; ứng phó, khắc phục sự cố môi trường, thiên tai; quản lý, bảo vệ các hệ sinh thái biển, hải đảo.
- Chương VI. Nguồn lực quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và hải đảo: Chương này quy định về tài chính cho quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và hải đảo; phát triển nguồn nhân lực để quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; tuyên truyền về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; sự tham gia của tổ chức, cá nhân để quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và hải đảo.
- Chương VII. Hợp tác quốc tế về tài nguyên và môi trường biển và hải đảo: Chương này quy định về chính sách, nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế về khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; hợp tác quốc tế trong quản lý và phát triển tài nguyên biển và hải đảo, đặc biệt là hợp tác với các nước có chung Biển Đông
- Chương VIII. Trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển và hải đảo: Chương này quy định về trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương trong quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển và hải đảo; cơ chế phối hợp quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
- Chương IX. Kiểm tra, giám sát các hoạt động điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo: Chương này quy định về nguyên tắc, nội dung kiểm tra, giám sát các hoạt động điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; tổ chức và hoạt động của lực lượng chuyên trách kiểm tra, giám sát các hoạt động điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
- Chương X. Điều khoản thi hành: Chương này quy định về hiệu lực thi hành, tổ chức thực hiện và việc hướng dẫn tổ chức thi hành Luật.
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan.
Dự kiến thời gian trình Ủy ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội
Đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Ngày 3/6/2008, Quốc hội Khóa XII kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật NLNT, tạo lập khung pháp luật để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử đang phát triển mạnh mẽ ở nước ta và đảm bảo an toàn, an ninh cho các hoạt động đó. Để thực hiện Luật NLNT, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các VBQPPL sau: Nghị định số 07/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử; Nghị định số 111/2009/NĐ-CP ngày 11/12/2009 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; Nghị định số 70/2010/NĐ-CP ngày 22/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử về nhà máy điện hạt nhân; Quyết định số 45/2010/QĐ-TTg ngày 14/6/2010 ban hành Quy chế hoạt động kiểm soát hạt nhân.
Thực hiện quy định của Luật NLNT, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành một số văn bản cá biệt: Quyết định số 446/QĐ-TTg ngày 07/4/2010 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia; Quyết định số 957/QĐ-TTg ngày 24/6/2010 về việc quy hoạch tổng thể phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020; và các Quy hoạch chi tiết. Để thi hành Luật NLNT, các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ đang tiếp tục ban hành và tổ chức thực hiện các Thông tư, Quy chuẩn kỹ thuật; đặc biệt ưu tiên đối với việc xây dựng các VBQPPL về quản lý an toàn dự án điện hạt nhân (ĐHN).
Hiện tại, do đã có kinh nghiệm nhiều năm quản lý, các VBQPPL về an toàn bức xạ tương đối hoàn chỉnh; thực tế chỉ cần chỉnh sửa, bổ sung. Trong khi đó, do thiếu kinh nghiệm và chuyên môn, các VBQPPL về an toàn hạt nhân và các nội dung liên quan đến nhà máy ĐHN hầu như chưa có gì. Đây là vấn đề phải nhanh chóng giải quyết để thiết lập và hoàn thiện khung pháp luật cho việc thực hiện dự án ĐHN.
Trong hơn 2 năm được thi hành, Luật NLNT đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các ngành, các cấp, các cơ sở bức xạ, cơ sở hạt nhân và người dân về vai trò của ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn, an ninh cho các ứng dụng đó. Luật NLNT đã khẳng định vai trò quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) và cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước an toàn bức xạ và hạt nhân (Điều 7, Điều 8 của Luật). Việc quản lý an toàn, an ninh đối với các cơ sở bức xạ đã được tăng cường và dần dần đi vào nề nếp. Công việc bức xạ, nguồn bức xạ và nhân viên bức xạ đã được khai báo đầy đủ; hầu hết các cơ sở bức xạ đều được cấp giấy phép sử dụng nguồn bức xạ. Nhìn chung, các cơ sở tiến hành công việc bức xạ có ý thức hơn, thực hiện nghiêm túc hơn các quy định của Luật NLNT và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật NLNT. Có thể dẫn chứng: Từ khi Luật NLNT có hiệu lực, chưa xảy ra một sự cố làm thất lạc nguồn phóng xạ nào.
Lần đầu tiên ở nước ta có một đạo luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về năng lượng nguyên tử, đặc biệt là về lò phản ứng hạt nhân và nhà máy ĐHN. Luật NLNT ra đời đã kịp thời tạo khung pháp luật để thực hiện chủ trương đẩy mạnh ứng dụng NLNT và phát triển ĐHN của Đảng, Nhà nước. Luật NLNT ra đời kịp thời đã có tác dụng tích cực, làm cơ sở pháp luật cho Quốc hội thông qua chủ trương xây dựng nhà máy điện hạt nhân (tháng 11/2009) và Chính phủ đàm phán, ký kết Hiệp định hợp tác xây dựng nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 với Chính phủ Liên bang Nga (tháng 10/2010), nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2 với Chính phủ Nhật Bản (tháng 01/2011). Thực hiện các quy định của Luật NLNT, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ ngành liên quan và chủ đầu tư Dự án ĐHN Ninh Thuận là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang khẩn trương thực hiện các thủ tục về phê duyệt địa điểm, dự án đầu tư, cấp phép xây dựng để có thể khởi công nhà máy ĐHN Ninh Thuận vào cuối năm 2014.
- Sửa đổi nhằm khắc phục những bất cập, vướng mắc, không khả thi bộc lộ trong quá trình thực thi Luật NLNT;
- Bổ sung, đảm bảo quy định đầy đủ các nội dung cơ bản theo yêu cầu quản lý, phù hợp với luật pháp quốc gia và thông lệ quốc tế;
- Đảm bảo tính phù hợp, tính thống nhất của Luật NLNT với Hiến pháp, các đạo luật có liên quan, với các điều ước quốc tế đang có hiệu lực mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật NLNT sẽ có các tác động tích cực:
Khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình;
Tăng cường hơn nữa việc đảm bảo an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân, cơ sở hạt nhân và kiểm soát hạt nhân cho các hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình;
Đảm bảo bao quát tất cả các nội dung cần phải quản lý nhà nước; có cơ quan quản lý nhà nước đủ thẩm quyền, độc lập với tổ chức nghiên cứu, triển khai, ứng dụng NLNT; Tăng cường hơn nữa vai trò của cơ quan quản lý nhà nước; Tăng cường trách nhiệm, sự phối hợp của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của Luật NLNT;
Đảm bảo tính khả thi của các quy định trong Luật NLNT, đáp ứng các yêu cầu quản lý nhưng không gây ra phiền hà, sách nhiễu, gánh nặng cho người dân, cho doanh nghiệp;
Củng cố niềm tin của cộng đồng quốc tế nhằm tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia phát triển trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Luật NLNT hiện hành đã bao hàm tương đối đầy đủ các nội dung theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, còn một số quy định trong Luật NLNT chưa phù hợp với các khuyến cáo của IAEA và thông lệ quốc tế. Trong quá trình thực hiện Luật NLNT, đã bộc lộ một số bất cập.
Đặc biệt đối với điện hạt nhân, do chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực hoàn toàn mới ở Việt Nam, chưa hiểu hết đặc thù về bảo đảm an toàn, an ninh đối với nhà máy ĐHN và còn phụ thuộc vào pháp luật của các lĩnh vực có liên quan (Đầu tư, Xây dựng, Bảo vệ môi trường…), mà Luật NLNT đã bộc lộ một số bất cập mang tính nguyên tắc cần phải chỉnh sửa như:
Chưa có cơ quan chịu trách nhiệm cấp phép xuyên suốt các giai đoạn của nhà máy ĐHN: Thủ tướng Chính phủ phê duyệt địa điểm, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp phép xây dựng, Bộ Công Thương cấp phép vận hành, cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân phê duyệt kế hoạch tháo dỡ (chấm dứt hoạt động);
Trách nhiệm thẩm định để phê duyệt, cấp phép được quy định chồng chéo, thậm chí giao cho cơ quan tư vấn (được thành lập tạm thời) chịu trách nhiệm.
Nội dung chính
Trên cơ sở nghiên cứu các thuật ngữ được các nước thành viên Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA)[2] thống nhất sử dụng rộng rãi, đề nghị chỉnh sửa lại các thuật ngữ sử dụng trong Luật NLNT như An toàn bức xạ; An toàn hạt nhân; Miễn trừ khai báo, cấp phép; Mức miễn trừ, Nhân viên bức xạ, Người phụ trách an toàn bức xạ.
Quản lý nhà nước về an toàn bức xạ. Cần bổ sung một điều về Kiểm soát chiếu xạ y tế liên quan tới bảo vệ bệnh nhân trong khám và chữa bệnh sử dụng bức xạ ion hóa và chất phóng xạ; các yêu cầu về đào tạo và trình độ đối với nhân viên y tế và các yêu cầu đối với thiết bị dùng trong chẩn đoán và điều trị;
- Cần xem xét lại Điều 28: Thay vì cấp chứng chỉ làm công việc bức xạ bằng việc cấp giấy phép hành nghề đặc biệt. Nên đưa quy định này về Chương quy định về cấp phép;
- Các nhân viên bức xạ cũng cần phải được đăng ký tại các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn và kiểm soát bức xạ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và kiểm soát chiếu xạ nghề nghiệp;
- Sửa Chương IX - Khai báo và cấp phép theo hướng Khai báo, đăng ký và cấp phép. Có 3 loại giấy phép sau: - Giấy phép vận hành cơ sở bức xạ; - Giấy phép tiến hành công việc bức xạ; - Giấy phép hành nghề đặc biệt.
Đảm bảo tính độc lập của cơ quan quản lý. Phù hợp với khuyến cáo của IAEA, cần sửa Khoản 3 Điều 6 nhằm thể hiện nguyên tắc: cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân phải có vị trí độc lập với cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm về việc phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử.
Cấp phép nhà máy điện hạt nhân. Các Điều 47, 48, 49, 50 và 40 của Luật NLNT mới chỉ quy định các việc cần phải làm nhưng chưa rõ trách nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ quan tham gia thẩm định, cơ chế phối hợp giữa các tổ chức được tham gia thẩm định, đặc biệt chưa thấy rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân. Những mối quan hệ nêu trên cần được làm rõ hơn trong Điều 8 của Luật NLNT cũng như vai trò của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia. Cần tham khảo tài liệu của IAEA để có quy định phù hợp. Không thể giao cho Bộ Công - Thương cấp phép vận hành nhà máy ĐHN bao gồm cả vận hành thử vì như vậy là “vừa đá bóng vừa thổi còi” vi phạm nguyên tắc đảm bảo an toàn hạt nhân. Bộ Công Thương hiện đang giữ vị trí là cơ quan chủ quản của Tập đoàn Điện lực Việt Nam – chủ đầu tư của Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Bất cập này đã được các tổ chức, cơ quan đối tác của Việt Nam như IAEA, Liên bang Nga, Hoa Kỳ khuyến cáo cần phải giải quyết; đặc biệt sau sự cố hạt nhân nghiêm trọng tại nhà máy ĐHN Fukushima số 1 tại Nhật Bản. Để đảm bảo tính xuyên suốt của trách nhiệm cấp phép đã được quy định trong Luật NLNT và chức năng, nhiệm vụ được giao theo Nghị định của Chính phủ, cơ quan cấp phép nên là Bộ KHCN.
Ứng phó sự cố. Cần sửa Điều 82 và Điều 83 liên quan tới quy định nhóm tình huống và phân công xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố. Quy định cụ thể việc phân công trách nhiệm trong chỉ huy ứng phó sự cố.
Các vấn đề cần quy định thêm. Thanh tra và khen thưởng, xử lý vi phạm; Nguyên tắc xây dựng và không ngừng củng cố văn hóa an toàn trong hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử; Thanh sát (safeguards); Quản lý chất thải và nhiên liệu hạt nhân đã cháy; An ninh hạt nhân, bảo vệ thực thể và chống vận chuyển trái phép nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại hạt nhân (gồm trách nhiệm của bên thứ ba).
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Khoa học và công nghệ. Ngân sách do nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
Đưa vào Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Sự cần thiết xây dựng dự án
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004, có hiệu lực thi hành ngày 15/11/2004. Sau 7 năm triển khai thực hiện, Pháp lệnh đã đi vào cuộc sống, thể chế được những quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác tín ngưỡng, tôn giáo theo Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, là dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay tạo cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền tự do về tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân, đồng thời giúp việc quản lý nhà nước về tôn giáo dần đi vào nề nếp nên các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật đã dần hạn chế. Pháp lệnh đã góp phần duy trì và ổn định xã hội, phát triển đất nước và được đông đảo tín đồ, chức sắc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế đánh giá cao về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn đặt ra hiện nay, một số quy định của Pháp lệnh đã trở nên bất cập, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, cụ thể:
a) Về công nhận tổ chức tôn giáo
Thực hiện Điều 16 Pháp lệnh, đến nay cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã hướng dẫn đăng ký và công nhận 33 tổ chức tôn giáo, về cơ bản hiện đã giải quyết để quản lý đối với những tôn giáo đã hình thành hoặc có hoạt động tôn giáo ổn định ở nước ta. Tuy nhiên, hiện nay ngoài những tổ chức tôn giáo đã được đăng ký và công nhận tổ chức còn xuất hiện một số nhóm tự xưng là tôn giáo như: Long hoa Di lặc, Nhất quán đạo, Ngọc Phật Hồ Chí Minh ... đã đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xin được đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận về tổ chức, nếu căn cứ vào 5 tiêu chí quy định tại Điều 16 Pháp lệnh thì cơ quan nhà nước không có cơ sở để từ chối việc đăng ký hoạt động này nên đã tạo sự lúng túng quy định của pháp luật với thực tiễn yêu cầu trong công tác quản lý. Để tháo gỡ vướng mắc như đã nêu, cần sửa đổi quy định về điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo.
b) Về quyên góp trong hoạt động tôn giáo
Hiện nay, một số địa phương cho rằng đối với vấn đề quyên góp trong hoạt động tôn giáo theo Điều 28 của Pháp lệnh là chỉ cần thông báo với Uỷ ban nhân dân nơi tổ chức quyên góp là không phù hợp, cần phải phân loại đối với từng trường hợp cụ thể, nếu quyên góp để xây dựng cơ sở tôn giáo thì phải được sự chấp thuận của chính quyền để đảm bảo sức dân.
c) Về tôn giáo tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo
Khoản 1 Điều 33 Pháp lệnh quy định: “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khỏe người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân phong, tâm thần; hỗ trợ phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và tham gia các hoạt động khác vì mục đích từ thiện nhân đạo phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật”.
