Báo cáo về kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 26/02/2014
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp, ngày 08-01-2014
KehoachtochucHienphap.pdf
BÁO CÁO VỀ KẾ HOẠCH TỔ CHỨC TRIỂN KHAI THI HÀNH HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (Do Đồng chí Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật trình bày tại Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ___________________ Kính thưa: - Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; - Các đồng chí tham dự Hội nghị, Theo sự chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi xin trình bày Báo cáo về Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kính thưa Hội nghị, Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay thế cho bản Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001). Hiến pháp này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Hiến pháp là văn kiện đặc biệt quan trọng, phản ánh ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tạo cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ mới. Việc triển khai thi hành Hiến pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Để việc triển khai thi hành Hiến pháp có hiệu quả, chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất lượng và thống nhất, ngày 03 tháng 01 năm 2014, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; ngày 02 tháng 01 năm 2014 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 về Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1. Về mục đích, yêu cầu: Việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp có ý nghĩa rất quan trọng nhằm hiện thực hóa các quy định của Hiến pháp vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp phải bảo đảm các mục đích, yêu cầu sau đây: - Về mục đích: Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân và người Việt Nam ở nước ngoài về Hiến pháp, ý thức trách nhiệm trong việc chấp hành và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật. Thứ hai, xác định trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức khác ở trung ương và địa phương trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. Thứ ba, bảo đảm các quy định của Hiến pháp được tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo động lực thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. - Về yêu cầu: Trước hết, phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. Thứ hai, việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp phải được tiến hành kịp thời, đồng bộ, toàn diện, thống nhất, hiệu quả và tiết kiệm. Thứ ba, xác định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. 2. Về nội dung triển khai thi hành Hiến pháp: Theo Kế hoạch của Ủy ban thường vụ Quốc hội, có hai nội dung cơ bản là tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp và rà soát, sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp. Trong nội dung này của Kế hoạch, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ rõ nội dung công việc phải làm, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. * Về tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp: có 5 nội dung phải tổ chức thực hiện, cụ thể là: a) Tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp (Hội nghị ngày hôm nay là bước triển khai đầu tiên theo Kế hoạch của Ủy ban thường vụ Quốc hội). Cơ quan chủ trì: Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan phối hợp: Chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương. Hình thức tổ chức: Hội nghị trực tuyến và truyền hình trực tiếp. Thời gian thực hiện: Buổi sáng ngày 08 tháng 01 năm 2014. b) Tổ chức Hội nghị toàn quốc tập huấn báo cáo viên, tuyên truyền viên về Hiến pháp. Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: Bộ Tư pháp, Ban Tuyên giáo Trung ương. Cơ quan phối hợp: Ủy ban pháp luật. Thời gian thực hiện: Từ 16 - 30 tháng 01 năm 2014. c) Tổ chức tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp. Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, các viện nghiên cứu, trường đại học, các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương. Thời gian thực hiện: Năm 2014 và các năm tiếp theo. d) Tổ chức rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung, cập nhật các quy định mới của Hiến pháp để có kế hoạch biên soạn lại sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp. Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, các viện nghiên cứu, trường đại học, học viện và các cơ sở giáo dục và đào tạo khác có liên quan đến nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp và pháp luật. Thời gian thực hiện: Năm 2014 và các năm tiếp theo. đ) Phổ biến, tuyên truyền Hiến pháp phục vụ công tác đối ngoại Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương, Ủy ban đối ngoại, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt Nam, cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình ở trung ương. Thời gian thực hiện: Năm 2014 và các năm tiếp theo. * Về rà soát, sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp. Để bảo đảm hệ thống văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đề ra 03 yêu cầu của việc rà soát văn bản pháp luật, cụ thể là: Một là, rà soát toàn diện, đồng bộ các văn bản pháp luật do các cơ quan ở trung ương và địa phương ban hành để phát hiện những quy định trái Hiến pháp phải bị dừng thi hành, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản pháp luật để cụ thể hóa những quy định mới của Hiến pháp. Hai là, ưu tiên sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các thiết chế khác trong hệ thống chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ba là, lập danh mục, xác định lộ trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại và hợp tác quốc tế. a) Các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các thiết chế trong hệ thống chính trị (bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và chính quyền địa phương, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận): - Các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và bầu cử. Cơ quan chủ trì: Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan thực hiện: Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật, các Ủy ban khác của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội. Cơ quan phối hợp: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ. Thời gian thực hiện: trình Quốc hội thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 9 (tháng 5 năm 2015). - Các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước. Cơ quan chủ trì: Chủ tịch nước. Cơ quan thực hiện: Văn phòng Chủ tịch nước. Cơ quan phối hợp: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan. Thời gian thực hiện: trình Quốc hội thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 10 (tháng 10 năm 2015). - Các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương. Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: do Chính phủ giao. Cơ quan phối hợp: Ủy ban pháp luật và các cơ quan hữu quan. Thời gian thực hiện: trình Quốc hội thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 10 (tháng 10 năm 2015). - Các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Cơ quan chủ trì: Tòa án nhân dân tối cao. Cơ quan phối hợp: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban tư pháp, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan. Thời gian thực hiện: trình Quốc hội thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 9 (tháng 5 năm 2015). - Các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Cơ quan chủ trì: Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cơ quan phối hợp: Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban tư pháp, Ủy ban pháp luật, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan. Thời gian thực hiện: trình Quốc hội thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 9 (tháng 5 năm 2015). - Các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Cơ quan chủ trì: Kiểm toán nhà nước Cơ quan phối hợp: Ủy ban tài chính, ngân sách, Ủy ban kinh tế, Ủy ban pháp luật, Bộ Tài chính và các cơ quan hữu quan. Thời gian thực hiện: trình Quốc hội thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 9 (tháng 5 năm 2015). - Văn bản về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Cơ quan chủ trì: Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận. Cơ quan phối hợp: Ủy ban pháp luật, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan. Thời gian thực hiện: trình Quốc hội thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 7 (tháng 5 năm 2014). b) Các văn bản pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cơ quan chủ trì: Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cơ quan thực hiện: Các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan. Cơ quan phối hợp: Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Thời gian thực hiện: Từ năm 2014 và các năm tiếp theo. c) Các văn bản pháp luật về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: Các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan. Cơ quan phối hợp: Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận. Thời gian thực hiện: Từ năm 2014 và các năm tiếp theo. d) Các văn bản pháp luật về bảo vệ Tổ quốc. Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: do Chính phủ giao. Cơ quan phối hợp: Ủy ban quốc phòng và an ninh, các Ủy ban có liên quan của Quốc hội. Thời gian thực hiện: Từ năm 2014 và các năm tiếp theo. đ) Các văn bản pháp luật về đối ngoại và hợp tác quốc tế. Cơ quan chủ trì: Chính phủ. Cơ quan thực hiện: do Chính phủ giao. Cơ quan phối hợp: Ủy ban đối ngoại, các Ủy ban có liên quan của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thời gian thực hiện: Từ năm 2014 và các năm tiếp theo. Để có cơ sở cho việc triển khai rà soát, sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành kèm theo Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp là Dự kiến tiến độ trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh. 3. Về tổ chức thực hiện: Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức khác ở trung ương và địa phương, căn cứ Nghị quyết số 64/2013/QH13 của Quốc hội và Kế hoạch này, khẩn trương triển khai thi hành Hiến pháp. Để bảo đảm việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp đồng bộ, thống nhất trong cả nước, căn cứ Nghị quyết số 64/2013/QH13 của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo giám sát việc thực hiện Kế hoạch này. Định kỳ hằng năm Chính phủ báo cáo Quốc hội về kết quả triển khai thi hành Hiến pháp. Về kinh phí tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp, theo quy định trong Kế hoạch của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì kinh phí tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp được bảo đảm trong kinh phí hoạt động thường xuyên của cơ quan, tổ chức theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Kính thưa Hội nghị, Việc triển khai thi hành Hiến pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành trong năm 2014 và các năm tiếp theo. Với nhận thức đó, rất mong các đồng chí khẩn trương tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp với tinh thần kịp thời, đồng bộ, toàn diện, thống nhất, hiệu quả và tiết kiệm. Trân trọng cảm ơn các đồng chí. |
|
Những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 26/02/2014
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp, ngày 08-01-2014
NhungnoidungcobancuaHienphap.Uongchuluu.pdf
Ngày 28 tháng 11 năm 2013, với tuyệt đại đa số đại biểu Quôc hội biểu quyết tán thành (486/488, chiếm 97,59%), Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi là Hiến pháp). Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Bản Hiến pháp vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua tạo cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Đây là bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây gọi là Cương lĩnh).
Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992, bản Hiến pháp có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc và toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Sau đây là những nội dung cơ bản của Hiến pháp:
1. Về Lời nói đầu
Lời nói đầu của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở chắt lọc, lựa chọn ý tứ, từ ngữ để nêu bật được một cách ngắn gọn, súc tích tinh thần, nội dung của Hiến pháp, phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc, những mốc lịch sử quan trọng, thành quả cách mạng to lớn mà Nhân dân ta đã đạt được. Ngay từ Lời nói đầu, Hiến pháp đã thể hiện rõ mục tiêu dân chủ và khẳng định chủ quyền của Nhân dân Việt Nam trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Về chế độ chính trị (Chương I)
Chương I của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sửa đổi tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 (Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm 1992 (Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh) vì đây là những nội dung gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. Về cơ bản, Hiến pháp tiếp tục kế thừa, khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992; đồng thời làm rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn đề sau đây:
- Khẳng định Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời (Điều 1).
- Tiếp tục thể hiện xuyên suốt, nhất quán quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” nhưng bổ sung một điểm mới quan trọng đó là: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ (Điều 2).
- Kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân nhưng bổ sung và phát triển nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2) theo tinh thần của Cương lĩnh. Đây là điểm mới quan trọng của Hiến pháp so với các bản Hiến pháp trước đây vì lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận trong Hiến pháp. Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và pháp luật, tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp và tạo cơ sở hiến định cho việc tiếp tục thể chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan.
- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” được ghi nhận và phát triển thành nguyên tắc trong Hiến pháp. Theo đó, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6) mà không chỉ thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như Hiến pháp năm 1992. Nguyên tắc này được thể hiện nhất quán trong toàn bộ Hiến pháp, từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đến các thiết chế trong bộ máy nhà nước cũng như trong việc sửa đổi Hiến pháp.
- Tiếp tục kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp có sự bổ sung và phát triển quan trọng vì đã khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên Nhân dân ta thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng và ghi nhận vào Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước. Đồng thời, Hiến pháp đã bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm của Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Sự bổ sung này thể hiện bản chất tiên phong, cách mạng, quy định rõ trách nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng đối với Nhân dân và chính vì vậy, Nhân dân ta mới giao trọng trách cho Đảng là lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Bên cạnh đó, Hiến pháp không chỉ khẳng định các tổ chức của Đảng mà còn quy định trách nhiệm của đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Hiến pháp tiếp tục khẳng định “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5). Đây cũng là điểm mới quan trọng so với Hiến pháp năm 1992.
- Tiếp tục khẳng định và thể hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong Lời nói đầu, trong quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn (Điều 9, Điều 10) và trong các điều khoản cụ thể khác của Hiến pháp. Cụ thể, Hiến pháp tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân nhưng bổ sung vai trò của Mặt trận trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, giám sát, phản biện xã hội; đồng thời tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 9). Tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 về Công đoàn, Hiến pháp đã bổ sung vai trò, trách nhiệm của Công đoàn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước (Điều 10). Bên cạnh đó, Hiến pháp có sự bổ sung, phát triển quan trọng trong việc ghi nhận vị trí, vai trò của Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội nòng cốt trong việc đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình, cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoản 2 Điều 10).
- Sửa đổi, bổ sung chính sách đối ngoại của nước ta cho phù hợp với tình hình mới; khẳng định nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới (Điều 12).
3. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Chương II của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) thành Chương: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đặt trang trọng sau Chương I - Chế độ chính trị. Đồng thời, chuyển các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác của Hiến pháp năm 1992 về Chương này. Sự thay đổi về tên gọi và bố cục này nhằm khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân sau đây:
- Khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14). Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Bởi vì, Hiến pháp năm 1992 chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân (Điều 50). Hiến pháp đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14). Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà phải “theo quy định của luật”.
- Khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp theo hướng: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15).
- Tiếp tục làm rõ nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa và trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Đồng thời, Hiến pháp sắp xếp lại các điều khoản theo các nhóm quyền để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân, bảo đảm tính khả thi hơn.
- Bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước; thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đó là quyền sống (Điều 19), quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 21), quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36), quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41), quyền xác định dân tộc (Điều 42), quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43),... Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện sự nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người.
- Tiếp tục kế thừa các nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 như nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 44), nghĩa vụ quân sự (Điều 45), nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46); riêng nghĩa vụ nộp thuế được sửa đổi về chủ thể là mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định (Điều 47) mà không chỉ công dân có nghĩa vụ nộp thuế như Hiến pháp năm 1992.
- Về cách thức thể hiện, Hiến pháp có sự đổi mới quan trọng theo hướng Hiến pháp ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền; quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam. Để mọi người, công dân thực hiện các quyền của mình thì Hiến pháp quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành luật hoặc pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện tốt các quyền của mình.
4. Về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III)
Chương III của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở gộp Chương II - Chế độ kinh tế và Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.
4.1. Về kinh tế
Hiến pháp đã làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế (Điều 50, Điều 51), vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (Điều 52), tài sản công thuộc sở hữu toàn dân (Điều 53), việc quản lý và sử dụng đất đai (Điều 54) và bổ sung một điều mới (Điều 55) về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác; cụ thể như sau:
- Về tính chất, mô hình nền kinh tế: Trên cơ sở kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp quy định nước Cộng hòa XHCN Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 50). Quy định như vậy vừa thể hiện được bản chất, vừa thể hiện được động lực và mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội.
- Về các thành phần kinh tế: Hiến pháp quy định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (Điều 51); khẳng định Nhà nước và kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiến pháp không nêu cụ thể tất cả các thành phần kinh tế như Hiến pháp năm 1992. Cách thể hiện này phù hợp với tính chất quy định của đạo luật cơ bản, còn tên gọi và vai trò của từng thành phần kinh tế sẽ được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước. Hiến pháp quy định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật (Điều 51). Lần đầu tiên, vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân được ghi nhận trong Hiến pháp (khoản 3 Điều 51). Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải hoạt động theo cơ chế thị trường, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách tạo ra sự bất bình đẳng
- Về các hình thức sở hữu: Hiến pháp ghi nhận, tôn trọng đa dạng hình thức sở hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân cả về tư liệu sản xuất, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Kế thừa và phát triển quy định về sở hữu toàn dân trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53).
- Về quản lý và sử dụng đất đai: Đất đai là lãnh thổ thiêng liêng của quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Vì vậy, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980 đến nay là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Hiến pháp bổ sung quy định “quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” (khoản 2 Điều 54) để thể hiện thái độ tôn trọng, bảo vệ của Nhà nước đối với quyền sử dụng đất của công dân, vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong thực hiện pháp luật về đất đai. Hiến pháp quy định Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (khoản 3 Điều 54). Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thu hồi đất tràn lan, tùy tiện, Hiến pháp quy định việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng; việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 54). Hiến pháp bổ sung quy định về trưng dụng đất có thời hạn trong một số trường hợp đặc biệt như chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trường hợp phải đối phó với nguy cơ hoặc khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh (khoản 4 Điều 54) để thống nhất với quy định tại Điều 32 của Hiến pháp về trưng dụng tài sản, đồng thời làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất trong Luật đất đai và các luật có liên quan.
- Về tài chính công: Hiến pháp bổ sung một điều quan trọng về chính sách tài chính công (Điều 55) nhằm khẳng định vai trò của tài chính công, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức sử dụng tài chính công và tạo cơ sở hiến định cho việc thiết lập kỷ luật tài chính. Theo đó, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định.
4.2. Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường
Hiến pháp cơ bản kế thừa những nội dung về từng lĩnh vực này trong Hiến pháp năm 1992 nhưng được thể hiện một cách tổng quát, mang tính nguyên tắc, còn những vấn đề và chính sách cụ thể sẽ do luật định (các điều 57, 58, 59, 60, 61, 62 và 63); cụ thể như sau:
- Về chính sách lao động: Hiến pháp quy định Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57).
- Về chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân: Hiến pháp quy định Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình (Điều 58).
- Về chính sách xã hội: Kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục quy định Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước; Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác (Điều 59).
- Về chính sách văn hóa: Hiến pháp tiếp tục quy định Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân (Điều 60).
- Về chính sách giáo dục: Hiến pháp quy định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý; Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề (Điều 61).
- Về chính sách khoa học và công nghệ: Hiến pháp quy định phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ (Điều 62).
- Về chính sách bảo vệ môi trường: Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp quy định Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại (Điều 63).
5. Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)
Trên cơ sở giữ nội dung và bố cục của Chương IV của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp xác định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, phải được thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Hiến pháp khẳng định và làm sâu sắc hơn vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sự gắn kết giữa nhiệm vụ đối ngoại với quốc phòng, an ninh trong việc xây dựng đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện nghĩa vụ quốc tế và góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
6. Về bộ máy nhà nước
Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp định danh và làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng, thẩm quyền của cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung một số thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
6.1. Về Quốc hội (Chương V)
Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, có sửa đổi, bổ sung để phù hợp với chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cụ thể như sau:
Về Quốc hội:
- Sửa đổi, bổ sung Điều 83 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69).
- Quy định rõ, khả thi và phù hợp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (khoản 3 Điều 70) để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm, quyền quyết định của Quốc hội và quyền quản lý, điều hành của Chính phủ.
- Tiếp tục quy định Quốc hội quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; bổ sung thẩm quyền Quốc hội quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ (khoản 4 Điều 70).
- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70) để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân, làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp.
- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (các khoản 2, 6, 7 và 9 Điều 70).
- Tiếp tục quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (khoản 8 Điều 70).
- Quy định rõ và hợp lý hơn các loại điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ của Quốc hội (khoản 14 Điều 70). Đó là những điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Hiến định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định được quy định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật tổ chức Quốc hội (Điều 78). Đồng thời, bổ sung quy định giao Quốc hội quyết định việc thành lập, giải thể Ủy ban của Quốc hội (Điều 76).
Về Ủy ban thường vụ Quốc hội:
- Hiến pháp làm rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội (Điều 73); chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (khoản 5 Điều 74);
- Bổ sung thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 8 Điều 74). Việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương. Do đó, vấn đề này cần được Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân quyết định. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên Hiến pháp giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực, hoạt động động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý;
- Bổ sung thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (khoản 6 Điều 74);
- Bổ sung thẩm quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 12 Điều 74). Bởi vì, vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài nên việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ là cần thiết. Quy định này cũng là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội:
Xuất phát từ tính chất hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, cũng như yêu cầu của công tác cán bộ ở nước ta, Hiến pháp quy định theo hướng Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban; còn Phó Chủ tịch Hội đồng và Ủy viên Hội đồng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban và Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn (Điều 75, Điều 76). Đồng thời, Hiến pháp quy định rõ hơn về quyền yêu cầu cung cấp thông tin và bổ sung quyền yêu cầu giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (Điều 77).
Về đại biểu Quốc hội:
Hiến pháp tiếp tục quy định vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; đồng thời, khẳng định đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu và bổ sung quy định đại biểu Quốc hội có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.
6.2. Về Chủ tịch nước (Chương VI)
Hiến pháp tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Cách thể hiện như vậy phù hợp với bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị của nước ta do Đảng lãnh đạo. Hiến pháp sắp xếp, bổ sung để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; cụ thể như sau:
- Trong mối quan hệ với Quốc hội: Giữ quy định về thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh và đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh như quy định của Hiến pháp năm 1992 (khoản 1 Điều 88);
- Trong mối quan hệ với Chính phủ: Giữ quy định về thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (khoản 2 Điều 88); làm rõ hơn thẩm quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 90)…;
- Trong mối quan hệ với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân: Giữ quy định về thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (khoản 3 Điều 88); làm rõ hơn thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ, thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp (khoản 3 Điều 88)...;
Đồng thời, Hiến pháp bổ sung và làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế hoặc quyết định phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền do Quốc hội quy định (khoản 6 thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (khoản 5 Điều 88). Hiến pháp cũng bổ sung quy định mới về Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch có quyền quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới (Điều 89).
6.3. Về Chính phủ (Chương VII)
Hiến pháp tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94).
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới đã sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ với tính chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất và cơ quan thực hiện quyền hành pháp và bổ sung, điều chỉnh những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Bổ sung thẩm quyền đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành pháp quy định tại Điều 96 của Hiến pháp.
- Phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70 của Hiến pháp.
Về Thủ tướng Chính phủ: Hiến pháp sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ bảo đảm tương thích với nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; làm rõ hơn thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc định hướng, điều hành hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia; bổ sung thẩm quyền quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Điều 98).
Về Bộ trưởng và các thành viên Chính phủ: Hiến pháp làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ. Nhằm tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp quy định các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ (Điều 95). Hiến pháp bổ sung quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” (khoản 2 Điều 99).
6.4. Về Tòa án nhân dân (Chương VIII)
Trên cơ sở tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 102); sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Tòa án (khoản 2 Điều 102) cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp theo hướng không xác định cấp Tòa án cụ thể trong Hiến pháp mà để luật định, làm cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
Đồng thời, Hiến pháp không quy định việc thành lập các tổ chức thích hợp ở cơ sở để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong nhân dân như Điều 127 của Hiến pháp năm 1992 mà để luật quy định. Về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án, theo yêu cầu cải cách tư pháp, Hiến pháp đã sắp xếp và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm (Điều 103).
6.5. Về Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)
Hiến pháp tiếp tục kế thừa và khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như Hiến pháp năm 1992 (khoản 1 Điều 107). Đồng thời, thể chế hóa yêu cầu về đổi mới hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và để phù hợp với mô hình Tòa án nhân dân, Hiến pháp đã sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp (khoản 2 Điều 107).
Hiến pháp bổ sung và làm rõ hơn nguyên tắc “khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát” (khoản 2 Điều 109).
6.6. Về chính quyền địa phương (Chương IX)
Chương IX của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở đổi tên Chương IX (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân) của Hiến pháp năm 1992 và quy định một cách tổng quát về phân chia đơn vị hành chính, còn những vấn đề về tổ chức, thẩm quyền của từng cấp chính quyền địa phương sẽ do luật định. Cụ thể như sau:
- Về đơn vị hành chính: Hiến pháp tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường; đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập (Điều 110).
- Về tổ chức chính quyền địa phương: Hiến pháp quy định khái quát theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định” (Điều 111). Việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương trên cơ sở tổng kết việc thực hiện chủ trương của Đảng thí điểm một số nội dung về tổ chức chính quyền đô thị và kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết 26 của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương: Hiến pháp quy định chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó (Điều 112).
- Về địa vị pháp lý và chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương: Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương (Điều 113). Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên (Điều 114). Hiến pháp cũng sắp xếp lại và làm rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong tình hình mới (Điều 113, Điều 114).
6.7. Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước (Chương X)
Để làm rõ hơn quyền làm chủ của Nhân dân, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp bổ sung 2 thiết chế hiến định độc lập vào Chương X gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
- Về Hội đồng bầu cử quốc gia: Hiến pháp bổ sung thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 117). Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm góp phần thể hiện tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Về Kiểm toán nhà nước: Hiến pháp hiến định địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp để tăng cường vị thế và trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118).
Do các cơ quan này là những thiết chế hiến định mới nên Hiến pháp chỉ quy định một cách tổng quát, còn các vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, số lượng thành viên và nhiệm kỳ của thành viên của các cơ quan này do luật định.
7. Về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp (Chương XI)
Hiến pháp tiếp tục khẳng định Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất; mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp; đồng thời, bổ sung và quy định rõ mọi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý cũng như trách nhiệm của Quốc hội và các cơ quan nhà nước cũng như toàn dân trong việc bảo vệ Hiến pháp (Điều 119).
Về quy trình sửa đổi Hiến pháp, Hiến pháp đã cụ thể hóa các quy định về thẩm quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp, thủ tục soạn thảo Hiến pháp, quy trình thông qua Hiến pháp (Điều 120). Theo đó, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định (Điều 120). Đây là một điểm mới quan trọng, thể hiện chủ quyền của Nhân dân.
8. Về kỹ thuật lập hiến
Để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính ổn định lâu dài, Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc cần thể hiện khái quát, cô đọng, súc tích. Theo đó, những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước được quy định rõ trong Hiến pháp còn quy trình, thủ tục, cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ cần để luật điều chỉnh. Một số chủ trương, chính sách cụ thể về phát triển ngành, lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, thể dục, thể thao) không quy định trong Hiến pháp mà để luật điều chỉnh để bảo đảm tính linh hoạt trong bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách và trong quản lý, điều hành.
9. Về hiệu lực của Hiến pháp và việc thi hành Hiến pháp
Để có căn cứ pháp lý cho việc triển khai thi hành Hiến pháp mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp, trong đó quy định rõ thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày thông qua, thời điểm Hiến pháp mới có hiệu lực là từ ngày 01/01/2014, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp nhằm bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và chấp hành nghiêm trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội tại Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 26/02/2014
Số hiệu:
Mô tả:
BaiphatbieucuachutichQh.pdf
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thưa các vị đại biểu dự Hội nghị, Tôi nhiệt liệt chào mừng và hoan nghênh sự có mặt đông đủ của các đồng chí đại biểu trung ương và các địa phương tại Hội nghị quan trọng này nhằm quán triệt, phổ biến những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6; đồng thời, quán triệt, triển khai Chỉ thị của Ban Bí thư, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thi hành Hiến pháp. Chúng ta đều biết, Hiến pháp là văn kiện chính trị - pháp lý, là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà nước. Hiến pháp phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn dân tộc. Thông qua Hiến pháp, tư tưởng quyền lực thuộc về Nhân dân được khẳng định, Nhân dân trao quyền cho các cơ quan nhà nước, bảo đảm tính hợp pháp của việc thực hiện quyền lực nhà nước. Ở nước ta, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 1946. Trải qua các giai đoạn kháng chiến, kiến quốc, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 lần lượt được Quốc hội các khóa ban hành. Các bản Hiến pháp này đã tạo nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sau 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khóa XIII đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để phù hợp với thời kỳ phát triển mới. Đây là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, thu hút sự quan tâm sâu sắc và nhiệt tình hưởng ứng của đông đảo đồng bào, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và thực sự trở thành đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý sâu rộng trong cả hệ thống chính trị. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các cơ quan, tổ chức hữu quan đã tổ chức chu đáo việc lấy ý kiến nhân dân, tập hợp, tổng hợp đầy đủ, tiếp thu, giải trình nghiêm túc, thuyết phục các góp ý để hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trải qua quá trình làm việc công phu, nghiêm túc, khoa học và thật sự dân chủ, với tinh thần lắng nghe, thấu hiểu, chắt lọc tinh hoa trí tuệ từ các ý kiến đóng góp của Nhân dân, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm và các vị đại biểu Quốc hội đã làm việc tận tụy, hết mình để xây dựng nên bản Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, quyết định. Vào hồi 9 giờ 50 phút ngày 28 tháng 11 năm 2013 tại kỳ họp thứ 6, trong thời khắc thiêng liêng, trang trọng và đầy trọng trách, trước sự theo dõi, giám sát của đồng bào và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Hiến pháp mới đã phản ảnh ý chí và nguyện vọng của Nhân dân ta, trong đó ý Đảng lòng Dân được hòa quyện sâu sắc. Đó là bảo đảm chính trị - pháp lý vững chắc cho toàn thể dân tộc ta, Nhân dân ta và đất nước ta vượt qua những khó khăn, thách thức của thời kỳ mới, vững bước tiến vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. Hiến pháp tạo cơ sở hiến định quan trọng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Những quy định của Hiến pháp thể hiện sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội; thể hiện bao quát, toàn diện hơn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp quy định rõ ràng và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Thưa các vị đại biểu, Hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước ta. Vì vậy, sau khi Hiến pháp được Quốc hội thông qua thì nhiệm vụ quan trọng là tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp, bảo đảm cho từng nội dung của Hiến pháp thực sự đi vào đời sống, tạo sự chuyển biến sâu rộng và tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng, có liên quan trực tiếp và ảnh hưởng sâu rộng đến toàn hệ thống chính trị. Quá trình triển khai thi hành Hiến pháp đòi hỏi sự tham gia tích cực, nghiêm túc của Nhân dân, tất cả các cấp, các ngành, bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Hiến pháp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Theo Nghị quyết của Quốc hội, chúng ta phải khẩn trương tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, kịp thời tuyên truyền, phổ biến sâu rộng tinh thần và nội dung Hiến pháp, giá trị khoa học và thực tiễn của Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về Hiến pháp, ý thức chấp hành và bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội. Tại Hội nghị này, trên cơ sở nghe báo cáo về những nội dung cơ bản của Hiến pháp, Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp và Chỉ thị của Ban Bí thư về việc triển khai thi hành Hiến pháp, đề nghị các vị đại biểu thảo luận thật dân chủ, thẳng thắn và trách nhiệm, đề xuất các biện pháp cụ thể cho việc triển khai thi hành Hiến pháp. Lĩnh hội tinh thần tại Hội nghị này, đề nghị các vị đại biểu quán triệt trong toàn ngành, trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình nội dung của Hiến pháp, Chỉ thị của Ban Bí thư, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội và có kế hoạch thiết thực, phù hợp với từng cấp, ngành, địa phương và các đoàn thể để triển khai thi hành Hiến pháp diễn ra đúng mục đích, yêu cầu, tiến độ và thu được kết quả. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực đóng góp công sức, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị, chúng ta sẽ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp một cách đồng bộ, toàn diện và hiệu quả. Với tinh thần đó, tôi xin khai mạc Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhân dịp năm mới 2014 và đón chào xuân Giáp Ngọ, xin chúc các đồng chí và gia đình sức khỏe, hạnh phúc, chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp. Xin trân trọng cảm ơn! |
|
|
Nghị quyết hướng dẫn thực hiện khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2013
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 26/02/2014
Số hiệu:số 719/2014/UBTVQH13
Mô tả:
NQhuongdanthihanh.pdf
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI Nghị quyết số: 719/2014/UBTVQH13 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NGHỊ QUYẾT
Hướng dẫn thực hiện khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 64/2013/QH13
ngày 28 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Theo đề nghị của Ủy ban pháp luật tại Tờ trình số 2203/TTr-UBPL13 ngày 31 tháng 12 năm 2013,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thi hành kể từ ngày Hiến pháp có hiệu lực.
2. Các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong Hiến pháp. Những công việc đang được cơ quan nhà nước giải quyết theo quy định của Hiến pháp năm 1992 mà thẩm quyền này được giao cho cơ quan nhà nước khác thực hiện theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc chuyển giao được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và theo hướng dẫn của Nghị quyết này.
Điều 2. Về việc phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế
1. Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế; trình Chủ tịch nước phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế quy định tại khoản 6 Điều 88 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Trình tự, thủ tục Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế và trình Chủ tịch nước phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế thực hiện theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
4. Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề nghị của Chính phủ ủy quyền bằng văn bản cho Chính phủ tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước.
Điều 3. Về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Ủy ban đối ngoại của Quốc hội có trách nhiệm thẩm tra Tờ trình của Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Căn cứ vào Tờ trình của Thủ tướng Chính phủ và ý kiến thẩm tra của Ủy ban đối ngoại, Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận và ra nghị quyết phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Căn cứ vào Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 4. Về việc phê chuẩn các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội
1. Chủ tịch Hội đồng dân tộc trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc; Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận và ra nghị quyết phê chuẩn các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc; các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội.
Điều 5. Về việc phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
1. Chủ tịch nước quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân.
2. Trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện theo quy định hiện hành.
Điều 6. Về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân
1. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự và Thẩm phán Tòa án khác đã được bổ nhiệm trước ngày 01 tháng 01 năm 2014 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến hết nhiệm kỳ trừ trường hợp luật mới có quy định khác.
2. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014 được quy định như sau:
a) Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
b) Ủy ban tư pháp của Quốc hội có trách nhiệm thẩm tra Tờ trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
c) Quốc hội thảo luận và ra nghị quyết phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
d) Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác theo đề nghị của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự.
Điều 7. Về việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính
1. Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2. Ủy ban pháp luật của Quốc hội có trách nhiệm thẩm tra Đề án của Chính phủ về việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận và ra nghị quyết thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
4. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân và được thực hiện theo trình tự, thủ tục hiện hành.
Điều 8. Hiệu lực thi hành
Nghị quyết này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
| Hà Nội, ngày 06 tháng 01 năm 2014 TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI CHỦ TỊCH (đã ký) Nguyễn Sinh Hùng |
Nghị quyết ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 26/02/2014
Số hiệu:Số 718/NQ-UBTVQH13
Mô tả:
KehoachthihanhHienphap.pdf
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Nghị quyết số 64/2013/QH13 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Theo đề nghị của Ủy ban pháp luật tại Tờ trình số 2191/TTr-UBPL13 ngày 23 tháng 12 năm 2013 về Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1
Ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 2
Các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức khác ở trung ương và địa phương có trách nhiệm thi hành Nghị quyết này.
Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Thông qua tại Kỳ họp thứ 6)
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 26/02/2014
Số hiệu:Số 64/2013/QH13
Mô tả:
NQ64.2013.pdf
QUỐC HỘI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Nghị quyết số: 64/2013/QH13
NGHỊ QUYẾT
QUY ĐỊNH MỘT SỐ ĐIỂM THI HÀNH
HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013, được công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày thông qua.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.
Điều 2
1. Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội khóa XIII tiếp tục hoạt động cho đến khi Quốc hội khóa XIV họp kỳ thứ nhất.
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước tiếp tục hoạt động cho đến khi Quốc hội khóa XIV bầu ra các cơ quan mới theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiếp tục hoạt động cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong Hiến pháp, kể từ ngày Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực.
Những công việc đang được cơ quan nhà nước giải quyết theo quy định của Hiến pháp năm 1992 mà thẩm quyền này được giao cho cơ quan nhà nước khác thực hiện theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì phải chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó để tiếp tục giải quyết, kể từ ngày Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực.
Điều 3
1. Các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành trước ngày Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực phải được rà soát lại để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và ban hành mới Luật tổ chức chính quyền địa phương phải được trình Quốc hội xem xét, thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 10 (tháng 10 năm 2015).
Điều 4
1. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan hữu quan khác của Nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kịp thời sửa đổi, bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp; điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với quy định của Hiến pháp; triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp.
2. Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại cơ quan, tổ chức và địa phương mình, nâng cao nhận thức về Hiến pháp và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Sinh Hùng
Chỉ thị của Ban Bí thư về triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 26/02/2014
Số hiệu:Số 32-CT/TW
Mô tả:
Chithi32cuaBanbithu.pdf
Ngày 28-11-2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2014.
Hiến pháp là văn kiện đặc biệt quan trọng, phản ánh ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tạo cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ mới. Việc triển khai thi hành Hiến pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
Để việc triển khai thi hành Hiến pháp có hiệu quả, chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất lượng và thống nhất, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau :
1- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, đảng đoàn và ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp, các bộ, ngành ở Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức quán triệt và chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết số 64/2013/QH13 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp của cơ quan, tổ chức mình, trong đó xác định rõ các nội dung, hoạt động cụ thể, lộ trình và kế hoạch ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực được giao phụ trách, các điều kiện bảo đảm cho việc phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực thi Hiến pháp.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng đưa nội dung này vào sinh hoạt của chi bộ, đảng bộ để quán triệt trong toàn thể đảng viên về mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của việc tôn trọng, tuân thủ và chấp hành Hiến pháp cũng như nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình trong việc triển khai thi hành Hiến pháp.
2- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông biên soạn tài liệu, tổ chức bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên về Hiến pháp; chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí ở Trung ương và địa phương có kế hoạch tuyên truyền bằng nhiều hình thức thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi để phổ biến sâu rộng tinh thần và các nội dung cơ bản, những điểm mới được sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp đến các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân và người Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao nhận thức của nhân dân về Hiến pháp, tôn trọng và chấp hành Hiến pháp, ý thức trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Yêu cầu các cấp uỷ đảng, các tổ chức đảng cơ sở và từng đảng viên nghiên cứu, học tập các quy định của Hiến pháp, tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thi hành Hiến pháp, đồng thời gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
3- Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp trong lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân; chỉ đạo chặt chẽ công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta trong quá trình tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp.
4- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ tăng cường phối hợp, tập trung lãnh đạo việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp; chú trọng rà soát, kịp thời sửa đổi, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với các quy định mới của Hiến pháp.
5- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra và tạo điều kiện cần thiết cho cơ quan, tổ chức, đơn vị ở bộ, ngành, địa phương mình tổ chức tốt thi hành Hiến pháp. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong quá trình tổ chức thi hành Hiến pháp.
Định kỳ sáu tháng, một năm, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư tình hình triển khai thi hành Hiến pháp.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Nội chính Trung ương có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư việc thực hiện Chỉ thị.
Chỉ thị này phổ biến đến các chi bộ đảng.
Nơi nhận : - Đảng đoàn Quốc hội, - Ban cán sự đảng Chính phủ, - Các tỉnh uỷ, thành uỷ, - Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, - Các đảng uỷ đơn vị sự nghiệp Trung ương, - Các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, - Lưu Văn phòng Trung ương Đảng. | T/M BAN BÍ THƯ (Đã ký) Lê Hồng Anh |
Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (từ ngày 01/5/2013 đến ngày 30/9/2013)
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 24/10/2013
Số hiệu:
Mô tả:
bc315-UBSDHP.17.10.doc
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cho rằng, Nghị quyết số 38 của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai sâu rộng, nghiêm túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với bố cục và nội dung Dự thảo, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng để hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp (DTSĐHP) đã chỉ đạo Ban biên tập nghiên cứu, tiếp thu nghiêm túc ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội; tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm, làm việc với cấp ủy, chính quyền một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, xin ý kiến của Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, trình xin ý kiến Bộ Chính trị, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI); đồng thời, tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân để chỉnh lý Dự thảo. Dự thảo sau khi tiếp thu, chỉnh lý gồm 11 chương, 120 điều (giảm 4 điều so với Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5). Dự thảo trình Quốc hội lần này đã được chỉnh lý một cách hợp lý, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bám sát Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết của các Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ủy ban DTSĐHP xin trân trọng báo cáo Quốc hội một số nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân và của các vị đại biểu Quốc hội như sau:
1. Về Lời nói đầu
Các ý kiến của nhân dân và của đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với nội dung của Lời nói đầu như Dự thảo
[1]. Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa Lời nói đầu cho khái quát, ngắn gọn, súc tích và chính xác hơn, tránh sự trùng lặp.
Ủy ban DTSĐHP đã tiếp thu ý kiến trên và đã thể hiện lại Lời nói đầu như Dự thảo.
2. Chế độ chính trị (Chương I)
Đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về chế độ chính trị (Chương I) của Dự thảo; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về tên nước (Điều 1): Qua tổng hợp ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội, đại đa số ý kiến tán thành việc giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
[2]. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị lấy lại tên nước là “Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Qua nghiên cứu, xem xét nhiều mặt, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giữ tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết để thể hiện nhất quán mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hơn nữa, tên gọi này đã được Quốc hội lựa chọn ngay sau ngày nước nhà thống nhất, đã thân quen với nhân dân ta, được bạn bè và các nước công nhận, trân trọng. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Về bản chất Nhà nước (Điều 2): Qua thảo luận, nhiều ý kiến tán thành quy định tại Điều 2 của Dự thảo
[3]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị thay cụm từ “nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” bằng cụm từ “nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Ý kiến khác đề nghị chỉ quy định ngắn gọn “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên Hiến pháp cần thể hiện rõ bản chất giai cấp của Nhà nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, tiếp tục quy định: "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức". Quy định như vậy là phù hợp với Cương lĩnh và các văn kiện chính trị khác của Đảng khi xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta.
- Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4): Qua tổng hợp ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho thấy, tuyệt đại đa số ý kiến nhân dân và các đại biểu Quốc hội tán thành việc khẳng định trong Hiến pháp vai trò lãnh đạo của Đảng và những nội dung thể hiện tại Điều 4 của Dự thảo
[4]. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị nên viết gọn lại theo hướng chỉ ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, còn bản chất của Đảng, trách nhiệm của Đảng thì không quy định trong Hiến pháp mà quy định trong Điều lệ Đảng; một số ý kiến đề nghị cần khẳng định rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội; đề nghị quy định Đảng phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, quy định về Đảng trong Dự thảo Hiến pháp lần này đã thể hiện đầy đủ những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; bản chất giai cấp của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc; trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự tiếp tục kế thừa các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)); phù hợp với truyền thống lịch sử của cách mạng Việt Nam, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP xin đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Điều 4 của Dự thảo.
- Về hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6): Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về các hình thức dân chủ trực tiếp để bảo đảm tính cân đối trong quy định về hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tuy nhiên, nhiều ý kiến khác cho rằng, Hiến pháp chỉ nên quy định khái quát về hình thức dân chủ trực tiếp còn những vấn đề cụ thể để thực hiện dân chủ trực tiếp sẽ do luật quy định.
Tiếp thu ý kiến này của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý lại Điều này như sau: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước.”
- Về nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 8): Nhiều ý kiến đồng ý với quy định tại Điều này, song có ý kiến đề nghị không quy định nguyên tắc tập trung dân chủ trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như đã thể hiện tại Điều 8 của Dự thảo.
- Về Công đoàn Việt Nam (Điều 10): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 là không quy định một điều riêng về Công đoàn Việt Nam mà chuyển nội dung về Công đoàn tại Điều 10 vào quy định cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác tại Điều 9
[5].
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 tiếp tục quy định về Công đoàn tại Điều 10 của Dự thảo để đề cao vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam và vị trí, vai trò đặc biệt của Công đoàn ở nước ta
[6].
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp tục giữ Điều 10 trong Dự thảo như các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 để khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong lịch sử cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, Dự thảo Hiến pháp cũng đã bổ sung quy định về các tổ chức chính trị - xã hội khác tại khoản 2 Điều 9.
3. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Qua thảo luận, các ý kiến phát biểu cơ bản tán thành với nội dung quy định về vị trí, bố cục của Chương II
[7] và cho rằng, quy định như vậy đã thể hiện rõ tầm quan trọng của vấn đề quyền con người, quyền công dân và quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Dự thảo có nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Quy định về quyền con người và quyền công dân tại Chương này là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và là kết quả, thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Một số ý kiến đề nghị chỉnh lý một số từ ngữ và điều khoản cụ thể.
Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật tại các điều 14, 15, 19, 21, 22, 24, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 37,…bảo đảm sự nhất quán, chính xác và hợp lý hơn.
- Về các quy định về quyền con người, quyền công dân (Điều 14): Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại Điều 14, bởi vì quy định như trong Điều 14 các quyền con người, quyền công dân “được quy định trong Hiến pháp và luật” là chưa đầy đủ, chưa phù hợp vì còn có nhiều quyền tuy không được quy định trong Hiến pháp và luật nhưng vẫn được tôn trọng, bảo đảm.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lại quy định tại Điều này như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
- Về mức độ giới hạn quyền con người, quyền công dân (Điều 14): Có ý kiến tán thành với quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” như trong Dự thảo trình Quốc hội. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, quyền con người, quyền công dân không thể bị hạn chế một cách tùy tiện mà phải theo quy định của luật; cần quy định cơ quan nào có thẩm quyền giới hạn và xác định những quyền nào là quyền không thể bị giới hạn. Có ý kiến cho rằng quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân “trong trường hợp khẩn cấp” là không chính xác và chưa đầy đủ, do đó, đề nghị bỏ cụm từ này. Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “trật tự công cộng” bằng cụm từ “trật tự an toàn xã hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Do vậy, việc hạn chế các quyền này phải được quy định chặt chẽ trong luật để tránh nguy cơ tùy tiện, lạm dụng. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên cũng yêu cầu quy định chặt chẽ vấn đề này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lý lại khoản 2 Điều 14 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
- Về chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách của Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước phát triển kinh tế nhằm thu hút mạnh nguồn lực đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đồng thời, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài yên tâm đầu tư về nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài (…) giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước” đã thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong đó đã bao hàm nội dung thu hút đầu tư về trong nước, do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này theo hướng khái quát như đã thể hiện trong Dự thảo.
- Về bình đẳng và bình đẳng giới (Điều 26): Có ý kiến đề nghị sửa lại Điều 26 theo hướng “Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, về chính trị, dân sự, kinh tế - xã hội và gia đình”, đồng thời, bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới" vì việc tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn cao, liên quan tới mục tiêu, chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới và đã được quy định trong Luật bình đẳng giới. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và chỉnh lý lại Điều 26 như sau:
“1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
- Về nguyên tắc “suy đoán vô tội” (Điều 31): Có ý kiến đề nghị cân nhắc cách thể hiện quy định tại khoản 1 Điều này; thay từ “không có tội” bằng cụm từ “chưa có tội”; bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản 1 Điều 31 quy định nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự là “suy đoán vô tội”. Quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội” sẽ khẳng định nguyên tắc này một cách chặt chẽ và rõ ràng. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ cụm từ “không có tội”, đồng thời, tiếp thu ý kiến bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, vấn đề này sẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 31 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thể hiện lại như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
- Về chính sách đối với người cao tuổi (Điều 37): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách đối với người cao tuổi.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho bổ sung vào khoản 3 Điều 37 nội dung: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
- Về từ ngữ cụ thể: Có ý kiến cho rằng, Chương II dùng quá nhiều từ “nghiêm trị”, “nghiêm cấm”, “có thể”, “không thể”, đề nghị cân nhắc bỏ các cụm từ này; đồng thời cũng cần rà soát để sử dụng cho thống nhất cụm từ “theo quy định của pháp luật” hay “theo quy định của luật” hay “do luật định” hoặc không quy định những cụm từ này trong Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý lại việc sử dụng các từ, cụm từ này cho chính xác và thống nhất trong Dự thảo.
4. Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III)
Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III) của Dự thảo
[8]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về các thành phần kinh tế (khoản 1 Điều 51): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 3 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Phương án 1 nêu rõ các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế như đã ghi trong Cương lĩnh
[9].
Loại ý kiến thứ hai tán thành với Phương án 2 quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế nhưng cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
[10].
Loại ý kiến thứ ba tán thành với Phương án 3 quy định khái quát mà không quy định cụ thể vai trò của thành phần kinh tế để vừa thể hiện được nội dung Cương lĩnh, vừa phù hợp với tính chất và cách thể hiện của Hiến pháp
[11].
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quy định về các thành phần kinh tế trong cả 3 phương án trình Quốc hội tuy cách thể hiện có khác nhau nhưng đều trên tinh thần và nội dung của Cương lĩnh. Nếu quy định đầy đủ các thành phần kinh tế như phương án 1 thì phù hợp với cách thể hiện trong Cương lĩnh nhưng sẽ không bảo đảm tính khái quát và ổn định lâu dài của Hiến pháp do nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Nếu không liệt kê các thành phần kinh tế như Phương án 3 thì tuy bảo đảm tính khái quát, ổn định của Hiến pháp nhưng lại không thể hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thì vai trò định hướng, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước và kinh tế nhà nước là rất quan trọng. Quy định như vậy để thể hiện hạ tầng kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Hiến pháp cần hiến định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội quy định về nội dung này tại khoản 1 Điều 51 như sau: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
- Về quy định bảo đảm của Nhà nước trong việc bảo hộ tài sản của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 51): Có ý kiến đề nghị bỏ quy định “Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” tại khoản 3 Điều 51.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, mặc dù các quy định liên quan đến quyền sở hữu, tự do kinh doanh đã được thể hiện trong Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” nhưng để khẳng định cụ thể hơn sự bảo đảm của Nhà nước đối với các tài sản hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài (như Điều 25 của Hiến pháp hiện hành) thì quy định về bảo hộ tài sản ở Chương về kinh tế là cần thiết. Quy định như vậy nhằm hiến định chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đối với tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để nhà đầu tư yên tâm sản xuất, kinh doanh, ổn định môi trường đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
- Về thu hồi đất (khoản 3 Điều 54): Qua tổng hợp ý kiến về vấn đề này, có các loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định về thu hồi đất tại khoản 3 Điều 54 của Dự thảo trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội
[12];
Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉ thu hồi đất đối với 3 trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp để thực hiện “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Bởi vì, bản thân các dự án phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều trường hợp cũng đã được thể hiện khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Quy định như vậy cũng tránh được việc lạm dụng trong thu hồi đất;
Loại ý kiến thứ ba đề nghị không quy định về thu hồi đất trong Hiến pháp mà để Luật đất đai quy định thì bảo đảm tính linh hoạt hơn trong quản lý đất đai.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quyền sử dụng đất là quyền quan trọng của người dân nên Hiến pháp cần phải quy định chặt chẽ những trường hợp thu hồi. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho Luật đất đai quy định nhằm tránh việc lạm dụng để thu hồi đất tràn lan, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết phải thu hồi đất vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn trực tiếp với lợi ích của người sử dụng đất và doanh nghiệp nên cần phải quy định chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch và có bồi thường. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho phép chỉnh lý khoản 3 Điều 54 như sau: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
- Về trưng dụng đất (khoản 4 Điều 54): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc Nhà nước trưng dụng đất để đáp ứng yêu cầu trưng dụng đất có thời hạn trong một số trường hợp đặc biệt như chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trường hợp phải đối phó với nguy cơ hoặc khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
Để thống nhất với quy định tại Điều 32 của Dự thảo Hiến pháp, đồng thời làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất trong Luật đất đai và các luật có liên quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung quy định: “Việc Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp đặc biệt do luật định” vào khoản 4 Điều 54 của Dự thảo.
- Về bình đẳng trong chính sách xã hội (Điều 59): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về sự bình đẳng trong việc hưởng thụ chính sách xã hội tại Điều 59.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và bổ sung quy định về trách nhiệm “tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội” vào khoản 2 Điều 59.
- Về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục (Điều 61): Có ý kiến cho rằng quy định của Dự thảo chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục và đào tạo.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên để thể hiện lại các quy định về giáo dục cho rõ ràng, cụ thể hơn, khẳng định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển giáo dục và đào tạo như trong Điều 61 của Dự thảo.
5. Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương IV của Dự thảo
[13]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng (Điều 65) và bản chất “cách mạng” (Điều 66): Các ý kiến cơ bản tán thành với quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam như Dự thảo. Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 45 của Hiến pháp 1992 mà không bổ sung quy định này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, lực lượng vũ trang của nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và rèn luyện. Lịch sử cách mạng của dân tộc ta đã chứng minh bản chất cách mạng và sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, để khẳng định bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, cần quy định rõ trong Hiến pháp nghĩa vụ trung thành của lực lượng vũ trang với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước là cần thiết. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Dự thảo.
- Về vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng (Điều 66): Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 66 nội dung Quân đội nhân dân “làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và chỉnh lý lại Điều 66 như sau: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp.”
6. Về Quốc hội (Chương V)
Qua tổng hợp, đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về Quốc hội (Chương V) của Dự thảo
[14]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách (khoản 4 Điều 70): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 của Dự thảo, Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước
[15];
Loại ý kiến thứ hai tán thành với phương án 2 của Dự thảo trình Quốc hội về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước
[16].
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất. Vì vậy, việc giao thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước cho Quốc hội là phù hợp với vị trí, vai trò và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Việc giao thẩm quyền này cho Quốc hội cũng không hạn chế quyền tự chủ của địa phương trong vấn đề ngân sách. Trên thực tế, việc dự toán và quyết định ngân sách cũng đang thực hiện theo cơ chế này và không có gì vướng mắc. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này và thể hiện lại khoản 4 Điều 70 như sau: “….quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước”.
- Về thẩm quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70): Có ý kiến đề nghị không quy định thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì cho rằng số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là khá lớn, việc giao Quốc hội phê chuẩn các chức danh này là khó khả thi và không phù hợp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Hiện tại, Tòa án nhân dân đang được cải cách theo yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, thẩm quyền, tổ chức bộ máy và số lượng Thẩm phán của Tòa án nhân tối cao sẽ được cải cách theo hướng gọn nhẹ, bảo đảm Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, việc trao thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân là cần thiết, phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp.
- Về quyết định việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (khoản 8 Điều 70): Qua thảo luận, có ý kiến đề nghị giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành: “Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” mà không bổ sung quy định việc lấy phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đã được Quốc hội khóa XIII tiến hành trên cơ sở thực hiện yêu cầu về đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI). Việc lấy phiếu tín nhiệm cũng là một bước thăm dò trước khi quyết định bỏ phiếu tín nhiệm đối với nhưng người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ 5 vừa qua theo Nghị quyết số 35 của Quốc hội được đông đảo nhân dân đồng tình. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm mới được triển khai lần đầu và còn một số vấn đề cần tiếp tục tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm nên đề nghị chưa quy định vấn đề này trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ủy ban DTSĐHP tán thành với ý kiến này và thấy rằng, việc không quy định lấy phiếu tín nhiệm trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng không ảnh hưởng đến thẩm quyền Quốc hội quyết định lấy phiếu tín nhiệm đánh giá cán bộ để chuẩn bị cho việc bỏ phiếu tín nhiệm.
- Về trưng cầu ý dân (khoản 15 Điều 70): Có ý kiến đề nghị quy định rõ nội dung và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trưng cầu ý dân là một nội dung quan trọng, thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Do vậy, quy định về trưng cầu ý dân cần phải được tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, việc quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của mỗi giai đoạn phát triển đất nước. Vì vậy, để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp, không cần thiết quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp mà để luật quy định.
- Về thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân (khoản 6 Điều 74): Có ý kiến đề nghị bỏ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân để tránh trùng lặp với thẩm quyền của Chính phủ. Có ý kiến đề nghị giao thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật; Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Vì vậy, việc giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội trách nhiệm giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân là hợp lý. Quy định này không chồng chéo, mâu thuẫn với quy định trách nhiệm của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Về đề nghị Quốc hội có thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Hiến pháp hiện hành giao Ủy ban thường vụ Quốc hội thẩm quyền giám sát Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trên cơ sở giám sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng thì Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc giải tán Hội đồng nhân dân đó. Quy định này là phù hợp với điều kiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta và vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vấn đề này và cho giữ quy định như Dự thảo.
- Về việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh (khoản 7 Điều 74): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh theo đề nghị của Chính phủ
[17].
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, thẩm quyền này thuộc Chính phủ
[18].
Loại ý kiến thứ ba đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, tách đơn vị hành chính cấp huyện, còn cấp xã giao Chính phủ quyết định hoặc giao thẩm quyền này cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Do đó, vấn đề này cần được Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân quyết định. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên phương án giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực, hoạt động động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu, chỉnh lý khoản 7 Điều 74 như sau: “Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
7. Về Chủ tịch nước (Chương VI)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chủ tịch nước (Chương VI) của Dự thảo
[19]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về thẩm quyền của Chủ tịch nước (Điều 86): Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước; nghiên cứu để quy định rõ đầy đủ, phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch nước về mối quan hệ của Chủ tịch nước đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo quy định tại Điều 86 thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; các nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện vị trí, vai trò của Chủ tịch nước đã được quy định tại các điều 88, 89, 90 và 91 của Dự thảo. Các quy định này nhằm bảo đảm để Chủ tịch nước thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình, qua đó, phản ánh mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Về thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng (Điều 88): Có ý kiến đề nghị giữ thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng như hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng và tương đương gắn với vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như Dự thảo.
8. Về Chính phủ (Chương VII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chính phủ (Chương VII) của Dự thảo
[20]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về vị trí, tính chất của Chính phủ (Điều 94): Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội đều cơ bản tán thành với quy định về vị trí, tính chất của Chính phủ
[21]. Có ý kiến đề nghị không quy định Chính phủ là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” nhằm tạo điều kiện để Chính phủ chủ động trong quản lý, điều hành nền hành chính quốc gia, mặt khác trong chức năng “hành pháp” và “hành chính” đã thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ chấp hành Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội là phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta đều quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và trên thực tế, quy định này không cản trở hoạt động của Chính phủ mà ngược lại làm cho Chính phủ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặt khác, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp nên việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội không ảnh hưởng đến tính chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong quản lý, điều hành. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như trong Dự thảo.
- Về nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ và các thành viên Chính phủ (các điều 95, 96, 98, 99)
Qua thảo luận nhiều ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo Hiến pháp, một số ý kiến đề nghị cần rà soát chỉnh lý lại các điều khoản trong Chương này để làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và nâng cao trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ; sắp xếp lại các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp; làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, sắp xếp lại các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như trong Dự thảo (Điều 96, Điều 98). Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số điều khoản khác trong Chương này để làm rõ hơn trách nhiệm cá nhân của thành viên Chính phủ trước Thủ tướng, cụ thể là đã bổ sung vào Dự thảo quy định Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 95); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 99)…
9. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chính phủ (Chương VIII) của Dự thảo
[22]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về bố cục của Chương: Có ý kiến đề nghị tách Chương Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thành 2 chương. Có ý kiến đề nghị đưa Viện kiểm sát về Chương X quy định về các cơ quan độc lập.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động của Viện kiểm sát gắn liền chủ yếu với hoạt động của Tòa án. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân luôn đặt trong một chương. Hiến pháp một số nước có quy định về Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát cũng được bố cục trong chương với Tòa án (Nga, Trung Quốc...). Hơn nữa, tuy cùng chương, nhưng quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân được phân biệt rõ ở các điều khác nhau. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo.
- Về nguyên tắc tổ chức Tòa án nhân dân (Điều 102): Có ý kiến đề nghị quy định tổ chức Tòa án theo nguyên tắc kết hợp theo thẩm quyền và đơn vị hành chính.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hiện nay chúng ta đang tiến hành cải cách hệ thống Tòa án theo thẩm quyền và không tổ chức Tòa án theo đơn vị hành chính. Do vậy, việc kết hợp tổ chức theo nguyên tắc kết hợp thẩm quyền và đơn vị hành chính là không phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung như trong Dự thảo.
- Về nguyên tắc tranh tụng (Điều 103): Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về nguyên tắc tranh tụng vì đây là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, Hiến pháp không nên quy định nội dung này; mặt khác, đối với các vụ án đơn giản, xét xử theo thủ tục rút gọn thì việc tranh tụng là rất khó khăn, không cần thiết, gây tốn kém. Có ý kiến đề nghị bổ sung “nguyên tắc thẩm vấn” cùng với nguyên tắc tranh tụng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tranh tụng trong xét xử là một nguyên tắc đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm phán quyết của Tòa án được công bằng, bảo vệ công lý. Nghị quyết số 49 xác định thực hiện nguyên tắc tranh tụng là một trong những chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta. Hơn nữa, nguyên tắc này cũng thể hiện bản chất dân chủ của hoạt động xét xử của Tòa án và là cơ sở hiến định để đổi mới pháp luật về tố tụng nên cần phải quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định về nội dung này như trong Dự thảo.
- Về đề nghị bổ sung quy định về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Điều 104): Có ý kiến đề nghị Hiến định địa vị pháp lý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vào Hiến pháp, vì Hội đồng Thẩm phán là cơ quan xét xử cao nhất và thực hiện giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hội đồng Thẩm phán là thiết chế giúp Tòa án nhân dân tối cao thực hiện nhiệm vụ này. Mặt khác, để đổi mới Tòa án nhân dân tối cao theo chủ trương cải cách tư pháp thì Hiến pháp không nên quy định cụ thể về Hội đồng này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không quy định về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao trong Hiến pháp mà nên để quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
- Về đề nghị bổ sung thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao (Điều 104): Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh, ban hành án lệ cho Tòa án nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giải thích luật, pháp lệnh là hoạt động có quan hệ với hoạt động lập pháp. Hiến pháp hiện hành giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội - cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
Về đề nghị bổ sung thẩm quyền ban hành án lệ, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trên cơ sở các quy định của hệ thống pháp luật nước ta, Tòa án nhân dân tối cao đã và đang thực hiện chức năng tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Việc thực hiện chức năng này đã mang lại hiệu quả thiết thực cho các Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, việc ban hành và áp dụng án lệ đối với nước ta là vấn đề mới và đang còn có ý kiến khác nhau nên chưa thể quy định trong Hiến pháp mà cần được tiếp tục nghiên cứu và xem xét khi sửa đổi, bổ sung luật.
- Về quy định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính (kiểm sát chung) và thực hiện các nhiệm vụ khác do luật định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân để cơ quan này tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hơn nữa, hiện nay trong bộ máy nhà nước ta đã có nhiều cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và việc xử lý vi phạm hành chính. Nếu quy định chức năng kiểm sát chung cho Viện kiểm sát thì sẽ gây chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũng không nên quy định “thực hiện những nhiệm vụ khác” vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, chỉ quy định những vấn đề lớn, cơ bản còn các vấn đề khác để luật định. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định này vào Dự thảo.
- Về sự độc lập của Kiểm sát viên (Điều 109): Có ý kiến đề nghị cần quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì Kiểm sát viên phải có sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động thực hành quyền công tố và thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính vì thế, để thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này như trong Dự thảo.
10. Về chính quyền địa phương (Chương IX)
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Ủy ban DTSĐHP đã trình Quốc hội 2 phương án về chính quyền địa phương. Theo đó, Phương án 1 quy định một cách khái quát để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới căn bản mô hình tổ chức chính quyền địa phương; Phương án 2 giữ các quy định hiện hành của Hiến pháp năm 1992 về các đơn vị hành chính và mô hình chính quyền địa phương của nước ta.
Qua tổng hợp ý kiến, đa số ý kiến nhân dân, đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan tán thành với sự cần thiết phải đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Tuy nhiên, theo ý kiến của các đại biểu Quốc hội thì cả 2 phương án mà Dự thảo đưa ra đều chưa phù hợp với yêu cầu đó
[23]. Phương án 1 thì chưa làm rõ được mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; còn Phương án 2 thì không đáp ứng được yêu cầu đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo nghị quyết của Đảng và thực tiễn đặt ra.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về chính quyền địa phương trong Hiến pháp là vấn đề rất quan trọng, cần cân nhắc kỹ cả về lý luận và thực tiễn. Hiện tại, chúng ta đang trong quá trình thực hiện thí điểm mà chưa có sự tổng kết, đánh giá việc không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và bước đầu thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số địa phương. Vì vậy, sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã tổ chức một số hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học với sự tham gia của các đại biểu Quốc hội, đại diện lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các chuyên gia, các nhà khoa học để thảo luận, tham vấn ý kiến về chế định chính quyền địa phương trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý chế định chính quyền địa phương theo hướng sau đây:
- Về đơn vị hành chính (Điều 110): Dự thảo tiếp tục giữ quy định về các đơn vị hành chính tại Điều 118 của Hiến pháp năm 1992 nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ và ổn định trong cả nước; bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt như Dự thảo.
- Về tổ chức chính quyền địa phương (Điều 111): Trên cơ sở bám sát các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là “phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo” và Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa XI là “nghiên cứu về tổ chức chính quyền địa phương (có phân biệt tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn),… tổ chức chính quyền phù hợp với các địa phương có tính đặc thù, như đặc khu kinh tế, hải đảo”; đồng thời tham khảo kinh nghiệm thực tiễn thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và kết quả nghiên cứu các đề án về mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang được xây dựng ở một số địa phương,... Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho quy định về tổ chức chính quyền địa phương tại Điều 111 như sau:
“1. Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
2. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định.”
- Về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương (Điều 112): Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã xác định những nguyên tắc cơ bản về phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương sao cho vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Theo đó, Hiến pháp quy định nguyên tắc để làm cơ sở cho luật định những công việc thuộc thẩm quyền của trung ương, do trung ương đảm nhiệm (như quốc phòng, an ninh, ngoại giao,…), những công việc thuộc thẩm quyền của địa phương và những công việc thuộc thẩm quyền của cả trung ương và địa phương nhưng có cơ chế kiểm soát rõ ràng và bảo đảm một việc chỉ do một cơ quan hoặc cấp chính quyền chịu trách nhiệm chính.
- Về tính chất của Hội đồng nhân dân (Điều 113): Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng việc quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương xuất phát từ việc Hội đồng nhân dân là cơ quan do nhân dân ở địa phương bầu ra, đại diện cho nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân; Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Hơn nữa, thực tiễn thi hành các Hiến pháp trước đây cho thấy quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đã khẳng định đúng vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân. Quy định này không những không làm phân tán quyền lực mà còn góp phần làm cho quyền lực nhà nước ở nước ta được bảo đảm thống nhất;
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân, vì ở cấp địa phương, chính quyền không thể tổ chức theo mối quan hệ ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như ở cấp trung ương. Mặt khác, quyền lực nhà nước là thống nhất, mỗi cấp chính quyền không thể là một cấp quyền lực khác nhau, điều này dẫn đến phân tán quyền lực. Hơn nữa, chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, nếu chỉ quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước sẽ không thấy được vai trò của Ủy ban nhân dân và mối quan hệ biện chứng giữa 2 thiết chế này.
Ủy ban DTSĐHP tán thành loại ý kiến thứ nhất và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân như quy định của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
- Về Ủy ban nhân dân (Điều 114): Dự thảo xác định Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hoặc do Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
11. Về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X)
- Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120 Dự thảo trình Quốc hội): Dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Theo đó, Phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp; Phương án 2 đề nghị cùng với việc tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, Dự thảo đề xuất việc thành lập Hội đồng Hiến pháp với chức năng chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.
Qua thảo luận, ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan và các chuyên gia cho rằng, việc bảo vệ Hiến pháp là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, phù hợp với nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được xác định trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, XI. Trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhiều ý kiến nhân dân, của một số cơ quan, tổ chức hữu quan và ý kiến của nhiều chuyên gia tán thành về quy định Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo nhưng cần cân nhắc một số nội dung cụ thể về thẩm quyền, về tổ chức và hoạt động của cơ quan này, nhất là mối quan hệ giữa Hội đồng Hiến pháp với các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Tại kỳ họp thứ 5, kết quả xin ý kiến đại biểu Quốc hội bằng phiếu thì bên cạnh các ý kiến tán thành với phương án 2 thành lập Hội đồng Hiến pháp
[24], đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành mà không thành lập Hội đồng Hiến pháp
[25].
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là vấn đề mới, lại đang còn có nhiều ý kiến khác nhau, nên trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, trong đó, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nhất là Ủy ban pháp luật của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp là phù hợp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định Hội đồng Hiến pháp vào Dự thảo.
- Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 117): Qua thảo luận, có ý kiến tán thành việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia như Dự thảo. Ý kiến khác không nhất trí với quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia vì cơ quan này hoạt động không thường xuyên, đề nghị quy định trong Luật bầu cử.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc bổ sung chế định Hội đồng bầu cử quốc gia là nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”; “nghiên cứu, bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia”.
Với tinh thần đó, Ủy ban DTSĐHP đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu, hoàn thiện quy định về thiết chế này như Dự thảo và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia trong Dự thảo. Các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.
- Về Kiểm toán Nhà nước (Điều 118): Qua thảo luận, các ý kiến cơ bản tán thành với quy định của Dự thảo. Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước; nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán, chức năng nhiệm vụ của Kiểm toán viên…
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước hiện hành, đồng thời cũng phù hợp với tính chất hoạt động của Kiểm toán Nhà nước theo thông lệ, luật pháp quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Hiến pháp cũng chỉ nên ghi nhận địa vị pháp lý, nguyên tắc hoạt động của cơ quan Kiểm toán trong Hiến pháp để làm căn cứ cho việc quy định các vấn đề cụ thể trong luật. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo.
12. Về hiệu lực của Hiến pháp và việc ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp
Nhiều ý kiến đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp để quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp và các điều khoản chuyển tiếp khi Hiến pháp có hiệu lực. Ý kiến khác đề nghị quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp ngay trong Hiến pháp.
Qua nghiên cứu, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992) đều không quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp trong bản Hiến pháp; cùng với việc thông qua Hiến pháp, Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp, trong đó xác định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không quy định thời điểm có hiệu lực trong Hiến pháp mà Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp với nội dung cụ thể như: hiệu lực Hiến pháp, một số vấn đề chuyển tiếp và việc tổ chức thi hành Hiến pháp (xin xem Tờ trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự thảo Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013)).
Ngoài các vấn đề đã báo cáo, giải trình trên đây, căn cứ vào ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, tiếp thu, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến các quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
*
* *
Trên đây là Báo cáo những nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Như trên; - Lưu: HC, UBDTSĐHP - e-PAS: 79083 | TM. ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 CHỦ TỊCH (đã ký) Nguyễn Sinh Hùng |
[1] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 262/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Lời nói đầu của Dự thảo trình Quốc hội.
[2] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 316/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 1 của Dự thảo trình Quốc hội.
[3] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 313/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 2 của Dự thảo trình Quốc hội.
[4] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 328/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 4 của Dự thảo trình Quốc hội.
[5] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 175/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
[6] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 153/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
[7] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 219/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương II của Dự thảo trình Quốc hội.
[8] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 245/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương III của Dự thảo trình Quốc hội.
[9] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 88/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[10] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 145/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[11] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 158/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 3 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[12] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 242/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 58 của Dự thảo trình Quốc hội.
[13] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 259/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương IV của Dự thảo trình Quốc hội.
[14] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 241/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương V của Dự thảo trình Quốc hội.
[15] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 196/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
[16] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 168/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
[17] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 213/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
[18] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
[19] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 282/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VI của Dự thảo trình Quốc hội.
[20] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 277/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
[21] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 319/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
[22] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 278/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VIII của Dự thảo trình Quốc hội.
[23] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 155/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1; 146/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 và 34/357 đại biểu Quốc hội không tán thành với cả 2 phương án.
[24] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 2 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
[25] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 216/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến của nhân dân và của các vị ĐBQH
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 24/10/2013
Số hiệu:315/BC-UBDTSĐHP
Mô tả:
bc315-UBSDHP.17.10.doc
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cho rằng, Nghị quyết số 38 của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai sâu rộng, nghiêm túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với bố cục và nội dung Dự thảo, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng để hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp (DTSĐHP) đã chỉ đạo Ban biên tập nghiên cứu, tiếp thu nghiêm túc ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội; tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm, làm việc với cấp ủy, chính quyền một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, xin ý kiến của Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, trình xin ý kiến Bộ Chính trị, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI); đồng thời, tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân để chỉnh lý Dự thảo. Dự thảo sau khi tiếp thu, chỉnh lý gồm 11 chương, 120 điều (giảm 4 điều so với Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5). Dự thảo trình Quốc hội lần này đã được chỉnh lý một cách hợp lý, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bám sát Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết của các Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ủy ban DTSĐHP xin trân trọng báo cáo Quốc hội một số nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân và của các vị đại biểu Quốc hội như sau: 1. Về Lời nói đầu
Các ý kiến của nhân dân và của đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với nội dung của Lời nói đầu như Dự thảo[1]. Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa Lời nói đầu cho khái quát, ngắn gọn, súc tích và chính xác hơn, tránh sự trùng lặp.
Ủy ban DTSĐHP đã tiếp thu ý kiến trên và đã thể hiện lại Lời nói đầu như Dự thảo.
2. Chế độ chính trị (Chương I)
Đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về chế độ chính trị (Chương I) của Dự thảo; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về tên nước (Điều 1): Qua tổng hợp ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội, đại đa số ý kiến tán thành việc giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[2]. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị lấy lại tên nước là “Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Qua nghiên cứu, xem xét nhiều mặt, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giữ tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết để thể hiện nhất quán mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hơn nữa, tên gọi này đã được Quốc hội lựa chọn ngay sau ngày nước nhà thống nhất, đã thân quen với nhân dân ta, được bạn bè và các nước công nhận, trân trọng. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Về bản chất Nhà nước (Điều 2): Qua thảo luận, nhiều ý kiến tán thành quy định tại Điều 2 của Dự thảo[3]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị thay cụm từ “nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” bằng cụm từ “nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Ý kiến khác đề nghị chỉ quy định ngắn gọn “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên Hiến pháp cần thể hiện rõ bản chất giai cấp của Nhà nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, tiếp tục quy định: "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức". Quy định như vậy là phù hợp với Cương lĩnh và các văn kiện chính trị khác của Đảng khi xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta.
- Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4): Qua tổng hợp ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho thấy, tuyệt đại đa số ý kiến nhân dân và các đại biểu Quốc hội tán thành việc khẳng định trong Hiến pháp vai trò lãnh đạo của Đảng và những nội dung thể hiện tại Điều 4 của Dự thảo[4]. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị nên viết gọn lại theo hướng chỉ ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, còn bản chất của Đảng, trách nhiệm của Đảng thì không quy định trong Hiến pháp mà quy định trong Điều lệ Đảng; một số ý kiến đề nghị cần khẳng định rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội; đề nghị quy định Đảng phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, quy định về Đảng trong Dự thảo Hiến pháp lần này đã thể hiện đầy đủ những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; bản chất giai cấp của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc; trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự tiếp tục kế thừa các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)); phù hợp với truyền thống lịch sử của cách mạng Việt Nam, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP xin đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Điều 4 của Dự thảo.
- Về hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6): Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về các hình thức dân chủ trực tiếp để bảo đảm tính cân đối trong quy định về hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tuy nhiên, nhiều ý kiến khác cho rằng, Hiến pháp chỉ nên quy định khái quát về hình thức dân chủ trực tiếp còn những vấn đề cụ thể để thực hiện dân chủ trực tiếp sẽ do luật quy định.
Tiếp thu ý kiến này của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý lại Điều này như sau: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước.”
- Về nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 8): Nhiều ý kiến đồng ý với quy định tại Điều này, song có ý kiến đề nghị không quy định nguyên tắc tập trung dân chủ trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như đã thể hiện tại Điều 8 của Dự thảo.
- Về Công đoàn Việt Nam (Điều 10): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 là không quy định một điều riêng về Công đoàn Việt Nam mà chuyển nội dung về Công đoàn tại Điều 10 vào quy định cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác tại Điều 9[5].
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 tiếp tục quy định về Công đoàn tại Điều 10 của Dự thảo để đề cao vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam và vị trí, vai trò đặc biệt của Công đoàn ở nước ta[6].
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp tục giữ Điều 10 trong Dự thảo như các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 để khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong lịch sử cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, Dự thảo Hiến pháp cũng đã bổ sung quy định về các tổ chức chính trị - xã hội khác tại khoản 2 Điều 9.
3. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Qua thảo luận, các ý kiến phát biểu cơ bản tán thành với nội dung quy định về vị trí, bố cục của Chương II[7] và cho rằng, quy định như vậy đã thể hiện rõ tầm quan trọng của vấn đề quyền con người, quyền công dân và quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Dự thảo có nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Quy định về quyền con người và quyền công dân tại Chương này là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và là kết quả, thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Một số ý kiến đề nghị chỉnh lý một số từ ngữ và điều khoản cụ thể.
Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật tại các điều 14, 15, 19, 21, 22, 24, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 37,…bảo đảm sự nhất quán, chính xác và hợp lý hơn.
- Về các quy định về quyền con người, quyền công dân (Điều 14): Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại Điều 14, bởi vì quy định như trong Điều 14 các quyền con người, quyền công dân “được quy định trong Hiến pháp và luật” là chưa đầy đủ, chưa phù hợp vì còn có nhiều quyền tuy không được quy định trong Hiến pháp và luật nhưng vẫn được tôn trọng, bảo đảm.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lại quy định tại Điều này như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
- Về mức độ giới hạn quyền con người, quyền công dân (Điều 14): Có ý kiến tán thành với quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” như trong Dự thảo trình Quốc hội. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, quyền con người, quyền công dân không thể bị hạn chế một cách tùy tiện mà phải theo quy định của luật; cần quy định cơ quan nào có thẩm quyền giới hạn và xác định những quyền nào là quyền không thể bị giới hạn. Có ý kiến cho rằng quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân “trong trường hợp khẩn cấp” là không chính xác và chưa đầy đủ, do đó, đề nghị bỏ cụm từ này. Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “trật tự công cộng” bằng cụm từ “trật tự an toàn xã hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Do vậy, việc hạn chế các quyền này phải được quy định chặt chẽ trong luật để tránh nguy cơ tùy tiện, lạm dụng. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên cũng yêu cầu quy định chặt chẽ vấn đề này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lý lại khoản 2 Điều 14 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
- Về chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách của Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước phát triển kinh tế nhằm thu hút mạnh nguồn lực đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đồng thời, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài yên tâm đầu tư về nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài (…) giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước” đã thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong đó đã bao hàm nội dung thu hút đầu tư về trong nước, do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này theo hướng khái quát như đã thể hiện trong Dự thảo.
- Về bình đẳng và bình đẳng giới (Điều 26): Có ý kiến đề nghị sửa lại Điều 26 theo hướng “Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, về chính trị, dân sự, kinh tế - xã hội và gia đình”, đồng thời, bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới" vì việc tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn cao, liên quan tới mục tiêu, chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới và đã được quy định trong Luật bình đẳng giới. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và chỉnh lý lại Điều 26 như sau:
“1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
- Về nguyên tắc “suy đoán vô tội” (Điều 31): Có ý kiến đề nghị cân nhắc cách thể hiện quy định tại khoản 1 Điều này; thay từ “không có tội” bằng cụm từ “chưa có tội”; bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản 1 Điều 31 quy định nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự là “suy đoán vô tội”. Quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội” sẽ khẳng định nguyên tắc này một cách chặt chẽ và rõ ràng. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ cụm từ “không có tội”, đồng thời, tiếp thu ý kiến bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, vấn đề này sẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 31 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thể hiện lại như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
- Về chính sách đối với người cao tuổi (Điều 37): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách đối với người cao tuổi.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho bổ sung vào khoản 3 Điều 37 nội dung: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
- Về từ ngữ cụ thể: Có ý kiến cho rằng, Chương II dùng quá nhiều từ “nghiêm trị”, “nghiêm cấm”, “có thể”, “không thể”, đề nghị cân nhắc bỏ các cụm từ này; đồng thời cũng cần rà soát để sử dụng cho thống nhất cụm từ “theo quy định của pháp luật” hay “theo quy định của luật” hay “do luật định” hoặc không quy định những cụm từ này trong Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý lại việc sử dụng các từ, cụm từ này cho chính xác và thống nhất trong Dự thảo.
4. Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III)
Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III) của Dự thảo[8]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về các thành phần kinh tế (khoản 1 Điều 51): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 3 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Phương án 1 nêu rõ các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế như đã ghi trong Cương lĩnh[9].
Loại ý kiến thứ hai tán thành với Phương án 2 quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế nhưng cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước[10].
Loại ý kiến thứ ba tán thành với Phương án 3 quy định khái quát mà không quy định cụ thể vai trò của thành phần kinh tế để vừa thể hiện được nội dung Cương lĩnh, vừa phù hợp với tính chất và cách thể hiện của Hiến pháp[11].
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quy định về các thành phần kinh tế trong cả 3 phương án trình Quốc hội tuy cách thể hiện có khác nhau nhưng đều trên tinh thần và nội dung của Cương lĩnh. Nếu quy định đầy đủ các thành phần kinh tế như phương án 1 thì phù hợp với cách thể hiện trong Cương lĩnh nhưng sẽ không bảo đảm tính khái quát và ổn định lâu dài của Hiến pháp do nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Nếu không liệt kê các thành phần kinh tế như Phương án 3 thì tuy bảo đảm tính khái quát, ổn định của Hiến pháp nhưng lại không thể hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thì vai trò định hướng, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước và kinh tế nhà nước là rất quan trọng. Quy định như vậy để thể hiện hạ tầng kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Hiến pháp cần hiến định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội quy định về nội dung này tại khoản 1 Điều 51 như sau: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
- Về quy định bảo đảm của Nhà nước trong việc bảo hộ tài sản của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 51): Có ý kiến đề nghị bỏ quy định “Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” tại khoản 3 Điều 51.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, mặc dù các quy định liên quan đến quyền sở hữu, tự do kinh doanh đã được thể hiện trong Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” nhưng để khẳng định cụ thể hơn sự bảo đảm của Nhà nước đối với các tài sản hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài (như Điều 25 của Hiến pháp hiện hành) thì quy định về bảo hộ tài sản ở Chương về kinh tế là cần thiết. Quy định như vậy nhằm hiến định chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đối với tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để nhà đầu tư yên tâm sản xuất, kinh doanh, ổn định môi trường đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
- Về thu hồi đất (khoản 3 Điều 54): Qua tổng hợp ý kiến về vấn đề này, có các loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định về thu hồi đất tại khoản 3 Điều 54 của Dự thảo trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội[12];
Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉ thu hồi đất đối với 3 trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp để thực hiện “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Bởi vì, bản thân các dự án phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều trường hợp cũng đã được thể hiện khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Quy định như vậy cũng tránh được việc lạm dụng trong thu hồi đất;
Loại ý kiến thứ ba đề nghị không quy định về thu hồi đất trong Hiến pháp mà để Luật đất đai quy định thì bảo đảm tính linh hoạt hơn trong quản lý đất đai.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quyền sử dụng đất là quyền quan trọng của người dân nên Hiến pháp cần phải quy định chặt chẽ những trường hợp thu hồi. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho Luật đất đai quy định nhằm tránh việc lạm dụng để thu hồi đất tràn lan, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết phải thu hồi đất vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn trực tiếp với lợi ích của người sử dụng đất và doanh nghiệp nên cần phải quy định chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch và có bồi thường. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho phép chỉnh lý khoản 3 Điều 54 như sau: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
- Về trưng dụng đất (khoản 4 Điều 54): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc Nhà nước trưng dụng đất để đáp ứng yêu cầu trưng dụng đất có thời hạn trong một số trường hợp đặc biệt như chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trường hợp phải đối phó với nguy cơ hoặc khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
Để thống nhất với quy định tại Điều 32 của Dự thảo Hiến pháp, đồng thời làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất trong Luật đất đai và các luật có liên quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung quy định: “Việc Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp đặc biệt do luật định” vào khoản 4 Điều 54 của Dự thảo.
- Về bình đẳng trong chính sách xã hội (Điều 59): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về sự bình đẳng trong việc hưởng thụ chính sách xã hội tại Điều 59.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và bổ sung quy định về trách nhiệm “tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội” vào khoản 2 Điều 59.
- Về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục (Điều 61): Có ý kiến cho rằng quy định của Dự thảo chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục và đào tạo.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên để thể hiện lại các quy định về giáo dục cho rõ ràng, cụ thể hơn, khẳng định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển giáo dục và đào tạo như trong Điều 61 của Dự thảo.
5. Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương IV của Dự thảo[13]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng (Điều 65) và bản chất “cách mạng” (Điều 66): Các ý kiến cơ bản tán thành với quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam như Dự thảo. Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 45 của Hiến pháp 1992 mà không bổ sung quy định này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, lực lượng vũ trang của nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và rèn luyện. Lịch sử cách mạng của dân tộc ta đã chứng minh bản chất cách mạng và sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, để khẳng định bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, cần quy định rõ trong Hiến pháp nghĩa vụ trung thành của lực lượng vũ trang với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước là cần thiết. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Dự thảo.
- Về vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng (Điều 66): Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 66 nội dung Quân đội nhân dân “làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và chỉnh lý lại Điều 66 như sau: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp.”
6. Về Quốc hội (Chương V)
Qua tổng hợp, đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về Quốc hội (Chương V) của Dự thảo[14]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách (khoản 4 Điều 70): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 của Dự thảo, Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước[15];
Loại ý kiến thứ hai tán thành với phương án 2 của Dự thảo trình Quốc hội về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước[16].
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất. Vì vậy, việc giao thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước cho Quốc hội là phù hợp với vị trí, vai trò và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Việc giao thẩm quyền này cho Quốc hội cũng không hạn chế quyền tự chủ của địa phương trong vấn đề ngân sách. Trên thực tế, việc dự toán và quyết định ngân sách cũng đang thực hiện theo cơ chế này và không có gì vướng mắc. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này và thể hiện lại khoản 4 Điều 70 như sau: “….quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước”.
- Về thẩm quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70): Có ý kiến đề nghị không quy định thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì cho rằng số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là khá lớn, việc giao Quốc hội phê chuẩn các chức danh này là khó khả thi và không phù hợp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Hiện tại, Tòa án nhân dân đang được cải cách theo yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, thẩm quyền, tổ chức bộ máy và số lượng Thẩm phán của Tòa án nhân tối cao sẽ được cải cách theo hướng gọn nhẹ, bảo đảm Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, việc trao thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân là cần thiết, phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp.
- Về quyết định việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (khoản 8 Điều 70): Qua thảo luận, có ý kiến đề nghị giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành: “Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” mà không bổ sung quy định việc lấy phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đã được Quốc hội khóa XIII tiến hành trên cơ sở thực hiện yêu cầu về đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI). Việc lấy phiếu tín nhiệm cũng là một bước thăm dò trước khi quyết định bỏ phiếu tín nhiệm đối với nhưng người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ 5 vừa qua theo Nghị quyết số 35 của Quốc hội được đông đảo nhân dân đồng tình. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm mới được triển khai lần đầu và còn một số vấn đề cần tiếp tục tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm nên đề nghị chưa quy định vấn đề này trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ủy ban DTSĐHP tán thành với ý kiến này và thấy rằng, việc không quy định lấy phiếu tín nhiệm trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng không ảnh hưởng đến thẩm quyền Quốc hội quyết định lấy phiếu tín nhiệm đánh giá cán bộ để chuẩn bị cho việc bỏ phiếu tín nhiệm.
- Về trưng cầu ý dân (khoản 15 Điều 70): Có ý kiến đề nghị quy định rõ nội dung và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trưng cầu ý dân là một nội dung quan trọng, thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Do vậy, quy định về trưng cầu ý dân cần phải được tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, việc quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của mỗi giai đoạn phát triển đất nước. Vì vậy, để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp, không cần thiết quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp mà để luật quy định.
- Về thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân (khoản 6 Điều 74): Có ý kiến đề nghị bỏ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân để tránh trùng lặp với thẩm quyền của Chính phủ. Có ý kiến đề nghị giao thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật; Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Vì vậy, việc giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội trách nhiệm giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân là hợp lý. Quy định này không chồng chéo, mâu thuẫn với quy định trách nhiệm của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Về đề nghị Quốc hội có thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Hiến pháp hiện hành giao Ủy ban thường vụ Quốc hội thẩm quyền giám sát Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trên cơ sở giám sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng thì Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc giải tán Hội đồng nhân dân đó. Quy định này là phù hợp với điều kiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta và vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vấn đề này và cho giữ quy định như Dự thảo.
- Về việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh (khoản 7 Điều 74): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh theo đề nghị của Chính phủ[17].
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, thẩm quyền này thuộc Chính phủ[18].
Loại ý kiến thứ ba đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, tách đơn vị hành chính cấp huyện, còn cấp xã giao Chính phủ quyết định hoặc giao thẩm quyền này cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Do đó, vấn đề này cần được Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân quyết định. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên phương án giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực, hoạt động động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu, chỉnh lý khoản 7 Điều 74 như sau: “Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
7. Về Chủ tịch nước (Chương VI)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chủ tịch nước (Chương VI) của Dự thảo[19]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về thẩm quyền của Chủ tịch nước (Điều 86): Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước; nghiên cứu để quy định rõ đầy đủ, phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch nước về mối quan hệ của Chủ tịch nước đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo quy định tại Điều 86 thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; các nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện vị trí, vai trò của Chủ tịch nước đã được quy định tại các điều 88, 89, 90 và 91 của Dự thảo. Các quy định này nhằm bảo đảm để Chủ tịch nước thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình, qua đó, phản ánh mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Về thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng (Điều 88): Có ý kiến đề nghị giữ thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng như hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng và tương đương gắn với vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như Dự thảo.
8. Về Chính phủ (Chương VII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chính phủ (Chương VII) của Dự thảo[20]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về vị trí, tính chất của Chính phủ (Điều 94): Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội đều cơ bản tán thành với quy định về vị trí, tính chất của Chính phủ[21]. Có ý kiến đề nghị không quy định Chính phủ là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” nhằm tạo điều kiện để Chính phủ chủ động trong quản lý, điều hành nền hành chính quốc gia, mặt khác trong chức năng “hành pháp” và “hành chính” đã thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ chấp hành Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội là phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta đều quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và trên thực tế, quy định này không cản trở hoạt động của Chính phủ mà ngược lại làm cho Chính phủ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặt khác, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp nên việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội không ảnh hưởng đến tính chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong quản lý, điều hành. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như trong Dự thảo.
- Về nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ và các thành viên Chính phủ (các điều 95, 96, 98, 99)
Qua thảo luận nhiều ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo Hiến pháp, một số ý kiến đề nghị cần rà soát chỉnh lý lại các điều khoản trong Chương này để làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và nâng cao trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ; sắp xếp lại các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp; làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, sắp xếp lại các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như trong Dự thảo (Điều 96, Điều 98). Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số điều khoản khác trong Chương này để làm rõ hơn trách nhiệm cá nhân của thành viên Chính phủ trước Thủ tướng, cụ thể là đã bổ sung vào Dự thảo quy định Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 95); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 99)…
9. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chính phủ (Chương VIII) của Dự thảo[22]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
- Về bố cục của Chương: Có ý kiến đề nghị tách Chương Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thành 2 chương. Có ý kiến đề nghị đưa Viện kiểm sát về Chương X quy định về các cơ quan độc lập.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động của Viện kiểm sát gắn liền chủ yếu với hoạt động của Tòa án. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân luôn đặt trong một chương. Hiến pháp một số nước có quy định về Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát cũng được bố cục trong chương với Tòa án (Nga, Trung Quốc...). Hơn nữa, tuy cùng chương, nhưng quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân được phân biệt rõ ở các điều khác nhau. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo.
- Về nguyên tắc tổ chức Tòa án nhân dân (Điều 102): Có ý kiến đề nghị quy định tổ chức Tòa án theo nguyên tắc kết hợp theo thẩm quyền và đơn vị hành chính.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hiện nay chúng ta đang tiến hành cải cách hệ thống Tòa án theo thẩm quyền và không tổ chức Tòa án theo đơn vị hành chính. Do vậy, việc kết hợp tổ chức theo nguyên tắc kết hợp thẩm quyền và đơn vị hành chính là không phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung như trong Dự thảo.
- Về nguyên tắc tranh tụng (Điều 103): Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về nguyên tắc tranh tụng vì đây là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, Hiến pháp không nên quy định nội dung này; mặt khác, đối với các vụ án đơn giản, xét xử theo thủ tục rút gọn thì việc tranh tụng là rất khó khăn, không cần thiết, gây tốn kém. Có ý kiến đề nghị bổ sung “nguyên tắc thẩm vấn” cùng với nguyên tắc tranh tụng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tranh tụng trong xét xử là một nguyên tắc đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm phán quyết của Tòa án được công bằng, bảo vệ công lý. Nghị quyết số 49 xác định thực hiện nguyên tắc tranh tụng là một trong những chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta. Hơn nữa, nguyên tắc này cũng thể hiện bản chất dân chủ của hoạt động xét xử của Tòa án và là cơ sở hiến định để đổi mới pháp luật về tố tụng nên cần phải quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định về nội dung này như trong Dự thảo.
- Về đề nghị bổ sung quy định về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Điều 104): Có ý kiến đề nghị Hiến định địa vị pháp lý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vào Hiến pháp, vì Hội đồng Thẩm phán là cơ quan xét xử cao nhất và thực hiện giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hội đồng Thẩm phán là thiết chế giúp Tòa án nhân dân tối cao thực hiện nhiệm vụ này. Mặt khác, để đổi mới Tòa án nhân dân tối cao theo chủ trương cải cách tư pháp thì Hiến pháp không nên quy định cụ thể về Hội đồng này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không quy định về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao trong Hiến pháp mà nên để quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
- Về đề nghị bổ sung thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao (Điều 104): Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh, ban hành án lệ cho Tòa án nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giải thích luật, pháp lệnh là hoạt động có quan hệ với hoạt động lập pháp. Hiến pháp hiện hành giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội - cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
Về đề nghị bổ sung thẩm quyền ban hành án lệ, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trên cơ sở các quy định của hệ thống pháp luật nước ta, Tòa án nhân dân tối cao đã và đang thực hiện chức năng tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Việc thực hiện chức năng này đã mang lại hiệu quả thiết thực cho các Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, việc ban hành và áp dụng án lệ đối với nước ta là vấn đề mới và đang còn có ý kiến khác nhau nên chưa thể quy định trong Hiến pháp mà cần được tiếp tục nghiên cứu và xem xét khi sửa đổi, bổ sung luật.
- Về quy định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính (kiểm sát chung) và thực hiện các nhiệm vụ khác do luật định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân để cơ quan này tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hơn nữa, hiện nay trong bộ máy nhà nước ta đã có nhiều cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và việc xử lý vi phạm hành chính. Nếu quy định chức năng kiểm sát chung cho Viện kiểm sát thì sẽ gây chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũng không nên quy định “thực hiện những nhiệm vụ khác” vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, chỉ quy định những vấn đề lớn, cơ bản còn các vấn đề khác để luật định. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định này vào Dự thảo.
- Về sự độc lập của Kiểm sát viên (Điều 109): Có ý kiến đề nghị cần quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì Kiểm sát viên phải có sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động thực hành quyền công tố và thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính vì thế, để thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này như trong Dự thảo.
10. Về chính quyền địa phương (Chương IX)
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Ủy ban DTSĐHP đã trình Quốc hội 2 phương án về chính quyền địa phương. Theo đó, Phương án 1 quy định một cách khái quát để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới căn bản mô hình tổ chức chính quyền địa phương; Phương án 2 giữ các quy định hiện hành của Hiến pháp năm 1992 về các đơn vị hành chính và mô hình chính quyền địa phương của nước ta.
Qua tổng hợp ý kiến, đa số ý kiến nhân dân, đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan tán thành với sự cần thiết phải đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Tuy nhiên, theo ý kiến của các đại biểu Quốc hội thì cả 2 phương án mà Dự thảo đưa ra đều chưa phù hợp với yêu cầu đó[23]. Phương án 1 thì chưa làm rõ được mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; còn Phương án 2 thì không đáp ứng được yêu cầu đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo nghị quyết của Đảng và thực tiễn đặt ra.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về chính quyền địa phương trong Hiến pháp là vấn đề rất quan trọng, cần cân nhắc kỹ cả về lý luận và thực tiễn. Hiện tại, chúng ta đang trong quá trình thực hiện thí điểm mà chưa có sự tổng kết, đánh giá việc không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và bước đầu thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số địa phương. Vì vậy, sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã tổ chức một số hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học với sự tham gia của các đại biểu Quốc hội, đại diện lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các chuyên gia, các nhà khoa học để thảo luận, tham vấn ý kiến về chế định chính quyền địa phương trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý chế định chính quyền địa phương theo hướng sau đây:
- Về đơn vị hành chính (Điều 110): Dự thảo tiếp tục giữ quy định về các đơn vị hành chính tại Điều 118 của Hiến pháp năm 1992 nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ và ổn định trong cả nước; bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt như Dự thảo.
- Về tổ chức chính quyền địa phương (Điều 111): Trên cơ sở bám sát các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là “phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo” và Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa XI là “nghiên cứu về tổ chức chính quyền địa phương (có phân biệt tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn),… tổ chức chính quyền phù hợp với các địa phương có tính đặc thù, như đặc khu kinh tế, hải đảo”; đồng thời tham khảo kinh nghiệm thực tiễn thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và kết quả nghiên cứu các đề án về mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang được xây dựng ở một số địa phương,... Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho quy định về tổ chức chính quyền địa phương tại Điều 111 như sau:
“1. Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
2. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định.”
- Về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương (Điều 112): Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã xác định những nguyên tắc cơ bản về phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương sao cho vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Theo đó, Hiến pháp quy định nguyên tắc để làm cơ sở cho luật định những công việc thuộc thẩm quyền của trung ương, do trung ương đảm nhiệm (như quốc phòng, an ninh, ngoại giao,…), những công việc thuộc thẩm quyền của địa phương và những công việc thuộc thẩm quyền của cả trung ương và địa phương nhưng có cơ chế kiểm soát rõ ràng và bảo đảm một việc chỉ do một cơ quan hoặc cấp chính quyền chịu trách nhiệm chính.
- Về tính chất của Hội đồng nhân dân (Điều 113): Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng việc quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương xuất phát từ việc Hội đồng nhân dân là cơ quan do nhân dân ở địa phương bầu ra, đại diện cho nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân; Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Hơn nữa, thực tiễn thi hành các Hiến pháp trước đây cho thấy quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đã khẳng định đúng vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân. Quy định này không những không làm phân tán quyền lực mà còn góp phần làm cho quyền lực nhà nước ở nước ta được bảo đảm thống nhất;
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân, vì ở cấp địa phương, chính quyền không thể tổ chức theo mối quan hệ ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như ở cấp trung ương. Mặt khác, quyền lực nhà nước là thống nhất, mỗi cấp chính quyền không thể là một cấp quyền lực khác nhau, điều này dẫn đến phân tán quyền lực. Hơn nữa, chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, nếu chỉ quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước sẽ không thấy được vai trò của Ủy ban nhân dân và mối quan hệ biện chứng giữa 2 thiết chế này.
Ủy ban DTSĐHP tán thành loại ý kiến thứ nhất và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân như quy định của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
- Về Ủy ban nhân dân (Điều 114): Dự thảo xác định Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hoặc do Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
11. Về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X)
- Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120 Dự thảo trình Quốc hội): Dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Theo đó, Phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp; Phương án 2 đề nghị cùng với việc tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, Dự thảo đề xuất việc thành lập Hội đồng Hiến pháp với chức năng chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.
Qua thảo luận, ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan và các chuyên gia cho rằng, việc bảo vệ Hiến pháp là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, phù hợp với nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được xác định trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, XI. Trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhiều ý kiến nhân dân, của một số cơ quan, tổ chức hữu quan và ý kiến của nhiều chuyên gia tán thành về quy định Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo nhưng cần cân nhắc một số nội dung cụ thể về thẩm quyền, về tổ chức và hoạt động của cơ quan này, nhất là mối quan hệ giữa Hội đồng Hiến pháp với các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Tại kỳ họp thứ 5, kết quả xin ý kiến đại biểu Quốc hội bằng phiếu thì bên cạnh các ý kiến tán thành với phương án 2 thành lập Hội đồng Hiến pháp[24], đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành mà không thành lập Hội đồng Hiến pháp[25].
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là vấn đề mới, lại đang còn có nhiều ý kiến khác nhau, nên trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, trong đó, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nhất là Ủy ban pháp luật của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp là phù hợp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định Hội đồng Hiến pháp vào Dự thảo.
- Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 117): Qua thảo luận, có ý kiến tán thành việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia như Dự thảo. Ý kiến khác không nhất trí với quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia vì cơ quan này hoạt động không thường xuyên, đề nghị quy định trong Luật bầu cử.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc bổ sung chế định Hội đồng bầu cử quốc gia là nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”; “nghiên cứu, bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia”.
Với tinh thần đó, Ủy ban DTSĐHP đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu, hoàn thiện quy định về thiết chế này như Dự thảo và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia trong Dự thảo. Các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.
- Về Kiểm toán Nhà nước (Điều 118): Qua thảo luận, các ý kiến cơ bản tán thành với quy định của Dự thảo. Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước; nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán, chức năng nhiệm vụ của Kiểm toán viên…
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước hiện hành, đồng thời cũng phù hợp với tính chất hoạt động của Kiểm toán Nhà nước theo thông lệ, luật pháp quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Hiến pháp cũng chỉ nên ghi nhận địa vị pháp lý, nguyên tắc hoạt động của cơ quan Kiểm toán trong Hiến pháp để làm căn cứ cho việc quy định các vấn đề cụ thể trong luật. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo.
12. Về hiệu lực của Hiến pháp và việc ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp
Nhiều ý kiến đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp để quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp và các điều khoản chuyển tiếp khi Hiến pháp có hiệu lực. Ý kiến khác đề nghị quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp ngay trong Hiến pháp.
Qua nghiên cứu, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992) đều không quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp trong bản Hiến pháp; cùng với việc thông qua Hiến pháp, Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp, trong đó xác định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không quy định thời điểm có hiệu lực trong Hiến pháp mà Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp với nội dung cụ thể như: hiệu lực Hiến pháp, một số vấn đề chuyển tiếp và việc tổ chức thi hành Hiến pháp (xin xem Tờ trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự thảo Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013)).
Ngoài các vấn đề đã báo cáo, giải trình trên đây, căn cứ vào ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, tiếp thu, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến các quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
*
* *
Trên đây là Báo cáo những nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Như trên; - Lưu: HC, UBDTSĐHP - e-PAS: 79083 | TM. ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 CHỦ TỊCH (đã ký) Nguyễn Sinh Hùng |
[1] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 262/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Lời nói đầu của Dự thảo trình Quốc hội.
[2] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 316/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 1 của Dự thảo trình Quốc hội.
[3] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 313/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 2 của Dự thảo trình Quốc hội.
[4] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 328/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 4 của Dự thảo trình Quốc hội.
[5] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 175/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
[6] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 153/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
[7] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 219/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương II của Dự thảo trình Quốc hội.
[8] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 245/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương III của Dự thảo trình Quốc hội.
[9] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 88/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[10] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 145/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[11] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 158/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 3 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[12] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 242/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 58 của Dự thảo trình Quốc hội.
[13] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 259/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương IV của Dự thảo trình Quốc hội.
[14] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 241/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương V của Dự thảo trình Quốc hội.
[15] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 196/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
[16] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 168/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
[17] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 213/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
[18] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
[19] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 282/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VI của Dự thảo trình Quốc hội.
[20] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 277/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
[21] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 319/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
[22] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 278/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VIII của Dự thảo trình Quốc hội.
[23] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 155/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1; 146/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 và 34/357 đại biểu Quốc hội không tán thành với cả 2 phương án.
[24] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 2 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
[25] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 216/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013)
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 24/10/2013
Số hiệu:
Mô tả:
DuthaoNQ.17.10.doc
(Dự thảo 17.10.2013)
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm 2013) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày… tháng 11 năm 2013 có hiệu lực từ ngày Chủ tịch nước công bố.
Điều 2.
1. Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội khóa XIII tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa XIV họp kỳ thứ nhất.
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khóa XIV bầu ra các cơ quan mới theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiếp tục hoạt động cho đến khi chính quyền địa phương được thành lập theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
2. Các cơ quan nhà nước nói tại khoản 1 Điều này thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) kể từ ngày Hiến pháp này có hiệu lực.
Những vụ việc đang được cơ quan nhà nước giải quyết theo quy định của Hiến pháp năm 1992 mà thẩm quyền này được giao cho cơ quan nhà nước khác thực hiện theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) thì phải chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó để tiếp tục giải quyết.
Điều 3.
1. Các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành trước ngày Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) có hiệu lực phải được rà soát lại để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù hợp với Hiến pháp này.
2. Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Kiểm toán Nhà nước, Luật chính quyền địa phương, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) trước năm 2016.
Điều 4.
1. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013); kịp thời sửa đổi, bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013); điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với quy định mới của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013); triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
2. Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) tại địa phương, cơ quan, tổ chức của mình; vận động đoàn viên, hội viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức về Hiến pháp và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày ... tháng 11 năm 2013.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Sinh Hùng
Tờ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự thảo Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013)
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 24/10/2013
Số hiệu:529/TTr-UBTVQH13
Mô tả:
TTr529-TVQH.24.10.doc
Kính gửi: các vị đại biểu Quốc hội,
Theo chương trình dự kiến, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) sẽ được các đại biểu Quốc hội thảo luận và thông qua. Để đảm bảo việc thi hành Hiến pháp mới, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình Quốc hội dự thảo Nghị quyết quy định một số điểm về việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) với các nội dung chủ yếu như sau:
I. VỀ SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) có nhiều thay đổi về nội dung và có điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan nhà nước. Để thực hiện một số quy định mới của Hiến pháp và những nội dung được thay đổi, điều chỉnh trong Hiến pháp, cần có những quy định vừa bảo đảm chuyển tiếp, vừa bảo đảm tính ổn định, liên tục của bộ máy nhà nước; đồng thời, phải có một thời gian nhất định để rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các luật, pháp lệnh và những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cho phù hợp với các quy định mới của Hiến pháp. Cùng với đó là quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp.
Mặt khác, để đảm bảo cho Hiến pháp được quán triệt và thi hành đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với lộ trình hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, cần quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện Hiến pháp và tổ chức thi hành Hiến pháp, đảm bảo cho Hiến pháp được thực hiện nghiêm chỉnh trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vì vậy, để có cơ sở pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề nói trên, việc Quốc hội ban hành Nghị quyết quy định một số điểm về việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) là rất cần thiết. Việc Quốc hội ban hành Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) cũng phù hợp với thực tiễn sửa đổi và thi hành các Hiến pháp trước đây. Thực tế cho thấy, sau khi các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992 được thông qua, Quốc hội đều ban hành Nghị quyết quy định một số điểm về việc thi hành Hiến pháp nhằm đảm bảo sự ổn định, liên tục của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật trong giai đoạn chuyển tiếp thi hành giữa Hiến pháp mới và Hiến pháp hiện hành.
II. VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT
1. Về thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013)
Để đảm bảo vị trí, vai trò của Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, cần thiết phải xác định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp một cách cụ thể. Hiến pháp năm 1992 xác định việc công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) có hiệu lực từ ngày được Chủ tịch nước công bố như đã quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992.
2. Việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hiện hành
a) Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương (Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp) chưa thể tổ chức lại ngay theo quy định mới của Hiến pháp, vì vậy Nghị quyết cần phải khẳng định các cơ quan nhà nước này vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi được thay thế bởi các cơ quan nhà nước tương ứng phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013), cụ thể như sau:
“ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội khóa XIII tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa XIV họp kỳ thứ nhất.
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khóa XIV bầu ra các cơ quan mới theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiếp tục hoạt động cho đến khi chính quyền địa phương được thành lập theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).”
b) Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị việc thi hành các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) có điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan nhà nước, chẳng hạn như: việc Chủ tịch nước phong, thăng, giáng, tước quân hàm sĩ quan cấp tướng; việc Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn các chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội và các thành viên khác của các cơ quan này; việc Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương … được thực hiện như sau:
- Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương (Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp) thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy định trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013), kể từ ngày Hiến pháp này có hiệu lực.
- Những vụ việc đang được cơ quan nhà nước giải quyết theo quy định của Hiến pháp năm 1992 mà thẩm quyền này được giao cho cơ quan nhà nước khác thực hiện theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) thì phải chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó để tiếp tục giải quyết.
3. Về việc đảm bảo tính hợp Hiến của hệ thống pháp luật hiện hành
Để bảo đảm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013), vừa bảo đảm tính ổn định để phát triển, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị trong Nghị quyết quy định các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành trước ngày Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) có hiệu lực phải được rà soát lại để sửa đổi hoặc ban hành mới cho phù hợp với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
Đồng thời, để có cơ sở pháp lý cho việc tổ chức các thiết chế của bộ máy nhà nước phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013), việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Kiểm toán Nhà nước, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và xây dựng mới Luật chính quyền địa phương cần được tiến hành khẩn trương và phải được ban hành trước năm 2016.
III. VỀ VIỆC TỔ CHỨC VIỆC THI HÀNH HIẾN PHÁP
Về việc tổ chức thi hành Hiến pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị cần quy định các nội dung sau đây:
- Giao Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013); kịp thời sửa đổi hoặc bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013); điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với quy định mới của Hiến pháp; triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
- Giao các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013) tại địa phương, cơ quan, tổ chức của mình; vận động đoàn viên, hội viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức về Hiến pháp và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
*
* *
Trên đây là Tờ trình về dự thảo Nghị quyết quy định một số điểm về việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013), Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội xem xét và quyết định.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - CTQH,CTUBDTSĐHP (để b/c); - Lưu: HC, PL. E-pas: 78793. | TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH (đã ký) Uông Chu Lưu |
Bảng so sánh Hiến pháp năm 1992 và dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 24/10/2013
Số hiệu:
Mô tả:
SSHienphap.24.10.doc
BẢNG SO SÁNH GIỮA HIẾN PHÁP NĂM 1992
VỚI DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
LỜI NÓI ĐẦU Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến đấu, với sự giúp đỡ quý báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước, kiên cường bảo vệ Tổ quốc đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế. Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. | LỜI NÓI ĐẦU Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, cùng với sự giúp đỡ quý báu của bạn bè và nhân dân thế giới, nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước. Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, thực hiện chủ quyền của mình, nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG I NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ CHƯƠNG XI QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC CA, THỦ ĐÔ, NGÀY QUỐC KHÁNH | CHƯƠNG I CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ |
Điều 1 Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. | Điều 1 (giữ nguyên Điều 1) Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. |
Điều 2 Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. | Điều 2 (sửa đổi, bổ sung Điều 2) 1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. |
Điều 3 Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. | Điều 3 (sửa đổi, bổ sung Điều 3) Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. |
Điều 4 Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. | Điều 4 (sửa đổi, bổ sung Điều 4) 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. |
Điều 5 Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. | Điều 5 (sửa đổi, bổ sung Điều 5) 1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. |
Điều 6 Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. | Điều 6 (sửa đổi, bổ sung Điều 6) Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước. |
Điều 7 Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. | Điều 7 (sửa đổi, bổ sung Điều 7) 1. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. 2. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. |
Điều 8 Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Điều 12 Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. | Điều 8 (sửa đổi, bổ sung Điều 8, Điều 12) 1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. 2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. |
Điều 9 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả. | Điều 9 (sửa đổi, bổ sung Điều 9) 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân. 2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận tiến hành hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động. |
Điều 10 Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. | Điều 10 (sửa đổi, bổ sung Điều 10) Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. |
Điều 13 Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật. | Điều 11 (sửa đổi, bổ sung Điều 13) 1. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. 2. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị. |
Điều 14 Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. | Điều 12 (sửa đổi, bổ sung Điều 14) Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. |
Điều 141 Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Điều 142 Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 143 Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài "Tiến quân ca". Điều 144 Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội. Điều 145 Ngày tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945 là ngày Quốc khánh. | Điều 13 (ghép và giữ nguyên các điều 141, 142, 143 và 144, sửa đổi Điều 145) 1. Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. 2. Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. 3. Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài “Tiến quân ca”. 4. Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945. 5. Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội. |
HIẾN PHÁP 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG V QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN | CHƯƠNG II QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN |
Điều 50 Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật. | Điều 14 (sửa đổi, bổ sung Điều 50) 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. |
Điều 51 Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định. | Điều 15 (sửa đổi, bổ sung Điều 51) 1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. |
Điều 52 Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. | Điều 16 (sửa đổi, bổ sung Điều 52) 1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. |
Điều 49 Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. | Điều 17 (sửa đổi, bổ sung Điều 49) 1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. 2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác. 3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài. |
Điều 75 Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. | Điều 18 (sửa đổi, bổ sung Điều 75) 1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. 2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. |
| Điều 19 (mới) Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng một cách trái luật. |
Điều 71 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. | Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 71) 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định. 3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được người đó đồng ý. |
Điều 73 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. | Điều 21 (sửa đổi, bổ sung Điều 73) 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác. |
Điều 73 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. | Điều 22 (sửa đổi, bổ sung Điều 73) 1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. 2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. 3. Việc khám xét chỗ ở do luật định. |
Điều 68 Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. | Điều 23 (sửa đổi, bổ sung Điều 68) Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. |
Điều 70 Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. | Điều 24 (sửa đổi, bổ sung Điều 70) 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. |
Điều 69 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. | Điều 25 (sửa đổi, bổ sung Điều 69) Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. |
Điều 63 Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ. | Điều 26 (sửa đổi, bổ sung Điều 63) 1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. 2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới. |
Điều 54 Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật. | Điều 27 (sửa đổi, bổ sung Điều 54) Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của luật. |
Điều 53 Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. | Điều 28 (sửa đổi, bổ sung Điều 53) 1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. |
Điều 29 (sửa đổi, bổ sung Điều 53) Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. |
Điều 74 Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. | Điều 30 (sửa đổi, bổ sung Điều 74) 1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. 3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. |
Điều 72 Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh. | Điều 31 (sửa đổi, bổ sung Điều 72) 1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai. 3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. 4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý. 5. Người bị bắt, bị giam giữ, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật. |
Điều 58 Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. | Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 58) 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất đai thì theo quy định tại Điều 53 và Điều 54. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. 3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường. |
Điều 57 Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. | Điều 33 (sửa đổi, bổ sung Điều 57) Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. |
| Điều 34 (mới) Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội. |
Điều 55 Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Điều 56 Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động. | Điều 35 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56) 1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. 2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn, được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. 3. Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu do luật định. |
Điều 64 Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con. | Điều 36 (sửa đổi, bổ sung Điều 64) 1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. |
Điều 65 Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Điều 66 Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc. | Điều 37 (sửa đổi, bổ sung Điều 65, Điều 66) 1. Trẻ em có quyền được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em. 2. Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân, đi đầu trong công cuộc lao động và bảo vệ Tổ quốc. 3. Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. |
Điều 39 Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số. Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân. Điều 61 Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí. Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng. Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm. | Điều 38 (sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 61) 1. Mọi người có quyền được bảo vệ sức khỏe; bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. 2. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống và sức khỏe của người khác và cộng đồng. |
Điều 59 Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp. | Điều 39 (sửa đổi, bổ sung Điều 59) Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập. |
Điều 60 Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. | Điều 40 (sửa đổi, bổ sung Điều 60) Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó. |
| Điều 41 (mới) Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa. |
| Điều 42 (mới) Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp. |
| Điều 43 (mới) Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. |
Điều 76 Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. | Điều 44 (sửa đổi, bổ sung Điều 76) Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. |
Điều 77 Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân. | Điều 45 (sửa đổi, bổ sung Điều 77) 1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. 2. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định. |
Điều 79 Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. | Điều 46 (sửa đổi, bổ sung Điều 79) Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. |
Điều 80 Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật. | Điều 47 (sửa đổi, bổ sung Điều 80) Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định. |
Điều 81 Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. | Điều 48 (sửa đổi, bổ sung Điều 81) Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. |
Điều 82 Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú. | Điều 49 (giữ nguyên Điều 82) Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG II CHẾ ĐỘ KINH TẾ CHƯƠNG III VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ | CHƯƠNG III KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG |
Điều 15 Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Điều 43 Nhà nước mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực văn hoá, thông tin, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao. | Điều 50 (sửa đổi, bổ sung Điều 15, Điều 43) Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. |
Điều 15 Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Điều 16 Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều 19 Kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Điều 20 Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Điều 21 Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển. Điều 22 Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Điều 23 Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định. Điều 25 Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. | Điều 51 (sửa đổi, bổ sung các điều 15, 16, 19, 20, 21, 22, 23 và 25) 1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể hoạt động kinh tế thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. 3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển đất nước. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. |
Điều 24 Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước. Điều 26 Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước. | Điều 52 (sửa đổi, bổ sung Điều 24, Điều 26) Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý nhà nước, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân. |
Điều 17 Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân. Điều 18 Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật. | Điều 53 (sửa đổi, bổ sung Điều 17, Điều 18) Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. |
Điều 18 Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật. | Điều 54 (sửa đổi, bổ sung Điều 18) 1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật. 2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. 3. Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. 4. Việc Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp đặc biệt do luật định. |
| Điều 55 (mới) 1. Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. 2. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định. 3. Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. |
Điều 27 Mọi hoạt động kinh tế, xã hội và quản lý Nhà nước phải thực hành chính sách tiết kiệm. | Điều 56 (sửa đổi, bổ sung Điều 27) Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước. |
Điều 55 Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Điều 56 Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động. | Điều 57 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56) 1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. 2. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định. |
Điều 39 Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số. Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân. Điều 40 Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em; thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình. | Điều 58 (sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 40) 1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 2. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình. |
Điều 67 Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. | Điều 59 (sửa đổi, bổ sung Điều 67) 1. Nhà nước và xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước. 2. Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác. 3. Nhà nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở. |
Điều 30 Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục. Điều 31 Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc trên thế giới. Điều 32 Văn học, nghệ thuật góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam. Nhà nước đầu tư phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật, tạo điều kiện để nhân dân được thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật. Nhà nước phát triển các hình thức đa dạng của hoạt động văn học, nghệ thuật, khuyến khích các hoạt động văn học, nghệ thuật quần chúng. Điều 33 Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. Điều 34 Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hoá dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hoá, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh. Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh. | Điều 60 (sửa đổi, bổ sung các điều 30, 31, 32, 33 và 34) 1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. 2. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân và phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. 3. Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, có văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân. |
Điều 35 Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 36 Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học; thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác. Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn. Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Điều 59 Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp. | Điều 61 (sửa đổi, bổ sung các điều 35, 36 và 59) 1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý. 3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khác, ưu tiên phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề. |
Điều 37 Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học, nghiên cứu, tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Điều 38 Nhà nước đầu tư và khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên cho những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công nhân lành nghề và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến; phát triển nhiều hình thức tổ chức, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh. | Điều 62 (sửa đổi, bổ sung Điều 37, Điều 38) 1. Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. 3. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ. |
| Điều 63 (mới) 1. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. 2. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. 3. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG IV BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA | CHƯƠNG IV BẢO VỆ TỔ QUỐC |
Điều 44 Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định. | Điều 64 (sửa đổi, bổ sung Điều 44) Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. |
Điều 45 Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. | Điều 65 (sửa đổi, bổ sung Điều 45) Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. |
Điều 46 Nhà nước xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. | Điều 66 (sửa đổi, bổ sung Điều 46) Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. |
Điều 47 Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm. | Điều 67 (sửa đổi, bổ sung Điều 47) Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. |
Điều 48 Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. | Điều 68 (sửa đổi, bổ sung Điều 48) Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng - an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG V QUỐC HỘI | CHƯƠNG V QUỐC HỘI |
Điều 83 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. | Điều 69 (sửa đổi, bổ sung Điều 83) Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. |
Điều 84 Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; 2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 3- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; 4- Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; 5- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; 6- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương; 7- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; 8- Quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; 9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; 10- Quyết định đại xá; 11- Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 12- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; 13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước; 14- Quyết định việc trưng cầu ý dân. | Điều 70 (sửa đổi, bổ sung Điều 84) Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; 2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; 4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; 5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; 6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa phương và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia. Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp; 8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; 9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật; 10. Bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; 11. Quyết định đại xá; 12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; 14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình, các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực, các điều ước quốc tế trái với luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; 15. Quyết định trưng cầu ý dân. |
Điều 85 Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm. Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình. | Điều 71 (sửa đổi, bổ sung Điều 85) 1. Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm. 2. Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong. 3. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh. |
Điều 92 Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch. | Điều 72 (sửa đổi, bổ sung Điều 92) Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch. |
Điều 90 Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có: - Chủ tịch Quốc hội; - Các Phó Chủ tịch Quốc hội; - Các Ủy viên. Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới. | Điều 73 (sửa đổi, bổ sung Điều 90) 1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. 2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên. 3. Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. 4. Uỷ ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới. |
Điều 91 Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; 2- Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội; 3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 4- Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; 5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân; 7- Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội; 8- Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội; 9- Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 10- Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; 11- Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. | Điều 74 (sửa đổi, bổ sung Điều 91) Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội; 2. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 3. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước; 4. Đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 5. Lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội; 6. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân; 7. Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 8. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; 9. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ và bãi bỏ quyết định đó; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 10. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; 11. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. |
Điều 94 Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc. Hội đồng dân tộc còn có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Uỷ ban của Quốc hội quy định tại Điều 95. Hội đồng dân tộc có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách. | Điều 75 (sửa đổi, bổ sung Điều 94) 1. Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. 2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. 3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc. 4. Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Uỷ ban của Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 76. |
Điều 95 Quốc hội bầu các Uỷ ban của Quốc hội. Các Uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vị hoạt động của Uỷ ban. Mỗi Uỷ ban có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách. | Điều 76 (sửa đổi, bổ sung Điều 95) 1. Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên. Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu; các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. 2. Ủy ban của Quốc hội thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban. 3. Việc thành lập, giải thể các Ủy ban do Quốc hội quyết định. |
Điều 96 Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức Nhà nước hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. | Điều 77 (giữ nguyên Điều 96) 1. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức nhà nước hữu quan khác báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. 2. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị, yêu cầu của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. |
| Điều 78 (mới) Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. |
Điều 97 Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. | Điều 79 (sửa đổi, bổ sung Điều 97) 1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước. 2. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. 3. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật. |
Điều 98 Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản. Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. | Điều 80 (sửa đổi, bổ sung Điều 98) 1. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước. 2. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản. 3. Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. |
Điều 99 Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định. | Điều 81 (sửa đổi, bổ sung Điều 99) Không được bắt, giam giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đại biểu Quốc hội phạm tội quả tang mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. |
Điều 100 Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội. | Điều 82 (sửa đổi, bổ sung Điều 100) 1. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu; có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội. 2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ tưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu. 3. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội. |
Điều 86 Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập. Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là hai tháng kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới. | Điều 83 (sửa đổi, bổ sung Điều 86) 1. Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín. 2. Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ. Trường hợp Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu thì Quốc hội họp bất thường. Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp Quốc hội. 3. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch Quốc hội khoá mới. |
Điều 87 Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội. Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định. | Điều 84 (sửa đổi, bổ sung Điều 87) 1. Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. 2. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật trước Quốc hội. |
Điều 88 Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 7, rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội quy định tại Điều 85 và sửa đổi Hiến pháp quy định tại Điều 147, thì phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. Điều 93 Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua, trừ trường hợp Chủ tịch nước trình Quốc hội xem xét lại. | Điều 85 (sửa đổi, bổ sung Điều 88, Điều 93) 1. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; trường hợp sửa đổi Hiến pháp, quyết định rút ngắn hay kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội phải được hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. 2. Luật, pháp lệnh phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày được thông qua. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG VI CHỦ TỊCH NƯỚC | CHƯƠNG VI CHỦ TỊCH NƯỚC |
Điều 101 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. | Điều 86 (giữ nguyên Điều 101) Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. |
Điều 102 Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới. | Điều 87 (giữ nguyên Điều 102) Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước mới. |
Điều 103 Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 2- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; 3- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 4- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; 5- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá; 6- Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 7- Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; 8- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 9- Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp đại sứ, những hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh hiệu vinh dự nhà nước; 10- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định; 11- Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam; 12- Quyết định đặc xá. | Điều 88 (sửa đổi, bổ sung Điều 103) Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; 2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; 3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá; 4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam; 5. Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh. Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 6. Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước. |
Điều 104 Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các ủy viên. Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội phê chuẩn. Thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh không nhất thiết là đại biểu Quốc hội. Hội đồng quốc phòng và an ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc. Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. | Điều 89 (sửa đổi, bổ sung Điều 104) 1. Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. 2. Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trong trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh. |
Điều 105 Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. | Điều 90 (sửa đổi, bổ sung Điều 105) Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. |
Điều 106 Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. | Điều 91 (giữ nguyên Điều 106) Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. |
Điều 107 Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ. | Điều 92 (sửa đổi, bổ sung Điều 107) Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước uỷ nhiệm thay Chủ tịch nước thực hiện một số nhiệm vụ. |
Điều 108 Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới. | Điều 93 (sửa đổi, bổ sung Điều 108) Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài thì Phó Chủ tịch nước quyền Chủ tịch nước. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch nước quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG VII CHÍNH PHỦ | CHƯƠNG VII CHÍNH PHỦ |
Điều 109 Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. | Điều 94 (sửa đổi, bổ sung Điều 109) Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. |
Điều 110 Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ. | Điều 95 (sửa đổi, bổ sung Điều 110) Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do luật định. Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ. |
Điều 112 Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức nhà nước; 2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân; 3- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 4- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước; 5- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường; 6- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; 7- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; 8- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 103; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài; 9- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; 10- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 11- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. | Điều 96 (sửa đổi, bổ sung Điều 112) Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; 2. Đề xuất, xây dựng chính sách; trình dự án luật, dự toán ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội; 3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; 4. Đề xuất và trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể bộ, cơ quan ngang bộ; trình Quốc hội về việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; 6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; 7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài. 8. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. |
Điều 113 Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. | Điều 97 (giữ nguyên Điều 113) Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. |
Điều 114 Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ; 2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ; 3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên; 5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ; 6- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. | Điều 98 (sửa đổi, bổ sung Điều 114) Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 1. Định hướng và điều hành hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo việc tổ chức thi hành pháp luật; 2. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia; 3. Trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng, các chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm, quyết định điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ; 5. Chỉ đạo việc đàm phán, ký điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; lãnh đạo thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; 6. Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. |
Điều 115 Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Điều 116 Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Điều 117 Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách. | Điều 99 (sửa đổi, bổ sung Điều 116, Điều 117) 1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. 2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý. |
Điều 100 (sửa đổi Điều 115, Điều 116) Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật. |
Điều 111 Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan. | Điều 101 (sửa đổi, bổ sung Điều 111) Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
Chương X TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | CHƯƠNG VIII TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN |
TOÀ ÁN NHÂN DÂN | |
Điều 126 Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Điều 127 Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt. Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật. | Điều 102 (sửa đổi, bổ sung Điều 126, Điều 127) 1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. 2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. 3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. |
Điều 129 Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Điều 130 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điều 131 Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Điều 132 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều 133 Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án. | Điều 103 (sửa đổi, bổ sung các điều 129, 130, 131, 132 và 133) 1. Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp do luật định. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. 3. Toà án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín. 4. Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp do luật định. 5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. 6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. 7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm. |
Điều 134 Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự. Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó. | Điều 104 (sửa đổi, bổ sung Điều 134) 1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định. 3. Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. |
Điều 128 Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Thẩm phán, chế độ bầu cử và nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân các cấp do luật định. Điều 135 Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. | Điều 105 (sửa đổi, bổ sung Điều 128, Điều 135) 1. Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định. 2. Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chánh án các Tòa án khác báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân theo quy định của luật. 3. Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định. |
Điều 136 Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. | Điều 106 (sửa đổi, bổ sung Điều 136) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. |
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | |
Điều 126 Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Điều 137 Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định. | Điều 107 (sửa đổi, bổ sung Điều 126, Điều 137) 1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. 2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định. 3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. |
Điều 138 Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Điều 139 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Điều 140 Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân. | Điều 108 (sửa đổi, bổ sung các điều 138, 139 và 140) 1. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định. 2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Viện trưởng các Viện kiểm sát khác báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân theo quy định của luật. |
Điều 109 (sửa đổi, bổ sung Điều 138) 1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. 3. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Kiểm sát viên do luật định. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
CHƯƠNG IX HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN | CHƯƠNG IX CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG |
Điều 118 Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định. | Điều 110 (sửa đổi, bổ sung Điều 118) 1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. 2. Việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính theo luật định. |
| Điều 111 (mới) 1. Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. 2. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định. |
| Điều 112 (mới) 1. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. 2. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó và phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. |
Điều 119 Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Điều 120 Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước. | Điều 113 (sửa đổi, bổ sung Điều 119 và Điều 120) 1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. 2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. |
Điều 123 Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Điều 124 Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân. Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó. | Điều 114 (sửa đổi, bổ sung Điều 123 và Điều 124) 1. Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hoặc do Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. 2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao. |
Điều 121 Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước. Điều 122 Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Người phụ trách cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu. | Điều 115 (sửa đổi, bổ sung Điều 121 và Điều 122) 1. Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước. 2. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu. |
Điều 125 Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. | Điều 116 (sửa đổi, bổ sung Điều 125) 1. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. 2. Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
| CHƯƠNG X HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA, KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC |
| Điều 117 (mới) 1. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. 2. Hội đồng bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. 3. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định. |
| Điều 118 (mới) 1. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. 2. Tổng Kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước do luật định. Tổng Kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. 3. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do luật định. |
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRÌNH QUỐC HỘI XEM XÉT, THÔNG QUA |
Chương XII HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP | CHƯƠNG XI HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP |
Điều 146 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. | Điều 119 (sửa đổi, bổ sung Điều 146) Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. |
Điều 147 Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. | Điều 120 (sửa đổi, bổ sung Điều 147) Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp được quy định như sau: 1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; 2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định; 3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp; 4. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. |
Báo cáo Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 24/10/2013
Số hiệu:316/BC-UBDTSĐHP
Mô tả:
bc316-UBSDHP-1.24.10.doc
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cho rằng, Nghị quyết số 38 của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai sâu rộng, nghiêm túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với bố cục và nội dung Dự thảo, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng để hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp (DTSĐHP) đã chỉ đạo Ban biên tập nghiên cứu, tiếp thu nghiêm túc ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội; tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm, làm việc với cấp ủy, chính quyền một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, xin ý kiến của Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, trình xin ý kiến Bộ Chính trị, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI); đồng thời, tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân để chỉnh lý Dự thảo. Dự thảo sau khi tiếp thu, chỉnh lý gồm 11 chương, 120 điều (giảm 4 điều so với Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5). Dự thảo trình Quốc hội lần này đã được chỉnh lý một cách hợp lý, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bám sát Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết của các Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ủy ban DTSĐHP xin trân trọng báo cáo Quốc hội việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân và của các vị đại biểu Quốc hội như sau:
1. Về Lời nói đầu
Các ý kiến của nhân dân và của đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với nội dung của Lời nói đầu như Dự thảo[1]. Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa Lời nói đầu cho khái quát, ngắn gọn, súc tích và chính xác hơn, tránh sự trùng lặp.
Ủy ban DTSĐHP đã tiếp thu ý kiến trên và đã thể hiện lại Lời nói đầu như Dự thảo.
2. Chế độ chính trị (Chương I)
Đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về chế độ chính trị (Chương I) của Dự thảo; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
2.1. Về Điều 1
- Về tên nước, qua tổng hợp ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội, đại đa số ý kiến tán thành việc giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[2]. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị lấy lại tên nước là “Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Qua nghiên cứu, xem xét nhiều mặt, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giữ tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết để thể hiện nhất quán mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hơn nữa, tên gọi này đã được Quốc hội lựa chọn ngay sau ngày nước nhà thống nhất, đã thân quen với nhân dân ta, được bạn bè và các nước công nhận, trân trọng. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Có ý kiến cho rằng không nên ghi từ “dân chủ” tại Điều 1 vì nội dung Điều này thể hiện tính độc lập, có chủ quyền của quốc gia mà nên ghi từ “dân chủ” trong Điều 2 để thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này, giữ quy định tại Điều 1 như Hiến pháp năm 1992 và bổ sung vào khoản 2 Điều 2 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ”.
2.2. Về bản chất nhà nước (Điều 2)
Qua thảo luận, nhiều ý kiến tán thành quy định tại Điều 2 của Dự thảo[3]. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị thay cụm từ “nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” bằng cụm từ “nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Ý kiến khác đề nghị chỉ quy định ngắn gọn “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên Hiến pháp cần thể hiện rõ bản chất giai cấp của Nhà nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, tiếp tục quy định: "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức". Quy định như vậy là phù hợp với Cương lĩnh và các văn kiện chính trị khác của Đảng khi xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta.
2.3. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản (Điều 4)
Qua tổng hợp ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho thấy, tuyệt đại đa số ý kiến nhân dân và các đại biểu Quốc hội tán thành việc khẳng định trong Hiến pháp vai trò lãnh đạo của Đảng và những nội dung thể hiện tại Điều 4 của Dự thảo[4]. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị viết gọn lại theo hướng chỉ ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, còn bản chất của Đảng, trách nhiệm của Đảng thì không quy định trong Hiến pháp mà được quy định trong Điều lệ Đảng; một số ý kiến đề nghị cần khẳng định rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội; đề nghị quy định Đảng phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, quy định về Đảng trong Dự thảo Hiến pháp lần này đã thể hiện đầy đủ những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; bản chất giai cấp của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc; trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự tiếp tục kế thừa các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)); phù hợp với truyền thống lịch sử của cách mạng Việt Nam, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP xin đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Điều 4 của Dự thảo.
2.4. Về khái niệm "dân tộc thiểu số” (Điều 5)
Có ý kiến đề nghị sử dụng từ “tộc người” thay cho từ “dân tộc”, đổi cụm từ “dân tộc thiểu số” thành “dân tộc ít người”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hiện ở nước ta các khái niệm dân tộc và tộc người được sử dụng đồng thời. Khái niệm dân tộc có hai nội hàm, thứ nhất là dùng để chỉ Dân tộc Việt Nam nói chung (bao gồm tất cả những người là công dân Việt Nam, sinh sống trên đất Việt Nam và Việt kiều ở nước ngoài), đồng thời cũng được dùng để chỉ các cộng đồng tộc người cụ thể như dân tộc Chăm, dân tộc Tày, dân tộc Việt (Kinh), dân tộc Mảng, dân tộc Sán Dìu,... Như vậy, theo cách hiểu thông thường thì “dân tộc”, “dân tộc thiểu số” cũng không có gì khác so với “tộc người”, “dân tộc ít người”. Tuy nhiên, cụm từ “dân tộc” và “dân tộc thiểu số” hiện đang được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ cách quy định như đã thể hiện tại Điều 5 của Dự thảo.
2.5. Về hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6)
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về các hình thức dân chủ trực tiếp để bảo đảm tính cân đối trong quy định về hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Nhiều ý kiến khác cho rằng, Hiến pháp chỉ nên quy định khái quát về hình thức dân chủ trực tiếp còn những vấn đề cụ thể để thực hiện dân chủ trực tiếp sẽ do luật quy định.
Tiếp thu ý kiến này của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý lại Điều này như sau: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước.”
2.6. Về nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 8)
Nhiều ý kiến đồng ý với quy định tại Điều này, song có ý kiến đề nghị không quy định nguyên tắc tập trung dân chủ trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như đã thể hiện tại Điều 8 của Dự thảo.
2.7. Về Điều 9
Về cơ bản, các ý kiến đều tán thành với quy định tại Điều 9 của Dự thảo về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều này quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung nội dung này vào khoản 3 Điều 9 của Dự thảo.
2.8. Về Công đoàn Việt Nam (Điều 10)
Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 là không quy định một điều riêng về Công đoàn Việt Nam mà chuyển nội dung về Công đoàn tại Điều 10 vào quy định cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác tại Điều 9[5].
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 tiếp tục quy định về Công đoàn tại Điều 10 của Dự thảo để đề cao vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam và vị trí, vai trò đặc biệt của Công đoàn ở nước ta[6].
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp tục giữ Điều 10 trong Dự thảo như các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 để khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong lịch sử cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, Dự thảo Hiến pháp cũng đã bổ sung quy định về các tổ chức chính trị - xã hội khác tại khoản 2 Điều 9.
- Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về vai trò tham gia thanh tra, kiểm tra của Công đoàn tại Điều 10 vì thanh tra, kiểm tra là một nội dung của quản lý nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này, không quy định việc tham gia thanh tra, kiểm tra của Công đoàn trong Hiến pháp.
2.9. Về cụm từ “âm mưu” ở Điều 11
Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “âm mưu” vào đầu khoản 2 Điều 11 như trong Hiến pháp năm 1992 để khẳng định mọi âm mưu và hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị.
Uỷ ban DTSĐHP nhận thấy, theo nguyên tắc của pháp luật hình sự, âm mưu phạm tội chỉ bị đưa ra truy cứu, xét xử và trừng trị khi đã biểu hiện ra bên ngoài thông qua các hành vi cụ thể. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định tại Điều này như thể hiện trong Dự thảo.
3. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Qua thảo luận, các ý kiến phát biểu cơ bản tán thành với nội dung quy định về vị trí, bố cục của Chương II[7] và cho rằng, quy định như vậy đã thể hiện rõ tầm quan trọng của vấn đề quyền con người, quyền công dân và quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Dự thảo có nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Quy định về quyền con người và quyền công dân tại Chương này là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và là kết quả, thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Một số ý kiến đề nghị chỉnh lý một số từ ngữ và điều khoản cụ thể.
Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật tại các điều 14, 15, 19, 21, 22, 24, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 37,…bảo đảm sự nhất quán, chính xác và hợp lý hơn.
3.1. Về quy định về quyền con người, quyền công dân (Điều 14)
- Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại Điều 14, bởi vì quy định như trong Điều 14 các quyền con người, quyền công dân “được quy định trong Hiến pháp và luật” là chưa đầy đủ, chưa phù hợp vì còn có nhiều quyền tuy không được quy định trong Hiến pháp và luật nhưng vẫn được tôn trọng, bảo đảm.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lại quy định tại Điều này như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
- Về mức độ giới hạn quyền con người, quyền công dân (Điều 14), có ý kiến tán thành với quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” như trong Dự thảo trình Quốc hội. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, quyền con người, quyền công dân không thể bị hạn chế một cách tùy tiện mà phải theo quy định của luật; cần quy định cơ quan nào có thẩm quyền giới hạn và xác định những quyền nào là quyền không thể bị giới hạn. Có ý kiến cho rằng quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân “trong trường hợp khẩn cấp” là không chính xác và chưa đầy đủ, do đó, đề nghị bỏ cụm từ này. Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “trật tự công cộng” bằng cụm từ “trật tự an toàn xã hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Do vậy, việc hạn chế các quyền này phải được quy định chặt chẽ trong luật để tránh nguy cơ tùy tiện, lạm dụng. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên cũng yêu cầu quy định chặt chẽ vấn đề này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lý lại khoản 2 Điều 14 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
3.2. Về Điều 18
- Về chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách của Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước phát triển kinh tế nhằm thu hút mạnh nguồn lực đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đồng thời, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài yên tâm đầu tư về nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài (…) giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước” đã thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong đó đã bao hàm nội dung thu hút đầu tư về trong nước, do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này theo hướng khái quát như đã thể hiện trong Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được bảo lưu quốc tịch Việt Nam hoặc được cấp lại quốc tịch Việt Nam nếu có nguyện vọng”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp chỉ quy định có tính nguyên tắc về quyền có quốc tịch của công dân, còn các nội dung cụ thể về quốc tịch như cấp lại, bảo lưu,... do Luật quốc tịch quy định.
3.3. Về đề nghị bổ sung “quyền được chết” vào Điều 19
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về quyền được chết trong Dự thảo Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy “quyền được chết” là vấn đề cần được quan tâm, tuy vậy, đây cũng là một vấn đề mới, còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước trên thế giới, do vậy, đề nghị Quốc hội cho tiếp tục nghiên cứu và chưa thể hiện trong Dự thảo Hiến pháp.
3.4. Về đề nghị bổ sung cụm từ “tính mạng” vào Điều 20
- Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “tính mạng” trước từ “sức khỏe” tại khoản 1 Điều này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Dự thảo Hiến pháp đã quy định một điều riêng (Điều 19) về quyền sống của con người, trong đó đặc biệt nhấn mạnh “Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng một cách trái luật”. Do vậy, để tránh trùng lặp, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung từ “tính mạng” vào Điều 20.
3.5. Về quyền tiếp cận thông tin (Điều 25)
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “tiếp cận thông tin” tại Điều 25 bằng cụm từ “có quyền được thông tin” như tại Điều 69 của Hiến pháp năm 1992.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, trong các công ước quốc tế về quyền con người (như Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003…) cũng như trong Hiến pháp của một số nước trên thế giới đều ghi nhận quyền của người dân không chỉ trong việc tiếp nhận thông tin (được thông tin) một cách bị động mà còn bao gồm cả quyền tìm kiếm thông tin theo quy định của pháp luật. Do vậy, để phù hợp với quy định trong các công ước quốc tế, đồng thời tiếp thu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho thay cụm từ “có quyền được thông tin” trong Hiến pháp năm 1992 bằng cụm từ “tiếp cận thông tin” để bao hàm các nội dung như trên.
3.6. Về bình đẳng và bình đẳng giới (Điều 26)
Có ý kiến đề nghị sửa lại Điều 26 theo hướng “Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, về chính trị, dân sự, kinh tế - xã hội và gia đình”, đồng thời, bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới" vì việc tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn cao, liên quan tới mục tiêu, chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới và đã được quy định trong Luật bình đẳng giới. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và chỉnh lý lại Điều 26 như sau:
“1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
3.6. Về quyền ứng cử, bầu cử (Điều 27)
- Có ý kiến đề nghị quy định công dân có quyền ứng cử, bầu cử nhưng phải theo quy định của luật vì có thể có những hạn chế nhất định.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung vào Điều 27 cụm từ “theo quy định của luật” cho chính xác hơn như sau: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của luật.”
3.7. Về quyền biểu quyết (Điều 29)
- Có ý kiến đề nghị quy định công dân phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân vì tương tự như quyền bầu cử, công dân phải đến độ tuổi nhất định, có sự phát triển cả về thể lực và trí lực thì mới đủ chín chắn, khách quan, khoa học trong việc thể hiện quan điểm, chính kiến của mình.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung độ tuổi của công dân trong việc thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân tại Điều 29. Theo đó: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.”
3.8. Về nguyên tắc “suy đoán vô tội” (Điều 31)
- Có ý kiến đề nghị cân nhắc cách thể hiện quy định tại khoản 1 Điều này; thay từ “không có tội” bằng cụm từ “chưa có tội”; bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản 1 Điều 31 quy định nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự là “suy đoán vô tội”. Quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội” sẽ khẳng định nguyên tắc này một cách chặt chẽ và rõ ràng. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ cụm từ “không có tội”, đồng thời, tiếp thu ý kiến bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, vấn đề này sẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 31 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thể hiện lại như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
- Có ý kiến đề nghị bỏ đoạn “... trừ trường hợp vì lợi ích của người chưa thành niên hay vụ việc liên quan đến tranh chấp hôn nhân hoặc quyền giám hộ đối với trẻ em” tại khoản 2 Điều này vì nội dung này đã được thể hiện tại Điều 103 của Dự thảo.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và chỉnh lý lại khoản 2 Điều 31 như sau: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.”
3.9. Về cụm từ người lao động ở Điều 35
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “người lao động” tại khoản 2 Điều 35 bằng cụm từ “người làm công ăn lương”; ý kiến khác đề nghị giữ lại cụm từ này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, “người lao động” là một khái niệm rộng, trong khi đó, khoản 2 Điều 35 chỉ quy định về việc bảo đảm các quyền, lợi ích của những người tham gia quan hệ lao động với tư cách là bên được trả công để thực hiện công việc, do đó, sử dụng thuật ngữ “người làm công ăn lương” sẽ mang tính xác định và rõ ràng hơn. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và thay cụm từ “người lao động” tại khoản 2 Điều 35 bằng cụm từ “người làm công ăn lương”.
3.10. Về chính sách đối với người cao tuổi (Điều 37)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách đối với người cao tuổi.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nói trên và bổ sung vào khoản 3 Điều 37 nội dung: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
3.11. Về từ ngữ cụ thể
Có ý kiến cho rằng, Chương II dùng quá nhiều từ “nghiêm trị”, “nghiêm cấm”, “có thể”, “không thể”, đề nghị cân nhắc bỏ các cụm từ này; đồng thời cũng cần rà soát để sử dụng cho thống nhất cụm từ “theo quy định của pháp luật” hay “theo quy định của luật” hay “do luật định” hoặc không quy định những cụm từ này trong Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý lại việc sử dụng các từ, cụm từ này cho chính xác và thống nhất trong Dự thảo.
4. Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III)
Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III) của Dự thảo[8]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
4.1. Về Điều 51
- Về các thành phần kinh tế (khoản 1 Điều 51), Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 3 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Phương án 1 nêu rõ các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế như đã ghi trong Cương lĩnh[9].
Loại ý kiến thứ hai tán thành với Phương án 2 quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế nhưng cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước[10].
Loại ý kiến thứ ba tán thành với Phương án 3 quy định khái quát mà không quy định cụ thể vai trò của thành phần kinh tế để vừa thể hiện được nội dung Cương lĩnh, vừa phù hợp với tính chất và cách thể hiện của Hiến pháp[11].
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quy định về các thành phần kinh tế trong cả 3 phương án trình Quốc hội tuy cách thể hiện có khác nhau nhưng đều trên tinh thần và nội dung của Cương lĩnh. Nếu quy định đầy đủ các thành phần kinh tế như phương án 1 thì phù hợp với cách thể hiện trong Cương lĩnh nhưng sẽ không bảo đảm tính khái quát và ổn định lâu dài của Hiến pháp do nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Nếu không liệt kê các thành phần kinh tế như phương án 3 thì tuy bảo đảm tính khái quát, ổn định của Hiến pháp nhưng lại không thể hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thì vai trò định hướng, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước và kinh tế nhà nước là rất quan trọng. Quy định như vậy để thể hiện hạ tầng kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Hiến pháp cần hiến định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội quy định về nội dung này tại khoản 1 Điều 51 như sau: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
- Về vai trò của các thành phần kinh tế, có ý kiến đề nghị quy định vai trò của kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể cho phù hợp với Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nếu quy định thành phần kinh tế tập thể thì cần liệt kê cả các thành phần kinh tế khác và phải xác định cụ thể vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế như đã thể hiện trong Cương lĩnh. Theo đó, kinh tế nhà nước là chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Ủy ban DTSĐHP cho rằng việc liệt kê như vậy không bảo đảm yêu cầu về tính khái quát cao và tính ổn định của các quy định Hiến pháp. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như thể hiện trong Dự thảo.
- Về việc bảo hộ tài sản của tổ chức, cá nhân: Có ý kiến đề nghị bỏ quy định “Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” tại khoản 3 Điều 51.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, mặc dù các quy định liên quan đến quyền sở hữu, tự do kinh doanh đã được thể hiện trong Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” nhưng để khẳng định cụ thể hơn sự bảo đảm của Nhà nước đối với các tài sản hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài (như Điều 25 của Hiến pháp hiện hành) thì quy định về bảo hộ tài sản ở Chương về kinh tế là cần thiết. Quy định như vậy nhằm hiến định chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đối với tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để nhà đầu tư yên tâm sản xuất, kinh doanh, ổn định môi trường đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
4.2. Về Điều 54
- Về thu hồi đất (khoản 3 Điều 54): Qua tổng hợp ý kiến về vấn đề thu hồi đất, có các loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định về thu hồi đất tại khoản 3 Điều 54 của Dự thảo trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội[12];
Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉ thu hồi đất đối với 3 trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp để thực hiện “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Bởi vì, bản thân các dự án phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều trường hợp cũng đã được thể hiện khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Quy định như vậy cũng tránh được việc lạm dụng trong thu hồi đất;
Loại ý kiến thứ ba đề nghị không quy định về thu hồi đất trong Hiến pháp mà để Luật đất đai quy định thì bảo đảm tính linh hoạt hơn trong quản lý đất đai.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quyền sử dụng đất là quyền quan trọng của người dân nên Hiến pháp cần phải quy định chặt chẽ những trường hợp thu hồi. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho Luật đất đai quy định nhằm tránh việc lạm dụng để thu hồi đất tràn lan, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết phải thu hồi đất vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn trực tiếp với lợi ích của người sử dụng đất và doanh nghiệp nên cần phải quy định chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch và có bồi thường. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho phép chỉnh lý khoản 3 Điều 54 như sau: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.”
- Về trưng dụng đất (khoản 4 Điều 54): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc Nhà nước trưng dụng đất để đáp ứng yêu cầu trưng dụng đất có thời hạn trong một số trường hợp đặc biệt như chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trường hợp phải đối phó với nguy cơ hoặc khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
Để thống nhất với quy định tại Điều 32 của Dự thảo Hiến pháp, đồng thời làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất trong Luật đất đai và các luật có liên quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung quy định: “Việc Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp đặc biệt do luật định” vào khoản 4 Điều 54 của Dự thảo.
4.3. Về đồng tiền quốc gia (Điều 55)
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Đồng tiền Quốc gia” bằng cụm từ “Đơn vị tiền tệ quốc gia” tại khoản 3 Điều 55 cho chính xác hơn. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và chỉnh lý lại khoản 3 Điều 55 như sau: “Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.”
4.4. Về cụm từ “vùng đặc biệt khó khăn” (Điều 58 và Điều 61)
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “vùng đặc biệt khó khăn” bằng cụm từ “vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” tại khoản 1 Điều 58 và khoản 3 Điều 61. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và chỉnh lý lại khoản 1 Điều 58 và khoản 3 Điều 61 như Dự thảo.
4.5. Về bình đẳng trong chính sách xã hội (Điều 59)
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về sự bình đẳng trong việc hưởng thụ chính sách xã hội tại Điều 59.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và bổ sung quy định về trách nhiệm “tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội” vào khoản 2 Điều 59.
4.6. Về đề nghị bổ sung quy định về phẩm chất người Việt Nam ở Điều 60
- Có ý kiến đề nghị bổ sung các phẩm chất của con người Việt Nam là: có tinh thần đoàn kết, có lòng tự tin, nhân hậu để quán triệt đầy đủ nội dung của Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) về xây dựng con người Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và thể hiện lại khoản 3 Điều 60 như sau: “Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, có văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân.”
- Có ý kiến đề nghị bỏ quy định “Nghiêm cấm hành vi lợi dụng hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, truyền bá tư tưởng, xuất bản phẩm và các hình thức khác có nội dung phản động, đồi trụy; mê tín, dị đoan” tại khoản 5 Điều 64 Dự thảo trình Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên, bỏ quy định này trong Hiến pháp và để cho các luật chuyên ngành điều chỉnh.
4.7. Về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục và đào tạo (Điều 61)
Có ý kiến cho rằng quy định của Dự thảo chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục và đào tạo.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên để thể hiện lại các quy định về giáo dục cho rõ ràng, cụ thể hơn, khẳng định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển giáo dục và đào tạo như sau:
“1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.
3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khác, ưu tiên phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề.”
4.8. Về chính sách và trách nhiệm bảo vệ môi trường (Điều 63)
Có ý kiến đề nghị bỏ quy định “Bảo vệ môi trường là trách hiệm của Nhà nước, xã hội và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân” tại khoản 1; bỏ đoạn “quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu” tại khoản 2 Điều 68 Dự thảo trình Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và chỉnh lý lại Điều 63 như sau:
“1. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo.
3. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.”
5. Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương IV của Dự thảo[13]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
5.1. Về đề nghị bổ sung cụm từ “an ninh trật tự, an toàn xã hội” ở Điều 64
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội” sau cụm từ “giữ vững an ninh quốc gia” tại đoạn 1 Điều 64.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và thể hiện lại đoạn này như sau: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân.”
5.2. Về quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng (Điều 65)
Các ý kiến cơ bản tán thành với quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam như Dự thảo. Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 45 của Hiến pháp 1992 mà không bổ sung quy định này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, lực lượng vũ trang của nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và rèn luyện. Lịch sử cách mạng của dân tộc ta đã chứng minh bản chất cách mạng và sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, để khẳng định bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, cần quy định rõ trong Hiến pháp nghĩa vụ trung thành của lực lượng vũ trang với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước là cần thiết. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như trong Dự thảo.
5.3. Về vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng (Điều 66)
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 66 nội dung Quân đội nhân dân “làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và chỉnh lý lại Điều 66 như sau: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp.”
5.4. Về cụm từ “từng bước” và cụm từ “cách mạng” ở Điều 66 và Điều 67
Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “từng bước” và cụm từ “cách mạng” tại Điều 66 và Điều 67.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, “cách mạng” là bản chất của lực lượng vũ trang nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam thành lập và lãnh đạo. Việc xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là một quá trình, được thực hiện với những bước đi, lộ trình phù hợp với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như trong Dự thảo.
5.5. Về chính sách xây dựng công nghiệp an ninh và chính sách hậu phương công an (Điều 68)
Có ý kiến đề nghị bổ sung chính sách xây dựng công nghiệp an ninh và chính sách hậu phương công an.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, để phù hợp với Cương lĩnh cũng như bảo đảm tính định hướng của công nghiệp quốc phòng, Dự thảo đã bổ sung từ “an ninh” sau từ “quốc phòng” thành cụm từ “công nghiệp quốc phòng - an ninh” để bảo đảm tính toàn diện của công nghiệp này. Đối với chính sách hậu phương Công an, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khái niệm “hậu phương Quân đội” đã được dùng nhất quán trong các văn bản pháp luật và đã hàm chứa chính sách hậu phương đối với lực lượng Công an nói chung nên đề nghị Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
6. Về Quốc hội (Chương V)
Qua tổng hợp, đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về Quốc hội (Chương V) của Dự thảo[14]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
6.1. Về Điều 70
- Về thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách (khoản 4 Điều 70): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 của Dự thảo, Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước[15];
Loại ý kiến thứ hai tán thành với phương án 2 của Dự thảo trình Quốc hội về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước[16].
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất. Vì vậy, việc giao thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước cho Quốc hội là phù hợp với vị trí, vai trò và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Việc giao thẩm quyền này cho Quốc hội cũng không hạn chế quyền tự chủ của địa phương trong vấn đề ngân sách. Trên thực tế, việc dự toán và quyết định ngân sách cũng đang thực hiện theo cơ chế này và không có gì vướng mắc. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này và thể hiện lại khoản 4 Điều 70 như sau: “….quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.”
- Về thẩm quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70): Có ý kiến đề nghị không quy định thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì cho rằng số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là khá lớn, việc giao Quốc hội phê chuẩn các chức danh này là khó khả thi và không phù hợp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Hiện tại, Tòa án nhân dân đang được cải cách theo yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, thẩm quyền, tổ chức bộ máy và số lượng Thẩm phán của Tòa án nhân tối cao sẽ được cải cách theo hướng gọn nhẹ, bảo đảm Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, việc trao thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân là cần thiết, phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp.
- Về quyết định việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (khoản 8 Điều 70): Qua thảo luận, có ý kiến đề nghị giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành: “Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” mà không bổ sung quy định việc lấy phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đã được Quốc hội khóa XIII tiến hành trên cơ sở thực hiện yêu cầu về đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI). Việc lấy phiếu tín nhiệm cũng là một bước thăm dò trước khi quyết định bỏ phiếu tín nhiệm đối với nhưng người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ 5 vừa qua theo Nghị quyết số 35 của Quốc hội được đông đảo nhân dân đồng tình. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm mới được triển khai lần đầu và còn một số vấn đề cần tiếp tục tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm nên đề nghị chưa quy định vấn đề này trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ủy ban DTSĐHP tán thành với ý kiến này và thấy rằng, việc không quy định lấy phiếu tín nhiệm trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng không ảnh hưởng đến thẩm quyền Quốc hội quyết định lấy phiếu tín nhiệm đánh giá cán bộ để chuẩn bị cho việc bỏ phiếu tín nhiệm.
- Về trưng cầu ý dân (khoản 15 Điều 70): Có ý kiến đề nghị quy định rõ nội dung và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trưng cầu ý dân là một nội dung quan trọng, thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Do vậy, quy định về trưng cầu ý dân cần phải được tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, việc quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của mỗi giai đoạn phát triển đất nước. Vì vậy, để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp, không cần thiết quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp mà để luật quy định.
6.2. Về Điều 74
- Về việc lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội (khoản 5 Điều 74), có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo về việc Ủy ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không nên quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội mà nên giữ quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội như Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, có vai trò rất quan trọng trong thời gian giữa hai kỳ họp và có nhiệm vụ chủ trì các kỳ họp Quốc hội. Do vậy, việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội là nhằm bảo đảm quá trình chỉ đạo hoạt động của Hội đồng dân tộc, Ủy ban được thông suốt cả trong thời gian Quốc hội họp và giữa hai kỳ họp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội như Dự thảo.
- Về thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân (khoản 6 Điều 74)
Có ý kiến đề nghị bỏ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân để tránh trùng lặp với thẩm quyền của Chính phủ. Có ý kiến đề nghị giao thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật; Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Vì vậy, việc giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội trách nhiệm giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân là hợp lý. Quy định này không chồng chéo, mâu thuẫn với quy định trách nhiệm của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Về đề nghị Quốc hội có thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Hiến pháp hiện hành giao Ủy ban thường vụ Quốc hội thẩm quyền giám sát Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trên cơ sở giám sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng thì Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc giải tán Hội đồng nhân dân đó. Quy định này là phù hợp với điều kiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta và vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vấn đề này và cho giữ quy định như Dự thảo.
- Về việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh (khoản 7 Điều 74): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh theo đề nghị của Chính phủ[17].
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, thẩm quyền này thuộc Chính phủ[18].
Loại ý kiến thứ ba đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, tách đơn vị hành chính cấp huyện, còn cấp xã giao Chính phủ quyết định hoặc giao thẩm quyền này cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Do đó, vấn đề này cần được Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân quyết định. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên phương án giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực, hoạt động động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu, chỉnh lý khoản 7 Điều 74 như sau: “Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.”
6.3. Về các điều 75, 76 và 77
- Về việc bầu, phê chuẩn thành viên Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội (khoản 1 Điều 75 và khoản 1 Điều 76): có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với việc Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban, còn các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn như Dự thảo
Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ như Hiến pháp hiện hành vì Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội với tư cách là các cơ quan của Quốc hội chứ không chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định như Dự thảo là phù hợp với điều kiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta và vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội; bảo đảm linh hoạt cho quy trình phê chuẩn, bổ nhiệm các thành viên Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, cũng như bảo đảm linh hoạt trong công tác điều động, bố trí, luân chuyển cán bộ; bảo đảm quyền được tham gia Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội của các đại biểu Quốc hội. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như Dự thảo trình Quốc hội.
- Về việc ban hành văn bản của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội (Điều 77): Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ trong Hiến pháp việc Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội ban hành văn bản dưới hình thức nghị quyết. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là vấn đề về phương thức hoạt động của Hội đồng dân tộc, Ủy ban trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể do đó, không cần thiết phải quy định trong Hiến pháp và sẽ được quy định cụ thể trong luật.
- Về quyền chất vấn (Điều 77): Có ý kiến đề nghị cân nhắc việc quy định “được quyền chất vấn của các Ủy ban của Quốc hội” vì quyền chất vấn chỉ nên giao cho cá nhân đại biểu. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu và chỉnh lý cụ thể như trong Dự thảo.
7. Về Chủ tịch nước (Chương VI)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chủ tịch nước (Chương VI) của Dự thảo[19]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
7.1. Về thẩm quyền của Chủ tịch nước (Điều 86)
Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch nước; nghiên cứu để quy định rõ đầy đủ, phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch nước về mối quan hệ của Chủ tịch nước đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo quy định tại Điều 86 thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; các nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện vị trí, vai trò của Chủ tịch nước đã được quy định tại các điều 88, 89, 90 và 91 của Dự thảo. Các quy định này nhằm bảo đảm để Chủ tịch nước thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình, qua đó, phản ánh mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
7.2. Về thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng (Điều 88)
- Có ý kiến đề nghị giữ thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng như hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng và tương đương gắn với vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 88 quy định Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề nghị của Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét lại luật đã được Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta thì Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi cũng đã quy định nhiều cơ chế kiểm soát quy trình xây dựng, thông qua luật như thẩm định, thẩm tra, cho ý kiến, thảo luận về dự án luật… Việc giao Chủ tịch nước thẩm quyền xem xét lại luật đã được Quốc hội thông qua là không khả thi trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên như hiện nay. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như Dự thảo.
7.3. Về quy định về Hội đồn quốc phòng an ninh (Điều 89)
Có ý kiến đề nghị chuyển Điều này vào Chương bảo vệ Tổ quốc hoặc tách Điều này thành chế định riêng trong Hiến pháp và nhập vào Chương X thành: “Hội đồng bầu cử quốc gia, Hội đồng quốc phòng, an ninh và Kiểm toán Nhà nước”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ Hội đồng quốc phòng, an ninh tại Chương này để phù hợp với vị trí người đứng đầu Hội đồng quốc phòng, an ninh là Chủ tịch nước. Đây cũng là sự kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành nhằm khẳng định vị trí, vai trò của Hội đồng này trong mối quan hệ với Chủ tịch nước với vai trò là người đứng đầu nhà nước và thống lĩnh lực lượng vũ trang. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
8. Về Chính phủ (Chương VII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chính phủ (Chương VII) của Dự thảo[20]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
8.1. Về vị trí, tính chất của Chính phủ (Điều 94)
Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội đều cơ bản tán thành với quy định về vị trí, tính chất của Chính phủ[21]. Có ý kiến đề nghị không quy định Chính phủ là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” nhằm tạo điều kiện để Chính phủ chủ động trong quản lý, điều hành nền hành chính quốc gia, mặt khác trong chức năng “hành pháp” và “hành chính” đã thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ chấp hành Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội là phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta đều quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và trên thực tế, quy định này không cản trở hoạt động của Chính phủ mà ngược lại làm cho Chính phủ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặt khác, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp nên việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội không ảnh hưởng đến tính chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong quản lý, điều hành. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như trong Dự thảo.
8.2. Về Điều 96 và Điều 98
Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền của Chính phủ về việc rút lại dự án luật do Chính phủ trình và đề nghị Quốc hội chưa thông qua dự án luật do các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trình nếu dự án chưa bảo đảm tính khả thi; có ý kiến đề nghị chuyển thẩm quyền quyết định việc đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ sang Thủ tướng Chính phủ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, thực tiễn xây dựng pháp luật cho thấy, hầu hết các dự án luật đều do Chính phủ đề xuất, xây dựng và trình Quốc hội xem xét thông qua; đối với các dự án luật được đề xuất từ các chủ thể khác cũng được Chính phủ cho ý kiến từ trước khi dự án được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trong quy trình xây dựng dự án, khi dự án được đưa vào Chương trình đã được Chính phủ xem xét về sự cần thiết, quan điểm chính, nội dung cơ bản….; trong quá trình soạn thảo dự án Chính phủ có thời gian để nghiên cứu, tổng kết các quy định hiện hành, lấy ý kiến các ngành, các cấp, thẩm định dự án do Chính phủ trình và nghiên cứu, xem xét, cho ý kiến đối với dự án do các cơ quan khác trình. Do đó, để đề cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong việc đề xuất cũng như soạn thảo dự án luật và phù hợp với nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đề nghị không đưa vào Hiến pháp thẩm quyền của Chính phủ trong việc kiến nghị với Quốc hội rút dự án luật do Chính phủ trình và chưa thông qua dự án luật do các cơ quan khác trình.
Về đề nghị điều chỉnh thẩm quyền quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc ký kết điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ là một thẩm quyền quan trọng của tập thể Chính phủ, cần phải được tập thể Chính phủ xem xét, thảo luận và quyết định. Các Hiến pháp trước đây đều quy định thẩm quyền này của Chính phủ. Quy định như vậy cũng phù hợp với sự phân công, phối hợp nhiệm vụ, quyền hạn giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước ta. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị cho được giữ như Dự thảo.
8.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ và các thành viên Chính phủ (các điều 95, 96, 98 và 99)
Qua thảo luận nhiều ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo Hiến pháp, một số ý kiến đề nghị cần rà soát chỉnh lý lại các điều khoản trong Chương này để làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và nâng cao trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ; sắp xếp lại các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp; làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, sắp xếp lại các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như trong Dự thảo (Điều 96, Điều 98). Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số điều khoản khác trong Chương này để làm rõ hơn trách nhiệm cá nhân của thành viên Chính phủ trước Thủ tướng, cụ thể là đã bổ sung vào Dự thảo quy định Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 95); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 99)…
8.4. Về việc mời Ủy ban thường vụ Quốc hội tham dự phiên họp Chính phủ (Điều 101)
Có ý kiến đề nghị sửa quy định Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam “được mời tham dự” thành “có quyền tham dự về những vấn đề quan tâm” để vừa dân chủ, vừa đề cao vai trò phản biện của Mặt trận Tổ quốc.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về việc được mời tham dự phiên họp Chính phủ là cần thiết thể hiện mối quan hệ phối hợp công tác giữa Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội. Khi được mời tham dự, tùy từng nhiệm vụ cụ thể, các chủ thể này có thể tham dự hoặc không. Quy định như vậy vừa thể hiện vai trò chủ động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội, vừa thể hiện được tính chất dân chủ trong hoạt động của Chính phủ. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như trong Dự thảo.
9. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chính phủ (Chương VIII) của Dự thảo[22]; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
9.1. Những ý kiến chung
- Có ý kiến đề nghị tách Chương Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thành 2 chương. Có ý kiến đề nghị đưa Viện kiểm sát về Chương X quy định về các cơ quan độc lập.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động của Viện kiểm sát gắn liền chủ yếu với hoạt động của Tòa án. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân luôn đặt trong một chương. Hiến pháp một số nước có quy định về Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát cũng được bố cục trong chương với Tòa án (Nga, Trung Quốc...). Hơn nữa, tuy cùng chương, nhưng quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân được phân biệt rõ ở các điều khác nhau. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo.
- Có ý kiến bổ sung một điều quy định chung về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân hoặc giữ nguyên Điều 126 của Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 126 của Hiến pháp 1992 quy định về những nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, các cơ quan này có chức năng khác nhau, nên có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau; vì thế nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đã được quy định thành hai điều riêng là Điều 102 (quy định về Tòa án nhân dân) và Điều 107 (quy định về Viện kiểm sát nhân dân) cho phù hợp. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ kết cấu như Dự thảo.
9.2. Về Điều 102
- Về “quyền tư pháp” (Điều 102): Có ý kiến đề nghị không nên quy định chỉ có Tòa án mới thực hiện quyền tư pháp mà cần nghiên cứu quy định cả Viện kiểm sát cũng thực hiện quyền tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong Nhà nước pháp quyền thì quyền tư pháp về bản chất là quyền xét xử. Việc quy định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp là để thể hiện đúng bản chất đó. Trong khi đó, Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố và là một bên tham gia tố tụng, nên nếu quy định Viện kiểm sát cũng thực hiện quyền tư pháp là không phù hợp. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
- Về nguyên tắc tổ chức Tòa án nhân dân (khoản 2 Điều 102): Có ý kiến đề nghị quy định tổ chức Tòa án theo nguyên tắc kết hợp theo thẩm quyền và đơn vị hành chính.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hiện nay chúng ta đang tiến hành cải cách hệ thống Tòa án theo thẩm quyền và không tổ chức Tòa án theo đơn vị hành chính. Do vậy, việc kết hợp tổ chức theo nguyên tắc kết hợp thẩm quyền và đơn vị hành chính là không phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung như trong Dự thảo.