Theo quy định trên thì tổ chức tôn giáo chỉ được tham gia với mức độ hạn chế, tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khỏe người già, còn đối với chức sắc, nhà tu hành với tư cách công dân thì mới được tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay tổ chức, cá nhân tôn giáo không chỉ tham gia dưới hình thức hỗ trợ mà còn trực tiếp thành lập các trường mầm non, các cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội. Quy định của Điều 33 Pháp pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo không những không sát thực tiễn mà còn không phù hợp với chủ trương chung của Đảng, Nhà nước ta về xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao và một số văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực này.
d) Về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam
Điều 37 Pháp lệnh quy định: “Người nước ngoài khi vào Việt Nam … được tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam; được mời chức sắc tôn giáo là người Việt Nam để thực hiện các nghi lễ tôn giáo cho mình; tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam”. Hiện nay, với chủ trương hội nhập, mở cửa của Nhà nước, người nước ngoài đến Việt Nam làm ăn sinh sống ngày càng nhiều, trong số này, có bộ phận không nhỏ là người theo tôn giáo và đa số là tín đồ đạo Tin lành. Do một số cơ sở thờ tự tôn giáo tương ứng tại nước ta quá chật hẹp không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của họ; hơn nữa một số hệ phái tôn giáo cụ thể là đạo Tin lành có sự khác biệt về giáo lý, đức tin nên họ mong muốn nhà nước cho phép mượn hoặc thuê địa điểm không phải là cơ sở tôn giáo để sinh hoạt tôn giáo riêng và thực tế cũng đã có một số trường hợp Tin lành Hàn Quốc thuê khách sạn để nhóm họp tôn giáo. Do vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi là cần thiết.
đ) Một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn
- Đối với việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo chỉ quy định đối với tổ chức tôn giáo cơ sở là giáo xứ của đạo Công giáo, chi hội của đạo Tin lành. Thực tế còn các loại hình như giáo họ, giáo hạt thậm chí là dâu, giáp của đạo Công giáo, hội nhánh của đạo Tin lành có hoạt động và xin thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất chưa được quy định.
- Đối với các trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, Pháp lệnh mới quy định việc thành lập, chưa có quy định về quản lý nhà nước đối với các trường sau khi được thành lập hoặc đang hoạt động (về thẩm quyền quản lý của cơ quan nhà nước; việc chiêu sinh của trường; nội dung và thời gian học môn lịch sử và pháp luật Việt Nam; trách nhiệm của nhà trường; giá trị pháp lý của văn bằng do các trường cấp).
- Thực tế hiện nay, một số học sinh Việt Nam tự túc ra nước ngoài du học chuyên ngành về tôn giáo, có trường hợp sau khi tốt nghiệp đã được tổ chức tôn giáo nước ngoài phong chức và về Việt Nam đăng ký hoạt động tôn giáo nhưng hiện nay chưa có quy định xử lý vấn đề này.
- Việc giải thích từ ngữ, chưa có quy định để xác định thế nào là “chức việc” và vấn đề quản lý nhà nước đối với đối tượng này.
- Việc đăng ký hoạt động tôn giáo hàng năm, chưa có quy định đối với tổ chức tôn giáo không phải là tổ chức tôn giáo cơ sở, như Ban Đại diện Phật giáo cấp huyện, Ban trị sự Phật giáo cấp tỉnh, các cơ quan cấp toàn đạo của các tổ chức tôn giáo.
- Trong các lễ hội tôn giáo, chưa có quy định việc treo cờ Tổ quốc và cờ tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo.
- Việc cho đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo hiện nay còn nhiều khó khăn, chưa rõ quy trình cho đăng ký, quy trình công nhận, chưa quy định về điều kiện cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, chưa có cơ sở pháp lý để phân biệt giữa tín ngưỡng với tôn giáo và hoạt động mê tín, dị đoan; chưa rõ về số lượng tín đồ để được đăng ký, công nhận;
- Việc tổ chức hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo cơ sở theo quy định thuộc thẩm quyền Uỷ ban nhân dân cấp huyện là không phù hợp (khoản 1 Điều 18 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo), cần nghiên cứu giao cho Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Quan điểm chỉ đạo, chính sách cơ bản
- Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa IX về công tác tôn giáo đã xác định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Quan điểm này đòi hỏi định hướng chính sách về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trong thời gian tới phải tiếp tục có những chuyển biến tích cực cả về chất và lượng hướng tới mục tiêu cao hơn trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam và người nước ngoài làm ăn, sinh sống ở Việt Nam. Do đó, có thể coi đây là căn cứ chủ đạo về lý luận cho việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh.
- Hoàn thiện thể chế pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm thể chế hóa các quan điểm của Đảng về bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho công dân; khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Đồng thời, việc quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào là một nhân tố quan trọng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Khẳng định văn hóa, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy những giá trị tốt đẹp tiềm tàng trong tôn giáo, phát huy hơn nữa mặt tích cực, những điểm tương đồng của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước của đồng bào tín đồ các tôn giáo, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Hoạt động về tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật, phân biệt được giữa tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh, chân chính với việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây mất đoàn kết khối đại đoàn kết dân tộc, sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trên cơ sở Nhà nước đáp ứng các điều kiện về nhu cầu tôn giáo chính đáng của quần chúng tín đồ, nhu cầu về cơ sở vật chất phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo.
- Thể hiện trách nhiệm quốc gia đối với việc thực hiện tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị.
Phạm vi điều chỉnh
Nâng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, lên thành Luật, trong đó tập trung vào một số vấn đề chủ yếu đang phát sinh hiện nay đó là vấn đề công nhận tổ chức tôn giáo; tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo và vấn đề sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam.
Đối tượng áp dụng
Đối tượng điều chỉnh là các tổ chức có nhu cầu xin công nhận tổ chức tôn giáo; người nước ngoài có sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam và các tổ chức, cá nhân tôn giáo có hoạt động tôn giáo, hoạt động từ thiện xã hội trên lãnh thổ Việt Nam.
Cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp
- Cơ quan chủ trì: Bộ Nội vụ.
- Cơ quan phối hợp (dự kiến): Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Ban Dân vận Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ...
Dự kiến nguồn tài chính
Được cấp từ nguồn ngân sách nhà nước, dự kiến khoảng 2,3 tỷ đồng (Hai tỷ, ba trăm triệu đồng).
Dự kiến thời gian trình
Chương trình chuẩn bị năm 2014
12. Luật cảnh vệ
Sự cần thiết ban hành văn bản
Ngày 02/4/2005, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Cảnh vệ, đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước ta quy định về lĩnh vực cảnh vệ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác cảnh vệ, phù hợp với tình hình an ninh chính trị của đất nước. Qua 7 năm triển khai thực hiện, Pháp lệnh Cảnh vệ đã phát huy hiệu lực và hiệu quả của công tác cảnh vệ, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng Cảnh vệ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, góp phần phục vụ sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước cũng như công tác đảm bảo an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong thời gian qua.
Tuy nhiên, qua 7 năm triển khai thực hiện, Pháp lệnh Cảnh vệ và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ nhiều bất cập, cụ thể là:
- Nhận thức về tầm quan trọng của công tác cảnh vệ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân chưa cao, thậm chí cả trong đối tượng cảnh vệ, một số đối tượng cảnh vệ từ chối tiêu chuẩn cảnh vệ; không thực hiện đúng các yêu cầu của công tác cảnh vệ như bố trí các phương án bảo vệ, bố trí xe dẫn đường, bố trí cán bộ cảnh vệ tiếp cận bảo vệ thường xuyên, liên tục…
- Phân công phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ Công an thực hiện công tác cảnh vệ còn chưa có quy định thống nhất, vì vậy, việc thực hiện công tác cảnh vệ chưa tập trung vào một đầu mối là Bộ Tư lệnh Cảnh vệ; tổ chức Cảnh vệ ở Công an các địa phương cũng chưa được xác định thành đầu mối chung, cán bộ cảnh vệ còn kiêm nhiệm nên gặp nhiều khó khăn trong thực hiện công tác cảnh vệ, chất lượng công tác cảnh vệ chưa cao; cán bộ làm công tác cảnh vệ trong Quân đội nhân dân chưa được xây dựng thành tổ chức độc lập, chuyên trách…
- Đặc thù của công tác cảnh vệ là phải tổ chức công tác phối hợp và xử lý tình huống rất nhanh, không thể thực hiện theo trình tự, thủ tục hành chính, tuy nhiên, trên thực tế, quyền hạn của lực lượng cảnh vệ chưa đáp ứng được yêu cầu công tác cảnh vệ, đặc biệt là việc phối hợp với các cơ quan của Việt Nam và nước ngoài trên lãnh thổ nước ngoài.
- Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, lãnh đạo Đảng, Nhà nước thường xuyên đi thăm và làm việc với các nước trên thế giới; Việt Nam là một quốc gia đón nhiều đoàn nguyên thủ quốc gia, đoàn khách quốc tế quan trọng, vì vậy, yêu cầu đối với công tác cảnh vệ ngày càng nặng nề và phức tạp hơn, cần có các quy định cụ thể để tổ chức thực hiện tốt công tác này.
- Trong bối cảnh tình hình an ninh chính trị trên thế giới, khu vực hiện nay đang diễn biến phức tạp, khó lường, các cuộc khủng bố quốc tế và những âm mưu sát hại lãnh đạo chủ chốt của các quốc gia ngày càng gia tăng. Ở trong nước, tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, đã có ảnh hưởng xấu tới sự an toàn của các đối tượng cảnh vệ; vì vậy, cần có những quy định cụ thể về mở rộng đối tượng cảnh vệ (có thể bổ sung đối tượng cảnh vệ là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các nhà khoa học đầu ngành…), quy định về nâng cao hiệu quả công tác cảnh vệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác cảnh vệ trong tình hình hiện nay và những năm tiếp theo.
- Trong quá trình triển khai thực hiện Pháp lệnh Cảnh vệ đã có những vướng mắc với các luật, pháp lệnh khác, cụ thể là:
+ Luật trưng mua, trưng dụng: Luật trưng mua, trưng dụng quy định cụ thể, chặt chẽ về trình tự, thủ tục để tiến hành trưng mua, trưng dụng; tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện có hiệu quả công tác cảnh vệ, cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ cần phải thực hiện ngay việc trưng dụng tài sản, phương tiện để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho đối tượng cảnh vệ, vì vậy, không thể thực hiện việc trưng mua, trưng dụng theo đúng trình tự, thủ tục được quy định trong Luật trưng mua, trưng dụng tài sản (báo cáo bằng văn bản với các cấp có thẩm quyền khác nhau để quyết định việc trưng mua, trưng dụng)…
+ Luật hàng không dân dụng Việt Nam: việc tổ chức công tác cảnh vệ tại khu vực sân bay và trên máy bay hiện nay còn có nhiều khó khăn, vướng mắc, như: tổ chức phương án cảnh vệ trên máy bay, cán bộ cảnh vệ đưa vũ khí lên máy bay, công tác kiểm tra an ninh, kiểm tra hành lý phục vụ các đoàn công tác của các đối tượng cảnh vệ… chưa được quy định trong Luật hàng không dân dụng; trong khi đó, để bảo vệ các đối tượng cảnh vệ, cần thiết phải áp dụng một số công tác cảnh vệ như đã nêu.
+ Luật ngân sách nhà nước, Pháp lệnh phí và lệ phí: đặc thù của công tác cảnh vệ là phải thực hiện các biện pháp để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các đối tượng cảnh vệ, để thực hiện được công việc này, trên thực tiễn phải có nhiều chi phí phát sinh không thực hiện được theo quy định của Luật ngân sách nhà nước (ví dụ: tiếp đón, tặng quà các đoàn quốc tế thực hiện công tác cảnh vệ; chủ động bố trí chỗ ăn, nghỉ cho cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ trong trường hợp các cơ quan chủ quản tiếp đón các đoàn khách quốc tế không bố trí chỗ ăn, chỗ nghỉ cho cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ thực hiện nhiệm vụ…); lực lượng cảnh vệ hiện nay phải thanh toán chi phí cầu đường cho đối tượng cảnh vệ…
Việc phối hợp thực hiện công tác cảnh vệ với các bộ, ngành liên quan do chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh rõ ràng như đã nêu, nên trên thực tiễn chủ yếu thực hiện theo Quy chế phối hợp, do đó còn gặp nhiều khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ.
- Thực tiễn bảo vệ mục tiêu trọng yếu hiện nay chỉ có 01 chiến sĩ cảnh vệ làm nhiệm vụ canh gác, do đó, khi xảy ra các tình huống phức tạp, việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý tình huống khó có thể đạt được yêu cầu của công tác cảnh vệ. Để đảm bảo tuyệt đối an toàn mục tiêu bảo vệ trong tình hình hiện nay và những năm tiếp theo cần nghiên cứu phương án bố trí hơn 02 chiến sĩ cảnh vệ bảo vệ tại một mục tiêu.
- Các quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân đối với công tác cảnh vệ còn mang tính chung chung, khó thực hiện; một số quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Cảnh vệ chưa rõ ràng và đây lại là văn bản mật, không được phổ biến rộng rãi, vì vậy, nhiều cơ quan, tổ chức và công dân không biết được nghĩa vụ của mình đối với công tác cảnh vệ, do đó, chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc phối hợp, tham gia thực hiện công tác cảnh vệ.
- Pháp lệnh Cảnh vệ chưa quy định cụ thể về chế độ, chính sách của Nhà nước đối với những cơ quan, tổ chức, cá nhân bị thương tích, tổn hại về sức khỏe hoặc bị thiệt hại về tính mạng, tài sản trong khi tham gia phối hợp thực hiện công tác cảnh vệ; một số chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác cảnh vệ tuy đã được quy định nhưng việc tổ chức thực hiện chưa triệt để cho nên chưa tạo được động lực để khuyến khích tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân đối với công tác này.
Với những lý do trên, việc xây dựng dự án Luật Cảnh vệ là một yêu cầu khách quan và mang tính cấp thiết.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
Luật Cảnh vệ quy định về đối tượng cảnh vệ, biện pháp và chế độ cảnh vệ; lực lượng Cảnh vệ; nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh vệ; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân đối với công tác cảnh vệ.
Luật Cảnh vệ áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế cư trú hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Quan điểm xây dựng, nội dung chính của văn bản
Quan điểm xây dựng văn bản
- Quán triệt và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp, cải cách hành chính; phù hợp với tiến trình hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế sâu rộng trên mọi lĩnh vực; phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Xây dựng cơ sở pháp lý rõ ràng, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn của công tác cảnh vệ hiện nay và những năm tiếp theo, nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối các cơ quan trọng yếu, cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và các đối tượng cảnh vệ khác trong mọi tình huống.
- Việc xây dựng Luật Cảnh vệ được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác cảnh vệ trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; đáp ứng yêu cầu của công tác cảnh vệ trong tình hình mới.
- Tham khảo có chọn lọc các quy định về công tác cảnh vệ của một số nước trong khu vực và trên thế giới, vận dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Những nội dung chính của văn bản
- Những quy định chung;
- Đối tượng cảnh vệ;
- Biện pháp và chế độ cảnh vệ;
- Quyền và nghĩa vụ của đối tượng cảnh vệ;
- Lực lượng cảnh vệ; cơ cấu tổ chức của lực lượng cảnh vệ;
- Tiêu chuẩn tuyển chọn người vào lực lượng cảnh vệ;
- Xây dựng lực lượng cảnh vệ;
- Nhiệm vụ của lực lượng cảnh vệ;
- Quyền hạn của lực lượng cảnh vệ;
- Trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ;
- Chế độ chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ;
- Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
Về nguồn lực tài chính
Luật Cảnh vệ được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
Nhân lực và các nguồn khác
Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, như: Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ…
Đánh giá tác động sơ bộ của dự án luật
- Luật Cảnh vệ được ban hành góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước về công tác cảnh vệ, tạo thuận lợi cho mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng, góp phần bảo vệ tuyệt đối an toàn đối tượng cảnh vệ.
- Luật Cảnh vệ được ban hành tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng Cảnh vệ thực thi nhiệm vụ; đồng thời thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh về công tác cảnh vệ, góp phần thiết thực vào việc bảo vệ an toàn tuyệt đối cho các cơ quan trọng yếu, các cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước trong mọi tình huống, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dự kiến thời gian trình văn bản
Chương trình chuẩn bị năm 2014.
Sự cần thiết ban hành văn bản
- Thứ nhất, tình trạng vi phạm pháp luật về môi trường ở nước ta diễn ra ngày càng phổ biến, phức tạp trên tất cả các địa bàn từ đô thị tới nông thôn. Có thể nhận thấy những vi phạm pháp luật về môi trường nghiêm trọng như: vi phạm quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm tiếp tục diễn ra phức tạp với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, buôn bán hàng giả, kém chất lượng, không có kiểm dịch; vi phạm quy định về xử lý chất thải công nghiệp xảy ra tại nhiều địa phương, nhiều khu công nghiệp, nhà máy, cơ sở sản xuất vẫn lén lút xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường hoặc có hệ thống xử lý nước thải nhưng không vận hành thường xuyên; hiện nay, cả nước đã phát triển trên 200 khu công nghiệp nhưng có trên 70% không có hệ thống xử lý nước thải; tình hình nhập khẩu phế thải, phế liệu, rác thải vẫn diễn ra rất nghiêm trọng, hàng năm có hàng ngàn tấn rác được đưa vào nước ta, nguy cơ biến nước ta thành bãi rác của các nước phát triển; tình trạng xâm phạm tài nguyên rừng, khoáng sản và nguồn lợi thủy sản xảy ra nhiều nơi, niều khu vực rừng phòng hộ, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên khu vực miền Trung, Tây Nguyên tiếp tục bị đe doạ do các đối tượng lợi dụng các dự án chuyển đổi mục đích rừng nghèo trồng cây cao su, dự án thuỷ điện vừa và nhỏ, khoán đất lâm nghiệp để khai thác gỗ trái phép v.v…
- Thứ hai, phương thức, đặc điểm, tính chất, phương thức, thủ đoạn của hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm về môi trường có sự khác biệt hoàn toàn với các loại tội phạm thông thường như đối tượng vi phạm pháp luật về môi trường chủ yếu là doanh nghiệp (các pháp nhân), trong khi đó Bộ luật hình sự Việt Nam lại yêu cầu cá thể hóa trách nhiệm hình sự; nhiều vi phạm có yếu tố nước ngoài như chủ đầu tư, chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, nguồn hàng hoá từ nước ngoài đưa về, khi phát hiện vi phạm thì từ chối trách nhiệm với những lý do như “không được biết trước” hay “mới nhận công tác”, chủ doanh nghiệp trốn ra nước ngoài, thậm chí một số vụ việc khi xử lý phải cân nhắc vì yếu tố ngoại giao hoặc việc vi phạm xuất phát từ những sơ hở trong quản lý, thực hiện không đúng chính sách khuyến khích đầu tư của các cơ quan quản lý nhà nước, của chính quyền địa phương...
- Thứ ba, Bộ luật hình sự hiện nay đã quy định một chương (Chương 17 - Các tội phạm về môi trường) với mục đích xử lý nghiêm các tội phạm môi trường và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, sau 2 lần sửa đổi, bổ sung thì các quy định tại Chương 17 gần như vẫn chưa đi vào cuộc sống. Từ khi được thành lập đến nay, các vụ án mà lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường chuyển cơ quan điều tra đều gặp rất nhiều khó khăn trong việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Nguyên nhân là do các quy định của Bộ Luật hình sự còn chung chung, đòi hỏi nhiều điều kiện để khởi tố và đặc biệt, chủ thể của vi phạm pháp luật về môi trường trong thực tế chủ yếu là các cơ quan, doanh nghiệp, nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự thì pháp nhân không phải là chủ thể của tội phạm nên rất khó xử lý hình sự được đối với loại tội phạm này.
- Thứ tư, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành lập là quyết tâm lớn của Đảng, Chính phủ và Bộ Công an đối với công tác bảo vệ môi trường. Qua 5 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường đã hình thành được hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương, có đội ngũ cán bộ, chiến sỹ đông đảo, được đào tạo cơ bản, có tâm huyết, nhiệt tình với sự nghiệp bảo vệ môi trường nói chung và hăng hái trong công tác phòng, chống tội phạm nói riêng, được các ngành, các cấp và xã hội ghi nhận.
Tính đến tháng 11/2011, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường đã phát hiện, điều tra, khám phá trên 18.400 vụ vi phạm, làm rõ 6.973 tổ chức, 12.427 cá nhân vi phạm, chuyển xử lý hình sự: 533 vụ, 834 đối tượng, xử phạt vi phạm hành chính số tiền 196 tỷ 426 triệu đồng, yêu cầu truy thu phí bảo vệ môi trường trên 150 tỷ đồng. Kết quả công tác của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường bước đầu đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các điểm nóng về ô nhiễm môi trường vốn gây bức xúc trong nhân dân; hạn chế đáng kể tình trạng khiếu kiện, khiếu nại kéo dài và cản trở hoạt động của các doanh nghiệp; tạo được sự đồng thuận và tin tưởng trong xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao nhận thức về công tác bảo vệ môi trường của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân. Công tác bảo vệ môi trường trong một số lĩnh vực, ngành nghề được quan tâm, chấn chỉnh, đẩy mạnh như lĩnh vực chất thải y tế, môi trường khu công nghiệp, xuất nhập khẩu, làng nghề; nhiều công trình về bảo vệ môi trường, xử lý chất thải được quan tâm đầu tư; nhiều dự án đầu tư đã được hủy bỏ hoặc di dời vì các yếu tố gây bất lợi cho môi trường; nhiều doanh nghiệp đã quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường, tăng cường vốn cho công tác xử lý chất thải...
Bên cạnh đó, còn một số quy định của pháp luật còn ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường, như: quy định về thời hạn thu thập chứng cứ, điều tra về vụ án quá ngắn (trong thời hạn 7 ngày phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra chuyên trách); thời hiệu xử lý vi phạm hành chính đối với các vi phạm pháp luật về môi trường còn ngắn; một số quy định về định lượng hậu quả thiệt hai của các hành vi tội phạm về môi trường trong Bộ luật hình sự còn chung chung, khó xác định làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự; các quy định về trang bị phương tiện kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ công tác điều tra, xử lý tội phạm của lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường vẫn chưa quy định cụ thể để đảm bảo yêu cầu thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường…
Từ những vấn đề trên, đòi hỏi phải có văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao như Pháp lệnh để trao cho cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về môi trường cơ chế đặc thù riêng (được áp dụng các biện pháp đặc thù, đặc biệt là việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật và cơ chế bắt buộc thẩm định về môi trường khi phê duyệt dự án đầu tư hoặc nhập khẩu những mặt hàng độc hại có khả năng gây nguy hiểm đến môi trường) để phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường trong tình hình hiện nay.
Với những lý do trên, việc xây dựng dự án Pháp lệnh Cảnh sát môi trường là yêu cầu khách quan và mang tính cấp thiết. Pháp lệnh được ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng cho lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
Pháp lệnh được áp dụng đối với cán bộ, chiến sĩ, các đơn vị thuộc lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường; các cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác).
Pháp lệnh Cảnh sát môi trường quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của lực lượng Cảnh sát môi trường; cơ chế lãnh đạo, chỉ huy; biện pháp hoạt động; những điều kiện bảo đảm cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường và chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sỹ thuộc lực lượng Cảnh sát môi trường; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp, giúp đỡ lực lượng Cảnh sát môi trường thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường…
Quan điểm xây dựng văn bản
- Bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước đã được Hiến pháp quy định về phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về môi trường, nhằm bảo vệ môi trường, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
- Tiếp thu và kế thừa những kinh nghiệm, truyền thống về công tác phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường thời gian vừa qua, bổ sung các vấn đề cần thiết nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công tác này trong thời gian tới. Tham khảo, chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Thể chế hoá và quy định đầy đủ những vấn đề liên quan đến phòng, chống tội phạm về môi trường; tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và tương xứng cho việc thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm; xây dựng lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường.
Nội dung chính của văn bản:
- Những quy định chung;
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Cảnh sát môi trường;
- Tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát môi trường;
- Điều kiện bảo đảm cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát về môi trường;
- Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát môi trường;
- Chế độ, chính sách đối với của lực lượng Cảnh sát môi trường;
- Hợp tác quốc tế trong hoạt động của lực lượng Cảnh sát môi trường;
- Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
Về nguồn lực tài chính
- Kinh phí sự nghiệp môi trường cấp cho lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường;
- Các nguồn khác.
Nhân lực và các nguồn khác
Bộ Công an là cơ quan chủ trì, có sự phối hợp tham gia của các Bộ, ngành có liên quan: Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao …
Dự kiến thời gian trình văn bản:
Chương trình chuẩn bị năm 2014
PHẦN II: ĐIỀU CHỈNH CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT, PHÁP LỆNH NĂM 2013 VÀ KHÓA XIII
(Xin xem Mục II)
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân
(Xin xem Mục II)
(Xin xem trang 63)
(Xin xem trang 146)
(Xin xem trang 145)
(Xin xem trang 149)
(Xin xem Mục II)
(Xin xem Mục II)
(Xin xem Mục II)
Sự cần thiết ban hành
Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008. Bộ Quốc phòng đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể hóa các nội dung của Luật (56 văn bản), từng bước sát với thực tiễn, cơ bản đáp ứng được yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn bộc lộ một số vấn đề chưa phù hợp cần sửa đổi, bổ sung với những lý do sau đây:
Đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội trong thời kỳ mới.