9.3. Về Hội thẩm nhân dân (Điều 103)
- Có ý kiến cho rằng việc tham gia Hội đồng xét xử của Hội thẩm nhân dân hiện nay rất hình thức do vậy, không nên quy định nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nguyên tắc nhân dân tham gia xét xử là một nguyên tắc tiến bộ, được nhiều nước trên thế giới áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Ở nước ta, nguyên tắc “việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia” đã được quy định trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp tục khẳng định nguyên tắc này trong Hiến pháp.
- Về quy định nghiêm cấm can thiệp vào việc xét xử của Tòa án (khoản 2 Điều 103): Có ý kiến đề nghị bỏ đoạn “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Tòa án” tại khoản 3 Điều 103.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập là một nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Các bản Hiến pháp của Nhà nước ta đều quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Tòa án để bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử, ngăn ngừa mọi hành vi xâm hại quyền độc lập của Tòa án. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như trong Dự thảo.
- Về quy định xét xử kín (khoản 3 Điều 103): Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể những trường hợp Tòa án xét xử kín để tránh việc lạm dụng.
Tiếp thu ý kiến này, trên cơ sở khẳng định rõ nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai và quy định chỉ một số trường hợp đặc biệt thì Tòa án nhân dân có thể xét xử kín, khoản 3 Điều 103 của Dự thảo được chỉnh lý như sau:“Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.”
- Về nguyên tắc tranh tụng (khoản 5 Điều 103): Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về nguyên tắc tranh tụng vì đây là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, Hiến pháp không nên quy định nội dung này; mặt khác, đối với các vụ án đơn giản, xét xử theo thủ tục rút gọn thì việc tranh tụng là rất khó khăn, không cần thiết, gây tốn kém. Có ý kiến đề nghị bổ sung “nguyên tắc thẩm vấn” cùng với nguyên tắc tranh tụng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tranh tụng trong xét xử là một nguyên tắc đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm phán quyết của Tòa án được công bằng, bảo vệ công lý. Nghị quyết số 49 xác định thực hiện nguyên tắc tranh tụng là một trong những chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta. Hơn nữa, nguyên tắc này cũng thể hiện bản chất dân chủ của hoạt động xét xử của Tòa án và là cơ sở hiến định để đổi mới pháp luật về tố tụng nên cần phải quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định về nội dung này như trong Dự thảo.
- Về quyền bào chữa (khoản 7 Điều 103): Có ý kiến đề nghị chuyển quy định về quyền bào chữa của người bị tạm giữ tại khoản 7 Điều 103 về Chương quyền con người cho phù hợp vì đây là quyền con người, quyền công dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền được trợ giúp pháp lý (bao gồm cả quyền bào chữa) đối với người bị tạm giữ đã được quy định tại khoản 4 Điều 31 Dự thảo. Trong khuôn khổ điều quy định về Tòa án nhân dân, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng cần thiết phải quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự. Bởi vì nguyên tắc này không đơn thuần là ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền lợi của đương sự mà nhấn mạnh trách nhiệm của Tòa án nhân dân, các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo được thực hiện trên thực tế. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo.
9.4. Về đề nghị bổ sung quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vào Điều 104
- Có ý kiến đề nghị Hiến định địa vị pháp lý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vào Hiến pháp, vì Hội đồng Thẩm phán là cơ quan xét xử cao nhất và thực hiện giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hội đồng Thẩm phán là thiết chế giúp Tòa án nhân dân tối cao thực hiện nhiệm vụ này. Mặt khác, để đổi mới Tòa án nhân dân tối cao theo chủ trương cải cách tư pháp thì Hiến pháp không nên quy định cụ thể về Hội đồng này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không quy định về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao trong Hiến pháp mà nên để quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
- Về nhiệm vụt ổng kết công tác xét xử (khoản 3 Điều 104): Có ý kiến đề nghị không nên quy định nhiệm vụ tổng kết công tác xét xử cho Tòa án nhân dân tối cao vì mang nặng tính hành chính.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã quy định thẩm quyền tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao và việc thực hiện nhiệm vụ này trong thời gian qua đã góp phần nâng cao chất lượng xét xử và việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
- Về đề nghị bổ sung thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh và ban hành án lệ: Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh và ban hành án lệ cho Tòa án nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giải thích luật, pháp lệnh là hoạt động có quan hệ với hoạt động lập pháp. Hiến pháp hiện hành giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội - cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
Về đề nghị bổ sung thẩm quyền ban hành án lệ, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trên cơ sở các quy định của hệ thống pháp luật nước ta, Tòa án nhân dân tối cao đã và đang thực hiện chức năng tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Việc thực hiện chức năng này đã mang lại hiệu quả thiết thực cho các Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, việc ban hành và áp dụng án lệ đối với nước ta là vấn đề mới và đang còn có ý kiến khác nhau nên chưa thể quy định trong Hiến pháp mà cần được tiếp tục nghiên cứu và xem xét khi sửa đổi, bổ sung luật.
9.5. Về quan hệ giữa Chánh án Tòa án nhân dân các cấp (Điều 105)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản là “Chánh án Tòa án nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Chánh án Tòa án nhân dân cấp trên. Chánh án Tòa án nhân dân cấp dưới phải chịu sự lãnh đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao” để tuân thủ nguyên tắc tập trung thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới địa phương.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khác với hệ thống tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân, các Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử độc lập, khi xét xử thì Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Mỗi cấp Tòa án có những thẩm quyền theo luật định, quan hệ giữa Tòa án các cấp là quan hệ tố tụng. Để thực hiện cơ chế độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì không thể áp dụng nguyên tắc thống nhất lãnh đạo trong toàn ngành tòa án, do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo.
- Về đề nghị quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được bầu trong số đại biểu Quốc hội: Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc không quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là đại biểu Quốc hội sẽ giúp cho việc có thể lựa chọn người không phải đại biểu Quốc hội làm Chánh án Toà án nhân dân tối cao; đồng thời, sẽ linh hoạt hơn trong việc lựa chọn chức danh mang tính chuyên môn cao này. Ngoài ra, quy định này cũng bảo đảm tính độc lập của cơ quan tư pháp. Thực tiễn lập hiến ở nước ta cũng chưa có bản Hiến pháp nào quy định việc này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định của Dự thảo.
- Về chế độ báo cáo của Tòa án nhân dân: Có ý kiến đề nghị làm rõ Tòa án khác có báo cáo Hội đồng nhân dân không, sau này khi Tòa án nhân khu vực được thành lập sẽ báo cáo Hội đồng nhân dân nào.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hội đồng nhân dân là cơ quan dân cử, đại diện cho người dân tại địa phương. Hội đồng nhân dân có chức năng, nhiệm vụ giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Vì vậy, vẫn cần thiết phải có quy định Chánh án các Tòa án khác báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân địa phương, còn Hội đồng nhân dân cụ thể nào sẽ do luật định.
9.6. Về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107)
- Về vị trí của Viện kiểm sát nhân dân: Có ý kiến đề nghị làm rõ vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có loại ý kiến đề nghị Viện kiểm sát là cơ quan hành chính tư pháp hoặc bổ trợ tư pháp; chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố thuộc Chính phủ; có ý kiến đề nghị Viện kiểm sát là một cơ quan thiết chế độc lập.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, về vấn đề này đa số các ý kiến nhất trí với quy định của Dự thảo. Một số ý kiến khác có quan điểm rất khác nhau về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Về nguyên tắc, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án thực hiện quyền tư pháp; ngoài ra, còn có các thiết chế độc lập khác cũng góp phần tạo nên hệ thống bộ máy nhà nước. Trong quá trình thực hiện các quyền trên sẽ có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện quyền của các cơ quan nhà nước. Hơn nữa, hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân vừa thực hiện chức năng công tố, vừa thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo là phù hợp.
- Về quy định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính (kiểm sát chung) và thực hiện các nhiệm vụ khác do luật định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân để cơ quan này tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hơn nữa, hiện nay trong bộ máy nhà nước ta đã có nhiều cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và việc xử lý vi phạm hành chính. Nếu quy định chức năng kiểm sát chung cho Viện kiểm sát thì sẽ gây chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũng không nên quy định “thực hiện những nhiệm vụ khác” vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, chỉ quy định những vấn đề lớn, cơ bản còn các vấn đề khác để luật định. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho không bổ sung quy định này vào Dự thảo.
9.7. Về đề nghị bổ sung quy định về Ủy ban kiểm sát vào Điều 108
- Có ý kiến đề nghị giữ lại quy định về Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp 1992.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp hiện hành có quy định về Ủy ban kiểm sát, tuy nhiên Viện kiểm sát nhân dân thực hiện nguyên tắc quản lý đặc thù là lãnh đạo tập trung, thống nhất trong ngành, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của ngành kiểm sát. Hơn nữa phần quy định về Tòa án trong Dự thảo cũng không quy định về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo.
9.8. Về sự độc lập của Kiểm sát viên (Điều 109)
- Có ý kiến đề nghị cần quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì Kiểm sát viên phải có sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động thực hành quyền công tố và thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính vì thế, để thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này như trong Dự thảo.
10. Về chính quyền địa phương (Chương IX)
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Ủy ban DTSĐHP đã trình Quốc hội 2 phương án về chính quyền địa phương. Theo đó, Phương án 1 quy định một cách khái quát để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới căn bản mô hình tổ chức chính quyền địa phương; Phương án 2 giữ các quy định hiện hành của Hiến pháp năm 1992 về các đơn vị hành chính và mô hình chính quyền địa phương của nước ta.
Qua tổng hợp ý kiến, đa số ý kiến nhân dân, đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan tán thành với sự cần thiết phải đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Tuy nhiên, theo ý kiến của các đại biểu Quốc hội thì cả 2 phương án mà Dự thảo đưa ra đều chưa phù hợp với yêu cầu đó[23]. Phương án 1 thì chưa làm rõ được mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; còn Phương án 2 thì không đáp ứng được yêu cầu đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo nghị quyết của Đảng và thực tiễn đặt ra.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về chính quyền địa phương trong Hiến pháp là vấn đề rất quan trọng, cần cân nhắc kỹ cả về lý luận và thực tiễn. Hiện tại, chúng ta đang trong quá trình thực hiện thí điểm mà chưa có sự tổng kết, đánh giá việc không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và bước đầu thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số địa phương. Vì vậy, sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã tổ chức một số hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học với sự tham gia của các đại biểu Quốc hội, đại diện lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các chuyên gia, các nhà khoa học để thảo luận, tham vấn ý kiến về chế định chính quyền địa phương trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý chế định chính quyền địa phương theo hướng sau đây:
10.1. Về đơn vị hành chính (Điều 110)
Dự thảo tiếp tục giữ quy định về các đơn vị hành chính tại Điều 118 của Hiến pháp năm 1992 nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ và ổn định trong cả nước; bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt như Dự thảo.
10.2. Về tổ chức chính quyền địa phương (Điều 111)
Trên cơ sở bám sát các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là “phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo” và Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa XI là “nghiên cứu về tổ chức chính quyền địa phương (có phân biệt tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn),… tổ chức chính quyền phù hợp với các địa phương có tính đặc thù, như đặc khu kinh tế, hải đảo”; đồng thời tham khảo kinh nghiệm thực tiễn thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và kết quả nghiên cứu các đề án về mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang được xây dựng ở một số địa phương,... Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho quy định về tổ chức chính quyền địa phương tại Điều 111 như sau:
“1. Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
2. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định.”
10.3. Về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương (Điều 112)
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã xác định những nguyên tắc cơ bản về phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương sao cho vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Theo đó, Hiến pháp quy định nguyên tắc để làm cơ sở cho luật định những công việc thuộc thẩm quyền của trung ương, do trung ương đảm nhiệm (như quốc phòng, an ninh, ngoại giao,…), những công việc thuộc thẩm quyền của địa phương và những công việc thuộc thẩm quyền của cả trung ương và địa phương nhưng có cơ chế kiểm soát rõ ràng và bảo đảm một việc chỉ do một cơ quan hoặc cấp chính quyền chịu trách nhiệm chính.
10.4. Về tính chất của Hội đồng nhân dân (Điều 113)
Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng việc quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương xuất phát từ việc Hội đồng nhân dân là cơ quan do nhân dân ở địa phương bầu ra, đại diện cho nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân; Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Hơn nữa, thực tiễn thi hành các Hiến pháp trước đây cho thấy quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đã khẳng định đúng vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân. Quy định này không những không làm phân tán quyền lực mà còn góp phần làm cho quyền lực nhà nước ở nước ta được bảo đảm thống nhất;
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân, vì ở cấp địa phương, chính quyền không thể tổ chức theo mối quan hệ ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như ở cấp trung ương. Mặt khác, quyền lực nhà nước là thống nhất, mỗi cấp chính quyền không thể là một cấp quyền lực khác nhau, điều này dẫn đến phân tán quyền lực. Hơn nữa, chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, nếu chỉ quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước sẽ không thấy được vai trò của Ủy ban nhân dân và mối quan hệ biện chứng giữa 2 thiết chế này.
Ủy ban DTSĐHP tán thành loại ý kiến thứ nhất và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân như quy định của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
10.5. Về Ủy ban nhân dân (Điều 114)
Dự thảo xác định Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hoặc do Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
11. Về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X)
11.1. Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120 Dự thảo trình Quốc hội)
Dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Theo đó, Phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp; Phương án 2 đề nghị cùng với việc tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, Dự thảo đề xuất việc thành lập Hội đồng Hiến pháp với chức năng chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.
Qua thảo luận, các ý kiến cho rằng, việc bảo vệ Hiến pháp là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, phù hợp với nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được xác định trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, XI. Trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhiều ý kiến nhân dân, của một số cơ quan, tổ chức hữu quan và ý kiến của nhiều chuyên gia tán thành về quy định Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo nhưng cần cân nhắc một số nội dung cụ thể về thẩm quyền, về tổ chức và hoạt động của cơ quan này, nhất là mối quan hệ giữa Hội đồng Hiến pháp với các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Tại kỳ họp thứ 5, kết quả xin ý kiến đại biểu Quốc hội bằng phiếu thì bên cạnh các ý kiến tán thành với phương án 2 thành lập Hội đồng Hiến pháp[24], đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành mà không thành lập Hội đồng Hiến pháp[25].
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là vấn đề mới, lại đang còn có nhiều ý kiến khác nhau, nên trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, trong đó, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nhất là Ủy ban pháp luật của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp là phù hợp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định Hội đồng Hiến pháp vào Dự thảo.
11.2. Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 117) (Điều 121 Dự thảo trình Quốc hội)
Qua thảo luận, có ý kiến tán thành việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia như Dự thảo. Ý kiến khác không nhất trí với quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia vì cơ quan này hoạt động không thường xuyên, đề nghị quy định trong Luật bầu cử.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc bổ sung chế định Hội đồng bầu cử quốc gia là nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”; “nghiên cứu, bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia”.
Với tinh thần đó, Ủy ban DTSĐHP đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu, hoàn thiện quy định về thiết chế này như Dự thảo và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia trong Dự thảo. Các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.
11.3. Về Kiểm toán Nhà nước (Điều 118) (Điều 122 Dự thảo trình Quốc hội
Qua thảo luận, các ý kiến cơ bản tán thành với quy định của Dự thảo. Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước; nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán, chức năng nhiệm vụ của Kiểm toán viên…
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước hiện hành, đồng thời cũng phù hợp với tính chất hoạt động của Kiểm toán Nhà nước theo thông lệ, luật pháp quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Hiến pháp cũng chỉ nên ghi nhận địa vị pháp lý, nguyên tắc hoạt động của cơ quan Kiểm toán trong Hiến pháp để làm căn cứ cho việc quy định các vấn đề cụ thể trong luật. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo.
12. Về hiệu lực của Hiến pháp và việc ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp
Nhiều ý kiến đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp để quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp và các điều khoản chuyển tiếp khi Hiến pháp có hiệu lực. Ý kiến khác đề nghị quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp ngay trong Hiến pháp.
Qua nghiên cứu, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992) đều không quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp trong bản Hiến pháp; cùng với việc thông qua Hiến pháp, Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp, trong đó xác định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không quy định thời điểm có hiệu lực trong Hiến pháp mà Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp với nội dung cụ thể như: hiệu lực Hiến pháp, một số vấn đề chuyển tiếp và việc tổ chức thi hành Hiến pháp (xin xem Tờ trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội về dự thảo Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013)).
Ngoài các vấn đề đã báo cáo, giải trình trên đây, căn cứ vào ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, tiếp thu, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến các quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
*
* *
Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Như trên; - Lưu: HC, UBDTSĐHP - e-PAS: 79089 | TM. ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 CHỦ TỊCH (đã ký) Nguyễn Sinh Hùng |
[1] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 262/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Lời nói đầu của Dự thảo trình Quốc hội.
[2] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 316/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 1 của Dự thảo trình Quốc hội.
[3] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 313/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 2 của Dự thảo trình Quốc hội.
[4] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 328/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 4 của Dự thảo trình Quốc hội.
[5] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 175/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
[6] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 153/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
[7] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 219/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương II của Dự thảo trình Quốc hội.
[8] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 245/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương III của Dự thảo trình Quốc hội.
[9] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 88/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[10] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 145/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[11] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 158/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 3 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
[12] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 242/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 58 của Dự thảo trình Quốc hội.
[13] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 259/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương IV của Dự thảo trình Quốc hội.
[14] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 241/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương V của Dự thảo trình Quốc hội.
[15] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 196/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
[16] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 168/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
[17] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 213/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
[18] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
[19] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 282/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VI của Dự thảo trình Quốc hội.
[20] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 277/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
[21] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 319/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
[22] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 278/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VIII của Dự thảo trình Quốc hội.
[23] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 155/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1; 146/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 và 34/357 đại biểu Quốc hội không tán thành với cả 2 phương án.
[24] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 2 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
[25] Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5 có 216/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
Báo cáo của UB Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý về các nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 12/06/2013
Số hiệu:
Mô tả:
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến nhân dân. Các cơ quan, tổ chức, địa phương đã tổ chức triển khai việc lấy ý kiến nhân dân một cách khẩn trương, đồng bộ, dân chủ, rộng khắp và đúng tiến độ. Việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2013, đã thu hút và nhận được sự quan tâm sâu sắc, đồng tình ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được phổ biến, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và được tổ chức góp ý bằng nhiều hình thức thích hợp và đã được chuyển đến từng hộ gia đình, đến công nhân, học sinh, sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng, đến các tổ viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể xã hội. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng đã được gửi xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước.
Bc.giaitrinh.doc
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến nhân dân. Các cơ quan, tổ chức, địa phương đã tổ chức triển khai việc lấy ý kiến nhân dân một cách khẩn trương, đồng bộ, dân chủ, rộng khắp và đúng tiến độ. Việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2013, đã thu hút và nhận được sự quan tâm sâu sắc, đồng tình ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được phổ biến, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và được tổ chức góp ý bằng nhiều hình thức thích hợp và đã được chuyển đến từng hộ gia đình, đến công nhân, học sinh, sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng, đến các tổ viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể xã hội. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng đã được gửi xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước.
Hoạt động lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thực sự là đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý dân chủ, sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị. Việc lấy ý kiến nhân dân không chỉ huy động được sự tham gia tích cực của nhân dân ở trong nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài để góp ý, hoàn thiện Dự thảo mà còn phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc xây dựng Dự thảo Hiến pháp, cũng như thực thi Hiến pháp sau này.
Với sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, theo báo cáo của các cơ quan, tổ chức hữu quan, tính đến nay, đã có hơn 26.091.000 lượt ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Ủy ban DTSĐHP) đã tập hợp, tổng hợp đầy đủ, kịp thời, khách quan, trung thực ý kiến của nhân dân (xin xem Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp của Uỷ ban DTSĐHP – hơn 800 trang, Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan của Trung ương Đảng, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam - khoảng 1600 trang). Nhìn chung, ý kiến của nhân dân tán thành với các nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do Ủy ban DTSĐHP công bố, đồng thời nhân dân cũng góp nhiều ý kiến tâm huyết, trí tuệ và trách nhiệm vào các nội dung cụ thể của Dự thảo.
Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chức hữu quan, bám sát Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng, Ủy ban DTSĐHP đã nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp này. Những ý kiến góp ý của nhân dân rất đa dạng, phong phú cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến. Trong Báo cáo này, Ủy ban DTSĐHP xin hệ thống hóa thành những loại ý kiến, những nhóm vấn đề nổi lên, còn có ý kiến khác nhau để giải trình việc tiếp thu, chỉnh lý; còn những ý kiến góp ý cụ thể, chi tiết về từng điều, khoản cụ thể, xin xem trong Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
I. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG
1. Về sự cần thiết phải sửa Hiến pháp năm 1992
Qua tổng hợp ý kiến nhân dân, hầu hết các ý kiến đều nhất trí với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, phù hợp với yêu cầu mở cửa, hội nhập với thế giới. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới đất nước, đến nay đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh quốc tế đang có những biến đổi to lớn, phức tạp và sâu sắc, vì vậy việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã phù hợp với nguyện vọng của nhân dân cả nước có một bản Hiến pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, khắc phục được những hạn chế, bất cập của Hiến pháp hiện hành.
2. Về quan điểm chỉ đạo xây dựng Hiến pháp
Về quan điểm chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, qua thảo luận có các loại ý kiến sau đây:
- Có ý kiến tán thành với các quan điểm chỉ đạo xây dựng Hiến pháp được xác định trong các nghị quyết của Đảng và Quốc hội.
- Có ý kiến cho rằng để Hiến pháp có giá trị lâu dài, bền vững thì không nên quy định những nội dung chưa được lịch sử kiểm chứng hoặc cần khuyến khích có thêm một vài Hiến pháp mẫu và được trao đổi công khai để mọi người so sánh, đối chứng qua đó tối ưu hóa sự lựa chọn của nhân dân, hoặc xây dựng Hiến pháp mới trên cơ sở tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp do Bác Hồ chỉ đạo việc xây dựng.
- Có ý kiến đề nghị việc xây dựng Hiến pháp phải dựa trên quan điểm: dân chủ - khoa học - tiến bộ là 3 yếu tố căn bản, cần và đủ cho một bản Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng quy định về những vấn đề lớn, cơ bản, có tầm chiến lược lâu dài của đất nước. Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh và thực tiễn cách mạng nước ta, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã căn cứ vào tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng; tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, phù hợp với tình hình mới đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.
Về ý kiến đề nghị cần khuyến khích có thêm một vài Hiến pháp mẫu và được trao đổi công khai để mọi người so sánh, đối chứng qua đó tối ưu hóa sự lựa chọn của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo Nghị quyết của Quốc hội thì Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được công bố lấy ý kiến nhân dân là Dự thảo đã được nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 (tháng 11/2012) và phạm vi lấy ý kiến nhân dân là về toàn bộ nội dung của Dự thảo, nhân dân được tự do thể hiện quan điểm, chính kiến của mình về mọi quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và có thể đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung đối với những quy định này. Quá trình lấy ý kiến nhân dân cho thấy, nhiều tổ chức, cá nhân đã góp ý về toàn bộ nội dung Dự thảo, trong đó đề xuất cả phương án sửa đổi, bổ sung cụ thể về từng quy định. Ủy ban DTSĐHP trân trọng ghi nhận và tổng hợp tất cả ý kiến đóng góp của nhân dân. Bên cạnh đó, quá trình soạn thảo Ủy ban DTSĐHP cũng tham khảo và nghiên cứu Hiến pháp của nhiều nước trên thể giới để chắt lọc những điểm, những quy định, những nội dung phù hợp với đặc thù Việt Nam. Vì vậy, việc đề nghị công bố thêm một vài Hiến pháp mẫu để nhân dân so sánh, đối chiếu là không cần thiết.
Về đề nghị việc xây dựng Hiến pháp phải dựa trên quan điểm: dân chủ - khoa học – tiến bộ, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện đầy đủ các yếu tố này thể hiện qua việc tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp, qua việc tổ chức xây dựng Dự thảo, qua việc tổ chức lấy ý kiến toàn dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và điều quan trọng nhất là Dự thảo đã thể hiện đầy đủ nội dung của các yếu tố nói trên, đặc biệt là quy định trong chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; trong việc thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập, hành pháp, tư pháp và qua các thiết chế hiến định độc lập …
3. Về tên gọi của Hiến pháp
Về tên gọi của Hiến pháp, có các loại ý kiến sau đây:
- Có ý kiến tán thành với tên gọi là Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm 2013);
- Có ý kiến đề nghị, với những nội dung được sửa đổi, bổ sung thì đây là bản Hiến pháp mới “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013”, không thể sử dụng tên gọi là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013). Bởi vì, so với lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, thì việc sửa đổi, bổ sung lần này với quy mô lớn hơn, toàn diện hơn, trong đó có nhiều quy định lần đầu tiên được đưa vào Hiến pháp. Vì vậy, xét về thực chất, đây không phải là một bản Dự thảo Hiến pháp (sửa đổi) mà là một bản Dự thảo Hiến pháp mới.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được kế thừa, phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1992, hoàn thiện hơn về mọi phương diện để phúc đáp một cách toàn diện yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, phạm vi sửa đổi, mức độ sửa đổi sẽ được Quốc hội xem xét, quyết định. Vì vậy, tên gọi của Hiến pháp sẽ do Quốc hội quyết định khi thông qua Dự thảo Hiến pháp phù hợp với phạm vi nội dung được sửa đổi, bổ sung.
4. Về phạm vi sửa đổi, bổ sung
Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, có các loại ý kiến sau đây:
- Có ý kiến tán thành phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, bảo đảm tính toàn diện, phù hợp với kết quả tổng kết thành tựu 25 năm đổi mới đất nước và thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
- Có ý cho rằng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa có những quy định sửa đổi mang tính đột phá, một số điểm mới đưa vào Dự thảo nhưng chưa được thực tiễn kiểm nghiệm, chưa đủ căn cứ khoa học, chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức. Chẳng hạn như chưa làm rõ cơ chế kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như cơ chế để nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực. Dự thảo đã khẳng định các nguyên tắc về chủ quyền của nhân dân nhưng chưa có quy định về quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân để thể hiện rõ hơn nữa vai trò của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp. Quy định về tổ chức chính quyền địa phương quá khái quát, chưa đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết Đại hội Đảng XI, chưa tháo gỡ được những bất cập mà việc tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 đã chỉ ra.
- Có ý kiến cho rằng, các chế định trong Hiến pháp năm 1992 cho đến nay vẫn đang phù hợp, qua tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 cho thấy một số chế định chưa được thực thi hiệu quả là do việc tổ chức thực hiện chưa nghiêm chứ không hẳn là bất cập từ quy định của Hiến pháp. Vì vậy, cần cân nhắc xem đối với một số nội dung trong Hiến pháp không thực hiện được là do tổ chức thực hiện không nghiêm hay do quy định của Hiến pháp chưa phù hợp.
Về phạm vi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng của Đảng, của đất nước. Do vậy, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên kết quả tổng kết thi hành Hiến pháp, quán triệt đầy đủ mục đích, yêu cầu, quan điểm, định hướng nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, Kết luận của Hội nghị Trung ương 5, Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, theo đó chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, đã có đủ cơ sở, tạo được sự thống nhất cao; tuy nhiên, đối với những vấn đề mới đặt ra hoặc có những quy định của Hiến pháp không còn phù hợp cũng đòi hỏi phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình mới.
5. Về bố cục của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
Về bố cục của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có các loại ý kiến sau đây:
- Có ý kiến hoàn toàn nhất trí với bố cục của Dự thảo, kết cấu như vậy là khoa học, chặt chẽ; kế thừa những quy định cơ bản, còn phù hợp của Hiến pháp hiện hành, đặc biệt là đã đưa chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân lên Chương II.
- Có ý kiến đề nghị tách hoặc hoán đổi vị trí của một số chương trong Dự thảo, chẳng hạn như tách Chương III thành Chương: Kinh tế, khoa học, công nghệ, tài nguyên, môi trường và Chương: Xã hội, văn hóa, giáo dục, hoặc đề nghị đưa Chương: Bảo vệ Tổ quốc lên sau Chương: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân rồi mới đến Chương: kinh tế, văn hóa, xã hội; hoặc Chương V và Chương X nên ghép lại thành một chương thì phù hợp hơn, vì Chương V nội dung nói về Quốc hội và Chương X nội dung nói về các cơ quan do Quốc hội thành lập; hoặc tách Chương Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân thành hai chương riêng biệt cho hai thiết chế này để thể hiện rõ hơn quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, thể hiện tính độc lập của hai hệ thống cơ quan nhà nước…
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, bố cục và kết cấu như vậy là khoa học, chặt chẽ, đã kế thừa được những quy định cơ bản, còn phù hợp của Hiến pháp hiện hành, đặc biệt là đã đưa Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và chuyển về đặt sau Chương I: Chế độ chính trị để phản ánh đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Bên cạnh đó, việc đưa Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường đã làm cho cấu trúc Hiến pháp gọn hơn, cô đọng và súc tích hơn, thể hiện được mối quan hệ hữu cơ, gắn bó giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; bảo đảm tính cân đối với các chương khác của Hiến pháp, tránh quy định cắt khúc, dàn trải các nội dung về kinh tế, xã hội, văn hóa... ở các chương khác nhau. Về đề nghị tách Chương: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân thành hai chương riêng biệt, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc để hai thiết chế này trong cùng một chương là kế thừa kết cấu của Hiến pháp hiện hành, mặc dù hai thiết chế là hai thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước nhưng hoạt động của các thiết chế này liên quan chặt chẽ, bổ sung cho nhau trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Vì vậy, việc hoàn đổi vị trí các chương trong Dự thảo là không cần thiết vì các vị trí này về cơ bản đã kế thừa kết cấu hợp lý của Hiến pháp hiện hành.
6. Về kỹ thuật lập hiến
Về kỹ thuật lập hiến, có các loại ý kiến sau đây:
- Có ý kiến cho rằng, ngôn ngữ của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thể hiện đúng ngôn ngữ luật cô đọng, chính xác, rõ ràng, chặt chẽ hơn, không sa vào lập luận, giải thích.
- Có ý kiến đề nghị viết ngắn gọn, dễ hiểu đối với mọi tầng lớp nhân dân, các quy định không mập mờ hoặc quá hàn lâm, quy định của Hiến pháp phải có tính khả thi cao, còn quá nhiều quy định còn sử dụng cụm từ “theo quy định của luật” hoặc “do pháp luật quy định” làm giảm hiệu lực tối cao đối với các quy định của Hiến pháp.
- Có ý kiến cho rằng, sắp xếp chương, điều trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa khoa học, còn trùng lắp về nội dung, thứ tự sắp xếp cũng cần phải xem xét.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân để rà soát lại những vấn đề về kỹ thuật văn bản, câu chữ trong các chương, điều của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; đồng thời nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập hiến của một số nước trên thế giới về cách thể hiện, kỹ thuật trình bày Hiến pháp để các quy định của Hiến pháp được thể hiện rõ ràng, được hiểu một cách thống nhất có tính ổn định lâu dài, không sử dụng các thuật ngữ trừu tượng, đa nghĩa làm cho Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản của Nhà nước. Tuy nhiên, do phạm vi quy định của Hiến pháp rất rộng bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau nên cách thể hiện các quy định trong Hiến pháp cần có độ linh hoạt phù hợp. Vì vậy, kỹ thuật lập hiến trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thể hiện theo hướng:
- Những vấn đề có tính nguyên tắc cần thể hiện khái quát, cô đọng, súc tích.
- Những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước cần được quy định rõ; quy trình, thủ tục, cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ cần để luật điều chỉnh.
- Một số chủ trương, chính sách cụ thể về phát triển ngành, lĩnh vực (kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, thể dục, thể thao) không quy định trong Hiến pháp mà để luật điều chỉnh để bảo đảm tính linh hoạt trong bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách và trong quản lý, điều hành.
II. VỀ LỜI NÓI ĐẦU
Qua tổng hợp ý kiến nhân dân, có nhiều ý kiến nhân dân đóng góp về vấn đề này, tập trung vào 4 loại ý kiến về Lời nói đầu như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Lời nói đầu như Dự thảo nhưng đề nghị chỉnh sửa về mặt kỹ thuật cho ngắn gọn, khái quát, chính xác hơn và tránh trùng lặp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung vào Lời nói đầu các mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nêu khái quát về lịch sử lập hiến nước ta.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị nêu rõ các thành tựu trong công cuộc xây dựng, bảo vệ, đổi mới đất nước; đề nghị lời nói đầu phải được thể hiện mang tính chất tuyên xưng của nhân dân Việt Nam với thế giới.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị viết lại Lời nói đầu thật cô đọng, súc tích theo hướng ghi nhận một cách tổng quát mục tiêu sửa đổi Hiến pháp, định hướng phát triển của đất nước và vai trò của nhân dân trong việc xây dựng và thi hành Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Lời nói đầu là một bộ phận quan trọng của mỗi bản Hiến pháp. Tùy thuộc vào truyền thống dân tộc, lịch sử lập hiến của mỗi quốc gia mà Lời nói đầu được soạn thảo với nội dung, độ dài, kỹ thuật thể hiện khác nhau. Qua nghiên cứu bốn bản Hiến pháp của nước ta cho đến nay, có thể thấy Lời nói đầu của các bản Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở phản ánh các mốc cơ bản của lịch sử dân tộc, lịch sử đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, lịch sử lập hiến, nội dung cơ bản của Hiến pháp, chủ thể của quyền ban hành Hiến pháp. Về các ý kiến liên quan đến Lời nói đầu, Ủy ban DTSĐHP xin được tiếp thu, giải trình như sau:
Về ý kiến đề nghị bổ sung các mốc lịch sử vào Lời nói đầu, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy nếu liệt kê các mốc lịch sử sẽ dẫn tới sự mất cân đối về bố cục giữa lịch sử đương đại với chiều dài lịch sử của dân tộc thể hiện ở khổ đầu tiên. Vì vậy, dự thảo Lời nói đầu chỉ đề cập đến mốc lịch sử quan trọng nhất là năm 1930 gắn liền với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1945 gắn liền với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và việc đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1976. Việc liệt kê các sự kiện cụ thể khác sẽ dẫn tới tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, không bảo đảm sự hài hòa và tính xuyên suốt của lịch sử trong một giai đoạn. Vì vậy, đề nghị không liệt kê cụ thể các mốc lịch sử khác trong Lời nói đầu.
Về ý kiến đề nghị nêu rõ các thành tựu trong công cuộc xây dựng, bảo vệ, đổi mới đất nước, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, một trong những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Lời nói đầu lần này là phải thật ngắn gọn, súc tích, tránh liệt kê theo tính chất một bản văn thành tích. Hơn nữa, mỗi giai đoạn lịch sử đều có những thành tựu nổi bật khác nhau nên việc lựa chọn thành tựu nào là thành tựu đáng ghi nhận nhất để liệt kê trong Lời nói đầu cũng sẽ là vấn đề cần đặt ra nếu tiếp thu theo phương án này.
Về ý kiến đề nghị thể hiện Lời nói đầu mang tính tuyên xưng của nhân dân Việt Nam với thế giới, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Lời nói đầu đã thể hiện tinh thần thống nhất, đoàn kết một lòng của nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Quy định như vậy cũng kế thừa các bản Hiến pháp trước đây và phù hợp với quy trình làm Hiến pháp, sửa Hiến pháp đã được quy định.
Về ý kiến đề nghị viết lại Lời nói đầu, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy phương án này có ưu điểm là ngắn gọn, súc tích, đồng thời cũng là cách thức thể hiện Lời nói đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, nếu viết lại Lời nói đầu sẽ dẫn đến cách hiểu đây là một bản Hiến pháp mới, trong khi đó theo tinh thần thì đây chỉ là Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tiếp thu ý kiến nhân dân, trên cơ sở kế thừa nội dung cơ bản Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Lời nói đầu trong Dự thảo đã được chỉnh lý theo yêu cầu ngắn gọn và súc tích hơn, nêu khái quát truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc, sự ra đời của Đảng và Nhà nước gắn với quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, xác định rõ mục tiêu, chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp.
III. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ (CHƯƠNG I)
1. Những góp ý chung
1.1. Tên Chương
- Loại ý kiến thứ nhất nhất trí hoàn toàn với tên Chương I là “Chế độ chính trị” vì ngắn gọn và thể hiện được nội hàm của Chương này.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị sửa đổi tên Chương thành “Chính thể”, “Những quy định chung” hoặc “Những nguyên tắc nền tảng”, vì đây là những quy định nền tảng cho các quy định ở các chương tiếp theo, có vị trí xuyên suốt, chi phối toàn bộ bản Hiến pháp; nội dung của Chương không chỉ liên quan đến chế độ chính trị mà còn liên quan đến nhiều vấn đề khác.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị đổi tên Chương thành “Nhà nước và chế độ chính trị” hoặc “chế độ chính trị và thể chế Nhà nước” vì trong Chương I còn nhiều điều quy định về thể chế Nhà nước.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị giữ lại tên gọi như trong Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy tên gọi của Chương này là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Chế độ chính trị” như hiện nay dễ gây hiểu lầm là đồng nhất giữa tên nước và chế độ chính trị. Việc đề nghị đổi tên Chương thành “Chính thể” hay “Những quy định chung”, “Những nguyên tắc nền tảng”, “Nhà nước và chế độ chính trị” đều không phù hợp vì không phản ánh đầy đủ, chính xác nội dung của Chương này. Do vậy, việc đổi tên thành “Chế độ chính trị” là phù hợp hơn cả, vì ngắn gọn và đủ ý, thể hiện rõ nhất tính chất và các nội dung cơ bản của Chương này, bao gồm nguồn gốc của quyền lực nhà nước, chủ quyền quốc gia, chủ quyền nhân dân, tên nước và hình thức chính thể, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các thành tố cấu thành hệ thống chính trị, nguyên tắc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
1.2. Về bố cục
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với bố cục của Chương vì đã bảo đảm tính hợp lý và logic.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị sắp xếp lại các điều trong Chương theo thứ tự nội dung như sau: Tổ quốc, quyền của nhân dân, đảng và các đoàn thể; Quốc hiệu, Quốc kỳ, Quốc ca, Thủ đô, Nước và Nhà nước, Đảng, Mặt trận, Công đoàn.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị nên dành một chương nói về nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, bố cục của Chương đang được sắp xếp theo logic những vấn đề quan trọng, mang tính nguyên tắc như những vấn đề thuộc bản chất chế độ, chính thể, nguyên tắc tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước được quy định trước, những nội dung cụ thể như Quốc kỳ, Quốc ca, Thủ đô ... quy định sau. Về cơ bản, bố cục này kế thừa cách quy định của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, chỉ đưa các nội dung về quốc ca, quốc kỳ, thủ đô từ chương cuối lên ghép chung với Chương I này. Vì đây là Chương về chế độ chính trị nên các thành tố của hệ thống chính trị như Nhà nước, Đảng, Mặt trận, các tổ chức thành viên của Mặt trận đều cần được đề cập tại Chương này. Quy định về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng tại một điều trong Chương này là phù hợp, bảo đảm cân đối với các nội dung khác của Hiến pháp. Do vậy, xin giữ bố cục như đã thể hiện trong Dự thảo đã công bố.
Bên cạnh đó, có một số ý kiến đề nghị nhập, tách hoặc bổ sung mới một số điều trong Chương này. Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP đã nghiên cứu và có một số điều chỉnh về kỹ thuật trên cơ sở bảo đảm tính logic, hợp lý, không trùng lặp với các quy định tại các chương tiếp theo.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 1
Qua tổng hợp, có nhiều ý kiến nhân dân đóng góp về vấn đề này. Nhìn chung các ý kiến cho rằng Điều 1 của Dự thảo đã thể hiện rõ những tiêu chí cơ bản của Nhà nước như tên nước, hình thức chính thể, chủ quyền quốc gia. Bên cạnh đó, nhân dân góp ý kiến trực tiếp vào các nội dung của Điều như sau:
2.1.1. Về nội dung khẳng định chủ quyền quốc gia (khoản 1)
a) Về cơ bản, các ý kiến đều tán thành với việc cần khẳng định nước ta là một nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Một số ý kiến đề nghị cần bổ sung thêm quy định chủ quyền về vùng lòng đất, tài nguyên trong lòng đất, vùng biên giới, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vùng nội thủy, vùng lãnh hải, vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế, vùng không gian vũ trụ; bổ sung quy định cụ thể ranh giới của nước Việt Nam nhằm khẳng định rõ chủ quyền quốc gia.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hoàng Sa, Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Chủ quyền quốc gia của Việt Nam đối với các vùng lãnh thổ này đã được xác lập và khẳng định trên các phương diện lịch sử và pháp lý. Tên gọi của các quần đảo này cũng đã được ghi nhận rõ trong Luật biên giới quốc gia, Luật biển Việt Nam và các văn bản khác. Bên cạnh quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, nước ta còn có rất nhiều đảo, quần đảo khác nữa. Do vậy, trong Hiến pháp chỉ nên quy định một cách khái quát “hải đảo, vùng biển” là đủ. Việc cụ thể hóa chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như các vùng lãnh thổ khác sẽ do các luật quy định.
b) Có ý kiến đề nghị đổi vị trí của từ “dân chủ” từ “dân chủ, độc lập” thành “độc lập, dân chủ” để nhấn mạnh yêu cầu về tính độc lập của quốc gia, bởi phải có độc lập thì mới có dân chủ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy việc chuyển vị trí của từ “dân chủ” vào giữa từ “độc lập” và cụm từ “có chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” là không phù hợp vì dân chủ là thuộc tính để chỉ bản chất của Nhà nước, của chế độ ta, được đề cập trong mối quan hệ đối nội, còn “độc lập”, “có chủ quyền” lại thường gắn liền với nhau để khẳng định địa vị, chủ quyền của quốc gia trong mối quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế... Do đó, xin được giữ như thể hiện trong Dự thảo đã công bố.
1.2.2. Về tên nước
Liên quan đến tên nước, qua tổng hợp các ý kiến đóng góp của nhân dân, nổi lên hai loại ý kiến chính như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến đề nghị tiếp tục quy định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tên gọi này ra đời trong bối cảnh nước ta vừa hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, khẳng định rõ con đường, mục tiêu xây dựng chế độ XHCN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tên gọi này đã được sử dụng ổn định từ tháng 7 năm 1976 đến nay, đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Hơn nữa, việc thay đổi tên nước trong thời điểm hiện nay sẽ dẫn đến những hệ quả không có lợi, thậm chí có thể bị xuyên tạc là ta đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn kém, phức tạp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị lấy lại tên gọi Việt Nam dân chủ cộng hòa vì tên gọi này gắn liền với sự ra đời của chính thể cộng hòa đầu tiên ở nước ta, là thành quả của cuộc cách mạng giành độc lập tháng Tám năm 1945. Tên gọi này đã được chính thức ghi nhận trong Bản tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 02 tháng 9 năm 1945 và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, thể hiện rõ thể chế chính trị của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ. Ý kiến này cho rằng, việc lựa chọn tên nước là Việt Nam dân chủ cộng hòa không làm ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta vì Lời nói đầu cũng như các quy định khác của Dự thảo đều khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Bên cạnh đó, còn có một số ý kiến đề nghị đổi tên nước thành “Việt Nam”, “Việt Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa”, “Việt Nam dân chủ xã hội chủ nghĩa”, “Cộng hòa dân chủ Việt Nam”, “Cộng hòa nhân dân Việt Nam”, “Cộng hòa dân chủ nhân dân Việt Nam”, “Cộng hòa dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Cộng hòa Việt Nam” hoặc “Cộng hòa Đại Việt”....
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thể hiện rõ hình thức chính thể của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ. Tuy nhiên, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định mục tiêu, con đường xây dựng và phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm tính ổn định, tránh việc phải thay đổi về quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên các văn bản, giấy tờ. Hơn nữa, trải qua 37 năm, tên gọi này đã trở nên quen thuộc đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.
2.2. Điều 2
2.2.1. Về bố cục
- Có ý kiến đề nghị tách các câu trong Điều này thành các khoản riêng biệt nhằm thể hiện rõ tính chất, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, nguồn gốc của quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
Tiếp thu các ý kiến nói trên, Ủy ban DTSĐHP đề nghị thể hiện các quy định này thành 3 khoản quy định 3 nội dung: (1) khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN; (2) khẳng định nguồn gốc và bản chất của quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân và (3) nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.
2.2.2. Về khoản 1
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “có tôn chỉ, sứ mệnh hành động là” trước cụm từ “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”; bổ sung cụm từ “và chịu sự giám sát của nhân dân” sau cụm từ “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vừa thể hiện bản chất của Nhà nước ta vừa là tôn chỉ, mục tiêu phấn đấu của Nhà nước. Tuy nhiên, trong Hiến pháp chỉ nên quy định một cách ngắn gọn “Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” vì vẫn bảo đảm đủ ý và phù hợp với nội dung đã được xác định trong Cương lĩnh cũng như các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước từ trước đến nay. Nội dung “chịu sự giám sát của nhân dân” đã được thể hiện cụ thể qua các quy định tại các điều 6, 7, 8 và thể hiện gián tiếp tại nhiều quy định khác của Hiến pháp nên xin không bổ sung vào Điều 2 này để tránh trùng lặp.
2.2.3. Về khoản 2
Hiện có các loại ý kiến chủ yếu sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ quy định như trong Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân, khẳng định nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vì quy định này thể hiện được đầy đủ bản chất giai cấp của Nhà nước và là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị chỉ quy định một cách tổng quát “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” để bảo đảm tính cô đọng, súc tích, thể hiện bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa mà không liệt kê các giai cấp, các giai tầng trong xã hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các ý kiến nói trên về cơ bản đều nhất quán với quan điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, tại Điều này của Hiến pháp cần thể hiện rõ bản chất giai cấp của Nhà nước. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 tiếp tục quy định "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" nhằm thể hiện bản chất giai cấp của Nhà nước, đồng thời khẳng định nền tảng vững chắc của chính quyền nhân dân, phù hợp với tính chất và nguyên tắc tổ chức của Nhà nước.
2.2.4. Về khoản 3
a) Bên cạnh nhiều ý kiến tán thành với việc bổ sung từ “kiểm soát” vào nguyên tắc “phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, có ý kiến còn băn khoăn về việc xác định cụ thể đâu là cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, việc cụ thể hóa cơ chế kiểm soát và tính khả thi của các quy định liên quan đến kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong bản Dự thảo Hiến pháp lần này.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP xin giải trình như sau: việc bổ sung nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được xác định trong các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và đã từng bước được thể hiện qua các văn bản pháp luật cũng như trong thực tiễn thực hiện thời gian qua. Việc bổ sung nội dung này trong Hiến pháp chính là thể chế hóa một bước nữa quan điểm chỉ đạo nói trên. Tuy nhiên, vì đây là các quy định mang tính nguyên tắc nên chỉ nên thể hiện một cách khái quát như trong Dự thảo đã công bố; nội hàm cụ thể của việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp sẽ được từng bước làm rõ trong quy định về các thiết chế cụ thể của Hiến pháp cũng như các luật về tổ chức bộ máy nhà nước sau này.
Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, bổ sung để làm rõ hơn vị trí, tính chất của từng loại cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung, tăng cường cơ chế phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan này trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước tại các chương V, VI, VII, VIII và IX của Dự thảo Hiến pháp.
b) Có ý kiến đề nghị nên quy định Điều này theo hướng Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” để các nhánh quyền lực có thể hoạt động một cách độc lập, tránh việc lạm quyền hoặc trốn tránh trách nhiệm, đồng thời có thể kiểm tra, giám sát lẫn nhau nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nguyên tắc “tam quyền phân lập” (hay còn gọi là nguyên tắc phân quyền) là một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc trong quá trình tổ chức bộ máy nhà nước ở nhiều nước hiện nay. Nội dung cốt lõi của nguyên tắc này là tổ chức quyền lực nhà nước phải được phân tách trên cơ sở ba nhánh quyền lực chính là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan đại diện quốc gia chỉ thi hành một loại nhiệm vụ, quyền hạn; lập pháp, hành pháp và tư pháp phải luôn tách biệt với nhau, chế ước, kiểm soát “tuyệt đối” lẫn nhau. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước có tính thống nhất hữu cơ, không thể phân tách độc lập và yêu cầu các quyền này chế ước, kiểm soát “tuyệt đối” lẫn nhau được. Trên thực tế, ở các nước thực hiện tam quyền phân lập, thực chất quyền lực nhà nước vẫn có sự đan xen, không thể tách biệt hoàn toàn với nhau. Cơ chế “kiềm chế” và “đối trọng” được áp dụng từ học thuyết phân quyền với thực tiễn chính trị nhiều quốc gia phương Tây cho thấy mặc dù thường có sự mâu thuẫn, chế ước lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp, nhưng do hai nhánh này luôn thống nhất ở khuynh hướng phát triển chung là phục vụ trước tiên cho lợi ích giai cấp cầm quyền, nên những mâu thuẫn tất yếu cũng được dàn xếp, cùng bắt tay nhau để thực thi quyền lực… Đề cao nguyên tắc tam quyền chính là hạ thấp quyền lực của nhân dân.
Do vậy, lý thuyết này không phù hợp với yêu cầu tổ chức quyền lực ở Việt Nam, nơi mà tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước một cách trực tiếp (qua bầu cử, trưng cầu ý dân ...) hoặc thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu ra và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Mục tiêu cuối cùng của thống nhất quyền lực nhà nước là phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam là sự kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống lập pháp, lập hiến của dân tộc, nhân loại và thời đại, do vậy, những điểm tích cực, tiến bộ trong cách thức tổ chức, quản lý cũng như kiểm soát quyền lực qua kinh nghiệm của các quốc gia luôn được xem xét, đánh giá, nhìn nhận một cách khách quan để có thể vận dụng phù hợp vào điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
2.3. Điều 3
Điều này quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thể hiện rõ mục tiêu xây dựng phấn đấu của Nhà nước là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
a) Có ý kiến đề nghị viết lại Điều 3 theo hướng công dân chủ động thực hiện quyền của mình chứ không chờ Nhà nước bảo đảm. Ý kiến khác đề nghị bỏ Điều này, vì tất cả quyền lực thuộc về nhân dân thì không cần ai “bảo đảm và phát huy quyền làm chủ”. Các nội dung còn lại nên đưa vào Chương II quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là Chương chế độ chính trị, do vậy, cần có điều quy định về trách nhiệm, cam kết của Nhà nước đối với việc bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện, cơ chế để nhân dân có thể thực hiện quyền lực của mình. Do vậy, xin giữ điều này ở Chương I, còn việc thực hiện các quyền của người dân như thế nào sẽ do các quy định tại Chương II và các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa.
b) Có ý kiến đề nghị bổ sung quyền giám sát của nhân dân; xử lý đối với hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân; bổ sung một số mục tiêu của Nhà nước như đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, mọi người có cuộc sống bình an, hạnh phúc, thân thiện, an toàn, có việc làm, có điều kiện học tập, nghiên cứu…và khẳng định Nhà nước có cơ chế để thực hiện các mục tiêu này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các nội dung nói trên đều đã được thể hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong các quy định khác của Hiến pháp (ví dụ khoản 2 Điều 8 về việc chịu sự giám sát của nhân dân, về chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, các điều trong Chương II quy định về quyền được bảo đảm an sinh xã hội, có quyền làm việc, được bảo vệ sức khỏe, sống trong môi trường trong lành... các điều trong Chương III xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường cho mọi người dân...) nên xin không bổ sung vào Điều 3.
c) Có ý kiến đề nghị nên bỏ bớt một số nội dung quy định về mục tiêu phấn đấu trong Điều này vì các nội dung này đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiến pháp, đồng thời tránh trùng lặp với các nội dung tương tự khác. Điều này chỉ nên tập trung quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với phát triển con người. Do đó, cũng có ý kiến đề nghị khẳng định ngay tại Điều này quyền con người được phát huy, quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo đảm.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, những nội dung thuộc về mục tiêu phấn đấu của Nhà nước cần được thể hiện một cách đầy đủ, chính xác, không nên giản lược vì dễ gây ra việc hiểu không thống nhất. Ủy ban xin tiếp thu một phần các ý kiến nêu trên và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.”
2.4. Điều 4
Nhìn chung, đại đa số ý kiến nhân dân tán thành về việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tán thành bổ sung quy định Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Qua tổng hợp, ý kiến nhân dân tập trung chủ yếu vào cách thể hiện các quy định tại Điều này.
2.4.1. Về khoản 1
a) Trong số các ý kiến đóng góp, nhân dân tập trung góp ý nhiều về cách thể hiện khoản 1 Điều 4, cụ thể như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định như trong Dự thảo đã công bố vì đã thể hiện một cách đầy đủ các nội dung và tinh thần của Cương lĩnh và Điều lệ Đảng về bản chất giai cấp, nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị viết lại một cách khái quát, cô đọng, chỉ cần khẳng định trong Hiến pháp Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Những nội dung quy định bản chất, nền tảng tư tưởng của Đảng đã được khẳng định trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng không cần thiết phải quy định lại trong Hiến pháp để bảo đảm sự ổn định lâu dài của quy định này.
Ủy ban DTSĐHP tán thành với loại ý kiến thứ nhất, giữ khoản 1 Điều 4 như Dự thảo đã công bố vì quy định này là kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Dự thảo đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng theo tinh thần mới của Cương lĩnh, đó là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Chính do bản chất này nên nhân dân ta mới thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng và ghi nhận vào Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước.
b) Bên cạnh đó, có một số ý kiến đề nghị sửa lại một số từ, ngữ trong khoản này như bổ sung từ “duy nhất” trước cụm từ “lãnh đạo Nhà nước”, bỏ liên từ “đồng thời”, bỏ cụm từ “là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam”, thay cụm từ “Nhà nước và xã hội” bằng cụm từ “Cách mạng”, bỏ đoạn “lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”, khẳng định Đảng ta là đảng cầm quyền...
Về các ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Hiến pháp năm 1980 quy định Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội do bối cảnh lúc đó nước ta ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng dân chủ và Đảng xã hội. Đến năm 1992, do không còn Đảng dân chủ và Đảng xã hội, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) chỉ quy định tại Điều 4 “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong điều kiện một đảng lãnh đạo ở Việt Nam thì quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã thể hiện ý Đảng ta là đảng cầm quyền. Vì vậy, không cần thiết phải quy định những nội dung này trong Hiến pháp. Mặt khác, nội dung quy định về bản chất giai cấp, nền tảng tư tưởng cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng đã được nghiên cứu, thảo luận một cách kỹ lưỡng và được thể hiện trong Cương lĩnh cũng như trong Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, Ủy ban đề nghị không nên thay đổi về từ ngữ sử dụng trong khoản này để bảo đảm kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành và cách thể hiện các nội dung này trong Văn kiện của Đảng.
2.4.2. Về khoản 2
Nhiều ý kiến tán thành với quy định tại khoản này. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị thay quy định Đảng “chịu trách nhiệm về những quyết định của mình” bằng quy định Đảng “chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Đảng không lãnh đạo chung chung, mà lãnh đạo thông qua các quyết định về Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng và chính sách, chủ trương lớn, thông qua công tác cán bộ của Đảng. Do đó, chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của Đảng chính là Đảng phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Quy định như vậy thể hiện rõ hơn, cụ thể hơn trách nhiệm của Đảng. Vì vậy, xin giữ nội dung này như đã thể hiện trong Dự thảo đã công bố.
2.4.3. Về khoản 3
Đa số các ý kiến đồng tình với quy định các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, có nghĩa là tổ chức Đảng và đảng viên vi phạm thì không chỉ bị xử lý, kỷ luật theo Điều lệ Đảng mà còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Không thể lấy việc xử lý sai phạm bằng hình thức kỷ luật của Đảng để thay thế cho việc xử lý bằng pháp luật. Có ý kiến đề nghị không cần quy định khoản này vì mọi người đều có trách nhiệm thi hành Hiến pháp và pháp luật chứ không riêng gì các tổ chức Đảng và đảng viên.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, về mặt pháp lý, tổ chức Đảng và đảng viên cũng đều được đối xử như đối với các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Tuy nhiên, như các ý kiến đã đề cập ở trên, việc nhấn mạnh nghĩa vụ “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” đối với các chủ thể này có ý nghĩa nhắc nhở các tổ chức Đảng và từng đảng viên không chủ quan, ỷ vào vai trò lãnh đạo của Đảng; không được có các hành vi lạm quyền, chuyên quyền, coi thường pháp luật. Bên cạnh trách nhiệm đối với Đảng, tổ chức Đảng và từng đảng viên còn phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm trước nhân dân, gương mẫu chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, qua đó vừa góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bản thân, vừa tăng thêm uy tín của Đảng đối với nhân dân, với xã hội.
2.4.4. Về một số ý kiến khác
a) Qua tổng hợp, có ý kiến đề nghị làm rõ hơn cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cơ chế chịu trách nhiệm của Đảng và cơ chế để nhân dân giám sát Đảng. Ý kiến này đề nghị cần có luật về Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Đảng thực thi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình đối với Nhà nước và xã hội, tạo sự minh bạch trong hoạt động của Đảng, tạo cơ sở cho nhân dân giám sát hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo về mặt chính trị thông qua Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng và chính sách, chủ trương lớn của mình. Cách thức, nội dung lãnh đạo được thể hiện linh hoạt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Bên cạnh đó, quy định mọi tổ chức Đảng, đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật hiện đã là một bảo đảm quan trọng để nhân dân có điều kiện giám sát, giúp cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Hơn nữa, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cũng là vấn đề đang được tổng kết, nghiên cứu. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không đưa vấn đề ban hành luật về Đảng vào Hiến pháp.
b) Có ý kiến đề nghị yêu cầu phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập vì như vậy mới bảo đảm dân chủ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, về lý luận, dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, không phải có đa nguyên là có dân chủ. Dân chủ là quyền của nhân dân tự mình quyết định hoặc tham gia với Nhà nước quyết định với những vấn đề nhất định. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị - nhà nước. Nó thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực. Quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa thành các chuẩn mực mang tính nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ. Vì vậy, không ai khẳng định là nhiều đảng sẽ tốt hơn một đảng.
Về thực tiễn, ở Việt Nam không có tiền đề cho đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Bởi vì, ở nước ta chỉ có một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng ta luôn là Đảng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là sự lựa chọn mang tính lịch sử và phù hợp với thực tế, hoàn cảnh xã hội nước ta. Điều đó được thể hiện và được đảm bảo trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp. Trên thế giới, tuy có nhiều nước tuyên bố theo chế độ đa đảng chính trị, nhưng thực chất vẫn chỉ là đảng đại diện cho một lực lượng xã hội duy nhất là giai cấp tư sản mặc dù các đảng này có thể có các tên gọi khác nhau. Các đảng thay nhau lãnh đạo đất nước, cùng bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp tư sản. Tuy thế, giữa các đảng phái này cũng luôn có sự tranh chấp quyền lợi với nhau (thực chất là sự tranh chấp giữa các nhóm lợi ích, giữa quyền lợi của các nhóm tư bản trong từng ngành, từng lĩnh vực) và điều này thường dẫn đến tình trạng bất ổn về chính trị trong nội bộ đất nước, cản trở sự phát triển chung của xã hội.
Do vậy, dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế một đảng hay đa đảng, mà nó phụ thuộc vào bản chất của chế độ cầm quyền phục vụ cho lợi ích của giai cấp nào cũng như cách thức vận hành cụ thể của bộ máy nhà nước trong từng xã hội.
c) Cá biệt có ý kiến đề nghị không cần quy định Điều này vì trên thực tế Đảng luôn là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và thông qua các hành động cụ thể của tổ chức Đảng và từng đảng viên. Không quy định Điều này cũng vẫn không làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp có thể khiến cho Đảng chủ quan, tự mãn, từ đó dễ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền, xa dân, mất dần đi sự ủng hộ của nhân dân, thậm chí đối lập lại với lợi ích của nhân dân. Không quy định cứng về Đảng trong Hiến pháp sẽ buộc Đảng phải liên tục phấn đấu, tự chỉnh đốn, hoàn thiện mình vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc nhằm đạt được sự tín nhiệm của nhân dân, đồng thời sẽ hạn chế được phần nào các luận điệu chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng và Nhà nước ta.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy việc tiếp tục hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng là cần thiết bởi vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền, xây dựng và phát triển của đất nước đều đã được khẳng định cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất của nước CHXHCN Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập với hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành đã có công lao cực kỳ to lớn trong việc lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đem lại hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất cho đất nước. Việc nhân dân ta tin tưởng vào Đảng Cộng sản, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp là một việc làm đúng đắn và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, thể hiện ý chí, nguyện vọng của đại đa số nhân dân Việt Nam yêu nước, yêu hòa bình. Quy định về Đảng trong Hiến pháp nhằm khẳng định tính chính đáng của Đảng trong việc lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, đồng thời cũng là cơ sở ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với Đảng. Quy định này của Hiến pháp không chỉ xác định vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn thể hiện trách nhiệm của Đảng đối với đất nước, với nhân dân, nhắc nhở Đảng phải luôn trung thành với lợi ích của giai cấp, của dân tộc, phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phụng sự nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo về mặt chính trị, thông qua các chủ trương, đường lối đúng đắn và phù hợp thực tế cuộc sống, thông qua việc giới thiệu các đảng viên ưu tú tham gia vào bộ máy nhà nước và bằng sự gương mẫu của chính các cán bộ, đảng viên, sự trong sạch của các tổ chức Đảng. Tuy nhiên, đây không phải là sự lãnh đạo trên pháp luật mà Đảng phải chịu trách nhiệm đối với những quyết định của mình, các tổ chức đảng và mọi đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, giữ quy định về Đảng ở mức độ như đã thể hiện trong Dự thảo Hiến pháp là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
2.5. Điều 5
2.5.1. Về khoản 1
Có ý kiến đề nghị sửa khoản này theo hướng bao quát hơn, bổ sung quy định người Việt Nam sinh sống, định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Điều này quy định về chính sách dân tộc của Nhà nước và quyền của các dân tộc với tư cách các tộc người cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, nội dung quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam đã được thể hiện tại Điều 19. Do vậy, việc bổ sung vào Điều này là không cần thiết.
2.5.2. Về khoản 2
Có ý kiến đề nghị bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm như phân biệt vùng miền, tỉnh thành, phân biệt chủng tộc; bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết dân tộc, trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc đã bao hàm cả nghiêm cấm phân biệt vùng miền, phân biệt chủng tộc. Do vậy, không cần kể một cách chi tiết về các hành vi nói trên trong Điều này. Trách nhiệm của Nhà nước trong vấn đề dân tộc cũng đã được lồng ghép trong quy định về các chính sách cụ thể của Nhà nước trên từng lĩnh vực tại các chương sau nên xin không bổ sung vào Điều này.
2.5.3. Về khoản 3
a) Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, không được sử dụng tiếng nước ngoài tại các diễn đàn chính thức của Nhà nước như kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và đại hội Đảng; bổ sung quy định chữ quốc ngữ là chữ viết thống nhất được sử dụng trong hệ thống các cơ quan nhà nước của nước CHXHCN Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia đã bao hàm cả tiếng nói và chữ viết. Hơn nữa, Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề chung, mang tính khái quát cao, do vậy các nội dung cụ thể như các ý kiến trên đề xuất xin được tiếp tục nghiên cứu và thể hiện trong các quy định của luật và văn bản dưới luật.
b) Có ý kiến đề nghị bổ sung việc tuân thủ pháp luật trong việc giữ gìn và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp để tránh lợi dụng gây hậu quả xấu cho xã hội; bổ sung quy định “các dân tộc có quyền xác định và xác định lại tên gọi của dân tộc mình theo quy định của pháp luật”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy trách nhiệm tuân thủ pháp luật là trách nhiệm chung của mọi tổ chức, cá nhân; việc lợi dụng các quyền để chống phá, đi ngược lại lợi ích của Nhà nước, của dân tộc, gây hậu quả xấu cho xã hội đều bị nghiêm cấm. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại các Điều 11, Điều 16 của Dự thảo Hiến pháp. Do vậy, không cần thiết phải lặp lại ở các điều quy định về từng nội dung cụ thể.
Về quyền xác định tên gọi của dân tộc, Ủy ban nhận thấy dân tộc với ý nghĩa tộc người tuy có những điểm chung về nguồn gốc, chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục... nhưng lại không có hình thức tổ chức chặt chẽ. Do vậy, xác định quyền cho tộc người chính là quyền của từng cá nhân trong tộc người đó. Trên thực tế, việc gọi tên các dân tộc thời gian qua là căn cứ vào truyền thống, tập quán và dựa trên những căn cứ khoa học, lịch sử, được giới chuyên môn thừa nhận. Do đó, tên các dân tộc không thể chỉ là mong muốn của một nhóm hay một bộ phận người.
c) Có ý kiến đề nghị chỉ nên quy định nội dung về dân tộc, chính sách đoàn kết dân tộc, nhiệm vụ của Nhà nước trong công tác này; không quy định về ngôn ngữ quốc gia tại Điều 5 mà đưa nội dung này vào quy định tại Điều 13.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đặt nội dung quy định về ngôn ngữ quốc gia tại Điều này hay tại Điều 13 đều có tính logic, hợp lý riêng. Tuy nhiên, đặt tại Điều này sẽ có sự kết nối trực tiếp đến quyền sử dụng ngôn ngữ riêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Vì vậy, xin được giữ nội dung này tại Điều 5.
2.5.4. Về khoản 4
Có ý kiến đề nghị Nhà nước có chính sách và tạo điều kiện phát triển cho tất cả các dân tộc, không chỉ dân tộc thiểu số, để tránh sự phân biệt giữa các dân tộc Việt Nam. Có ý kiến đề nghị đổi cụm từ “dân tộc thiểu số” thành “dân tộc ít người”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, cụm từ “dân tộc thiểu số” hiện đang được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật của Nhà nước; về mặt ý nghĩa thì cũng không có gì khác so với cụm từ “dân tộc ít người”. Về ý kiến còn lại, Điều này đang quy định về chính sách dân tộc nên không thể không đề cập đến chính sách của Nhà nước đối với nhóm dân tộc thiểu số, thường có điều kiện phát triển hạn chế hơn so với dân tộc chiếm đa số của quốc gia. Hơn nữa, chính sách phát triển chung đã được quy định tại các điều cụ thể về từng lĩnh vực. Do vậy, về cơ bản, xin giữ như quy định đã công bố lấy ý kiến, chỉ sửa cụm từ “hòa nhập” thành “góp phần” nhằm nhấn mạnh hơn sự đóng góp của các dân tộc anh em vào sự phát triển chung của đất nước.
2.6. Điều 6
Phần lớn các ý kiến tán thành như Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc bỏ quy định “thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” để bảo đảm tính cân đối trong quy định về hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Có ý kiến đề nghị bổ sung các chủ thể để người dân thông qua đó có thể thực hiện quyền lực của mình như “tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội”, “các đại biểu do mình bầu ra”, “các đoàn, hội hợp pháp” và bổ sung cơ chế để nhân dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan khác của Nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều này quy định về cách thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Khác với Hiến pháp hiện hành, Dự thảo sửa đổi lần này đã khẳng định rõ nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Các hình thức thể hiện dân chủ trực tiếp là khá đa dạng, thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số hình thức dân chủ trực tiếp quan trọng nhất như bầu cử, trưng cầu ý dân đã được quy định ngay trong Hiến pháp; ngoài ra còn những hình thức khác như tham gia ý kiến, thực hiện dân chủ ở cơ sở... đang được quy định trong các văn bản pháp luật khác. Do đó, khó có thể liệt kê hết trong quy định của Hiến pháp.
Việc quy định phạm vi dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước là mở rộng hơn cách hiểu về nội dung này so với quy định trong Hiến pháp năm 1992. Bởi vì, thực chất các cơ quan khác của Nhà nước cũng đều do Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp lập ra một cách trực tiếp hay gián tiếp, và đều chịu sự giám sát của các cơ quan dân cử. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan đều có trách nhiệm tiếp nhận, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của người dân, đáp ứng các nhu cầu của người dân. Do vậy, đây cũng là cách để người dân thực hiện quyền lực của mình. Tuy nhiên, bởi quy định tại Điều này chỉ đề cập đến việc thực hiện quyền lực nhà nước của người dân mà không bao quát toàn bộ phương thức thực hiện chủ quyền nhân dân nói chung, nên không thể bổ sung việc nhân dân thực hiện quyền thông qua các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các hội đoàn hợp pháp khác tại điều này. Nội dung này sẽ được đề cập trong quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể xã hội khác tại các điều sau.
2.7. Điều 7
a) Có ý kiến đề nghị bổ sung một số nguyên tắc trong bầu cử như kiểm phiếu công khai, dưới sự kiểm soát của nhân dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín là nguyên tắc mang tính phổ quát, đã được nhiều quốc gia ghi nhận trong Hiến pháp của mình. Các nội dung như kiểm phiếu công khai, bảo đảm sự giám sát trong quá trình bầu cử thực chất là cách thức tổ chức, tiến hành cuộc bầu cử, không phải là nguyên tắc bầu cử. Các nội dung này sẽ được xem xét, quy định cụ thể trong các luật về bầu cử để bảo đảm việc tổ chức các cuộc bầu cử công bằng, đúng pháp luật.
b) Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định các đại biểu phải được cử tri bỏ phiếu tín nhiệm hàng năm, bổ sung cơ chế để cử tri bãi nhiệm đại biểu, bổ sung quy định về việc từ chức của đại biểu. Ý kiến khác đề nghị bỏ cơ chế cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân vì quy định này không thực tế và khó khả thi.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc cử tri thể hiện mức độ tín nhiệm đối với đại biểu do mình bầu ra là cần thiết. Tuy nhiên, cần có cơ chế để công việc này có thể mang tính thiết thực và hiệu quả. Tương tự như cơ chế để cử tri bãi nhiệm đại biểu, tuy đã được Hiến pháp ghi nhận khá lâu nhưng đến nay vẫn chưa có cơ chế để thực hiện. Do vậy, Ủy ban xin tiếp tục nghiên cứu các nội dung này để có sự thể hiện thích hợp trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật có liên quan. Đối với việc từ chức của đại biểu, hiện trong các văn bản pháp luật cũng như các văn bản của Đảng đã có quy định tương đối cụ thể về việc từ chức của cán bộ, công chức, những người có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể nói chung tương ứng với nhiều trường hợp cụ thể khác nhau. Do đó, đề nghị tiếp tục quy định về nội dung này ở các luật.
2.8. Điều 8
2.8.1. Về khoản 1
Nhiều ý kiến đồng ý với quy định tại khoản 1 Điều này, song đề nghị bổ sung nguyên tắc đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, tăng cường pháp chế và sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ý kiến khác đề nghị bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ trong khoản này vì đã được bao hàm trong nội dung “theo Hiến pháp và pháp luật”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hệ thống các cơ quan nhà nước bao gồm cả các cơ quan hoạt động theo chế độ tập thể và các cơ quan theo chế độ thủ trưởng. Vì vậy, nếu nhấn mạnh vai trò của người đứng đầu sẽ không phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan theo chế độ tập thể. Yêu cầu tăng cường pháp chế đã được thể hiện ngay trong việc xác định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do vậy, xin không bổ sung các nội dung nói trên vào khoản 1 Điều 8.
Ủy ban cũng nhận thấy, nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Do đó, xin giữ quy định về nguyên tắc này như đã thể hiện trong Dự thảo đã công bố.
2.8.2.Về khoản 2
a) Có ý kiến cho rằng chỉ quy định về nền hành chính và chế độ công vụ tại khoản này là thu hẹp phạm vi so với quy định của Hiến pháp hiện hành. Không chỉ có các cơ quan hành chính nhà nước mới được tổ chức để phục vụ nhân dân mà tất cả các cơ quan nhà nước nói chung đều có trách nhiệm này.
Tiếp thu các ý kiến trên, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý lại điều này theo cách đang sử dụng trong Hiến pháp năm 1992, chỉ chỉnh lý, bổ sung một số từ ngữ để bảo đảm chính xác, phù hợp với điều kiện hiện nay. Cụ thể như sau: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền."
b) Có ý kiến đề nghị bổ sung một số chủ thể ngoài cán bộ, công chức, viên chức như người lao động, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân.
Ủy ban DTSĐHP xin không bổ sung thêm vì Điều này đang tập trung quy định về Nhà nước và các yếu tố cấu thành chủ yếu. Do vậy, bên cạnh cơ quan nhà nước thì cán bộ, công chức, viên chức, với tư cách là các chủ thể quan trọng, đặc thù trong mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, cần được đặc biệt nhấn mạnh.
c) Có ý kiến đề nghị bổ sung các nghĩa vụ của cán bộ, công chức như phải được tuyển dụng thông qua thi tuyển hoặc bỏ phiếu tuyển chọn, “chỉ được làm những việc pháp luật cho phép”, “chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân trong bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước”, “không tham nhũng”… Ý kiến khác lại đề nghị bỏ quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức, viên chức, nghĩa vụ này nên để Luật cán bộ, công chức điều chỉnh vì trùng lặp với Điều 60.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy khoản này tập trung quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, thể hiện bản chất cũng như những trách nhiệm chính của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thay mặt Nhà nước phục vụ nhân dân, thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đối với nhân dân. Do vậy, những quy định này phải vừa cô đọng, súc tích song vẫn bảo đảm đủ ý. Tuy có một số điểm trùng với quy định tại các điều khác nhưng vẫn nên được đề cập tại khoản này để làm toát lên bản chất cũng như yêu cầu đối với người cán bộ, công chức, viên chức, thực sự là “người công bộc” của nhân dân như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Bên cạnh đó, do đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau, cơ chế tuyển chọn đối với từng nhóm, từng bộ phận cũng có những điểm riêng biệt, nên các nguyên tắc tuyển chọn cán bộ, công chức, viên chức xin để cho các luật liên quan điều chỉnh.
d) Có ý kiến đề nghị có cơ chế để nhân dân có thể giám sát các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức. Ý kiến khác đề nghị bỏ quy định này vì các cơ quan nhà nước đều chịu sự giám sát của nhân dân trong đó có cán bộ, công chức, viên chức.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, cơ chế để người dân giám sát cán bộ, công chức, viên chức hiện đã được quy định trong một số văn bản pháp luật tuy có thể chưa đầy đủ song các quy định này sẽ được tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới. Do vậy, Hiến pháp cần tiếp tục ghi nhận nguyên tắc “chịu sự giám sát của nhân dân” nhằm thường xuyên nhắc nhở đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ không bao giờ được xa rời dân, tách mình khỏi nhân dân, đối lập với quyền lợi của người dân.
2.8.3. Về khoản 3
Có ý kiến đề nghị bỏ khoản này vì trùng với Điều 49; đề nghị bổ sung quy định: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều bị xử lý”.
Tiếp thu ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP đã bỏ khoản 3 trong Dự thảo đã công bố vì nội dung này đã bao hàm trong quy định tại Điều 49. Tuy nhiên, Ủy ban đề nghị không bổ sung quy định về việc xử lý các hành vi vi phạm vì quy định về các hành vi vi phạm bao giờ cũng phải kèm theo các hình thức chế tài tương ứng. Do đó, nếu chỉ dừng ở mức quy định khái quát như đề xuất nêu trên là không cần thiết vì quá chung chung.
2.9. Về Điều 9 và Điều 10
2.9.1. Liên quan đến các quy định của Hiến pháp về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9) và vai trò của tổ chức Công đoàn (Điều 10), qua tổng hợp có một số loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 9, bổ sung thêm một khoản quy định về các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận để làm nổi rõ tính gắn kết trong mối quan hệ giữa các tổ chức này, phản ánh đặc thù của hệ thống chính trị ở nước ta.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành quy định về Mặt trận Tổ quốc (tại Điều 9) và đề nghị sửa Điều 10 theo hướng quy định chung về các tổ chức chính trị - xã hội bởi vì nếu chỉ đề cập đến tổ chức Công đoàn như Điều 10 hiện nay sẽ không phản ánh được vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội khác, không tạo cơ sở hiến định, bảo đảm sự bình đẳng cũng như không làm rõ được mối quan hệ, sự gắn kết giữa các tổ chức này với nhau và với Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị.
- Loại ý kiến thứ ba tán thành với cách quy định của Hiến pháp hiện hành là có điều riêng quy định về Mặt trận Tổ quốc và một điều quy định về Công đoàn.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu và bổ sung một khoản vào Điều 9 quy định chung về các tổ chức chính trị - xã hội (khoản 2 Điều 9). Cụ thể như sau: "Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình, cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam."
Đối với quy định về Công đoàn Việt Nam tại Điều 10, Ủy ban xin trình Quốc hội hai phương án:
Phương án 1: không có Điều 10 vì vai trò của Công đoàn đã được thể hiện tại khoản 2 Điều 9.
Phương án 2: giữ Điều 10 quy định về Công đoàn Việt Nam như Dự thảo đã công bố để tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của tổ chức Công đoàn.
2.9.2. Về một số ý kiến khác
a) Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định khẳng định vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị; bổ sung chức năng “đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”; bổ sung nhiệm vụ “tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, “tham gia xây dựng Đảng”, "thực hiện đối ngoại nhân dân"...
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy về cơ bản các đề nghị kể trên là hoàn toàn phù hợp với bản chất và chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đã được xác định trong Cương lĩnh. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu phần lớn các ý kiến nêu trên, chỉ không nêu trong Hiến pháp Mặt trận Tổ quốc là bộ phận của hệ thống chính trị vì khái niệm hệ thống chính trị chưa được xác định trong Hiến pháp, đồng thời thể hiện lại khoản 1 Điều 9 như sau: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Mặt trận tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân."
b) Về chính sách của Nhà nước tại khoản 3 Điều 9, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng cụm từ “bảo đảm điều kiện” để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả và thay cụm từ “các tổ chức xã hội khác” bằng “các tổ chức thành viên của Mặt trận” để phù hợp với hệ thống tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để các tổ chức này hoạt động là phù hợp bởi vì tuy đều nằm trong hệ thống chính trị, hợp thành cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân song về nguyên tắc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận được thành lập một cách tự nguyện, giữ vai trò, vị trí riêng, có cách thức hoạt động riêng. Do đó, nếu quy định Nhà nước phải bảo đảm điều kiện hoạt động cho tất cả các tổ chức sẽ là không khả thi và không thực tế, bên cạnh đó lại làm giảm tính chủ động, tính độc lập của các tổ chức trong quá trình tham gia giám sát, góp ý kiến, phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Việc mở rộng quy định tại khoản 3 để đề cập đến cả các tổ chức xã hội không phải là thành viên của Mặt trận Tổ quốc là một bước tiến quan trọng, thừa nhận vai trò của các tổ chức này trong quá trình phát triển của đất nước nói chung, thể hiện sự tôn trọng quyền lập hội, tạo điều kiện mở rộng dân chủ trong xã hội.
c) Có ý kiến đề nghị bổ sung các điều riêng quy định về các tổ chức chính trị - xã hội khác như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh... tương tự như quy định về tổ chức công đoàn tại Điều 10.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP đã thảo luận và cho rằng mỗi tổ chức chính trị - xã hội đều có vai trò và vị trí quan trọng như nhau. Tuy nhiên, việc có điều riêng quy định riêng về từng tổ chức chính trị - xã hội trong Hiến pháp là không bảo đảm cân đối với các quy định khác của Hiến pháp, không mang tính khái quát. Bên cạnh đó, việc xác định tổ chức nào là tổ chức chính trị - xã hội, cũng như tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức lại có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn, từng thời kỳ. Do đó, nếu quy định quá chi tiết về các tổ chức này trong Hiến pháp sẽ không bảo đảm tính ổn định của Hiến pháp, đồng thời dễ dẫn đến nhà nước hóa các tổ chức, đoàn thể này. Vì các lý do trên, xin phép Quốc hội chỉ bổ sung một khoản tại Điều 9 quy định chung về các tổ chức này với tư cách là các tổ chức đại diện cho các lực lượng xã hội đông đảo nhất (bao gồm cả Công đoàn Việt Nam) trong mối quan hệ gắn bó, cùng phối hợp và thống nhất hành động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà không quy định thành các điều riêng biệt.
d) Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 9 và Điều 10 vì đây không phải các thiết chế của Nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận là bộ phận của hệ thống chính trị ở nước ta, cùng hợp thành cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Do vậy, việc Hiến pháp thừa nhận vai trò, vị trí của các tổ chức này là cần thiết, nhằm góp phần phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân.
2.10. Điều 11
Đa số các ý kiến tán thành với quy định tại Điều này. Một số ý kiến đề nghị đảo vị trí Điều này trong Chương và điều chỉnh một số từ, ngữ về mặt kỹ thuật.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đặt vị trí quy định này tại Điều 11 là phù hợp và xin tiếp thu, chỉnh sửa về kỹ thuật của Điều này như sau:
“1. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
2. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị."
2.11. Điều 12
a) Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực trong hội nhập quốc tế”, nhấn mạnh yêu cầu “bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các nội dung nêu trên là hoàn toàn phù hợp với tính chất và tình hình quan hệ quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, xin tiếp thu và bổ sung các nội dung này vào Dự thảo.
b) Có ý kiến đề nghị bổ sung chủ thể “các vùng lãnh thổ, các thực thể chính trị, các tổ chức quốc tế và khu vực” trong mối quan hệ với Việt Nam, vì nước ta có quan hệ với các vùng lãnh thổ (như Đài Loan), các thực thể chính trị (như PLO…), các tổ chức quốc tế và khu vực.
Ủy ban DTSĐHP đã nghiên cứu các ý kiến nói trên và chỉnh lý lại quy định này theo hướng khái quát hơn. Cụ thể như sau: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.”
2.12. Điều 13
a) Về cơ bản các ý kiến tán thành với việc chuyển vị trí các quy định từ Chương cuối của Hiến pháp hiện hành lên Điều này. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định về tiêu ngữ, quốc ngữ, quốc phục, quốc hoa, đồng tiền Việt Nam, Thủ đô, ngày giỗ tổ Hùng Vương và một số biểu tượng khác của đất nước vào Điều này.