Dưới tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường lao động phát triển nhanh, cơ hội tìm việc làm và thu nhập của người lao động tác động mạnh đến giữ gìn, thu hút đội ngũ sĩ quan. Tình hình mới đòi hỏi phải điều chỉnh một số chế độ phục vụ, chính sách để thu hút tài năng và đội ngũ sĩ quan yên tâm phục vụ Quân đội.
Khắc phục những quy định của Luật Sĩ quan, đến nay đã có những phát triển mới không còn phù hợp hoặc còn thiếu, tạo sự nhất quán với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, cụ thể là:
- Sửa đổi, bổ sung để thống nhất trong hệ thống cấp bậc quân hàm của sĩ quan vì chưa có bậc quân hàm Chuẩn tướng (Đề đốc Hải quân);
- Luật hiện hành quy định tuổi sĩ quan nữ cấp đại tá và cấp tướng thấp hơn sĩ quan nam có cùng bậc quân hàm, nay đề nghị nghiên cứu nâng bằng tuổi của sĩ quan nam;
- Luật hiện hành quy định sĩ quan ở địa bàn trọng yếu và đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt, nếu có quá trình cống hiến xuất sắc thì được thăng quân hàm cao hơn một bậc, nhưng thực tế rất khó triển khai thực hiện và không phù hợp về chính sách đãi ngộ;
- Luật hiện hành đã quy định việc thăng quân hàm trước thời hạn, nhưng trong quá trình thực hiện còn vướng mắc nên đề nghị bổ sung, hoàn chỉnh;
- Sửa đổi, bổ sung để quy định rõ chế độ tiền lương chủ yếu theo lương chức vụ và một phần lương quân hàm; quy định rõ chế độ bảo đảm nhà ở đối với sĩ quan, để đảm bảo công bằng và khuyến khích đội ngũ sĩ quan;
- Luật hiện hành chưa có nội dung về phong quân hàm sĩ quan dự bị cho đối tượng đào tạo chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn; chưa nêu khái niệm về chức vụ, quân hàm và cũng chưa có nội dung điều động, luân chuyển và chuyển đổi vị trí công tác của sĩ quan.
Quan điểm sửa đổi, bổ sung
- Chỉ sửa đổi, bổ sung những nội dung đang vướng mắc, bức xúc trong quá trình tổ chức thực hiện và những nội dung thật cần thiết do yêu cầu nhiệm vụ mới phát sinh.
- Sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, đồng thời thể hiện rõ tính đặc thù quân sự trong thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ sĩ quan trong Quân đội.
Nội dung của dự thảo Luật
Tiêu đề: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bố cục: Sửa đổi, bổ sung 10/51 điều (Điều 10, 11, 13, 15, 18, 24, 25, 30, 31 và Điều 41); bổ sung một số điều mới; bãi bỏ một số khoản, điểm, từ ngữ ở một số điều cho thống nhất và phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Nội dung cụ thể đề nghị sửa đổi, bổ sung:
Hệ thống cấp bậc quân hàm của sĩ quan (Điều 10).
Đề nghị bổ sung bậc quân hàm Chuẩn tướng (Đề đốc Hải quân).
Lý do, hiện nay rất nhiều chức vụ đang có cùng một bậc quân hàm (Hệ thống cấp bậc quân hàm của sĩ quan có 3 cấp, 12 bậc, được bố trí vào hơn 6000 chức danh). Khi có bậc quân hàm Chuẩn tướng (Đề đốc Hải quân) thì số giữ chức vụ chủ trì các sư đoàn, các tỉnh, vùng Cảnh sát biển, các cục và tương đương được bố trí cấp bậc quân hàm Chuẩn tướng (Đề đốc Hải quân), một mặt sẽ tạo sự cân đối giữa cấp bậc và chức vụ, giảm ùn tắc cấp đại tá (hiện nay ở cơ quan cấp Bộ, từ trợ lý, phó trưởng phòng, trưởng phòng, phó cục trưởng và một số cục trưởng cùng có bậc quân hàm cao nhất là đại tá); mặt khác, sẽ hợp lý hơn về hệ thống chỉ huy và chính sách đãi ngộ.
Chức vụ của sĩ quan (Điều 11).
Đề nghị bổ sung các chức vụ còn lại, nhằm giảm thiểu số chức vụ tương đương, để khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong việc quy định bậc quân hàm cho các chức vụ tương đương và vận dụng trong xét đề bạt quân hàm hằng năm.
Tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan (Điều 13).
Đề nghị nâng độ tuổi của sĩ quan nữ có bậc quân hàm đại tá và cấp tướng bằng tuổi của sĩ quan nam.
Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan (Điều 15).
Đề nghị điều chỉnh một số chức vụ tại Khoản 1 và nghiên cứu đối tượng tại Khoản 3 chỉ được hưởng đãi ngộ chính sách tiền lương, phụ cấp thay cho việc được thăng quân hàm cao hơn một bậc để đảm bảo cân đối chung trong hệ thống cấp bậc quân hàm của toàn quân.
Thăng quân hàm trước thời hạn (Điều 18).
Đề nghị:
- Quy định cho mọi sĩ quan nếu có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, công tác, học tập, nghiên cứu khoa học được khen thưởng thì được xét thăng quân hàm trước hạn; còn ở mức khen thưởng nào thì tùy theo từng công việc và từng thời điểm để xem xét cho phù hợp;
- Quy định cho sĩ quan giữ chức vụ chỉ huy, quản lý nếu hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ thì phải có bậc quân hàm hiện tại thấp hơn 2 bậc so với bậc quân hàm cao nhất quy định đối với chức vụ đang đảm nhiệm thì được xem xét, như vậy sẽ phù hợp và thể hiện quân hàm tương xứng với chức vụ chỉ huy, quản lý.
Một số nội dung liên quan đến chính sách (Điều 31).
Đề nghị quy định rõ chế độ tiền lương chủ yếu theo lương chức vụ và một phần lương quân hàm; quy định rõ chế độ bảo đảm nhà ở đối với sĩ quan, để đảm bảo công bằng và khuyến khích đội ngũ sĩ quan.
Bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm sĩ quan dự bị (Điều 41).
Đề nghị bổ sung thêm nội dung về phong quân hàm sĩ quan dự bị cho đối tượng đào tạo chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn, vì trong thời gian qua đã triển khai hực hiện.
Bổ sung một số điều mới vào Luật:
- Khái niệm về chức vụ và quân hàm của sĩ quan, để khẳng định rõ hơn vị thế của sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam;
- Quy định về điều động, luân chuyển và chuyển đổi công tác, vì trong thời gian vừa qua Bộ Chính trị có Nghị quyết về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý (Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25 tháng 01 năm 2002); Chính phủ có Nghị định quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức (Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2007) và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công tác cán bộ đặt ra cần phải được đưa vào Luật về nội dung luân chuyển và chuyển đổi vị trí công tác của sĩ quan để việc triển khai thực hiện được thuận lợi.
1.3.3.9. Để phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, cần phải sửa đổi một số từ ngữ và bỏ một số khoản, điểm trong Luật sửa đổi.
Mục tiêu, chính sách và giải pháp
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm cập nhật những vấn đề mới, giải quyết được những vấn đề bức xúc, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Luật có sự điều chỉnh, bổ sung để phù hợp và nhất quán với các văn bản luật hiện hành, nhưng vẫn thể hiện được tính đặc thù trong tổ chức, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ sĩ quan Quân đội; cụ thể hoá được các chế độ chính sách, quyền lợi cũng như trách nhiệm của sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới và phù hợp với nền kinh tế đất nước, cũng như xu hướng phát triển chung.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được Quốc hội thông qua sẽ có tác động tích cực, tạo ra bước tiến mới trong việc xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dự kiến nguồn lực, kinh phí bảo đảm và thời gian
Dự kiến nguồn lực và điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản:
a) Về nguồn lực: Cơ quan chủ trì soạn thảo là Tổng cục Chính trị (Thường trực là Cục Cán bộ), phối hợp với các cơ quan trong và ngoài Quân đội để soạn thảo. Tổ chức khảo sát, hội thảo, xin ý kiến của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị Quân đội.
b) Về kinh phí bảo đảm: Kinh phí bảo đảm cho tổ chức soạn thảo Luật theo quy định của Chính phủ và Bộ Quốc phòng.
Dự kiến thời gian trình Quốc hội khóa XIII: Cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2013)./.
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân
Cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2013)./.
Dự án này được đề nghị tách từ dự án Luật đầu tư công, mua sắm công. Chính phủ đề nghị trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, thông qua tại Kỳ họp thứ 6.
Dự án này được đề nghị tách từ dự án Luật đầu tư công, mua sắm công. Chính phủ đề nghị trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6, thông qua tại Kỳ họp thứ 7.
Dự án này đã được trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuy nhiên Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định rút dự án Luật này ra khỏi Chương trình năm 2012. Nay, Chính phủ tiếp tục đề nghị bổ sung vào Chương trình năm 2013.
Sự cần thiết ban hành
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, đảm bảo quyền bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc gia. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, từ những năm 90 của thế kỷ 20, Việt Nam đã quy định về việc làm vào hiến pháp. Điều 55 Hiến pháp nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.”. Bộ luật Lao động năm 1994, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng....và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã điều chỉnh các quan hệ về việc làm như: trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo việc làm, chương trình quốc gia về việc làm, chính sách hỗ trợ tạo việc làm của nhà nước: cho vay vốn tạo việc làm...; thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm; tuyển và quản lý lao động trong các doanh nghiệp; lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; việc làm đối với các đối tượng đặc thù: lao động nữ, lao động là người khuyết tật; Bảo hiểm thất nghiệp;.....Các quy định pháp lý này bước đầu đã tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội về việc làm, thị trường lao động phát triển, góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,6 triệu việc làm) và giảm tỷ lệ thất nghiệp của người lao động (tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2010 là 4,43%). Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và phát triển thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, ngoài ra còn có một số vấn đề mới về quan hệ việc làm phát sinh cần được điều chỉnh, cụ thể là:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm còn tản mạn, chưa đồng bộ, hầu hết các quy định cụ thể được thể hiện trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn thi hành...nên tính pháp lý chưa cao, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm hiện nay (Bộ luật Lao động.....) chỉ điều chỉnh quan hệ việc làm của những người lao động có quan hệ lao động (lao động trong khu vực chính thức) trong khi đó Việt Nam có khoảng 39,6 triệu lao động thuộc khu vực phi chính thức (theo kết quả điều tra LĐ&VL năm 2007 của Tổng cục thống kê) chiếm 85,8% tổng số lao động có việc làm của lực lượng lao động, nếu không tính lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, thì còn 16,7 triệu lao động phi chính thức (chiếm 36% tổng số lao động có việc làm). Tuy nhiên, số lao động phi chính thức này hiện nhà nước chưa quản lý, chưa có các chính sách hỗ trợ, bảo đảm việc làm và an sinh xã hội (không được hưởng bảo hiểm xã hội).
Tình trạng lao động di cư từ nông thôn ra thành phố ngày càng phổ biến (trong 6 vùng kinh tế của cả nước, năm 2009 chỉ có 2 vùng là vùng nhập cư, 4 vùng còn lại là vùng xuất cư). Lực lượng lao động này phần lớn là lao động thời vụ, làm việc trong khu vực phi chính thức. Phần lớn họ bị “bỏ quên” và không nhận được những hỗ trợ pháp lý cần thiết, cũng như được hưởng các chế độ, phúc lợi xã hội dành cho người lao động và phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như: (i) tình trạng bị lạm dụng, lừa gạt; (ii) khó khăn về nhà ở; (iii) nguy cơ dễ bị tiêm nhiễm các tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, cờ bạc; (iv) các rủi ro trong suy giảm sức khoẻ; (v) khó khăn trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục.
Bộ luật Lao động năm 1994, quy định thực hiện quản lý lao động thông qua Sổ lao động. Đối tượng lao động được quản lý là lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh (lao động có quan hệ lao động). Tuy nhiên, việc quản lý bằng Sổ lao động hiện giờ đã không phát huy được tác dụng vì không theo kịp được những tiến bộ khoa học công nghệ, cũng như bị trùng lắp nội dung với Sổ Bảo hiểm xã hội và đối tượng bị hạn chế (chỉ là lao động trong khu vực chính thức) nên không có nhiều tác dụng trong vai trò quản lý nguồn nhân lực của đất nước. Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển hiện nay, đặc biệt là với tình trạng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị ngày càng tăng, lao động khu vực phi chính thức ngày càng nhiều thì vấn đề quản lý lao động (quản lý toàn bộ lực lượng lao động, không chỉ là lao động trong khu vực chính thức-có quan hệ lao động), ban hành các chính sách hỗ trợ, bảo đảm việc làm cho các đối tượng lao động khác nhau đặt ra vô cùng cấp thiết. Vì vậy cần thiết phải có các quy định quản lý toàn bộ lực lượng lao động làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách điều tiết thị trường lao động, hạn chế tình trạng mất cân đối cung, cầu lao động cục bộ.
Một vài năm trở lại đây xuất hiện tình trạng một số nhà thầu nước ngoài như Trung Quốc, Singapore…. đưa lao động phổ thông (chưa qua đào tạo) vào làm việc tại Việt Nam theo dự án. Tình trạng này không chỉ làm ảnh hưởng đến việc làm của lao động trong nước, không thực hiện được mục tiêu học hỏi, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài mà còn gây nhiều bất ổn về an ninh, trật tự xã hội. Do đó, vấn đề quản lý, cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài trong thời gian tới cần phải có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình, điều kiện mới đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO...
Chính sách phát triển thị trường lao động chưa rõ, chưa hình thành một mô hình hoạt động giao dịch việc làm khoa học, đồng bộ...Các quy định pháp luật hiện nay mới chỉ điều chỉnh một số vấn đề chưa đầy đủ của thị trường lao động như: hoạt động giới thiệu việc làm trực tiếp của các tổ chức giới thiệu việc làm, quy trình tuyển dụng lao động....chưa điều chỉnh các vấn đề như: xây dựng, khai thác và quản lý thông tin thị trường lao động, hoạt động giao dịch việc làm trên mạng thông tin, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên trước khi giao kết hợp đồng lao động....dẫn đến những tranh chấp không cần thiết, gây thiệt thòi cho người lao động, doanh nghiệp và xã hội.
Chính sách việc làm chủ yếu hướng vào hỗ trợ, khuyến khích chưa quy định rõ trách nhiệm của các đối tượng điều chỉnh của chính sách. Hiện nay chúng ta mới chỉ có các quy định về chính sách việc làm cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật rải rác trong Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Người khuyết tật. Các đối tượng đặc thù khác như: lao động là người dân tộc thiểu số, thanh niên, người sau cai nghiện, mãn hạn tù.... chưa có chính sách riêng. Mặt khác những quy định về việc làm đối với các đối tượng đặc thù này mới chỉ dừng ở những quy định về chính sách hỗ trợ việc làm của nhà nước đối với các đối tượng đặc thù, chưa có quy định về việc bảo đảm việc làm, bình đẳng về việc làm đối với các đối tượng này.
Chính sách bảo hiểm việc làm chưa quy định thành một chính sách riêng. Chưa có những quy định về trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động trong việc có kế hoạch, phương án dự phòng những bất trắc xảy ra trong việc làm. Chính sách bảo hiểm mới chỉ dừng ở việc giải quyết chính sách khi chấm dứt quan hệ lao động (bảo hiểm thất nghiệp) vấn đề thúc đẩy doanh nghiệp duy trì việc làm tốt, sắp xếp lại doanh nghiệp, ...chưa được đề cập đến.
Những hạn chế bất cập trên không thể khắc phục được nếu chỉ sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động (chương Việc làm) vì các quan hệ xã hội về việc làm cần được pháp luật điều chỉnh ngày càng mở rộng, nếu chỉ điều chỉnh trong 1 chương của Bộ luật Lao động thì không đủ, nếu mở rộng chương Việc làm quá nhiều sẽ làm mất cân đối trong Bộ luật Lao động. Do đó, Luật Lao động (sửa đổi) chỉ quy định nguyên tắc chung về vấn đề việc làm, các quy định cụ thể sẽ được đưa vào Luật Việc làm. Do đó sắp xếp để ban hành 02 luật này trong năm 2012 là phù hợp.
Ngoài các hạn chế nêu trên cần phải khắc phục thì việc xây dựng và ban hành Luật về Việc làm còn xuất phát từ việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 – Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên. Đồng thời thực hiện các cam kết trong các Công ước quốc tế về việc làm mà Việt Nam đã và đang chuẩn bị tham gia như: Công ước số 100 năm 1959 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ cho một công việc ngang nhau; Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp, 1958; Công ước 159 công ước về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người lao động có khuyết tật, 1959; Công ước 122 về Chính sách việc làm ;Công ước 88 về Dịch vụ việc làm; Công ước 181 về tổ chức việc làm tư nhân.
Việc xây dựng Luật về Việc làm là hết sức cần thiết, phù hợp với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, khắc phục được các hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về việc làm, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, đảm bảo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế góp phần thúc đẩy, ổn định và bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho mọi người lao động. Luật về Việc làm ra đời góp phần tạo hành lang pháp lý nhằm tăng cường quản lý Nhà nước về việc làm, trách nhiệm của các cá nhân, của doanh nghiệp và của toàn xã hội trong tạo việc làm; Đảm bảo các hoạt động liên quan đến giải quyết việc làm theo đúng quy định của pháp luật, góp phần thiết thực hỗ trợ phát triển thị trường lao động; nâng cao vai trò của hệ thống luật pháp, đảm bảo quyền lợi cho người lao động và người sử dụng lao động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của xã hội, của doanh nghiệp và của người dân về giải quyết việc làm, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định và phát triển xã hội; đảm bảo được một hành lang pháp lý chặt chẽ, phù hợp, tạo điều kiện đảm bảo việc làm bền vững cho mọi đối tượng của xã hội; tạo hành lang pháp lý, đảm bảo cho sự phát triển của thị trường lao động lành mạnh, quản lý sự biến động lao động chặt chẽ hơn và chấm dứt những tiêu cực trong vấn đề này./.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh: Luật Việc làm điều chỉnh các quan hệ việc làm và các quan hệ xã hội khác liên quan trực tiếp đến việc làm như: giao dịch việc làm, quản lý lao động, thị trường lao động, bảo hiểm việc làm....
Đối tượng áp dụng: Luật Việc làm được áp dụng đối với mọi người lao động (trừ công chức và lực lượng vũ trang tại ngũ); mọi tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc làm, tham gia thị trường lao động. Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân nước ngoài cư trú và làm việc tại Việt Nam.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm chỉ đạo
Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc làm, thị trường lao động theo tinh thần và nội dung được nêu trong Hiến pháp và văn kiện trình Đại hội X, dự thảo văn kiện trình đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thực hiện tốt các chính sách về phát triển thị trường lao động; đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động; quan tâm giải quyết việc làm cho lao động là người dân tộc, lao động vùng sâu, vùng xa, lao động là thanh niên…
Xác định việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, đảm bảo quyền bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của nhà nước; khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và người lao động tạo và tự tạo việc làm.
Hình thành cơ chế đồng bộ, thống nhất và điều chỉnh toàn diện những vấn đề liên quan đến việc tạo và tự tạo việc làm cho người lao động trong một văn bản luật, bảo đảm việc làm bền vững cho người lao động và bảo đảm tính minh bạch cho thị trường lao động phát triển.
Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, kế thừa những quy định của pháp luật hiện hành về việc làm, thực hiện các cam kết quốc tế về lao động – việc làm, hội nhập kinh tế - quốc tế.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của nhà nước, các đoàn thể xã hội, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong việc tạo và tự tạo việc làm nhằm đảm bảo quyền được làm việc, bình đẳng về việc làm và việc làm bền vững cho mọi người lao động. Thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức tạo việc làm cho người lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm, hỗ trợ các đối tượng lao động đặc thù tạo việc làm. Phát triển thị trường lao động, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, kết nối cung – cầu lao động; thông tin, dự báo thị trường lao động. Ổn định và bảo đảm việc làm cho người lao động, giải quyết những khó khăn cho người lao động không may gặp khó khăn khi đang làm việc, thúc đẩy doanh nghiệp duy trì việc làm tốt, có kế hoạch, phương án dự phòng những bất trắc xảy ra trong việc làm. Quản lý chặt chẽ lực lượng lao động (lao động trong nước, ngoài nước, lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam...).
Nội dung chính
Việc làm quy đinh chỉ tiêu về việc làm (tổng số việc làm; số lao động có việc làm tăng thêm;tỷ lệ tăng trưởng việc làm….); chính sách, giải pháp việc làm (Kế hoạch, Chương trình, Dự án giải quyết việc làm, trách nhiệm của các cấp, các ngành,…); chính sách việc làm cho đối tượng đặc thù (lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số, lao động là người khuyết tật, , lao động thanh niên, lao động vị thành niên…).
. Thị trường lao động quy định hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động (tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lao động có việc làm trên dân số, tỷ lệ lao động có việc làm trên lực lượng lao động); các chính sách phát triển thị trường lao động; hệ thống thông tin thị trường lao động; cơ sở dữ liệu thị trường lao động; giao dịch trên thị trường lao động: hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm.
Bảo hiểm việc làm quy định chính sách ổn định việc làm- Bảo hiểm thất nghiệp.
Quản lý lao động quy định về quản lý lực lượng lao động: bao gồm quản lý số lượng và chất lượng lao động; kỹ năng nghề của người lao động; di chuyển lao động; tuyển dụng và quản lý lao động làm việc trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh; tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việc Nam (tiêu chuẩn làm việc, giấy phép lao động cho người nước ngoài); tuyển dụng và quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài: từ kiểm duyệt kỹ năng nghề, hoạt động tuyển dụng và quản lý lao động từ trong nước đến khi về nước; tuyển dụng và quản lý lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
Ban soạn thảo, tổ biên tập: được thành lập theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm các đại diện của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính , Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Vụ các vấn đề xã hội của Quốc hội, Ủy ban dân tộc, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ....
Thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua: Cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, thông qua tại Kỳ họp thứ 6.
Dự án này đã được trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuy nhiên Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định rút dự án Luật này ra khỏi Chương trình năm 2012. Nay, Chính phủ đề nghị trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, thông qua tại Kỳ họp thứ 6.
Sự cần thiết phải ban hành NQ:
Ngày 07/01/2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, trong đó đã giao Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ báo cáo Quốc hội Khoá XIII xem xét, quyết định tại Kỳ họp thứ năm (tháng 5 năm 2013) một số giải pháp giảm thuế GTGT và bổ sung một số chính sách ưu đãi thuế TNDN để áp dụng từ ngày 01/7/2013. Vì vậy, việc ban hành Nghị Quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN năm 2013 là cần thiết để bảo đảm cơ sở pháp lý đáp ứng yêu cầu thực tế và tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, cho công tác quản lý thu và cũng là phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về tên gọi của NQ: Nghị quyết của Quốc hội về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Mục tiêu, yêu cầu: Việc ban hành một số chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp năm 2013 nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống người lao động, trên cơ sở đảm bảo 05 nguyên tắc:
Thứ nhất, theo nguyên tắc thị trường, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không làm lạm phát tăng trở lại; tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường cả trong nước và quốc tế.
Thứ hai, hỗ trợ đúng đối tượng, đúng địa chỉ, đúng mục tiêu và kịp thời theo mức độ khó khăn của doanh nghiệp; tuân thủ quy định của pháp luật và các cam kết quốc tế.
Thứ ba, đảm bảo khả năng cân đối ngân sách; ưu tiên lựa chọn những giải pháp có hiệu quả, có tác động lớn đến hỗ trợ vốn và thanh khoản cho doanh nghiệp nhưng không tác động nhiều đến cân đối ngân sách (khả năng thu ngân sách dự báo còn gặp nhiều khó khăn).
Thứ tư, phối hợp tốt với việc điều hành chính sách tiền tệ, từng bước hạ lãi suất cho vay và nâng cao khả năng hấp thụ vốn tín dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.
Thứ năm, thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp và cơ cấu lại sản xuất kinh doanh, cũng như quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, sắp xếp lại ngành hàng phù hợp với lợi thế cạnh tranh và phù hợp với quy hoạch phát triển ngành.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh và nội dung của dự án NQ:
Triển khai Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ, dự án Nghị quyết của Quốc hội quy định cụ thể các nội dung sau:
a. Về thuế TNDN
- Quy định thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 20% áp dụng từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (sử dụng dưới 200 laođộng làm việc toàn bộ thời gian và có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng).
- Quy định thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% áp dụng từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 đối với thu nhập từ đầu tư - kinh doanh nhà ở xã hội, trong đó nhà ở xã hội được xác định theo quy định của pháp luật về nhà ở.
- Quy định ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng lắp đặt dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ sản xuất thuộc lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn ưu đãi theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp để áp dụng từ ngày 01 tháng 7 năm 2013. Thời gian miễn, giảm thuế áp dụng đối với đầu tư mở rộng bằng với thời gian miễn thuế, giảm thuế áp dụng đối với doanh nghiệp thành lập mới cùng địa bàn, lĩnh vực ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
b. Về thuế GTGT
- Giảm 50% số thuế giá trị gia tăng đầu ra từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2014 đối với hoạt động đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở xã hội.
- Giảm 30% số thuế giá trị gia tăngđầu ra từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2014 đối với hoạt động đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở là căn hộ có diện tích sàn dưới 70 m2 và có giá bán dưới 15 triệu đồng/m2.
Các điều kiện, biện pháp triển khai thi hành Nghị quyết:
Bối cảnh kinh tế vĩ mô dự báo sẽ còn có những thách thức, còn tiềm ẩn một số yếu tố có thể tiếp tục gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh trong nước. Để kịp thời triển khai thực hiện Dự án Nghị quyết của Quốc hội, đảm bảo các biện pháp miễn, giảm thuế đề xuất được thực hiện hiệu quả và đúng đối tượng, Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách cùng với việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, đảm bảo công khai minh bạch; quản lý, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết; kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện, đảm bảo chính sách sớm đi vào cuộc sống.
Đồng thời, để khắc phục và bù đắp được các tác động đến thu ngân sách nhà nước cũng như đảm bảo sự chủ động trong điều hành dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp như:
- Tập trung thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính về thuế, hải quan để tạo thuận lợi và giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp;
- Quản lý chặt chẽ nguồn thu để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu phát sinh; tăng cường công tác quản lý về thuế và hải quan; kiểm tra các trường hợp miễn, giảm, hoàn thuế; đôn đốc, thu hồi nợ cũ, hạn chế phát sinh nợ thuế mới, ngăn chặn tình trạng chuyển giá, trốn, lậu thuế....;
- Chủ động trong công tác điều hành huy động vốn để đảm bảo nguồn trong những thời điểm ngân sách nhà nước bị giảm nguồn do thực hiện gia hạn thời hạn nộp thuế. Đồng thời, ngân sách trung ương chủ động điều tiết cho những địa phương có khó khăn về nguồn do thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế.
Dự kiến thời gian ban hành NQ
Dự kiến trình Quốc hội Khoá XIII thông qua tại Kỳ họp thứ năm (tháng 5 năm 2013).