Tiếp thu một phần các ý kiến nói trên, Ủy ban DTSĐHP đã chuyển quy định về Thủ đô thành khoản 5 của Điều này, bổ sung quy định về đồng tiền quốc gia tại khoản 3 Điều 59. Còn về các nội dung khác, xin chưa bổ sung vì phần lớn các biểu tượng này mang tính văn hóa, truyền thống, ít có ý nghĩa đại diện quốc gia.
b) Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định nhằm làm rõ hơn về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca như kích thước, tỷ lệ, vị trí, các chi tiết, mầu sắc của các chi tiết, hình mẫu của Quốc kỳ, Quốc huy; bổ sung quy định tên tác giả, năm sáng tác và phần lời của Quốc ca... Có ý kiến đề nghị thay đổi các chi tiết, mầu sắc trong Quốc kỳ, Quốc huy và phần lời của bài Quốc ca.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy việc sử dụng các biểu trưng này đã có quá trình lịch sử tương đối lâu dài, đã được quy định và sử dụng ổn định từ Hiến pháp năm 1980 đến nay. Do vậy, xin kế thừa các quy định này của Hiến pháp, chỉ thay đổi về bố cục điều.
2.13. Điều 14
Về cơ bản, các ý kiến đều nhất trí với việc chọn Hà Nội làm Thủ đô. Một số ý kiến đề nghị đổi tên thủ đô là Thăng Long vì tên này đã có lịch sử lâu đời. Có ý kiến xác định quy định Thủ đô “được đặt tại Hà Nội” hoặc “được đặt tại thành phố Hà Nội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tên gọi của Thủ đô đã được thay đổi nhiều lần, gắn với từng thời kỳ lịch sử nhất định. Mỗi tên gọi lại có những ý nghĩa khác nhau, đều đáng được trân trọng. Tên gọi Hà Nội như hiện nay cũng đã được sử dụng chính thức từ khá lâu và được thừa nhận rộng rãi. Bên cạnh đó, cụm từ “Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội” vẫn thường xuyên được nhắc đến để luôn nhắc nhở mỗi chúng ta về truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc. Do vậy, không nên đặt vấn đề thay đổi tên gọi của Thủ đô.
Về quy định “Thủ đô nước Việt Nam là Hà Nội” hay “Thủ đô nước Việt Nam được đặt tại Hà Nội”, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy vấn đề này đã được thảo luận kỹ lưỡng trong quá trình chuẩn bị và xem xét thông qua Luật Thủ đô (tháng 11-2012). Do vậy, xin giữ quy định về Thủ đô như trong Hiến pháp hiện hành, đồng thời chuyển nội dung Điều này thành khoản 5 của Điều 13.
IV. VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN (CHƯƠNG II)
Qua tổng hợp ý kiến của nhân dân, nhiều ý kiến tán thành với việc bố cục chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thành Chương II và đánh giá cao việc ghi nhận các quyền con người trong Dự thảo đã báo quát hầu hết các quyền cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người theo các điều ước quốc tế. Dự thảo đã tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, Dự thảo cũng đã bổ sung một số quyền mới phù hợp với các điều ước về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Nhiều ý kiến đề nghị sửa kỹ thuật, câu chữ.
1. Những góp ý chung
Về các vấn đề chung của Chương II có các loại ý kiến sau đây:
1.1. Về tên Chương
Có ý kiến đề nghị sửa lại tên gọi của Chương này như sau: “Quyền con người; quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm cơ bản của công dân”, “Quyền và nghĩa vụ của con người”, “Quyền con người cơ bản, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”; “Nghĩa vụ và quyền của công dân” hoặc “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, công dân”; “Quyền, nghĩa vụ của con người và công dân”; “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân”, “Các quyền và tự do cơ bản” hay “Các quyền và tự do cơ bản của con người”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tên gọi như trong Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân vừa kế thừa Hiến pháp năm 1992, vừa bổ sung nội dung quyền con người cho đầy đủ hơn, nên đã bao hàm nội dung của các tên gọi do các ý kiến nói trên đề xuất. Bên cạnh đó, tên gọi như trong Dự thảo thể hiện chính xác hơn so với một số tên gọi được đề xuất, ví dụ Dự thảo đề cập đến “quyền”, chứ không phải “quyền lợi” như một số ý kiến đóng góp. Đồng thời, tham khảo Hiến pháp các nước, Ủy ban DTSĐHP xin giữ nguyên tên gọi của Chương II như trong Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
1.2. Loại ý kiến thứ nhất đề nghị cần làm rõ, phân biệt khái niệm quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của con người từ lúc sinh ra; còn quyền công dân trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là vị thế pháp lý của công dân trong quan hệ với Nhà nước, được Nhà nước bảo đảm đối với công dân của nước mình. Chỉ những người có quốc tịch mới được hưởng quyền công dân ở quốc gia đó, ví dụ như quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước... Để làm rõ sự khác biệt này, tham khảo các Công ước quốc tế về quyền con người và Hiến pháp các nước, Dự thảo sử dụng từ “mọi người”, “không ai” khi thể hiện quyền con người và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị không quy định về quyền con người trong Hiến pháp, chỉ quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như Hiến pháp năm 1992, vì quyền công dân đã bao hàm quyền con người, hơn nữa, Hiến pháp Việt Nam chỉ nên quy định đối với công dân Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp cần quy định về quyền con người vì như đã giải trình ở trên, quyền con người, quyền công dân là 2 khái niệm khác nhau. Mặt khác, Việt Nam gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người, nên cần bảo đảm quyền không chỉ cho công dân Việt Nam. Đây là lần đầu tiên quyền con người được hiến định ở nước ta cho dù quyền con người vẫn được bảo vệ bằng các quy định khác của pháp luật. Việc ghi nhận quyền con người trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đánh dấu một bước phát triển trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tạo tiền đề để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
1.3. Loại ý kiến thứ hai đề nghị xem lại cách quy định về quyền con người và quyền công dân, tách riêng quyền con người, quyền công dân thành các mục khác nhau.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quyền con người, quyền công dân có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó. Vì vậy, Dự thảo không tách bạch thành các mục riêng về quyền con người và quyền công dân, mà quy định theo kết cấu của các Công ước quốc tế về quyền con người. Theo đó, các nội dung của Chương II được sắp xếp như sau: các nguyên tắc chung, các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, cuối cùng là quy định về nghĩa vụ. Nếu quy định những điều về quyền con người rồi tiếp đến là quyền công dân thì dẫn đến tình trạng lặp lại các quyền ở phần quy định về quyền công dân. Tham khảo Hiến pháp của các nước cũng được bố cục tương tự.
1.4. Loại ý kiến thứ ba đề nghị có các quy định bảo đảm tính hiện thực, khả thi của các quyền. Cụ thể là phải xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước và những bảo đảm của Nhà nước; tránh thể hiện theo văn phong “cương lĩnh”; các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp có hiệu lực áp dụng trực tiếp; không nên quy định về một số quyền chưa khả thi mà chỉ cần hiến định các quyền cơ bản mà dễ bị tổn thương do sự lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước gây ra. Cần quy định về thiết chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (có thể là Ủy ban về quyền con người thuộc Quốc hội, Cơ quan Nhân quyền quốc gia hoặc Ủy ban quốc gia về quyền con người…).
Tiếp thu các ý kiến đóng góp, Ủy ban DTSĐHP đã chỉ đạo chỉnh sửa các điều khoản để rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện quyền, bảo đảm nguyên tắc vừa ghi nhận quyền con người, quyền công dân vừa thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền tại các điều 18, 19, 25, 27,29, 31, 32, 39, 40. Dự thảo cũng đã sử dụng tối đa ngôn ngữ, văn phong pháp lý, có tính chất ràng buộc hơn.
Mặt khác, đối với một số quyền về xã hội, môi trường…, Dự thảo thể hiện sự thừa nhận khái quát nhất, còn trách nhiệm chi tiết của Nhà nước trong việc đảm bảo các điều kiện thực hiện các quyền đó thì để luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định, vì Hiến pháp không thể quy định hết về những nội dung chi tiết đó.
Đối với một số quyền con người được coi là chưa khả thi như quyền được sống trong môi trường trong lành, Dự thảo vẫn ghi nhận nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền, đồng thời thể hiện định hướng cam kết của Nhà nước phải bảo đảm thực hiện. Đây cũng là xu hướng hiện nay trong luật quốc tế về quyền con người và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới.
Đối với ý kiến đề xuất thành lập cơ quan chuyên trách về quyền con người, Ủy ban DTSĐHP cho rằng đây là một thiết chế góp phần thúc đẩy, bảo vệ quyền con người, nhưng trong điều kiện hiện nay, cần có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng hơn. Hơn nữa, Dự thảo cũng đã trù liệu cơ chế bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tuân theo Hiến pháp, trong đó phải tuân theo các quy định về quyền con người, quyền công dân. Qua đó có thể tăng cường tính khả thi của các quy định về quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, việc thúc đẩy, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là trách nhiệm của toàn bộ các cơ quan nhà nước. Với những lý do như vậy, Dự thảo chưa quy định về thiết chế này.
1.5. Loại ý kiến thứ tư cho rằng về cơ bản quyền con người là không bị hạn chế, nhưng nếu hạn chế phải chỉ rõ cơ sở để hạn chế và chỉ được hạn chế theo quy định của luật.
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, có thể hạn chế một số quyền, nhưng cần thể hiện rõ việc hạn chế chỉ trong một số trường hợp vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội, tôn trọng quyền và tự do của người khác…Như vậy, tùy vào từng quyền mà việc hạn chế quyền được phép hạn chế như thế nào cho phù hợp. Do đó, tiếp thu ý kiến nhân dân, theo tinh thần các Công ước quốc tế, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh sửa Điều 15 khoản 2 để làm rõ hơn lý do và những trường hợp có thể hạn chế quyền, ngăn ngừa sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền. Theo đó, “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”.
1.6. Loại ý kiến thứ năm đề nghị xác định rõ trường hợp nào việc thực hiện quyền theo quy định của luật, trường hợp nào theo quy định của pháp luật để tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền công dân của các cơ quan công quyền; bảo đảm nguyên tắc quyền do Hiến pháp và luật quy định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hệ thống pháp luật của Việt Nam gồm nhiều văn bản khác nhau, do các cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban hành, từ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đến nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. Quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những nội dung rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến con người, công dân. Vì vậy, về nguyên tắc, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có thể được quy định trong Hiến pháp mà không thể quy định bằng pháp luật nói chung; khi được quy định trong Hiến pháp thì đã có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó, trong một số trường hợp cần phải có các quy định về quy trình, thủ tục cụ thể, hoặc về các điều kiện bảo đảm với mức độ chi tiết khác nhau mà luật cũng không quy định hết, cần có các văn bản quy phạm pháp luật khác. Do đó, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát từng quyền trong Chương II để thể hiện trường hợp nào thì “theo quy định của luật” (các điều 15, 22, 23a, 38 và 48), trường hợp nào thì “theo quy định của pháp luật” (các điều 23, 24, 26, 31 và 32). Để giảm thiểu sự lạm dụng cụm từ “theo quy định của pháp luật”, trong thực tế sau này cần thực hiện triệt để nguyên tắc về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
1.7. Loại ý kiến thứ sáu đề nghị, trong một số trường hợp cần có quy định về nghĩa vụ cơ bản của công dân nhằm bảo đảm nguyên tắc việc hưởng quyền phải tương ứng với thực hiện nghĩa vụ.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, bổ sung quy định về nghĩa vụ vào các điều 16, 42, 46, 47, 48, 49 và 50. Mặt khác, một số điều khoản khác trong Dự thảo đã quy định về việc nghiêm cấm những hành vi tổn hại đến quyền, hoặc sử dụng cụm từ “không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm/vi phạm…”. Những quy định này thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân trong việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
1.8. Loại ý kiến thứ bảy đề nghị bổ sung một số quyền của cá nhân; bổ sung một số nghĩa vụ; bổ sung quy định: “việc liệt kê các quyền con người, quyền công dân trong bản Hiến pháp này không có nghĩa là coi nhẹ các quyền con người, quyền công dân khác”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp chỉ nên quy định những nội dung cơ bản nhất về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân như trong Dự thảo. Mặt khác, một số quyền và nghĩa vụ mà các ý kiến của nhân dân đề xuất đã được Dự thảo thể hiện như: quyền tự do tôn giáo, quyền khiếu kiện Chính phủ, quyền có công ăn việc làm, quyền tham gia vào quyết định các vấn đề về môi trường, quyền được trưng cầu ý dân; nghĩa vụ đối với cộng đồng…Một số đề xuất về quyền không thuộc nội dung điều chỉnh của Chương II như thành lập đảng phái chính trị, bầu trực tiếp Chủ tịch nước... Có những đề xuất về một số quyền là những vấn đề còn mới mẻ ở Việt Nam, cần có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.
Về ý kiến đề nghị bổ sung quy định“việc liệt kê các quyền con người, quyền công dân trong bản Hiến pháp này không có nghĩa là coi nhẹ các quyền con người, quyền công dân khác”, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, đây là một kỹ thuật lập hiến được sử dụng trong một số bản Hiến pháp như Hiến pháp Mỹ, Hiến pháp LB Nga 1993, Hiến pháp Hàn Quốc…nhằm mở rộng phạm vi bảo vệ, bảo đảm không bỏ sót các quyền con người không được ghi nhận trực tiếp trong bản Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp nhiều nước lại không quy định trực tiếp nội dung này, nhưng vẫn thể hiện qua một số quy định khác. Tham khảo, cân nhắc giữa hai cách thể hiện, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không cần thiết phải bổ sung quy định nói trên, vì một số điều khoản của Dự thảo hiện hành đã thể hiện tinh thần “không coi nhẹ” bất kỳ quyền con người, quyền công dân nào khác mà chưa được liệt kê. Đó là Điều 15: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng, được quy định trong Hiến pháp và luật”; Điều 16, Khoản 2: Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; Điều 17, khoản 1: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; khoản 2: Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.9. Loại ý kiến thứ tám đề nghị bố cục, sắp xếp lại Chương II như sau: Sắp xếp, biên tập Chương II gọn lại, ghép một số điều có nội dung trùng lặp và đảo vị trí các điều cho phù hợp; bố cục chương này thành hai hoặc ba mục; bố cục các điều theo các nhóm quyền (với những cách thức khác nhau trong việc phân loại các nhóm quyền); tách riêng quyền con người, quyền công dân thành các mục khác nhau.
Tiếp thu một phần các ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý lại các điều trong Dự thảo như: Ghép Điều 20 vào Điều 16, chuyển Điều 37 thành Điều 23a. Mặt khác, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy không nên bố cục Chương II thành các mục để đảm bảo sự nhất quán với cách quy định của các chương khác.
Về các nhóm quyền, Chương II của Dự thảo mới sắp xếp các điều theo các nhóm quyền với thứ tự như sau: Những quy định chung gồm các nguyên tắc, các bảo đảm quyền thực hiện quyền, giới hạn quyền và hạn chế quyền (từ Điều 15 đến Điều 19); các quyền dân sự, chính trị (từ Điều 20 đến Điều 32); các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (từ Điều 33 đến Điều 46); các nghĩa vụ của công dân (từ Điều 46 đến Điều 50); về quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài (Điều 51,52). Cách sắp xếp này vừa kế thừa Hiến pháp năm 1992, vừa tham khảo cách quy định của các Công ước quốc tế liên quan và Hiến pháp các nước, vì vậy, xin được giữ cách quy định về các nhóm quyền như trong Dự thảo.
Về ý kiến đề nghị quy định tách biệt quyền con người với quyền công dân, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền con người, quyền công dân có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó, vì vậy, không thể tách quy định về quyền con người, quyền công dân thành 2 mục riêng. Hơn nữa, theo kết cấu như trên đã trình bày, nếu quy định những điều về quyền con người rồi tiếp đến quyền công dân thì dẫn đến tình trạng lặp lại các quyền ở phần quy định về quyền công dân. Do đó, về mặt kỹ thuật lập hiến, cần tránh sự trùng lặp này. Đồng thời, tham khảo kinh nghiệm lập hiến các nước, không có Hiến pháp nào tách quy định quyền con người, quyền công dân ra riêng biệt.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 15
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như Điều 50 của Hiến pháp năm 1992; không quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân. Có ý kiến tán thành với việc hạn chế quyền trong những trường hợp thật cần thiết, nhưng phải theo quy định của luật, chứ không phải theo pháp luật, đồng thời phải xác định rõ hơn các trường hợp hạn chế quyền.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định tại Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 là chưa đầy đủ, chưa chính xác về quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung Điều 50 của Hiến pháp hiện hành. Theo đó, tiếp thu các ý kiến đóng góp khác, nội dung Điều 50 đã được chuyển thành khoản 1 Điều 15 của Dự thảo và được sửa đổi, bổ sung như sau: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được tôn trọng, được quy định trong Hiến pháp và luật”.
Đối với việc hạn chế quyền, như đã giải trình ở tiểu mục 1.5, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, có thể hạn chế quyền, nhưng cần làm rõ một số ít trường hợp có thể hạn chế. Do đó, tiếp thu ý kiến nhân dân, theo tinh thần các Công ước quốc tế, khoản 2 Điều 15 đã được chỉnh lý như trong Dự thảo để giới hạn phạm vi hạn chế quyền và làm rõ hơn lý do hạn chế quyền, giảm thiểu rủi ro xảy ra sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền. Cụ thể như khoản 2 Điều 15 quy định như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”.
2.2. Điều 16
Có ý kiến đề nghị ghép Điều 16 với điều khác như các điều 15, 17, 20 và 21; bỏ khoản 1 vì quy định về nghĩa vụ tại Điều này là không phù hợp; không nên sử dụng cụm từ “không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm…” tạo cảm giác “răn đe”, không phù hợp với quyền con người, quyền công dân; các ý kiến khác đồng ý với các nội dung tại Điều 16, nhưng đề nghị chỉnh sửa về câu chữ để thể hiện các nội dung đó.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nội dung của Điều 16 có tính chất khác với các điều 15, 17 và 21. Vì vậy, không nên ghép các điều này với nhau để bảo đảm trật tự logic. Ủy ban cũng đề nghị cần giữ lại quy định “Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm…” nhằm phòng ngừa, bảo vệ lợi ích chung và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Quy định về nghĩa vụ của công dân cũng được giữ tại Điều 16 để thể hiện nguyên tắc áp dụng chung cho việc thực hiện quyền, đó là: đồng thời với việc hưởng thụ quyền, mỗi công dân cũng cần phải thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, quy định này không có nghĩa là mỗi quyền luôn kèm theo một nghĩa vụ. Mặt khác, tiếp thu ý kiến nhân dân, Điều 20 đã được ghép vào Điều 16 và chỉnh lý lại như sau:
“1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.
3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
4. Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác."
2.3. Điều 17
Có ý kiến đề nghị ghép Điều 17 với Điều 16 hoặc giữ nguyên Điều 52 của Hiến pháp năm 1992; bỏ cụm từ “không ai” và thay bằng từ “công dân” ở khoản 2; bổ sung quy định không ai bị phân biệt đối xử trong gia đình, việc làm, hành chính, lao động, không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo và màu da; Nhà nước có chính sách đặc thù, hỗ trợ và ưu tiên dành cho cá nhân và gia đình chính sách, cho người khuyết tật, cho người mẹ, trẻ em và người cao tuổi.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên ghép Điều 17 với điều khác, vì đây là một nội dung riêng biệt; không nên giữ nguyên Điều 52 của Hiến pháp năm 1992 vì Điều 52 chỉ đề cập đến công dân, trong khi đó không chỉ công dân mà tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật. Hơn nữa, Điều 52 không thể hiện được nội dung không ai bị phân biệt đối xử trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Tương tự, không nên thay cụm từ “không ai” bằng cụm từ “công dân” tại khoản 2, vì như vậy sẽ thu hẹp phạm vi người được hưởng quyền không bị phân biệt đối xử.
Ủy ban DTSĐHP cũng nhận thấy, các lĩnh vực được đề cập tại khoản 2 đã bao trùm toàn bộ đời sống xã hội, vì vậy không cần phải bổ sung các khía cạnh khác; còn các chính sách đặc thù và ưu tiên dành cho một số nhóm người trong xã hội được quy định tại các điều khoản khác của Chương II và Chương III thì phù hợp hơn.
Vì những lý do trên đây, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ Điều 17 như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.4. Điều 18
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định người Việt Nam có thể được phép mang thêm một quốc tịch; cần quy định cụ thể về việc trục xuất, giao nộp, bảo hộ công dân trong trường hợp một người có hai quốc tịch; quy định cụ thể về quyền có quốc tịch và việc tước quốc tịch; quy định một số trường hợp ngoại lệ tại khoản 2 về việc không thể bị trục xuất, giao nộp; bỏ khoản 2; chuyển khoản 3 xuống Điều 19; xem xét việc sử dụng cụm từ “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” hay “Việt Nam”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, một số nội dung cụ thể như các ý kiến đề xuất nên để luật quy định, Hiến pháp chỉ quy định những nội dung khái quát. Không nên bỏ khoản 2, vì đây là một quyền rất quan trọng của công dân, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Nhà nước trong việc bảo vệ công dân của mình. Không nên chuyển khoản 3 sang Điều 19, vì khoản 3 Điều 18 đề cập đến công dân Việt Nam ở nước ngoài, còn Điều 19 đề cập đến người Việt Nam nói chung ở nước ngoài; Nhà nước chỉ có thể bảo hộ đối với công dân của mình, chứ không thể bảo hộ người Việt Nam là công dân nước khác. Mặt khác, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Điều 18 đã được chỉnh lý cho gọn hơn, cô đọng hơn như sau:
1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho Nhà nước khác.
3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài.
2.5. Điều 19
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định của Điều 75 của Hiến pháp hiện hành:“Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài”; bỏ khoản 1; chuyển khoản 1 vào Điều 5, Chương I; bỏ cụm từ “định cư” ở khoản 1 và khoản 2; bổ sung nội dung: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về Việt Nam được hưởng quyền lợi như người Việt Nam ở trong nước”; chỉnh sửa một số câu từ.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị không nên giữ nguyên quy định của Điều 75 của Hiến pháp năm 1992 với lý do như đã giải trình đối với các ý kiến về Điều 18 có liên quan đến Điều 19. Không nên bỏ khoản 1 vì đây là nội dung khẳng định vai trò rất quan trọng của người Việt Nam ở nước ngoài, thể hiện tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc. Không nên chuyển khoản 1 vào Điều 5 vì Điều 5 đề cập đến các dân tộc ở Việt Nam, còn khoản 1 Điều này nói đến người Việt Nam ở nước ngoài. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về Việt Nam thì đã có các quy định của pháp luật hiện hành, không cần phải bổ sung quy định về vấn đề này vào Hiến pháp.
2.6. Điều 20
Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa quy định “quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”; đề nghị quy định:“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định và được cụ thể hóa bằng các luật”; chỉnh lý, bổ sung một số nội dung như: quyền tư hữu, Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ; chỉnh sửa về câu từ.
Như đã giải trình tại Điều 16, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định “quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” không có nghĩa là mỗi quyền phải kèm theo một nghĩa vụ. Cần phải nhận thức rằng, bên cạnh việc hưởng quyền, mọi người phải tôn trọng quyền của người khác, công dân phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trước Nhà nước và xã hội. Vì vậy, Điều 20 đã được chỉnh lý lại và ghép với Điều 16. Đối với các ý kiến khác, xin tiếp tục nghiên cứu để thể hiện vào các nội dung phù hợp.
2.7. Điều 21
Có ý kiến đề nghị làm rõ nội dung của quyền sống tại Điều 21 vì hiện tại Việt Nam đang áp dụng hình phạt tử hình; bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước phải bảo vệ quyền sống; không được tước đoạt quyền sống một cách vô căn cứ; cần làm rõ một số vấn đề: Hình phạt tử hình, quyền được chết một cách nhẹ nhàng; quyền nạo thai của phụ nữ có thai ngoài ý muốn; chuyển Điều 21 lên đầu Chương II; chuyển lên sau Điều 16; ghép điều này vào: Điều 15, Điều 22, Điều 32, Điều 35, Điều 46.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp Việt Nam cần ghi nhận quyền sống, vì đây là quyền đầu tiên của mỗi người, có quyền sống mới có các quyền khác. Hơn nữa, quyền này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, được Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945. Quyền sống thực tế cũng đã được ghi nhận trong Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự của Việt Nam. Việc hiến định quyền này sẽ góp phần bảo đảm thực thi và nâng cao uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền trước cộng đồng quốc tế.
Mặt khác, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Điều 21 đã bổ sung nội dung: “Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng một cách trái pháp luật”. Quy định như vậy là phù hợp với Công ước quốc tế và tình hình cụ thể của Việt Nam, khi mà nước ta vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình đối với một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật hình sự.
Đối với các ý kiến về quyền được yêu cầu chết một cách nhẹ nhàng, quyền nạo thai của phụ nữ có thai ngoài ý muốn, đây là những vấn đề cụ thể liên quan đến quyền sống, nhưng do tính chất mới mẻ ở Việt Nam, trên thế giới vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể quy định trong luật sau này.
Ủy ban DTSĐHP cũng nhận thấy, vị trí của Điều này như trong Dự thảo đã được cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm tính logic, quan hệ với các nội dung khác, vì vậy không nên chuyển sang vị trí khác. Điều 21 quy định về nội dung khác biệt, do đó cũng không thể ghép với các điều khác.
2.8. Điều 22
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên các nội dung của Điều 71 của Hiến pháp năm 1992 nhưng đổi thành quyền con người; giữ lại quy định tại đoạn thứ hai Điều 71: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”; bỏ khoản 2;cần làm rõ hơn các điều kiện để thực hiện quy định tại khoản 3; chỉnh sửa về câu từ cùng về các nội dung tại Điều 22.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định như Điều 71 của Hiến pháp năm 1992 chưa đầy đủ, rõ ràng về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người, vì vậy không nên giữ nguyên các nội dung của Điều 71 của Hiến pháp năm 1992.
Mặt khác, tiếp thu ý kiến của nhân dân, tại khoản 2 Điều 22 Dự thảo mới đã lấy lại quy định tại đoạn thứ hai Điều 71 của Hiến pháp năm 1992, đồng thời sửa cụm từ “phải đúng pháp luật” thành “do luật định” cho chặt chẽ hơn, tránh sự lạm dụng. Theo đó, “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị không nên bỏ khoản 2, mà chỉnh sửa để thể hiện rõ hơn tính chất quyền, đồng thời được ghép với khoản 1 cho phù hợp hơn. Các điều kiện để thực hiện quy định tại khoản 3 nên để luật quy định. Cách thức quy định tại Điều 22 đã thể hiện các ý kiến về câu từ, vì vậy, xin không phải chỉnh sửa theo các ý kiến đó.
2.9. Điều 23
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 73 của Hiến pháp năm 1992; không tán thành với khoản 1 vì gây khó khăn trong việc phòng chống tham nhũng, đấu tranh với tội phạm; bỏ đoạn thứ hai tại khoản 1; cán bộ, công chức phải công khai thông tin cá nhân, tài sản theo luật định; cho phép thu thập, lưu giữ, sử dụng, phổ biến thông tin cá nhân vì lý do an ninh quốc gia theo luật định; quy định rõ các trường hợp được quyền bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; thay cụm từ “do pháp luật quy định” bằng “do luật định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 73 của Hiến pháp năm 1992 cần được sửa đổi, bổ sung, vì theo Công ước quốc tế 1966, cần có điều riêng về quyền bất khả xâm phạm về đời tư và điều riêng về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; cho phù hợp với sự phát triển của các hình thức lưu trữ, trao đổi thông tin. Hơn nữa, chủ thể của quyền bất khả xâm phạm về đời tư là mọi người chứ không chỉ các công dân như Điều 73 hiện hành đang quy định. Vì những lý do này nên Ủy ban xin được giữ lại khoản 1 như đã thể hiện trong Dự thảo.
Mặt khác, tiếp thu ý kiến nhân dân, đoạn cuối của khoản 2 Điều này được sửa thành: “Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác trái pháp luật”.
Các vấn đề cụ thể khác sẽ được nghiên cứu để tiếp thu, thể hiện trong các đạo luật có liên quan.
2.10. Điều 24
Có ý kiến đề nghị quy định điều kiện để công dân thực hiện quyền tự do cư trú; việc cư trú phải phù hợp với phong tục tập quán và đặc thù phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, không gây cản trở cho công tác quản lý, an toàn xã hội; việc cấm đi khỏi nơi cư trú phải theo đúng quy định của pháp luật; thay cụm từ “quy định của pháp luật” bằng “luật định”; thay từ “công dân” bằng “mọi người.”
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên thay từ “công dân” bằng từ “mọi người”, vì Điều 24 quy định về quyền công dân. Dự thảo vẫn sử dụng cụm từ “theo quy định của pháp luật”, vì trên thực tế, nhiều điều kiện, quy trình, thủ tục đi lại và cư trú ở trong nước, ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước vẫn phải quy định bằng pháp luật nói chung, luật cũng không thể quy định chi tiết hết. Các vấn đề cụ thể khác đã hoặc sẽ được điều chỉnh trong các luật mà không nhất thiết phải đưa vào Hiến pháp.
2.11. Điều 25
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: "Không ai được truyền bá và hành nghề mê tín dị đoan; các tổ chức tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật"; quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng tôn giáo chỉ có thể bị giới hạn bởi luật khi cần thiết; đoàn kết tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nghiêm cấm hành vi chia rẽ tôn giáo, các hành vi xúc phạm tôn giáo phải được xử lý theo pháp luật; các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước công nhận có tư cách pháp nhân.
Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 2; bỏ các đoạn sau: “theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”; “Nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”; “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”; “hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”; đưa cụm từ “Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” ở khoản 1 về khoản 2; nhập khoản 2 vào khoản 1; thay từ “mọi người” thành từ “công dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các nội dung được đề xuất bổ sung đã được thể hiện trong các điều khoản khác của Dự thảo hoặc chỉ nên quy định trong luật, vì vậy xin không quy định vào Điều này. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người, vì vậy cũng không thể thay từ “mọi người” bằng từ “công dân”. Mặt khác, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Dự thảo mới đã bỏ một số cụm từ cho thích hợp hơn.
2.12. Điều 26
Có ý kiến đề nghị quy định rõ Nhà nước bảo đảm các điều kiện cần thiết để công dân thực hiện các quyền trên sau khi Hiến pháp được thông qua tối đa 360 ngày; tách các quy định về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình thành những điều khoản riêng; dùng cụm từ “theo quy định của pháp luật” là không hợp lý. Các ý kiến cũng đề nghị những nội dung cụ thể liên quan đến từng quyền nói trên, ví dụ định nghĩa về tự do ngôn luận, cho phép báo chí tư nhân, sửa đổi quyền được thông tin thành quyền tiếp cận thông tin, quyền thành lập đảng chính trị...
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các quyền nói trên dù khác nhau, nhưng có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau, vì vậy có thể quy định tại cùng một Điều 26. Các ý kiến góp ý về những nội dung cụ thể sẽ được tiếp tục nghiên cứu tiếp thu trong quá trình xây dựng, ban hành các luật liên quan, Hiến pháp chỉ khẳng định, ghi nhận khái quát về các quyền này. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” tại Điều này xin được giữ nguyên như đã giải trình ở phần các vấn đề chung của Chương này. Theo đó, trên thực tế, nhiều điều kiện, quy trình, thủ tục bảo đảm thực hiện các quyền nói trên vẫn phải quy định bằng pháp luật nói chung, luật cũng không thể quy định chi tiết hết. Mặt khác, tiếp thu ý kiến nhân dân, quyền “được thông tin” được sửa thành quyền “tiếp cận thông tin”.
2.13. Điều 27
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 27; giữ lại Điều 63 Hiến pháp năm 1992 và bổ sung quy định về phụ nữ và trẻ em gái; viết lại điều này cho ngắn gọn hơn; ghi nhận quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử đối với người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính, dị tính, chuyển đổi giới tính; quyền thay đổi giới tính.
Bỏ khoản 2; bỏ các đoạn: “Nhà nước có chính sách đảm bảo quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực”; “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”; bỏ khoản 3; ghép khoản 3 vào khoản 2.
Ủy ban DTSĐHP xin được giữ lại Điều 27 vì việc ghi nhận quyền bình đẳng giới là một thành tựu chung của nhân loại và Việt Nam; cũng không nên giữ lại Điều 63 Hiến pháp năm 1992, vì Điều 63 quá dài, nội dung không thực chất, chỉ mang tính cương lĩnh, không thể hiện được quan niệm tiến bộ trên thế giới về bình đẳng giới, nhất là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, tiếp thu ý kiến nhân dân, Điều 27 đã được chỉnh lý như trong Dự thảo mới nhằm thể hiện rõ hơn đây là quyền bình đẳng giới của tất cả mọi người, chứ không chỉ đề cập đến bình đẳng giữa công dân nam, nữ; bỏ khoản 3 và một số cụm từ cho ngắn gọn và phù hợp hơn về tính chất, nội dung. Theo đó, Điều 27 mới quy định như sau:
1. Mọi người đều bình đẳng về giới.
2. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới.
2.14. Điều 28
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như Điều 54 của Hiến pháp năm 1992; góp ý cụ thể về điều kiện bầu cử, ứng cử; quy trình bầu cử, ứng cử; nghĩa vụ bầu cử; thẩm quyền duy nhất của tòa án nhân dân các cấp tước quyền bầu cử, ứng cử của công dân; bổ sung quy định về quyền bầu cử và ứng cử của công dân Việt Nam có 2 quốc tịch, công dân Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài; Nhà nước bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và quyền ứng cử.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ nguyên như Dự thảo công bố xin ý kiến nhân dân vì đã sửa đổi Điều 54 của Hiến pháp năm 1992 cho ngắn gọn hơn, không bị trùng một số nội dung với Điều 17 về quyền bình đẳng, bỏ cụm từ theo ”quy định của pháp luật” cho phù hợp; còn các ý kiến về những nội dung cụ thể sẽ được nghiên cứu tiếp thu để đưa vào Luật bầu cử sau này.
2.15. Điều 29
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như Điều 53 Hiến pháp năm 1992; đề xuất một số quy định cụ thể về quyền này; bổ sung nội dung về trưng cầu ý dân; chỉ nên quy định “quyền giám sát và phản biện xã hội” của công dân, còn “công dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội” không khả thi.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 29 của Dự thảo đã công bố đã sửa đổi Điều 53 của Hiến pháp năm 1992 để quy định rõ hơn quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của Nhà nước và địa phương. Đồng thời quy định trách nhiệm của Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Hơn nữa, nội dung về trưng cầu ý dân đã được tách riêng thành một điều cho phù hợp.
Việc công dân giám sát và phản biện xã hội đối với quản lý nhà nước, cộng với việc góp ý chính là tham gia quản lý nhà nước. Công dân tham gia quản lý xã hội thông qua các cơ chế ở cộng đồng, cơ sở. Như vậy, đây là điều hoàn toàn khả thi.
Với những lý do trên đây, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ Điều 29 trong Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân. Còn các ý kiến đề xuất một số nội dung cụ thể sẽ được nghiên cứu tiếp thu để đưa vào luật.
2.16. Điều 30
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 30; bổ sung độ tuổi của công dân có quyền tham gia trưng cầu ý dân và những vấn đề quan trọng của quốc gia và địa phương phải được trưng cầu ý dân; ban hành luật trưng cầu ý dân.
Ủy ban DTSĐHP xin được giữ lại Điều 30 vì Điều này quy định về quyền của công dân biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân là quyền dân chủ trực tiếp rất quan trọng. Những ý kiến khác về các nội dung cụ thể sẽ được nghiên cứu tiếp thu để thể hiện một cách phù hợp trong Luật về trưng cầu ý dân sau này.
2.17. Điều 31
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như Điều 74 của Hiến pháp năm 1992; ghi nhận quyền khởi kiện của mọi người; trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ người khiếu nại, tố cáo và gia đình; xử lý những người trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác; người khiếu nại, tố cáo phải được giữ bí mật nội dung tố cáo và được bảo vệ; biện pháp xử lý trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền không giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo không đúng; quy định thêm thời hạn tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định tại Điều 74 của Hiến pháp hiện hành còn dài dòng, trong Điều có sử dụng từ “công dân”, trong khi đây là một quyền của con người nói chung. Tinh thần của quyền khởi kiện đã được thể hiện qua các quy định về tòa án, vì vậy Ủy ban xét thấy không cần thiết phải bổ sung vào Điều 31. Những ý kiến khác về các nội dung cụ thể sẽ được nghiên cứu tiếp thu để thể hiện trong luật.
2.18. Điều 32
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định Điều 72 của Hiến pháp hiện hành; bỏ khoản 2, khoản 3; bổ sung các quyền đã được quy định trong Công ước ICCPR như quyền bình đẳng trước tòa án, quyền được xét xử công khai trừ các trường hợp đặc biệt; các quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam,...; đưa khoản 7 Điều 108 vào Điều này; đề xuất cụ thể về các quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử; trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; quy định thời gian tạm giam, tạm giữ;quy định “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” là chưa thể hiện được đúng tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội; “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” là chưa rõ.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng không nên giữ nguyên quy định như Điều 72 Hiến pháp năm 1992, cũng không thể bỏ khoản 2, khoản 3 của Điều 32, vì như thế sẽ quy định không đầy đủ về các quyền trong lĩnh vực tư pháp. Khoản 7, Điều 108 quy định về một trong những nguyên tắc xét xử của Tòa án, vì vậy không nên đưa vào Điều 32.
Mặt khác, tiếp thu ý kiến nhân dân, khoản 1 và 2 của Điều 32 đã được chỉnh sửa như trong Dự thảo mới để thể hiện rõ hơn quyền được suy đoán vô tội; quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai với một số ngoại lệ. Theo đó, khoản 1 và khoản 2 được chỉnh lý lại như sau:
"1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Trường hợp phiên tòa xét xử kín theo quy định của luật, thì phán quyết phải được tuyên công khai, trừ trường hợp vì lợi ích của người chưa thành niên hay vụ việc liên quan đến tranh chấp hôn nhân hoặc quyền giám hộ đối với trẻ em."
2.19. Điều 33
Có ý kiến đề nghị bổ sung các nội dung: "Quyền sở hữu quy định ở khoản 1 không bị giới hạn nào về số lượng, chủng loại; quyền tư hữu tài sản của người nông dân; quyền sở hữu về sáng chế phát minh trong khoa học - công nghệ, tác phẩm trong văn học nghệ thuật; quyền sở hữu của cá nhân về đất ở theo hạn mức phù hợp với quy hoạch sử dụng đất theo Luật đất đai; trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức có bồi hoàn theo giá thị trường". Bỏ đoạn “đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58” hoặc thay bằng đoạn “sở hữu đất đai của Nhà nước và cá nhân được quy định tại Điều 57 và Điều 58”; gộp khoản 1 của điều này vào khoản 3 Điều 56; không liệt kê tất cả các tài sản vì vừa thừa lại vừa thiếu.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy một số nội dung cụ thể đã được quy định tại các điều khoản liên quan hoặc trong các luật, vì vậy không cần phải quy định tại Điều 33, ví dụ: quyền tư hữu tài sản, quyền sở hữu về sáng chế phát minh trong khoa học - công nghệ, tác phẩm trong văn học nghệ thuật. Cần giữ lại quy định về trường hợp ngoại lệ đối với đất đai cho thống nhất với Điều 57 và 58. Không nên gộp khoản 1 Điều 33 với khoản 3 Điều 56, vì Điều 33 ghi nhận quyền con người, còn Điều 56 quy định về chính sách của Nhà nước.
Mặt khác, tiếp thu ý kiến nhân dân, Điều 33 đã được chỉnh sửa tại khoản 1, đồng thời bổ sung khoản 3 như trong Dự thảo mới cho phù hợp hơn. Khoản 3 quy định: “Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”.
2.20. Điều 34
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 57 của Hiến pháp năm 1992; ghép Điều này vào các điều 33, 56, 24, 35; gộp khoản 2 vào khoản 1. Bổ sung các nội dung: tự do kinh doanh trên mọi lĩnh vực mà pháp luật cho phép hoặc trong các ngành nghề pháp luật không cấm; nghĩa vụ với Nhà nước theo quy định của pháp luật; Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy chủ thể của quyền tự do kinh doanh là mọi người, chứ không chỉ giới hạn ở công dân như Điều 57 quy định. Điều 57 cũng giới hạn quyền này bằng cụm từ “theo quy định của pháp luật“ là không phù hợp. Điều 34 không nên ghép với các điều khác vì đây là một nội dung riêng biệt. Còn nội dung Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh để ở Chương III thì phù hợp hơn.
2.21. Điều 35
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều này; giữ nguyên quy định Điều 67 của Hiến pháp hiện hành; quy định cụ thể hơn về Điều này; làm rõ các đối tượng được hưởng an sinh xã hội; bổ sung quyền được tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; quyền được trợ giúp và cứu trợ xã hội khi gặp hoàn cảnh khó khăn, thiên tai, dịch bệnh; được trợ giúp xóa đói, giảm nghèo….Đề nghị có 2 khoản: một khoản về quyền hưởng thụ về văn hóa, một khoản về chính sách an ninh xã hội. Một số ý kiến góp ý bổ sung câu chữ cho cụ thể.
Trên cơ sở xem xét, cân nhắc các ý kiến đóng góp, Ủy ban DTSĐHP đề nghị cần giữ Điều này vì đây là một quyền xã hội thiết yếu của con người, đã được ghi nhận trong luật quốc tế về quyền con người và Hiến pháp nhiều nước. Mặt khác, Ủy ban DTSĐHP xét thấy không nên giữ nguyên như Điều 67 vì Điều 67 quy định quá cụ thể nhưng lại không bao quát hết nội dung của quyền an sinh xã hội. Không cần thiết phải bổ sung các cụm từ như đề xuất bởi như vậy là rườm rà mà không thể hiện rõ hơn nội dung này; cũng không cần thiết phải bổ sung các nội dung như đề xuất vì đã được thể hiện trong các điều khoản khác hoặc để luật quy định cụ thể.
2.22. Điều 36
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định của Hiến pháp năm 1992; gộp Điều 36 và Điều 37; bổ sung quyền có đất ở, nơi ở hợp pháp, khi qua đời có đất an táng hợp pháp, có nơi sinh hoạt, hội họp cho cộng đồng dân cư; có đất để lao động, sản xuất, sinh sống; thay từ “công dân” bằng từ “mọi người”, “nơi ở” bằng chữ “nhà ở”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên giữ nguyên quy định của Hiến pháp năm 1992 vì không đầy đủ, không phù hợp; không nên gộp Điều 36 với Điều 37 vì hai điều này có nội dung khác nhau; không thay từ “công dân” bằng từ “mọi người” bởi từ “công dân” có tính xác định rõ hơn so với từ “mọi người” mà cụ thể ở đây phải là công dân Việt Nam mới được đảm bảo về nơi ở hợp pháp, về quyền này, Nhà nước chỉ có thể đảm bảo cho công dân Việt Nam; không dùng từ “nhà ở” mà dùng “nơi ở” cho chính xác hơn. Các nội dung khác xin nghiên cứu để bổ sung vào các luật có liên quan.
2.23. Điều 37
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định của Hiến pháp năm 1992; ghi rõ các cơ quan được quyền khám xét như công an, tòa án, viện kiểm sát; bổ sung cụm từ “trừ trường hợp do pháp luật quy định” hoặc “trừ trường hợp pháp luật cho phép” vào sau cụm từ “người đó đồng ý”; thay từ “luật định” bằng từ “pháp luật quy định”; bỏ đoạn: "Không ai được tự ý vào chỗ ở hợp pháp của người khác nếu không được người đó đồng ý"; bỏ cụm từ “hợp pháp”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Hiến pháp cần một điều riêng quy định về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở theo yêu cầu của Điều 17 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. Điều 73 của Hiến pháp năm 1992 có những nội dung thiếu chính xác như sử dụng cụm từ “trừ trường hợp được pháp luật cho phép”, hoặc quy định chủ thể của quyền là công dân. Việc liệt kê tổ chức được quyền khám xét tại Điều 37 là không cần thiết vì Điều này đã quy định rõ: “Việc khám xét chỗ ở do luật định”. Các ý kiến khác góp ý về câu chữ nhưng không làm thay đổi nội dung của Điều 37. Vì những lý do này, xin được giữ nguyên nội dung Điều 37 như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân và chuyển nội dung này lên Điều 23a.
2.24. Điều 38
Có ý kiến đề nghị ghép Điều 38 với Điều 34 và khoản 1 Điều 61. Bổ sung những nội dung: người lao động có quyền được nghỉ ngơi, được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi, an toàn, vệ sinh; được hưởng lương và các chế độ chính sách; quyền đình công; lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân; nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm; Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động; đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động và người sử dụng lao động; nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu do luật định; nghiêm cấm các hành vi không thực hiện các chính sách đối với người lao động.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy không nên ghép Điều 38 với các điều khác vì đây là một quyền riêng biệt. Mặt khác, tiếp thu ý kiến nhân dân, khoản 2 Điều 38 đã được chỉnh lý như sau:“Người lao động được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn, được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi”. Tại khoản 3, “người lao động chưa thành niên trái pháp luật” được thay bằng cụm từ “nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu do luật định“. Các nội dung góp ý xin không đưa vào Điều này vì không phù hợp với tính chất của Chương II hoặc không thuộc tầm hiến định.
2.25. Điều 39
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định: “gia đình là tế bào của xã hội, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành công dân tốt, con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà cha mẹ” ở Điều 64 của Hiến pháp năm 1992. Bổ sung một số nội dung cụ thể về: những hành vi cần nghiêm cấm; trách nhiệm của cha mẹ, bổn phận của con, cháu; quyền làm mẹ; trách nhiệm của Nhà nước; cho phép và bảo vệ hôn nhân đồng giới; quyền được yêu cầu xác định lại giới tính; quy định chi tiết về việc bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em; quy định hạn chế tối đa việc giải quyết ly hôn. Bỏ quy định về “quyền ly hôn”; thay thế cụm từ “nam, nữ” thành “mọi người”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 39 đã sửa đổi, bổ sung Điều 64 của Hiến pháp năm 1992 để làm rõ hơn một số khía cạnh và tương thích hơn với quy định của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Do đó, không nên lấy lại nội dung của Điều 64 Hiến pháp năm 1992; không thay cụm từ “Nam, nữ” bằng từ “Mọi người” mà giữ nguyên như quy định của Hiến pháp hiện hành. Những nội dung chi tiết, cụ thể khác xin không đưa vào Dự thảo Hiến pháp mà sẽ được tiếp tục nghiên cứu để có quy định phù hợp trong luật.
2.26. Điều 40
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 65 của Hiến pháp năm 1992. Bổ sung các nội dung sau: trách nhiệm của cha, mẹ, gia đình, Nhà nước; người chưa thành niên có quyền được hưởng trợ giúp pháp lý và các dịch vụ pháp lý miễn phí; trẻ em là người dưới 18 tuổi; bổ sung các hành vi đối với trẻ em cần phải nghiêm cấm; bổ sung quy định về quyền tham gia của trẻ em. Đưa nội dung về thanh niên về Điều này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên giữ nguyên như quy định của Điều 65 Hiến pháp năm 1992, mà cần sửa đổi, bổ sung để cụ thể hóa một số nội dung, làm cho tương thích hơn với quy định trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam là thành viên, khắc phục tính chất tuyên ngôn trong các quy định của Hiến pháp. Mặt khác, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Dự thảo mới đã đưa nội dung về thanh niên vào Điều này; bổ sung quy định về quyền tham gia của trẻ em là một trong 4 nhóm quyền quan trọng đã được ghi nhận trong Công ước về quyền trẻ em và chỉnh lý Điều này như sau:
“1. Trẻ em có quyền được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề liên quan đến quyền trẻ em. Nghiêm cấm hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.”
2.27. Điều 41
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 41. Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung về trách nhiệm cụ thể của Nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân; nghiêm cấm một số hành vi cụ thể; dùng từ “mọi người”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy không nên bỏ Điều 41 vì Điều này ghi nhận quyền được bảo vệ sức khỏe là một trong những quyền xã hội rất quan trọng. Đồng thời, tiếp thu ý kiến nhân dân xin được thay từ “công dân” bằng “mọi người” vì đây là quyền con người.
2.28. Điều 42
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 59 Hiến pháp năm 1992; gộp các Điều 42 và 43. Cần quy định cụ thể hơn, trong đó khẳng định rõ giáo dục tiểu học là bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người; bậc tiểu học và bậc trung học cơ sở là bắt buộc, người học không phải trả học phí; vùng dân tộc thiểu số có quyền được học song ngữ (cả tiếng mẹ đẻ và tiếng Kinh); quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội; công dân được học tập suốt đời; có quyền được đào tạo và đào tạo lại liên tục trong lao động nghề nghiệp và chuyển đổi nghề nghiệp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định của Điều 59 Hiến pháp năm 1992 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với Điều 13 và Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Không nên ghép Điều 42 với Điều 43 vì đây là những quyền khác nhau. Dự thảo đã chỉnh lý quy định “Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” thành “Nhà nước quy định phổ cập giáo dục” nhằm để mở khả năng Nhà nước có thể quy định các cấp học khác (ví dụ, trung học cơ sở) cũng sẽ là bắt buộc và miễn phí trong tương lai và chuyển nội dung này vào Chương III cho phù hợp. Những nội dung chi tiết, cụ thể khác xin không đưa vào Dự thảo mà để tiếp tục nghiên cứu có các quy định phù hợp trong luật.
2.29. Điều 43
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 60 Hiến pháp năm 1992. Bổ sung quyền sáng chế khoa học và công nghệ, sáng kiến và cải tiến kỹ thuật.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên giữ nguyên như quy định của Điều 60, Hiến pháp năm 1992 mà cần sửa đổi cho phù hợp hơn với quy định của Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Nội dung được đề xuất đã được thể hiện trong Dự thảo, vì vậy không cần phải bổ sung.
2.30. Điều 44
Có ý kiến đề nghị bỏ quyền sử dụng các cơ sở văn hóa vì không có tính khả thi; bỏ cụm từ “tiếp cận các giá trị văn hoá”. Bổ sung các nội dung: không làm hại đến nền văn hóa truyền thống Việt Nam; nghĩa vụ giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình; quyền hưởng thụ các tiến bộ khoa học và các ứng dụng tiến bộ khoa học; quyền tranh đấu chống văn hóa xấu, độc hại, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam; Nhà nước đảm bảo cho mọi người có quyền này. Ghép Điều 44 và Điều 45 thành một điều hoặc ghép Điều 44 vào Điều 43.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên ghép Điều 44 với Điều 45 hoặc 43 vì các điều này ghi nhận những quyền khác nhau. Đối với các ý kiến đóng góp về các nội dung chi tiết, cụ thể khác, xin không đưa vào Dự thảo, mà sẽ tiếp tục nghiên cứu để quy định trong luật. Vì vậy, xin được giữ như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.31. Điều 45
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều này, bỏ cụm từ “tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Bổ sung các nội dung về: hình thức giao tiếp; phục hồi họ tộc gốc của mình từ đời vua Đinh cho đến nay; quyền xác định dân tộc theo cha hoặc mẹ; quyền sử dụng ngôn ngữ cha đẻ; trách nhiệm của Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số. Chỉnh sửa các nội dung về: sử dụng ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc mình; tự do lựa chọn thêm ngôn ngữ giao tiếp kèm với ngôn ngữ chính là tiếng Kinh; tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp trừ giao tiếp trong công vụ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên bỏ Điều 45 vì xuất phát từ thực tế ở Việt Nam với 54 dân tộc khác nhau sinh sống, Hiến pháp có điều riêng cần ghi nhận quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ và tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp như trong dự thảo. Đối với các ý kiến đóng góp về các nội dung chi tiết, cụ thể khác, xin không đưa vào Dự thảo, mà sẽ tiếp tục nghiên cứu để có hình thức quy định phù hợp. Vì vậy, xin được giữ nguyên như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.32. Điều 46
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều này; khoản 1 không khả thi; gộp khoản 1 và 2; ghép Khoản 1 vào nội dung Điều 21; bỏ khoản 2. Bổ sung một số nội dung: quy định rõ môi trường trong lành là như thế nào; Nhà nước bảo đảm sự trong lành về môi trường sống của công dân; nghiêm cấm hành vi làm ô nhiễm môi trường.
Ủy ban DTSĐHP xin được giữ lại Điều 46 vì Điều này phù hợp với thực tiễn hiện nay, đáp ứng đòi hỏi ngày càng lớn hơn trong tương lai về vấn đề môi trường. Hơn nữa, quyền được sống trong môi trường trong lành gắn bó chặt chẽ với quyền sống, quyền bảo vệ sức khỏe và quyền phát triển của con người, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của các quốc gia. Vì tính chất đặc thù của quyền này, không nên ghép với Điều 21. Về các ý kiến đề xuất một số nội dung cụ thể, sẽ được nghiên cứu tiếp thu để có hình thức quy định phù hợp mà không đưa vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
2.33. Điều 47
Có ý kiến đề nghị quy định rõ phản bội Tổ quốc là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; không quy định “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”; làm rõ như thế nào là phản bội Tổ quốc, không nên đánh đồng phản bội Tổ quốc với phản bội chế độ, nên có quy định về tội phản bội chế độ riêng; bổ sung “tham nhũng là tội phản bội Tổ quốc” hoặc “phản bội Tổ quốc, tham nhũng là hai tội nặng nhất”.
Tiếp thu các ý kiến liên quan, Dự thảo vẫn quy định “phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”. Các ý kiến khác xin tiếp tục nghiên cứu để có thể tiếp thu, thể hiện một cách phù hợp trong các văn bản luật mà không đưa vào Hiến pháp.
2.34. Điều 48
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều này; giữ nguyên Điều 77 Hiến pháp năm 1992; ghép vào Điều 47. Quy định rõ công dân nam thi hành nghiêm luật nghĩa vụ quân sự, đối với công dân nữ thì tự nguyện; độ tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự; cán bộ, công chức từ Bí thư, Chủ tịch xã trở lên phải là người đã thi hành nghĩa vụ quân sự. Không quy định “nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự”; quy định “nếu không được gọi làm nghĩa vụ quân sự tại ngũ thì có nghĩa vụ lao động đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo luật định”; công dân không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đáp ứng một số yêu cầu.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên bỏ Điều 48 vì Điều này quy định về một nghĩa vụ cơ bản quan trọng của công dân; không nên giữ nguyên như Điều 77 Hiến pháp năm 1992 vì không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay; không nên ghép với Điều 47, vì mặc dù gắn bó với nhau, hai điều này quy định về hai nội dung khác nhau. Mặt khác, Điều 48 đã được chỉnh sửa về câu từ cho phù hợp hơn với tính chất của nghĩa vụ này.
2.35. Điều 49
Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa, thêm bớt về câu từ tại Điều 49.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu và thay từ “chấp hành” bằng từ “tuân theo” cho phù hợp.
2.36. Điều 50
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 50; giữ nguyên như Điều 80 Hiến pháp năm 1992; quy định rõ mọi người, mọi tổ chức có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật; những trường hợp được giảm, miễn hoặc không phải nộp thuế do luật định; Nhà nước quản lý và sử dụng thuế một cách hiệu quả, tiết kiệm và có tầm nhìn lâu dài; bổ sung “các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, không nên bỏ Điều 50 vì Điều này quy định về một nghĩa vụ cơ bản quan trọng của công dân. Nhà nước, bộ máy nhà nước không thể tồn tại nếu không có nguồn tài chính có được từ thuế. Không nên giữ nguyên như Điều 80 Hiến pháp năm 1992 vì một số nội dung của Điều 80 như lao động công ích không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Bên cạnh đó, đối với các ý kiến khác, cần tiếp tục nghiên cứu để tiếp thu một cách phù hợp trong các luật có liên quan mà nên không đưa vào Hiến pháp.
2.37. Điều 51
Có ý kiến đề nghị gộp Điều 51 và Điều 52. Bổ sung các nội dung về: chế tài xử lý khi người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam; các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; người không có quốc tịch; được bảo hộ về cả “sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”; nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng của Việt Nam nơi mình cư trú, làm ăn, sinh sống.
Ủy ban DTSĐHP xin không ghép Điều 51 với Điều 52, vì mặc dù gắn bó với nhau, nhưng hai điều này quy định về hai nội dung khác nhau. Bên cạnh đó, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp tục nghiên cứu các ý kiến khác để tiếp thu một cách phù hợp trong các luật có liên quan mà không quy định trong Hiến pháp.
2.38. Điều 52
Có ý kiến đề nghị quy định rõ “sự nghiệp khoa học” ở đây là “sự nghiệp khoa học chân chính” hoặc “tiến bộ”; thay từ này bằng cụm từ “vì sự tiến bộ của nhân loại”; thay từ “chủ nghĩa xã hội” bằng từ “tiến bộ xã hội”; bổ sung cụm từ “nhập quốc tịch” vào cuối điều này.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp tục nghiên cứu các ý kiến trên đây để tiếp thu một cách phù hợp trong các luật có liên quan mà không quy định trong Hiến pháp.
V. VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG (CHƯƠNG III)
1. Những góp ý chung
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với tên Chương, bố cục và các nội dung cơ bản của Chương III như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai cơ bản tán thành, đề nghị bổ sung thêm một số nội dung trong tên Chương và trong nội dung Chương cho đầy đủ như y tế, tài nguyên...; đề nghị gộp các điều 65, 66 và 67 thành một Điều; đề nghị giữ quy định tại Điều 41 và Điều 42 Hiến pháp hiện hành; đề nghị nhập Điều 46 và Điều 68 vì hai điều luật cùng nói về một vấn đề môi trường; đồng thời, cân nhắc một số nội dung còn trùng lặp với Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và rà soát lại các quy định trong Chương, không quy định quá chung chung, mang tính khẩu hiệu đối với các nội dung về giáo dục, khoa học, công nghệ.
- Loại ý kiến thứ ba không tán thành tên Chương, đề nghị đổi tên Chương ngắn gọn hơn: “Kinh tế - Xã hội”; “Phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng tổ quốc”.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị có một Chương riêng về “Chế độ kinh tế” như Hiến pháp năm 1992, nhưng cần bổ sung nội dung phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên môi trường và gắn với phát triển kinh tế xanh
Về tên gọi của Chương, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Chương III được xây dựng trên cơ sở lồng ghép Chương II “Chế độ kinh tế” và Chương III “Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ” của Hiến pháp năm 1992 thành Chương “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”. Quy định như vậy nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Ủy ban DTSĐHP cũng cho rằng nếu đặt tên Chương quá ngắn gọn như một số ý kiến góp ý nêu trên sẽ không thể hiện hết và không nhấn mạnh được các nội dung quy định trong Chương.
Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin giữ nguyên như Dự thảo về tên gọi của Chương này. Đồng thời, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, sửa đổi những nội dung còn trùng lắp giữa các quy định của Chương này với các Chương khác của Dự thảo như tại các điều 56, 58, 67..., lược bớt các nội dung mang tính Nghị quyết như tại Điều 62, Điều 66.
Bên cạnh đó, tiếp thu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP bỏ Điều 65 và đưa nội dung tương ứng quy định tại Điều này về Điều 66 và Điều 67.
Về đề nghị nhập Điều 46 và Điều 68, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Điều 46 quy định về quyền con người, trong khi đó Điều 68 là quy định về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo thực hiện quy định tại Điều 46 Hiến pháp.
Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin thể hiện bố cục các điều như Dự thảo.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 53
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến về Điều này như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ như Dự thảo, theo đó, Điều 53 quy định về mục tiêu, động lực và nội hàm của nền kinh tế nước ta còn Điều 54 sẽ quy định về các thành phần kinh tế.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, quy định quan điểm và mục tiêu của phát triển kinh tế và nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định trong Cương lĩnh, văn kiện của Đảng. Do đó, ý kiến này đề nghị cân nhắc gộp Điều 53 và Điều 54 thành một Điều chung. Khi đó, nội hàm khái niệm này đã bao hàm một cách đầy đủ, ngắn gọn, súc tích nội dung vì lợi ích dân tộc, vì sự phát triển Tổ quốc.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tính chất nền kinh tế đóng vai trò quan trọng và có tính quyết định đối với định hướng phát triển đất nước. Vì vậy, Hiến pháp cần có điều riêng quy định về tính chất, mục tiêu của nền kinh tế (Điều 53) cùng với quy định về các thành phần kinh tế (Điều 54). Quy định như vậy vừa thể hiện được bản chất, vừa thể hiện được động lực và mục tiêu của phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992.
- Loại ý kiến thứ ba tán thành như Dự thảo nhưng đề nghị bổ sung, chỉnh lý một số vấn đề về kỹ thuật, câu chữ, cụ thể như sau:
+ Đề nghị sửa đổi câu “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” vì thời gian áp dụng của Hiến pháp rất lâu dài; bổ sung từ “văn minh” sau cụm từ “công bằng xã hội”; bổ sung từ “bền vững” sau cụm từ “độc lập, tự chủ”; bổ sung từ “dân chủ”, “bảo đảm an sinh xã hội”; bổ sung cụm từ “xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ” sau cụm từ “bảo vệ môi trường”.
+ Đề nghị bỏ cụm từ “bảo vệ môi trường” ở đoạn cuối; bỏ cụm từ “xã hội”.
+ Đề nghị thay cụm từ “phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” bằng cụm từ “phát triển bền vững”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định như Dự thảo là phù hợp, cụ thể, thể hiện được bản chất vừa thể hiện được động lực và mục tiêu của phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự hài hòa, cân bằng giữa phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội cũng chính là phát triển bền vững, phát triển văn minh xã hội, trong đó đã bao hàm cả bảo đảm an sinh xã hội; đồng thời, quy định như Dự thảo là kế thừa các quy định hiện hành trong Hiến pháp năm 1992.
Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị được giữ nguyên như Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.2. Điều 54
- Về các thành phần kinh tế, qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị nêu rõ các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế như trong Cương lĩnh.
Loại ý kiến thứ hai tán thành quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế nhưng cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước vì đây là điểm cốt lõi của CNXH.
Loại ý kiến thứ ba tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân, quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế. Quy định như vậy vừa bám sát được nội dung Cương lĩnh, vừa phù hợp với tính chất và cách thể hiện Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội như sau: Quy định về tính chất của nền kinh tế và các thành phần kinh tế là nội dung quan trọng của Hiến pháp. Cách thể hiện có thể khác nhau nhưng đều bám sát tinh thần Cương lĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP xin trình Quốc hội 3 phương án tại khoản 1 Điều 54 như sau:
Phương án 1: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Phương án 2: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Phương án 3: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
- Về tính chất của nền kinh tế, các ý kiến cơ bản tán thành như Dự thảo nhưng đề nghị có quy định để làm rõ tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò của kinh tế nhà nước hoặc bỏ cụm từ “định hướng XHCN”, chỉ quy định tính chất của nền kinh tế nước ta là kinh tế thị trường là đủ; quy định rõ thêm về “tự do sở hữu, tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh” vì đó là những điều kiện của nền kinh tế thị trường...
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Việc xác định tính chất nền kinh tế đóng vai trò quan trọng và có tính quyết định đối với định hướng phát triển Nhà nước XHCN ở nước ta. Tính chất định hướng XHCN của nền kinh tế Việt Nam bảo đảm mọi thành viên trong xã hội sẽ được hưởng thụ một cách công bằng hơn và tốt hơn các giá trị cũng như lợi ích của sự phát triển kinh tế. Định hướng XHCN của nền kinh tế sẽ tạo tiền đề cho việc khắc phục những hậu quả, khiếm khuyết của kinh tế thị trường cũng như những tác động tiêu cực trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định như Dự thảo kế thừa các quy định hiện hành trong Hiến pháp năm 1992 là phù hợp vì một mặt, vừa khẳng định được bản chất, vừa thể hiện được động lực và mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; mặt khác, bảo đảm sự hài hòa và cân bằng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, tức là thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Liên quan đến quyền tự do sở hữu, tự do kinh doanh, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy về cơ bản các quy định này đã được thể hiện trong Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Tuy nhiên, trên cơ sở ý kiến nhân dân và để khẳng định cụ thể hơn sự bảo đảm của Nhà nước đối với các tài sản hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài như quy định tại Điều 25 của Hiến pháp hiện hành, Ủy ban DTSĐHP xin bổ sung khoản 3 Điều 54 “3. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.”
Về đề nghị có quy định để làm rõ tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và quy định rõ thêm về tự do sở hữu, tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh vì đó là những điều kiện của nền kinh tế thị trường, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy các quy định về tính chất, đặc điểm nền kinh tế nước ta đã được khẳng định rõ tại Điều 53 của Dự thảo. Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin được giữ quy định tại Điều 54 như Dự thảo.
2.3. Điều 55
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai không tán thành với quy định của Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ ba tán thành như Dự thảo, đề nghị bổ sung, chỉnh lý một số vấn đề về kỹ thuật, câu chữ, cụ thể như sau:
+ Bổ sung “ưu tiên đầu tư cho vùng, miền đặc biệt khó khăn, miền núi”, “theo định hướng XHCN” nhằm phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế - xã hội.
+ Bỏ cụm từ “xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường” và bổ sung cụm từ “cho nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường” sau đoạn “giữa các ngành, các cấp, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm….”
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy các quy định về bảo đảm phát triển hợp lý, hài hòa giữa các vùng tại khoản 1 Điều 55 đã là cơ sở hiến định quan trọng cho việc có chính sách ưu tiên đầu tư cho các vùng, miền, trong đó có vùng, miền đặc biệt khó khăn, miền núi. Quy định này cũng là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp hiện hành. Bên cạnh đó, nội dung quy định tại Điều 53 đã thể hiện rõ tính chất của nền kinh tế nước ta. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP xin giữ như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.4. Điều 56
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành, đề nghị cân nhắc một số nội dung chống độc quyền vì trong nền kinh tế thị trường, có những hình thức độc quyền là cần thiết.
- Loại ý kiến thứ ba cho rằng quy định tại khoản 1 về quyền tự do kinh doanh là không cần thiết, bởi vì trùng lặp với quy định tại Chương II về quyền con người, quyền công dân.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị cân nhắc bảo đảm tính thống nhất giữa quy định tại khoản 3 Điều này với quy định tại khoản 3 Điều 58. Bởi vì, cùng là tài sản được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, nhưng về bồi thường lại quy định khác nhau. Khoản 3 Điều 56 quy định tài sản được Nhà nước trưng mua, trưng dụng thì được bồi thường theo giá thị trường, trong khi tại khoản 3 Điều 58 quy định tài sản là quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi thì bồi thường theo quy định của pháp luật.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nhân dân, chuyển các nội dung của Điều 56 lên Điều 54 nhằm ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh (bao gồm tổ chức, cá nhân đầu tư trong nước và tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài) cho phù hợp với phạm vi của Chương này, bỏ quy định về chống độc quyền; đồng thời, nhấn mạnh sự bảo hộ của pháp luật đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, trong đó, có bảo hộ tài sản của mọi chủ thể đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho thống nhất.
2.5. Điều 57
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến về sở hữu đất đai như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo. Loại ý kiến này cho rằng quy định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là phù hợp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị đa dạng hóa sở hữu đất đai, trong đó có sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân về đất ở. Ý kiến này cho rằng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là không rõ về chủ thể sở hữu.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị tách thành hai điều, một điều quy định về sở hữu toàn dân, một điều quy định về sở hữu nhà nước. Ý kiến này cho rằng, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đất đai là tài nguyên quốc gia – thuộc sở hữu toàn dân với những đất đai mà toàn dân đã giao cho Nhà nước – một chủ thể cụ thể quản lý, sở hữu.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Quy định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980 đến nay. Vấn đề sở hữu về đất đai không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội. Để làm rõ hơn nội dung này, Dự thảo đã xác định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên cách dùng khái niệm “sở hữu toàn dân” và không quy định đa sở hữu về đất đai.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung, chỉnh lý một số nội dung, cụ thể như sau: bổ sung cụm từ “trong lòng đất” vào sau cụm từ “thềm lục địa”; bổ sung cụm từ “tài nguyên rừng”; thay cụm từ “tài sản công” bằng “tài sản quốc gia”; thay từ “khoáng sản” bằng cụm từ “tài nguyên khoáng sản”; sửa đổi cụm từ “do nhà nước đầu tư, quản lý” thành “do nhà nước quản lý, đầu tư”. Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu một phần ý kiến này và thể hiện lại Điều 57 như sau:
“Điều 57
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
2.6. Điều 58
Qua tổng hợp, có nhiều ý kiến góp ý về quy định thu hồi đất trong Dự thảo, trong đó có 4 loại ý kiến chính như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo nhưng đề nghị xác định rõ các nguyên tắc thu hồi đất.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định về thu hồi đất đối với trường hợp đã có quyền sử dụng đất mà chỉ thu hồi đối với các trường hợp lấn chiếm, sử dụng sai mục đích, kế hoạch, quy hoạch. Tất cả các trường hợp khác đều sử dụng hình thức trưng mua.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị chỉ thu hồi đất đối với 3 trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp vì lý do “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Bởi vì, bản thân các dự án phát triển kinh tế – xã hội đã thể hiện lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; đồng thời, cũng tránh việc lạm dụng quy định này để thu hồi đất tràn lan.
- Loại ý kiến thứ tư cho rằng, việc quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản dễ dẫn đến mâu thuẫn vì đã xác định quyền sử dụng đất là quyền tài sản tức là có quyền sở hữu và các quyền liên quan, việc thu hồi đất là không hợp lý vì quyền tài sản thì Nhà nước phải trưng mua.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội như sau: Thu hồi đất là vấn đề quan trọng, vừa liên quan đến quyền sở hữu toàn dân về đất đai, vừa liên quan đến quyền của người sử dụng đất. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội quy định cơ chế thu hồi đất vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không đặt vấn đề trưng mua vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu. Tuy nhiên, để bảo đảm việc thu hồi đất không bị lạm dụng, đề nghị bổ sung quy định về nguyên tắc của việc thu hồi, bồi thường, đó là “Việc thu hồi đất phải có bồi thường, công khai, minh bạch, công bằng theo quy định của pháp luật”; nội dung cụ thể về điều kiện và thể thức thu hồi, bồi thường sẽ được xác định trong luật.
Về trường hợp thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đất đai là nguồn lực quan trọng cần được khai thác, sử dụng hiệu quả nhằm mục đích phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Vì vậy, việc thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết. Tuy nhiên, để tránh việc thu hồi đất tràn lan, Dự thảo quy định “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Các trường hợp thu hồi đất do luật định. Việc thu hồi đất phải có bồi thường, công khai, minh bạch, công bằng theo quy định của pháp luật”.
Về ý kiến cho rằng quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản dễ dẫn đến mâu thuẫn vì đã xác định quyền sử dụng đất là quyền tài sản tức là có quyền sở hữu và các quyền liên quan, việc thu hồi đất là không hợp lý vì quyền tài sản thì nhà nước phải trưng mua, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền sử dụng đất là quyền tài sản Hiến định được trao cho công dân và gắn với một mảnh đất, thửa đất cụ thể. Tuy nhiên, đây là quyền có điều kiện và gắn với một đối tượng cụ thể là đất đai. Trong khi đó, đối tượng của quyền sử dụng đất – đất đai – lại thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Do đó, Nhà nước có quyền thu hồi lại mảnh đất mà Nhà nước đã giao cho một người đang sử dụng. Điều này không có nghĩa là Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất (quyền tài sản) của người sử dụng đất mà Nhà nước thu hồi đất - đối tượng của quyền sử dụng đất. Với các lý do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không thể hiện việc trưng mua quyền sử dụng đất trong Dự thảo.
2.7. Điều 59
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định rõ các khoản thu, chi ngân sách nhà nước hàng năm phải được dự toán và do Quốc hội quyết định và có sự phân biệt rõ khái niệm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, không nên sử dụng chung khái niệm ngân sách nhà nước.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị đề nghị bổ sung “Quỹ Bảo hiểm xã hội” vào khoản 1.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị bổ sung quy định về đồng tiền quốc gia
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nhân dân và thể hiện lại đoạn cuối khoản 2 Điều 59 Dự thảo như sau: “Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định”. Đồng thời, Ủy ban DTSĐHP bổ sung quy định “Đồng tiền quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia” thành khoản 3 Điều 59. Theo đó, Điều 59 được thể hiện lại như sau:
“Điều 59 (mới)
1. Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
2. Ngân sách nhà nước là thống nhất gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định.
3. Đồng tiền quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia”.
Về loại ý kiến thứ ba, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo quy định hiện hành Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó, người lao động và người sử dụng lao động tham gia đóng góp là chính, Nhà nước chỉ đóng vai trò bảo hộ và hỗ trợ Quỹ. Quỹ bảo hiểm xã hội không hoàn toàn do ngân sách nhà nước cung cấp (Ngân sách Nhà nước hỗ trợ kinh phí đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc để bảo đảm trả đủ lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 01 năm 1995; đóng bảo hiểm xã hội cho thời gian làm việc trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 đối với người lao động có thời gian làm việc trong khu vực nhà nước trước ngày 01 tháng 01 năm 1995; hỗ trợ 1% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp). Mặt khác, hiện nay, việc quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội đã được quy định chi tiết trong các đạo luật chuyên ngành. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không đưa Quỹ bảo hiểm xã hội vào Dự thảo.
2.8. Điều 60
Qua tổng hợp, có 2 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân nhưng thể hiện lại theo hướng nhấn mạnh trách nhiệm, vai trò của Nhà nước; bổ sung việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực chứ không chỉ đối với riêng kinh tế - xã hội; quy định rõ về “thu nhập thỏa đáng” hoặc bỏ cụm từ “có thu nhập thỏa đáng”...
- Loại ý kiến thứ hai không tán thành với quy định của Dự thảo và đề nghị bỏ điều này vì nội dung đã trùng với quy định tại Điều 8 Dự thảo Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định tại Điều 60 đã bao gồm cả việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng trong quản lý nhà nước chứ không chỉ đối với riêng kinh tế - xã hội. Mặt khác, quy định tại Điều 8 Dự thảo là quy định đối với đối tượng đặc thù là cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức còn quy định tại Điều 60 là quy định chung đối với mọi người, mọi đối tượng (cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân), mọi hoạt động trong xã hội.
Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ như quy định trong Dự thảo.
2.9. Điều 61
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân; đề nghị bổ sung một số nội dung về kỹ thuật, câu chữ.
- Loại ý kiến thứ hai không tán thành với quy định của Dự thảo Hiến pháp, bởi vì nội dung này đã có ở Điều 34 và Điều 38; đề nghị giữ nguyên quy định tại Điều 55, 56 Hiến pháp năm 1992 vì quy định như vậy rõ ràng hơn; đề nghị đưa về Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung khoản 3 với các nội dung như sau:
(1) Người sử dụng lao động nếu không trả tiền công của người lao động thì phải bồi thường thỏa đáng và bị xử phạt hình sự.
(2) Nhà nước có chính sách phù hợp, tạo điều kiện tốt nhất để người lao động phát huy khả năng sáng tạo.
(3) Nhà nước có chính sách thu hút nhân tài trên thế giới làm việc và cống hiến tại Việt Nam. Nhà nước có chế độ đãi ngộ nhân tài.
Tiếp thu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP bỏ cụm từ “có thu nhập thỏa đáng” và diễn đạt lại khoản 1 Điều này theo hướng gắn quyền và trách nhiệm của Nhà nước trong việc hoạch định các chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức giải quyết việc làm như sau: “1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động”.
Về loại ý kiến thứ hai, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các quy định tại Điều 34 và Điều 38 là các quy định về quyền con người, quyền công dân, còn quy định tại Điều 61 là quy định để đảm bảo thực hiện các quyền này. Quy định tại Điều 61 là sự khái quát có kế thừa các quy định tại các điều 55, 56 của Hiến pháp hiện hành.
Về các ý kiến khác, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đây là các quy định cụ thể cần được quy định trong các đạo luật chuyên ngành. Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin giữ quy định tại Điều này như Dự thảo.
2.10. Điều 62
Qua tổng hợp, có 2 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung một số nội dung về kỹ thuật, câu chữ, cụ thể như sau:
+ Đề nghị sửa “kết hợp đông tây y” thành “kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại”;
+ Đề nghị không quy định nguyên tắc “thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân” trong Hiến pháp, đồng thời đề nghị sửa và viết ngắn gọn lại theo hướng: “Nhà nước có chính sách đầu tư, phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân”.
+ Đề nghị thay cụm từ “ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi...” bằng cụm từ “đặc biệt quan tâm đến đồng bào miền núi”, vì để thể hiện rõ hơn sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với những vùng đặc biệt khó khăn.
+ Đề nghị bổ sung đối tượng được bảo vệ chăm sóc sức khoẻ là người cao tuổi, người khuyết tật, người có công.
+ Đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo đảm cơ hội bình đẳng và hỗ trợ các điều kiện theo đặc thù giới tính để phụ nữ thực hiện tốt quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và thiên chức người mẹ”.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân và thể hiện khái quát khoản 1 Điều này như sau: “1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi, hải đảo, dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác.”
Về các ý kiến khác, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đối tượng được bảo vệ chăm sóc sức khoẻ là người cao tuổi, người khuyết tật, người có công đã được quy định tại khoản 1 Điều 63 của Dự thảo; đồng thời, quy định “Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo đảm cơ hội bình đẳng và hỗ trợ các điều kiện theo đặc thù giới tính để phụ nữ thực hiện tốt quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và thiên chức người mẹ” đã được thể hiện tại Điều 17 và Điều 27 của Dự thảo. Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin được giữ như Dự thảo.
2.11. Điều 63
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên quy định tại Điều 67 Hiến pháp năm 1992.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung nội dung về kỹ thuật, câu chữ, cụ thể như sau:
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “bảo đảm an sinh xã hội” sau cụm từ “Nhà nước có chính sách đầu tư”; bổ sung thêm nội dung “thực hiện an sinh xã hội là trách nhiệm của nhà nước, của cộng động và mỗi người dân”.
+ Đề nghị bổ sung thêm các đối tượng như trẻ em mồ côi, đồng bào dân tộc thiếu số, phụ nữ có thai và trẻ em, người lang thang, không nơi nương tựa, nạn nhân chất độc màu da cam đioxin.
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “và các đối tượng bảo trợ xã hội nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo” vào cuối khoản 1.
+ Đề nghị thay từ “Nhà nước” thành “Tổ quốc Việt Nam” và bỏ từ “khen thưởng” vì trước khi tôn vinh đã được khen thưởng.
+ Đề nghị bổ sung thêm khoản 3 như sau: “3. Nhà nước và xã hội chú trọng đầu tư phát triển thể dục thể thao để góp phần nâng cao thể lực và tầm vóc người Việt Nam, cải thiện giống nòi, kéo dài tuổi thọ”.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nhân dân và thể hiện lại khoản 1, khoản 2 và bổ sung khoản 3 Điều 63 như sau:
“1. Nhà nước và xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước.
2. Nhà nước phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác.
3. Nhà nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có nơi ở.”
Về đề nghị giữ nguyên quy định tại Điều 67 Hiến pháp năm 1992, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy các quy định của Dự thảo là sự khái quát cao hơn, phù hợp với thực tiễn hơn những vẫn giữ cơ bản các nội dung của Hiến pháp năm 1992 về các vấn đề này.
Về đề nghị thay từ “Nhà nước” thành “Tổ quốc Việt Nam” và bỏ từ “khen thưởng” vì trước khi tôn vinh đã được khen thưởng, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định như Dự thảo là xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ tôn vinh, khen thưởng người có công với nước, xác định cụ thể hơn các chế độ đối với người có công với nước.
Đối với đề nghị bổ sung thêm khoản 3 quy định phát triển thể dục thể thao nhằm nâng cao thể trạng và sức khỏe của người Việt Nam, Ủy ban DTSĐHP đã thể hiện trong quy định về xây dựng con người Việt Nam “có sức khỏe” tại khoản 4 Điều 65 của Dự thảo. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ quy định tại Điều 63 như thể hiện trong Dự thảo.
2.12. Điều 64
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng Dự thảo Hiến pháp chỉ có 1 Điều quy định về văn hóa là chưa đúng với tầm quan trọng và chưa thể hiện sự quan tâm đúng mức với văn hóa.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị chuyển khoản 4 Điều 64 sang khoản 2 Điều 44 vì có nội hàm tương tự.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị chỉnh lý, bổ sung một số nội dung như sau:
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “là mục tiêu” vào khoản 1 theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII).
+ Đề nghị cần bổ sung cụm từ “là sức mạnh nội sinh quan trọng của quốc gia” vào sau cụm từ “động lực phát triển của đất nước” ở khoản 1 để bảo đảm phù hợp và nhất quán với quan điểm về văn hóa của Đảng đã xác định.
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam” vào khoản 1.
+ Đề nghị tách nội dung về các phương tiện thông tin đại chúng để bảo đảm mối liên quan với Điều 26 về quyền tự do ngôn luận, được thông tin của công dân.
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “xây dựng xã hội học tập và gia đình Việt Nam hiếu học” ở cuối câu.
+ Đề nghị bổ sung thêm nội dung “ưu tiên phát triển văn học, nghệ thuật của dân tộc thiểu số”.
Tiếp thu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã tách khoản 2 Điều 64 thành hai khoản, trong đó, một khoản quy định riêng về văn học nghệ thuật, một khoản quy định riêng về các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, Ủy ban DTSĐHP bổ sung quy định về xây dựng con người Việt Nam “có sức khỏe” vào khoản 4 Điều 64 của Dự thảo và thể hiện lại như Dự thảo.
2.13. Điều 65
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất không tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân: bỏ Điều này và ghép nội dung vào các Điều quy định về giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành với quy định của Dự thảo công bố ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung một số định hướng cụ thể đối với phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, chẳng hạn như đầu tư nhân lực cho giáo dục xứng tầm; xử lý các hành vi phản giáo dục trong giáo dục; đầu tư phải trên mọi mặt kinh tế - xã hội cho giáo dục; bảo đảm chu cấp (miễn phí) cho học sinh từ mầm non đến hết tiểu học... để thể hiện rõ chính sách của nhà nước đối với giáo dục.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị bổ sung, chỉnh lý một số nội dung, cụ thể như sau:
+ Đề nghị bổ sung nội dung “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, phải đi trước và được đầu tư trước”
+ Đề nghị bổ sung nội dung “Nhà nước có chính sách đãi ngộ và khuyến khích nhân tài, ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn”.
+ Đề nghị bổ sung nội dung “nhân tài là tài sản quý của quốc gia” vào cuối câu; bổ sung từ “đổi mới” trước từ “phát triển”; bổ sung từ “ưu tiên” trước cụm từ “quốc sách hàng đầu”; bổ sung cụm từ “đào tạo phải có định hướng, tránh đào tạo tràn lan, không hiệu quả, đào tạo ra không có việc làm” sau cụm từ “là quốc sách hàng đầu”.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nhân dân và chuyển nội dung của Điều 65 vào Điều 66 và Điều 67, đồng thời bỏ quy định tại Điều 65 của Dự thảo.
Về đề nghị bổ sung nội dung “Nhà nước có chính sách đãi ngộ và khuyến khích nhân ái, ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn” và đề nghị bổ sung nội dung “nhân tài là tài sản quý của quốc gia”, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy các nội dung này đã được quy định tại Điều 66 của Dự thảo.
2.14. Điều 66
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân; đề nghị chỉnh lý, bổ sung một số vấn đề về kỹ thuật, câu chữ.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung chính sách Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo mọi người tiếp cận bình đẳng với hệ thống giáo dục; người khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học văn hóa và học nghề phù hợp.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị khẳng định giáo dục phổ cập là bắt buộc và được miễn phí, giữ lại nội dung của Điều 35 Hiến pháp năm 1992 và nội dung “phổ cập giáo dục tiểu học” của Điều 36 Hiến pháp năm 1992.
- Loại ý kiến thứ tư một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung về kỹ thuật, câu chữ, cụ thể như sau:
+ Thay cụm từ “đào tạo người lao động có nghề” bằng cụm từ “đào tạo nghề, nâng cao nghề cho người lao động “; thay từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” ; thay cụm từ “bồi dưỡng nhân cách” bằng cụm từ “ phát triển nhân cách”; thay từ “ công dân” bằng “người học”; thay cụm từ “phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân” bằng cụm từ “mục tiêu của giáo dục là phát triển bền vững con người” ; thay nội dung “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đào tạo người lao động có nghề, năng động, sáng tạo” bằng nội dung “và văn hóa dân tộc”; thay cụm từ “ưu tiên đầu tư” bằng cụm từ “đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”; thay cụm từ “ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo” bằng cụm từ: “đầu tư phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác”.
+ Đề nghị bổ sung quy định thể hiện rõ chính sách đào tạo đi đôi với bố trí việc làm cho người được đào tạo.
+ Đề nghị bổ sung loại hình tư thục, bán công cho đầy đủ; đồng thời quy định “tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân”.
+ Đề nghị khẳng định Coi giáo dục công lập là hàng đầu và không thương mại hóa giáo dục.
+ Đề nghị bổ sung quy định về tính chất nền giáo dục Việt Nam với nội dung “Nền giáo dục quốc dân mang tính chất Nhân bản - Dân tộc - Khai sáng” thành khoản đầu tiên. Bởi vì, đây là những thuộc tính của một nền giáo dục thực sự vì con người, vì dân tộc, là mục đích tối thượng của giáo dục nước nhà.
+ Đề nghị bổ sung quy định khoản 4 với nội dung “Nhà nước thực hiện việc xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập để tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội học tập suốt đời”.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu một số ý kiến nhân dân và đã thể hiện lại Điều 66 Dự thảo, trong đó, đưa nội dung tại Điều 65 về phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu về khoản 1 Điều này, quy định rõ về chính sách, quan điểm đối với từng cấp/ bậc giáo dục; đồng thời, bổ sung quy định về chính sách giáo dục đối với người khuyết tật, người nghèo như sau:
“Điều 66
1. Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đào tạo người lao động có nghề, năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
2. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân, ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục, đào tạo; bảo đảm bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí; phổ cập bậc trung học; phát triển giáo dục đại học, dạy nghề; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý; ưu tiên phát triển giáo dục, đào tạo ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề phù hợp.”
2.15. Điều 67
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng Dự thảo Hiến pháp sửa đổi mới chỉ nêu những định hướng lớn, chưa đề cập cụ thể các yếu tố cụ thể để phát triển khoa học và công nghệ cũng như chưa đề cập rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong sự phát triển lĩnh vực này; đề nghị nhấn mạnh phát triển khoa học và công nghệ phải phục vụ cho lợi ích dân tộc, quốc gia và nhân loại.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung nội dung về kỹ thuật, câu chữ, cụ thể như sau:
+ Thay cụm từ “then chốt, là động lực” bằng cụm từ “là nền tảng” hoặc “hàng đầu”; bổ sung cụm từ “bảo đảm trật tự an toàn xã hội” vào trước cụm từ “quốc phòng an ninh”;
+ Quy định rõ “Nhà nước đầu tư” hoặc “Nhà nước tạo điều kiện” chứ không phải Nhà nước thúc đẩy.
+ Bổ sung cụm từ “là nguồn lực đặc biệt của quốc gia” vào sau cụm từ “là động lực”.
+ Bổ sung từ “bền vững” sau từ “phát triển” và “giáo dục” sau từ “văn hóa” vì mục tiêu phát triển của đất nước là phát triển bền vững.
+ Bổ sung cụm từ “chăm lo, trọng dụng, tạo điều kiện” vào sau cụm từ “nhà nước thúc đẩy”.
+ Bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ; bảo đảm quyền tự do nghiên cứu và sáng tạo khoa học, công nghệ” để thể hiện chính sách xã hội hóa khoa học - công nghệ và thu hút nhân tài trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
+ Bổ sung nội dung Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
+ Bổ sung một khoản quy định về chính sách đãi ngộ thích đáng, tôn vinh và trọng dụng các nhà khoa học có cống hiến xuất sắc cho đất nước, có chính sách sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, tránh tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định như trong Dự thảo đã thể hiện được một cách khái quát nhất quan điểm, định hướng, chính sách đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ; mặt khác, các quy định của Hiến pháp chỉ có thể ghi nhận các nội dung mang tầm tư tưởng của chính sách, bảo đảm quyền tham gia cũng như hưởng thụ lợi ích của mọi người từ hoạt động khoa học, công nghệ. Do vậy, xin được giữ nguyên về cơ bản nội dung Điều này như trong Dự thảo.
Bên cạnh đó, tiếp thu ý kiến nhân dân, đưa nội dung về phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu từ Điều 65 về khoản 1 Điều này, quy định bổ sung về Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa nội dung này.
2.16. Điều 68
Qua tổng hợp, có 2 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung nội dung về kỹ thuật, câu chữ, cụ thể như sau:
+ Đề nghị quy định rõ: “Nhà nước, xã hội và mọi tổ chức, cá nhân đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ môi trường”.
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “và tình trạng nước biển dâng cao” vào cuối khoản 2 Điều này; thêm từ “sinh thái” sau từ “môi trường” để phân biệt với các loại môi trường khác.
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “có quy hoạch, kế hoạch khai thác” vào khoản 2 thành “Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường, có quy hoạch, kế hoạch khai thác”.
+ Đề nghị bổ sung quy định chế tài như sau: “ Vi phạm về môi trường tùy mức độ sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự ”; hoặc quy định rõ “Mọi tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy nhược sức khỏe nhân dân và suy giảm đa dạng sinh học đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”.
Tiếp thu các ý kiến góp ý của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP xin thể hiện lại khoản 2 Điều 68 như sau: “ 2. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch của tổ chức, cá nhân được Nhà nước khuyến khích.”
Bên cạnh đó, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy trách nhiệm bảo vệ môi trường của Nhà nước, xã hội, nghĩa vụ bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân đã được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 68. Về đề nghị bổ sung quy định chế tài như sau: “ Vi phạm về môi trường tùy mức độ sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự ”; hoặc quy định rõ “Mọi tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy nhược sức khỏe nhân dân và suy giảm đa dạng sinh học đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định tại khoản 3 Điều 68 là phù hợp và chặt chẽ, do đó xin giữ khoản 1 và khoản 3 Điều 68 như Dự thảo.
VI. VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (CHƯƠNG IV)
1. Những góp ý chung
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với tên và nội dung cơ bản của Chương.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên tên Chương như Hiến pháp năm 1992 “Bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”; đổi tên chương thành: An ninh và Quốc phòng hoặc Bảo vệ tổ quốc và an ninh Quốc gia.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung quy định về hợp tác quốc tế trong Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc theo hướng Nhà nước tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, góp phần đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, tăng cường thêm sức mạnh quốc phòng, an ninh nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; khẳng định vai trò của đối ngoại và ngoại giao trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đề nghị bổ sung quy định về nền quốc phòng toàn dân; về giáo dục quốc phòng, an ninh bắt buộc đối với mọi công dân.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị chuyển Điều 94 về Hội đồng quốc phòng và an ninh vào Chương này cho phù hợp với nội dung của Chương IV và nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ tên Chương và kết cấu Chương như Dự thảo vì đã kế thừa Hiến pháp năm 1992, sắp xếp nội dung các điều một cách khoa học, ngắn gọn và đã bổ sung nội dung thực hiện nghĩa vụ quốc tế của lực lượng vũ trang nhân dân. Mặt khác, nội dung Dự thảo được xây dựng phù hợp với Cương lĩnh, Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12/7/2011 Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI.
Về ý kiến đề nghị bổ sung quy định về đối ngoại với tư cách là một bộ phận quan trọng trong việc bảo vệ Tổ quốc vào Chương này cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, lực lượng vũ trang có vai trò trung tâm trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bảo vệ Tổ quốc cũng đòi hỏi sự phối hợp, sự hỗ trợ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: tạo tiềm lực kinh tế thông qua các quy định về phát triển kinh tế; tạo sự ổn định xã hội thông qua các quy định về bảo đảm an sinh xã hội; phát triển thể lực, sức khỏe nhân dân thông qua các quy định về dân số, y tế; xây dựng lòng yêu nước thông qua các quy định về văn hóa, giáo dục; tạo sự độc lập, tự chủ, xây dựng mối quan hệ bình đẳng, hợp tác với các quốc gia khác trên thế giới thông qua các quy định về đối ngoại,... Như vậy, các chương khác của Dự thảo đã có quy định chung về các vấn đề này, trong đó, vấn đề đối ngoại đã được quy định tại Chương I (Điều 12). Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không bổ sung quy định về đối ngoại vào Chương này.
Về đề nghị giữ lại tên Chương như Hiến pháp năm 1992 là “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc bảo vệ Tổ quốc nói chung cũng chính là bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vì chủ nghĩa xã hội là con đường nhất quán mà Đảng, Nhà nước, dân tộc và nhân dân ta đã lựa chọn. Đồng thời, các quy định cụ thể trong các điều khoản của Chương này đã thể hiện rõ nội dung bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin giữ tên Chương như Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 69
Qua tổng hợp, có 2 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉnh sửa một số vấn đề về nội dung như sau.
+ Đề nghị gộp các điều 11, 48 và 69 thành Điều 69 mới bao gồm đầy đủ quyền, nghĩa vụ của công dân và vấn đề bảo vệ Tổ quốc, nội dung cụ thể như sau: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Nhà nước xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh về mọi mặt nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”;
+ Đề nghị quy định rõ: lực lượng vũ trang gồm Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Điều này là rất quan trọng để xác định rõ tính vũ trang, tính Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân và chỉ có Quân đội nhân dân và Công an nhân dân mới được xác định là lực lượng vũ trang nhân dân, ngoài ra không còn lực lượng nào khác.
+ Đề nghị bổ sung đoạn 1 “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và nhân dân” để làm rõ thêm vai trò của Đảng và Nhà nước, đảm bảo tính thống nhất và cụ thể.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các điều 11, 48 và 69 mỗi điều có một nội hàm khác nhau, nếu như Điều 11 quy định về tính bất khả xâm phạm của “Tổ quốc” Việt Nam nói chung thì Điều 48 quy định nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc với tư cách là nghĩa vụ cơ bản của mỗi công dân còn Điều 69 quy định về trách nhiệm chung của toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, trong đó có mọi chủ thể như Đảng, Nhà nước, xã hội... Ủy ban DTSĐHP cũng nhận thấy các điều 71, 72 của Dự thảo đã có các quy định riêng về Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Do đó, về cơ bản, Ủy ban DTSĐHP xin giữ Điều 69 như Dự thảo và thể hiện lại như sau:
“Điều 69
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân.
Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”.
2.2. Điều 70
Qua tổng hợp, cơ bản các ý kiến nhân dân tán thành với quy định về bảo vệ Tổ quốc như Dự thảo đã công bố. Về Điều 70, có các loại ý kiến sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với những sửa đổi, bổ sung của Dự thảo nhưng đề nghị đảo cụm từ “lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân” lên trước cụm từ “trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Loại ý kiến này cho rằng, lực lượng vũ trang của nước ta do Đảng thành lập và rèn luyện, do đó, để khẳng định bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, cần quy định rõ trong Hiến pháp nghĩa vụ trung thành với Đảng của lực lượng vũ trang.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ quy định này như Hiến pháp hiện hành, không quy định “lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Loại ý kiến này cho rằng cách quy định này vẫn đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện với lực lượng vũ trang, đồng thời, góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho lực lượng vũ trang Việt Nam khi tham gia thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Trên cơ sở nghiên cứu tiếp thu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội thể hiện lại Điều 70 như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”
2.3. Điều 71
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân, đề nghị chỉnh sửa một số vấn đề về câu chữ, kỹ thuật cho phù hợp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉnh sửa một số nội dung như sau: bỏ từ “cách mạng” sau cụm từ “Quân đội nhân dân”; bỏ cụm từ “từng bước”; thay cụm từ “từng bước” bằng từ “tiến lên”; bổ sung cụm từ “tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân” sau “...từng bước hiện đại...” để thống nhất với Điều 70; bổ sung vào đoạn cuối nội dung “Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đề nghị diễn đạt lại Điều này cho thống nhất với quy định tại Điều 46 của Hiến pháp năm 1992 và Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội XI. Theo đó cần thể hiện theo thể chủ động, tức Nhà nước xây dựng quân đội.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị giữ nguyên như quy định tại Điều 46 Hiến pháp năm 1992.
Về đề nghị bổ sung cụm từ “tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân” sau “...từng bước hiện đại...” để thống nhất với Điều 70; bổ sung vào đoạn cuối nội dung “Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy các vấn đề này đã được quy định tại Điều 70 của Dự thảo.
Đối với các ý kiến khác, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu và thể hiện lại Điều 71 như sau: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp.”
2.4. Điều 72
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉnh sửa một số nội dung như sau: bỏ từ “cách mạng” sau cụm từ “Công an nhân dân”; bỏ cụm từ “từng bước”; thay từ “từng bước” bằng từ “tiến lên”; bổ sung cụm từ “bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ” trước cụm từ “bảo vệ an ninh quốc gia”; bổ sung vào đoạn cuối nội dung “Công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”; bổ sung một số nhiệm vụ của Công an nhân dân là: phòng, chống các vi phạm pháp luật khác, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tính mạng của người dân, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
- Loại ý kiến thứ ba tán thành với nội dung Dự thảo, đề nghị chỉnh sửa một số vấn đề về câu chữ, kỹ thuật cho phù hợp.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị giữ nguyên như quy định tại Điều 47 Hiến pháp năm 1992.
Về đề nghị bổ sung cụm từ “bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ” trước cụm từ “bảo vệ an ninh quốc gia”; bổ sung vào đoạn cuối nội dung “Công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy các vấn đề này đã được quy định tại Điều 70 của Dự thảo.
Tiếp thu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh sửa Dự thảo theo hướng quy định rõ trách nhiệm xây dựng lực lượng Công an nhân dân của Nhà nước như đối với Quân đội nhân dân và thể hiện lại Điều 72 như sau: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
2.5. Điều 73
Qua tổng hợp, có 4 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai: Đề nghị chỉnh sửa một số nội dung như sau: Đề nghị sửa lại Điều này theo tinh thần kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, quốc phòng – an ninh với kinh tế; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh cho phù hợp với Cương lĩnh; bổ sung vào đoạn cuối nội dung “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”; bỏ cụm từ “đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công nhân, nhân viên quốc phòng”. Nhà nước có chế độ, chính sách đặc thù cho mỗi loại hình lao động riêng. Vì vậy, không cần nêu cơ chế riêng cho quốc phòng trong Hiến pháp; bổ sung quy định “hậu phương Công an” vào Điều 73 của Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ ba tán thành với nội dung Dự thảo, đề nghị chỉnh sửa một số vấn đề về câu chữ, kỹ thuật cho phù hợp.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị giữ nguyên quy định tại Điều 48 Hiến pháp hiện hành.
Về đề nghị bỏ cụm từ “đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công nhân, nhân viên quốc phòng”, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đây là quy định cần thiết để khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với lực lượng vũ trang, đồng thời, quy định này trong Dự thảo là kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Tuy nhiên, Ủy ban DTSĐHP đề nghị bổ sung, chỉnh lý quy định này như sau: “bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân”.
Về đề nghị bổ sung quy định “hậu phương Công an” vào Điều 73 của Dự thảo. Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ như Dự thảo vì khái niệm “hậu phương Quân đội” được đặt trong mối liên hệ với khái niệm “tiền phương” – nơi chiến trường - và thực tế chỉ áp dụng đối với Quân đội. Mặt khác, nội hàm của khái niệm “hậu phương Công an” còn chưa thực sự được làm rõ trong thực tiễn.
Về các ý kiến khác, Ủy ban DTSĐHP xin được tiếp thu ý kiến nhân dân và thể hiện lại Điều 73 như sau:
“Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”.
VII. VỀ QUỐC HỘI (CHƯƠNG V)
1. Những góp ý chung
Cơ bản các ý kiến tán thành với bố cục và nội dung của Chương V. Về nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị (1) quy định Chương này ngắn gọn hơn, cơ bản hơn, những vấn đề cụ thể sẽ được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội; (2) rà soát quy định của các điều 75, 84 và 120 để đảm bảo thống nhất giữa các quy định trong dự thảo Hiến pháp; (3) đổi tên Chương V thành “Hệ thống lập pháp”, trong đó bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đồng thời chuyển nội dung quy định về Hội đồng nhân dân các cấp tại Chương IX vào Chương này; (4) sửa tên gọi “Hội đồng dân tộc” thành “Ủy ban dân tộc” cho đồng bộ với tên gọi của các Ủy ban của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP đã rà soát lại các quy định của Chương V để ngắn gọn, cô đọng, bảo đảm chính xác và tránh trùng lặp. Về đề nghị chuyển quy định về Hội đồng nhân dân sang Chương V và đổi tên Chương này thành “Hệ thống lập pháp”, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Hội đồng nhân dân là một bộ phận của chính quyền địa phương, hơn nữa, thẩm quyền lập pháp là thẩm quyền riêng của Quốc hội, vì vậy đề nghị giữ bố cục như Dự thảo.
Đối với tên gọi của Hội đồng dân tộc, đây là tên gọi kế thừa từ Hiến pháp 1992, thể hiện vị trí đặc biệt của Hội đồng dân tộc so với các cơ quan khác của Quốc hội trong công tác dân tộc, giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Hơn nữa, việc quy định tên gọi này cũng để tránh trùng với Ủy ban dân tộc của Chính phủ.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị áp dụng mô hình chế độ hai viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện) ở Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, ở các nước việc lựa chọn mô hình nghị viện một viện hay hai viện phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố hình thức cấu trúc nhà nước, truyền thống dân tộc và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi quốc gia.
Quốc hội nước ta được tổ chức theo truyền thống Quốc hội một viện. Lịch sử lập hiến Việt Nam cho thấy, vấn đề Quốc hội một viện hay hai viện đã được đặt ra thảo luận trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, sau khi thảo luận các phương án, các nhà lập hiến Việt Nam đã chọn mô hình Quốc hội một viện. Thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta trong giai đoạn vừa qua đã chứng minh cho thấy tính đúng đắn của sự lựa chọn này. Quốc hội đại diện cho ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Các đại biểu Quốc hội là những người đại diện cho các tầng lớp, giai cấp, cho các dân tộc, các địa phương. Trong cơ cấu của Quốc hội các khóa, số lượng đại biểu Quốc hội đại diện cho các dân tộc thiểu số chiếm một tỷ lệ thích đáng; các tỉnh, thành phố đều có một số lượng đại biểu nhất định. Bên cạnh đó là đại diện của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nghiệp và các thành phần xã hội khác. Với cơ cấu thành phần của Quốc hội, Quốc hội nước ta thực sự là cơ quan đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị (1) trao cho Quốc hội quyền “cho phép chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm những chủ trương, chính sách chưa được quy định trong luật”; (2) “Quốc hội quyết định việc điều động lực lượng vũ trang ra nước ngoài hoạt động và việc rút lực lượng vũ trang về nước”.
Ủy ban DTSĐHP xin giải trình các vấn đề nêu trên như sau:
+ Việc thí điểm những chủ trương, chính sách chưa được quy định trong luật là việc làm khác quy định của luật, là các văn bản do Quốc hội ban hành, vì vậy phải được sự phê duyệt của Quốc hội mới được thực hiện. Đây là thực tiễn đang diễn ra trong hoạt động lập pháp của Quốc hội, phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội trong việc sửa đổi, bổ sung văn bản do mình đã ban hành, vì vậy không cần thiết phải quy định trong Hiến pháp.
+ Việc quy định Quốc hội quyết định việc điều động lực lượng vũ trang ra nước ngoài hoạt động và việc rút lực lượng vũ trang về nước là một thẩm quyền cụ thể, đã nằm trong phạm vi các thẩm quyền quyết định về chiến tranh và hòa bình, về các biện pháp bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia, các chính sách cơ bản về đối ngoại… quy định tại các khoản 13 và 14 Điều 75 của Dự thảo, vì vậy đề nghị không bổ sung nội dung này vào Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ tư: đề nghị nên có một điều riêng về Đoàn đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Đoàn đại biểu Quốc hội là hình thức tổ chức hoạt động của các đại biểu Quốc hội do cử tri ở một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bầu ra. Đây là vấn đề cụ thể và sẽ được quy định phù hợp trong các đạo luật.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 74
Cơ bản các ý kiến tán thành với nội dung của Điều 74. Về nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không nên quy định “quyền lập hiến” của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Chương XI của Dự thảo đề xuất hai phương án về thẩm quyền sửa đổi Hiến pháp, nhưng dù phương án nào thì cũng phản ánh vai trò hết sức quan trọng của Quốc hội trong việc xây dựng và thông qua Hiến pháp với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, vì vậy, việc quy định về “quyền lập hiến” của Quốc hội tại Điều 74 là phù hợp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị làm rõ vì sao quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện “quyền lập pháp”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp là nhằm thể chế hóa quan điểm của Cương lĩnh về việc “phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị cần giữ quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp như Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, ở nước ta Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy, quy định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp là hợp lý. Tuy nhiên, trong quy trình lập hiến, lập pháp có nhiều chủ thể cùng tham gia. Hơn nữa, khi thực hiện các quyền này, Quốc hội cũng tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân hoặc trưng cầu ý dân. Vấn đề này cũng đã được quy định trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng. Do đó, không nên quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị quy định cụ thể "Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". Ý kiến khác lại đề nghị bỏ đoạn “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước" vì nội dung của vấn đề này đã được quy định tại Điều 75.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 74 xác định vị trí, vai trò, chức năng cơ bản của Quốc hội, còn nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ quan này được quy định tại Điều 75, nên đề nghị tiếp tục quy định nội dung Điều 74 thật ngắn gọn, cô đọng, không trùng lặp với Điều 75 như Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ năm đề nghị quy định chức năng giám sát của Quốc hội tại Điều 74.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, có nhiều cơ quan thực hiện quyền giám sát, nhưng chỉ có Quốc hội với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền “giám sát tối cao”. Quy định này phản ánh đặc thù hoạt động giám sát của Quốc hội và phù hợp vị trí, vai trò của cơ quan này trong bộ máy nhà nước. Vì vậy đề nghị giữ chức năng “giám sát tối cao” của Quốc hội như Dự thảo.
2.2. Điều 75
Cơ bản các ý kiến tán thành nội dung của Điều 75. Về nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị Quốc hội phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước đất nước, trước nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật;
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị quy định vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các nội dung liên quan đến thành lập, giám sát hoạt động, quyết định nhân sự của các cơ quan do Quốc hội thành lập đã được quy định tại các khoản 2, 6 và 7 Điều 75.
Với tư cách là một cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội cũng như các cơ quan khác đều phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước đất nước, trước nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, trong trường hợp các đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân có thể bị nhân dân hoặc Quốc hội bãi nhiệm. Quy định này đã được thể hiện tại Điều 7 của Dự thảo. Bên cạnh đó, các cử tri còn có quyền không tiếp tục bầu những đại biểu không thực hiện tốt nhiệm vụ trong nhiệm kỳ của mình tại kỳ bầu cử tiếp theo.
Đối với việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Điều 15 Dự thảo đã quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng, được quy định trong Hiến pháp và luật”. Do đó, bản thân các quy định về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội cũng nhằm mục tiêu bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Về khoản 1:
+ Loại ý kiến thứ nhất không tán thành với khoản này. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định tại khoản 1 Điều 75 là kế thừa Hiến pháp hiện hành, phản ánh thẩm quyền của Quốc hội trong hoạt động lập hiến, lập pháp, phù hợp với thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta hiện nay, vì vậy đề nghị được giữ như Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị đề nghị viết lại khoản này như sau: (1) Thông qua dự thảo Hiến pháp, dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Thông qua luật và sửa đổi luật; (2)“Lập/xây dựng/làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; xây dựng luật/làm và sửa đổi luật”; (3) “…xây dựng và sửa đổi Hiến pháp; xây dựng và sửa đổi luật.”
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, “thông qua” chỉ là một giai đoạn trong quy trình lập hiến, lập pháp nên việc sử dụng cụm từ này là chưa chính xác. Về trưng cầu ý dân, Điều 124 Dự thảo xác định việc trưng cầu ý dân (nếu có) cũng chỉ là một giai đoạn trong quy trình ban hành Hiến pháp. Vì vậy, đề nghị kế thừa Hiến pháp hiện hành tiếp tục quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật”.
+ Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung: “Nhân dân có quyền phúc quyết việc làm và sửa đổi Hiến pháp, làm và sửa đổi luật. Theo kết quả phúc quyết của nhân dân, Quốc hội quyết định ban hành hay không ban hành Hiến pháp (luật) mới; sửa đổi hay không sửa đổi Hiến pháp (luật) mới”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, vai trò của nhân dân trong quy trình lập hiến đã được quy định tại Chương XI về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. Đối với các đạo luật, kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành và thông lệ làm luật của nhiều quốc gia trên thế giới, thẩm quyền lập pháp là thuộc về Quốc hội. Nhưng với bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, pháp luật hiện hành cũng ghi nhận vai trò quan trọng của nhân dân trong quy trình lập pháp, thể hiện ở nhiều đạo luật có liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân đã và đang được đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Vì vậy những nội dung quy định trong Dự thảo đã bảo đảm ghi nhận được vai trò của nhân dân trong hoạt động lập hiến và lập pháp.
- Về khoản 2: Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “Kiểm toán Nhà nước”, “Hội đồng Hiến pháp”. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về Kiểm toán nhà nước, Hội đồng Hiến pháp mới được bổ sung vào Chương X của Hiến pháp, việc bổ sung thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với các cơ quan này là phù hợp với sự bổ sung các thiết chế đó trong tổ chức bộ máy nhà nước.
- Về khoản 3: Có ý kiến đề nghị sửa khoản này như sau: (1) “Quyết định chiến lược và kế hoạch, chính sách, phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước"; (2) “quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia”. Ý kiến khác đề nghị bỏ cụm từ “cơ bản”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định như Dự thảo về việc Quốc hội“Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” nhằm xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong việc phát triển kinh tế - xã hội, theo đó, Quốc hội quyết định các mục tiêu định hướng chung, cơ bản của quá trình phát triển đất nước, làm cơ sở cho hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ. Đối với nội dung tài chính, tiền tệ quốc gia đã được quy định tại khoản 4, nội dung về quốc phòng, an ninh đã được quy định tại các khoản 12, 13 và 14 Điều 75, vì vậy xin được giữ các nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 4:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành với quy định của Dự thảo về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Quy định tại khoản 4 Điều 75 của Dự thảo công bố lấy kiến nhân dân đã tách bạch được giữa ngân sách trung ương và địa phương nhằm nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương đối với vấn đề ngân sách. Tuy nhiên, quy định này lại chưa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nước ta. Nhà nước Việt Nam là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất trong quản lý, Quốc hội đại diện cho cử tri cả nước, chứ không phải chỉ ở Trung ương. Bên cạnh đó, trong việc thực hiện ngân sách hiện nay đang tiến hành việc phân công, phân cấp trong dự toán và quyết định ngân sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án như sau:
Phương án 1: Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
Phương án 2: Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước.
- Về khoản 5: Có ý kiến đề nghị sửa khoản này như sau (1) “Quốc hội quyết định chính sách dân tộc phải phù hợp theo tính chất từng vùng, miền của toàn quốc, theo thời gian thích hợp nhất của cơ chế thị trường”; (2) “Quyết định chính sách đối với cộng đồng dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ý kiến khác đề nghị bổ sung “chính sách đối nội, đối ngoại và việc tham gia làm thành viên các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự quốc tế” vào cuối khoản này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp chỉ quy định khái quát về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định chính sách dân tộc, còn cụ thể việc thực hiện thẩm quyền này như thế nào sẽ do các đạo luật điều chỉnh.
Về các chính sách đối nội, đối ngoại... đã được quy định tại các khoản khác trong Điều 75, vì vậy xin không bổ sung vào nội dung khoản này.
- Về khoản 6:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bổ sung: Ủy ban điều tra dư luận xã hội, Thanh tra Nhà nước; quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Quốc phòng và an ninh.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đề xuất bổ sung Ủy ban điều tra dư luận xã hội là một đề xuất mới, chưa có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để bổ sung vào Hiến pháp; Thanh tra Nhà nước hiện nay đang là cơ quan của Chính phủ nên để quy định trong Luật tổ chức Chính phủ và các đạo luật chuyên ngành.
Về Hội đồng quốc phòng và an ninh, đây là một chế định do Chủ tịch nước đứng đầu, vì vậy đề nghị không bổ sung vào Chương này mà giữ ở Chương về Chủ tịch nước.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ khoản này, nên giao cho các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước quy định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy khoản 6 quy định các thẩm quyền quan trọng của Quốc hội trong việc xác lập tổ chức và hoạt động của các cơ quan chủ chốt trong bộ máy nhà nước, cần được ghi nhận trong Hiến pháp để làm cơ sở cho việc cụ thể hóa trong các đạo luật, vì vậy đề nghị giữ quy định này như Dự thảo.
- Về khoản 7:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bổ sung quy định việc bãi miễn đại biểu Quốc hội khi không hoàn thành nhiệm vụ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nội dung này đã được quy định tại khoản 2 Điều 7 của Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ thẩm quyền “phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức ... Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định Tòa án là trung tâm trong hệ thống tư pháp và xét xử là hoạt động trọng tâm của hoạt động tư pháp. Để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết của Đảng; đảm bảo cho Tòa án nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xét xử, tăng cường tính độc lập trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao vai trò, vị thế, danh dự của các chức danh tư pháp, nhất là Thẩm phán toà án nhân dân, nên việc bổ sung quy định thẩm quyền của Quốc hội như Dự thảo là cần thiết.
+ Loại ý kiến thứ ba đề nghị đối với một số chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước, khi nhậm chức cần thực hiện việc tuyên thệ vì đây là một nghi thức nhà nước quan trọng. Quy định này nhằm tôn vinh và đề cao trách nhiệm trước nhân dân của những người giữ các chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước do Quốc hội bầu.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã bổ sung trình Quốc hội quy định về việc tuyên thệ khi nhậm chức của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại khoản 7 Điều 75.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc tuyên thệ là hình thức, không phù hợp với thể chế chính trị ở nước ta, vì vậy không cần quy định trong Hiến pháp.
- Về khoản 8:
+ Loại ý kiến thứ nhất không tán thành với quy định này.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị viết lại khoản này như sau: (1) Bỏ phiếu bất tín nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm; (2) Lấy phiếu tín nhiệm hoặc không tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm hoặc không tín nhiệm.
+ Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung: (1) Người giữ chức vụ nếu không được quá 50% tín nhiệm của đại biểu Quốc hội sẽ phải từ chức hoặc bị bãi nhiệm; (2) công bố công khai kết quả bỏ phiếu tín nhiệm; (3) Lấy ý kiến và phiếu tín nhiệm của cử tri nơi bầu đại biểu Quốc hội khi đại biểu Quốc hội có những hành vi gây bức xúc trong dư luận để Quốc hội xem xét, bãi miễn tư cách đại biểu Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định Quốc hội có thẩm quyền “bỏ phiếu tín nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” là cần thiết nhằm hiến định thủ tục lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đã được quy định một cách cụ thể trong Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn vừa được Quốc hội thông qua.
Để bảo đảm tính linh hoạt trong từng hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ khác nhau do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, phù hợp với thực tiễn thực hiện thẩm quyền này của Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đề nghị chỉnh lý nội dung này trong Dự thảo theo hướng: Quốc hội có thẩm quyền "Quyết định việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”.
Về tỷ lệ bỏ phiếu, trường hợp lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm .... do đây là những vấn đề cụ thể nên đề nghị quy định trong các văn bản khác của Quốc hội.
- Về khoản 9: đề nghị bỏ cụm từ "thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” hoặc thay bằng cụm từ “thành lập, bãi bỏ các cơ quan khác của Quốc hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc giữ thẩm quyền của Quốc hội trong việc “thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” là cần thiết vì không thể liệt kê hết tại khoản này các cơ quan mà Quốc hội có thẩm quyền thành lập.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nhưng không có nghĩa mọi cơ quan do Quốc hội thành lập đều là cơ quan của Quốc hội mà các cơ quan này có vị trí, vai trò, chức năng khác nhau trong bộ máy nhà nước. Vì vậy đề nghị giữ đoạn cuối khoản 9 như Dự thảo.
- Về khoản 10: có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền (1) đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Kiểm toán Nhà nước; (2) “Bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của …Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia, Tổng kiểm toán Nhà nước, Người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; (3) thẩm quyền của Quốc hội bãi bỏ tất cả văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia là các cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập với chức năng, nhiệm vụ nhất định chứ không thực hiện quản lý nhà nước, vì vậy các cơ quan này không thực hiện việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Việc chỉ quy định Quốc hội bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trái văn bản của Quốc hội là nhằm phân cấp thẩm quyền bãi bỏ văn bản cho các cơ quan khác như Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo đó, cơ quan nào ban hành văn bản thì cơ quan đó hủy bỏ văn bản của cơ quan khác trái với văn bản do mình ban hành, vì vậy đề nghị giữ thẩm quyền của Quốc hội trong việc bãi bỏ văn bản như Dự thảo.
- Về khoản 11:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết lại thành: “Quyết định đại xá các loại tội phạm trong các trại giam, các loại phạm nhân đã hối cải, lao động cải tạo tốt. Đại xá ra tù trước hạn hoặc đại xá tù binh (nếu có)”;
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị chuyển thẩm quyền “đại xá” cho Chủ tịch nước;
+ Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung “theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ quốc hội” vào cuối khoản này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, “đại xá” là thẩm quyền riêng của Quốc hội, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện thẩm quyền này là các vấn đề cụ thể sẽ do các văn bản khác điều chỉnh. Thẩm quyền “đặc xá” là của Chủ tịch nước đã được quy định tại Chương VI, vì vậy xin được giữ khoản này như Dự thảo.
- Về khoản 12: có ý kiến đề nghị bổ sung giải thưởng cấp Nhà nước. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đây là thẩm quyền của Chủ tịch nước kế thừa từ Hiến pháp năm 1992, vì vậy không nên bổ sung nội dung này vào Dự thảo.
- Về khoản 13: có ý kiến đề nghị bổ sung : (1) “nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt cho Hội đồng quốc phòng và an ninh trong trường hợp có chiến tranh” sau cụm từ “quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình”; (2) Quốc hội quyết định những vấn đề chiến tranh, hòa bình sau khi đã được trưng cầu ý dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong thẩm quyền quyết định chiến tranh và hòa bình của Quốc hội đã bao gồm việc giao các thẩm quyền cho các chế định cụ thể trong trường hợp có chiến tranh. Đối với nội dung về chiến tranh, hòa bình cần được nhân dân phúc quyết, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, ngoài nội dung này còn có các vấn đề quan trọng khác cần được trưng cầu ý dân và sẽ được quy định cụ thể trong luật về trưng cầu ý dân để bảo đảm đầy đủ, cụ thể, tránh thiếu sót quyền dân chủ trực tiếp quan trọng của nhân dân.
- Về khoản 14:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết lại thành “Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn, gia nhập hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tham gia tổ chức quốc tế phổ cập, tổ chức khu vực quan trọng, điều ước quốc tế đòi hỏi sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành luật, hoặc làm phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc liệt kê các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội sẽ dài dòng và có thể không đầy đủ, vì vậy, Hiến pháp chỉ quy định khái quát và nội dung này sẽ được quy định cụ thể trong các đạo luật.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung cụm từ "và quyền chủ quyền" sau từ "chủ quyền"; thay cụm từ “chiến tranh và hòa bình” bằng cụm từ “quốc phòng, an ninh”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, chủ quyền là vấn đề cốt lõi trong lợi ích quốc gia, ngoài chủ quyền thì còn các quyền khác liên quan đến quyền chủ quyền, vì vậy đề nghị không liệt kê trong Dự thảo. Thẩm quyền về quốc phòng, an ninh do nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau thực hiện, riêng vấn đề chiến tranh và hòa bình là vấn đề liên quan đến vận mệnh, sự tồn vong của quốc gia, do đó chỉ Quốc hội với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có thẩm quyền quyết định, vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 15:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết lại như sau: (1) “Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về nhiệm vụ chiến lược, chiến thuật, xây dựng bảo vệ Tổ quốc (khi cần) hoặc trưng cầu ý dân về quyền lợi, nghĩa vụ công dân theo pháp luật (khi cần)”; (2) “Quyết định trưng cầu ý dân; bảo đảm thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp của công dân” ; (3) “Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân khi sửa đổi một số điều hay làm mới Hiến pháp”; (4) “Quyết định trưng cầu ý dân những vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh đất nước khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Cách thức trưng cầu ý dân do luật định”.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung những trường hợp Quốc hội phải quyết định trưng cầu ý dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định như Dự thảo là kế thừa Hiến pháp hiện hành, chỉ nêu khái quát thẩm quyền của Quốc hội. Việc nêu cụ thể trong Hiến pháp những nội dung cần trưng cầu ý dân và chủ thể đề xuất việc trưng cầu ý dân sẽ làm rõ được cơ chế thực hiện quyền lực trực tiếp của nhân dân. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật lập hiến, việc khái quát hoá để quy định những vấn đề cần tiến hành trưng cầu ý dân trong Hiến pháp có thể dẫn tới tình trạng thiếu sót, làm bó hẹp quyền được trưng cầu ý dân của nhân dân. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Dự thảo chỉ quy định khái quát như Hiến pháp hiện hành, các nội dung nhân dân đề xuất sẽ được nghiên cứu tiếp thu và thể hiện trong văn bản luật.
2.3. Điều 76
Cơ bản các ý kiến tán thành với dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị quy định rõ ‘‘Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc theo chế độ Hội nghị và quyết định theo đa số”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản 1 Điều 8 Dự thảo đã quy định nguyên tắc hoạt động tập trung dân chủ của bộ máy nhà nước, trong đó có Quốc hội. Chế độ làm việc hội nghị và quyết định theo đa số đã được ghi nhận tại Điều 88 về kỳ họp Quốc hội và Điều 90 về tỷ lệ biểu quyết thông qua các quyết định của Quốc hội.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung: (1)“Số đại biểu Quốc hội cố định là 500 đại biểu”; (2) biện pháp xử lý đối với trường hợp trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ 60 ngày mà Quốc hội khóa mới chưa bầu xong.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đây là các vấn đề cụ thể, sẽ được quy định trong các đạo luật.
+ Loại ý kiến thứ ba đề nghị ghép Điều 76 với Điều 74, quy định chung về Quốc hội và nhiệm kỳ của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Điều 74 quy định khái quát về vị trí, vai trò và chức năng cơ bản của Quốc hội, còn Điều 76 quy định về nhiệm kỳ Quốc hội. Đây là những nội dung tương đối độc lập nên đề nghị giữ bố cục như Dự thảo.
- Về khoản 1: có ý kiến đề nghị sửa lại như sau: (1) “Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là 6 năm, cứ sau 2 năm phải đổi mới 1/3 số đại biểu. Mỗi đại biểu cũng không kéo dài quá 2 nhiệm kỳ liên tục. Bầu đại biểu Quốc hội bằng phổ thông, trực tiếp và bầu phiếu kín”; (2) nhiệm kỳ Quốc hội là bốn năm; (3) nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là bảy năm. Ý kiến khác đề nghị bổ sung: nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nguyên tắc bầu đại biểu Quốc hội đã được nêu tại khoản 1 Điều 7, theo đó, việc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín, vì vậy không cần nêu lại tại Điều 76.
Thực tiễn hiện nay nhiệm kỳ của Quốc hội, nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là 5 năm, trùng với nhiệm kỳ của các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là nhằm tạo ra sự thống nhất trong quá trình chuyển giao giữa các nhiệm kỳ của Đảng và Nhà nước. Quy định nhiệm kỳ 5 năm là phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta. Ngoài ra, khảo sát kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy việc quy định nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm cũng tương đối phổ biến. Do vậy, xin cho giữ quy định này như Dự thảo.
- Về khoản 3:
+ Có ý kiến đề nghị làm rõ “hai phần ba” theo danh sách đại biểu hay số người có mặt tại buổi họp cụ thể ?
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về tỷ lệ đại biểu nêu trên là kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành. Theo Hiến pháp hiện hành và việc thực hiện quy định này trên thực tế, tỷ lệ “hai phần ba” là trên tổng số đại biểu Quốc hội chứ không phải trên tổng số đại biểu Quốc hội có mặt.
+ Có ý kiến đề nghị (1) thay cụm từ “mười hai tháng” bằng “hai năm”; thay từ “chiến tranh” ở cuối thành từ “đặc biệt”; (2) bổ sung “...Việc rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp chiến tranh”; (3) hiến định cụ thể khoảng thời gian tối đa, tối thiểu của việc kéo dài hoặc rút ngắn nhiệm kỳ; (4) bổ sung cụm từ ”thiên tai, thảm họa” vào sau cụm từ “trừ trường hợp đất nước có chiến tranh”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo quy định hiện hành và Dự thảo, nhiệm kỳ mỗi khóa Quốc hội là 5 năm, vì vậy, nếu Hiến pháp không quy định thời gian tối đa được kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội cũng như lý do được kéo dài nhiệm kỳ thì sẽ có thể dẫn đến nguy cơ lạm quyền hoặc không bảo đảm quyền bầu cử để lựa chọn đại diện xứng đáng của nhân dân sau thời gian một khóa Quốc hội. Chính vì thế, khoản 3 chỉ quy định ràng buộc về thời gian tối đa được kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội mà không quy định việc rút ngắn hay thời gian tối thiểu của việc kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội.
Hơn nữa, việc quy định chỉ trong trường hợp chiến tranh mới được kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội là một bước sửa đổi quan trọng so với Hiến pháp hiện hành quy định chung chung là trong trường hợp đặc biệt. Những trường hợp khác như thiên tai, thảm khốc… sẽ có cơ chế xử lý phù hợp trong tình trạng khẩn cấp mà không cần phải kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội.
- Về các ý kiến đề nghị chỉnh sửa một số vấn đề về câu chữ, kỹ thuật, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu và thể hiện trong Dự thảo.
2.4. Điều 77
- Cơ bản các ý kiến tán thành với dự thảo. Về một số nội dung cụ thể, có ý kiến đề nghị bổ sung: (1) “Chủ tịch Quốc hội thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân những vấn đề quan trọng mà Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghị quyết”; (2) “Nếu trong trong thời gian dài mà Chủ tịch Quốc hội không làm việc và điều hành được các cuộc họp thì một trong các Phó chủ tịch Quốc hội điều hành các phiên họp”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hiện nay đã có cơ chế công bố luật, nghị quyết của Quốc hội, họp báo về các vấn đề quan trọng, về nội dung kỳ họp Quốc hội, thông cáo báo chí về các phiên họp của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, vì vậy xin không bổ sung nội dung về chế độ báo cáo trước nhân dân của Chủ tịch Quốc hội.
Về nội dung một trong các Phó Chủ tịch Quốc hội điều hành phiên họp khi Chủ tịch Quốc hội không làm việc và điều hành được trong thời gian dài, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đã nằm trong nội hàm của quy định tại đoạn cuối Điều 77, vì vậy xin không bổ sung nội dung này vào Dự thảo.
- Về các ý kiến đề nghị chỉnh sửa một số vấn đề về câu chữ, kỹ thuật, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu và thể hiện trong Dự thảo.
2.5. Điều 78
Cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể, có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị làm rõ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại Điều 79 đã phản ánh vị trí, vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung: (1) Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội; (2) “nhiệm kỳ của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trùng với nhiệm kỳ của Quốc hội”; (3) “Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội và các Ủy viên”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với việc phê chuẩn các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội đã được ghi nhận tại Điều 80 và 81 của Dự thảo.
Quy định tại khoản 4 Điều 78 về việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới là phù hợp, vì khi Quốc hội khóa mới được bầu ra, cần có cơ quan triệu tập kỳ họp thứ nhất của khóa mới, đồng thời điều hành hoạt động của Quốc hội tại kỳ họp cho đến khi Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa mới được bầu, nên đề nghị không bổ sung quy định về nhiệm kỳ của Ủy ban thường vụ Quốc hội vào Dự thảo.
Về chế định Tổng thư ký Quốc hội, đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, cần được tiếp tục nghiên cứu để quy định cụ thể trong các đạo luật.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị bỏ quy định về Ủy ban thường vụ Quốc hội và nâng cao vai trò của các Ủy ban Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên như hiện nay, vẫn cần có thiết chế Ủy ban thường vụ Quốc hội để thực hiện một số nhiệm vụ do Quốc hội ủy quyền trong thời gian giữa hai kỳ họp.
- Về khoản 4: có ý kiến đề nghị sửa đoạn cuối thành “cho đến khi Quốc hội khóa mới nhận nhiệm vụ”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khi các đại biểu khóa mới được bầu ra thì các đại biểu Quốc hội khóa cũ hết nhiệm vụ. Đối với các thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, do vị trí là cơ quan thường trực của Quốc hội, nên để bảo đảm hoạt động của Quốc hội được thông suốt kể từ khi kết thúc kỳ họp cuối cùng của nhiệm kỳ trước đến kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa cũ vẫn đảm nhiệm nhiệm vụ của mình cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Ủy ban thường vụ Quốc hội mới. Vì vậy, xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
2.6. Điều 79
Cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể, có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị quy định nội dung Điều 79 này trong Luật tổ chức Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 79 quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội nên cần được ghi nhận ở tầm Hiến pháp, làm cơ sở cho việc cụ thể hóa trong Luật tổ chức Quốc hội.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung: (1) thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước; (2) thẩm quyền xem xét việc cử, triệu hồi đại sứ; phong hàm, cấp đại sứ của Việt Nam ở nước ngoài trước khi Chủ tịch nước quyết định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền bầu, bãi nhiệm, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức một số chức danh thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn thẩm quyền đề nghị bầu chức danh đó là vấn đề cụ thể sẽ được quy định trong các đạo luật.
Về thẩm quyền liên quan đến việc cử, triệu hồi đại sứ; phong hàm, cấp đại sứ của Việt Nam ở nước ngoài, đây là thẩm quyền của Chủ tịch nước với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, đồng thời cũng là quy định kế thừa từ Hiến pháp hiện hành, vì vậy đề nghị giữ thẩm quyền này như Dự thảo.
- Về khoản 2:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với thẩm quyền ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội như trong Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định thẩm quyền ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp hiện hành quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền ban hành pháp lệnh xuất phát từ vị trí của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Trong điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên thì việc giữ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh là cần thiết để đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý, điều hành đất nước. Hơn nữa, việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh là thực hiện ủy quyền lập pháp của Quốc hội, phải được Quốc hội quyết định trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ và hằng năm.
+ Loại ý kiến thứ ba tán thành với thẩm quyền giải thích Hiến pháp của Ủy ban thường vụ Quốc hội như trong Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ tư đề nghị giao thẩm quyền giải thích Hiến pháp cho Hội đồng Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc giao thẩm quyền giải thích Hiến pháp cho Ủy ban thường vụ Quốc hội là kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành, phù hợp với tính chất hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ năm đề nghị thay cụm từ “giải thích Hiến pháp” bằng cụm từ “hướng dẫn thực hiện Hiến pháp”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, giải thích Hiến pháp là một thẩm quyền quan trọng, được Hiến pháp quy định để giải quyết những vướng mắc trong cách hiểu, áp dụng Hiến pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng thống nhất Hiến pháp trong cả nước, còn hướng dẫn thực hiện Hiến pháp là hoạt động do rất nhiều chủ thể tiến hành nhằm đưa Hiến pháp vào cuộc sống, vì vậy xin giữ nội dung này như Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ sáu đề nghị bổ sung: “Trong thời gian Quốc hội không họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội kết hợp với các đại biểu Quốc hội chuyên trách thông qua dự án luật”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, thông qua dự án luật thuộc thẩm quyền lập pháp của Quốc hội, không thể ủy quyền cho một cơ quan hay thiết chế nào khác thực hiện. Ủy ban thường vụ Quốc hội tuy được Quốc hội ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ nhất định, nhưng cũng chỉ được ban hành văn bản pháp lệnh, có giá trị pháp lý thấp hơn luật, vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 3: có ý kiến đề nghị bỏ: (1) chức năng giám sát thi hành Hiến pháp để không trùng với nhiệm vụ của Hội đồng Hiến pháp;(2) chức năng giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước để khỏi chồng lấn với thẩm quyền của Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, chức năng giám sát việc thi hành Hiến pháp là thẩm quyền kế thừa từ Hiến pháp hiện hành, nằm trong thẩm quyền giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, khác về tính chất so với hoạt động bảo vệ Hiến pháp của Hội đồng Hiến pháp. Quốc hội có chức năng giám sát tối cao, nhưng do Quốc hội hoạt động theo chế độ hội nghị, lại hoạt động không thường xuyên nên theo quy định của pháp luật hiện hành, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Vì vậy, đề nghị giữ các thẩm quyền giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội như Dự thảo.
- Về khoản 4: có ý kiến đề nghị giao thẩm quyền “bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội” cho Quốc hội hoặc Hội đồng Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, để bảo đảm phân cấp hợp lý thẩm quyền giám sát giữa Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hiến pháp đã quy định theo hướng Quốc hội bãi bỏ văn bản do cơ quan khác ban hành trái luật, nghị quyết của Quốc hội, còn Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ văn bản trái pháp lệnh, nghị quyết do mình ban hành. Đây cũng là thực tiễn giám sát hiện nay, còn Hội đồng Hiến pháp khi được thành lập có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp hiến của văn bản do một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 5:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo về việc Ủy ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị không nên quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội mà nên giữ quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội như Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, có vai trò rất quan trọng trong thời gian giữa hai kỳ họp và có nhiệm vụ chủ trì các kỳ họp Quốc hội. Do vậy, việc quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội là nhằm bảo đảm quá trình chỉ đạo hoạt động của Hội đồng dân tộc, Ủy ban được thông suốt cả trong thời gian Quốc hội họp và giữa hai kỳ họp. Vì vậy, xin giữ quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Về khoản 6:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị (1) thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại khoản này nên áp dụng chung cho các cấp Hội đồng nhân dân chứ không hạn chế ở cấp tỉnh; (2) thay hình thức “giải tán Hội đồng nhân dân” bằng hình thức “miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh”; (3) quy định quyền đình chỉ hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ….
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giao Ủy ban thường vụ Quốc hội một số thẩm quyền liên quan đến Hội đồng nhân dân cấp tỉnh mà không phải cả ba cấp là nhằm phân cấp thẩm quyền quản lý cho địa phương, phù hợp với việc nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Vì Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, những quyết định của Hội đồng nhân dân là do tập thể Hội đồng nhân dân biểu quyết thông qua nên trường hợp cơ quan đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân thì cần giải tán để nhân dân bầu ra những đại diện mới xứng đáng cho lợi ích và ý chí của mình chứ không nên đình chỉ hoạt động hay miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị giao thẩm quyền “hướng dẫn hoạt động, bãi bỏ nghị quyết, giải tán Hội đồng nhân dân...” cho Chính phủ thực hiện.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, thẩm quyền “hướng dẫn hoạt động, bãi bỏ nghị quyết, giải tán Hội đồng nhân dân...” là kế thừa Hiến pháp hiện hành. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thành lập cơ quan chuyên môn để giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đối với Hội đồng nhân dân. Hoạt động này đang phát huy hiệu quả trên thực tế và không phát sinh vướng mắc, vì vậy đề nghị được giữ như Dự thảo.
- Về khoản 7:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo quy định thẩm quyền này thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng việc điều chỉnh địa giới hành chính các cấp là vấn đề quan trọng nên cần phải được Quốc hội quyết định.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị giữ quy định Chính phủ quyết định việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Việc tiếp tục giữ thẩm quyền của Chính phủ trong việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh là kế thừa Hiến pháp hiện hành. Tuy nhiên, việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính để triển khai thực hiện, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, việc quyết định địa giới hành chính các cấp phải được Quốc hội phê chuẩn. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên phương án giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng có những yếu tố hợp lý nhất định.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án như sau:
Phương án 1: Giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo đề nghị của Chính phủ như Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
Phương án 2: (Giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, thẩm quyền này thuộc Chính phủ).
+ Loại ý kiến thứ tư đề nghị bổ sung: “Quốc hội có quyền thành lập, sáp nhập, giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, thẩm quyền này đã được quy định tại khoản 9 Điều 75 của Dự thảo.
- Về khoản 8: có ý kiến đề nghị bổ sung: “quyết định các biện pháp lập pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc” vào sau đoạn “tuyên bố tình trạng chiến tranh”. Ý kiến khác đề nghị giao thẩm quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được cho Chủ tịch nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khi tuyên bố tình trạng chiến tranh thì có rất nhiều biện pháp cần được thực hiện và do các chủ thể khác nhau thực hiện. Trong đó, Hiến pháp đã phân định các cấp độ khẩn cấp khác nhau, nếu Quốc hội không họp được thì sẽ do Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện, nếu Ủy ban thường vụ Quốc hội không họp được thì sẽ do Chủ tịch nước thực hiện (khoản 5 Điều 93). Đây cũng là quy định kế thừa Hiến pháp hiện hành, vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 9: có ý kiến đề nghị bỏ khoản này. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là quy định của Hiến pháp hiện hành, phù hợp với vị trí, vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, vì vậy đề nghị giữ như Dự thảo.
- Về khoản 10: có ý kiến đề nghị bỏ thẩm quyền “thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội”
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Quốc hội hoạt động theo chế độ hội nghị, nên việc thực hiện các quan hệ đối ngoại cụ thể cần do cơ quan thường trực của Quốc hội thực hiện. Đây cũng là thực tiễn đang diễn ra trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội.
- Về khoản 11: có ý kiến đề nghị viết lại thành: (1) “Tổ chức thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp, trưng cầu ý dân theo luật định”; (2) “Tổ chức trưng cầu ý dân, giải tán Quốc hội hoặc tổ chức tổng tuyển cử nếu được 2/3 số đại biểu có mặt tán thành”; (3) “Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội, quyết định trưng cầu ý dân tại địa phương”; (4) “đề nghị trưng cầu ý dân theo Nghị quyết của Quốc hội”
Như phần trên đã giải trình, việc nêu cụ thể trong Hiến pháp những nội dung cần trưng cầu ý dân và chủ thể đề xuất việc trưng cầu ý dân sẽ làm rõ được cơ chế thực hiện quyền lực trực tiếp của nhân dân. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật lập hiến, việc khái quát hoá để quy định những vấn đề cần tiến hành trưng cầu ý dân trong Hiến pháp có thể dẫn tới tình trạng thiếu sót, làm bó hẹp quyền được trưng cầu ý dân của nhân dân. Do vậy, khoản 11 Điều 79 chỉ nên nêu khái quát việc Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội, còn các vấn đề cụ thể sẽ do luật định.
2.7. Điều 80:
Về cơ bản các ý kiến tán thành với dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bỏ Điều này hoặc quy định nội dung Điều này trong Luật tổ chức Quốc hội. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hội đồng dân tộc, Ủy ban là các cơ quan của Quốc hội, có vị trí, vai trò quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước nên cần được ghi nhận ở tầm Hiến pháp. Khi Hiến pháp được thông qua thì sẽ sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội cho phù hợp với Điều 80 của Hiến pháp mới.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị sửa lại như sau: (1) chuyển cụm từ “khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc” sang Điều 101.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nội dung này liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng dân tộc và Chính phủ. Trong thực tiễn điều hành của Chính phủ, khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, ngoài việc lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc, Chính phủ cần phải lấy ý kiến của nhiều cơ quan hữu quan, trong đó có cả các cơ quan không thuộc tầm hiến định, vì vậy, để quy định nội dung này ở Điều 80 về thẩm quyền của Hội đồng dân tộc là phù hợp.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung quy định Hội đồng dân tộc là cơ quan của Quốc hội, là cơ quan đại diện cho tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Quốc hội do cử tri cả nước bầu ra mới là cơ quan đại diện cho tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, còn Hội đồng dân tộc là cơ quan do Quốc hội thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chính sách dân tộc do Quốc hội ban hành.
- Về khoản 1:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo quy định Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu, Phó Chủ tịch Hội đồng và các Ủy viên Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban và các thành viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị cần quy định các thành viên của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội do Quốc hội bầu như Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định như Dự thảo là phù hợp với điều kiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta và vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội; bảo đảm linh hoạt cho quy trình phê chuẩn, bổ nhiệm các thành viên Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, cũng như bảo đảm linh hoạt trong công tác điều động, bố trí, luân chuyển cán bộ; bảo đảm quyền được tham gia Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội của các đại biểu Quốc hội. Do đó, xin giữ như Dự thảo quy định các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
- Về khoản 2:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị thay cụm từ “đồng bào dân tộc thiểu số” bằng “các tộc ít người”; thay cụm từ “vùng có đồng bào dân tộc thiểu số” thành “vùng có đồng bào dân tộc ít người”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hai cụm từ “đồng bào dân tộc thiểu số” và “đồng bào dân tộc ít người” đều có nghĩa tương tự nhau. Tuy nhiên, việc sử dụng cụm từ “đồng bào dân tộc thiểu số” trong bối cảnh này chính xác hơn do từ “thiểu số” hàm nghĩa so sánh với dân tộc có số dân chiếm “đa số”. Trong khi đó, thực tế ở nước ta có những dân tộc được xác định là “thiểu số” nhưng không hề “ít người” (như dân tộc Tày, dân tộc Thái, dân tộc Mường). Đồng thời, tham khảo các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta cũng như trong các bản Hiến pháp trước đây thì cụm từ “đồng bào dân tộc thiểu số” được sử dụng phổ biến hơn. Do vậy, đề nghị cho giữ như Dự thảo.
- Về khoản 3:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết lại: (1) “Chủ tịch Hội đồng dân tộc có quyền tham dự...”; (2) “Trước khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải xin ý kiến thẩm tra của Hội đồng dân tộc”.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung cụm từ "các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số" sau cụm từ "chính sách dân tộc".
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, cụm từ “chính sách dân tộc” đã bao quát các nội dung liên quan đến các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với các dự án luật do Chính phủ trình liên quan đến chính sách dân tộc phải được Hội đồng dân tộc thẩm tra, khi ban hành các quy định thực hiện chính sách dân tộc thuộc thẩm quyền của mình, Chính phủ lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc đã được Hiến pháp ghi nhận và phù hợp với thực tiễn hoạt động, điều hành của Chính phủ cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Quốc hội hiện nay.
2.8. Điều 81
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị ghép nội dung Điều 83 vào Điều 81; bổ sung quy định về nhiệm kỳ của Ủy ban của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 81 quy định về các Ủy ban hoạt động thường xuyên của Quốc hội, còn Điều 83 quy định về Ủy ban lâm thời, có các phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nên để quy định tại hai điều là phù hợp.
Về đề nghị quy định nhiệm kỳ của Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đây là vấn đề cụ thể cần được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung: (1) chế định về đại biểu chuyên trách hoặc quy định về Ủy viên thường trực; (2) hoạt động điều trần của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, chế định về đại biểu Quốc hội chuyên trách, Ủy viên thường trực là các vấn đề cụ thể sẽ quy định trong Luật tổ chức Quốc hội. Hoạt động điều trần của Quốc hội là vấn đề mới, đang được tiếp tục nghiên cứu nên đề nghị chưa đưa vào Dự thảo.
- Về khoản 1: có ý kiến đề nghị xác định rõ cơ chế làm việc của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là cơ chế thủ trưởng hay cơ chế hội đồng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội là các cơ quan của Quốc hội, bao gồm các đại biểu Quốc hội và hoạt động theo chế độ tập thể, các quyết định của Hội đồng, Ủy ban được thông qua tại phiên họp toàn thể.
- Về khoản 2: có ý kiến đề nghị cân nhắc các quy định trong khoản này, vì sẽ khó khăn cho việc thành lập các Ủy ban có chức năng, nhiệm vụ đặc thù sau này. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, là một cơ quan của Quốc hội cần có sự ổn định trong tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Trong một số tình huống đặc biệt, Điều 83 của Dự thảo đã quy định thành lập Ủy ban lâm thời, vì vậy đề nghị giữ quy định này như Dự thảo.
- Về khoản 3:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bỏ khoản này hoặc chuyển nội dung này về Điều 75.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 81 quy định về cơ quan của Quốc hội nên cũng cần quy định việc thành lập, giải thể cơ quan này; còn Điều 75 quy định về việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm một số chức danh đứng đầu cơ quan của Quốc hội chứ không phải về việc thành lập, giải thể cơ quan của Quốc hội.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị viết lại khoản này như sau: (1) “Số lượng các Ủy ban, hoặc chia hay nhập một số Ủy ban do Quốc hội quyết định.”; (2) “việc thành lập, giải thể, chia tách, hợp nhất các Ủy ban do Quốc hội quyết định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập, giải thể Ủy ban của Quốc hội đã bao gồm việc quyết định số lượng, chia tách, hợp nhất các Ủy ban. Vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
2.9. Điều 82
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Tuy nhiên cũng có ý kiến đề nghị bỏ Điều này. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 82 quy định mối quan hệ giữa Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác của Nhà nước. Đây là những vấn đề quan trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước, vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 1:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị (1) thay cụm từ “có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ” thành “Các thành viên Chính phủ có nghĩa vụ giải trình…”; (2) bổ sung cụm từ “về những vấn đề liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân” vào cuối khoản này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản này quy định thẩm quyền của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội nên quy định theo hướng quyền chủ động yêu cầu của Hội đồng, Ủy ban là phù hợp. Việc bổ sung cụm từ “về những vấn đề liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân” là không cần thiết vì phạm vi những nội dung này sẽ do các đạo luật liên quan quy định cụ thể.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ cụm từ “Tổng kiểm toán nhà nước”. Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ cụm từ này cho phù hợp với sự bổ sung chế định Kiểm toán nhà nước tại Chương X của Dự thảo.
2.10. Điều 83
- Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị nên đưa nội dung này lên Điều 75. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, bố cục của Chương V (Quốc hội) là sau quy định về Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là đến Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội... Điều 83 quy định về Ủy ban lâm thời nên quy định sau Điều về Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội là phù hợp.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị (1) “Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền thành lập Ủy ban lâm thời; (2) “Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời khi thấy cần thiết theo các thể thức luật định”; (3) Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời khi Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị hoặc 1/3 đại biểu Quốc hội đề nghị (4); đề nghị cần có quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban lâm thời.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 83 quy định về Ủy ban lâm thời với tư cách cơ quan do Quốc hội thành lập, có vị trí, vai trò nhất định nên cần được ghi nhận ở tầm Hiến pháp, các cơ quan do Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập sẽ được quy định tại các văn bản pháp luật phù hợp. Đối với các vấn đề khác về thể thức, trình tự, chủ thể đề xuất thành lập cũng như các chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban lâm thời sẽ do luật định để phù hợp với việc thành lập Ủy ban lâm thời trong các trường hợp khác nhau.
2.11. Điều 84
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung: (1) “Việc phát ngôn và biểu quyết của đại biểu Quốc hội trong các hội nghị đều không bị truy cứu trách nhiệm”; (2) điều kiện bãi nhiệm đại biểu Quốc hội; (3) quy định đại biểu Quốc hội chuyên trách; (4) Đại biểu Quốc hội mỗi địa phương phải có trụ sở riêng để thường xuyên làm nhiệm vụ tiếp xúc cử tri; (5) đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các quy định tại khoản 2 Điều 7, khoản 2 Điều 84, khoản 1 Điều 87 đã thể hiện đại biểu Quốc hội phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình. Quyền miễn trừ của đại biểu đã được quy định tại Điều 86 của Dự thảo. Các vấn đề khác về đại biểu Quốc hội chuyên trách, trụ sở tiếp cử tri ... là các vấn đề cụ thể sẽ được quy định trong các đạo luật.
Đối với đề nghị bổ sung quy định chất vấn Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, những chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Tuy nhiên, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia là những chức danh mang tính chuyên môn, vì vậy, hình thức giám sát phù hợp của Quốc hội đối với hai chức danh này là xét báo cáo hoạt động hơn là thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn.
- Về khoản 1:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị để nội dung này do văn bản luật điều chỉnh. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nội dung tại khoản 1 là xác định vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội nên cần phải được quy định ở tầm Hiến pháp.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung: (1) “đại biểu Quốc hội không kiêm nhiệm bất cứ chức vụ nào trong Chính phủ và trong các tổ chức khác (trừ các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ riêng cho Quốc hội)”; (2) “ trong số đại biểu Quốc hội có tỷ lệ thích đáng đại biểu hoạt động chuyên trách”; (3) đại biểu Quốc hội là người“tiêu biểu”, được nhân dân giới thiệu và bầu cử, là người hiểu biết về pháp luật đại diện cho ý chí, nguyện vọng, trí tuệ và quyền lợi vật chất, tinh thần của nhân dân cả nước và của nhân dân ở đơn vị bầu đại biểu và của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”; (4) “không một ai khi đang đảm nhiệm bất kỳ chức vụ nào trong chính quyền lại được bầu làm đại biểu Quốc hội”; (5) “đại biểu Quốc hội, nếu được bầu làm quan chức của cơ quan hành pháp, tư pháp từ cấp quận, huyện trở lên, thì phải thôi làm đại biểu Quốc hội”; (6) “đại biểu Quốc hội được hưởng lương, chế độ chuyên nghiệp, không được kiêm nhiệm thêm chức vụ, nhiệm vụ của các cơ quan hành pháp và tư pháp”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo mô hình tổ chức Nhà nước ở nước ta, Chính phủ do Quốc hội bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quá trình hình thành các chính sách chủ yếu là sự tương tác thường xuyên giữa Quốc hội và Chính phủ. Do vậy, việc duy trì một số lượng nhất định các thành viên của Chính phủ là đại biểu Quốc hội là hết sức cần thiết. Đây cũng là thực tiễn phổ biến ở Quốc hội nhiều nước theo mô hình chính thể đại nghị.
Đối với các đại biểu kiêm nhiệm khác, việc giữ các chức vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tư pháp ở địa phương có thể tạo ra sự xung đột về lợi ích khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, do vậy, việc hạn chế số lượng các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm là cần thiết. Tuy nhiên, việc quy định cứng yêu cầu tất cả các đại biểu Quốc hội phải là đại biểu Quốc hội chuyên trách có thể sẽ tạo ra những vướng mắc trong quá trình thực hiện trên thực tế. Việc tiến tới xây dựng một Quốc hội chuyên nghiệp, gồm những đại biểu chuyên trách cần phải có lộ trình nhất định. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ quy định về các vấn đề này như Dự thảo.
Về các tiêu chuẩn cụ thể của đại biểu Quốc hội sẽ do luật định.
- Về khoản 2:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết lại như sau: (1) “ Đại biểu Quốc hội thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhân dân và cử tri, chịu sự giám sát của nhân dân và cử tri; trả lời yêu cầu và kiến nghị của nhân dân và cử tri; theo dõi, đôn đốc cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo”; (2) “ Đại biểu Quốc hội...tổ chức hữu quan, có trách nhiệm cùng cơ quan hữu quan thảo luận, bàn bạc các nội dung, quy định của pháp luật...”; (3) thay đoạn “trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền đó” bằng đoạn “...hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”;
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung: (1) ”Nghiêm cấm đại biểu Quốc hội dùng những lời lẽ, từ ngữ thiếu văn hoá xúc phạm nhân phẩm, danh dự của đại biểu khác”; (2) cụm từ “kịp thời” trước “phản ánh trung thực...”; (3) quyền của đại biểu Quốc hội trong giám sát việc thực hiện lời hứa của cơ quan nhà nước trước Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc sử dụng khái niệm “cử tri” tại khoản này là chính xác, được hiểu chính là những người dân đã bầu ra đại biểu Quốc hội, vì vậy không nên viết tách khái niệm “cử tri” và “nhân dân”. Những vấn đề khác được góp ý tại khoản này là những vấn đề cụ thể, sẽ được nghiên cứu tiếp thu quy định tại các đạo luật về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bầu cử đại biểu Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội cho phù hợp.
- Về khoản 3:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết lại thành: (1) “Đại biểu Quốc hội phổ biến, gương mẫu thực hiện và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật”; (2)“Đại biểu Quốc hội thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động, nội dung báo cáo và phản hồi báo cáo của đại biểu đối với Quốc hội trước và sau mỗi kỳ họp; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó”.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị (1) bổ sung "Đại biểu nhận các đơn thư yêu cầu của cử tri cả nước, xem xét và trao cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết nếu đó là yêu cầu khiếu nại, tố cáo nhiều lần mà vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. Trong trường hợp do hết nhiệm kỳ, lý do về sức khỏe hoặc bị bãi, miễn đại biểu thì đại biểu sẽ trao cho đại biểu khác được tin tưởng hoặc đưa về cơ quan Quốc hội bàn giao, giải quyết”; (2) bổ sung cụm từ “có nghĩa vụ” vào sau cụm từ “đại biểu Quốc hội” .
Đối với các ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP đề nghị các vấn đề cụ thể về thẩm quyền của đại biểu Quốc hội sẽ do luật định. Các ý kiến góp ý về kỹ thuật, câu chữ đã được tiếp thu trong quá trình hoàn thiện Dự thảo.
2.12. Điều 85
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số vấn đề cụ thể, có ý kiến đề nghị bổ sung: “Chất vấn và trả lời chất vấn tại Quốc hội được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng”. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy nội dung này đã và đang được thực thi trên thực tế. Đây là vấn đề cụ thể không nhất thiết phải quy định trong Hiến pháp.
- Về khoản 1: đề nghị bỏ cụm từ “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là người đứng đầu cơ quan thực hiện quyền tư pháp, là người giữ chức vụ do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình với tư cách người được Quốc hội bầu và với trách nhiệm chính trị nên cần phải chịu sự chất vấn của đại biểu Quốc hội.
- Về khoản 3:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bỏ khoản này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là quy định kế thừa Hiến pháp hiện hành, thể hiện quyền của đại biểu trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu để đại biểu thực hiện tốt nhiệm vụ người đại biểu nhân dân của mình. Vì vậy, xin được giữ như Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung : (1) “chịu sự giám sát của nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật”; (2) “đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu tổ chức kinh tế kinh doanh bằng vốn nhà nước cung cấp thông tin, tài liệu liên quan; (3) “trường hợp cần thiết Quốc hội xem xét trách nhiệm của người chất vấn”; (4) “đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị bằng văn bản đến cá nhân, cơ quan, tổ chức, có thẩm quyền về những vấn đề dân sinh, dân chủ trong xã hội, khắc phục vi phạm pháp luật trong việc thi hành và áp dụng pháp luật ở các địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định”; (5) “đại biểu Quốc hội phải công khai thu nhập tài chính, công khai địa chỉ thư tín theo luật định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản 2 Điều 84 đã quy định đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của cử tri. Các quy định cụ thể về cơ chế để cử tri giám sát đại biểu Quốc hội, công khai thu nhập tài chính, trách nhiệm tiếp công dân đã được quy định cụ thể trong một số văn bản có liên quan như Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Luật phòng, chống tham nhũng, Quy chế về tiếp xúc cử tri, Luật tiếp công dân (dự thảo sắp được Quốc hội thông qua), do vậy không nhất thiết phải quy định những vấn đề này vào Hiến pháp.
Đối với những nội dung cụ thể về thẩm quyền của đại biểu khi yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu sẽ được nghiên cứu tiếp thu để quy định trong các đạo luật.
2.13. Điều 86
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị nội dung này để văn bản luật điều chỉnh hoặc bỏ Điều này vì Khoản 1 Điều 17 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị sửa đổi như sau: (1) “đại biểu Quốc hội có quyền bất khả xâm phạm trong khi thi hành nhiệm vụ. Không có sự đồng ý…”; (2) “ đại biểu Quốc hội có quyền miễn trừ pháp lý; khi có chứng cứ phạm tội của đại biểu Quốc hội, các cơ quan điều tra phải báo cáo Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện các quyền theo luật định đối với đại biểu Quốc hội”; (3) “trường hợp tạm giữ, tạm giam hoặc truy tố thì: sau khi cơ quan chức năng làm việc cụ thể rõ ràng nếu là đại biểu Quốc hội thì cơ quan chức năng sẽ báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và xin ý kiến chỉ đạo xử lý đúng người, đúng tội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.”; (4) “Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa phê chuẩn thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, với tư cách một công dân, đại biểu Quốc hội đều bình đẳng trước pháp luật như các công dân khác. Tuy nhiên, khi đã được nhân dân tín nhiệm bầu làm đại biểu Quốc hội, ngoài tư cách một công dân, những người này còn có tư cách đại biểu, phải thực hiện nhiệm vụ đại biểu mà nhân dân giao phó. Do đó, việc bắt, giam, giữ đại biểu Quốc hội cần phải được sự đồng ý của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, trừ trường hợp phạm tội quả tang thì phải có sự thông báo kịp thời cho Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội để có biện pháp phối hợp cùng xử lý kịp thời tư cách đại biểu của người bị bắt, giam giữ, truy tố. Vì vậy, đề nghị được giữ nội dung này như Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị tách Điều 86 thành hai khoản. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nội dung tại Điều này có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, vì vậy không nên tách thành hai khoản.
2.14. Điều 87
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về các nội dung cụ thể có một số loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị nội dung này để văn bản luật điều chỉnh. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đại biểu Quốc hội là một chế định quan trọng, các nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội cần phải được quy định trong Hiến pháp. Hơn nữa, Điều này cũng cơ bản kế thừa Hiến pháp hiện hành, vì vậy xin được giữ như Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung quy định về quyền của đại biểu Quốc hội trong việc “tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nội dung này đã được quy định tại khoản 1 Điều 87.
- Về khoản 1: đề nghị viết lại như sau: “Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu, có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội khi được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều này chỉ quy định quyền của đại biểu Quốc hội, còn việc trình tự thực hiện quyền này như thế nào đã được quy định tại Điều 80 và Điều 81 về việc thành lập Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
- Về khoản 2: đề nghị viết lại như sau: (1) “ Uỷ ban thường vụ Quốc hội ...., các tổ chức xã hội và mọi người có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.”; (2) “Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu thuộc quyền hạn của đại biểu Quốc hội”; (3) thay cụm từ “trách nhiệm tạo điều kiện” bằng cụm từ “cơ chế”; (4) thay cụm từ “nhiệm vụ đại biểu” bằng cụm từ “nhiệm vụ theo pháp luật quy định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định các chủ thể có liên quan trong việc tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội hoàn thành nhiệm vụ là các vấn đề cụ thể sẽ quy định trong các đạo luật. Trong số các đại biểu có đại biểu kiêm nhiệm, đại biểu chuyên trách, Điều này chỉ quy định về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của đại biểu Quốc hội, còn các nhiệm vụ khác của người đó trong trường hợp giữ các trọng trách khác nhau không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều này. Vì vậy xin được giữ nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 3: đề nghị quy định thống nhất giữa khoản này “Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội” với khoản 5 Điều 79 “Ủy ban thường vụ bảo đảm điều kiện hoạt động đại biểu Quốc hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội là một khoản chi thuộc ngân sách nhà nước, do Nhà nước bảo đảm, còn điều kiện hoạt động của đại biểu liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể của đại biểu, do cơ quan thường trực của Quốc hội bảo đảm. Quy định này là phù hợp về mặt pháp lý và thực tiễn, vì vậy đề nghị được giữ như Dự thảo.
2.15. Điều 88
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị chuyển lên sau Điều 76 để nội dung về hoạt động chung của Quốc hội được liên tục. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là quy định về kỳ họp Quốc hội, là một nhóm các quy định bố cục sau các quy định về Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, vì vậy xin được giữ vị trí như trong Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung nội dung “Các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội có trách nhiệm báo cáo công tác và trả lời chất vấn những điều đã hứa ở kỳ họp Quốc hội trước”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, Quốc hội cũng như các cơ quan dân cử khác chỉ thay mặt nhân dân chất vấn việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người giữ chức vụ do cơ quan đó bầu hoặc phê chuẩn. Nội dung này đã được quy định tại Điều 85 của Dự thảo.
- Về khoản 1: đề nghị chỉnh sửa như sau: (1) “trong các trường hợp cần thiết ít nhất 1/2 tổng số đại biểu Quốc hội đề nghị thì Quốc hội họp kín và ít nhất 1/2 tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu thì Quốc hội họp bất thường; (2) thay từ “kín” cuối câu bằng từ “bất thường”; (3) “Quốc hội họp công khai, được truyền hình trực tiếp trên ti vi ở tất cả các cuộc họp”; (4) đề nghị bổ sung quy định cho phép công dân được dự nghe hoặc tổ chức truyền thanh, truyền hình trực tiếp các phiên họp công khai của Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy khoản 1 quy định về hình thức họp kín hay công khai, khoản 2 quy định về chủ thể đề xuất yêu cầu Quốc hội họp bất thường, vì vậy đề nghị không nên thay từ “kín” cuối khoản 1 bằng từ “ bất thường” vì không phù hợp.
Đối với tỷ lệ đại biểu đề xuất họp kín, việc đề xuất tỷ lệ trên 50% là không cần thiết đối với việc quyết định hình thức phiên họp Quốc hội. Hơn nữa, tỷ lệ 1/3 đại biểu đề nghị cũng là kế thừa Hiến pháp hiện hành.
Hiện nay, việc truyền hình trực tiếp các phiên họp của Quốc hội đang dần được thực hiện phổ biến, đặc biệt với các phiên chất vấn, các phiên họp có nội dung quan trọng. Đối với các phiên họp không được truyền hình thì vẫn có nhiều kênh thông tin để truyền tải nội dung phiên họp đến với nhân dân. Đây là các nội dung cụ thể không cần quy định trong Hiến pháp.
- Về khoản 2:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không quy định Quốc hội mỗi năm họp 2 lần; Quốc hội họp mỗi năm 3 hoặc 4 kỳ, mỗi kỳ kéo dài khoảng 15 ngày.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về kỳ họp Quốc hội là kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành trên cơ sở phù hợp với thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta hiện nay, vì vậy đề nghị giữ như Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ cụm từ “Ủy ban thường vụ triệu tập kỳ hợp Quốc hội”. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, thẩm quyền này là phù hợp với tư cách của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
- Về khoản 3: đề nghị quy định cụ thể Quốc hội họp vào tháng mấy hàng năm để cử tri và người dân chủ động theo dõi diễn biến kỳ họp. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo thông lệ hiện nay các kỳ họp Quốc hội được tổ chức vào tháng 5 và tháng 10 hằng năm. Nội dung này sẽ được điều chỉnh cụ thể ở các văn bản pháp luật phù hợp.
2.16. Điều 89
Về cơ bản các ý kiến tán thành với dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bổ sung: (1) “Cơ quan chủ trì dự án luật phải có trách nhiệm chủ động phối hợp với các cơ quan thẩm quyền trong việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giải thích khi luật, pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực thi hành”; (2) các chủ thể có quyền trình dự án luật, trong đó có công dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, để soạn thảo các dự án luật cần phải có những nguồn lực và kỹ năng nhất định mà không phải công dân nào cũng có thể thực hiện được. Pháp luật ở nhiều nước cũng rất dè dặt trong việc quy định quyền này của công dân. Thay vào đó, công dân có quyền gửi các kiến nghị xây dựng luật tới các đại biểu Quốc hội để các đại biểu Quốc hội thực hiện việc trình các dự án luật. Do vậy, đây là vấn đề cần được nghiên cứu thêm mà chưa quy định cứng trong Dự thảo.
Về trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến luật là các vấn đề cụ thể sẽ do Luật tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật quy định.
- Về khoản 1: đề nghị (1) thay cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận” thành “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”; (2) thay cụm từ “các tổ chức thành viên của Mặt trận” bằng cụm từ “các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về các chủ thể có quyền trình dự án luật cơ bản kế thừa Hiến pháp hiện hành, phù hợp với thực tiễn hoạt động lập pháp hiện nay, vì vậy xin được giữ các nội dung này như Dự thảo.
- Về khoản 3: Đề nghị bổ sung như sau: “3. Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, về nguyên tắc, Hiến pháp quy định các vấn đề cơ bản, quan trọng, các đạo luật có trách nhiệm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp. Vì vậy đề nghị không bổ sung nội dung nêu trên trong Dự thảo.
2.17. Điều 90
Về cơ bản các ý kiến tán thành với dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các ý kiến như sau:
- Về khoản 1:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị tách đoạn “trừ trường hợp Hiến pháp quy định phải có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành” thành một khoản riêng và nói rõ là áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 124.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy trong Dự thảo đã quy định cụ thể một số trường hợp phải có sự biểu quyết của ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội. Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất, đề nghị chỉnh sửa lại đoạn cuối khoản này như sau: “trường hợp sửa đổi Hiến pháp, quyết định rút ngắn hay kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội phải được hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung vào khoản 1: “Luật, nghị quyết của Quốc hội được thông qua khi có trên 80% đại biểu Quốc hội chấp thuận”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định tỷ lệ biểu quyết như Dự thảo là kế thừa Hiến pháp hiện hành, phù hợp với thông lệ về quy trình, thủ tục thông qua luật của nhiều nước trên thế giới, vì vậy xin được giữ như Dự thảo.
- Về khoản 2:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết lại là: “Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày được thông qua”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Hiến pháp là một văn bản đặc biệt với quy trình thủ tục sửa đổi, ban hành khác các văn bản pháp luật khác, vì vậy đề nghị không bổ sung nội dung trên vào Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị lấy mốc thời gian công bố các văn bản trên kể từ ngày bế mạc kỳ họp Quốc hội hoặc từ ngày kết thúc phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội thay vì kể từ ngày được thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy trong thực tiễn, ngày thông qua văn bản luật, nghị quyết thường sớm hơn ngày bế mạc kỳ họp, bế mạc phiên họp. Quy định như Dự thảo là nhằm bảo đảm tính kịp thời công bố văn bản quy phạm pháp luật, nhanh chóng đưa văn bản vào cuộc sống.