Những kết quả dự kiến đạt được
Thứ nhất, việc thực hiện các giải pháp thuộc dự án Nghị quyết sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn, thị trường và giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả thì có thêm nguồn lực để tăng tích tụ, mở rộng sản xuất. Từ đó góp phần giảm hàng tồn kho, hỗ trợ thị trường, tăng vòng quay vốn và khuyến khích hình thành doanh nghiệp mới, thu hút vốn FDI, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời góp phần giải quyết nợ xấu trong nền kinh tế, từ đó có thể tăng thu ngân sách.
Với nhóm giải pháp đẩy mạnh việc đầu tư, kinh doanh nhà ở và nhà ở xã hội, một mặt tạo điều kiện cho nhiều người lao động có cơ hội tiếp cận với nguồn cung nhà ở, nhà ở xã hội phù hợp, mặt khác cũng góp phần giải quyết hàng tồn kho vật liệu xây dựng và một số ngành hàng liên quan đến nhà ở; đồng thời cũng góp phần khuyến khích doanh nghiệp tham gia chung tay với nhà nước thực hiện các dự án nhà ở xã hội, góp phần đẩy lùi tính trạng “đóng băng” của thị trường bất động sản hiện hành.
Như vậy, việc ban hành và tổ chức thực hiện các giải pháp thuộc dự án Nghị quyết sẽ góp phần tạo điều kiện hỗ trợ cho một bộ phận doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình khắc phục được các khó khăn về nhà ở, về vốn ... trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay.
Thứ hai, các giải pháp về thuế theo Dự án Nghị quyết khi được Quốc hội thông qua sẽ bổ trợ, tạo ra sự đồng bộ với các giải pháp được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07 tháng 015 năm 2013, góp phần thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô đồng thời với đảm bảo mục tiêu tăng trưởng theo như Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra.
Thứ ba,
việc áp dụng các giải pháp đề xuất trong Dự án Nghị quyết của Quốc hội cũng đồng thời thể hiện sự quan tâm, chia sẻ kịp thời của Đảng và Nhà nước đối với các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về vốn, giảm chi phí và tiếp tục duy trì sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động , khích lệ tinh thần và tạo niềm tin cho doanh nghiệp. Qua đó, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời tạo ra tác động lan tỏa lớn hơn đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ tư, các giải pháp tự dự án Nghị quyết sẽ tiếp tục góp phần tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; khuyến khích doanh nghiệp tái sử dụng vốn đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất, tạo thêm giá trị gia tăng cho xã hội thông qua việc sử đổi, bổ sung đối tượng được hưởng ưu đãi thuế phù hợp với thực tế (bổ sung ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng,...) sẽ khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng vốn đầu tư hợp lý, khuyến khích doanh nghiệp tái đầu tư, điều này góp phần tạo việc làm ch người lao động, tăng khả năng sử dụng các nguyên liệu trong nước,...
Những khó khăn, hạn chế:
Do đây là các giải pháp cấp bách phát sinh trong quá trình điều hành và phải hoàn thành để trình QH thông qua tại kỳ họp tháng 5/2013, vì vậy, để đảm bảo việc xây dựng NQ theo quy định, đáp ứng yêu cầu khẩn trương khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thì cần thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn, vì vậy sẽ gặp một số khó khăn trong thực hiện là:
(i) trong quá trình xây dựng Nghị quyết, một số đơn vị được giao thực hiện chưa đảm bảo thời gian, chất lượng soạn thảo vì vậy có thể dẫn đến chất lượng soạn thảo không kịp yêu cầu, tiến độ;
(ii) bỏ quan khâu lấy ý kiến đối tượng tác động vì vậy khi văn bản ban hành có thể nhiều đối tượng thuộc diện điều chỉnh của Nghị quyết không cập nhật kịp thời để thực hiện hoặc có thể dẫn tới phát sinh vướng mắc là vẫn chưa bao trùm toàn bộ các vướng mắc trong thực tế;
(iii) Công tác tuyên truyền chưa được phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành nên có thể chính sách sẽ được triển khai không đến được toàn bộ các đối tượng điều chỉnh;
(iv) kinh phí chi xây dựng văn bản thấp…
Các điều kiện, biện pháp triển khai thi hành Nghị quyết:
Từ những nội dung của dự án NQ như đã trình bày và những mặt thuận lợi, khó khăn dự kiến sẽ phát sinh nêu trên, để triển khai tốt NQ này cần phải:
- Về cơ sở pháp lý: Thực hiện theo quy định của Luật thuế TNDN, Luật thuế GTGT, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện điều ước quốc tế... Các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên (như Văn kiện gia nhập WTO, Công ước quốc tế về hài hoà và đơn giản thủ tục hải quan), các Hiệp định song phương, đa phương...
- Có sự chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương xuống cơ sở, các cấp chính quyền; sự phối kết hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành và Hiệp hội, cơ quan, đoàn thể có liên quan.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, giải thích chính sách để nắm vững quy định của luật và triển khai thực hiện tốt trong thực tế; tăng sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn trong việc xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, các văn bản hướng dẫn, đảm bảo công bằng về nghĩ vụ thuế trong quá trình thực hiện.
Dự kiến thời gian ban hành NQ
Dự kiến trình Quốc hội Khoá XIII thông qua tại Kỳ họp thứ năm (tháng 5 năm 2013).
8. Nghị quyết của Quốc hội về miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành
Sự cần thiết xây dựng nghị quyết
Theo thống kê của các cơ quan thi hành án dân sự, hiện nay, toàn quốc còn trên 288 nghìn việc thi hành án dân sự với khoảng 30 nghìn tỷ đồng chưa được tổ chức thi hành dứt điểm. Trong số đó, có khoảng 48 nghìn việc tương ứng với số tiền gần 700 tỷ đồng (án phí trên 96 tỷ đồng, tiền phạt trên 368 tỷ đồng, tiền, tài sản tịch thu trên 227 tỷ đồng) là khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành tính đến ngày Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực (01/7/2009). Đây là số việc mà các cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để tổ chức thi hành trong nhiều năm, thậm chí có nhiều việc kéo dài từ năm 1988 đến ngày 01/7/2009 nhưng không có kết quả (số việc dưới 5 năm là 30.496 việc với số tiền còn phải thi hành là trên 363 tỷ đồng, số việc từ 5 đến 10 năm là 12.835 việc với số tiền còn phải thi hành trên 187 tỷ đồng, số việc trên 10 năm là 4.503 việc, với số tiền còn phải thi hành trên 142 tỷ đồng). Đối với số việc không có điều kiện thi hành này, theo quy định của pháp luật, cơ quan thi hành án dân sự vẫn phải theo dõi, xác minh, đôn đốc thi hành án, dẫn đến tốn kém công sức, kinh phí từ ngân sách nhà nước.
Thực tế, trong thời gian qua, để xử lý việc thi hành án dân sự tồn đọng, Quốc hội khoá XII đã cho miễn thi hành án đối với các khoản thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000 đồng theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự. Sau khi có Nghị quyết này, các cơ quan thi hành án dân sự đã lập hồ sơ đề nghị và được Tòa án ra quyết định miễn thi hành án đối với 17.722 việc với số tiền được miễn là trên 5 tỷ đồng. Kết quả thực hiện Nghị quyết này đã góp phần xử lý xong một số việc thi hành án dân sự tồn đọng, được dư luận đồng tình.
Tuy nhiên, những việc thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành (khoảng 48.000 việc), như đã báo cáo ở trên không thuộc phạm vi những việc được miễn theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008, nên vẫn chưa được giải quyết. Mặt khác, trong quá trình xây dựng Dự thảo Nghị quyết, nhiều ý kiến đề nghị Quốc hội xem xét việc miễn thi hành đối với khoản thu cho ngân sách nhà nước trong bản án hình sự mà người đã bị kết án về hành vi phạm tội trước đây, nhưng nay hành vi phạm tội đó đã được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt (nếu chưa chấp hành) hoặc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo Nghị quyết số 33/2009/QH12, ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự do trước đây Nghị quyết số 33/2009/QH12 chưa đề cập đến các khoản thu này, nên không có cơ sở để giải quyết.
Dự thảo Nghị quyết “Về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành”, nếu được Quốc hội thông qua và thực hiện, dự kiến giảm được khoảng 48 nghìn việc thi hành án tồn đọng từ nhiều năm nhưng cơ quan Thi hành án dân sự không thể giải quyết được, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho công dân; tạo điều kiện cho các cơ quan thi hành án dân sự có thời gian và tập trung nguồn lực giải quyết những việc phát sinh mới hàng năm (bình quân khoảng trên 340 nghìn việc với số tiền phải thi hành trên 15 nghìn tỷ mỗi năm) và thực hiện nhiệm vụ đôn đốc thi hành án hành chính mới được Quốc hội giao. Khi thực hiện Nghị quyết này, hàng năm Nhà nước sẽ tiết kiệm được khoản kinh phí không nhỏ do không phải chi phí cho việc theo dõi, xác minh, đôn đốc việc thi hành án, nhưng vẫn không thể thi hành được; giảm bức xúc của dư luận xã hội đối với công tác thi hành án dân sự; góp phần giải quyết bất cập trong thực tiễn thực thi pháp luật mà quá trình xây dựng, ban hành pháp luật chưa dự liệu hết, thống nhất trong ban hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về hình sự.
Do đó, việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội “Về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành” là rất cần thiết.
Quá trình xây dựng nghị quyết
1. Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Thông báo số 84/TB-VPCP ngày 23/3/2010 của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan rà soát, phân loại các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng còn tồn đọng, chưa thi hành được, nhất là loại án không có điều kiện thi hành, phân tích rõ nguyên nhân chủ quan, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân . Từ đó, Bộ Tư pháp đã đề xuất việc xây dựng Nghị quyết “giải quyết việc thi hành dân sự tồn đọng” trình Chính phủ.
Tại Báo cáo công tác thi hành án số 17/BC-CP ngày 18/10/2011, Chính phủ đã đề nghị Quốc hội cho chủ trương về việc xây dựng Đề án rà soát, xử lý việc thi hành án dân sự tồn đọng, trong đó có việc đề nghị cho miễn thi hành án khoản nộp ngân sách nhà nước đối với vụ việc đương sự hoàn toàn không có điều kiện thi hành án trình Quốc hội xem xét, quyết định. Quốc hội đã có Nghị quyết đồng ý với nội dung Báo cáo công tác thi hành án năm 2011 của Chính phủ. Từ cuối năm 2011, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp khẩn trương xây dựng Dự thảo Nghị quyết "Về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành".
2. Để thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành quyết định thành lập Tổ biên tập, gồm đại diện Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, Cục Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và một số cơ quan liên quan. Bộ Tư pháp cũng đã xây dựng, phê duyệt kế hoạch và triển khai các bước để thực hiện các nội dung liên quan đến việc xây dựng dự thảo Nghị quyết.
3. Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị quyết, Bộ Tư pháp đã tiến hành rà soát tình trạng việc chưa thi hành, việc thi hành án dân sự không thể thi hành được tồn đọng từ những năm trước đây; phân loại, phân tích, đánh giá nguyên nhân chủ quan, khách quan của việc thi hành án chưa thi hành, việc thi hành án dân sự tồn đọng; tổ chức khảo sát tại một số địa phương đại diện cho các khu vực miền Bắc, miền Nam và các tỉnh duyên hải miền Trung - Tây nguyên; tổ chức một số cuộc tọa đàm tại Hà Nội, Tây Ninh, Yên Bái, Đà Nẵng; Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức lấy ý kiến góp ý vào nội dung Dự thảo Nghị quyết của các nhà khoa học, các chuyên gia, cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực thi hành án dân sự, kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự và một số cơ quan như: Văn phòng Trung ương Đảng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Ủy ban nhân dân, Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; một số cơ quan hữu quan khác.
Tháng 6/2012, Bộ Tư pháp tiếp tục gửi dự thảo Nghị quyết lấy ý kiến góp ý bằng văn bản của Ủy ban Tư pháp, Ủy ban pháp luật, Văn phòng Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Bộ, ngành ở Trung ương.
4. Trên cơ sở ý kiến tham gia của các Bộ, ngành và địa phương, Bộ Tư pháp đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết trình Chính phủ xem xét để trình Quốc hội. Tại phiên họp tháng 9 năm 2012 (ngày 27/9/2012), Chính phủ đã nhất trí thông qua Dự thảo Nghị quyết và giao cho Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội xem xét Dự thảo Nghị quyết về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành.
Bố cục và nội dung cơ bản của nghị quyết về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành
Dự thảo Nghị quyết có 05 điều quy định về những nội dung sau đây:
Về các loại việc thi hành án dân sự thuộc diện được miễn thi hành
Điều 1 của dự thảo Nghị quyết xác định rõ chủ trương cho miễn thi hành án khoản thu cho ngân sách nhà nước đối với hai loại việc thi hành án dân sự:
Loại thứ nhất là việc thi hành án dân sự đã có quyết định thi hành án trước ngày 01/07/2009 nhưng không có điều kiện thi hành, bao gồm:
- Người phải thi hành án là cá nhân thuộc diện hộ nghèo hoặc không thuộc diện hộ nghèo nhưng bị thiệt hại do thiên tai, hoả hoạn, ở vùng đặc biệt khó khăn, tai nạn, mất khả năng lao động, bệnh hiểm nghèo nên không có điều kiện thi hành án.
- Cơ quan thi hành án dân sự đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án trong thời hạn ít nhất là 05 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án.