VIII. CHỦ TỊCH NƯỚC (CHƯƠNG VI)
1. Những góp ý chung
Các ý kiến cơ bản nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương này về thiết chế Chủ tịch nước và tên Chương. Về các nội dung cụ thể có một số loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, chế định về Chủ tịch nước không nên thay đổi để không phải sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị (1) Quy định rõ Chủ tịch nước thuộc bộ phận nào trong 3 nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp); (2) làm rõ mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Chính phủ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về Chủ tịch nước cơ bản kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành, phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước ta hiện nay. Một số nội dung sửa đổi, bổ sung là cần thiết để thể chế hóa Cương lĩnh và đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Về vị trí pháp lý của Chủ tịch nước, Điều 91 đã nêu rõ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước tại Điều 93 đã phản ánh mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị trong Hiến pháp cần có các quy định để bảo đảm Chủ tịch nước có quyền lực thực sự, không thể là tượng trưng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta hiện nay, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Các nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện vị trí, vai trò của Chủ tịch nước đã được quy định tại các điều 93, 94, 95 và 96 của Dự thảo. Các quy định này nhằm bảo đảm để Chủ tịch nước thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị cân nhắc có nên quy định Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Quy định về vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước là kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp 1992. Mặt khác, các quy định về phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh trong các lực lượng vũ trang nhân dân hoặc giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh,... đã làm rõ hơn nội hàm thẩm quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước.
- Loại ý kiến thứ năm đề nghị chuyển quy định về Hội đồng quốc phòng – an ninh về Chương Quốc hội hoặc Chương X về các thiết chế hiến định độc lập.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hội đồng quốc phòng và an ninh là một chế định do Chủ tịch nước đứng đầu, vì vậy việc giữ quy định tại Chương VI – Chủ tịch nước là phù hợp.
- Loại ý kiến thứ sáu đề nghị Việt Nam nên lựa chọn mô hình Tổng thống.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Ở mỗi nước, nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và phương thức tổ chức quyền lực nhà nước của quốc gia đó. Đối với mô hình cộng hòa, nguyên thủ quốc gia đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, có một phần quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ở nước ta, mô hình Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, có các thẩm quyền liên quan đến việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như quy định trong Dự thảo đã và đang được áp dụng ổn định ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn cho thấy phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, phát huy hiệu quả trên thực tế. Vì vậy, đề nghị tiếp tục kế thừa mô hình Chủ tịch nước như hiện nay.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 91
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có ý kiến đề nghị:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị quy định trong Hiến pháp việc Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam giữ chức Chủ tịch nước và cho rằng, quy định này sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, bảo đảm thuận lợi trong hoạt động đối ngoại, tạo điều kiện thực hiện nhất quán nhiệm vụ Bí thư quân ủy trung ương với nhiệm vụ thống lĩnh lực lượng vũ trang.
- Loại ý kiến thứ hai không tán thành và cho rằng, nếu quy định một người giữ cả hai chức vụ quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước là không phù hợp, không phân biệt được vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng của người đứng đầu Nhà nước, có thể dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, độc quyền. Hơn nữa, nếu không quy định trong Hiến pháp thì theo cách làm hiện nay, Đảng vẫn có thể giới thiệu đồng chí Tổng Bí thư ứng cử chức vụ Chủ tịch nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là vấn đề liên quan đến công tác nhân sự của Đảng, vì vậy không quy định nội dung này trong Hiến pháp.
2.2. Điều 92
Cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số vấn đề cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị thay đổi phương thức bầu Chủ tịch nước theo hướng “Chủ tịch nước do nhân dân bầu trực tiếp trong số đại biểu Quốc hội” hoặc trong số những Uỷ viên Bộ Chính trị.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị Chủ tịch nước do nhân dân bầu trực tiếp theo hình thức tranh cử cùng với bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương với các thành viên của mình (dưới sự lãnh đạo của Đảng), giới thiệu 3 người để nhân dân chọn 1.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, ở nước ta, xuất phát từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; trên cơ sở nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân bầu các chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Do vậy, việc quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra là phù hợp với bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị của Nhà nước ta.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị quy định Chủ tịch nước có tuổi đời từ 45 tuổi đến 70 tuổi. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đây là vấn đề cụ thể sẽ được các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc, xem xét trong quá trình giới thiệu nhân sự bầu Chủ tịch nước.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền đề nghị họp Quốc hội để phế truất Chủ tịch nước; trường hợp có 80% số phiếu yêu cầu phế truất thì Chủ tịch nước phải từ nhiệm.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Nghị quyết số 35/2012/QH13 của Quốc hội đã quy định rõ về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch nước sẽ được áp dụng chung theo các quy định của pháp luật hiện hành. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy không cần thiết phải quy định vấn đề này trong Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ năm đề nghị quy định nội dung “Chủ tịch nước làm lễ tuyên thệ nhậm chức”. Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến này và thể hiện tại Điều 75 về yêu cầu tuyên thệ khi nhậm chức đối với một số chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước để thể hiện vị trí, vai trò và trách nhiệm của người giữ vị trí này trước nhân dân.
2.3. Điều 93
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị (1) Hiến pháp lần này cần làm rõ và đề cao thực quyền của Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước. Trong quyền của Chủ tịch nước, cần quy định cụ thể, rõ hơn về các quyền của Chủ tịch nước đối với Chính phủ như quyền giám sát của Chủ tịch nước đối với Thủ tướng Chính phủ vì Thủ tướng Chính phủ là do Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu; (2) quy định tăng thêm thẩm quyền của Chủ tịch nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy những nội dung này đã được nghiên cứu và thể hiện tại các khoản 1, 3, 5 và 6 Điều 93.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị (1) gộp Điều 95 và Điều 96 vào điều 93 để thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch nước; (2) sắp xếp lại Điều 93.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 93 được sửa đổi, bổ sung và bố cục lại theo các nhóm quyền liên quan đến lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, có nội dung độc lập so với Điều 95 (quy định về mối quan hệ của Chủ tịch nước với Chính phủ) và Điều 96 (quy định về loại văn bản do Chủ tịch nước ban hành), vì vậy đề nghị giữ bố cục như Dự thảo.
- Về khoản 1:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp như Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung quy định trước khi công bố luật, Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề nghị của Chính phủ, đề nghị Quốc hội xem xét lại luật đã được Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, nhưng Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chủ tịch nước đã tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng và ban hành luật. Do vậy, đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định này vào Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ ba: đề nghị viết lại như sau: (1) thay cụm từ “thời hạn mười ngày” bằng cụm từ “thời hạn hai mươi ngày” hoặc “mười lăm ngày”; (2) quy định cụ thể là ngày “làm việc”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy thời hạn này kế thừa quy định của Hiến pháp hiện hành, thực tiễn thời gian qua cũng không có gì vướng mắc, vì vậy xin được giữ như Dự thảo.
- Về khoản 2.
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị sửa lại như sau: (1) Chủ tịch nước đề cử, giới thiệu với Quốc hội người kế nhiệm chức Chủ tịch nước, giới thiệu 2 người để Quốc hội bỏ phiếu lựa chọn 1 người làm Thủ tướng. Thủ tướng phải là đại biểu Quốc hội; (2) Chủ tịch nước có quyền chỉ định Thủ tướng để Quốc hội phê chuẩn, đồng thời có quyền cách chức Thủ tướng Chính phủ và một số thành viên khác; (3) Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bãi nhiệm Thủ tướng, cách chức Bộ trưởng, Phó Thủ tướng theo đề nghị của Thủ tướng; (4) Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, tạm đình chỉ, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ nếu xét thấy làm việc không hiệu quả và có sai phạm.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo quy định của Dự thảo, Chủ tịch nước đề cử người để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, thẩm quyền bầu thuộc về Quốc hội thì thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm cũng do Quốc hội thực hiện.
Các Phó Thủ tướng Chính phủ, thành viên Chính phủ đều là những người giúp cho Thủ tướng Chính phủ về các lĩnh vực nhất định, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, trước Quốc hội về nhiệm vụ được giao. Việc đề nghị bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, thành viên Chính phủ do đó cần phải được Thủ tướng Chính phủ - với tư cách là người đứng đầu Chính phủ thực hiện thì sẽ hợp lý hơn. Do vậy, đề nghị giữ quy định như trong Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung nội dung: Chủ tịch nước có quyền giải tán Quốc hội, tuyên bố bầu cử sớm, giải tán Chính phủ, cách chức Thủ tướng để Quốc hội bầu Thủ tướng mới, thành lập Chính phủ mới.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc người đứng đầu quốc gia giải tán Quốc hội, Chính phủ chỉ xảy ra ở một số nước, nơi quyền lực tập trung chủ yếu ở Tổng thống do dân bầu trực tiếp - Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Ở nước ta, với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên không thể quy định một thiết chế nào có thể “giải tán” Quốc hội. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không quy định nội dung này trong Hiến pháp.
- Về khoản 3:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định Chủ tịch nước bổ nhiệm tất cả các Thẩm phán.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán tất cả các Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh, cấp khu vực, cấp quân khu và các Tòa án khác
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định Tòa án là trung tâm trong hệ thống tư pháp và xét xử là hoạt động trọng tâm của hoạt động tư pháp. Để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết của Đảng; đảm bảo cho Tòa án nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xét xử, tăng cường tính độc lập trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao vai trò, vị thế, danh dự của các chức danh tư pháp, nhất là Thẩm phán Toà án nhân dân, nên việc bổ sung quy định thẩm quyền của Chủ tịch nước như đã nêu là cần thiết.
+ Loại ý kiến thứ ba đề nghị bổ sung: (1) các cơ quan quan trọng như Quốc phòng; Công an; Ngoại giao phải do Chủ tịch nước điều hành trực tiếp. (2) quyền “ân giảm án tử hình”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các cơ quan Quốc phòng, Công an, Ngoại giao là các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực thuộc bộ máy hành chính nhà nước. Chủ tịch nước tuy không trực tiếp điều hành các cơ quan trên, nhưng với vai trò là thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại được Hiến pháp quy định, Chủ tịch nước có thể trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao.
Đối với thẩm quyền ân giảm án tử hình, trong điều kiện xu hướng chung hiện nay là ngày càng giảm án tử hình thì vấn đề này cần được quy định trong luật để phù hợp với yêu cầu của chính sách hình sự trong từng giai đoạn.
- Về khoản 4: Đề nghị bổ sung (1) quy định rõ việc nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam đối với người Việt Nam và người nước ngoài; (2) bổ sung quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nước suy tôn danh hiệu danh nhân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy đây là những vấn đề cụ thể cần được quy định trong các đạo luật cho phù hợp.
- Về khoản 5:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị ngoài thẩm quyền phong hàm, cần bổ sung quy định về thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân; đồng thời, ngoài việc bổ nhiệm, cần bổ sung việc miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Chủ tịch nước với tư cách thống lĩnh các lực lượng vũ trang nên cần thiết phải quy định thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ tư lệnh Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn và tương đương vì đây là các chức danh chỉ huy quân đội, chứ không phải chức danh quản lý nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, căn cứ vào mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước ta và thực tiễn công tác cán bộ hiện nay, việc Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam là phù hợp. Do đó, Ủy ban DTSĐHP dự kiến chỉnh lý trình Quốc hội cho ý kiến về việc bổ sung các trường hợp về phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân và bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
+ Loại ý kiến thứ ba đề nghị (1) bổ sung, Chủ tịch nước giữ quyền ban hành lệnh giới nghiêm, lệnh thiết quân luật cục bộ hay toàn quốc; (2) quy định Chủ tịch nước có quyền tuyên bố đất nước có chiến tranh hay hòa bình.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản 5 Điều 93 đã quy định rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp, trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương. Đối với thẩm quyền tuyên bố chiến tranh hoặc hòa bình, như phần trên đã giải trình, do đây là vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, sự tồn vong của dân tộc nên cần phải do cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội thực hiện.
- Về khoản 6:
+ Loại ý kiến thứ nhất đề nghị sửa cụm từ “đàm phán, ký kết điều ước quốc tế” thành “quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nội dung này đã được tiếp thu và thể hiện trong Dự thảo.
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung quyền của Chủ tịch nước: “Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn, gia nhập hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tham gia tổ chức quốc tế phổ cập, tổ chức khu vực quan trọng, điều ước quốc tế đòi hỏi sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành luật, hoặc làm phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy thẩm quyền quyết định chính sách đối ngoại là thẩm quyền thuộc về Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Việc liệt kê các điều ước quốc tế do Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập không phù hợp với văn phong ngắn gọn, súc tích của Hiến pháp, hơn nữa dù liệt kê cũng không bảo đảm đầy đủ và bao quát. Vì vậy, đề nghị những vấn đề cụ thể này sẽ được quy định trong các đạo luật.
2.4. Điều 94
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có một số loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị (1) đổi tên gọi “Hội đồng quốc phòng và an ninh” thành “Hội đồng quốc phòng và an ninh quốc gia”; (2) chuyển quy định về Hội đồng quốc phòng và an ninh về Chương X cùng với Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước; (3) đưa nội dung tại khoản 2 về Chương Bảo vệ Tổ quốc cho hợp lý, vì Hội đồng quốc phòng và an ninh có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tên gọi Hội đồng quốc phòng và an ninh là tên gọi ổn định từ Hiến pháp năm 1992 đến nay. Về bố cục, đề nghị giữ Hội đồng quốc phòng, an ninh tại Chương này để phù hợp với vị trí người đứng đầu Hội đồng quốc phòng, an ninh là Chủ tịch nước.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị (1) bổ sung quy định về một đạo luật về Hội đồng quốc phòng và an ninh quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quốc phòng và an ninh; (2) bổ sung quy định “Hội đồng quốc phòng và an ninh hoạt động thường xuyên”.
Ủy ban DTSĐHP xin được nghiên cứu tiếp thu các ý kiến nêu trên để quy định trong các văn bản pháp luật phù hợp.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị quy định rõ cơ cấu của Hội đồng gồm: “Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng an ninh của Quốc hội”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị không nên quy định những vấn đề cụ thể này trong Hiến pháp mà để các văn bản khác điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn trong từng giai đoạn.
2.5. Điều 95
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có một số loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định của Dự thảo, khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm.
- Loại ý kiến thứ ba không tán thành với quy định của Dự thảo mà đề nghị giữ như Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại thì trong một số trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm để giúp Chủ tịch nước thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó, Ủy ban DTSĐHP chỉnh lý để trình Quốc hội cho ý kiến về nội dung này theo hướng: “Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị bổ sung quy định “Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền triệu tập và chủ tọa hội nghị chính trị đặc biệt”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hội nghị chính trị đặc biệt là vấn đề đã từng được Hiến pháp năm 1959 quy định, nhưng đó là thực tiễn của những năm đất nước đang đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Hiện nay tổ chức bộ máy Nhà nước ta đã và đang hoàn thiện, Hiến pháp đã ghi nhận thẩm quyền của các thiết chế nhà nước trong các tình huống khác nhau như khi đất nước có chiến tranh, tình trạng khẩn cấp... để bảo đảm có cơ chế xử lý kịp thời, phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng của từng cơ quan. Vì vậy, đề nghị không quy định về Hội nghị chính trị đặc biệt trong Dự thảo.
2.6. Điều 96
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể, có ý kiến đề nghị viết lại như sau: (1) “Chủ tịch nước ban hành sắc lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định”; (2) “Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định”; (3) “Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định của Dự thảo là kế thừa Hiến pháp hiện hành về các loại văn bản do Chủ tịch nước ban hành. Đối với đề nghị bổ sung đoạn cuối “theo luật định” hoặc “theo quy định của pháp luật”, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do nhiều văn bản khác nhau quy định, bao gồm cả Hiến pháp, vì vậy đề nghị giữ như Dự thảo cho ngắn gọn và bao quát.
2.7. Điều 97
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có ý kiến đề nghị sửa lại như sau: (1) “Phó Chủ tịch nước được Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội do Chủ tịch nước đề cử”; (2) “Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ”; (3) “Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch ủy nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước” (4) “Phó Chủ tịch nước do Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước đương nhiên là đại biểu Quốc hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy thẩm quyền Chủ tịch nước đề xuất để Quốc hội bầu Phó Chủ tịch nước đã quy định tại khoản 2 Điều 93; quy định Phó Chủ tịch nước phải là đại biểu Quốc hội đã quy định tại đoạn 1 Điều 97; vấn đề Chủ tịch nước ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch nước thực hiện một số nhiệm vụ đã quy định tại đoạn 2 Điều 97.
2.8. Điều 98
Về cơ bản các ý kiến tán thành với Dự thảo. Về một số nội dung cụ thể có ý kiến đề nghị sửa lại như sau: (1) định lượng cụ thể thời gian bao lâu khi Chủ tịch nước không làm việc được thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch vì đây là vấn đề hệ trọng của quốc gia; (2) quy định cụ thể thời gian này là 2 đến 3 tháng.
Đối với đề nghị định lượng thời gian bao lâu Chủ tịch nước không làm việc được thì Phó Chủ tịch nước quyền Chủ tịch, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy vấn đề này còn phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể để có cách xử lý phù hợp thông qua cơ chế ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, cơ chế giữ chức quyền Chủ tịch nước hoặc trường hợp chuẩn bị nhân sự mới nếu khuyết Chủ tịch nước. Vì vậy đề nghị không quy định cứng vấn đề này trong Dự thảo.
IX. VỀ CHÍNH PHỦ (CHƯƠNG VII)
1. Những góp ý chung
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo, cho rằng nội dung của Chương VII như trong Dự thảo là bảo đảm vị trí hợp lý của Chính phủ trong quan hệ về tổ chức quyền lực tương ứng với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị làm rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, phân định rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ, trách nhiệm cá nhân Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với trách nhiệm của tập thể Chính phủ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Dự thảo Chương VII được xây dựng trên cơ sở tiếp tục kế thừa các quy định của Chương VIII Hiến pháp năm 1992 về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Chính phủ; đồng thời, sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ cho phù hợp với vị trí vai trò của Chính phủ; sắp xếp cơ cấu lại nhiệm vụ quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ bảo đảm tương thích với nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ; làm rõ hơn thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc định hướng, điều hành hoạt động của Chính phủ, lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia; làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ nhằm tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đây là những nguyên tắc xuyên suốt cho việc sửa đổi, bổ sung Chương này.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 99
a) Về ví trí, tính chất của Chính phủ
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định vị trí, tính chất của Chính phủ như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân. Theo đó, “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội vì trong chức năng “hành pháp” và “hành chính” đã thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội thông qua. Về bản chất, việc Chính phủ tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật chính là hoạt động chấp hành ý chí của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật do Quốc hội ban hành, phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân. Việc không tiếp tục quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội sẽ làm rõ hơn vai trò hành pháp và sự phân công quyền lực cho Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội, bảo đảm tính độc lập tương đối, sự kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp, tạo cơ sở để Chính phủ chủ động, năng động hơn trong quản lý, điều hành.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước ở nước ta phải được xác định trên cơ sở nguyên tắc: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra. Với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội được nhân dân uỷ quyền ban hành Hiến pháp, luật, nghị quyết, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, thiết lập nên các cơ quan hiến định trong bộ máy nhà nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Do đó, Chính phủ là cơ quan hành pháp có trách nhiệm tổ chức và bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành, đồng thời chịu trách nhiệm báo cáo công tác với Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội. Vấn đề này cũng đã được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây của nước ta. Trong thực tế vừa qua, quy định này chưa thấy có gì vướng mắc, cản trở hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ.
- Bên cạnh các loại ý kiến nêu trên có ý kiến đề nghị chỉ quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp, vì trong “hành pháp” đã bao gồm cả “hành chính” và “chấp hành”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, mặc dù trong “hành pháp” đã có thể hiện một phần của “hành chính”, “chấp hành” nhưng giữa các khái niệm này là không đồng nhất, bao trùm. Hơn nữa, nếu chỉ quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp sẽ không thể hiện được mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trung ương trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Do đó, đề nghị giữ quy định này như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
b) Về chế độ báo cáo của Chính phủ trước Ủy ban thường vụ Quốc hội
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp Quốc hội, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Do vậy, về nguyên tắc, Chính phủ chỉ phải báo cáo công tác trước Quốc hội mà không phải báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung vào Dự thảo để quy định rõ chế độ báo cáo của Chính phủ trước Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ trong thời gian Quốc hội không họp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, không phải là một cấp quyền lực lập pháp, không là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất giữa hai kỳ họp của Quốc hội. Do vậy, về nguyên tắc, Chính phủ chỉ phải báo cáo công tác trước Quốc hội. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn là Quốc hội nước ta không hoạt động thường xuyên và Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội nên việc quy định về cơ chế báo cáo công tác của Chính phủ trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội như Hiến pháp hiện hành là phù hợp.
2.2. Điều 100
a) Về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.”
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị sửa quy định về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ theo hướng cơ cấu và số lượng thành viên Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ đề xuất và Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định cụ thể về việc quyết định cơ cấu tổ chức và nhân sự là những vấn đề về quy trình, thủ tục nên quy định trong văn bản luật. Hiện nay, Nội quy kỳ họp Quốc hội đã có quy định về thủ tục, trình tự bầu, quyết định cơ cấu, tổ chức nhân sự của Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ. Theo đó, đã quy định Quốc hội quyết định số Phó Thủ tướng, việc thành lập các bộ và cơ quan ngang bộ theo đề xuất của Thủ tướng Chính phủ; Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ.
b) Về nguyên tắc làm việc của Chính phủ
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo là Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ quy định về nguyên tắc làm việc của Chính phủ “theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số”, vì cho rằng quy định như vậy sẽ làm mất đi vai trò của người đứng đầu Chính phủ. Có ý kiến đề nghị sửa thành “Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, Thủ tướng nắm quyền quyết định” hoặc “Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu” hoặc “Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, chịu trách nhiệm cá nhân, quyết định theo đa số” hoặc “…Chính phủ làm việc theo chế độ thủ trưởng, quyết định theo đa số....”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Chính phủ có vị trí, vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, là thiết chế có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất về mặt hành chính đối với toàn bộ các mặt hoạt động của đời sống, về quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả, thông suốt của nền hành chính từ trung ương đến địa phương. Mỗi quyết định của Chính phủ đều có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội nên phải thận trọng, chính xác. Do đó, quy định Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số là phù hợp. Trong Dự thảo Hiến pháp lần này đã có những sửa đổi, bổ sung để phân định rõ hơn về vị trí, vai trò trách nhiệm của Thủ tướng, Phó Thủ tướng, từng thành viên Chính phủ.
c) Về trách nhiệm báo cáo công tác của Thủ tướng Chính phủ
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ quy định về trách nhiệm báo cáo công tác của Thủ tướng Chính phủ như Hiến pháp hiện hành “Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị làm rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ; ý kiến khác đề nghị làm rõ nội dung nào Thủ tướng Chính phủ báo cáo trước Quốc hội, nội dung nào báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, nội dung nào báo cáo trước Chủ tịch nước để quy định trách nhiệm rõ ràng hơn.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong Hiến pháp 1992 hiện hành chỉ quy định trách nhiệm Thủ tướng trong việc “báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Để làm rõ hơn trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, làm rõ nội dung cần báo cáo, Dự thảo lần này đã bổ sung quy định nội dung báo cáo của Thủ tướng Chính phủ là “báo cáo công tác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ với…”. Còn công tác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ như thế nào đã được thể hiện trong các điều quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
d) Về Phó Thủ tướng Chính phủ
- Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể Chính phủ có mấy Phó Thủ tướng và phụ trách các lĩnh vực nào; quy định về Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nhằm Hiến định trách nhiệm của Phó Thủ tướng; bổ sung và làm rõ thêm trách nhiệm cá nhân của các Phó Thủ tướng.
- Có ý kiến đề nghị điều chỉnh quy định về vấn đề này theo hướng Phó Thủ tướng làm việc theo phân công của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; xác định vị trí, vai trò của Phó Thủ tướng theo hai tư cách (1) là thành viên của Chính phủ, theo tư cách này Phó Thủ tướng không phải là người giúp việc của Thủ tướng, Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chính phủ về những mảng công việc mà Chính phủ giao giải quyết; (2) giúp Thủ tướng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ tướng theo phân công của Thủ tướng, khi thực hiện những nhiệm vụ này, Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong lần sửa đổi này, quy định về Chương Chính phủ được sửa đổi theo hướng tiếp tục đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân Thủ tướng trong việc điều hành toàn bộ nền hành chính. Do đó, với vai trò là người giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ, Phó Thủ tướng sẽ thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Số lượng Phó Thủ tướng là bao nhiêu sẽ do Quốc hội quyết định theo đề xuất của Thủ tướng tùy thuộc vào từng nhiệm kỳ Quốc hội, bảo đảm tính linh hoạt đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
2.3. Điều 101
a) Ý kiến chung
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị viết ngắn gọn, không liệt kê cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ để đảm bảo tính linh hoạt trong việc thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành với quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ như trong Dự thảo, nhưng đề nghị có một số sửa đổi và bổ sung một số nhiệm vụ quyền hạn cụ thể như “Chính phủ có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để xác lập trật tự quản lý xã hội”, “thống nhất quản lý công tác thi hành án dân sự và thi hành án hình sự trên phạm vi toàn quốc”; “bảo lưu các ý kiến đối với các vấn đề Chính phủ trình Quốc hội như các quan điểm trong xây dựng luật, các đề xuất của Chính phủ trong việc triển khai các chủ trương lớn”; “nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc đại diện chủ sở hữu nhà nước, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước”. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Chính phủ thống nhất quản lý về nhiệm vụ chính trị như trong Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là sự cụ thể hóa chức năng hành chính, hành pháp của Chính phủ, là những phương diện hoạt động của Chính phủ. Để bảo đảm Chính phủ thực hiện đúng chức năng của mình, xác định đúng vị trí, vai trò của mình thì việc quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cần thiết. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Chính phủ là sự kế thừa các quy định của Hiến pháp 1992 và sắp xếp, cơ cấu lại cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ với tính chất là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội và bảo đảm sự tương thích về mức độ trong tương quan về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án.
Về đề nghị bổ sung quy định Chính phủ thống nhất quản lý về nhiệm vụ chính trị, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị là trách nhiệm của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, gồm Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án, Viện kiểm sát, các cơ quan khác của Nhà nước, cũng như các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta. Việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đã được thể hiện qua việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đã được phân công, phân cấp. Do đó, đề nghị không bổ sung nhiệm vụ này vào Dự thảo.
b) Về hoạt động lập pháp của Chính phủ
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định của Dự thảo về nhiệm vụ liên quan đến hoạt động lập pháp của Chính phủ;
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị cần có cơ chế để Chính phủ tác động trở lại đối với Quốc hội nhằm cụ thể hóa mối quan hệ kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cụ thể là giao Chính phủ quyền kiến nghị Quốc hội xem xét lại các dự án luật đã được thông qua, vì Chính phủ với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, trực tiếp tổ chức thi hành các luật, pháp lệnh, là cơ quan có điều kiện hiểu rõ nhất và cũng phải có trách nhiệm về tính hợp lý, tính khả thi của các luật, pháp lệnh.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị không quy định nhiệm vụ “trình dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội” thuộc về Chính phủ, vì Chính phủ là cơ quan hành pháp, nhiệm vụ này là một trong 14 nhiệm vụ của Quốc hội; nếu để Chính phủ trình, dễ dẫn đến thiếu hoặc không khách quan. Có ý kiến đề nghị chuyển toàn bộ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ quy định tại Điều này sang nhiệm, vụ quyền hạn của Chủ tịch nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ vị trí vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý xã hội, Chính phủ nắm rõ nhất các vấn đề, quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bởi pháp luật, cũng như việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành để bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội. Do vậy, quy định Chính phủ có thẩm quyền trình dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là phù hợp. Trong quá trình soạn thảo, dự án được đánh giá tác động, lấy ý kiến các ngành, các cấp, trước khi trình ra Quốc hội dự án được thẩm định, thẩm tra và sau đó được xem xét thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội, tại Tổ đại biểu Quốc hội, tại phiên họp toàn thể Quốc hội nên bảo đảm tính khách quan trong các quy định khi luật được thông qua.
Đối với đề nghị bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong việc đề xuất Quốc hội xem xét lại các dự án luật, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy trình xây dựng pháp luật và thực tiễn xây dựng luật các năm qua cho thấy, hầu hết các dự án luật được đề xuất và xây dựng từ Chính phủ; đối với các dự án luật được đề xuất từ các chủ thể khác cũng được Chính phủ cho ý kiến. Do đó, việc bổ sung quy định về thẩm quyền của Chính phủ kiến nghị với Quốc hội xem xét lại các dự án luật là không cần thiết, đồng thời, không đề cao được vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong suốt quá trình đề xuất cũng như xây dựng luật.
c) Về thẩm quyền giám sát và hướng dẫn hoạt động, bãi bỏ nghị quyết sai trái, giải tán Hội đồng nhân dân
Có ý kiến đề nghị chuyển thẩm quyền giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân từ Ủy ban thường vụ Quốc hội sang Chính phủ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định này là kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 hiện hành, phù hợp với các nội dung liên quan đến Hội đồng nhân dân, cơ quan dân cử ở địa phương do Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ quan thường trực hoạt động thường xuyên của Quốc hội có quyền giải thích Hiến pháp và luật thực hiện là hợp lý.
d) Về mối quan hệ giữa Chính phủ, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước
Có ý kiến đề nghị phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước trong quản lý thống nhất về công tác đối ngoại và việc ký kết, đàm phán các điều ước quốc tế; xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ và Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với chính quyền địa phương trong việc đình chỉ, bãi bỏ văn bản của Hội đồng nhân dân trái với Hiến pháp và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của Hội đồng nhân dân, giải tán Hội đồng nhân dân khi vi phạm nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân địa phương.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội được phân định dựa trên vị trí, vai trò, tính chất của từng cơ quan. Do đó, việc giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của từng thiết chế đến đâu phải căn cứ vào tính chất của từng vấn đề và mối tương quan giữa các thiết chế trong bộ máy nhà nước. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này đã được thể hiện trong các điều 75, 79, 91, 94 ... Ví dụ, đối với công tác đối ngoại, Quốc hội quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về Chiến tranh và hòa bình (khoản 14 Điều 75); Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước về đối ngoại (Điều 91), quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh nhà nước, trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế (khoản 6 Điều 94); Chính phủ thống nhất quản lý công tác đối ngoại, theo ủy quyền của Chủ tịch nước đàm phán ký điều ước quốc tế… (khoản 7 Điều 101)…. Đối với văn bản của Hội đồng nhân dân trái Hiến pháp và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 6 Điều 79); Chính phủ kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên (khoản 2 Điều 101)....
2.4. Điều 103
a) Về vị trí, vai trò của Thủ tướng Chính phủ
Có ý kiến đề nghị xác định rõ “Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp và đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương”, để thống nhất với quy định về chế độ trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, phân định rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng về những nhiệm vụ được giao cho Thủ tướng Chính phủ và trách nhiệm của Thủ tướng về hoạt động chung của Chính phủ với vị trí là người đứng đầu Chính phủ và đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tại Điều 99 đã quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Việc quy định Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ đã bao hàm quy định Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp, đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, nếu bổ sung tiếp quy định này vào Điều 103 sẽ trùng lặp về nội dung. Do đó, đề nghị giữ như Dự thảo.
b) Về việc bầu Thủ tướng Chính phủ
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội như trong Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định Thủ tướng Chính phủ do nhân dân bầu ra thông qua tranh cử, bỏ phiếu trực tiếp. Có ý kiến đề nghị Thủ tướng Chính phủ do nhân dân và các đại biểu Quốc hội bầu.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trên cơ sở nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Do đó, quy định Quốc hội bầu những người giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, trong đó có Thủ tướng Chính phủ là phù hợp. Vì vậy, đề nghị giữ quy định này như trong Dự thảo.
c) Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị thiết kế lại nhiệm vụ quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ theo hướng bảo đảm nhóm nhiệm vụ là người đứng đầu cơ quan hành pháp và nhóm nhiệm vụ là người đứng đầu hệ thống hành chính và bổ sung một số thẩm quyền riêng của Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời ứng phó với các tình huống phát sinh mới.
Có ý kiến đề nghị thiết kế các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ tướng Chính phủ theo các nhóm nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: (1) Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện chức năng lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ. (2) Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện chức năng điều hành hệ thống hành chính quốc gia. (3) Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương. (4) Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện thẩm quyền riêng của Thủ tướng Chính phủ trong việc ban hành và áp dụng các biện pháp cần thiết để xử lý các vấn đề đột xuất, khẩn cấp trong quá trình điều hành kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia. (5) Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, trước nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ: "Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; chủ tọa các phiên họp của Chính phủ"; “Quy định và áp dụng các biện pháp cần thiết trong trường hợp khẩn cấp do thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề nghiêm trọng khác; quyết định, chỉ đạo việc đàm phán ký kết điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định nhóm nhiệm vụ của Thủ tướng vừa bảo đảm tiếp tục đề cao vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng trong việc điều hành toàn bộ nền hành chính; tạo cơ sở đẩy mạnh phân công, phân cấp; tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng và người đứng đầu chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước theo pháp luật, nhưng cũng vừa bảo đảm sự tương thích với các điều về nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp. Do đó xin được giữ như quy định về các nhóm nhiệm vụ như trong Dự thảo đã được công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.5. Điều 104
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không phải là đại biểu Quốc hội để tăng số lượng đại biểu chuyên trách và làm việc chuyên nghiệp. Có ý kiến khác, đề nghị quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thể là đại biểu Quốc hội hoặc không phải là đại biểu Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong Dự thảo Hiến pháp không quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là đại biểu Quốc hội, có nghĩa là tùy từng trường hợp cụ thể Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thể là đại biểu Quốc hội hoặc không phải là đại biểu Quốc hội. Nếu bổ sung quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không phải là đại biểu Quốc hội như ý kiến trên đây sẽ giới hạn phạm vi lựa chọn Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Vì vậy, đề nghị giữ như Dự thảo về vấn đề này.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm báo cáo trước nhân dân của Thứ trưởng; thay quy định “Bộ trưởng báo cáo công tác trước Chính phủ” bằng quy định “Bộ trưởng báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ”. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của Bộ trưởng trước Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tại Điều 100 đã quy định trách nhiệm cá nhân của thành viên Chính phủ trước Chính phủ, Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ. Do đó việc quy định Bộ trưởng báo cáo công tác trước Chính phủ là phù hợp.
Đối với ý kiến đề nghị bổ sung trách nhiệm báo cáo trước nhân dân của Thứ trưởng, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Thứ trưởng là người giúp Bộ trưởng, nên về nguyên tắc Bộ trưởng phải là người chịu trách nhiệm trước nhân dân về công việc của Bộ mình. Do đó, đề nghị giữ như quy định của Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định các thành viên Chính phủ có quyền từ chức khi xét thấy không đủ sức khoẻ hoặc năng lực để hoàn thành chức trách được đảm nhận
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong Hiến pháp đã quy định về thẩm quyền của Quốc hội trong phê chuẩn việc miễn nhiệm các chức danh Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, và các thành viên khác của Chính phủ (khoản 7 Điều 75). Trong Luật tổ chức Chính phủ đã có quy định về thủ tục, trình tự “từ chức” của các thành viên Chính phủ trong trường hợp vì lý do sức khoẻ hoặc lý do khác đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Do đó, để bảo đảm tính tương đồng trong quy định với các chức danh khác trong bộ máy nhà nước thì đề nghị không bổ sung quy định cụ thể này vào Hiến pháp.
2.6. Điều 105
Có ý kiến đề nghị quy định nội dung này trong văn bản luật không cần thiết phải quy định trong Hiến pháp. Có ý kiến đề nghị cần làm rõ khái niệm “văn bản pháp luật” trong quy định này là văn bản gì để đảm bảo thống nhất quy định tại các Điều 75, Điều 96. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định thẩm quyền ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, để bảo đảm tính ổn định, lâu dài trong các quy định của Hiến pháp trong Dự thảo chỉ quy định về thẩm quyền ban hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và việc kiểm tra thi hành các văn bản đó nói chung đảm bảo cho các chủ thể này thực hiện hiệu quả chức năng hành pháp và hành chính nhà nước. Còn những vấn đề như thẩm quyền ban hành những văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào, việc kiểm tra, xử lý văn bản như thế nào sẽ do luật định. Theo đó, Dự thảo quy định “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của luật và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.”
2.7. Điều 106
Có ý kiến đề nghị bỏ quy định tại Điều này, vì cho rằng không cần thiết quy định ở Hiến pháp. Ý kiến khác đề nghị bổ sung về vai trò chủ động của mặt trận, đoàn thể chính trị xã hội trung ương đề xuất được dự họp một số phiên họp của Chính phủ để phản biện ý kiến.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về việc được mời tham dự phiên họp Chính phủ là cần thiết để thể hiện rõ mối quan hệ phối hợp công tác giữa Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội. Khi được mời tham dự, tùy từng nhiệm vụ cụ thể, các chủ thể này có thể tham dự hoặc không, đây chính là thể hiện vai trò chủ động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội.
X. VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (CHƯƠNG VIII)
1. Những ý kiến chung
- Có ý kiến đề nghị tách chương Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thành 2 chương. Có ý kiến đề nghị đưa Viện kiểm sát về Chương X quy định về các cơ quan độc lập.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tuy không phải là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, nhưng hoạt động của Viện kiểm sát chủ yếu gắn liền với hoạt động của Tòa án. Trong lịch sử lập Hiến nước ta, quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân luôn nằm trong một chương. Hiến pháp một số nước có quy định về Viện kiểm sát, thì Viện kiểm sát nằm cùng trong chương với Tòa án (Nga, Trung Quốc...). Hơn nữa, tuy cùng chương, nhưng quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân được phân biệt rõ ràng ở các điều khác nhau. Do đó, xin đề nghị giữ như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 126 của Hiến pháp hiện hành quy định chung về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy Điều 126 của Hiến pháp 1992 quy định về những nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, các cơ quan này có chức năng khác nhau, nên có nhiệm vụ riêng mang tính đặc thù của từng cơ quan. Vì vậy nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đã được quy định thành hai điều riêng là Điều 107 quy định về Tòa án nhân dân và Điều 112 quy định về Viện kiểm sát nhân dân cho phù hợp. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ kết cấu như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị cần thành lập Tòa án xét xử trẻ vị thành niên phạm tội nghiêm trọng trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ tình hình tội phạm là người chưa thành niên đang chiếm tỷ lệ cao, nghiêm trọng và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên ở Việt Nam thì nhu cầu thành lập Tòa án chuyên xét xử người chưa thành niên là cần thiết. Tuy nhiên, Tòa án này nếu được thành lập cũng sẽ nằm trong hệ thống Tòa án khác đã được Dự thảo quy định. Hiện nay, đề án thành lập Tòa án gia đình và trẻ vị thành niên đang được Tòa án nhân dân tối cao xây dựng trình Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương cho ý kiến để trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Dự kiến Tòa án gia đình và trẻ vị thành niên được thành lập cũng là tòa chuyên trách nằm trong hệ thống Tòa án hiện hành. Do vậy, đề nghị không bổ sung loại Tòa án này trong Hiến pháp.
2. Những góp ý vào các điều, khoản cụ thể
2.1. Điều 107
- Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể các cấp Tòa án gồm có Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án phúc thẩm, Tòa án sơ thẩm khu vực, các Tòa án quân sự... Có ý kiến đề nghị thay đổi tên gọi “Tòa án khác” bằng “Tòa án trực thuộc”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định như Dự thảo là đã thể hiện được bản chất nhân dân của các Tòa án nước ta. Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự hay Tòa án đặc biệt... đều là Tòa án mang bản chất nhân dân, chỉ có tên gọi khác nhau. Trong hệ thống Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao là cố định; còn tùy theo từng thời kỳ phát triển và nhu cầu xã hội, các Tòa án cấp dưới có thể thay đổi. Vì vậy, quy định mở như Dự thảo mang tính khái quát cao, làm cơ sở hiến định cho Quốc hội ban hành luật để thành lập thêm hoặc giải thể các Tòa án khác.
Nếu sử dụng khái niệm “Tòa án trực thuộc” thì sẽ tạo ra cách hiểu tổ chức hệ thống Tòa án theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Trong khi các Tòa án được thành lập theo quy định của pháp luật, không trực thuộc lẫn nhau, thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Tòa án nhân dân tối cao chỉ giám đốc việc xét xử của Tòa án các cấp, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án. Vì vậy xin được giữ như quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị không quy định về Tòa án đặc biệt trong Hiến pháp; ý kiến khác đề nghị có quy định về Tòa án này.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã không quy định riêng một khoản tại Điều 107 về Tòa án đặc biệt. Bởi vì khác với Hiến pháp hiện hành, để đảm bảo tính linh hoạt cho việc quy định hệ thống Tòa án trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân sau này, Dự thảo đã quy định Tòa án nhân dân bao gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác (bao gồm cả Tòa án đặc biệt) do luật định. Vì vậy, khi cần thiết Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt mà không có gì vướng mắc về mặt hiến định. Hơn nữa, trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng như hội nhập quốc tế hiện nay, không quy định riêng về Tòa án đặc biệt trong Hiến pháp là phù hợp về chính trị, xã hội cũng như về phương diện ngoại giao.
- Có ý kiến đề nghị quy định rõ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan thực hiện quyền tư pháp cao nhất.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là vấn đề đang được nghiên cứu, xem xét để triển khai thực hiện, đảm bảo phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp; hơn nữa, Hiến pháp năm 1992 cũng không quy định về vấn đề này và hiện tại Dự thảo cũng không quy định về Ủy ban kiểm sát. Do đó, đề nghị không quy định về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân tối cao trong Hiến pháp mà để Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định.
- Có ý kiến đề nghị quy định rõ là Tòa án nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc đơn vị hành chính hoặc kết hợp cả hành chính và khu vực.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo yêu cầu cải cách tư pháp thì Tòa án nhân dân sẽ được tổ chức gồm 4 cấp, trong đó cấp Tòa án sơ thẩm khu vực được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một đơn vị hành chính cấp tỉnh (tổ chức tòa án nhân dân theo thẩm quyền xét xử, không theo cấp hành chính). Tuy nhiên, Hiến pháp chỉ quy định chung về hệ thống tòa án gồm có Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác, việc tổ chức cụ thể các Tòa án khác sẽ được Luật tổ chức tòa án nhân dân quy định cụ thể phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không quy định cụ thể tổ chức hệ thống Tòa án trong Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 3 cụm từ “bảo vệ pháp luật” vào nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, vì bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người phải trên cơ sở pháp luật. Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “bảo vệ công lý”. Có ý kiến đề nghị sửa đổi bổ sung nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, bảo vệ công lý gắn liền với hoạt động Tòa án. Công lý là khái niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm pháp luật. Bảo vệ công lý đã bao hàm bảo vệ pháp luật; nhưng xa hơn nữa, bảo vệ công lý là bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin được giữ như quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
Về bổ sung nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa của Tòa án nhân dân, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu và bổ sung nhiệm vụ “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa” cùng với các nhiệm vụ khác của Tòa án nhân dân đã được quy định tại Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị sửa lại bố cục của Điều 107 cho hợp lý hơn.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý lại điều này theo hướng tách đoạn 2 khoản 1 thành khoản 2 mới; đồng thời đưa khoản 3 nhập vào khoản 2 mới; khoản 2 cũ trở thành khoản 3 mới, cụ thể như sau:
“Điều 107
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”
2.2. Điều 108
- Có ý kiến đề nghị giữ quy định tại Điều 133 của Hiến pháp 1992 về “quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án” để bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Điều 133 của Hiến pháp 1992 quy định về Tòa án bảo đảm cho công dân được quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án. Tuy nhiên, quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình là quyền được ghi nhận và áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, không chỉ riêng trong lĩnh vực xét xử. Vì vậy nội dung này đã được quy định trong Chương về chế độ chính trị (Điều 5 của Dự thảo). Do vậy, xin được giữ như quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị quy định về Hội thẩm đoàn được chọn và triệu tập ngẫu nhiên từ công dân gương mẫu, có trình độ văn hóa và không vi phạm pháp luật ở địa phương.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trong hoạt động tố tụng của Việt Nam, xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia. Hội thẩm nhân dân là người được cơ quan dân cử lựa chọn và có nhiệm vụ xét xử chỉ tuân theo pháp luật, bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Ở nước ta, chế định về Hội thẩm nhân dân đã được hình thành và phát triển hơn 60 năm nay đã chứng tỏ nhân dân ta đã tham gia tích cực vào nhiệm vụ bảo vệ công lý và ngày càng khẳng định vai trò của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Trong khi đó, mô hình Hội thẩm đoàn chưa được nghiên cứu kỹ ở nước ta và trong một chừng mực nào đó thì chế định này còn chưa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, mô hình tố tụng của Việt Nam. Do đó, xin được giữ nguyên chế định Hội thẩm nhân dân như quy định trong Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn việc bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tham gia xét xử của Hội thẩm và không nên giao cho luật quy định.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến này và đã thể hiện tại khoản 1 Điều 108 như sau: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.”
- Có ý kiến đề nghị quy định rõ Tòa án phải xét xử công khai, trừ các vụ việc có liên quan đến an ninh quốc gia, không nên giao cho luật quy định.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến này để quy định cụ thể các trường hợp Tòa án có thể xét xử kín và thể hiện lại khoản 3 Điều 108 như sau: “Toà án nhân dân xét xử công khai; Tòa án nhân dân có thể xét xử kín trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.”.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định trực tiếp trong Hiến pháp các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến này và sửa đổi khoản 4 Điều 108 như sau: “Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.”.
- Có ý kiến đề nghị cần sửa đổi khoản 5 Điều 108 để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong cả giai đoạn xét xử.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc tranh tụng không chỉ diễn ra tại phiên tòa, mà rộng hơn, bao gồm cả ở các giai đoạn tố tụng khác. Quy định trong Hiến pháp nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là cơ sở hiến định cho việc quy định cụ thể nguyên tắc này trong các luật tố tụng. Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin được tiếp thu và chỉnh sửa lại khoản 5 Điều 108 như sau: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
- Có ý kiến đề nghị chuyển quy định về quyền bào chữa của người bị tạm giữ tại khoản 7 Điều 108 về Điều 32 ở Chương về quyền con người. Có ý kiến đề nghị chỉ quy định “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”, bỏ câu “Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” để bảo đảm tính khái quát cao hơn.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền được trợ giúp pháp lý (bao gồm cả quyền bào chữa) đối với người bị tạm giữ đã được quy định tại khoản 3 Điều 32 của Dự thảo. Trong khuôn khổ điều quy định về Tòa án nhân dân, chỉ nên quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự là phù hợp. Nguyên tắc này không đơn thuần là ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền lợi của đương sự; mà nhấn mạnh trách nhiệm của Tòa án nhân dân bảo đảm cho quyền đó được thực hiện trên thực tế.
Tiếp thu ý kiến đề nghị bỏ câu “bị can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sự hoặc người khác bào chữa; đương sự có thể tự mình, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp”, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lại khoản 7 Điều 108 như sau: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
2.3. Điều 109
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền ban hành án lệ của Tòa án nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Hệ thống pháp luật nước ta theo hệ thống luật thành văn. Tòa án nhân dân tối cao đã và đang thực hiện chức năng tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Việc thực hiện chức năng này đã mang lại hiệu quả thiết thực cho các Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, việc nghiên cứu ban hành và áp dụng án lệ ở nước ta đã được nêu trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp nhưng đây là vấn đề mới và đang còn có ý kiến khác nhau nên đề nghị chưa quy định vào Dự thảo Hiến pháp. Vấn đề này sẽ được tiếp tục nghiên cứu, nếu thấy phù hợp sẽ quy định trong luật.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền giải thích luật của Tòa án nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, qua tổng hợp ý kiến nhân dân có nhiều ý kiến vẫn đề nghị giữ thẩm quyền giải thích luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội như Hiến pháp hiện hành. Vì vậy, xin giữ quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao như trong Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.4. Điều 110
- Có ý kiến đề nghị bỏ nội dung Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu vì đã được quy định trong Chương về Quốc hội.
Ủy ban DTS ĐHP xin tiếp thu loại ý kiến này và bỏ quy định “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu” tại khoản 1 Điều 110 để tránh trùng lặp với quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội tại khoản 7 Điều 75.
- Có ý kiến đề nghị quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc không quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là đại biểu Quốc hội sẽ giúp bảo đảm linh hoạt hơn trong việc lựa chọn người giữ chức vụ quan trọng mang tính chuyên môn nghiệp vụ rất cao này; đồng thời, quy định này cũng thể hiện yêu cầu bảo đảm tính độc lập của cơ quan tư pháp. Do đó, đề nghị giữ như quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân cũng như quy định của Hiến pháp hiện hành về vấn đề này.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “miễn nhiệm và cách chức” vào sau từ “bổ nhiệm” tại câu 3 khoản 1 Điều 110.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến này và chỉnh sửa lại khoản 1 Điều này như sau: “Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định.”.
2.5. Điều 111
- Có ý kiến đề nghị viết gọn Điều 111 và sửa lại như sau “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, cơ quan, tổ chức, cá nhân không liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án nhân dân thì không có nghĩa vụ phải chấp hành, nhưng phải tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án; còn cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án thì phải chấp hành bản án, quyết định đó để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, thể hiện lòng tin vào công lý đã được Tòa án phán quyết. Vì vậy, xin được giữ như quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.6. Điều 112
- Về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, hiện có ba loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo về chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Quy định như vậy là phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước ta hiện nay.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính (kiểm sát chung) và thực hiện các hoạt động khác do luật định.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị quy định Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố, kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính mà không quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp vì quy định như vậy là trái với quy định về Viện kiểm sát thực hành quyền công tố (một bên tham gia tố tụng), không phù hợp với quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là bước điều chỉnh quan trọng nhằm thực hiện chủ trương tại Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và đây cũng là kết luận tại Hội nghị Trung ương 5. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân để cơ quan này tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hơn nữa, trong tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay đã có các thiết chế kiểm tra, thanh tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và việc xử lý vi phạm hành chính. Nếu quy định chức năng kiểm sát chung cho Viện kiểm sát thì sẽ gây chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũng không nên quy định “thực hiện các hoạt động khác” vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, chỉ quy định những vấn đề lớn, cơ bản còn các vấn đề khác để luật định.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung nhiệm vụ của Viện kiểm sát là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến này và bổ sung vào khoản 3 Điều 112 như sau: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”.
- Có loại ý kiến đề nghị sửa khoản 1 Điều này theo hướng chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khác với mô hình của nhiều nước trên thế giới, Viện kiểm sát nước ta bên cạnh chức năng công tố còn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảm đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ như quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị giữ lại quy định về Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp hiện hành và cần quy định vào Hiến pháp một số nhiệm vụ khác của Viện kiểm sát. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là những vấn đề cụ thể thuộc về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nên đề nghị cho tiếp tục nghiên cứu để quy định cụ thể trong luật. Điều này cũng phù hợp với việc không quy định về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong Hiến pháp. Vì vậy, xin giữ quy định như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân.
2.7. Điều 113
- Có ý kiến đề nghị bỏ nội dung Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu vì đã được quy định trong chương về Quốc hội. Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “miễn nhiệm và cách chức” vào sau từ “bổ nhiệm” tại câu thứ 3 khoản 1 Điều này.
Tiếp thu các ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã bỏ quy định “Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu” tại khoản 1 Điều 113 để tránh trùng lặp với quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội tại khoản 7 Điều 75. Đồng thời, Ủy ban DTSĐHP đã bổ sung cụm từ “miễn nhiệm, cách chức” vào khoản 1 Điều này và thể hiện như sau: “Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định.”.
2.8. Điều 114
- Có hai loại ý kiến về nguyên tắc hoạt động độc lập của Kiểm sát viên như sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng khi hoạt động, Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng. Do vậy, đề nghị giữ như Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị khi hoạt động, Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật, quy định này nhằm tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.
Uỷ ban DTSĐHP nhận thấy, hiện nay tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương, khác với tổ chức và hoạt động của Tòa án. Do đó khi hoạt động Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, nhưng đồng thời, Kiểm sát viên vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Do vấn đề này còn có ý kiến khác nhau nên đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận, cho ý kiến.
- Có ý kiến đề nghị giữ lại quy định về Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp hiện hành và cần quy định vào Hiến pháp một số nhiệm vụ khác của Viện kiểm sát.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là những vấn đề cụ thể thuộc về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho tiếp tục nghiên cứu để quy định cụ thể trong luật.
XI. VỀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG (CHƯƠNG IX)
1. Về tên Chương IX
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành lấy tên Chương là “Chính quyền địa phương” như trong Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ tên Chương là “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” như Hiến pháp năm 1992 hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc đổi tên Chương thành “Chính quyền địa phương” sẽ làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Mặt khác, nội hàm của Chương này còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận và các đoàn thể xã hội ở địa phương. Do đó, đề nghị lấy tên Chương là “Chính quyền địa phương” như Dự thảo.
2. Về chính quyền địa phương
Về các vấn đề này, hiện có các loại ý kiến sau đây:
2.1. Về các đơn vị hành chính
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành giữ các quy định về các đơn vị hành chính như Điều 118 của Hiến pháp hiện hành và mô hình chính quyền địa phương được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính theo nguyên tắc ở đâu có cơ quan hành chính thì ở đó phải có cơ quan đại diện để giám sát.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị Hiến pháp cần có những quy định để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới căn bản mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Theo đó, cần xác định lại đơn vị hành chính và mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở từng đơn vị hành chính. Cụ thể là: đơn vị hành chính gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tương ứng với đơn vị hành chính thì có 2 cấp chính quyền là chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và chính quyền cơ sở (chính quyền thành phố, thị xã, thị trấn, xã...).
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị giữ nguyên quy định về đơn vị hành chính như Hiến pháp hiện hành nhưng chỉ tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và xã; còn đơn vị hành chính huyện, quận, phường thì chỉ có cơ quan quản lý hành chính.
2.2. Về tính chất Hội đồng nhân dân
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương như Hiến pháp năm 1992. Vì, Hội đồng nhân dân là cơ quan do nhân dân ở địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân, Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định tính chất quyền lực của Hội đồng nhân dân, vì dẫn đến cách hiểu về sự phân tán của quyền lực nhà nước, không phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta.
2.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân
- Loại ý kiến thứ nhất, tán thành với quy định của Dự thảo về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân để làm rõ tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung nguyên tắc hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp theo đúng chủ trương Đại hội X và XI của Đảng đã đề ra.
2.4. Về tên gọi của Ủy ban nhân dân
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ tên gọi là Ủy ban nhân dân như Hiến pháp hiện hành. Vì tên gọi Ủy ban nhân dân gắn liền với bản chất của Hội đồng nhân dân và phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị đổi tên Ủy ban nhân dân thành Ủy ban hành chính vì tên gọi này phù hợp với tính chất, thẩm quyền, chức năng và hoạt động của cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.
2.5. Về vị trí của Ủy ban nhân dân
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định “Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân”. Quy định này phù hợp với quan điểm và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thể hiện phân công rành mạch quyền lực của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ quy định “Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân”, vì Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính ở địa phương, nằm trong hệ thống hành pháp, không phải là cơ quan cấp dưới của Hội đồng nhân dân.
2.6. Về thành lập Ủy ban nhân dân
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định dự thảo, Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân thành lập.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị Ủy ban nhân dân do nhân dân địa phương trực tiếp bỏ phiếu bầu ra. Có ý kiến đề nghị Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập. Có ý kiến đề nghị quy định rõ tiêu chuẩn, thẩm quyền, trách nhiệm, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân và cán bộ chính quyền các cấp. Bổ sung quy định bỏ phiếu tín nhiệm đối với Ủy ban nhân dân.
2.7. Về đại biểu Hội đồng nhân dân
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định về đại biểu Hội đồng nhân dân tại Điều 117 và Điều 118 của Dự thảo. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể và nâng cao tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, nhằm tránh tình trạng một người vừa là đại biểu Hội đồng nhân dân, vừa là cán bộ, công chức nhà nước. Ý kiến khác đề nghị bỏ quy định đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, vì cần lưu ý tới chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có thể sẽ không được tổ chức theo các đơn vị hành chính mà được tổ chức theo khu vực và theo đó mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân sẽ thay đổi.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ quy định về đại biểu Hội đồng nhân dân như Hiến pháp hiện hành tránh những xáo trộn không cần thiết.
2.8. Về mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định tại Điều 119 của Dự thảo để thể hiện rõ mối quan hệ phối hợp công tác giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong việc thông báo, lắng nghe ý kiến, kiến nghị và phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định về vấn đề này trong Hiến pháp để để đảm bảo tính ngắn gọn, khái quát, tính ổn định lâu dài của Hiến pháp.
Về các vấn đề trên đây, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, mô hình chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay đang đứng trước thực tế cần yêu cầu đổi mới để phù hợp với tình hình mới, trình độ phát triển của đất nước. Đồng thời, nhiều đề án liên quan đến đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương hiện đang được triển khai nghiên cứu, thí điểm (Đề án thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Đề án về chính quyền đô thị...). Do chưa có kết luận từ tổng kết các đề án này nên Dự thảo chưa thiết kế được mô hình cụ thể của chính quyền địa phương. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án về mô hình chính quyền địa phương như sau:
Phương án 1: Giữ quy định về đơn vị hành chính và quy định khái quát về việc tổ chức chính quyền địa phương. Theo phương án này thì Chương IX gồm 2 điều, một điều quy định về đơn vị hành chính, một điều quy định về việc thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương do luật định. Cụ thể như sau:
“Điều 115 (quy định về đơn vị hành chính)
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường, xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính ở hải đảo do luật định.
Điều 115a (quy định về tổ chức chính quyền)
Việc thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính và phân cấp quản lý.”
Phương án 2:
Giữ nguyên quy định về đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương như Hiến pháp năm 1992 (theo phương án này thì Chương IX gồm 8 điều giữ nguyên các điều từ Điều 118 đến Điều 125 của Hiến pháp năm 1992).
Cụ thể: Điều 115 quy định về đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (giữ nguyên Điều 118); Điều 115a và Điều 115b, quy định về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân (giữ nguyên Điều 119 và Điều 120); Điều 115c và Điều 15d quy định về đại biểu Hội đồng nhân dân (giữ nguyên Điều 121và Điều 122); Điều 115đ và Điều 115e quy định về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân (giữ nguyên Điều 123 và Điều 124); Điều 115g quy định về mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương (giữ nguyên Điều 125).
XII. VỀ HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP, HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA, KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC (CHƯƠNG X)
1. Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120)
- Về việc thành lập Hội đồng Hiến pháp, hiện có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không nên thành lập Hội đồng Hiến pháp mà duy trì cơ chế bảo hiến hiện hành. Bởi vì, việc bổ sung thiết chế mới này trong khi chưa rõ vị trí, tổ chức, nguyên tắc hoạt động, cơ chế phối hợp với các cơ quan khác dễ dẫn đến sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, cồng kềnh bộ máy, không đạt hiệu quả.
Loại ý kiến thứ hai tán thành với sự cần thiết thành lập Hội đồng Hiến pháp, nhưng đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ, quyền hạn đối với thiết chế này cho phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Hiến pháp hiện hành đã xác định cơ chế bảo vệ Hiến pháp thông qua các quy định về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành cơ bản phù hợp với tính chất và đặc điểm mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước ta nhưng thực tiễn thời gian qua cho thấy cơ chế này chưa thực sự hiệu quả nên cần tiếp tục hoàn thiện.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy việc xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã được thể hiện trong các nghị quyết của Đại hội X, XI và Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI cũng chỉ rõ “nghiên cứu các mô hình cơ quan bảo vệ Hiến pháp phù hợp với thể chế chính trị và điều kiện cụ thể của nước ta”. Do đó, cùng với việc tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, Dự thảo đề xuất phương án thành lập Hội đồng Hiến pháp. Quy định về Hội đồng Hiến pháp như trong Dự thảo không mâu thuẫn với quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đồng thời thể hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án như sau:
Phương án 1: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Phương án 2: Thành lập Hội đồng Hiến pháp như trong Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị cần thành lập cơ quan bảo hiến độc lập (Tòa án Hiến pháp) có chức năng phán quyết về các vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ đặc điểm, mô hình tổ chức bộ máy và điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay thì việc thành lập Tòa án Hiến pháp với chức năng tài phán là chưa phù hợp.
2. Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 121)
Về việc Hội đồng bầu cử quốc gia, hiện có 3 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với việc quy định Hội đồng bầu cử quốc gia là một thiết chế hiến định độc lập như Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị cần cân nhắc việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia vì cho rằng bầu cử chỉ diễn ra 5 năm một lần.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị xác định tính chất hoạt động thường xuyên hay không thường xuyên của cơ quan này ngay trong Dự thảo.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, một trong những quan điểm chỉ đạo của lần sửa đổi Hiến pháp này là thể hiện sâu sắc hơn tư tưởng chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình. Trong bất cứ nhà nước nào thì quyền bầu cử cũng là quyền dân chủ trực tiếp quan trọng nhất, thể hiện tập trung nhất chủ quyền nhân dân. Việc bổ sung chế định Hội đồng bầu cử quốc gia là nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn quan điểm này, đồng thời để thể chế hóa một trong những quan điểm chỉ đạo Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ năm đặt ra trong quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”; “nghiên cứu, bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia”.
Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia thực chất là việc hiến định vai trò, địa vị pháp lý Hội đồng bầu cử trung ương hiện đang được quy định trong Luật bầu cử nhằm phát huy dân chủ, bảo đảm được tính khách quan trong công tác tổ chức bầu cử ở nước ta; đồng thời vẫn bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng thông qua cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, thông qua Đảng đoàn Quốc hội và thông qua việc lựa chọn nhân sự vào cơ quan này; khắc phục được một số hạn chế trong công tác bầu cử ở nước ta hiện nay, chẳng hạn như thành viên Hội đồng bầu cử đồng thời là người ứng cử, hoặc công tác kiểm tra tư cách đại biểu, giải quyết các khiếu nại trong quá trình bầu cử. Vì vậy, đề nghị giữ quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia như trong Dự thảo.
Về tính chất hoạt động, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do Luật định.
Với tinh thần đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị giữ quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
3. Về Kiểm toán Nhà nước (Điều 122)
Về Kiểm toán Nhà nước, hiện có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước; nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán, chức năng nhiệm vụ của Kiểm toán viên…
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định về Kiểm toán Nhà nước như dự thảo là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước hiện hành, đồng thời cũng phù hợp với tính chất hoạt động của Kiểm toán Nhà nước theo quy định của nhiều nước trên thế giới. Hiến pháp cũng chỉ nên ghi nhận địa vị pháp lý, nguyên tắc hoạt động của cơ quan Kiểm toán để làm căn cứ cho việc quy định các vấn đề cụ thể trong luật. Vì vậy, xin giữ quy định về Kiểm toán nhà nước như Dự thảo.
4. Về việc thành lập thêm một số cơ quan hiến định độc lập khác
Có ý kiến đề nghị thành lập thêm một số cơ quan hiến định độc lập khác như Ủy ban chống tham nhũng quốc gia, Ngân hàng Trung ương Hội đồng tư pháp quốc gia, Thanh tra Quốc hội, Ủy ban quốc gia về quyền con người để tăng thêm tính pháp quyền của Nhà nước ta, đồng thời bảo đảm hiệu quả thực hiện việc kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là những vấn đề mới cần được nghiên cứu kỹ, chưa nên quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Mặt khác, theo quy định tại Điều 75 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp thì trong trường hợp cần thiết Quốc hội vẫn có thẩm quyền thành lập các cơ quan khác. Vì vậy, đề nghị không bổ sung các thiết chế này vào trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
XIII. VỀ HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP (CHƯƠNG XI)
1. Về hiệu lực của Hiến pháp (Điều 123)
- Có ý kiến đề nghị làm rõ thế nào là hành vi vi phạm Hiến pháp được quy định tại đoạn 3 Điều 123 của Dự thảo để làm cơ sở cho việc xử lý đối với những hành vi này; có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định như tại Điều 146 hiện hành của Hiến pháp năm 1992.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hành vi vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra dưới nhiều dạng và trong các lĩnh vực khác nhau mà không thể liệt kê hết ra được. Trong điều kiện chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền thì việc tuân thủ Hiến pháp là một trong những yêu cầu cơ bản, quan trọng. Do đó, không chỉ đặt vấn đề mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với quy định của Hiến pháp như quy định hiện hành trong Hiến pháp năm 1992 mà còn phải đòi hỏi mọi hành vi vi phạm Hiến pháp cũng phải đều bị xử lý nghiêm, kể cả về phía cơ quan, cán bộ, công chức.
- Có ý kiến để nghị cần bổ sung quy định “Mọi văn bản quy định của các tổ chức chính trị - xã hội phải phù hợp với Hiến pháp”, “Nghiêm cấm việc xây dựng ban hành luật và các văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp”...
Về điểm này, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhận thấy, tại đoạn 2 Điều 123 Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân đã quy định rõ “Mọi văn bản pháp luật khác phải hợp với Hiến pháp”. Quy định này của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã bao hàm được đầy đủ các ý kiến đề nghị bổ sung nêu trên. Do đó, xin được giữ quy định này như trong Dự thảo.
2. Về việc sửa đổi Hiến pháp (Điều 124)
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy trình sửa đổi Hiến pháp như Điều 124 của Dự thảo, việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định vì trưng cầu ý dân về Hiến pháp là việc hệ trọng, cần phải được cân nhắc một cách toàn diện, phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng giai đoạn phát triển. Trong quy trình này đã nêu rõ là Ủy ban DTSĐHP phải tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp, như vậy nhân dân đã tham gia trực tiếp vào việc xây dựng Hiến pháp. Sau khi xem xét việc tiếp thu ý kiến của nhân dân, nếu Quốc hội thấy rằng cơ bản ý kiến của nhân dân đều đồng thuận thì quyết định không phải tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp để giảm bớt chí phí, tốn kém không cần thiết; trường hợp ngược lại thấy rằng, sự đồng thuận trong nhân dân chưa cao thì quyết định việc trưng cầu ý dân hoặc phúc quyết. Hơn nữa, kinh nghiệm của nhiều nước, trong đó có nhiều nước phát triển cho thấy không phải các bản Hiến pháp của các quốc gia đó đều đưa ra trưng cầu ý dân hoặc phúc quyết mà cũng còn tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và đặc thù của từng quốc gia. Đối với các nước không tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp không có nghĩa là Hiến pháp của họ không thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị Hiến pháp phải được trưng cầu ý dân (hoặc phúc quyết) sau khi được Quốc hội thông qua. Bởi vì, Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản, thể hiện chủ quyền của nhân dân, ý chí, nguyện vọng của nhân dân nên phải do nhân dân quyết định. Việc nhân dân quyết định Hiến pháp thông qua trưng cầu ý dân nhằm khẳng định quyền cao nhất của nhân dân là chủ thể của Hiến pháp, tạo nền tảng vững chắc cho hiệu lực của Hiến pháp, nâng cao ý thức và quyền làm chủ của nhân dân trong việc tôn trọng và thi hành Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy, nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Thực tiễn lập hiến ở Việt Nam cho thấy, nhân dân tham gia vào tất cả các công đoạn của quy trình lập hiến, từ việc tổng kết thi hành Hiến pháp đến việc xây dựng và tham gia ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội thông qua. Do đó, về thực chất, dự thảo sửa đổi Hiến pháp trước khi trình Quốc hội thông qua đã thể hiện ý chí và trí tuệ của nhân dân. Vì vậy, quy định Quốc hội thông qua Hiến pháp không trái với nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mặt khác, trưng cầu ý dân về Hiến pháp là việc hệ trọng nên cần phải được cân nhắc một cách toàn diện, phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng giai đoạn phát triển của nước ta. Do đó, để kết hợp giữa thẩm quyền của Quốc hội và quyền của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp, đề nghị quy định “Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.
- Có ý kiến đề nghị cần xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động sửa đổi Hiến pháp, các giai đoạn cụ thể của quy trình sửa đổi Hiến pháp ngay trong Hiến pháp, từ khâu đưa sáng kiến sửa đổi Hiến pháp; thủ tục soạn thảo, thảo luận, lấy ý kiến nhân dân, phê chuẩn Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc làm và sửa đổi Hiến pháp liên quan đến rất nhiều chủ thể khác nhau, với quy trình, thủ tục đồ sộ, phức tạp. Trong khuôn khổ của bản Hiến pháp chỉ nên đưa ra các quy định chung nhất về các chủ thể có quyền đề nghị làm và sửa đổi Hiến pháp, việc thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp và một số yêu cầu quan trọng của quy trình làm và sửa đổi Hiến pháp. Do đó, đề nghị cho giữ như quy định trong Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định giới hạn của việc làm và sửa đổi Hiến pháp theo hướng đối với một số nội dung, điều khoản cụ thể thì không được sửa đổi.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo Hiến pháp hiện hành, cũng như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp vẫn tiếp tục xác định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến mà cụ thể là làm và sửa đổi Hiến pháp. Hơn nữa, việc Quốc hội thực hiện quyền lập hiến không có nghĩa là việc xây dựng Hiến pháp do Quốc hội toàn quyền mà còn có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau, trong đó có cả việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp. Vì vậy, không nên giới hạn những vấn đề, điều khoản cụ thể của Hiến pháp không được sửa đổi.
Ngoài những vấn đề nêu trên, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, nghiên cứu để trình Quốc hội tiếp thu, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến trên cơ sở ý kiến góp ý của nhân dân ở tất cả các chương, điều, khoản để thể hiện trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
*
* *
Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý về các nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trên cơ sở ý kiến của nhân dân, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xin trân trọng báo cáo.
ỦY BAN DỰ THẢO
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Từ ngày 02/01/2013 đến hết ngày 31/3/2013 có 26.090.828 lượt ý kiến; từ 01/4/2013 đến 30/4/2013 có 448 lượt ý kiến. Số liệu cụ thể xin xem Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Báo cáocủa Ban Biên tập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 11/06/2013
Số hiệu:
Mô tả:
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Dự thảo HP) đã được công bố để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến. Tính đến hết ngày 30/4/2013, sau 4 tháng triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, theo báo cáo của các cơ quan, tổ chức hữu quan, đã có 26.091.276 lượt ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức và cá nhân về Dự thảo HP, với 28.149 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức
Tonghopykiennd_UBDTHP.doc
Báo cáo của UBTVQH tổng hợp ý kiến của các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH chuyên trách và VPQH về dự thảo Hiến pháp sửa đổi
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 11/06/2013
Số hiệu:410/BC-UBTVQH13
Mô tả:
Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội và Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo tổng hợp ý kiến của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách và Văn phòng Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây gọi là Dự thảo) như sau:
B.cao_UBTVQH.doc
Kính gửi: Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992,
Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội và Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo tổng hợp ý kiến của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách và Văn phòng Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây gọi là Dự thảo) như sau:
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VIỆC LẤY Ý KIẾN
Việc lấy ý kiến đóng góp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý quan trọng trong toàn Đảng, toàn dân, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước trong tình hình mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Văn phòng Quốc hội đã bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, triển khai nghiêm túc việc nghiên cứu, đóng góp ý kiến vào Dự thảo với tinh thần trách nhiệm cao, có chất lượng.
Hình thức lấy ý kiến về Dự thảo phong phú, khoa học thông qua tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, các bài viết, lấy phiếu ý kiến… với sự tham gia của các đại biểu Quốc hội khóa XIII, một số đại biểu Quốc hội chuyên trách các khóa trước, đại diện các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà hoạt động thực tiễn thuộc các lĩnh vực khác nhau, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong Văn phòng Quốc hội. Việc tập hợp, tổng hợp ý kiến góp ý đối với Dự thảo được tiến hành nghiêm túc, bảo đảm mọi ý kiến góp ý đều được chuyển đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để nghiên cứu, tiếp thu.
Đến nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nhận được 98 ý kiến góp ý của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách và Văn phòng Quốc hội (trong đó có 14 cơ quan, 84 đại biểu Quốc hội chuyên trách). Các ý kiến đều cơ bản tán thành với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, các quan điểm chỉ đạo và đóng góp nhiều ý kiến vào các nội dung của Dự thảo.
II. NHỮNG Ý KIẾN CHUNG VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Có 39 ý kiến góp ý về các vấn đề chung của Dự thảo (trong đó có 13 ý kiến ở cơ quan, 26 ý kiến của cá nhân), cụ thể là:
1. Về phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
- Đánh giá cao nỗ lực của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong quá trình xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và cho rằng Dự thảo có nhiều nội dung đổi mới quan trọng, đã thể chế hóa khá toàn diện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và các Nghị quyết của Đảng từ sau Đại hội XI. Phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp toàn diện, phù hợp với kết quả tổng kết thành tựu 25 năm đổi mới đất nước và thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Dự thảo đã kế thừa nội dung các bản Hiến pháp trước đó, khẳng định và làm rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội và có bước phát triển trong việc tiếp thu tư tưởng xây dựng hiến pháp hiện đại như các quy định về quyền lập hiến, phân công và kiểm soát quyền lực, chế độ bảo hiến, quyền con người, quyền công dân (11/39 ý kiến).
- Dự thảo tuy đã được biên tập công phu nhưng xét trên tổng thể cần tiếp tục được đầu tư hoàn thiện trên cơ sở nghiên cứu tiếp thu ý kiến tham gia của nhân dân. Mục tiêu của sửa đổi Hiến pháp phải quán triệt định hướng của Đảng và các yêu cầu đạt được của một văn bản chính trị - pháp lý cao nhất; cần tiếp tục nghiên cứu và thể chế hóa đầy đủ hơn Cương lĩnh 2011 cũng như thể hiện ở mức độ hợp lý hơn trong Dự thảo (01/39 ý kiến).
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa có những quy định sửa đổi mang tính đột phá (01/39 ý kiến).
- Những vấn đề về nguyên tắc cơ bản đã được Hiến pháp hiện hành khẳng định, đã đi vào cuộc sống và được thực tiễn kiểm nghiệm thì không nên thay đổi, nhất là Chương Chế độ chính trị vì Hiến pháp là đạo luật gốc nên khi sửa đổi các quan điểm tư tưởng đã được pháp điển hóa cần phải rất thận trọng, chính xác. Vì vậy, trong sửa đổi Hiến pháp lần này, đề nghị tập trung vào sửa đổi, giải trình làm rõ những đặc thù của đường lối phát triển xã hội Việt Nam như vấn đề dân chủ, nhân quyền ở nước ta, vai trò lãnh đạo của Đảng, đa nguyên đa Đảng, tôn giáo và những vấn đề bức xúc, nổi cộm nếu không được giải quyết có nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ chính trị, hiệu quả quản lý của nhà nước (01/39 ý kiến).
- Một số điểm mới đưa vào Dự thảo nhưng chưa được thực tiễn kiểm nghiệm, chưa đủ căn cứ khoa học, chưa tạo được sự thống nhất (như chương về chính quyền địa phương) (02/39 ý kiến).
- Các chế định trong Hiến pháp năm 1992 cho đến nay vẫn đang phù hợp, qua tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 cho thấy một số chế định chưa được thực thi hiệu quả là do việc thực hiện chưa nghiêm chứ không hẳn là bất cập từ quy định của Hiến pháp. Vì vậy, cần xem xét có phải tại một số nội dung trong Hiến pháp không thực hiện được hay do không thực hiện nghiêm chỉnh để có sự sửa đổi, bổ sung cho hợp lý (01/39 ý kiến).
- Đề nghị đối với một số nội dung mang tính nguyên tắc, trụ cột, không thể thay đổi thì không nên đặt vấn đề sửa đổi, bổ sung, cụ thể là: về chính thể và sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 1); về vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4); về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Quốc khánh (Điều 13); về Thủ đô (Điều 14) (01/39 ý kiến).
- Đề nghị bám sát tư tưởng Hồ Chí Minh về: Xây dựng bộ máy Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; phát huy dân chủ, tôn trọng nhân dân; cán bộ, công chức là công bộc, tận tụy phục vụ nhân dân… Kế thừa Hiến pháp năm 1946 trong nhiều vấn đề về nội dung, hình thức trình bày, kỹ thuật lập hiến (01/39 ý kiến).
- Cần xác định được mục tiêu yêu cầu của Bản hiến pháp sửa đổi lần này là Hiến pháp của thời kỳ xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (01/39 ý kiến).
2. Về tên gọi, bố cục của Dự thảo
Về tên gọi
- Tán thành tên gọi của Dự thảo, bởi vì những vấn đề cốt lõi nhất của một bản Hiến pháp đều được kế thừa, phát triển từ Hiến pháp năm 1992. Điểm khác nhau cơ bản giữa bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này và Hiến pháp năm 1992 là nó được hoàn thiện hơn về mọi phương diện để phúc đáp một cách toàn diện yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam (04/39 ý kiến).
- Đề nghị lấy tên là Hiến pháp năm 2013 vì đã được sửa đổi căn bản (06/39 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc tên của bản Hiến pháp lần này là Hiến pháp năm 2013 hay Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) bảo đảm ngắn gọn, rõ ràng và thể hiện những quan điểm về chủ trương, đường lối của Đảng trong việc sửa đổi Hiến pháp (01/39 ý kiến).
- Đề nghị làm rõ mức độ nội dung dự thảo sửa đổi, có bổ sung để cân nhắc thêm về tên gọi cho phù hợp với nội dung (01/39 ý kiến).
Về bố cục
- Dự thảo có bố cục lôgíc, chặt chẽ, thể hiện được những nguyên tắc cơ bản như khẳng định bản chất của Nhà nước ta, cơ cấu hệ thống chính trị, mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quyền làm chủ của nhân dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; cụ thể hơn về quyền con người, quyền công dân, việc phân công thực hiện quyền lực nhà nước… (05/39 ý kiến).
- Cơ cấu chương, điều nên sắp xếp theo thứ tự: chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Chính quyền địa phương; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Bảo vệ tổ quốc; Chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (01/39 ý kiến); đề nghị tách Chương VIII (Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân) thành hai chương để thể hiện tính độc lập của hai hệ thống cơ quan nhà nước (01/39 ý kiến).
- Cần xây dựng một Chương riêng quy định về Nhà nước tạo điều kiện cho hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là các chính sách đối với thanh niên, phụ nữ, giai cấp công nhân, mặt trận và các tổ chức thành viên (01/39 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung một điều quy định “Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật cao nhất của nước ta. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp, các quy định trái với Hiến pháp đều không có hiệu lực” (01/39 ý kiến).
3. Về kỹ thuật lập hiến
- Dự thảo về cơ bản đã đảm bảo được kỹ thuật lập hiến theo hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc, các nội dung được thể hiện khái quát, cô đọng, súc tích (02/39 ý kiến).
- Cần thống nhất cách sử dụng thuật ngữ cho chuẩn, tránh cách dùng văn nói, hạn chế dùng ngôn từ văn chương, cách diễn đạt theo chỉ thị, nghị quyết, nghiêng về giải thích... (8/39 ý kiến).
- Một số quy định quá ngắn gọn, đơn giản có thể dẫn đến việc khó thực hiện trên thực tế (như quy định tại Điều 21 "Mọi người có quyền sống" hay Điều 50 "Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế"). Ngược lại, một số nội dung lại được quy định quá chi tiết, chưa phù hợp với yêu cầu khái quát, cô đọng của Hiến pháp; việc gộp các điều, khoản trong một số trường hợp còn khiên cưỡng;… Do đó, đề nghị trước hết cần phải làm rõ nguyên tắc về kỹ thuật trình bày Hiến pháp, để qua đó xác định được những nội dung gì nhất thiết cần phải quy định; những nội dung gì cần phải lược bớt để quy định ở các đạo luật khác sao cho các quy định phải mang tính khái quát, ổn định cao, mang tính nguyên tắc định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật (02/39 ý kiến).
- Bố cục của Dự thảo phải chặt chẽ, lô-gic, không giải thích dài dòng; nội dung phải chắt lọc, toàn diện, khả thi; ngôn ngữ phải trong sáng, phổ thông, chính xác, mang tính pháp lý và sức khái quát cao; kỹ thuật văn bản phải chặt chẽ; quy định phải có độ mở để luật hóa được dễ, không bị bó hẹp (01/39 ý kiến).
- Dự thảo sử dụng chưa thống nhất các thuật ngữ có nội dung giống nhau như: “theo pháp luật” (Điều 11, 12…); “theo quy định của pháp luật” (Điều 23, 24…); “theo quy định của luật” (Điều 58…); “nhà nước bảo hộ” và “pháp luật bảo hộ”; “nghiêm cấm” và “không được”; “lực lượng vũ trang” và “các lực lượng vũ trang”; "chỗ ở," "nhà ở," "nơi ở"..., các cụm từ “nhân dân Việt Nam”, “nhân dân ta”, “nước ta”, “nước Việt Nam”, “công dân”, “mọi người”... (04/39 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc việc sử dụng các cụm từ “của dân, do dân và vì dân” “tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”..., vì các cụm từ này lặp lại nhiều lần trong Hiến pháp; một số cụm từ dùng không đúng thuật ngữ, từ điển tiếng Việt như “bãi bỏ bộ, ngành”, “bãi bỏ văn bản của bộ, ngành”, “giải thể bộ”, “nhân dân bầu cử Hội đồng nhân dân”, “cử tri bầu Hội đồng nhân dân” (01/39 ý kiến); cân nhắc việc sử dụng cụm từ “xã hội chủ nghĩa” và các chủ thể gắn liền với cụm từ này sao cho phù hợp vì nội hàm khái niệm này chưa rõ, không những đối với mọi người dân mà ngay cả trong các từ điển Tiếng Việt cũng giải nghĩa không thống nhất, thậm chí có sự khác biệt lớn (01/39 ý kiến).
- Đề nghị thống nhất, nhất quán dùng thuật ngữ “thực hiện” thay cho các kiểu dùng từ “chấp hành”, “tuân thủ”, “thi hành” Hiến pháp và pháp luật, để phù hợp với Lý luận khoa học pháp lý (01/39 ý kiến).
- Đề nghị rà soát lại nội dung các Điều, khoản trong Dự thảo để bảo đảm tính chất của Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước - Hiến pháp không chỉ đơn thuần là những quy định, các quy phạm pháp luật mà còn là tuyên ngôn chính trị của Nhà nước về kinh tế, xã hội, chính trị và tổ chức bộ máy Nhà nước (01/39 ý kiến).
- Dự thảo tiếp tục hiến định vai trò của Đảng bằng 1 điều luật riêng, do vậy không cần nói về vai trò của Đảng ở các điều luật khác để tránh trùng lặp (01/39 ý kiến).
- Nên đặt tên cho các điều (01/39 ý kiến).
III. NHỮNG GÓP Ý CỤ THỂ
1. Về Lời nói đầu
Tổng quan, đánh giá chung
- Có 44 ý kiến góp ý về Lời nói đầu (trong đó có 11 ý kiến ở cơ quan, 33 ý kiến của cá nhân).
- Các ý kiến góp ý tập trung đề nghị viết lại Lời nói đầu ngắn gọn, súc tích hơn; chỉnh sửa lại câu chữ cho chính xác hơn.