- Người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh tế (gọi chung là doanh nghiệp) đã giải thể hoặc ngừng hoạt động nhưng không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và người nhận chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
- Người phải thi hành án có quốc tịch nước ngoài đã xuất cảnh nhưng không có tài sản ở Việt Nam và đã thực hiện việc tương trợ tư pháp để xác định địa chỉ, tài sản của họ ở nước ngoài nhưng không có kết quả.
Những việc thi hành án không có điều kiện thi hành nêu trên là do các nguyên nhân khách quan sau đây: Người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án (gần 30.000 việc tương ứng số tiền trên 470 tỷ đồng); không xác định được nơi cư trú và tài sản của người phải thi hành án, doanh nghiệp phải thi hành án đã giải thể, ngừng hoạt động nhưng không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và người nhận chuyển giao quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp đó (gần 17 nghìn việc tương ứng số tiền trên 209 tỷ đồng); người phải thi hành án là người nước ngoài đã xuất cảnh, không để lại tài sản ở Việt Nam, cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện mọi biện pháp nhưng vẫn không thể thi hành được, kể cả thực hiện ủy thác tư pháp theo Luật tương trợ tư pháp nhưng không được nước nơi người phải thi hành án mang quốc tịch trả lời (trên 100 việc tương ứng với số tiền là trên 2 tỷ đồng); quy định của pháp luật về án phí, tiền phạt và tịch thu tài sản chưa phù hợp thực tiễn, không mang tính khả thi như việc quy định phạt người sử dụng ma túy 20.000.000 đồng, mức án phí có giá ngạch cao so với khả năng thi hành của người phải thi hành án…
Loại thứ hai là việc thi hành quyết định về án phí và quyết định dân sự khác đối với khoản thu cho ngân sách nhà nước trong các bản án hình sự về hành vi phạm tội đã được miễn theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009.
Đây là những việc mà theo Nghị quyết số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự thì kể từ ngày Luật này được công bố (29/6/2009), những người đã bị kết án về hành vi phạm tội trước đây nhưng nay hành vi phạm tội đó đã không còn bị coi là tội phạm, tuy nhiên các quyết định về án phí và quyết định dân sự khác liên quan đến khoản thu cho ngân sách nhà nước trong bản án hình sự không được đề cập trong Nghị quyết này.
Về các điều kiện miễn thi hành án
Điều 2 của dự thảo Nghị quyết quy định về điều kiện để thực hiện miễn thi hành án khoản thu cho ngân sách nhà nước đối với hai loại việc thi hành án dân sự, theo đó: đối với loại thứ nhất, được thực hiện miễn khi cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật, nhưng vẫn không thể thi hành được; đối với loại thứ hai, được thực hiện khi người phải thi hành án thuộc diện được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Nghị quyết số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự.
Về thẩm quyền và trình tự, thủ tục miễn thi hành án
Điều 3 của dự thảo Nghị quyết quy định thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự cấp quân khu và tương đương xem xét, quyết định miễn thi hành án khoản thu cho ngân sách nhà nước đối với các loại việc thi hành án dân sự được nêu trong Nghị quyết theo hướng cơ quan thi hành án dân sự cấp nào lập hồ sơ đề nghị miễn thi hành án thì Tòa án cấp đó xét miễn.
Về trình tự, thủ tục miễn thi hành án, dự thảo Nghị quyết quy định giao cho cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý việc thi hành án chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp lập danh sách và hồ sơ đề nghị Toà án nhân dân cùng cấp ra quyết định miễn thi hành án. Còn trình tự, thủ tục cụ thể miễn thi hành án sẽ giao cho Bộ Tư pháp phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn để thực hiện (xin gửi kèm theo Dự thảo Thông tư liên tịch).
Về việc kiểm sát hoạt động lập hồ sơ và xét miễn thi hành án
Để bảo đảm cho việc miễn thi hành án được thực hiện một cách khách quan, đúng pháp luật, Điều 4 của dự thảo Nghị quyết giao trách nhiệm cho Viện kiểm sát nhân dân các cấp kiểm sát đối với việc thực hiện miễn thi hành án khoản thu cho ngân sách Nhà nước đối với các loại việc thi hành án dân sự quy định tại Nghị quyết.
Về việc tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết
Ngoài nội dung miễn thi hành án khoản thu cho ngân sách nhà nước đối với việc thi hành án dân sự và thực hiện trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành, dự thảo Nghị quyết (khoản 3 Điều 5) còn giao cho Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết và báo cáo Quốc hội.
Kết quả và tác động của Nghị quyết
Việc ban hành Nghị quyết về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành sẽ có tác động và đạt được một số kết quả dự kiến sau:
Lợi ích về kinh tế
Lợi ích đối với Nhà nước
Miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách Nhà nước không không có điều kiện thi hành sẽ tiết kiệm được những khoản sau:
Thứ nhất, về chi phí lương và ngày công đi xác minh hàng năm nếu vẫn giữ những việc thi hành các khoản thu cho ngân sách nhà nước không thể thi hành được.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 44, điểm a, Khoản 2 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự, Khoản 5, Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự thì đối với mỗi việc thi hành án dân sự thuộc loại nêu trên bình quân cơ quan Thi hành án dân sự phải xác minh điều kiện thi hành án của đương sự 2 lần/năm, mỗi lần xác minh mất 1 ngày, 2 người (01 Chấp hành viên, 01 Thư ký thi hành án). Ngoài ra theo quy định của pháp luật, tham gia xác minh cùng cơ quan thi hành án đối với từng việc thi hành án còn có đại diện một số cơ quan có liên quan theo quy định (ít nhất 2 người). Chi phí xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án do ngân sách nhà nước chi trả. Do đó, số ngày công đi xác minh việc thi hành các khoản thu cho ngân sách nhà nước không thể thi hành được là:
47.834 việc x 2 lần xác minh/năm x 1 ngày x 4 người = 382.672 ngày công lao động (6).
Thứ hai, chi phí tiền xăng xe đi xác minh
Tính toán của ngành thi hành án dân sự trong những năm vừa qua về chi phí xác minh thi hành án cho thấy bình quân cơ quan thi hành án phải chi 3 lít xăng cho 1 lần đi xác minh. Nếu tính bình quân 22.000 đồng/lít xăng (giá tại thời điểm lập báo cáo này thì tổng cộng chi phí xăng xe đi xác minh là:
47.834 việc x 3 lít x 22.000 đồng/l = 3.157.044.000 đồng (7)
Thứ ba, chi phí văn phòng phẩm dành cho việc xác minh
Chi phí giấy viết: 47.384 việc x 3 tờ giấy (Thông báo xác minh, Biên bản xác minh, …) = 143.502 tờ giấy A4 (khoảng gần 300 gam giấy A4 500 trang loại giấy Bãi Bằng), tính 55.000/gam, thì tổng cộng số tiền mua cho giấy viết là 300 gam x 55.000/gam (giấy Bãi bằng) = 16.500.000 đồng (8)
Chi phí mực in: một hộp mực thông thường in được khoảng 1.500 trang giấy (khoảng 3 gam giấy), do đó để in hết 300 gam giấy cần khoảng 100 hộp mực in x 200.000đ/hộp = 20.000.000 đồng (9)
Thứ tư, chi tiền công tác phí đi xác minh
Hiện tại, hầu hết các cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện việc khoán công tác phí cho cán bộ thi hành án khi đi xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án bình quân 30.000 đồng/người/ngày, tổng cộng là:
382.672 ngày đi xác minh x 30.000 đồng = 11.480.160.000 đồng (10)
Cộng các khoản chi phí trên ta có:
Chi phí về tiền: 3.157.044.000 đồng (7) + 16.500.000 đồng (8) + 20.000.000 đồng (9) + 11.480.160.000 đồng (10)= 14.673.704.000 đồng
Chi phí về nhân công: 382.672 ngày công lao động.
Như vậy, tổng chi phí về phía Nhà nước sẽ phát sinh nếu vẫn giữ nguyên một số việc thi hành các khoản thu cho ngân sách nhà nước không thể thi hành được hàng năm sẽ là 14.673.704.000 đồng và 382.672 ngày công lao động. Điều này cũng có nghĩa là nếu Nghị quyết được ban hành và thực hiện, thì hàng năm Nhà nước sẽ tiết kiệm được 14.673.704.000 đồng và 382.672 ngày công lao động. Trong khi đó, nếu thực hiện Nghị quyết, Nhà nước sẽ chỉ phát sinh chi phí theo tính toán ở phần 2.1. là 118.900.800 đồng và 95.668 ngày công lao động.
So sánh với chi phí về kinh tế khi thực hiện Nghị quyết theo tính toán ở trên thì việc thực hiện Nghị quyết sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho Nhà nước là 14.673.704.000 đồng - 118.900.800 đồng = 14.554.803.200 đồng và 382.672 ngày công - 95.668 ngày công = 287.004 ngày công lao động.
Bên cạnh đó, những tính toán trên đây chỉ là những tính toán cho một năm theo dõi trên thực tế. Theo thống kê, tính đến ngày 01/7/2009 thì số việc thi hành các khoản thu cho ngân sách nhà nước không thể thi hành được nhưng cơ quan Thi hành án dân sự vẫn phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của đương sự kéo dài từ năm này qua năm khác, cụ thể là: số việc từ 1 năm đến dưới 5 năm là 30.496 việc, số việc từ 5 đến 10 năm là 12.835 việc, số việc trên 10 năm là 4.503. Như vậy, trong khi không thể thu được số tiền người phải thi hành hành, thì Nhà nước vẫn phải chi phí cho việc xác minh, theo dõi điều kiện thi hành án của người phải thi hành án một khoản tiền rất lớn, gây lãng phí cho ngân sách nhà nước mà vẫn không thể thi hành được.
Lợi ích đối với doanh nghiệp và người dân:
Nếu vẫn giữ một số việc thi hành các khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành, hàng năm khi cơ quan thi hành án tiến hành thủ tục xác minh, người dân doanh nghiệp và xã hội sẽ phải mất những chi phí sau:
Thứ nhất, phần lớn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chỉ có 01 biên chế làm công tác tư pháp. Khi cán bộ tư pháp tham gia đi xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, thì trong ngày đó cán bộ Tư pháp sẽ phải vắng mặt tại trụ sở. Do đó, một số lượng không nhỏ người dân/doanh nghiệp tới làm các thủ tục như khai sinh, khai tử và các công việc khác liên quan đến công tác tư pháp sẽ không được giải quyết do cán bộ Tư pháp đi vắng. Điều này gây lãng phí lớn về thời gian, chi phí lợi ích, chi phí đi lại cho người dân, doanh nghiệp.
Thứ hai, việc cán bộ thi hành án đi xác minh sẽ dẫn đến việc gặp gỡ tiếp xúc với các đối tượng liên quan như ngân hàng, đối tượng phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, …. Điều này cũng làm cho các đối tượng này mất ngày công lao động do phải làm việc với cán bộ thi hành án. Đây cũng chính là chi phí của người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Như vậy, việc thực hiện Nghị quyết cũng đồng nghĩa với việc người dân, doanh nghiệp và xã hội sẽ tiết kiệm được những khoản chi phí trên.
Lợi ích về việc góp phần làm thay đổi nhận thức của các cơ quan và nhân dân về thi hành án dân sự nói chung và việc thi hành án dân sự “tồn đọng” nói riêng
Thi hành án dân sự là hoạt động gắn liền với công tác xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, thời gian hình thành với tư cách là một lĩnh lực công tác độc lập trong quản lý nhà nước chưa nhiều (tháng 7/1993). Do đó, nhiều vấn đề về lý luận, thực tiễn thi hành án chưa được làm sáng tỏ. Thông qua quá trình lấy ý kiến vào Nghị quyết của các cơ quan, ban ngành hữu quan từ Trung ương đến địa phương, Bộ Tư pháp có điều kiện giải thích, làm rõ và tuyên truyền về các nội dung công tác thi hành án dân sự, giúp các cơ quan và nhân dân nhận thức rõ hơn về công tác thi hành án, nhằm thu hút sự quan tâm, ủng hộ và phối hợp tích cực hơn với cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay và các quyết định khác theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền tổ chức thi hành của cơ quan Thi hành án dân sự.
Việc thực hiện Nghị quyết cũng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội và những người có nghĩa vụ về tài sản đối với Nhà nước
Theo quy định của Điều 136 Hiến pháp năm 1992, các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Về nguyên tắc, khi bản án, quyết định được Tòa án nhân dân có thẩm quyền – nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên xử, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có nghĩa vụ phải chấp hành. Nếu các quyền và nghĩa vụ không được thực hiện trên thực tế, mà không có giải pháp cụ thể sẽ dân tới “nhờn” luật, tiềm ẩn việc gây bất ổn cho trật tự, an toàn xã hội. Do đó, với việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà nước không có điều kiện thi hành, Quốc hội giao cho Tòa án nhân dân xét, quyết định miễn thi hành nghĩa vụ cho người phải thi hành án theo những nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ sẽ giúp đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Bộ máy nhà nước nói chung và đối với cơ quan Thi hành án dân sự nói riêng.
Lợi ích về việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Thứ nhất, việc thực hiện Nghị quyết đảm bảo tính đồng bộ trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước.
Theo quy định của Bộ Luật hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009, có nhiều tội danh được áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Trong nhiều năm qua, khi xét xử các tội về ma túy, Tòa án thường tuyên phạt ở mức cao nhất, nên không thể thi hành được. Các cơ quan có thẩm quyền đã thống nhất hướng dẫn việc áp dụng hình phạt tiền theo hướng không tuyên phạt mức tối đa là 20 triệu đồng đối với một số tội về ma túy. Do đó, việc cho miễn thi hành đối với các khoản thi hành cho ngân sách nhà nước là các khoản tuyên phạt trong các bản án về ma túy là phù hợp với đường lối xử lý tội phạm về ma túy và phù hợp với thực tiễn.