Những góp ý chung về Lời nói đầu:
- Tán thành với nội dung của Lời nói đầu, vì đã bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của nhân dân đối với Hiến pháp cũng như thể hiện được đường lối đối nội, đối ngoại và định hướng phát triển của đất nước ta trong thời kỳ mới (01/44 ý kiến).
- Đề nghị viết lại Lời nói đầu cho ngắn gọn và súc tích hơn, bảo đảm văn phong pháp lý; những câu chữ mang tính liệt kê, có mức độ chính xác chưa cao hoặc trùng lắp nên viết lại hoặc loại bỏ bớt (19/44 ý kiến).
- Cần tiếp tục nghiên cứu thể hiện Lời nói đầu mang tính chất hiệu triệu, động viên toàn dân hơn nữa; khẳng định mục đích, ý nghĩa, quan điểm sửa đổi; thể hiện rõ truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp của dân tộc; tiếp cận với chủ trương đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế để phát triển đất nước trong giai đoạn mới; khẳng định chủ quyền quốc gia và dân tộc Việt Nam văn hiến; yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong hiện tại và tương lai; lý do sửa đổi Hiến pháp (03/44 ý kiến).
- Cần nghiên cứu viết gọn lại theo hướng chỉ rõ các mốc quan trọng của quá trình lập hiến, vai trò, nhiệm vụ của Hiến pháp, nguyên tắc và mục đích bao trùm của Hiến pháp lần này, nêu bật truyền thống yêu nước của dân tộc ta (01/44 ý kiến).
- Đề nghị viết lại cho khái quát hơn, thể hiện được 4 nội dung chính: truyền thống lịch sử văn hiến của dân tộc; sự lãnh đạo của Đảng đối với những thành tựu dân tộc đã đạt được từ khi có Đảng; ghi nhận ý nghĩa của các bản Hiến pháp đối với sự phát triển của dân tộc qua các thời kỳ; mục đích của bản Hiến pháp sửa đổi lần này đối với sự phát triển của đất nước Việt Nam với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; có thể sửa lại như sau: “Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hi sinh đánh đổ chế độ thực dân phong kiến và đế quốc, xây dựng đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp năm 1992, mỗi bản Hiến pháp đều có quyết định sự phát triển của đất nước trong mỗi thời kỳ, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước. Nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng xây dựng và thi hành Hiến pháp với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị thể hiện Lời nói đầu như sau: “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nền văn hiến Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với khát vọng độc lập, tự do, bằng tinh thần tự lực, tự cường, cùng với sự giúp đỡ quý báu của bạn bè và nhân dân thế giới, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế; xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới giành được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992. Mỗi bản Hiến pháp đều ghi nhận những thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân Việt Nam đã đạt được, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử. Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hiến pháp năm 1992 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Thực hiện chủ quyền nhân dân, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với sự góp ý của toàn thể nhân dân Việt Nam xây dựng và thi hành Hiến pháp năm 1992 sửa đổi với các nội dung sau đây.” (01/44 ý kiến).
- Lời nói đầu Hiến pháp cần khái quát cô đọng, viết ngắn gọn, không nên kể lể về lịch sử dài dòng, chỉ nên viết: “Việt Nam một dân tộc anh hùng, có truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất trong dựng nước và giữ nước.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam lại viết nên những trang sử hào hùng, thành lập nên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Kể từ đó đến nay đã có bốn bản Hiến pháp ra đời và phù hợp cho mỗi thời kỳ cách mạng, làm nền tảng quan trọng cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát triển toàn diện, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tạo đà cho sự phát triển bền vững.
Trước yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi sẽ là cơ sở, định hướng tạo đà quan trọng để Việt Nam thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (01/44 ý kiến).
- Đề xuất nội dung của Lời nói đầu như sau:“Nối tiếp truyền thống mấy nghìn năm bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã xây dựng và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân, xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam, nay tiếp tục xây dựng một xã hội chủ nghĩa, một xã hội dân chủ pháp quyền, công bằng, văn minh, vì tự do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai. Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam quyết định xây dựng và ban hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhằm khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia, phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng và thi hành Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.”(01/44 ý kiến).
- Đề nghị viết gọn lại Lời nói đầu như sau:
“Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh, làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, giành được những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Mỗi bản hiến pháp đều thể hiện chủ quyền nhân dân và ghi nhận những thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân Việt Nam đã đạt được, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước.
Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền của quốc gia; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; thực hiện công bằng xã hội; tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam, với tuyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, xây dựng và thi hành Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (01/44 ý kiến).
- Lời nói đầu cần viết ngắn gọn hơn, chỉ nên cấu trúc thành 2 câu. Câu 1 xác định rõ mục tiêu của Hiến pháp sửa đổi này; câu 2 xác định rõ chủ thể của Hiến pháp là nhân dân Việt Nam, thông qua cơ quan đại diện cao nhất là Quốc hội soạn thảo và quyết định thông qua bản Hiến pháp này (01/44 ý kiến).
- Đề nghị chia nội dung Lời nói đầu làm hai giai đoạn: Một là từ khi dựng nước, giữ nước. Hai là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (01/44 ý kiến).
- Đề nghị chỉ nêu mốc lịch sử quan trọng từ năm 1930 và thành lập nước năm 1945, các đoạn sau chỉ khái quát chung. Đoạn về khát vọng độc lập cần viết gọn hơn và đi thẳng vào vấn đề. Lời nói đầu không nên giới thiệu bố cục mà cần thể hiện để toát lên mục đích, tư tưởng, tinh thần, giá trị của những nguyên tắc trong Hiến pháp (02/44 ý kiến).
- Trong Lời nói đầu chưa đề cập đến giai đoạn xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước giàu mạnh (từ năm 1975 đến nay). Do vậy, đề nghị nghiên cứu để diễn đạt đầy đủ các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Hơn nữa, đất nước đang trong thời kỳ quá độ mà thời kỳ này còn khá dài, Dự thảo cũng nên nêu bản chất quan trọng này (01/44 ý kiến).
- Lời nói đầu chỉ nên liệt kê Hiến pháp 1946, 1959, 1980, bởi vì Hiến pháp hiện hành 1992 vẫn còn hiệu lực và đây chỉ là bản Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp 1992 chứ không phải Hiến pháp mới (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung “sửa đổi Hiến pháp lần này tiếp tục khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia” vào Lời nói đầu (01/44 ý kiến).
- Đề nghị thể hiện Lời nói đầu rõ hơn tư tưởng chủ quyền nhân dân. Trong Dự thảo, nhân dân chỉ mới được nhắc đến với tư cách chủ thể đối với Hiến pháp ở khổ cuối cùng của Hiến pháp, nhưng với tư cách là người thực hiện Hiến pháp. Đây là vấn đề cần phải được nghiên cứu, cân nhắc kỹ hơn (01/44 ý kiến).
- Lời nói đầu hơi nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến thắng của dân tộc ta, dẫn đến không đảm bảo tính lịch sử, công bằng (01/44 ý kiến).
- Cần khẳng định trong Lời nói đầu “Nhân dân với quyền lập hiến của mình ban hành Hiến pháp này” (01/44 ý kiến).
Những góp ý cụ thể:
Đoạn 1
- Cách diễn đạt chưa thống nhất, vì đoạn đầu không có “truyền thống yêu nước”, nhưng đến đoạn sau lại có “truyền thống yêu nước” (01/44 ý kiến). Đề nghị bổ sung từ “yêu nước” sau từ “truyền thống” vì trong số các truyền thống quý báu, tốt đẹp của dân tộc Việt Nam có “truyền thống yêu nước nồng nàn” là nội dung quan trọng hàng đầu (03/44 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “nhân dân” thành “các thế hệ người Việt Nam” cho rõ và bao quát hơn (02/44 ý kiến); thay từ “chiến đấu” bằng từ “đấu tranh” (02/44 ý kiến); thay từ “mấy” bằng từ “hàng” (01/44 ý kiến).
- Thay cụm từ “trải qua mấy nghìn năm lịch sử” bằng cụm từ “trải qua hơn 4000 năm lịch sử” vì thời gian lịch sử của đất nước đã được ghi chép rõ trong sử liệu (01/44 ý kiến). Cũng có ý kiến đồng tình giữ lại cụm từ “mấy nghìn năm lịch sử” cho phù hợp với thực tiễn lịch sử (01/44 ý kiến).
- Dự thảo dùng cụm từ “Dựng nước và giữ nước” là chưa đầy đủ, vì hàng nghìn năm nay, nhân dân ta không chỉ dựng nước và giữ nước mà còn anh dũng, sáng tạo và đoàn kết quyết tâm xây dựng đất nước hùng cường sánh vai cùng các cường quốc năm châu (01/44 ý kiến).
Đoạn 2
- Đề nghị nêu khái quát theo phương án: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh làm cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, làm nghĩa vụ quốc tế; xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới, giành được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung các cụm từ: “Kế thừa truyền thống trọng dân, vì dân, dân là gốc của ông cha ta trong lịch sử”, “lãnh đạo”, “Từ đó đến nay, Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo nhân dân trải qua các cuộc kháng chiến kiến quốc”…vào đoạn này, đồng thời sắp xếp lại nhằm khẳng định truyền thống của cha ông và vai trò lịch sử lãnh đạo của Đảng ta trong gần một thế kỷ qua. Cụ thể là: “Kế thừa truyền thống trọng dân, vì dân, dân là gốc của ông cha ta trong lịch sử, từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 02/9/1945. Từ đó đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân trải qua các cuộc kháng chiến kiến quốc lâu dài và gian khổ, tự lực tự cường; với sự giúp đỡ của bạn bè và nhân dân thế giới; giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chiến thắng ngoại xâm, thống nhất đất nước; đổi mới, hội nhập quốc tế và ngày càng đạt được nhiều thành tựu lớn theo định hướng XHCN” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc không nên khẳng định “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mà nên giữ lại như Hiến pháp năm 1992 “cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, vì giai đoạn này vẫn đang trong thời kỳ quá độ (01/44 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “giành được” bằng cụm từ “đạt được” trong đoạn “…xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới, giành được những thành tựu quan trọng…” cho chuẩn xác hơn (02/44 ý kiến); thay cụm từ “chiến tranh bảo vệ Tổ quốc” bằng cụm từ “chiến tranh chống xâm lược”; bổ sung cụm từ “kiên cường bảo vệ Tổ quốc” vào sau cụm từ “và làm nghĩa vụ quốc tế” (01/44 ý kiến); bổ sung đoạn “Ngày 2/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” vào sau đoạn “nhân dân ta đã giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước” (02/44 ý kiến).
- Đề nghị đưa câu cuối đoạn 2 “… và tiến hành công cuộc đổi mới, giành được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.” xuống cuối đoạn 3 và giải thích thuật ngữ “chủ quyền nhân dân” để có cách hiểu thống nhất (01/44 ý kiến).
Đoạn 3
- Đề nghị bổ sung một số cụm từ và sắp xếp lại đoạn này, nhằm khẳng định vai trò của các bản Hiến pháp trong mỗi thời kỳ lịch sử như sau: “Hiến pháp là đạo luật gốc, cơ bản của hệ thống pháp luật quốc gia. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), tạo cơ sở chính trị pháp lý, nền tảng vững chắc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong mỗi thời kỳ lịch sử” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu thể hiện lại nội dung trong đoạn “Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992” cho phù hợp vì Hiến pháp năm 1992 là giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước chứ không phải là giai đoạn kháng chiến kiến quốc (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập” vào sau cụm từ “kháng chiến kiến quốc” cho phù hợp với tư tưởng của đoạn này là lược sử Hiến pháp nước ta, theo đó Hiến pháp mới chỉ có từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (01/44 ý kiến); thay từ “nước ta” bằng từ “Việt Nam” và dùng từ “Việt Nam” nhất quán trong Hiến pháp (02/44 ý kiến).
- Đề nghị sắp xếp lại nội dung của đoạn 3 và đoạn 4 cho hợp lý, vì nội dung có ý nghĩa khẳng định vai trò của các bản Hiến pháp nhưng tách ra thành hai đoạn nên Đoạn 3 không còn ý nghĩa và Đoạn 4 mất tính lịch sử (01/44 ý kiến).
Đoạn 4
- Đề nghị thể hiện lại thành: “Thực hiện chủ quyền nhân dân, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định…” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị viết khái quát, ngắn gọn hơn theo phương án: “Hiến pháp này thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia; phát huy dân chủ... và hợp tác với các nước trên thế giới” (01/44 ý kiến).
- Ở đầu đoạn, nên cân nhắc việc sắp xếp các trạng ngữ theo thứ tự hợp lý hơn, có thể viết lại là: “(1) Thực hiện chủ quyền nhân dân, (2) dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, (3) thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp…” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung đầy đủ mệnh đề sau: “… thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam” để thể hiện chính xác hơn (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung một số cụm từ như: “Thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bổ sung phát triển năm 2011 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam” để chính xác hơn (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bỏ bớt các cụm từ “Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh” (vì Điều 4 đã có); chưa nên sử dụng cụm từ “thực hiện chủ quyền nhân dân” (vì khái niệm quá mới; thực tế từ trước đến nay nói về quyền làm chủ của nhân dân thì các văn kiện đều sử dụng từ “phát huy dân chủ” - dân làm chủ, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân); bổ sung cụm từ “bảo vệ chủ quyền quốc gia”, “phát triển kinh tế - xã hội bền vững”… sắp xếp lại cho ngắn gọn và đủ ý hơn như sau: “Tiếp tục thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định và phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo vệ chủ quyền quốc gia; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phát triển mọi mặt kinh tế- xã hội bền vững; duy trì phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi lại thành: “Nhân dân Việt Nam nguyện một lòng xây dựng một nước Việt Nam nước mạnh, dân giàu, công bằng, dân chủ, văn minh” để không lặp ý với đoạn 1; khẳng định ước nguyện muôn đời của nhân dân ta trong Hiến pháp, lấy đó làm kim chỉ nam và tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của Hiến pháp; hơn nữa nội dung về ý nguyện sửa đổi Hiến pháp của nhân dân ta không nên đưa vào là một nội dung quy định Hiến pháp; trong khi đó lại thiếu nội dung về nguyện vọng cơ bản của nhân dân Việt Nam (01/44 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc thêm về đoạn 4, nhất là về đoạn: “thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, vì vừa bó hẹp về không gian, thời gian, vừa có phần mâu thuẫn tên gọi của Nhà nước được khẳng định trong dự thảo - Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” vào sau cụm từ “... thực hiện chủ quyền nhân dân” (01/44 ý kiến); bỏ cụm từ “xây dựng” và “hoàn thiện” trong đoạn “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền…”; bỏ cụm từ “dưới ánh sáng”, “thực hiện chủ quyền nhân dân” (01/44 ý kiến); bỏ cụm từ “chủ nghĩa Mác - Lê nin”, chỉ cần ghi “dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh…” vì trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê nin (01/44 ý kiến); bổ sung từ “với truyền thống yêu nước” trước cụm từ “…sức mạnh đại đoàn kết”; bổ sung cụm từ “sự lãnh đạo của Đảng” vào sau cụm từ “Hiến pháp này tiếp tục khẳng định” (01/44 ý kiến); bổ sung từ “dân chủ” vào đoạn “…thực hiện công bằng xã hội” cho bao quát hơn; bổ sung cụm từ “với truyền thống yêu nước” trước cụm từ “phát huy dân chủ” (01/44 ý kiến); đề nghị không sử dụng động từ “tiếp tục”(01/44 ý kiến).
- Đề nghị khẳng định trong đoạn này: “trong giai đoạn mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động là Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh… tiếp tục khẳng định mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… công bằng xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…” (01/44 ý kiến).
- Theo Từ điển Tiếng Việt, danh từ “ý chí” có nghĩa là “khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình khắc phục khó khăn nhằm đạt mục đích đó”. Trong ngữ cảnh, nội hàm cụm từ “ý chí của nhân dân” chưa làm rõ được “mục đích cho hành động và hướng hoạt động” của chủ thể “nhân dân” là gì, do đó, mệnh đề “Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí của nhân dân” chưa rõ nghĩa (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “hoàn thiện” trước đoạn “Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa…” do nước ta có đủ tiêu chí của một Nhà nước pháp quyền (01/44 ý kiến).
Đoạn 5
- Đề nghị thể hiện lại cho rõ hơn các đặc tính của nhân dân Việt Nam trong xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, không chỉ yêu nước, đoàn kết như dự thảo đã nêu mà con người Việt Nam phải thế hiện trí tuệ, trách nhiệm của mình đối với đất nước. Có thể diễn đạt như sau: “Nhân dân Việt Nam có nghĩa vụ, trách nhiệm xây dựng và nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (01/44 ý kiến).
- Việc sử dụng mệnh đề “Nhân dân… xây dựng… Hiến pháp” trong mối liên hệ với khoản 4 Điều 124 của Dự thảo chưa bảo đảm tính chỉnh thể chặt chẽ. Đoạn này quy định nhân dân là chủ thể “xây dựng” Hiến pháp thì nhân dân phải là chủ thể “làm ra”, “thông qua”, “ban hành” Hiến pháp, do đó quy định Hiến pháp được Quốc hội thông qua là chưa lô-gíc (01/44 ý kiến).
- Đề nghị đoạn cuối thể hiện lại như sau “nhân dân Việt Nam có trách nhiệm và nghĩa vụ đoàn kết, quyết tâm xây dựng và thực hiện Hiến pháp” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “xây dựng” trong đoạn “nhân dân Việt Nam xây dựng và thi hành Hiến pháp” vì Hiến pháp đã được hoàn thành, do đó nhân dân chỉ “thi hành” mà thôi (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “một lòng”; bổ sung từ “phúc quyết”; thay từ “thi hành” bằng “thực hiện”, sửa đổi như sau: “Nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước, đoàn kết, xây dựng, phúc quyết và thực hiện Hiến pháp này, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (01/44 ý kiến).
- Đề nghị bỏ đoạn này (02/44 ý kiến).
2. Về Chương I, Chế độ chính trị
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Có 93 ý kiến góp ý về Chương I.
- Các ý kiến góp ý tập trung vào các điều 1, 2, 4, 5, 9, 10, 12, 13.
- Về tên chương:
+ Tán thành với tên chương, nội dung chương (03/93 ý kiến)
+ Đề nghị đổi tên chương là “Nguyên tắc cơ bản” (01/93 ý kiến)
+ Đề nghị sửa đổi tên chương thành “Những quy định chung” hoặc giữ nguyên như Hiến pháp hiện hành là “Nước CHXHCN Việt Nam - Chế độ chính trị”, vì những quy định về quốc kỳ, quốc ca, quốc khánh, thủ đô cũng chính là những vấn đề cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (01/93 ý kiến).
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Dự thảo cơ bản tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình chế độ chính trị theo Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 1992 và quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, đồng thời đã làm rõ hơn về một số vấn đề quan trọng liên quan đến thể chế chính trị của Nhà nước ta, đặc biệt là việc bổ sung và phát triển nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” là nguyên tắc quan trọng của Nhà nước pháp quyền tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực; làm rõ hơn, đầy đủ hơn về bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (02/93 ý kiến).
+ Các nội dung được thể hiện ở Chương này cần được sắp xếp với nhau một cách hợp lý hơn, bảo đảm sự gắn kết hơn về mặt nội dung. Chẳng hạn, về nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân được quy định ở Điều 2, nhưng cách thức sử dụng quyền lực thì lại được quy định ở Điều 6, sau cả những quy định về chính sách đoàn kết dân tộc. Điều 2 của Dự thảo Hiến pháp cũng quy định về nguyên tắc Nhà nước pháp quyền nhưng một trong những nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước tuân thủ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật lại được quy định tại Điều 8 (01/93 ý kiến).
+ Nội dung trình tự sắp xếp nhiều chỗ còn trùng lặp, còn thiếu sự nhất quán giữa nội dung và hình thức thể hiện, chưa bảo đảm tính thống nhất, khoa học. Những điều quy định về Nhà nước, nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước quy định lên phía trên (01/93 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định về tên nước; về vấn đề dân tộc (cho tương xứng với vai trò của vấn đề dân tộc, nhất là trên cơ sở kinh nghiệm về vấn đề này trong thời gian qua); về đồng tiền quốc gia (01/93 ý kiến).
+ Cần bổ sung các phương diện thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, theo đó đề nghị tách chế định phúc quyết Hiến pháp độc lập với chế định trưng cầu ý dân (tương tự như bản Hiến pháp năm 1946), như vậy phương diện thể hiện quyền dân chủ trực tiếp sẽ bao gồm phúc quyết Hiến pháp, trưng cầu ý dân, bầu trực tiếp một số chức danh trong bộ máy Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội… (01/93 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định quyền phúc quyết của công dân, quyền của người chưa thành niên, quyền của người khuyết tật trong Chương này. Đề nghị sửa đổi, bổ sung các điều 15, 24, 26 quy định về quyền con người, quyền công dân, các quyền tự do đi lại, cư trú, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, được nhà nước bảo đảm theo Hiến pháp và luật (01/93 ý kiến).
+ Ghép Điều 2, Điều 3 thành một điều và đưa Khoản 4 Điều 5, Khoản 1 Điều 8 lên thành một điều, đưa Điều 11 lên Điều 3, đưa Điều 12 đưa lên trên Điều 9 (01/93 ý kiến).
Phần thứ hai: những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 1 (18 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 13 ý kiến cá nhân)
- Tán thành với kết cấu và nội dung sửa đổi như Dự thảo (01/18 ý kiến).
- Đề nghị giữ như Hiến pháp năm 1992 (02/18 ý kiến); giữ nguyên Điều 1 của Hiến pháp 1992, nếu sửa thì nên chuyển cụm từ “dân chủ” ra sau cụm từ “độc lập” (01/18 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu thể hiện Điều này để bảo đảm tính khả thi, tránh tính hiệu ứng khác chiều khi được ban hành (01/18 ý kiến).
- Đề nghị đổi tên nước, đưa nội dung quy định về các thông tin cơ bản của nước ta (tương tự như lý lịch của một con người) bao gồm: tên nước, chế độ chính trị, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, ngày quốc khánh, thủ đô; cụ thể như sau:
“Điều 1
1. Tên nước Việt Nam đầy đủ là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Nước Việt Nam là một nước dân chủ, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.
3. Nước Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nhằm thực hiện mục tiêu: nước mạnh, dân giàu, công bằng, dân chủ, văn minh.
4. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có:
a. Quốc kỳ hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
b. Quốc huy hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
c. Quốc ca là nhạc và lời của bài “Tiến quân ca”.
d. Ngày Quốc khánh là Ngày tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945.
đ. Thủ đô là Hà Nội.” (01/18 ý kiến).
- Đề nghị ghi nhận tên nước là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (01/18 ý kiến).
- Đề nghị lấy lại tên Nước là “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” như Bác Hồ đã lựa chọn từ năm 1945 và theo các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 (02/18 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung giới hạn diện tích quốc gia theo đất liền, hải đảo, vùng biển, vùng trời đến đâu? (01/18 ý kiến).
- Cần quy định rõ về chính thể, chủ quyền quốc gia ngay tại điều này để các điều sau không phải nhắc lại, bảo đảm sự chặt chẽ, chính xác của dự thảo (3/18 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để đảm bảo tính lịch sử (01/18 ý kiến); bổ sung cụm từ “thềm lục địa” sau cụm từ “đất liền, hải đảo,” (02/18 ý kiến); đưa từ “độc lập” lên trước từ “dân chủ” để cho logic, vì không có độc lập thì không thể có dân chủ cũng như quyền làm chủ của nhân dân (03/18 ý kiến); bổ sung cụm từ “lòng đất” sau cụm từ “vùng biển”(01/18 ý kiến); đề nghị đưa Hoàng Sa và Trường Sa vào Hiến pháp để tiếp tục khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phần lãnh thổ thiêng liêng, không thể tách rời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (04/18 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc cụm từ “dân chủ” , bởi vì không nên nhầm lẫn một chế độ xã hội dân chủ với một nền dân chủ (01/18 ý kiến).
- Đề nghị gộp khoản 1 Điều 5 vào Điều 1; bổ sung cụm từ “thềm lục địa” vào sau cụm từ “vùng biển” và sửa thành: “Nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và là một quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” (01/18 ý kiến); chuyển đoạn “và là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” từ khoản 1 Điều 5 vào cuối Điều 1 (01/18 ý kiến); đề nghị ghép Điều 11 vào Điều 1 để đề cao vai trò Tổ quốc, quốc gia, thể hiện lại cho gọn, súc tích (03/18 ý kiến); đề nghị gộp Điều 5 vào Điều 1(01/18 ý kiến).
- Đề nghị thực hiện trưng cầu ý dân về Điều này (01/18 ý kiến).
Điều 2 (25 ý kiến, trong đó 11 ý kiến ở cơ quan, 14 ý kiến cá nhân)
- Đồng ý như Dự thảo vì đã thể hiện rõ bản chất quyền lực nhà nước ta thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, là lực lượng nòng cốt của xã hội (05/25 ý kiến).
- Đề nghị thiết kế thành các khoản riêng biệt theo đó khoản 1 khẳng định bản chất Nhà nước, chủ thể quyền lực Nhà nước là nhân dân, khoản 2 khẳng định nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước (01/25 ý kiến).
- Đề nghị phân biệt ba khái niệm “tầng lớp”, “đội ngũ” và “giai cấp” cùng được sử dụng tại Điều này, từ đó làm rõ đội ngũ trí thức thuộc giai tầng nào và xác định vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân, đặc biệt trong phát triển kinh tế - xã hội và trong mối quan hệ với Đảng (01/25 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “đội ngũ trí thức” bằng cụm từ “tầng lớp trí thức” (01/25 ý kiến).
- Đề nghị sửa lại nội dung cuối của đoạn 1 thành “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc” vì đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực của phát triển xã hội, đồng thời là nền tảng của quyền lực nhà nước, thể hiện được bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (09/25 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc quy định về “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” vì thiết kế mô hình tổ chức bộ máy nhà nước như hiện nay chưa bảo đảm sự kiểm soát đó, nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước cũng chưa có sự thể hiện tương xứng tại các điều, khoản cụ thể khác của Dự thảo (01/25 ý kiến).
- Đề nghị giải trình rõ hơn về nội hàm khái niệm “quyền tư pháp”, “cơ quan tư pháp”, làm rõ phạm vi quyền tư pháp, phân biệt quyền hành pháp và tư pháp, thẩm quyền của các cơ quan hành pháp và tư pháp trong việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về bộ máy Nhà nước cũng như các quy định pháp luật tố tụng và các quy định pháp luật khác 01/25 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “Xã hội Việt Nam xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” để làm rõ thêm đặc thù nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác với nền dân chủ tư bản chủ nghĩa là tính bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội ”(01/25 ý kiến); bỏ cụm từ “mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”, vì sử dụng khái niệm “nhân dân” là đủ; nếu để cụm từ này sẽ có tính chất phân biệt, mâu thuẫn với quy định khác trong Dự thảo về khối đại đoàn kết toàn dân tộc (02/25 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung cuối đoạn 1 như sau: “nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(04/25 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi đoạn 1 như sau: “Nước Việt Nam là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.” (01/25 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “nhà nước” trong đoạn “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…” (02/25 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc bổ sung từ “kiểm soát” vì rất khó quy định thống nhất ở các điều liên quan ở các chương cụ thể. Việc Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhưng kiểm soát lại Quốc hội thì có bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát đó không (02/25 ý kiến).
- Đề nghị nêu rõ sự phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, quy định cụ thể hơn về cơ chế, chế tài để kiểm soát quyền lực nhà nước (01/25 ý kiến).
- Đề nghị thể hiện bổ sung, làm rõ các phương thức kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong đoạn 2 Điều này(01/25 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định về địa vị pháp lý của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức(02/25 ý kiến); bổ sung địa vị pháp lý các tầng lớp nhân dân lao động khác như doanh nghiệp, lao động kinh doanh nhỏ… (01/25 ý kiến).
- Các điều khoản trong Dự thảo Hiến pháp chưa thể hiện rõ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được quy định tại Điều này (01/25 ý kiến).
Điều 3 (9 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến của cơ quan, 5 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị giữ như Hiến pháp hiện hành (03/9 ý kiến).
- Đề nghị ghép nội dung này vào Điều 2 để thống nhất khái niệm về Nhà nước (01/9 ý kiến).
- Nếu viết “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân” thì có thể hiểu nhân dân vẫn bị động trong thực hiện quyền làm chủ. Vì vậy, nên nghiên cứu sửa theo hướng nhân dân là chủ thể của quyền làm chủ đó, ví dụ: “Nhà nước tuân theo ý chí và chịu sự giám sát của nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ…” (01/9 ý kiến).
- Đề nghị chuyển cụm từ "tự do" đứng trước cụm từ "ấm no, hạnh phúc" (01/8 ý kiến); bổ sung cụm từ “xã hội” trước cụm từ “dân chủ” (02/9 ý kiến); bổ sung cụm từ “và cơ hội” vào sau cụm từ “có điều kiện” (01/9 ý kiến)..
- Đề nghị bổ sung vào đoạn cuối quy định: “Nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, quyền và lợi ích hợp pháp của con người và của công dân” (01/9 ý kiến).
Điều 4 (42 ý kiến, trong đó có 11 ý kiến ở cơ quan, 31 ý kiến của cá nhân)
- Nhất trí quy định Đảng cộng sản tại Điều 4 (17/42 ý kiến) với các ý lập luận cụ thể như sau: đề nghị quy định rõ ràng hơn về cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng (5/42 ý kiến); bổ sung quy định Đảng phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức và xây dựng tổ chức Đảng (01/42 ý kiến); cần thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, làm rõ hơn vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; phòng và chống những nguy cơ, suy thoái biến chất của cán bộ, đảng viên… (02/42 ý kiến); quy định rõ hơn về phương thức lãnh đạo của Đảng (03/42 ý kiến); bổ sung quy định về phương thức lãnh đạo của Đảng là Đảng lãnh đạo toàn diện Nhà nước và pháp luật, nhưng Đảng không can thiệp, không làm thay các cơ quan Nhà nước (01/42 ý kiến); quy định rất rõ ràng về việc ai là người chịu trách nhiệm trước Đảng về việc thực hiện quy định tại điều này (01/42 ý kiến); bổ sung nội dung nhằm khẳng định Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội; quy định về cơ chế giám sát hoạt động của Đảng; làm rõ hơn thuật ngữ “gắn bó mật thiết với nhân dân” (01/42 ý kiến).;
- Nhất trí với Điều 4 (13/42 ý kiến) nhưng đề nghị sửa lại như sau:
Khoản 1
+ Nên thể hiện trong Điều lệ Đảng (01/42 ý kiến);
+ Đề nghị bổ sung thêm cụm từ "duy nhất" sau cụm từ "lực lượng" và trước cụm từ "lãnh đạo nhà nước và xã hội" (11/42 ý kiến);
+ Đề nghị bổ sung đoạn “Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” (01/42 ý kiến).
+ Bổ sung các cụm từ “Việt Nam”, “tổ chức”, “duy nhất”, khoản 1 được sửa như sau: “Đảng cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam, chọn Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là tổ chức duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội” (1/42 ý kiến);
+ Đề nghị sửa lại khoản 1 như sau: "Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong và đại biểu trung thành của lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam" (01/42 ý kiến); hoặc “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” hoặc “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (01/42 ý kiến) hoặc “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(01/42 ý kiến) hoặc “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” hoặc “Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, không ghi lại “chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh” tại Điều này vì đã được thể hiện ở Lời nói đầu (01/42 ý kiến).
+ Bỏ cụm từ “đồng thời là đội tiên phong của…” (07/42 ý kiến); bổ sung từ “chính trị” vào sau từ “tư tưởng”; bỏ cụm từ “đại biểu trung thành” (01/42 ý kiến); chuyển nội dung “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” xuống cuối khoản 1 (01/42 ý kiến).
Khoản 2
+ Gộp khoản 2 và khoản 3 lại như sau “các tổ chức Đảng và Đảng viên phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước pháp luật về những quyết định của mình” (03/42 ý kiến);
+ Thay đoạn “chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” bằng đoạn "bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân" hoặc "Bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và phản biện của nhân dân" (01/42 ý kiến);
+ Bổ sung thêm cụm từ “là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” , thay từ “mật thiết” bằng từ “máu thịt” (03/42 ý kiến); bổ sung cụm từ “Cộng sản Việt Nam” sau từ “Đảng” tại khoản 2 và 3; bổ sung cụm từ “trước pháp luật” vào sau cụm từ “trước nhân dân” (01/42 ý kiến); bổ sung đoạn “mục đích của Đảng là” vào trước đoạn “phục vụ nhân dân” (01/42 ý kiến); thay cụm từ “về những quyết định của mình” bằng cụm từ “chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (01/42 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung thêm đoạn “dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” và trước đoạn “chịu sự giám sát của nhân dân…” nhằm tôn vinh vai trò, vị trí của Đảng, khả năng tập hợp lực lượng quần chúng đại đoàn kết dân tộc càng mạnh lên và nhân dân cảm thấy tin Đảng hơn (01/42 ý kiến); bổ sung cụm từ "theo quy định của pháp luật" sau cụm từ "chịu sự giám sát của nhân dân" tại khoản 2 (02/42 ý kiến);
+ Quy định “chịu trách nhiệm về những quyết định của mình” là chưa đủ, đề nghị quy định rõ “Đảng phải chịu trách nhiệm chung về sự lãnh đạo đất nước” (01/42 ý kiến).
+ Bổ sung thêm 1 đoạn “Đảng thực hiện việc lãnh đạo và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” (02/41 ý kiến) và “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; việc giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, do luật định” (01/42 ý kiến);
+ Đề nghị bỏ khoản 2 vì nội hàm của nó đã nằm trong khoản 3 Điều 4 và khoản 2 Điều 8 (01/42 ý kiến).
Khoản 3
+ Đề nghị thay cụm từ “trong khuôn khổ” bằng từ “theo” (01/42 ý kiến);
+ Đề nghị quy định cơ chế bảo đảm cho việc Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; ghép nội dung khoản 2 và khoản 3 như sau: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; gắn bó mật thiết với nhân dân; chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình theo luật định” (01/42 ý kiến).
Ý kiến khác
- Đề nghị sắp xếp, bổ sung Điều 4 như sau:
+ Khoản 1: khẳng định mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho logic hơn
+ Khoản 2: Đảng Cộng sản Việt Nam…
+ Khoản 3: Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó…
+ Khoản 4: Các tổ chức của Đảng… (01/42 ý kiến).
- Đề nghị chỉnh lý quy định tại Điều này cho ngắn gọn, sâu sắc hơn, không nên viết lại quy định trong Điều lệ của Đảng (01/42 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung một khoản tại Điều 4 (hoặc bổ sung một điều) quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thực hiện đa Đảng đối lập” vì đây là một điều có tính nguyên tắc về thể chế chính trị để tránh nhận thức và hiểu sai cho là Đảng ta độc đoán (01/42 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung khoản 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam” (02/42 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định Đảng lãnh đạo bằng định hướng phát triển đất nước và công tác tổ chức cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị (1/42 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung khoản 2 sau khoản 1 của Dự thảo như sau:
“2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối, nghị quyết, chỉ thị và công tác cán bộ. Đảng tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” (01/42 ý kiến).
- Đề nghị giữ nguyên như Hiến pháp hiện hành (01/42 ý kiến); giữ nguyên như Hiến pháp hiện hành nhưng đề nghị thay cụm từ "hoạt động" bằng "nghiêm chỉnh chấp hành" (01/42 ý kiến).
- Đề nghị nên xây dựng luật về Đảng, bởi vì tất cả các tổ chức, lực lượng chính trị đều có luật riêng điều chỉnh, trong khi đó Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất, cao nhất thì không có luật (01/42 ý kiến).
Điều 5 (11 ý kiến, trong đó có 6 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung và sắp xếp các khoản trong Điều 5 của Dự thảo như sau:
“1. Việt Nam là nước đa dân tộc, vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lớn và lâu dài.
2. Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc Việt Nam; các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam: “bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giúp nhau, phát triển, tiến bộ”.
3. Các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng về chính trị, kinh tế, xã hội; cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
4. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết; giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình.
5. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách phát triển toàn diện, từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch, nâng cao dân trí, đời sống dân sinh, xây dựng cốt cán của các dân tộc; tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, phát triển tiến kịp trình độ chung.
6. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.” (01/11 ý kiến).
- Đề nghị thiết kế nội dung điều này theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, được bổ sung một số cụm từ như sau: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; nghiêm cấm mọi hành vi....” (01/11 ý kiến).
- Theo quy định tại Điều 6 và khoản 1 Điều 116 thì việc dự kiến và thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường là không thể được. Đề nghị phải có báo cáo trình Quốc hội về việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân vừa qua (01/11 ý kiến).
- Đề nghị gộp Điều 5 với Điều 1 (01/11 ý kiến).
- Đề nghị chuyển Điều 5 lên sau Điều 2 (01/11 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị kết hợp khoản 1 với ý 2 Điều 1 thành một điều quy định về độc lập, chủ quyền, thống nhất các dân tộc (01/11 ý kiến).
- Đề nghị sửa lại thành: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc hợp thành dân tộc Việt Nam” để bao quát đầy đủ chủ thể theo thành phần dân tộc, bao gồm cả những người đang sinh sống trong nước cũng như ở nước ngoài (01/11 ý kiến).
- Thay từ “đất nước” bằng từ “lãnh thổ” hoặc sửa lại như sau: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất, đa dân tộc, các dân tộc cùng nhau đoàn kết bảo vệ và xây dựng đất nước” hoặc sửa thành “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc Việt Nam” do có một bộ phận đông đảo người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài và họ là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam (01/11 ý kiến).
- Thay cụm từ “...Việt Nam là quốc gia thống nhất các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” bằng cụm từ “...Việt Nam là quốc gia thống nhất, đa dân tộc, các dân tộc cùng nhau đoàn kết bảo vệ và xây dựng đất nước” (01/11 ý kiến); thay từ “đất nước” bằng từ “lãnh thổ” (01/11 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa đổi lại thành “Các dân tộc bình đẳng trước pháp luật, đoàn kết…” (01/11 ý kiến); chuyển từ “đoàn kết” lên trước từ “bình đẳng” (01/11 ý kiến).
- Đề nghị sửa như sau: “Nhà nước thực hiện chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.” (01/11 ý kiến).
- Đề nghị thể hiện lại đoạn cuối khoản này như sau “Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc” (01/11 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị bổ sung và sắp xếp lại khoản 3 như sau: “...Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc” (01/11 ý kiến).
+ Chuyển câu “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt” thành khoản 5 Điều 13; khoản này viết lại như sau: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc”; hoặc vận dụng đầy đủ tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và viết lại như sau: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; nghiêm cấm mọi hành vi...” (01/11 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ cụm từ “phong tục, tập quán” do cụm từ “bản sắc văn hóa truyền thống” đã bao gồm “phong tục, tập quán” (01/11 ý kiến); bổ sung cụm từ “dân tộc” vào cuối đoạn “văn hoá tốt đẹp của...” (02/11 ý kiến).
- Đề nghị chuyển cụm từ “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt” ở khoản 3, Điều 5 sang thành khoản 5, Điều 13 và bổ sung cụm từ “của mỗi” vào đoạn giữa của Khoản 3, Điều 5 như sau: “…giữ gìn bản sắc của mỗi dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình” (1/11 ý kiến).
Khoản 4
- Đề nghị sửa đổi lại theo hướng chỉ quy định những chính sách đặc thù hoặc một mức độ ưu tiên để giúp dân tộc thiểu số khắc phục tình trạng bất lợi và tụt hậu về trình độ phát triển; khẳng định chủ trương xã hội hóa trong việc giúp đỡ các dân tộc thiểu số, đồng thời nhấn mạnh yếu tố phát huy nội lực của các dân tộc thiểu số, cụ thể như sau: “Ngoài sự bình đẳng về quyền và lợi ích, các dân tộc thiểu số được giúp đỡ mọi mặt để phát triển hòa nhập được với sự phát triển chung của đất nước” (01/11 ý kiến).
- Đề nghị thay vì quy định trách nhiệm của nhà nước, nên quy định quyền được bảo đảm để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực phát triển hội nhập được vào sự phát triển chung (01/11 ý kiến).
- Hiến pháp hiện hành đã nêu rõ chính sách của Nhà nước đối với dân tộc hơn là nội dung sửa đổi mới trong Dự thảo, do đó đề nghị nghiên cứu lại quy định này (01/11 ý kiến).
- Đề nghị sửa khoản này thành: “Nhà nước tạo (hoặc bảo đảm) điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát triển toàn diện, phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước” (02/11 ý kiến) hoặc “Nhà nước thực hiện chính sách đầu tư, hỗ trợ và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát triển toàn diện, từng bước hòa nhập và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước”(01/11 ý kiến) hoặc “Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ các dân tộc, các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số” (01/11 ý kiến) hoặc “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện, các dân tộc thiểu số được ưu tiên trong sự phát triển chung của đất nước” (01/11 ý kiến).
- Bỏ cụm từ “thiểu số” tại khoản 4 thể hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc (02/11 ý kiến); thay cụm từ “thiểu số” bằng từ “cùng” (01/11 ý kiến); bổ sung các cụm từ “đầu tư, hỗ trợ”, “ phát triển toàn diện, từng bước”, “và góp phần” vào khoản 4 như sau: “Nhà nước thực hiện chính sách đầu tư, hỗ trợ và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát triển toàn diện, từng bước hòa nhập và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước” (01/11 ý kiến).
Điều 6 (9 ý kiến, trong đó có 6 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Tán thành với Điều này (01/9 ý kiến).
- Tán thành với Điều này, nhưng đề nghị xem xét thống nhất cách thức thể hiện (cách thể hiện như dự thảo chưa thật thống nhất, nội dung thứ nhất thì nêu chung, đến nội dung thứ hai thì lại nêu cụ thể hơn) (01/9 ý kiến); đề nghị không tách bạch quy định tại Điều này với Điều 28 để bảo đảm tính thống nhất, dễ hiểu (01/9 ý kiến).
- Quy định như dự thảo chưa cụ thể, rõ ràng (01/9 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu thể chế đầy đủ kết luận Hội nghị Trung ương 5 (Khóa XI): “…Cần tiếp tục hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện, bảo đảm nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và cả hệ thống chính trị…”. Bởi vì, Dự thảo mới chỉ đề cập đến việc thực hiện các hình thức dân chủ gián tiếp “thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”, mà chưa đề cập đến cả hệ thống chính trị (01/9 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 6 như sau: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cơ quan khác đều là biểu hiện của dân chủ đại diện” (01/9 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định nhằm thể hiện rõ hơn thuật ngữ “dân chủ trực tiếp”, “dân chủ đại diện” (02/9 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “nhà nước” bằng từ “của mình” (02/9 ý kiến); bỏ cụm từ “của Nhà nước” cuối Điều này (01/9 ý kiến).
- Nên quy định rõ hơn việc nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan khác là như thế nào? Thông qua tổ chức chính trị - xã hội khác có được không? (01/9 ý kiến); quy định rõ cơ chế nào để xác lập quyền đại diện của “các cơ quan khác của Nhà nước”, nếu không có cơ chế xác lập quyền đại diện và tất cả đều là đại diện thì sẽ không có cơ quan, người đại diện, chẳng hạn: Quốc hội đại diện cho dân bầu Thủ tướng Chính phủ nếu nhân dân bầu trực tiếp Thủ tướng thì Quốc hội không còn đại diện cho nhân dân bầu Thủ tướng Chính phủ nữa (01/9 ý kiến).
Điều 7 (có 5 ý kiến, trong đó 4 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị cân nhắc quy định trong Hiến pháp về việc đại biểu Quốc hội không chuyên trách chỉ nên tham gia không quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp; bổ sung một khoản (trước khoản 2) quy định “Đại biểu trong nhiệm kỳ hoạt động xét thấy mình không còn đủ tiêu chuẩn, tư cách đạo đức thì xin miễn nhiệm từ chức trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp” (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung đoạn “…khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân và không được đa số đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tín nhiệm” vào cuối Điều này (01/5 ý kiến).
- Khoản 2, đề nghị nghiên cứu không ghi trong Hiến pháp nội dung “… Đại biểu quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội…. bãi nhiệm…..” vì cơ chế cử tri bãi nhiệm là khó khả thi (01/5 ý kiến); bỏ cụm từ “xứng đáng với” và thêm từ “đa số” trước từ “nhân dân” (01/5 ý kiến).
- Khoản 2, đề nghị bổ sung quy định làm rõ việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân để trên cơ sở đó Quốc hội xem xét ban hành luật quy định cụ thể các vấn đề quan trọng này. Tham khảo Hiến pháp 1946, tại Điều 41 quy định rõ: “Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành phố đã bầu ra nghị viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải từ chức” (01/5 ý kiến).
Điều 8 (11 ý kiến, trong đó 7 ý kiến của tổ chức, 4 ý kiến cá nhân)
- Cách thể hiện mang tính chất liệt kê vừa thừa, vừa thiếu, vừa không chính xác, chưa khái quát bao hàm hết nội dung, do đó đề nghị viết lại Điều 8 như sau:
“1. Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật; quản lý nhà nước và xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ.
2. Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.” (01/11 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị sửa đổi như sau “Nhà nước tổ chức và hoạt động, quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” (01/11 ý kiến).
- Đề nghị đưa nội dung “nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp” lên nội dung khoản 1; thay cụm từ ”Nhà nước” bằng cụm từ ”Các cơ quan nhà nước”, bỏ cụm từ “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” ; khoản 2 bỏ cụm từ “hoàn thiện” sau cụm từ “chế độ công vụ được tổ chức” (02/11 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa đổi nội dung “chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền” thành “nghiêm cấm mọi hành vi tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền” để tăng tính phòng ngừa, răn đe, đồng thời có cơ sở pháp lý cho việc ban hành các quy định cấm cụ thể trong các văn bản khác (01/11 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “được tổ chức và hoàn thiện” tại khoản 2 và sửa thành “nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ phục vụ nhân dân” cho ngắn gọn. Đoạn “Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền...” nên thay bằng “Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân và thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” (01/11 ý kiến); hoặc bổ sung đầy đủ di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành “Cán bộ, công chức, viên chức phải trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, tận tụy…” (02/11 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ "tận tụy" bằng "có trách nhiệm" (02/11 ý kiến); bổ sung cụm từ “từ trung ương đến địa phương” trước cụm từ “để phục vụ”, cụm từ “liêm chính” trước cụm từ “thực hành tiết kiệm” (01/11 ý kiến); thay cụm từ “chống tham nhũng” bằng cụm từ “cần, kiệm, liêm, chính” (01/11 ý kiến); bổ sung cụm từ “lắng nghe ý kiến của nhân dân” trước cụm từ “chịu sự giám sát của nhân dân” (01/11 ý kiến); cân nhắc cụm từ “chống tham nhũng, quan liêu hách dịch cửa quyền” nên viết là “không tham nhũng, …” cho chính xác (01/11 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị bỏ cụm từ “chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật” (01/11 ý kiến); thay từ “cá nhân” bằng cụm từ “cán bộ, công chức, viên chức” cho phù hợp với nội dung quy định tại Điều này (01/11 ý kiến).
Điều 9 (12 ý kiến, trong đó có 6 ý kiến ở cơ quan, 6 ý kiến của cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị giữ như quy định hiện hành của Hiến pháp 1992 (01/12 ý kiến).
- Đề nghị thể hiện lại như sau “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài” (01/12 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân”, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị” theo đúng tinh thần Văn kiện Đại hội XI và Cương lĩnh của Đảng (01/12 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “một bộ phận của hệ thống chính trị” sau cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”; bổ sung cụm từ “nơi vận động tập hợp sức mạnh, khối đại đoàn kết dân tộc” vào cuối Khoản 1 (02/12 ý kiến).
Khoản 2
- Thay cụm từ “hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, công chức, viên chức.” bằng cụm từ "hoạt động xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” (01/12 ý kiến); bổ sung cụm từ "và các tổ chức chính trị - xã hội" sau cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” để khẳng định và phát huy hơn nữa vai trò đại diện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (01/12 ý kiến).
- Tại dòng 6, đề nghị diễn đạt lại như sau: “...giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức. Phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước”. Vì vừa qua thực hiện theo NQTW4 của Đảng, Bộ Chính trị đã giao cho các ban của Đảng và UBMTTQVN xây dựng 2 văn bản mới về quy chế giám sát và phản biện xã hội cho nên diễn đạt như vậy vừa đảm bảo chặt chẽ và thống nhất trong hệ thống văn bản và hệ thống chính trị của nước ta (01/12 ý kiến).
- Đề nghị quy định bổ sung chủ thể “các tổ chức chính trị - xã hội” là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đồng thời không cần quy định quá chi tiết các lĩnh vực phản biện xã hội; cụ thể sửa đổi lại thành: “Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tham gia xây dựng và củng cố Đảng, chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với các hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức.” (01/12 ý kiến).
Khoản 3
- Cần quy định rõ “Chính phủ phải bảo đảm điều kiện để cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình” (01/12 ý kiến).
- Đề nghị cần khẳng định rõ là “Đảng, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hoạt động” (01/12 ý kiến); quy định rõ Nhà nước đảm bảo để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động và phản biện xã hội (01/12 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “tạo điều kiện” bằng từ “bảo đảm” hoặc “có trách nhiệm” để khẳng định mạnh mẽ quan điểm của Nhà nước ta đề cao vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (02/12 ý kiến).
Ý kiến khác
- Đề nghị quy định bổ sung mục tiêu “đoàn kết quốc tế” của thiết chế Mặt trận Tổ quốc bên cạnh việc “phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc”(01/12 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm cụm từ "Các đoàn thể chính trị - xã hội" sau cụm từ "Mặt trận Tổ quốc". Như vậy, sắp xếp lại như sau: "Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội" để thể hiện được rõ hơn vai trò của các đoàn thể chính trị xã hội (01/12 ý kiến).
- Đề nghị quy định về vấn đề giám sát và phản biện xã hội cụ thể, rõ ràng hơn. Theo tinh thần Nghị quyết TW4 của Đảng về xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội, đề nghị diễn đạt lại đoạn cuối khoản 2 như sau: “…, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức, phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước” (01/12 ý kiến).
- Đề nghị cần có 01 điều riêng trong Hiến pháp về vai trò, vị thế của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam chưa được thể hiện rõ trong dự thảo HP. Có thể viết như sau: "Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội, đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, có quyền và trách nhiệm tham gia xây dựng, đề xuất, phản biện, giám sát chính sách pháp luật và đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân" (01/12 ý kiến).
Điều 10 (15 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến của cơ quan, 10 ý kiến cá nhân)
- Tán thành Điều này (02/15 ý kiến).
- Đề nghị bỏ Điều này với lý do:
+ Vì tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn Việt Nam đã được hiến định tại Điều 9 (Công Đoàn là tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của MTTQ Việt Nam).
+ Nếu Hiến pháp quy định về tổ chức Công đoàn, thì các tổ chức chính trị-xã hội khác như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân cũng phải quy định trong Hiến pháp.
+ Tổ chức Công đoàn đã được thể chế hóa bằng Luật Công đoàn Việt Nam (8/15 ý kiến).
- Các tổ chức thuộc Mặt trận gồm công đoàn, thanh niên, nông dân, phụ nữ và hội cựu chiến binh, nếu Dự thảo đã thể hiện thì thể hiện hết còn nếu không thể hiện thì viết một cách khái quát, tổng quan để thể hiện được vai trò của các tổ chức chính trị trong Hiến pháp (05/15 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc lại việc quy định về Công đoàn Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong Hiến pháp cho phù hợp, nếu có Điều quy định về Công đoàn Việt Nam thì đề nghị quy định bổ sung nội dung “các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp được bảo đảm hoạt động bình đẳng theo quy định của pháp luật” (01/15 ý kiến).
- Các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh chưa được quy định cụ thể. Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều này theo hướng quy định vị trí, vai trò, chức năng ,nhiệm vụ của 5 tổ chức chính trị - xã hội hiện nay (01/15 ý kiến). Nếu không quy định cụ thể đối với từng tổ chức thì nên bỏ hẳn Điều 10, chỉ để Điều 9 về Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận là đủ (01/15 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi lại nhằm nhất quán bản chất của tổ chức Công đoàn Việt Nam theo quy định của Luật Công đoàn và Bộ luật Lao động hiện hành, cụ thể như sau: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động, giáo dục người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (01/15 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định Công đoàn có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những chính sách pháp luật, nhất là chính sách pháp luật tác động trực tiếp đến người lao động và có quyền giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các cơ quan nhà nước với tư cách là một tổ chức chính trị - xã hội (01/15 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “thanh tra” vì tổ chức công đoàn chỉ đại diện quyền lợi cho giai cấp công nhân, không có chức năng thanh tra cơ quan nhà nước (01/15 ý kiến); bổ sung “Tuyên truyền, vận động...” ở câu cuối, thành “Tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (01/15 ý kiến); bổ sung đoạn “các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp được đảm bảo hoạt động bình đẳng theo quy định của pháp luật” (01/15 ý kiến).
Điều 11 (6 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến của cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị giữ như Hiến pháp hiện hành (01/6 ý kiến)
- Do nội dung, ý nghĩa quan trọng của Điều này nên đề nghị chuyển lên trước Điều 2 hoặc Điều 3 (02/6 ý kiến) hoặc nối tiếp Điều 1 cho xứng tầm quan trọng của nội dung, hoặc nhập nội dung Điều này (cùng với Điều 48) vào Điều 69 (01/6 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị giữ lại cụm từ “âm mưu” và cụm từ “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” ở Hiến pháp hiện hành (02/6 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị bổ sung đoạn “xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” sau cụm từ “lãnh thổ” (01/6 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “mọi hành vi chống lại độc lập chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị theo pháp luật” (01/6 ý kiến).
Điều 12 (5 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến của tổ chức, 1 ý kiến cá nhân)
- Tán thành với Điều 12 (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “vì lợi ích quốc gia dân tộc” vì đây là điểm mới được bổ sung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Theo đó, mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực hiện tối đa lợi ích của đất nước và của dân tộc; bổ sung cụm từ “các vùng lãnh thổ, các thực thể chính trị, các tổ chức quốc tế và khu vực” sau đoạn “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển với tất cả các nước” vì trên thực tế Việt Nam có quan hệ không chỉ với các nước mà còn với các vùng lãnh thổ (như Hồng Kông, Đài Loan), các thực thể chính trị (như PLO, Polisario …), các tổ chức quốc tế và khu vực (02/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung “tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới”; bổ sung đoạn “và những nguyên tắc cơ bản khác của Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế” vào sau đoạn “trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi” (01/5 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu thêm về việc nên giữ hay bỏ cụm từ “các bên cùng có lợi” tại đoạn “không phân biệt chế độ chính trị xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi”. “Các bên cùng có lợi” trong nhiều trường hợp là sách lược trong đàm phán, trong tính toán về lợi ích quốc gia của các nước với nhau, có những trường hợp không thể giải quyết bằng nguyên tắc cùng có lợi được (02/5 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “không phân biệt chế độ chính trị, xã hội” vì trong cương lĩnh không có cụm từ này, cần lưu ý chủ trương hội nhập, nhưng không hòa tan mục tiêu lý tưởng của cách mạng; cân nhắc cụm từ “không phân biệt chế độ chính trị và xã hội” vì chưa phù hợp với các Nghị quyết của Đảng về công tác đối ngoại. Có cử tri băn khoăn quy định này có thể sẽ dẫn đến mất những quan hệ truyền thống, anh em, bạn bè quốc tế, dẫn đến “Diễn biến hòa bình”? (01/5 ý kiến)
Điều 13 (15 ý kiến, trong đó có 8 ý kiến ở cơ quan, 7 ý kiến cá nhân)
- Tán thành với Điều 13 (01/15 ý kiến).
- Quy định quá chi tiết, cần khái quát hơn để đảm bảo tính chính xác (01/15 ý kiến)
- Đề nghị ghép Điều 13 và Điều 14 thành một điều và sắp xếp lại các khoản theo trình tự: Quốc khánh, Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca, Thủ đô (02/15 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị bỏ đoạn “hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài”, chỉ cần thể hiện như Hiến pháp năm 1946 là đủ (01/15 ý kiến).
- Khoản 1 và khoản 2: không nên nêu chi tiết về chiều rộng, chiều dài, ngôi sao ở giữa… của quốc kỳ, quốc huy vì nếu nêu chi tiết thì lại thiếu tỷ lệ chuẩn xác. Khoản này chỉ cần nêu khái quát rồi có hướng dẫn chi tiết về kích cỡ, vị trí, tỷ lệ (01/15 ý kiến); đề nghị bổ sung quy định về tỷ lệ của ngôi sao trong quốc kỳ và quốc huy và nên có mẫu quốc kỳ, quốc huy kèm theo để đảm bảo mẫu quốc kỳ, quốc huy được sử dụng thống nhất trên thực tế (03/15 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa cụm từ “bánh xe răng” thành “bánh răng” (02/15 ý kiến); bổ sung thêm từ “vàng” sau từ “bông lúa” cho chuẩn xác và thống nhất hơn (01/15 ý kiến); thay cụm từ “chung quanh” bằng “xung quanh” (01/15 ý kiến).
- Đề nghị quy định rõ về kích cỡ, số lượng bông lúa, bánh xe, màu sắc, tỷ lệ (02/15 ý kiến).
- Đề nghị xem xét, nghiên cứu thể hiện cho rõ hình ảnh của giai cấp nông dân, công nhân, đội ngũ trí thức trên quốc huy (01/15 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị bỏ cụm từ “nhạc và lời”, chỉ cần viết bài “Tiến quân ca” là gọn và đủ nghĩa (01/15 ý kiến). Đề nghị ghi rõ tác giả của bài Tiến quân ca để bảo đảm vấn đề bản quyền liên quan, cụ thể là “Quốc ca của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài “ Tiến quân ca” sáng tác của nhạc sĩ Văn Cao” (03/15 ý kiến).
- Đề nghị quy định “Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc của bài Tiến quân ca”, vì lời của bài Tiến quân ca không còn phù hợp với giai đoạn phát triển đất nước hiện nay (01/15 ý kiến).
Khoản 4
- Đề nghị sửa lại thành “Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày 02 tháng 9”(01/15 ý kiến); hoặc “Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập…” (01/15 ý kiến).
Ý kiến khác
- Cần khẳng định quốc hiệu là tên chính thức của quốc gia nhằm khẳng định chủ quyền và chế độ chính trị của nước ta (03/15 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung một khoản quy định về đồng tiền Việt Nam vì đồng tiền Việt Nam là một đơn vị tiền tệ chính thức của nước ta, do ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán pháp quy (02/15 ý kiến).
- Đề nghị ghi rõ Quốc ca sử dụng lời 1 hay lời 2 của bài hát “Tiến quân ca”, vì hiện nay đang dùng lời 1; bổ sung quy định về quốc ngữ (01/15 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung khoản 5 quy định “Hàng năm lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch là Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương” vì Quốc hội đã thông qua ngày này và đã được thực hiện, nhưng chưa được Hiến định (03/15 ý kiến).
Điều 14 (5 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến của cơ quan, 1 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị đưa nội dung Điều này thành khoản 5 Điều 13 (03/5 ý kiến).
- Đề nghị sửa lại Điều này theo hướng chỉ rõ Thủ đô nằm trong thành phố Hà Nội thuộc Vùng Hà Nội (về địa lý Hà Nội đã được sáp nhập thêm tỉnh Hà Tây nên diện tích đã rộng gấp 3 lần) (01/5 ý kiến).
- Đề nghị nên viết lại là “Thành phố Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” hoặc “Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt tại Hà Nội” như HP năm 1946 đã thể hiện (02/5 ý kiến).
3. Về Chương II, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Có 82 ý kiến góp ý về Chương II.
- Các ý kiến góp ý tập trung vào các điều 21, 23, 27, 32, 45
- Về tên chương:
+ Nhất trí với tên và bố cục của chương (02/82 ý kiến).
+ Đề nghị lấy tên Chương là “Quyền, nghĩa vụ của con người và công dân” do những quyền, nghĩa vụ con người được thừa nhận trong Hiến pháp chỉ là những quyền, nghĩa vụ cơ bản; những quyền, nghĩa vụ của con người, của công dân không nêu cụ thể trong Hiến pháp vẫn được thừa nhận theo pháp luật; đồng thời thể hiện đầy đủ nội dung của Chương này là bao gồm cả các quy định về nghĩa vụ của con người (01/82ý kiến).
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Đề nghị nghiên cứu sắp xếp các điều trong Chương II theo trật tự là quy định chung về quyền con người, tiếp đến là quyền con người cụ thể theo trật tự quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa rồi đến quy định chung về quyền, nghĩa vụ công dân, sau đó là các quyền, nghĩa vụ công dân cụ thể theo thứ tự quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội (05/82 ý kiến); đề nghị tách riêng thể hiện 15 điều quy định quyền con người trước sau đó 21 điều quy định quyền và nghĩa vụ công dân sau (04/82 ý kiến); đề nghị xây dựng Chương II thành 2 mục như Hiến pháp năm 1992. Mục A về quyền lợi của công dân; Mục B là công dân phải có nghĩa vụ để phân biệt rõ không lẫn lộn giữa quyền và nghĩa vụ của công dân (03/82 ý kiến).
+ Một số điều trong Chương II quá ngắn gọn như Điều 21 – “Mọi người có quyền sống”; Điều 42 – “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”. Do đó các điều này cần được sửa đổi sao cho vừa bảo đảm ngắn gọn, vừa bao quát được ý cần diễn đạt. Một số quyền (ví dụ như Điều 35, Điều 44, khoản 1 Điều 46) được thể hiện theo văn phong “cương lĩnh” không rõ nội dung được Hiến pháp bảo vệ và vì vậy khó bảo đảm tính khả thi (01/82 ý kiến).
+ Chỉ nên nêu các nguyên tắc chung, nguyên tắc bất biến thể hiện điều cơ bản nhất, có ý nghĩa lâu dài, trên cơ sở đó điều hành bằng luật cụ thể; thống nhất quan điểm trong Dự thảo là việc hạn chế quyền của con người phải bằng quy định của luật (01/82 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu bổ sung và quy định cụ thể hơn về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong một số điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; quy định rõ trong Hiến pháp việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được đặt ra khi có luật do Quốc hội ban hành (01/82 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu ghép một số điều với nhau để bảo đảm tính logic, ví dụ: Điều 21 quy định “Mọi người có quyền sống” có thể ghép vào các Điều quy định “có quyền tự do…” và sắp xếp lại các điều cho khoa học như: đưa Điều 18 của Dự thảo lên ngay sau Điều 15; sắp xếp các Điều 65, 66, 67 thành một điều (01/82 ý kiến).
+ Cách thể hiện rời rạc, chỉ mang tính chất liệt kê, nội dung thì thiếu tính quy phạm, không gắn kết được quyền và nghĩa vụ (01/82 ý kiến). Cần phải sắp xếp lại các nhóm, điều chỉnh một số điều cho ngắn gọn hơn, cần có sự thống nhất khi sử dụng ngôn ngữ diễn đạt (04/82 ý kiến).
+ Các điều viết hơi dài, có rất nhiều điều mà nếu có một điều khoản chung, có thể hơi dài một chút nhưng có thể bao hàm được đầy đủ và sau này không phải ghi trong những điều khoản cụ thể, chẳng hạn: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyền con người được nhà nước, xã hội thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Mọi người được tự do thực hiện mọi quyền của mình nếu không bị cấm hay bị hạn chế theo quy định của luật. Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, không ai được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.” Sau đó các điều khác đương nhiên là phải thực hiện theo nguyên tắc này, không cần phải liệt kê từng điều, sẽ ngắn hơn rất nhiều (01/82 ý kiến).
+ Đề nghị cân nhắc việc liệt kê quyền của công dân các lĩnh vực trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội tại Điều 17 và Điều 27 của dự thảo Hiến pháp để bảo đảm đầy đủ, toàn diện (01/82 ý kiến).
+ Quy định quyền và nghĩa vụ trong Dự thảo không tương xứng, chủ yếu quy định quyền, nghĩa vụ thì lại do luật quy định (01/82 ý kiến); quy định nghĩa vụ của công dân hơi ít (02/82 ý kiến); ý kiến khác đề nghị không nên đưa nhiều nghĩa vụ vì dễ gây phản cảm (01/82 ý kiến).
+ Quy định của Dự thảo chưa bao quát đầy đủ, toàn diện các nghĩa vụ tài chính của công dân vì trên thực tế, các cá nhân ngoài nghĩa vụ nộp thuế còn phải thực hiện nhiều nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật như nộp các khoản phí, lệ phí, các khoản đóng góp tài chính mang tính bắt buộc khác. Vì vậy, đề nghị bổ sung các quy định về nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật (01/82 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi, bổ sung các Điều 15, 24 và 26 quy định quyền con người, quyền công dân, các quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình được Nhà nước bảo đảm theo Hiến pháp và luật (không phải là “pháp luật” nói chung để tránh áp dụng tùy tiện) (01/82 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung, làm rõ, thống nhất các quy định về “công dân”, “mọi người”. Trước đây Hiến pháp chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa quyền con người với quyền công dân nên mới ghi nhận chung “quyền và nghĩa vụ công dân”. Dự thảo lần này đã thể hiện rõ quyền con người thì cần phải xác định rõ khi nào là “mọi người” khi nào là “công dân” cho chính xác (03/82 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định trong Chương này có các quyền mới như: Quyền phúc quyết Hiến pháp của công dân, có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân; quyền của người chưa thành niên, quyền của người khuyết tật, người cao tuổi, quyền được bầu trực tiếp Chủ tịch nước (01/82 ý kiến); quyền được xác định lại giới tính, được thừa nhận giới tính đối với những trường hợp sinh ra có khiếm khuyết về sinh học (01/82 ý kiến).
+ Chỉ có một Điều 25 quy định về tín ngưỡng, tôn giáo trong khi cả nước có 24 triệu tín đồ, gần 100% dân số có tín ngưỡng thì đã đủ chưa? (01/82 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 15 (6 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Dự thảo còn quy định chung chung dẫn đến việc lợi dụng xâm phạm quyền con người, nên thêm ý “cấm hành vi ngụy tạo” để hạn chế quyền con người (01/6 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị viết lại khoản 1 như sau: “Quyền con người, quyền công dân được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện” hoặc “Quyền con người, quyền công dân được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” . Khoản 2, đề nghị viết rõ “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn bởi luật định/bởi quy định của luật trong trường hợp…” (01/6 ý kiến).
Khoản 2
- Khoản 2, đề nghị viết lại như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp Chủ tịch nước công bố tình trạng chiến tranh và tình trạng khẩn cấp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” (02/6 ý kiến).
- Khoản 2, đề nghị bổ sung vào cuối khoản nội dung “Việc giới hạn quyền con người, quyền công dân do luật định” nhằm bảo đảm sự thống nhất với nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” được quy định tại khoản 2 Điều 20 (01/6 ý kiến).
- Đề nghị xem xét lại quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng” tại Khoản 2 Điều 15 vì một trong những đặc tính của quyền con người là tính bất khả xâm phạm. Quy định này vô hình chung “siết chặt” hơn quy định về quyền con người và quyền công dân và việc bổ sung có thể “lợi bất cập hại”, dễ gây suy diễn, hiểu lầm và có thể làm phức tạp thêm tình hình đấu tranh về nhân quyền (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “có thể”, bởi vì không nên thiết kế một quy phạm tùy nghi trong Hiến pháp (01/6 ý kiến).
Điều 16 (6 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị cân nhắc quy định nghĩa vụ này vì nghĩa vụ nào mà hiến định cần phải có tính xác định cao và tính cụ thể thì mới thuận tiện cho mọi người có thể áp dụng được và cũng thuận tiện cho việc quy định các biện pháp chế tài (01/6 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” bằng cụm từ “Quyền con người không tách rời với nghĩa vụ con người” (01/6 ý kiến); bổ sung cụm từ “và lợi ích hợp pháp” sau từ “quyền” , vì mỗi người không chỉ có quyền mà còn có lợi ích hợp pháp, và lợi ích hợp pháp phải được tôn trọng (02/6 ý kiến); bổ sung cụm từ “hợp pháp”, sửa thành “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền hợp pháp của người khác” (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung đoạn “mọi người có quyền được sống” vào cuối khoản này (01/6 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung: “Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xúc phạm, khiếu nại, tố cáo sai sự thật, xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích tập thể, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” (01/6 ý kiến).
Điều 17 (5 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị viết lại Điều này như sau: “Trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật" (01/5 ý kiến)
- Khoản 1, đề nghị thay từ “mọi người” bằng từ “công dân” (01/5 ý kiến).
- Khoản 2, Theo quy định tại khoản này, việc bổ nhiệm cán bộ trung, cao cấp trong các cơ quan trung ương phải có yếu tố đảng viên, cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp có được coi là phân biệt đối xử không? Do đó, cần cân nhắc để quy định khoản này có tính khái quát và chặt chẽ (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bỏ khoản 2, vì quy định tại khoản 1 mọi người đều bình đẳng trước pháp luật đã bao trùm cả nội dung của khoản 2 hoặc gộp hai khoản thành một (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm khoản 3 như sau: “Nhà nước cần có chính sách đặc thù, phù hợp với một số nhóm công dân cần được hỗ trợ đặc biệt như: trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi” (01/5 ý kiến).
Điều 18 (7 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị cần quy định rõ hơn thế nào là "nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài", khi công dân đó vi phạm luật pháp nước ngoài nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì xử lý như thế nào? có ảnh hưởng gì đến những hiệp ước mà chúng ta ký kết với các nước hay không? (01/7 ý kiến)
- Khoản 1, đề nghị sửa lại là: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam và không vi phạm pháp luật Việt Nam” (01/7 ý kiến).
- Đề nghị làm rõ thêm quy định tại khoản 2 và 3 đối với trường hợp công dân là người có nhiều quốc tịch (02/7 ý kiến). Đề nghị sửa lại khoản 2 như sau: “Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giao nộp cho nhà nước khác, trừ công dân có hai quốc tịch” (01/7 ý kiến).
Khoản 2, đề nghị thay từ “không thể” bằng từ “không bị” (01/7 ý kiến); từ “công dân” bằng cụm từ “người Việt Nam” (02/7 ý kiến); bỏ đoạn “giao nộp cho nhà nước khác” vì giao nộp nhà nước khác cũng là một trong những hình thức trục xuất (01/7 ý kiến).
- Khoản 2, đề nghị quy định cụ thể hơn với trường hợp công dân Việt Nam có 2 quốc tịch (01/7 ý kiến).
Điều 19 (5 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Tán thành với sửa đổi, bổ sung tại Điều 19 vì phù hợp với Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “định cư” ở khoản 1 và khoản 2 vì khái niệm “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” có phạm vi hẹp hơn khái niệm “Người Việt Nam ở nước ngoài”. Mặt khác, cụm từ “Người Việt Nam ở nước ngoài” đã được sử dụng trong Nghị quyết 36 “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc phân biệt giữa người Việt Nam định cư hay tạm cư, trong hay ngoài nước chỉ có ý nghĩa tương đối về không gian và thời gian, không hoàn toàn gắn với tư cách pháp lý, pháp nhân (03/5 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị giữ lại câu “Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài” theo quy định của Hiến pháp hiện hành (01/5 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung “là một nguồn lực” theo tinh thần Nghị quyết 36 vào khoản 1 Điều 19 cụ thể: “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam” (01/5 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị bổ sung cụm từ "và bảo vệ" vào trước cụm từ "quê hương đất nước" (1/5 ý kiến)
Điều 20 (2 ý kiến, trong đó có 1 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
Khoản 2
- Với quy định này thì vô hình chung chúng ta đã bó hẹp lại quyền của công dân, để quy định cho đầy đủ hơn và đảm bảo nguyên tắc này thì nên bổ sung thêm một cụm từ đằng sau đó là quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định hoặc là không trái với quy định của Hiến pháp và luật (01/2 ý kiến).
- Đề nghị sửa từ “luật” thành từ “pháp luật” hoặc cụm từ “các đạo luật do Quốc hội ban hành” (01/2 ý kiến).
Điều 21 (14 ý kiến, trong đó có 6 ý kiến ở cơ quan, 8 ý kiến cá nhân)
- Tán thành với Điều 21 vì quyền này phù hợp với Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã gia nhập (02/14 ý kiến).
- Đề nghị không nên để một điều quá ngắn. Nếu giữ lại thì nên bổ sung thêm là “theo Hiến pháp, pháp luật” (01/14 ý kiến).
- Điều này không rõ nghĩa, dễ gây hiểu lầm là không còn án tử hình và không cho phép phá thai…(01/14 ý kiến). Quy định rất chung chung, quy định như vậy có dẫn tới trường hợp vi hiến hay không khi Bộ luật hình sự vẫn quy định khung hình phạt tử hình (01/14 ý kiến).
- Đề nghị phương án sửa điều này lại để không mâu thuẫn với án tử hình như sau:
+ “Không một ai, một cơ quan nào có thể tước đoạt sinh mệnh, tự do hoặc tài sản của một cá nhân mà không theo một quy trình do pháp luật quy định” (01/… ý kiến)
+ “Công dân có quyền sống” (01/14 ý kiến)
+ “Mọi người đều có quyền sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định về tước quyền sống đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” (02/14 ý kiến)
+ Mọi người có quyền sống, việc tước bỏ quyền sống theo quy định của pháp luật (01/14 ý kiến).
- Điều này chỉ quy định “Mọi người có quyền sống”, chứ không quy định là mọi người có quyền được sống. Do vậy, không mâu thuẫn với việc duy trì án tử hình (01/14 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung nội dung quy định về quyền sống cho đầy đủ như Điều 6 Công ước; chuyển quy định về quyền này ngay sau Điều 16 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp vì quyền sống là quyền đầu tiên của con người, là tiền đề cho các quyền và nghĩa vụ khác (01/14 ý kiến).
- Đề nghị ghép Điều 21 và Điều 26 lại để quy định cho chặt chẽ, ngắn gọn (01/14 ý kiến); ghép Điều 21 và Điều 22 lại thành một điều là "mọi người sinh ra đều bình đẳng và có quyền sống, quyền tự do và nhu cầu hạnh phúc" (02/14 ý kiến); ghép với Điều 15 (4/14 ý kiến); ghép với Điều 32 để quy định như sau “Mọi người có quyền được sống, được bảo đảm an sinh xã hội” (01/14 ý kiến); ghép vào khoản 1 Điều 46 (02/14 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “tự do, bình đẳng, hạnh phúc” để làm rõ nghĩa hơn về quyền sống (01/14 ý kiến); bổ sung thêm cụm từ "và có quyền mưu cầu hạnh phúc" (03/14 ý kiến) hoặc “có quyền được học tập và mưu cầu hạnh phúc” vào cuối (01/14 ý kiến); bổ sung từ “sinh” trước “sống” (01/14 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu về quyền được chết (trường hợp sống thực vật, bệnh nặng…) (01/14 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung vào phần cuối câu “Không ai bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ” (01/14 ý kiến).
Điều 22 (8 ý kiến, trong đó có 6 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Không nên quy định điều này mà nên thể chế quy định quyền công dân trong hiến pháp (01/8 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu, bổ sung vấn đề chuyển đổi giới tính cho cụ thể hơn, phù hợp với tình hình xã hội hiện nay (01/8 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị giữ lại quy định Điều 71 (cũ) “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”. Việc giữ lại quy định này phù hợp với quy định tại Khoản 1, 2 Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; có ý nghĩa thực tiễn để đảm bảo quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể tại khoản 1 được thực hiện và là cơ sở của quy định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trái pháp luật của khoản 3 Điều 32 (04/8 ý kiến); bổ sung quy định “khi chưa có quyết định của tòa án thì không được giữ người quá 48 tiếng” để tránh trường hợp lạm dụng việc tạm giữ, tạm giam trong thời gian dài, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và thân thể (01/8 ý kiến).
- Bổ sung đoạn 2 của Điều 71 hiện hành, bỏ cụm từ “nhân dân” sau cụm từ “Toà án” và “Viện kiểm sát” (01/8 ý kiến).
- Đề nghị chỉnh sửa là “Mọi công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” cho chính xác hơn (01/8 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị bổ sung thêm vào cuối khoản đoạn “và theo quy định của luật” (01/8 ý kiến); “hoặc người giám hộ, người đại diện hợp pháp của người đó” (01/8 ý kiến); “người chưa thành niên phải được sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ” (01/8 ý kiến).
Điều 23 (10 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị viết lại “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình và được pháp luật bảo hộ” (01/10 ý kiến) hoặc “Công dân có quyền bảo vệ bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình” (02/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung “Không được phép thu thập, lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác nếu không được người đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép” nhằm bảo đảm các cơ quan có thẩm quyền, nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động điều tra (01/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “nhân phẩm” sau cụm từ “danh dự” (01/10 ý kiến).
- Đề nghị cần cân nhắc thêm cụm từ "bất khả xâm phạm về quyền riêng tư", vì trên thực tế rất khó phân biệt ranh giới về quyền riêng tư, nếu không thì nó phát sinh những vấn đề khiếu kiện trong quá trình mà thực hiện quyền riêng tư. Cần thể hiện lại như sau: "về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được nhà nước bảo vệ, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật" (01/10 ý kiến.
- Đề nghị bổ sung là mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người đều bị xử lý theo pháp luật (01/10 ý kiến)
Khoản 2
- Đề nghị cần tránh khe hở giải quyết được vấn đề trao quyền rồi, nhưng mà sau đấy vẫn dùng quyền đấy để sẵn sàng bóc mở bất cứ lúc nào (01/10 ý kiến).
- Việc quy định “việc bóc mở kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác do pháp luật quy định” và quy định “việc khám xét chỗ ở do luật định” tại Điều 37 dễ dẫn đến việc hiểu bóc thư tín có thể là không cần phải luật định, cũng không cần phải thẩm quyền của Quốc hội, do đó là các văn bản dưới luật có thể quy định được, trong khi việc khám xét chỗ ở thì do luật định, đề nghị cách viết các điều này phải thống nhất (01/10 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi đoạn 2 như sau: “Trong trường hợp thật sự cần thiết có quyền bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin” (01/10 ý kiến); thay cụm từ “theo quy định của pháp luật” bằng cụm từ “do pháp luật quy định” (01/10 ý kiến).
- Đề nghị quy định rõ các trường hợp được quyền bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin (01/10 ý kiến).
Điều 24 (2 ý kiến, trong đó có 1 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị bổ sung thêm 1 khoản là “"công dân có nghĩa vụ đăng ký thường trú, mọi người có nghĩa vụ thông báo nơi cư trú mới" (01/2 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “theo quy định của pháp luật” bằng mệnh đề “pháp luật sẽ quy định những điều không được làm của công dân” (01/2 ý kiến).
Điều 25 (ý kiến ở 3 cơ quan)
- Đề nghị sửa lại như sau:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm”. (01/3 ý kiến).
- Khoản 1, đề nghị bỏ cụm từ “theo hoặc không theo một tôn giáo nào” vì quy định “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” đã bao hàm nội dung này; thay từ “mọi người” thành từ “công dân” cho phù hợp và bảo đảm kế thừa các bản Hiến pháp trước đây. Khoản 2: đề nghị bổ sung quy định về nơi thờ tự “hợp pháp”, do hiện nay một số tôn giáo ở nhiều địa phương có vi phạm trong việc xây dựng, duy tu, sửa chữa cơ sở thờ tự và đang tồn tại một số cơ sở thờ tự trái phép (01/3 ý kiến).
- Khoản 1: Đề nghị bổ sung quy định “không ai có quyền bắt buộc theo hay không theo một tôn giáo nào”; Khoản 2: Đề nghị bổ sung quy định “không ai được xúc phạm đến niềm tin, lý tưởng, giáo lý của các tôn giáo đang sinh hoạt hợp pháp”. Nghiên cứu bổ sung các nội dung sau: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do bỏ đạo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào theo quy định của pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế. Được tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng phải đoàn kết giữa lương và giáo, các giáo phái, phải hòa hợp dân tộc và tôn giáo, bảo đảm an ninh quốc gia (giáo dân “sống theo Đảng, chết theo Chúa”, sống “tốt đời, đẹp đạo”) (01/3 ý kiến).
Điều 26 (1 ý kiến)
- Cần quy định có sự ràng buộc cụ thể khi thực hiện việc gì và đề nghị thêm cụm từ “được trưng cầu” sau từ “biểu tình”.
Điều 27 (13 ý kiến, trong đó có 8 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị viết lại điều này cho ngắn gọn hơn (01/13 ý kiến).
- Chỉ cần viết: “Công dân nam nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Ngoài sự bình đẳng giữa công dân nam và nữ, nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện (02/13 ý kiến).
Khoản 1
- Quy định “công dân nam, nữ bình đẳng…” vô hình trung đã loại bỏ những công dân là người chuyển giới hoặc người lưỡng giới tính. Do đó, đề nghị sử dụng từ “công dân” hoặc cụm từ “công dân không phân biệt giới tính” để bảo đảm quyền bình đẳng cho tất cả mọi người (03/13 ý kiến).
- Đề nghị viết lại là “Mọi công dân không phân biệt giới tính có quyền bình đẳng” (01/13 ý kiến) hoặc “Công dân bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” (01/13 ý kiến.
- Đề nghị bổ sung thêm câu: “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nam và nữ trên mọi lĩnh vực” (01/13 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “một cách dân chủ” vào sau ý “tham gia quản lý Nhà nước và xã hội”; bỏ cụm từ “có quyền ngang nhau” bởi vì “bình đẳng” là đủ (01/13 ý kiến); bỏ từ “nam, nữ” (02/13 ý kiến); bổ sung cụm từ “về cơ hội” sau từ bình đẳng” (01/13 ý kiến); đề nghị sửa khoản này như sau: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” (01/13 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa đổi khoản như sau: “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong gia đình và xã hội.”(01/13 ý kiến).
- Đề nghị bỏ “nhà nước có chính sách đảm bảo quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi mặt” (01/13 ý kiến); đề nghị thêm cụm từ "có trách nhiệm" và cụm từ "học tập" để nhấn mạnh cho rõ nghĩa, cụ thể như sau “... Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện để phụ nữ học tập, phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội" ” (02/13 ý kiến).
- Khoản 2 trùng lặp với khoản 1, đề nghị bỏ khoản này và sẽ cụ thể hóa trong các luật chuyên ngành (01/13 ý kiến).
Khoản 3
- Khó thực hiện vì phụ thuộc vào yếu tố dân trí và kiến thức v.v. (01/13 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung thêm về dân tộc, tôn giáo, màu da (01/13 ý kiến).
Điều 28 (3 ý kiến, trong đó có 2 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị ghép Điều này với Điều 30 viết lại là “công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử” (01/3 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung đoạn “trừ trường hợp đang bị giam giữ hoặc bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự” vào cuối Điều này để đảm bảo tính khả thi (01/3 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào phần cuối để loại trừ những người chưa bị tước quyền công dân đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc người vi phạm pháp luật (01/3 ý kiến).