Mặt khác theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009 và Nghị quyết số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về thi hành Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009, một số tội danh trước đây được coi là tội phạm, nay không coi là tội phạm và được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, nên việc tiếp tục thi hành các khoản tiền thu cho ngân sách nhà nước đã được tuyên trong các bản án, quyết định này là không hợp lý. Do đó, miễn thi hành đối với những khoản tiền này là phù hợp, đảm bảo sự thống nhất trong chính sách hình sự từ ban hành chính sách đến xây dựng luật và tổ chức thi hành luật.
Thứ hai, quá trình thực hiện Nghị quyết cũng góp phần vào công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự.
Thông qua việc thực hiện Nghị quyết, các cơ quan thi hành án dân sự có điều kiện rà soát để có được những thông số chính xác về việc thi hành án dân sự tồn đọng; đồng thời đánh giá đúng và sát thực tiễn thi hành án dân sự. Qua đó làm rõ những ưu, nhược điểm, hạn chế, vướng mắc trong pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật thi hành án dân sự, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp hoàn thiện thể chế; các giải pháp về hoàn thiện cơ chế, biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Đồng thời, tạo tiền đề cho việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Dự kiến thời gian: Trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 5.
10. Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 928/2010/UBTVQH10 về việc ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên
Sự cần thiết
Chính phủ đề nghị bổ sung dự thảo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 928/2010/UBTVQH10 về việc ban hành Biểu mức thuế suất thuế tài nguyên vào Chương trình chính thức năm 2013 nhằm sớm khắc phục những bất cập của Nghị quyết số 928 hiện hành, góp phần khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới. Cụ thể:
Thứ nhất, mặc dù Nghị quyết số 928 đã tăng mức thuế suất thuế tài nguyên so với trước đây, đặc biệt là mặt hàng khoáng sản kim loại và khoáng sản không kim loại nhưng mức thuế suất này vẫn còn thấp, dẫn đến việc khai thác tài nguyên tràn lan, chưa khuyến khích được các doanh nghiệp khai thác tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.
Thứ hai, thế suất của một số nhóm mặt hàng theo quy định tại Nghị quyết số 928 đã không còn phù hợp với thực tế như thuế suất thuế tài nguyên đối với đất sét sản xuất gạch; thuế suất thuế tài nguyên đối với sản phẩm alumin...
Nội dung chính
Ban hành Biểu mức thuế suất đối với các loại tài nguyên, trừ dầu thô và khí thiên nhiên, khí than:
STT | Nhóm, loại tài nguyên | Thuế suất (%) |
I | Khoáng sản kim loại | |
1 | Sắt | 12 |
2 | Măng-gan | 12 |
3 | Ti-tan (titan) | 12 |
4 | Vàng | 15 |
5 | Đất hiếm | 15 |
6 | Bạch kim | 12 |
7 | Bạc, thiếc | 12 |
8 | Vôn-phờ-ram (wolfram), ăng-ti-moan (antimoan) | 12 |
9 | Chì, kẽm | 12 |
10 | Nhôm | 12 |
11 | Bô-xít (bouxite) | 7 |
12 | Đồng, ni-ken (niken) | 12 |
13 | Cô-ban (coban), mô-lip-đen (molipden), thuỷ ngân, ma-nhê (magie), va-na-đi (vanadi) | 10 |
14 | Khoáng sản kim loại khác | 10 |
II | Khoáng sản không kim loại | |
1 | Đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình | 10 |
2 | Đá, sỏi | 7 |
3 | Đá nung vôi và sản xuất xi măng | 7 |
4 | Cát | 11 |
5 | Cát làm thuỷ tinh | 11 |
6 | Đất làm gạch | 15 |
7 | Gờ-ra-nít (granite) | 10 |
8 | Sét chịu lửa | 10 |
9 | Đô-lô-mít (dolomite), quắc-zít (quartzite) | 12 |
10 | Cao lanh | 10 |
11 | Mi-ca (mica), thạch anh kỹ thuật | 10 |
12 | Pi-rít (pirite), phốt-pho-rít (phosphorite) | 7 |
13 | A-pa-tít (apatit), séc-păng-tin (secpentin) | 3 |
14 | Than an-tra-xít (antraxit) hầm lò | 7 |
15 | Than an-tra-xít (antraxit) lộ thiên | 7 |
16 | Than nâu, than mỡ | 7 |
17 | Than khác | 5 |
18 | Kim cương, ru-bi (rubi), sa-phia (sapphire) | 22 |
19 | E-mô-rốt (emerald), a-lếch-xan-đờ-rít (alexandrite), ô-pan (opan) quý màu đen | 20 |
20 | A-dít, rô-đô-lít (rodolite), py-rốp (pyrope), bê-rin (berin), sờ-pi-nen (spinen), tô-paz (topaz) | 15 |
21 | Thạch anh tinh thể màu tím xanh, vàng lục, da cam; cờ-ri-ô-lít (cryolite); ô-pan (opan) quý màu trắng, đỏ lửa; birusa; nê-phờ-rít (nefrite) | 15 |
22 | Phen-sờ-phát (fenspat) | 12 |
23 | Khoáng sản không kim loại khác | 5 |
III | Sản phẩm của rừng tự nhiên | |
1 | Gỗ nhóm I | 35 |
2 | Gỗ nhóm II | 30 |
3 | Gỗ nhóm III, IV | 20 |
4 | Gỗ nhóm V, VI, VII, VIII và các loại gỗ khác | 15 |
5 | Cành, ngọn, gốc, rễ | 10 |
6 | Củi | 5 |
7 | Tre, trúc, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô | 10 |
8 | Trầm hương, kỳ nam | 25 |
9 | Hồi, quế, sa nhân, thảo quả | 10 |
10 | Sản phẩm khác của rừng tự nhiên | 5 |
IV | Hải sản tự nhiên | |
1 | Ngọc trai, bào ngư, hải sâm | 10 |
2 | Hải sản tự nhiên khác | 2 |
V | Nước thiên nhiên | |
1 | Nước khoáng thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên, nước thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp | 8 |
2 | Nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện | 2 |
3 | Nước thiên nhiên dùng cho sản xuất, kinh doanh, trừ nước quy định tại điểm 1 và điểm 2 Nhóm này | |
3.1 | Dùng cho sản xuất nước sạch | |
A | Sử dụng nước mặt | 1 |
B | Sử dụng nước dưới đất | 3 |
3.2 | Dùng cho mục đích khác | |
A | Sử dụng nước mặt | 3 |
B | Sử dụng nước dưới đất | 5 |
VI | Yến sào thiên nhiên | 20 |
VII | Tài nguyên khác | 10 |
Dự kiến thời gian: Trình UBTVQH thông qua trong năm 2013
11. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm xã hội
Theo Nghị quyết số 23 thì dự án Luật này sẽ phải trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 và thông qua tại Kỳ họp thứ 6. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo phát sinh nhiều vấn đề cần sửa đổi một cách toàn diện, do vậy, Chính phủ đề nghị đổi tên dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm xã hội thành Luật bảo hiểm xã hội (sửa đổi) và lùi thời hạn trình dự án Luật này từ cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 sang cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6, thông qua tại Kỳ họp thứ 7 vì các lý do cụ thể sau đây:
Thứ nhất, để có thêm thời gian nghiên cứu, thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng và Nhà nước được nêu tại các văn kiện, nghị quyết như Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, Kết luận số 23-KL/TW tại Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020”, Chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.... Cụ thể như sau:
- Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 khẳng định: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm…”
- Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định: "Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tăng tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng…”
- Trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012, Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 tiếp tục khẳng định: “Nghiên cứu, sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng của quỹ bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Rà soát, bổ sung quy định buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định của pháp luật. Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội; 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp”.
- Trong Kết luận số 23-KL/TW tại Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020”: “Về bảo hiểm xã hội, nghiên cứu sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, tuân thủ nguyên tắc đóng-hưởng và bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội…”
- Tại Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) giai đoạn 2012 - 2020: “Nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Hoàn thiện chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng Quỹ. Rà soát, bổ sung quy định buộc người sử dụng lao động phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Sửa đổi chính sách bảo hiểm thất nghiệp để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động bị thất nghiệp và tránh trục lợi bảo hiểm.
Từng bước thực hiện nguyên tắc "đóng - hưởng", gắn với việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu ở một số lĩnh vực, ngành nghề nhất định phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mở rộng chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với người tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức; …. Thí điểm chính sách bảo hiểm hưu trí bổ sung."
Thứ hai, quá trình đánh giá tổng kết tình hình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội sau hơn 5 năm thực hiện cho thấy để khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện thì cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung rất nhiều các điều, khoản của Luật bảo hiểm xã hội như quy định về nhận sổ BHXH khi người lao động không còn làm việc; quy định về mức hưởng chế độ ốm đau cho thời gian vượt quá 180 ngày trong năm đối với trường hợp ốm đau dài ngày; quy định điều kiện về thời gian đóng để hưởng chế độ thai sản; quy định về trợ cấp tuất; quy định người sử dụng lao động giữ lại 2% tiền đóng vào quỹ ốm đau và thai sản; quy định về hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động đối với trường hợp tai nạn giao thông phải có thêm bản sao Biên bản tai nạn giao thông... Đồng thời, nghiên cứu để hợp nhất quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện với quỹ hưu trí và tử tuất của quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc, thay đổi bố cục của Luật bảo hiểm xã hội.
Thứ ba, để có thời gian nghiên cứu việc có tiếp tục đưa các quy định về bảo hiểm thất nghiệp vào dự án Luật này hay chuyển các quy định này sang dự án Luật việc làm; hợp nhất quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện với quỹ hưu trí và tử tuất của quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc...
Thứ tư, để có thêm thời gian nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định khác của Luật bảo hiểm xã hội hiện hành, bảo đảm tính thống nhất với quy định của Bộ luật lao động vừa mới được Quốc hội thông qua như quy định về tuổi nghỉ hưu, chế độ thai sản, tiền lương tối thiểu chung...
12. Luật hải quan (sửa đổi)
Theo Nghị quyết số 23 thì dự án Luật này sẽ phải trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 và thông qua tại Kỳ họp thứ 6. Hiện, Bộ Tài chính đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập; tổng kết 10 năm thực hiện Luật hải quan; xây dựng báo cáo đánh giá tác động; rà soát quy định của pháp luật hiện hàn có liên quan; tổ chức khảo sát tại một số đơn vị hải quan cơ sở và nước ngoài... Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo dự án Luật hải quan (sửa đổi), có phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, cần có thêm thời gian nghiên cứu, nên Chính phủ đề nghị lùi thời hạn trình dự án Luật này từ cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, thông qua tại Kỳ họp thứ 6 sang cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6, thông qua tại Kỳ họp thứ 7. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, thủ tục hải quan điện tử được ngành hải quan triển khai thí điểm tại 20/34 Cục Hải quan tỉnh, thành phố theo Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 203/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 222/2009/TT-BTC ngày 25/11/2009 của Bộ Tài chính. Căn cứ kết quả thực hiện thí điểm, ngày 23/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 87/2012/NĐ-CP về thủ tục hải quan điện tử để bảo đảm tính pháp lý cho hoạt động này trước khi được luật hóa. Do vậy, cần có thêm thời gian để Nghị định số 87 đi vào thực tiễn, có tính ổn định, làm cơ sở cho việc ban hành Luật hải quan (sửa đổi).
Thứ hai, hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đàm phán một số điều ước quốc tế liên quan đến công tác hải quan như Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và khối EFTA, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU, Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại của WTO, Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương... Sau khi các Hiệp định này được đàm phán, ký kết, các cam kết về hải quan được nghiên cứu để nội luật hóa trong Luật hải quan (sửa đổi) sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế.
Thứ ba, trong thời gian qua, cơ chế quản lý đối với một số loại hình xuất nhập khẩu bộc lộ một số tồn tại gây tâm lý lo ngại trong xã hội và nhân dân. Để khắc phục tình trạng này, ngày 70/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan. Tại Chỉ thị số 23, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát và rà soát, điều chỉnh các quy định của pháp luật hiện hành để bảo đảm phù hợp với chủ trương, yêu cầu quản lý nhà nước và thực tế phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện Chỉ thị số 23, các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước, quy trình nghiệp vụ hải quan có liên quan đang được xem xét để sửa đổi, bổ sung. Các văn bản được sửa đổi, bổ sung này cũng cần phải có thời gian triển khai thực hiện trước khi được quy định tại Luật hải quan (sửa đổi).
Thứ tư, với sự hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản, hiện nay Bộ Tài chính đang trong quá trình triển khai thực hiện dự án VNACCS (Hệ thống thông quan hàng hóa tự động của Việt Nam) và sẽ được thử nghiệm vào cuối năm 2013 để chính thức triển khai thực hiện từ tháng 4/2012. Việc triển khai thực hiện VNACCS sẽ tạo ra những thay đổi trong phương thức tiến hành thủ tục hải quan, qua đó có thể đặt ra những sửa đổi nhất định trong các văn bản quy phạm pháp luật về hải quan, trong đó có Luật hải quan.
Thứ năm, cần có thêm thời gian để nghiên cứu, đánh giá kỹ về những quy định liên quan đến tổ chức, bộ máy của ngành Hải quan, trình tự, thủ tục, quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về hải quan... để có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
13. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dạy nghề