Điều 29 (5 ý kiến, trong đó có 2 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Khoản 1, đề nghị làm rõ quyền tham gia của công dân trong quản lý nhà nước và xã hội vì khái niệm về quản lý nhà nước và xã hội quá rộng nên khó có khả năng thực hiện được quyền này trong thực tế. Đề nghị nên quy định “Công dân có quyền giám sát các hoạt động quản lý nhà nước ở xã hội và ở địa phương” cho phù hợp với thực tế (01/5 ý kiến); đề nghị bổ sung cụm từ “cơ sở” trước cụm từ “địa phương” (01/5 ý kiến).
- Khoản 2, đề nghị thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng cụm từ “tôn trọng và bảo đảm”(01/5 ý kiến) hoặc “bảo đảm điều kiện” (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm khoản 3 là “nghiêm cấm mọi hành vi của tổ chức, cá nhân ngăn cản quyền tham gia quản lý xã hội của công dân” (01/5 ý kiến).
Điều 30 (ý kiến ở 7 cơ quan)
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Việc trưng cầu dân ý được thực hiện theo quy định của pháp luật. Công dân có quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” (01/7 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định về những trường hợp cụ thể mà nhà nước phải trưng cầu ý dân nhất là những việc ở cơ sở liên quan trực tiếp đến người dân (02/7 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung về “quyền phúc quyết của nhân dân” như quy định tại Điều 70 Hiến pháp năm 1946, theo đó xác lập nguyên tắc các vấn đề trọng đại nhất thiết phải đưa ra cho nhân dân phúc quyết. Đây là cơ sở tiến tới xây dựng một đạo luật quy định cụ thể cách thức, trình tự, thủ tục thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (02/7 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định nhân dân có quyền kiến nghị hoặc yêu cầu tổ chức trưng cầu ý dân đối với những vấn đề mà nhân dân bức xúc (phải là vấn đề lớn, liên quan đến lợi ích quốc gia, quyền làm chủ của nhân dân,…) (01/7 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm quyền công dân là “đánh giá hoạt động của Quốc hội, điều hành của Chính phủ, các chức danh do Quốc hội, HĐND các cấp bầu hoặc phê chuẩn” để thực sự thể hiện dân chủ trực tiếp (01/7 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “quyền” bằng từ “nghĩa vụ” (01/7 ý kiến).
- Quy định “công dân có quyền…” ở Điều này không hợp lý, đề nghị quy định thống nhất như Điều 28 (01/7 ý kiến).
- Đề nghị gộp Điều này thành khoản 3 Điều 29 (01/7 ý kiến).
Điều 31 (6 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị giữ nguyên như Điều 74 Hiến pháp năm 1992 (01/5 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị viết lại là: "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan tổ chức, cá nhân khác" (02/6 ý kiến) hoặc “công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại” (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cả quyền khởi kiện (01/6 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “cơ quan nhà nước” bằng cụm từ “cơ quan, tổ chức, cá nhân”; Khoản 3, đề nghị viết lại là: “Người khiếu nại được pháp luật bảo vệ. Nghiêm cấm việc trả thù…” và bỏ từ “làm hại” vì hậu quả của hành vi vu khống, vu cáo đến mức nào thì bị xử lý sẽ do pháp luật quy định (01/6 ý kiến).
- Đề nghị xem xét lại cách diễn đạt từ ngữ cho nhất quán; viết lại khoản 1 như khoản 4, Điều 32; ghép câu “Người bị thiệt hại…pháp luật” của khoản 2 vào khoản 1 (01/6 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa đoạn cuối khoản 2 như sau: “Người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” (01/6 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị sửa lại như sau “nghiêm cấm tố cáo để vu khống” (01/6 ý kiến).
Điều 32 (10 ý kiến, trong đó có 8 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị quy định là: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” (01/10 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa đổi thành: “Không ai bị kết án hai lần về một hành vi phạm tội” cho dễ hiểu hơn (02/10 ý kiến) hoặc “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một hành vi phạm tội” (01/10 ý kiến) hoặc “Người bị buộc tội thì phải được Tòa án đưa ra xét xử. Không ai bị kết án 2 lần về cùng một hành vi phạm tội” (01/10 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi khoản 2 vì chưa thể hiện trọn vẹn nội dung quy định tại khoản 3,4 Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Việc diễn đạt quy định “không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” quá ngắn gọn dẫn đến chưa chính xác và chưa chặt chẽ như quy định tại khoản 7 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Đề nghị diễn đạt lại khoản 2 như sau: “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử trong thời hạn do luật định. Không ai bị xét xử hoặc bị trừng phạt hai lần về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án theo quy định của luật” (02/10 ý kiến).
- Đề nghị bỏ câu đầu khoản 2 (01/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “cùng một thời điểm” (01/10 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị sửa đổi bổ sung khoản 3 về việc người bị truy tố có quyền được nhận sự trợ giúp pháp lý chỉ định miễn phí theo quy định của luật và quyền có sự trợ giúp pháp lý theo lựa chọn của họ, phù hợp với nội dung quy định tại điểm d khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 như sau:“Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền được nhận sự trợ giúp pháp lý chỉ định miễn phí theo quy định của luật; có quyền chọn lựa sự trợ giúp pháp lý theo yêu cầu trong các trường hợp khác” (02/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “trừ trường hợp xâm phạm an ninh quốc gia” vào cuối (01/10 ý kiến); bổ sung thêm cụm từ “thi hành án” sau từ "xét xử" (01/10 ý kiến); bỏ cụm từ “có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa”, bởi vì cụm từ này đã được quy định ở Luật trợ giúp pháp lý và Luật luật sư (01/10 ý kiến).
- Khoản này chưa thống nhất với khoản 7 Điều 108 Dự thảo, quy định tại khoản 7 Điều 108 rõ ràng hơn, vì vậy cân nhắc lại khoản này (01/10 ý kiến).
Khoản 4
- Bổ sung từ “nghiêm minh” vào sau từ “xử lý” (01/10 ý kiến); bổ sung từ “yêu cầu” sau cụm từ “có quyền” (01/10 ý kiến).
Điều 33 (4 ý kiến, trong đó có 2 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị sửa đổi khoản 2 như sau: “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ” (01/4 ý kiến).
- Đề nghị quy định gọn, không liệt kê tất cả các tài sản vừa thừa lại vừa thiếu (01/4 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc đưa nội dung quy định này về Chương III - Kinh tế…. Bởi vì, quyền sở hữu hợp pháp khác với quyền sở hữu tư nhân, nếu nói quyền sở hữu tư nhân tức là nói chế độ sở hữu do đó quy định ở Chương này không hợp lý. Hơn nữa, nếu chỉ nói sở hữu tư nhân được bảo hộ còn sở hữu Nhà nước, sở hữu chung, sở hữu tập thể? (01/4 ý kiến).
- Đề nghị khẳng định trong Hiến pháp quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế (01/4 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quyền sử dụng đất vào quyền sở hữu; bổ sung về việc pháp luật bảo hộ đối với các quyền sở hữu khác (01/4 ý kiến)
Điều 34 (5 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị bỏ, vì trùng lắp với khoản 1 Điều 56 (01/5 ý kiến).
- Đề nghị viết lại Điều này cho gọn là “Mọi người có quyền được tự do kinh doanh và được nhà nước bảo vệ quyền tự do kinh doanh đó theo pháp luật” (01/5 ý kiến) hoặc “Quyền tự do kinh doanh chỉ được giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức và sức khỏe, lợi ích của cộng đồng theo quy định của pháp luật.” (01/5 ý kiến)
- Khoản 1, đề nghị bổ sung“theo quy định của pháp luật” cho thống nhất với Điều 57 là “tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước theo quy định của pháp luật” hoặc “theo pháp luật” như HP92 (02/5 ý kiến).
Điều 35 (6 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị sửa thành “Công dân có nghĩa vụ tham gia và có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (01/6 ý kiến); “Nhà nước có chính sách để bảo đảm an sinh xã hội cho công dân” hoặc “Công dân có quyền an sinh xã hội, được bảo đảm những nhu cầu cơ bản tối thiểu.”(01/6 ý kiến)
- Đề nghị cân nhắc quy định này, do an sinh xã hội là vấn đề lớn, gồm nhiều mặt: khám, chữa bệnh, học hành, thất nghiệp, nhà ở,... Nhà nước không thể bảo đảm hết mọi mặt được (01/6 ý kiến).
- Bỏ quy định “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước…” là không phù hợp, vì nhóm đối tượng đặc biệt này là những người có công với nước, đóng góp phần xương máu cho Tổ quốc; đề nghị giữ nguyên Điều 67 của Hiến pháp hiện hành (01/6 ý kiến).
- Đề nghị không nên để chữ "có quyền", nếu không thì phải cân nhắc lại nên quy định như thế nào để đảm bảo được cho dân nhưng không trở thành hình thức mà cũng không để sau này chúng ta lại phải mắc nợ với dân (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm một khoản là Khoản 2 khẳng định thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng được chăm sóc, khen thưởng và hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung từ chỉ chủ thể “Nhà nước” trước cụm từ “bảo đảm an sinh xã hội”(01/6 ý kiến).
Điều 36 (ý kiến ở 3 cơ quan)
- Khoản 1, đề nghị bổ sung cụm từ “Không được di dân tự do” vào sau cụm từ “có nơi ở hợp pháp”, sửa lại thành “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp, không được di dân tự do” vì hiện nay việc di dân tự do diễn biến phức tạp (01/3 ý kiến).
- Khoản 1, đề nghị bổ sung cho rõ (theo quy định của Luật cư trú) và sửa là: “Công dân có quyền có nhà ở, đất ở, nơi ở hợp pháp” (01/3 ý kiến); thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” (01/3 ý kiến).
Điều 37 (ý kiến ở 1 cơ quan)
- Khoản 2, đề nghị bỏ cụm từ “hợp pháp”, tránh áp dụng tùy tiện, xâm phạm quyền cơ bản của công dân.
Điều 38 (7 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị cần quy định rõ hơn đảm bảo ngắn gọn, dễ hiểu (01/7 ý kiến); bổ sung cụm từ “”Nhà nước có chính sách bảo đảm” vào đầu khoản 1 (01/7 ý kiến).
- Đề nghị viết lại như sau: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc. Nhà nước, xã hội, gia đình ưu tiên việc làm phù hợp đối với nữ” (01/7 ý kiến).
- Đề nghị quy định “Công dân có quyền làm việc” hoặc sửa đổi như sau “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi người có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc” (01/7 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung vào cuối khoản này cụm từ “theo quy định của pháp luật” (01/7 ý kiến).
Khoản 2
- Quy định “nghiêm cấm sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật” là chưa đủ vì ngoài đối tượng này còn có người già, phụ nữ có thai, tàn tật v.v. (01/7 ý kiến). Có thể quy định chung là “nghiêm cấm sử dụng lao động trái quy định của pháp luật”, chi tiết sẽ thể hiện trong Luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật khác (01/7 ý kiến).
Hoặc sửa lại là: "Cấm các hành vi không thực hiện chính sách hỗ trợ lao động dành cho phụ nữ với tư cách là người mẹ trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động; hành vi sử dụng người lao động chưa đủ tuổi thành niên trái pháp luật" (01/7 ý kiến).
Hoặc: Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng người lao động chưa thành niên trái pháp luật và nghiêm cấm các hành vi không thực hiện các chính sách hỗ trợ dành cho lao động nữ” (01/7 ý kiến).
- Bổ sung khoản 3 như sau: “Nhà nước đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động, quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động” (01/7 ý kiến)
Điều 39 (8 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 4 ý kiến cá nhân)
- Đề xuất sửa đổi Điều 39 như sau:
“1. Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
2. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn theo luật. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
3. Nghiêm cấm mọi hành vi bạo lực gia đình.”(01/8 ý kiến).
- Đề nghị giữ nguyên câu “gia đình là tế bào của xã hội, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành công dân tốt, con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà cha mẹ” ở Điều 64 của HP92 trong dự thảo mới vì đây là nền tảng của đạo đức xã hội; giữ lại nội dung của Điều 66 của HP92 về vai trò của thanh niên, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, xã hội đối với thanh niên (01/8 ý kiến).
Khoản 1
- Việc quy định “Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn” không bảo đảm quyền kết hôn và lập gia đình cho người đồng tính, song tính và chuyển giới. Vì vậy, đề nghị sửa lại điều luật này là: “Mọi công dân có quyền kết hôn và ly hôn. Hai người độc thân có quyền kết hôn theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, tôn trọng lẫn nhau”. Đề nghị đưa nội dung:“Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ” đã được quy định tại Điều 64 của Hiến pháp hiện hành vào Điều này để thể hiện đạo lý, văn hóa và trách nhiệm của người Việt Nam (01/8 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “tiến bộ” vì không rõ nghĩa (01/8 ý kiến); thay các từ “nam” “nữ” bằng cụm từ “mọi người” (02/8 ý kiến) hoặc “công dân” (01/8 ý kiến); bổ sung cụm từ “yêu thương, giúp đỡ” sau cụm từ “lẫn nhau” và bổ sung thêm đoạn cuối “cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc” (01/8 ý kiến); bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối khoản này (01/8 ý kiến)
- Khoản 2, đề nghị bỏ cụm từ “bảo hộ” vì không phát huy được giá trị thực tế của gia đình; bổ sung từ “hợp pháp” sau từ “gia đình” (01/8 ý kiến)
- Khoản 3, đề nghị bổ sung nội dung “Cấm hôn nhân cận huyết thống” (01/8 ý kiến)
Điều 40 (4 ý kiến, trong đó có 2 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị viết lại như sau: “Trẻ em có quyền được gia đình, nhà trường, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Nhà nước có các chính sách nhằm phát triển toàn diện cho trẻ em đặc biệt là trẻ em gái” (01/4 ý kiến).
- Đề nghị quy định cụ thể để thể hiện rõ trẻ em ở đây là dưới 18 tuổi (01/4 ý kiến).
- Quyền trẻ em chưa thể hiện hết nội dung Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam đã ký kết; đề nghị quy định về quyền được tham gia của trẻ em trong Hiến pháp. Nên sửa khoản 1 lại là: "Trẻ em có quyền được Nhà nước cùng gia đình, nhà trường, xã hội và cộng đồng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” (01/4 ý kiến).
Khoản 2:
- Đề nghị bổ sung nghiêm cấm các hành vi “sao nhãng, bị bắt cóc, bị buôn bán ở trẻ em” (01/4 ý kiến).
- Đề nghị viết lại như sau: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử trẻ em, xúi giục, lôi kéo, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (01/4 ý kiến).
Điều 41 (ý kiến ở 2 cơ quan)
Khoản 1
Đề nghị sửa lại là “mọi người có quyền bảo vệ sức khỏe” cho đầy đủ hơn (01/2 ý kiến) hoặc “Mọi người có quyền được bảo vệ sức khỏe; bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.”01/2 ý kiến).
Điều 42 (8 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị nên có một chế định kèm theo khẳng định nhà nước tạo điều kiện cho công dân được học tập vì đây là trách nhiệm của nhà nước trong điều kiện xây dựng xã hội học tập và xã hội hóa các hoạt động học tập (01/8 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau:
“ 1. Mọi người có quyền và nghĩa vụ học tập, học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức.
2. Giáo dục tiểu học là bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người.
3. Nhà nước và xã hội cần tạo điều kiện để học sinh có năng khiếu được học tập để phát triển tài năng.
4. Nhà nước và xã hội cần tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được học văn hóa và học nghề phù hợp” (02/8 ý kiến)
Hoặc sửa đổi thành“Nhà nước có chính sách bảo đảm cho công dân học tập” (01/8 ý kiến).
- Nội dung Điều này mới quy định trách nhiệm của công dân mà chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước, trên thực tế có nhiều người rất muốn học tập nhưng không thể học được vì nhiều lý do như nghèo, gia cảnh khó khăn, thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước. Do đó đề nghị bổ sung nội dung như sau “Nhà nước có trách nhiệm thực hiện chính sách học phí, học bổng phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước” (01/8 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung đoạn: “Học tập là quyền và nghĩa vụ công dân; giáo dục mầm non, bậc tiểu học là giáo dục bắt buộc không phải trả tiền học, không phải trả học phí” (01/8 ý kiến).
- Đề nghị giữ lại câu “ Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” của Điều 59 Hiến pháp hiện hành (3/8 ý kiến).
- Đề nghị giữ quy định “giáo dục trung học cơ sở là bắt buộc” như quy định hiện hành của Hiến pháp 1992 và bỏ từ “miễn phí”, vì nước ta có một bộ phận cư dân đời sống khá hơn, cho nên không thể bao cấp tất cả (01/8 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “công dân” bằng “mọi người” (01/8 ý kiến).
Điều 43 (6 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị bổ sung nội dung tại khoản 1:“Mọi người có quyền tự do nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật”, phù hợp với khoản 3 Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 quy định các nước thành viên cam kết tôn trọng quyền tự do không thể thiếu đối với nghiên cứu khoa học và các hoạt động sáng tạo (02/6 ý kiến).
- Đề nghị viết lại thành “Mọi người có quyền nghiên cứu.., nghệ thuật; công bố kết quả và được nhà nước bảo hộ kết quả theo luật định” (01/6 ý kiến).
- Đề nghị thay “mọi người” bằng “công dân” (01/6 ý kiến); bổ sung “theo quy định của pháp luật”; bổ sung từ “sáng tạo” để phù hợp với Khoản 2 Điều 67 (01/6 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị sửa đổi khoản 2 như sau: “Quyền sở hữu trí tuệ được nhà nước tôn trọng và bảo vệ” (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “trong thời gian hạn định”, như vậy sửa khoản 2 thành “Quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước bảo hộ trong thời gian hạn định” cho phù hợp với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và công ước quốc tế (01/6 ý kiến).
- Đề nghị đưa khoản 3 của Điều 67 lên thành Đoạn 2 của khoản này, gắn quyền nghiên cứu KH&CN, sáng tạo văn học, nghệ thuật với trách nhiệm của Nhà nước; nên viết lại thành “Mọi người có quyền...nghệ thuật. Nhà nước tạo thuận lợi cho mọi người tham gia và được hưởng thụ lợi ích từ các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và sáng tạo văn học, nghệ thuật” (01/6 ý kiến).
Điều 44 (ý kiến ở 3 cơ quan)
- Tán thành với nội dung Điều 44, phù hợp với quy định tại điểm a,b khoản 1 Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (01/3 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi Điều 44 vì cách thể hiện tại Dự thảo chưa thể hiện đúng quy định tại Công ước và tiềm ẩn khả năng suy diễn “quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa” là quyền được hưởng thụ miễn phí các giá trị văn hóa, trong đó giá trị văn hóa bao gồm cả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, nghĩa là có nguy cơ mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 43 “quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước bảo hộ”. Đề nghị sửa đổi Điều 44 như sau: “Mọi người có quyền hưởng thụ các tiến bộ khoa học và các ứng dụng tiến bộ khoa học; quyền tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa”, bỏ khoản 3 Điều 67 vì nội dung này đã bao hàm trong Điều 44 được đề xuất viết lại như trên (02/3 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung “mọi người có quyền hưởng thụ, nâng cao, phát triển các giá trị văn hóa...” và thêm “mọi người có nghĩa vụ bảo vệ, giữ gìn các cơ sở văn hóa, các giá trị văn hóa” (01/3 ý kiến).
Điều 45 (9 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị cân nhắc nội dung Điều này, bởi vì quy định “Sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ” nhưng không biết mẹ đẻ, cha đẻ là ai thì sẽ sử dụng ngôn ngữ nào; hoặc quy định “tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”, vậy trường hợp thầy giáo hỏi bằng tiếng Việt, học sinh trả lời bằng tiếng Mường được không? (01/9 ý kiến).
- Đề nghị chỉnh sửa thành “Mọi người ai cũng có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (01/9 ý kiến) hoặc “Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ ngôn ngữ của tất cả các dân tộc” (01/9 ý kiến) hoặc “Công dân có quyền xác định dân tộc, giới tính của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (01/9 ý kiến)
+ Đề nghị quy định “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình” do quyền sử dụng ngôn ngữ đã được quy định tại khoản 3 Điều 5 (01/9 ý kiến).
- Quy định “Công dân có quyền ... sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” như trong Dự thảo sẽ dẫn đến khó khăn khi thực hiện trên thực tế. Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại điều này thành: “Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ ngôn ngữ của các dân tộc khác” (01/9 ý kiến).
- Việc quy định là "công dân có quyền được xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp" so với quy định của Toà án tại Điều 133 của hiến pháp hiện hành thì nó hẹp hơn nhưng lại rất rộng ở trong đời sống thường ngày như vậy thì tính khả thi của quy định này rất cần phải xem lại (01/9 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ "sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp" thành "sử dụng ngôn ngữ dân tộc mình, quyền lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp" (03/9 ý kiến); thay từ “tự do” thành “quyền” (01/9 ý kiến); bổ sung từ “được” vào sau cụm từ “có quyền” (01/9 ý kiến).
Điều 46 (ý kiến ở 3 cơ quan)
Khoản 1
- Đề nghị quy định rõ môi trường trong lành là như thế nào? (01/3 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung vào cuối khoản đoạn “và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” (01/3 ý kiến).
Khoản 2
- Quy định tại khoản này và khoản 1 Điều 68 trùng nhau, đề nghị xem xét lại cho phù hợp; nên bỏ khoản này vì Điều 68 đã bao hàm nội dung này (01/3 ý kiến).
Điều 47 (6 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị sửa lại là “Mọi người có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” vì có trường hợp phạm nhân đã mất quyền công dân nhưng trong lòng họ vẫn có Tổ quốc và yêu nước (01/6 ý kiến).
- Đề nghị xác định rõ tội phản bội Tổ quốc là như thế nào (01/6 ý kiến).
- Quy định phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất được viết như văn nói, đề nghị thể hiện lại cho đúng với thuật ngữ pháp lý, chẳng hạn như “… phản bội Tổ quốc là tội đặc biệt nghiêm trọng” (01/6 ý kiến).
- Đề nghị thay đoạn “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” bằng đoạn “Phản bộ Tổ quốc sẽ bị nghiêm trị” (01/6 ý kiến); thay “tội nặng nhất” thành “tội lớn”, luật cụ thể sẽ quy định về mức độ (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bỏ câu “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.” (02/6 ý kiến)
Điều 48 (8 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị cân nhắc khi quy định “nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự” trong Dự thảo; có thể quy định rõ hơn, tránh gây hiểu nhầm là công dân được quyền thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự và viết lại như sau:
“Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân;
Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân;
Công dân được (hoặc viết là Trường hợp Nhà nước không gọi thực hiện nghĩa vụ quân sự thì công dân được) thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định”.
- Đề nghị viết lại thành “Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân theo luật định” (01/8 ý kiến).
- Đề nghị sửa lại là “công dân có quyền thực hiện nghĩa vụ quân sự” cho rõ nghĩa (01/8 ý kiến) hoặc “Công dân có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ quân sự” (01/8 ý kiến).
- Đề nghị bỏ câu “việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định” (02/8 ý kiến).
- Đề nghị thay câu “việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định” bằng câu “nếu không được gọi làm nghĩa vụ quân sự tại ngũ thì có nghĩa vụ lao động đóng góp xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo luật định" ; thay từ “phải làm” bằng cụm từ “có trách nhiệm” (01/8 ý kiến); thay cụm từ "làm nghĩa vụ quân sự" thành cụm từ "thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc" (02/8 ý kiến).
Điều 49 (ý kiến ở 1 cơ quan)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “tham gia xây dựng nền an ninh nhân dân” và viết lại như sau: “Công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tham gia xây dựng nền an ninh nhân dân, chấp hành những qui tắc sinh hoạt công cộng”.
Điều 50 (5 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Nội dung quy định tại Điều này không chính xác, bởi vì quy định “mọi người” nhưng thực tế chỉ có những đối tượng do luật quy định mới phải nộp thuế (01/5 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật”, vì trên thực tế ngoài nghĩa vụ nộp thuế thì công dân còn thực hiện rất nhiều nghĩa vụ tài chính khác (01/5 ý kiến).
- Đề nghị sửa lại là “Mọi người có thu nhập có nghĩa vụ nộp thuế” để tránh hiểu lầm người không có thu nhập, trẻ em cũng phải nộp thuế (01/5 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “công dân” bằng từ “mọi người”; bổ sung cụm từ “ theo quy định của pháp luật” cho chặt chẽ hơn, cụ thể là “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật” (03/5 ý kiến).
Điều 52 (ý kiến ở 1 cơ quan)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “nhân phẩm” sau cụm từ “tính mạng” vì đối với người nước ngoài cư trú ở Việt Nam, bên cạnh việc bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam, Nhà nước còn có trách nhiệm bảo hộ nhân phẩm của những người này.
Điều 52 (ý kiến ở 3 cơ quan)
- Đề nghị sửa đổi thành: “Người nước ngoài đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú”. Quy định như vậy đầy đủ, bao quát và chính xác hơn vì cách hiểu “chủ nghĩa xã hội” hiện nay rất khác nhau (02/3 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “sự nghiệp khoa học” bằng “sự tiến bộ xã hội” cho bao quát hơn (01/3 ý kiến).
4. Về Chương III, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 65 ý kiến góp ý vào Chương III, trong đó có 14 ý kiến ở cơ quan, 51 ý kiến của cá nhân.
- Ý kiến tập trung vào các Điều 54, 58, 62.
- Về tên chương:
+ Đề nghị đặt tên Chương là “Phát triển kinh tế - xã hội”, tránh cách viết liệt kê vừa không đủ, vừa dài; bổ sung thêm cụm từ “tài nguyên thiên nhiên” cho phù hợp với nội dung của Chương; đề nghị thể hiện khái quát nhất, cốt lõi nhất, cô đọng nhất các nội dung của Cương lĩnh dưới văn phong Hiến pháp. (01/65 ý kiến).
+ Đề nghị đổi tên Chương thành “Kinh tế và xã hội”. Tiếp tục rà soát lại một số điều, khoản để quy định cho thống nhất với các điều, khoản liên quan tại Chương II; thể hiện lại ngôn ngữ cho đúng văn phong pháp lý. Đề nghị quy định cụ thể, rõ ràng hơn đối với giáo dục, y tế, không nên đặt mục tiêu chung chung “giáo dục tiên tiến, khoa học hiện đại” (01/65 ý kiến).
- Về nội dung:
+ Chưa thể hiện được mối quan hệ giữa kinh tế, xã hội và môi trường là quan điểm lớn cần thể hiện trong Hiến pháp, thiếu yếu tố tài nguyên (01/65 ý kiến)
+ Đề nghị xem xét có ghi nhận vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong Hiến pháp không; có tiếp tục hiến định đất đai thuộc sở hữu toàn dân không; sử dụng khái niệm “thu hồi đất” hay “trưng thu/trưng mua” mới chính xác (01/65 ý kiến).
+ Đề nghị tách ra thành Chương “Chế độ kinh tế” riêng như Hiến pháp 1992, nhưng cần bổ sung việc phát triển bền vững, việc bảo vệ tài nguyên môi trường, gắn với phát triển kinh tế xanh (01/65 ý kiến).
+ Đề nghị đưa Điều 54 lên trước Điều 53 để khẳng định mô hình của nền kinh tế (02/65 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu sắp xếp các Điều 66 và 67 về thành một Điều có nhiều khoản để cho ngắn gọn, không trùng lặp, rườm rà; đảm bảo quy định có sự thống nhất giữa khoa học và giáo dục; từ đó tạo điều kiện cho đầu tư tập trung, tránh dàn trải nhằm thực hiện được nguyên tắc “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” (02/65 ý kiến)
+ Đề nghị: Bổ sung một khoản tại Chương III quy định về: (1)Kinh tế tri thức để khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tri thức. (2)Chính sách trọng dụng nhân tài vì đây là chính sách bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng cao trong phát triển kinh tế, cần đề cao để trở thành quốc sách quan trọng (02/65 ý kiến )
+ Việc quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản dễ dẫn đến mâu thuẫn vì đã xác định quyền sử dụng đất là quyền tài sản tức là có quyền sở hữu và các quyền liên quan, việc thu hồi đất là không hợp lý vì quyền tài sản thì nhà nước phải trưng mua, trưng thu (02/65 ý kiến)
+ Đề nghị thuyết minh cụ thể hơn về việc ghép hai chương II và III của Hiến pháp hiện hành thành Chương III như Dự thảo để làm rõ hơn tuyên ngôn của Nhà nước về nội dung kinh tế và các nội dung có liên quan là văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường. (02/65 ý kiến)
+ Những vấn đề về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, công nghệ và môi trường là những phạm trù có thể thay đổi theo thời gian và định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước ta trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, do đó, trong Hiến pháp cần tiếp tục rà soát để quy định khái quát hơn nữa, mang tính nguyên tắc để bảo đảm tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp. Vì vậy, các điều 52, 55, 56, 63, 64, 66, 67 cần được viết khái quát, cô đọng để vừa ngắn gọn, vừa bao quát hết được nội hàm cần quy định (02/65 ý kiến)
+ Dự thảo nhấn mạnh đường lối ưu tiên phát triển từng lĩnh vực văn học, nghệ thuật, giáo dục, khoa học và công nghệ (các điều 65, 66 và 67). Tuy nhiên, với quy định như vậy quá chi tiết trong khi không thể bao hàm các lĩnh vực khác cũng rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước (02/65 ý kiến).
- Về bố cục Chương:
+ Đề nghị sửa đổi Điều 62 và Điều 66 để làm nổi bật vai trò, trách nhiệm chủ đạo của Nhà nước trong việc đầu tư và phát triển 02 lĩnh vực này; đề nghị thiết kế một điều riêng về chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn (người cao tuổi, khuyết tật, trẻ mồ côi, đồng bào sống ở vùng khó khăn) được hưởng chính sách ưu đãi theo luật; ghép Điều 62 và Điều 41 lại theo logic thể hiện quyền, nghĩa vụ rồi đến bảo đảm của Nhà nước như sau:
“- Công dân (hay mọi người) có quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong tiếp cận và được cung cấp các dịch vụ y tế.
- Có nghĩa vụ thực hiện các quy định phòng bệnh, khám, chữa bệnh…
- Nhà nước đảm bảo để mọi người được chăm sóc sức khỏe.
- Nhà nước ban hành chính sách đầu tư …
- Phát triển nền y học Việt Nam.”(01/65 ý kiến)
+ Đề nghị bổ sung các nội dung liên quan nhằm quy định rõ về ngân sách nhà nước, nguyên tắc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, quỹ ngân sách nhà nước như sau:
“Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Thu ngân sách nhà nước phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Không được phép đặt ra các khoản thu, chi trái với quy định của pháp luật.
Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi đã có trong dự toán ngân sách được giao; bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước phải được hạch toán, kế toán, kiểm toán, quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ.
Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển.
Quỹ ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay, có trên tài khoản của ngân sách nhà nước các cấp. Quốc hội quyết định việc thành lập quỹ. Không được phép hình thành các quỹ ngoài NSNN nếu chưa được Quốc hội quyết định”. (01/65 ý kiến)
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 53 (8 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị bổ sung việc xây dựng nền kinh tế tri thức vào điều này (02/8 ý kiến)
- Không nên ghép Điều 15 với Điều 43 vì hai lĩnh vực khác nhau, việc ghép lại như vậy là không phù hợp, nên giữ lại Điều 15 của Hiến pháp hiện hành (01/8 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “phát triển” trước cụm từ “độc lập tự chủ”(01/8 ý kiến), diễn đạt lại điều này cho khái quát, chặt chẽ hơn như sau: Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, tích cực hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường (01/8 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “hội nhập quốc tế” bằng cụm từ “hợp tác quốc tế” tại Điều 53 cho phù hợp với chủ trương và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện hay của Việt Nam. (01/8 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc lại việc quy định nội dung “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tại Điều này (01/8 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung mục đích, yêu cầu phát triển bền vững (02/8 ý kiến)
Điều 54 (10 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân)
- Nhất trí với dự thảo (5/10 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung quy định cụ thể các hình thức sở hữu vốn và thành phần kinh tế để làm cơ sở cho việc xây dựng hành lang pháp lý vận hành nền kinh tế theo định hướng đổi mới của Đảng (2/10 ý kiến).
- Đề nghị nên khẳng định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân (4/10 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung sở hữu nhà nước là nền tảng để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế đã được quy định trong dự thảo (01/10 ý kiến)
- Đề nghị giữ lại Điều 19 chuyển thành khoản 3 của điều này (01/10 ý kiến)
- Nhất trí với việc sửa Điều 15, Điều 16 Hiến pháp hiện hành nhưng cần sửa đổi, bổ sung một cách hợp lý theo quy định của cương lĩnh, của Đảng đó là thúc đấy xã hội hoá các thành phần kinh tế và sở hữu (01/10 ý kiến)
- Đề nghị chuyển Điều 54 thành Điều 53 để bảo đảm logic; đánh giá cao việc bỏ cụm từ “doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo” và thể hiện bao quát như nội dung tại điều này (01/10 ý kiến). Tuy nhiên có ý kiến đề nghị thể hiện lại vai trò kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể trong Hiến pháp cho thống nhất với Cương lĩnh xây dựng đất nước (01/10 ý kiến).
+ Đề nghị cân nhắc thể hiện các nội dung trong Điều này phù hợp với tính chất của một bản Hiến pháp là văn bản pháp lý tồn tại lâu dài, khác với các nghị quyết của Đảng chỉ áp dụng cho một thời kỳ nhất định;đề nghị bổ sung, sửa đổi Điều này theo hướng chỉ thể hiện nội hàm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam mà không đi theo cách thể hiện khẳng định cứng nhắc, cụ thể như sau:
“1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế gồm nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật; trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực có tầm quan trọng đối với an ninh, quốc phòng, tạo ra hàng hóa thiết yếu cho nền kinh tế và những ngành đặc thù.” (01/10 ý kiến)
- Các quy định về chế độ kinh tế chưa phản ánh cụ thể, đầy đủ các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc khắc phục, hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, đề nghị:
+ Quy định rõ nội hàm khái niệm kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa” là nền kinh tế thị trường được xây dựng và bảo đảm phát triển bởi Nhà nước xã hội nghĩa, có đầy đủ đặc trưng của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; thể hiện rõ hơn về chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
+ Quy định nhằm nhấn mạnh hơn đến vai trò của nhà nước. Theo đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thể hiện vai trò định hướng, điều tiết, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn liền với giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, bảo đảm công bằng, an sinh xã hội vì lợi ích của nhân dân.
+ Quy định rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nhằm tránh cách hiểu và áp dụng chưa thống nhất, tạo cạnh tranh không bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (01/10 ý kiến)
Khoản 1:
- Đề nghị bổ sung thêm cho đầy đủ là “nền kinh tế Việt Nam…xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” (02/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối” vào cuối khoản để làm rõ hơn tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không chỉ bó hẹp ở quan hệ sở hữu hay thành phần kinh tế. (01/10 ý kiến)
- Đề nghị giữ quy định về mục đích chính sách kinh tế tại Điều 16 của Hiến pháp hiện hành và quy định tại Điều 19 của Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện đầy đủ kết luận của Trung ương khi Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp xin ý kiến Bộ Chính trị về vấn đề này, quy định tại Dự thảo là quá chung chung, khó thực hiện; việc khẳng định rõ nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm mục đích thỏa mãn ngày càng cao về vật chất, tinh thần của nhân dân;cần cân nhắc việc không quy định kinh tế nhà nước làm vai trò chủ đạo, bởi vì nếu không quy định như vậy thì một số bộ phận cấu thành kinh tế nhà nước như doanh nghiệp nhà nước, hệ thống bảo hiểm cũng sẽ bình đẳng cạnh tranh theo quy luật thị trường và tuân thủ pháp luật? (01/10 ý kiến)
Khoản 2:
- Đề nghị thay “lâu dài” thành “bền vững” cho chính xác hơn (01/10 ý kiến); bỏ cụm từ “lâu dài” vì đây là khái niệm chung chung, khó xác định thế nào là lâu dài (01/10 ý kiến); bỏ các cụm từ “cùng phát triển lâu dài, hợp tác”; “và cạnh tranh theo pháp luật” vì trùng lặp với Điều 56 (01/10 ý kiến).
- Đề nghị quy định bổ sung nội dung “các thành phần kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”; sửa đổi lại thành “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” để khẳng định tất cả các thành phần kinh tế cũng phải phát triển theo định hướng chủ nghĩa xã hội; bổ sung nội dung “nhà nước đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi bình đẳng để các thành phần kinh tế có thể phát triển, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước” cho rõ ràng hơn; bổ sung nội dung “Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho từng thành phần kinh tế theo yêu cầu phát triển của đất nước trong mỗi thời kỳ” cho đầy đủ; cân nhắc giữ quy định về “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”; giữ quy định về vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể do hiện nay Nhà nước nắm giữ một khối lượng tài sản lớn như đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi thủy sản..., hơn nữa; cân nhắc lại quy định về các thành phần kinh tế “bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” vì dưới góc độ pháp lý, không có sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế mà chỉ có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (01/10 ý kiến).
Điều 55 (3 ý kiến, trong đó có 2 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị cân nhắc lại quy định “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường” vì thực tế hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa hay kinh tế thị trường nhưng có quản lý nhà nước, còn quy luật thị trường mới chỉ tồn tại ở mức độ nhất định và được áp dụng trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong giai đoạn quá độ và tiến lên chủ nghĩa xã hội. (01/3 ý kiến); đề nghị bỏ quy định về Nhà nước “xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế” vì muốn bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường thì trong quá trình điều hành nền kinh tế tất yếu phải xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế. (01/3 ý kiến)
- Có ý kiến cho rằng: Điều này nên thể hiện rõ ràng hơn cụ thể cần nhấn mạnh: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều hình thức tổ chức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Mục đích phát triển kinh tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Ngoài ra chỉ cần nêu rõ các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Nếu nêu rõ 4 thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo sẽ không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, có thể sẽ làm cản trở quá trình phát triển cạnh tranh lành mạnh của các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển tất yếu sẽ có sự thay đổi về cấu trúc nền kinh tế và các thành phần kinh tế. Hiến pháp phải đảm bảo tính ổn định, nếu nêu 4 thành phần kinh tế sẽ khó đảm bảo tỉnh ổn định của Hiến pháp. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo sẽ dẫn đến độc quyền, nhà nước khó kiểm soát trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (01/3 ý kiến)
Khoản 1
- Đề nghị không bỏ từ “bảo đảm” (01/ 3 ý kiến)
Điều 56 (4 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Chưa bao quát đầy đủ, toàn diện các nghĩa vụ tài chính của công dân, vì trên thực tế, các cá nhân ngoài nghĩa vụ nộp thuế còn phải thực hiện nhiều nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật (như nộp các khoản phí, lệ phí, các khoản đóng góp tài chính mang tính bắt buộc khác...). Quy định tại Điều này chưa đồng bộ và phù hợp để xác định rõ hơn, đầy đủ và toàn diện hơn trách nhiệm, nghĩa vụ tài chính của công dân đối với đất nước (01/4 ý kiến).
- Đề nghị xem xét giữ nguyên một số nội dung quy định tại Điều 25 HP92 về chính sách khuyến khích thu hút nguồn đầu tư từ nước ngoài. Cụ thể là :
- Tiếp tục khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và công nghệ cao vào Việt Nam.
- Khuyến khích kiều bào ta ở nước ngoài đầu tư về nước (01/4 ý kiến)
- Đề nghị quy định thời điểm nhà nước trưng thu, trưng mua được tính theo giá thị trường để đảm bảo quyền lợi cho người dân; đề nghị nghiên cứu kĩ hơn về khoản này và khoản 3 Điều 58 để quy định cho thống nhất và hợp lý, tránh tình trạng quy định xét về bản chất đều là Nhà nước thu hồi tài sản của người dân, nhưng hình thức đền bù khác nhau (01/4 ý kiến).
- Đề nghị bỏ khoản 1 vì trùng lắp với khoản 1 Điều 34 (02/4 ý kiến).
Điều 57 (8 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
- Nhất trí như dự thảo (3/8 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung tài nguyên rừng vào điều này (01/8 ý kiến)
- Đề nghị sửa lại thành: “Đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản ….. là tài sản công thuộc sở hữu Nhà nước do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”; bỏ câu “do nhà nước đầu tư quản lý”, viết lại là “…là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quán lý theo quy định của pháp luật”; bổ sung “tài nguyên rừng” trước cụm từ “tài nguyên nước” (01/8 ý kiến).
- Đề nghị tiếp tục nghiên cứu, làm rõ thêm quy định về đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, bảo đảm tính ổn định lâu dài; cân nhắc đối với sở hữu đất đai không sử dụng khái niệm “sở hữu toàn dân” vì đây là khái niệm mang tính chính trị, không thể hiện rõ tính chất pháp lý; ngoài ra, xác định rõ hình thức sở hữu đất đang tồn tại trên thực tế để một mặt giữ gìn nguồn đất công, không để bị thất thoát, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho việc sử dụng đất đai nói chung và cho công tác sản xuất nông nghiệp gắn với khoa học kỹ thuật hiện đại nói riêng; đề nghị xem xét lại quy định về vùng biển và thềm lục địa để tránh trùng lắp vì theo quy định của Luật biển vừa thông qua thì vùng biển Việt Nam đã bao gồm các vùng trong đó có thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán. (01/8 ý kiến)
- Đề nghị thay cụm từ “sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện” bằng cụm từ “thuộc sở hữu nhà nước” (01/8 ý kiến)
- Có ý kiến đề nghị cần thừa nhận sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng cùng tồn tại với sở hữu nhà nước về đất đai để đảm bảo quyền tài sản quan trọng bậc nhất của người dân, góp phần hạn chế tham nhũng (01/8 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung quy định về phạm vi quyền của chủ sở hữu, quyền và nghĩa vụ của người đại diện chủ sở hữu, mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và người đại diện chủ sở hữu; cần giải quyết được cơ sở quy định Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất đai, bởi vì như vậy Nhà nước vừa thực hiện vai trò là đại diện chủ sở hữu, vừa thực hiện vai trò quản lý nhà nước; đề nghị nghiên cứu về việc sở hữu tư nhân hạn chế về đất đai. Theo đó, hạn chế có nghĩa là sở hữu đất đai trong những điều kiện pháp luật cho phép và khi mà Nhà nước cần thu hồi vì mục đích an ninh, quốc phòng hay công cộng khác thì Nhà nước trưng mua đất đó. Theo quy định của Dự thảo thì 5 quyền của người sử dụng đất cũng đã gần như là việc sở hữu (02/8 ý kiến).
Điều 58 (31ý kiến, trong đó có 10 ý kiến ở cơ quan, 21 ý kiến cá nhân)
- Nhất trí như dự thảo (02/31 ý kiến)
- Đề nghị không sử dụng từ “thu hồi đất” vì Nhà nước chỉ “thu hồi đất” trong trường hợp giải quyết hành vi lấn chiếm, sử dụng sai mục đích hay vượt quá hạn mức quy định theo luật định. Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên mặc nhiên người dân là chủ thể hợp pháp của đất đai mà mình đang có quyền quản lý, sử dụng. Do đó, khi cần quỹ đất phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội mang tính chất công ích, cộng đồng ... thì Nhà nước phải trưng mua quyền sử dụng đất và bồi thường tài sản trên đất cho người dân. Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất của dân để cho chủ đầu tư sử dụng làm các dự án phát triển kinh tế - xã hội thì Nhà nước phải bảo đảm sự công bằng giữa hai bên, không được dùng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất. Trường hợp thu hồi đất vì mục đích kinh doanh, thương mại thì bên tổ chức thu hồi đất phải thỏa thuận và thống nhất với người dân về giá bồi thường (4/31 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung 1 khoản về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể “Nhà nước bảo đảm về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật” (02/31 ý kiến).
- Đề nghị ghi rõ “giao đất, cho thuê theo hình thức chỉ định chủ đầu tư”; cần bổ sung quy định: "các trường hợp thu hồi đất vì mục đích kinh doanh thương mại, chủ đầu tư phải thỏa thuận với người sử dụng đất để đền bù sát giá thị trường" (01/31 ý kiến).
- Đề nghị không quy định liệt kê mà khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước là đại diện chủ sở hữu, cá nhân có các quyền sử dụng (01/31 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị thay đoạn “được quản lý theo quy hoạch và pháp luật” bằng “được quản lý theo pháp luật và quy hoạch” (01/31 ý kiến)
- Đề nghị bỏ khoản này vì nội dung này đã được nêu tại Điều 57(01/31 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị thay thừ “bồi bổ” bằng từ “cải tạo” để thống nhất với pháp luật hiện hành; đề nghị bổ sung quy định đối với người sử dụng đất là “quyền được góp vốn bằng quyền sử dụng đất” như sau: “Người sử dụng đất …được chuyển quyền sử dụng đất, quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất” để người dân không bị cưỡng chế thu hồi đất, trưng thu, trưng mua quyền sử dụng đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội (01/31 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “được chuyển quyền sử dụng đất” vì quyền này là một nội dung của quyền tài sản đã được khẳng định tại cuối khoản. (01/31 ý kiến)
- Đề nghị bỏ cụm từ “có thời hạn”, ghi rõ “giao đất, cho thuê đất theo hình thức chỉ định chủ đầu tư” (01/31 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị tách riêng lý do an ninh, quốc phòng, lý do lợi ích công cộng và lợi ích vì các dự án phát triển kinh tế - xã hội để hạn chế tối đa việc làm về vấn đề này (3/31 ý kiến).
- Đề nghị tại khoản 3 thay cụm từ “thu hồi đất” bằng cụm từ “trưng mua quyền sử dụng đất” (5/31 ý kiến)
- Đề nghị sửa khoản 3 như sau: "Nhà nước thu hồi đất theo hình thức trưng mua, trưng dụng do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng." (01/31 ý kiến)
- Đề nghị viết lại như sau: “Nhà nước trưng mua đất do tổ chức, cá nhân sử dụng trong trưởng hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội” (01/31 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung quy định: “các trường hợp thu hồi đất vì mục đích kinh doanh thương mại, chủ đầu tư phải thỏa thuận với người sử dụng đất để đền bù sát giá thị trường (01/31ý kiến)
- Đề nghị bỏ cụm từ “các dự án phát triển kinh tế - xã hội” (01/31ý kiến)
- Có ý kiến cho rằng việc Nhà nước thu hồi đất chỉ nên giới hạn vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia để tránh sự lạm dụng, thiệt thòi cho nhân dân, bổ sung quy định: "tổ chức, cá nhân sử dụng lãng phí đất đai sẽ bị xử lý nghiêm khắc" (3/31 ý kiến)
- Với các dự án phát triển kinh tế phải thực hiện theo hình thức trưng mua, trưng dụng và có bồi thường theo giá trị thị trường (02/31 ý kiến)
- Đề nghị quy định cụ thể hơn các trưởng hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội để đảm bảo ổn định xã hội (02/31 ý kiến)
- Nhiều cử tri đề nghị “trong trường hợp cần thiết” là những trường hợp nào? (01/31 ý kiến)
- Đề nghị quy định việc bồi thường khi thu hồi đất phải thực hiện “theo giá thị trường” để bảo đảm người dân không bị thiệt thòi khi bị thu hồi đất; bổ sung các trường hợp Nhà nước thu hồi đất có bồi thường; đề nghị cân nhắc việc bổ sung trường hợp tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai như quy định tại Điều 56 (01/31ý kiến)
- Có ý kiến cho rằng Hiến pháp cần nên quy định rõ: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo thời điểm giá của thị trường” (01/31 ý kiến)
- Có ý kiến còn băn khoăn đối với quy định tại khoản 3 của dự thảo và đề nghị đưa vào quy định ở Luật đất đai (02/31 ý kiến).
Điều 59 (6 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị đổi lại thứ tự của khoản 1 và khoản 2 cho logic (02/6 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định: Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước hàng năm phải được dự toán và do Quốc hội quyết định (01/6 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị sử dụng khái niệm “dự trữ quốc gia ngoài ngân sách nhà nước” cho chính xác vì nguồn hình thành dự trữ quốc gia đã bao gồm ngân sách nhà nước và các nguồn lực khác ngoài ngân sách nhà nước (01/6 ý kiến); quy định bổ sung tiêu chí “tiết kiệm” đối với hoạt động quản lý nhà nước, cụ thể như sau: “Nhà nước thống nhất quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, công bằng, công khai…” (01/6 ý kiến)
- Đề nghị sử dụng khái niệm “tài chính quốc gia” thay cho khái niệm “tài chính công” vì ở nước ta sự phân định công – tư chưa rạch ròi; bổ sung quy định “chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi đã có trong dự toán ngân sách được giao” (01/6 ý kiến)
Khoản 2
- Không nên dùng khái niệm ngân sách nhà nước mà phân biệt rạch ròi ngân sách quốc gia và ngân sách địa phương (01/6 ý kiến)
- Bổ sung các câu: "ngân sách nhà nước là thống nhất gồm ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương" và “ngân sách Trung ương phải giữ vai trò chủ đạo" (01/6 ý kiến)
- Đề nghị xác định rõ Quốc hội quyết định ngân sách sách quốc gia bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách trung ương trợ cấp cho địa phương, còn chính quyền địa phương có toàn quyền quyết định về ngân sách địa phương nhưng Chính phủ có nhiệm vụ quản lý chính quyền địa phương, thanh tra, kiểm tra theo luật để bảo đảm hiệu quả của việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện thực hiện tái đầu tư công trên thực tế; đề nghị bỏ quy định tại khoản này vì nhiều nguồn lực khác ngoài ngân sách từ nơi khác cũng được phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương; hơn nữa vì thẩm quyền ngân sách nhà nước để làm cơ sở cho Luật ngân sách nhà nước sau này đã được quy định tại các điều liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội, của Chính phủ. (01/6 ý kiến)
Điều 60 (ý kiến ở 3 tổ chức)
- Đề nghị bổ sung “nghiêm cấm” trước cụm từ “tham nhũng”; thay cụm từ “hoạt động kinh tế -xã hội” bằng “mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” để bao quát hết cả lĩnh vực quốc phòng, an ninh…(01/3 ý kiến); bổ sung cụm từ “có nghĩa vụ” trước đoạn “thực hành tiết kiệm…”; đề nghị mở rộng phạm vi thực hành tiết kiệm, phòng, chống lãng phí, tham nhũng trong tất cả các lĩnh vực (01/3 ý kiến).
- Có ý kiến cho rằng Hiến pháp quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí, tham nhũng đối với vi phạm trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước sẽ chưa đầy đủ vì còn có những lĩnh vực khác như đối ngoại, quốc phòng an ninh ... Đề nghị phạm vi thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí phải thể hiện ở trên tất cả các lĩnh vực (01/3 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “phải” bằng cụm từ “có nghĩa vụ” (01/3 ý kiến).
Điều 61 (ý kiến ở 3 tổ chức)
Đề nghị bổ sung về cấm lao động cưỡng ép, bóc lột, cấm mua bán người và lao động khổ sai; bổ sung quy định về quyền thương lượng thỏa ước; cần có cam kết của Nhà nước về việc giải phóng người lao động khỏi lao động nặng nhọc và thu hẹp khoảng cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc (01/3 ý kiến).
- Đề nghị đưa Khoản 2 lên trên Khoản 1 để thể hiện Nhà nước có trách nhiệm (01/3 ý kiến).
Khoản 1
- Đề nghị thay cụm từ “thỏa đáng” bằng cụm từ “chính đáng” (01/3 ý kiến); thay cụm từ “thỏa đáng” bằng cụm từ “tốt hơn” (01/3 ý kiến); thay cụm từ “có thu nhập thỏa đáng” bằng cụm từ “tạo thu nhập”; phân chia công bằng sự thịnh vượng của đất nước cho người dân thì không thể viết là “thu nhập thỏa đáng” được; quy định về chính sách lao động - việc làm của Hiến pháp hiện hành có sự phù hợp hơn (01/3 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị bổ sung đối tượng là “gia đình người có công” để đảm bảo đầy đủ đối tượng được ưu đãi (01/3 ý kiến).
Điều 62 (11 ý kiến, trong đó có 6 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị giữ như quy định của hiến pháp hiện hành (2/11 ý kiến)
- Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định về xây dựng y tế nhân dân, y tế dự phòng là những nội dung cần thiết, cần quan tâm. (01/11ý kiến)
- Đề nghị bổ sung Khoản 3 như sau: “Nhà nước có trách nhiệm tạo ra và bảo vệ môi trường sống an toàn, sạch, đẹp, văn minh cho mọi người” (01/11 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi như sau:
“1. Nhà nước đầu tư, phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân; huy động các nguồn lực để xây dựng nền y tế hiện đại, công bằng, hiệu quả; phát triển nền y học Việt Nam theo hướng kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền, phòng bệnh và chữa bệnh; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân và tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe; ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi, hải đảo, dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác.
2. Nhà nước, xã hội, gia đình và mọi người có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, thực hiện công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo đảm quy mô, cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số.” (01/11 ý kiến)
Khoản 1
- Đề nghị thay cụm từ “hiện đại” bằng cụm từ “nhân dân”(01/ 11 ý kiến)
- Đề nghị nên viết gọn lại và bỏ đoạn “phát triển nền y học Việt Nam theo hướng hết hợp đông y và tây y, phòng bệnh và chữa bệnh” vì quá dài dòng và chi tiết (01/11 ý kiến); bỏ cụm từ “đông y và tây y”, thay bằng cụm từ “y học cổ truyền và y học hiện đại” cho chính xác (2/11 ý kiến); thay cụm từ “sự nghiệp” bằng cụm từ “công tác chăm sóc” (01/11 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “người nghèo” và “bảo vệ”. Đoạn này viết lại như sau: “ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho đồng bào miền núi, hải đảo, dân tộc thiểu số, người nghèo và các vùng đặc biệt khó khăn khác” (02/11 ý kiến)
- Đề nghị cần làm rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc đầu tư, phát triển y tế chứ không chỉ ban hành chính sách; nên dùng cụm từ “kết hợp đông y và tây y” vì hiện tại các bệnh viện y học cổ truyền cũng đều dùng các phương pháp, kỹ thuật công nghệ cao của y học hiện đại; Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị rất quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dân số, do vậy, nên cân nhắc thêm ý là chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho đúng là nâng cao chất lượng dân số và sức khỏe nhân dân; đề nghị bổ sung câu “bảo hiểm y tế toàn dân là mục tiêu phấn đấu của chúng ta”; bổ sung nội dung: ưu tiên thực hiện chăm sóc sức khỏe cho đối tượng yếu thế hoặc người dễ bị tổn thương; có ý kiến cho rằng “bảo hiểm y tế toàn dân” là mục tiêu chỉ thực hiện trong một giai đoạn nhất thời là đạt được, cần cân nhắc có nên đưa vào Hiến pháp hay không?; Những vấn đề tranh luận như y học cổ truyền, y học hiện đại hay đông y, tây y, lợi nhuận hay phi lợi nhuận thì nên giải thích và quy định bằng văn bản luật, không nên ghi vào Hiến pháp; đề nghị viết lại Khoản 1 như sau: “Nhà nước đầu tư, phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân; huy động các nguồn lực để xây dựng nền y tế hiện đại, công bằng, hiệu quả và phát triển; Phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền, phòng bệnh và chữa bệnh; thực hiện bảo hiểm y tế…” (01/11 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị bổ sung cụm từ “người cao tuổi, cha” trước từ “mẹ”, bỏ từ “người” (01/11 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “người khuyết tật” vào sau cụm từ “người cao tuổi” và bổ sung quy định việc ưu tiên giải quyết việc làm đối với người khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (01/11 ý kiến)
- Dự thảo chưa thể hiện rõ và đầy đủ các khía cạnh liên quan đến trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân đối với người mẹ và trẻ em; đề xuất sửa đổi như sau: "Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo đảm cơ hội bình đẳng và hỗ trợ các điều kiện đặc thù giới tính để phụ nữ thực hiện tốt quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và thiên chức người mẹ; Gia đình có trách nhiệm giáo dục thành viên chia sẻ công việc và bảo đảm để phụ nữ thực hiện làm mẹ an toàn; Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tạo cơ hội và hỗ trợ điều kiện để trẻ em, nhất là trẻ em giai phát triển toàn diện, bảo đảm thực hiện tốt vai trò người công dân, người mẹ, người cha trong tương lai" (01/11 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “duy trì mức sinh bảo đảm để cân bằng giới tính hợp lý” sau cụm từ “cơ cấu dân số hợp lý”; đề nghị thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người”, bổ sung cụm từ “người tàn tật” trước cụm từ “thực hiện”, cụm từ “công tác dân số” trước cụm từ “kế hoạch hóa gia đình” (02/11 ý kiến)
- Đề nghị cân nhắc có nên đưa vấn đề lợi nhuận và phi lợi nhuận vào Hiến pháp hay không, không đưa vào thì không được mà đưa vào là khó. Nếu coi ngành y tế có lợi nhuận thì việc bỏ tư tưởng Nhà nước bao cấp khó; nếu phi lợi nhuận trong y tế thì hiện nay nhiều đơn vị lợi dụng để làm lợi cho một số cá nhân; nên quy định không kinh doanh đối với y tế tối thiểu, còn cao hơn thì vẫn được để phục vụ những người có khả năng và điều kiện, không kinh doanh đối với y tế tối thiểu nhưng phải hạch toán kinh tế, chứ không hạch toán kinh doanh (01/11 ý kiến)
Điều 63 (ý kiến ở 4 tổ chức)
Khoản 1:
- Đề nghị bổ sung thêm “phụ nữ mang thai và trẻ em gái” sau cụm từ “người có hoàn cảnh khó khăn” cho đầy đủ (01/4 ý kiến); thay cụm từ “có tính chia sẻ” bằng cụm từ “bảo đảm” (01/4 ý kiến)
- Đề nghị nên viết khái quát hơn, không nên liệt kê các đối tượng cụ thể của trợ giúp xã hội mà có thể viết chung là các nhóm yếu thế hoặc các nhóm dễ bị tổn thương (01 ý kiến); bổ sung thêm đối tượng “nạn nhân chiến tranh” (01 ý kiến); đề nghị sửa "Nhà nước phát triển...." thành "Nhà nước có chính sách phát triển..."; bỏ từ “đa dạng” bởi vì từ “toàn diện” đã bao hàm tính đa dạng; tách vấn đề trợ giúp xã hội thành một mệnh đề khác hoặc có thể tách thành một khoản riêng cho rõ ràng, bổ sung thêm đối tượng trẻ em (02/4 ý kiến).
Khoản 2
- Đề nghị bỏ từ “nước” và bổ sung cụm từ “cách mạng” để nhằm đảm bảo chính xác của thuật ngữ được sử dụng chính thức hiện nay của Đảng và Nhà nước ta, đó là người có công với cách mạng (02/4 ý kiến).
- Đề nghị nên tách người có công thành một điều riêng; bổ sung cụm từ “trẻ em” trước cụm từ "người cao tuổi"; đầu câu nên sửa thành “Nhà nước bảo đảm” (01/4 ý kiến).
- Đề nghị quy định cụ thể về đối tượng được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng; đề nghị bổ sung cụm từ “vùng sâu, vùng xa” sau cụm từ “miền núi” (01/4 ý kiến).
Điều 64 (7 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Việc xác định hệ tư tưởng chính thống trong xã hội là rất khó, Điều 30 của Hiến pháp hiện hành đã quy định hệ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh như vậy là rất phù hợp, không nên bỏ vì lý do đã có ở Lời nói đầu (01/7 ý kiến).
Khoản 1
- Giữ lại cụm từ “phong cách Hồ Chí Minh” ở hiến pháp hiện hành (1/7 ý kiến)
- Đề nghị nên lấy tư tưởng nền tảng là văn hóa dân tộc; đề nghị sửa thành “văn hóa là một động lực quan trọng và là mục tiêu của phát triển KT-XH”; đề nghị bỏ câu đầu tiên của Khoản 1 (01/7ý kiến).
Khoản 2
- Việc quy định tại khoản 2 cần làm rõ ai “phát triển...”. (01/7 ý kiến)
- Có ý kiến đề nghị thêm cụm từ “Nhà nước có chính sách” vào trước cụm từ “phát triển văn học” (01/7 ý kiến).
Khoản 3
- Đề nghị bổ sung cụm từ “có lòng nhân hậu, thủy chung, có tình đoàn kết” trước đoạn “giàu lòng yêu nước…(01/7 ý kiến).
- Đề nghị sửa lại như sau: “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có văn hóa, có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật; và xây dựng mọi gia đình ở Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ.” (01/7 ý kiến).
- Đề nghị giữ cụm từ “yêu chế độ xã hội chủ nghĩa” như trong Hiến pháp hiện hành, vì nếu người dân Việt Nam nói đến yêu nước thì trải qua hàng ngàn năm đã có, nhưng yêu chế độ xã hội chủ nghĩa thì mới hình thành sau này (01/7 ý kiến).
Khoản 4:
- Đề nghị gom tất cả những hành vi làm tổn hại đến lợi ích quốc gia vào một điều cấm cho ngắn gọn, dễ hiểu; bỏ từ “phá hoại” và thay bằng từ “xâm hại” cho phù hợp hơn (02/7 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung điều cấm về “phân biệt đối xử trên cơ sở giới” sau phần “truyền bá tư tưởng” (01/7 ý kiến).
Điều 65 (3 ý kiến, trong đó có 1 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Giữ lại Đoạn 2 của Điều 35 hiện hành đưa lên đoạn đầu của Điều 65 (01/3 ý kiến)
- Đề nghị thay câu "phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân" tại Điều 35 hiện hành thành câu "phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách toàn diện, hài hòa về thể chất và tinh thần của công dân"; thay câu "đào tạo người lao động có nghề, năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế" tại Điều 35 hiện hành thành câu "đào tạo người lao động có nghề, có năng lực, tư duy khoa học và kỹ năng làm việc sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế” và đưa vào Điều 65 của Dự thảo (01/3 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “và đào tạo” (02/3 ý kiến); nội dung của điều này là chưa đầy đủ, cần thể hiện rõ vai trò của Nhà nước trong phát triển KH&CN, có thể điều chỉnh lại theo một số phương án sau:
+ “Nhà nước phải có chính sách đảm bảo phát triển…là quốc sách hàng đầu”
+ “Nhà nước thúc đẩy sự phát triển giáo dục và đào tạo, coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”
+ “Phát triển giáo dục…hàng đầu. Nhà nước thể chế hóa bằng các cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật tạo điều kiện để đảm bảo phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” (01/3 ý kiến).
Điều 66 (11 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 6 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị nghiên cứu lấy lại nội dung Điều 66 Hiến pháp năm 1992, bổ sung các quy định: quyền của thanh niên; quyền của công dân về thể dục thể thao, phát triển thể lực (3/11 ý kiến)
- Đề nghị thay cụm từ “hội nhập quốc tế” bằng cụm từ “hợp tác quốc tế” cho phù hợp với chủ trương và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện hay của Việt Nam. (01/11 ý kiến).
- Đề nghị khôi phục lại Điều 66 Hiến pháp 1992 về thanh niên như sau:"Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động và giải trí, phát triển trí tuệ, năng khiếu và thể lực; chăm lo bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên.
Thanh niên phải làm trọn nhiệm vụ lực lượng xung kích trong phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa". (02/11 ý kiến)
Khoản 1:
- Đề nghị viết lại thành “phát triển giáo dục nhằm hình thành và xây dựng con người Việt Nam có phẩm chất, trí tuệ và năng lực công dân” cho ngắn gọn, súc tích (01/11 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ: “ ... đào tạo người lao động có nghề ...” bằng cụm từ: “đào tạo người lao động có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp”(02/11 ý kiến)
Khoản 2:
- Đề nghị bổ sung cụm từ “tiến đến nền giáo dục miễn phí” sau cụm từ “học phí hợp lý”, bảo đảm tính nhân văn và tiến bộ của xã hội ta (01/11 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định Nhà nước thống nhất quản lý cả “nội dung” giáo dục quốc dân để bảo đảm Nhà nước bao quát các cấp, bậc học; tạo cơ sở cho các văn bản luật quy định cụ thể về nội dung giáo dục (01/11 ý kiến).
- Đề nghị ghi rõ ưu tiên đầu từ từ ngân sách nhà nước cho giáo dục (01 /11 ý kiến)
Khoản 3
- Đề nghị bỏ cụm từ “và xã hội” (01/11 ý kiến)
Điều 67 (ý kiến ở 3 tổ chức)
- Đề nghị thống nhất dùng cụm từ “khoa học và công nghệ” trong tất các các khoản của điều này cho phù hợp; khẳng định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước. Dự thảo mới chỉ dừng lại ở mức độ “thúc đẩy” (Khoản 2) và “tạo điều kiện” (Khoản 3), chưa thấy rõ vai trò của Nhà nước về đầu tư, ưu tiên cho KH&CN (01/3 ý kiến).
- Cần xem xét lại quy định: “Nhà nước phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ” bởi vì việc tập trung phát triển ngành khoa học, công nghệ nào là phải có sự lựa chọn, xác định đâu là ngành trọng tâm, mũi nhọn chứ không phải phát triển dàn đều (01/3 ý kiến).
Khoản 1:
- Quy định mục tiêu cụ thể cho phát triển KH&CN là “nhằm nâng cao trình độ quản lý” sẽ làm yếu đi tính chất hàng đầu của KH&CN; đề nghị bổ sung cụm từ “nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan” sau cụm từ “nhằm nâng cao…” cho rõ nghĩa và logic hơn; bỏ “phát triển văn hóa” và “thúc đẩy tiến bộ xã hội”; xem xét lại sử dụng cụm từ “là động lực thúc đẩy phát triển đất nước” cho nhất quán với các điều khoản khác (Khoản 1 Điều 64 sử dụng cụm từ “là động lực phát triển của đất nước”); nên viết lại thành “KH&CN…then chốt, là động lực phát triển của đất nước. Phát triển…nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao trình độ quản lý, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường và sức khỏe của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh”; sửa câu “KH&CN giữ vai trò then chốt, là động lực thúc đẩy phát triển đất nước” thành “KH&CN giữ vai trò then chốt, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” (như cách thể hiện trong điều 37 của HP92); bổ sung cụm từ “nhằm tăng trưởng kinh tế” vào trước “…nâng cao trình độ quản lý, phát triển văn hóa…”; sửa lại là “KH&CN giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, là động lực thúc đẩy phát triển đất nước…” cho rõ nghĩa và thống nhất với Cương lĩnh; sửa lại là “Phát triển KH&CN nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa…” ; thay “nhằm nâng cao trình độ quản lý …….. tiến bộ xã hội” bằng “nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội” cho ngắn gọn, rõ nghĩa; bổ sung thêm “KH&CN giữ vai trò then chốt, là động lực phát triển đất nước toàn diện và bền vững” (01/3 ý kiến).
Khoản 2:
+ Đề nghị thay“thúc đẩy” bằng“có trách nhiệm”; bỏ chữ “đồng bộ”, như vậy sửa lại là “nhà nước có trách nhiệm phát triển các lĩnh vực KH&CN và ứng dụng các thành tựu khoa học hiện đại của thế giới phục vụ có hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam bền vững”; bổ sung “…nhà nước có chính sách xã hội hóa, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu…”; xem xét, thể hiện nhất quán cụm từ “quyền tự do nghiên cứu và sáng tạo khoa học, công nghệ” với “quyền nghiên cứu khoa học, công nghệ” tại khoản 1 Điều 43; sửa lại thành “Nhà nước định hướng, ban hành chính sách phát triển đồng bộ các lĩnh vực KH&CN; ưu tiên và tập trung nguồn lực đầu tư, đồng thời khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển KH&CN; nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới; bảo đảm quyền tự do nghiên cứu khoa học, công nghệ” (01/3 ý kiến).
Khoản 3:
- Đề nghị sửa thành “nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia bình đẳng và được hưởng thụ lợi ích hợp pháp từ các hoạt động khoa học và công nghệ” cho phù hợp hơn; bổ sung cụm từ “bằng cách Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời gian hạn định” vào cuối câu thành “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và được hưởng thụ lợi ích từ các hoạt động khoa học, công nghệ bằng cách Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời gian hạn định”; bổ sung nội dung “người tài được tôn vinh và trọng dụng”, chính sách thu hút nhân tài để góp phần khuyến khích phát triển KH&CN; Có thể bổ sung khoản 3 mới (khoản 3 trong dự thảo nên chuyển lên khoản 1 Điều 43): “Nhà nước có chính sách thu hút nhân tài, chăm lo đào tạo, trọng dụng và đãi ngộ hợp lý đội ngũ cán bộ KH&CN” hoặc bổ sung khoản 4 là “Nhà nước tạo điều kiện đặc biệt để thu hút nhân tài nhằm phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng” vì vấn đề thu hút nhân tài là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với bất kể quốc gia nào (01/3 ý kiến).
- Đề nghị bỏ khoản này vì đã được thể hiện trong Điều 44 (01/3 ý kiến)
Điều 68 (6 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Có ý kiến cho rằng nên thay cụm từ “cơ chế” bằng cụm từ “hoạch định” như vậy sẽ hợp lý hơn. Có ý kiến đề nghị cân nhắc nội dung quy định và cách viết tại khoản 1 vì đã trùng với nội dung của mục 2 Điều 46 (01/6 ý kiến)
Khoản 1:
- Đề nghị bổ sung cụm từ “của toàn xã hội”, như vậy sửa khoản này thành “bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của toàn xã hội và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, của cá nhân” nhằm khẳng định tính chất rộng rãi, tính xã hội hóa của công tác bảo vệ môi trường (01 ý kiến); bỏ khoản này vì vừa không rõ nội hàm vừa trùng lặp với quy định tại Điều 46; nên viết lại thành “Bảo vệ môi trường là mục tiêu và là nội dung cơ bản của phát triển bền vững, được thực hiện theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên” (01/6 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “tổ chức, cá nhân” bằng “công dân” vì bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của mọi công dân. (01/6 ý kiến)
Khoản 2
- Đề nghị bổ sung cụm từ “tiết kiệm” sau cụm từ “hiệu quả”; bỏ cụm từ “năng lượng sạch, sản xuất sạch” (02/6 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung trách nhiệm của Nhà nước về “tăng cường đầu tư và huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động bảo vệ môi trường” ; đề nghị chỉ sử dụng cụm từ chung là “năng lượng tái tạo” thay cho “năng lượng mới, năng lượng sạch” vì đây là thuật ngữ chuyên môn được dùng chung trong quốc tế; bổ sung cụm từ “gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội nhằm khẳng định sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội với bảo vệ môi trường” sau câu “Nhà nước có cơ chế chính sách bảo vệ môi trường…tài nguyên”; bổ sung cụm từ “…và thảm họa thiên nhiên” vào cuối Khoản 2 vì đây là những hiện tượng mới cần phải ngăn chặn; sửa “phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai” cho nhất quán với tên dự thảo luật là “phòng, chống thiên tai” ; bỏ đoạn “mọi hoạt động phát triển năng lượng …khuyến khích” vì quá chi tiết, nên để luật quy định (01/6 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung Nhà nước có cơ chế, chính sách về ứng phó thảm họa thiên nhiên vì đây là hiện tượng mới cần ngăn chặn, cụ thể là bổ sung cụm từ “và thảm họa thiên nhiên” ở cuối khoản này; bổ sung thêm một Điều quy định về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên khác ngoài đất đai. (01/6 ý kiến)
Khoản 3
- Đề nghị bổ sung thêm “theo quy định của pháp luật” vào cuối khoản cho cụ thể hơn; bỏ quy định này vì quy định xử lý đối với các hành vi vi phạm đã được điều chỉnh trong bộ luật hình sự, bộ luật dân sự và Luật xử lý vi phạm hành chính (01/6 ý kiến).
5. Về Chương IV, Bảo vệ Tổ quốc
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Có 27 ý kiến góp ý vào Chương IV (trong đó có 08 ý kiến ở cơ quan, 19 ý kiến của cá nhân).
- Tán thành với tên Chương, nội dung Chương:
+ Đồng ý như Dự thảo, vì quy định này đã bảo đảm sự nhất quán trong toàn bộ Hiến pháp (tên của Hiến pháp và lời nói đầu đã phản ánh rõ). Hơn nữa, tên Chương I về “Chế độ chính trị” của Dự thảo đã giản lược hợp lý cụm từ này (1/27 ý kiến).
+ Bố cục của Chương là phù hợp, bảo đảm sự kế thừa Hiến pháp năm 1980, 1992 và quan điểm của Đảng về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, mang bản sắc riêng của Hiến pháp nước ta (1/27 ý kiến).
- Không tán thành với tên Chương, nội dung Chương (5/27 ý kiến):
+ Đề nghị giữ tên Chương “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa” như Hiến pháp năm 1980 và năm 1992, vì hiện nay các thế lực thù địch, phản động vẫn theo đuổi âm mưu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặt khác, quy định như vậy phù hợp với Văn kiện Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX và Đại hội Đảng lần thứ XI (4/27 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ chương này, chuyển toàn bộ các điều trong chương này lên chương I, vì quốc phòng, an ninh cũng là vấn đề chính trị (1/27 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi tên Chương, nội dung Chương (2/27 ý kiến):
+ Đề nghị sắp xếp lại các Điều 70 và Điều 71 cho phù hợp hơn (1/27 ý kiến).
+ Đề nghị rà soát lại vì tên chương và nội hàm các điều của chương chưa có sự thống nhất (1/27 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương (1/27 ý kiến)
+ Đề nghị nêu rõ khái niệm an ninh, quốc phòng không chỉ theo nghĩa truyền thống mà còn bao gồm các vấn đề phi truyền thống như tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai gây hậu quả nghiêm trọng (1/27 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 69 (05 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 01 ý kiến của cá nhân)
- Đồng ý như Dự thảo, vì Dự thảo đã kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, đồng thời cũng đã thể chế được quan điểm của Đảng trong thời kỳ hội nhập, mở cửa, xác định Việt Nam là thành viên “có tránh nhiệm” trong cộng đồng quốc tế; thể chế được mục tiêu quan trọng của QPAN mà Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định là “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới” (01/5 ý kiến).
- Đề nghị chuyển khổ thứ nhất của Điều 48 xuống thành đoạn một Điều 69 và được sửa đổi, bổ sung như sau: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân” (01/5 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Nhà nước xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn diện, giữ vững an ninh về mọi mặt nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định” hoặc “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định” hoặc “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc phòng và an ninh do luật định” (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “giữ vững an ninh quốc gia” ở đoạn 1, vì theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa X), bảo vệ Tổ quốc đã bao hàm cả an ninh quốc gia (01/5 ý kiến).
- Đề nghị chuyển cụm từ “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới” tại khổ 2 xuống Điều 70 vì theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định đây là một trong những nhiệm vụ của lực lượng vũ trang (2/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung tại khổ 2 quy định về sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc Tổ quốc bao gồm sức mạnh tổng hợp của đất nước và sức mạnh thời đại, tạo cơ sở pháp lý cho nước ta tham gia, hợp tác với các quốc gia khác nhằm tăng cường khả năng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc và góp phần giữ gìn hòa bình thế giới (01/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định như sau: “Là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi phải thực hiện nghĩa vụ quân sự; công dân là người Việt Nam đủ 18 tuổi không phân biệt nam – nữ khi đất nước bị xâm lược thì phải có trách nhiệm lên đường nhập ngũ chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, không ngại gian khó, hiểm nguy…cùng với toàn dân xây dựng hậu phương vững chắc, tất cả tiếp sức cho tiền tuyến…” (01/5 ý kiến).
- Đề nghị thay từ “nhiệm vụ” bằng “nghĩa vụ” (01/5 ý kiến).
Điều 70 (09 ý kiến, trong đó có 05 ý kiến ở cơ quan, 04 ý kiến của cá nhân)
- Đồng ý như Dự thảo, vì Dự thảo đã thể hiện được nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng vũ trang theo Nghị quyết của Đảng và quan điểm “Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh” theo Cương lĩnh năm 2011 (01/9 ý kiến).
- Nhất trí với Dự thảo nhưng đề nghị bổ sung quy định rõ hơn: Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản Việt Nam (01/9 ý kiến).
- Đề nghị giữ nguyên nội dung Điều 45 của Hiến pháp năm 1992 (01/9 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” (01/9 ý kiến) hoặc “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, Đảng cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước” (2/9 ý kiến).
- Đề nghị giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992 là “Lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và nhân dân”, vì lợi ích của Đảng trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân (2/9 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam...” nhằm nhất quán với quy định tại Điều 4 Dự thảo (01/9 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” bằng cụm từ “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới” (1/9 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân” bằng cụm từ “trung thành với Tổ quốc, với Đảng, nhà nước và nhân dân” (1/9 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” (1/9 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “bảo vệ an ninh chính trị đất nước” trước cụm từ “an ninh quốc gia” (2/9 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định “sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc bao gồm sức mạnh tổng hợp của đất nước và sức mạnh thời đại”, tạo cơ sở pháp lý để nước ta hợp tác với các quốc gia khác nhằm tăng cường khả năng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc và góp phần giữ gìn hòa bình thế giới (1/9 ý kiến).
Điều 71 (11 ý kiến, trong đó có 06 ý kiến ở cơ quan, 05 ý kiến của cá nhân)
- Đồng ý như Dự thảo, vì trách nhiệm xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân không chỉ của Nhà nước mà còn của toàn xã hội, cả hệ thống chính trị và của chính Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; đã kế thừa và cơ bản thể chế được quan điểm của Đảng trong những năm gần đây về nguyên tắc xây dựng, vai trò, nhiệm vụ của quân đội nhân dân và dân quân tự vệ (1/11 ý kiến).
- Đề nghị giữ nguyên như Hiến pháp hiện hành (1/11 ý kiến).
- Đề nghị ghép Điều 71 và Điều 72 thành một điều có 2 khoản, một khoản quy định quân đội một khoản quy định về công an (1/11 ý kiến).
- Đề nghị diễn đạt lại thể hiện rõ ai là chủ thể xây dựng 2 lực lượng quân đội (1/11 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “quân sự” vào cuối Điều này (1/11 ý kiến); thêm cụm từ “bảo vệ nhân dân” vào cuối câu (1/11 ý kiến); bỏ cụm từ “từng bước” (4/11 ý kiến).
- Đề nghị bỏ từ “cách mạng” sau cụm từ “quân đội nhân dân Việt Nam” (3/11 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” (2/11 ý kiến) hoặc “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” (1/11 ý kiến) hoặc “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại với số quân thường trực hợp lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có sức chiến đấu cao, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” (1/11 ý kiến).
- Đề nghị giữ nguyên ý đầu của Điều 46 Hiến pháp hiện hành là “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, bỏ đi đoạn “cùng với Quân đội nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” (1/11 ý kiến)
Điều 72 (09 ý kiến, trong đó có 06 ý kiến ở cơ quan, 03 ý kiến của cá nhân)
- Đồng ý như Dự thảo, vì Dự thảo đã khái quát được quan điểm xây dựng Công an nhân dân nhưng còn băn khoăn về phương hướng xây dựng Công an xã vì cho rằng, lực lượng này không phải là “chính quy” nên không cần xây dựng “từng bước hiện đại” là phù hợp với nhiệm vụ và khả năng bảo đảm của nước ta; đồng thời không cần bổ sung cụm từ “Nhà nước” vì cũng lập luận như ở Điều 71, trách nhiệm xây dựng Công an nhân dân không chỉ là của Nhà nước (1/9 ý kiến).
- Đề nghị giữ nguyên như Hiến pháp hiện hành (1/9 ý kiến).
- Đề nghị diễn đạt lại thể hiện rõ ai là chủ thể xây dựng 2 lực lượng quân đội (1/9 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, dựa vào nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm” (2/9 ý kiến).
- Đề nghị thêm cụm từ “bảo vệ nhân dân” vào sau cụm từ ‘‘bảo vệ an ninh quốc gia” (1/9 ý kiến) ; bỏ từ “cách mạng” sau cụm từ “công an nhân dân Việt Nam” (3/9 ý kiến); bỏ cụm từ “từng bước” (2/9 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định nhiệm vụ của công an là phòng, chống vi phạm và tội phạm (1/9 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ” trước cụm từ “bảo vệ an ninh quốc gia” (2/9 ý kiến).
Điều 73 (08 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 04 ý kiến của cá nhân)
- Cần thể hiện lại cho khái quát, đầy đủ và cô đọng nhất (1/8 ý kiến).
- Đề nghị ở đoạn cuối thay từ “hùng mạnh” bằng cụm từ “vững mạnh”, bỏ cụm từ “không ngừng tăng cường khả năng”, thay từ “đất nước” bằng từ “tổ quốc” (1/8 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “lực lượng vũ trang” bằng từ “quân đội” (1/8 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia” (1/8 ý kiến) hoặc “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần và chính sách hậu phương quân đội, xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc” (2/8 ý kiến).
- Đề nghị sửa lại đoạn đầu của Điều này như sau: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước cách mạng của nhân dân, có trách nhiệm giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân”; bổ sung cụm từ “Công an” sau cụm từ “hậu phương quân đội” (1/8 ý kiến).
- Đề nghị thay đoạn “chính sách hậu phương quân đội” bằng “chính sách hậu phương đối với cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân” (1/8 ý kiến).
- Đề nghị thêm cụm từ “có chính sách” vào sau từ “Nhà nước” ở đoạn đầu (1/8 ý kiến).
- Quy định “xây dựng hậu phương quân đội” chưa bao hàm lực lượng là cán bộ, công nhân viên quốc phòng, hậu phương của quân đội; đồng thời, chưa bao hàm cả đối với ngành công an (1/8 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi đoạn “Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh. Không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước” bằng đoạn “Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc” (1/8 ý kiến).
6. Về Chương V, Quốc hội
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Có 54 ý kiến góp ý vào Chương V (trong đó có 14 ý kiến ở cơ quan, 40 ý kiến của cá nhân).
- Các ý kiến góp ý tập trung vào các điều: Điều 75, Điều 79
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Đề nghị quy định ngắn gọn hơn, cơ bản hơn, sau này sẽ quy định cụ thể trong Luật tổ chức Quốc hội (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị chuyển quyền lập hiến của Quốc hội vào chương cuối cùng (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu thống nhất tên gọi “Hội đồng dân tộc” thành “Ủy ban Dân tộc” cho đồng bộ với tên gọi của các Ủy ban của Quốc hội (Nếu theo phương án này thì Ủy ban dân tộc của Chính phủ sau cũng cần đổi tên phù hợp với các Bộ để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống bộ máy của Nhà nước ta) (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung một điều về Quyền của đại biểu Quốc hội như sau: “Việc phát ngôn và biểu quyết của đại biểu Quốc hội trong các hội nghị đều không bị truy cứu trách nhiệm” (như Hiến pháp các nước đều quy định) (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị rà soát quy định của Điều 75, 84 và 120 của Dự thảo để đảm bảo thống nhất vì Khoản 5 Điều 91 của Hiến pháp 1992 và Khoản 4 Điều 79 Dự thảo quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và bãi bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao và quyết định đề nghị Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản tại kỳ họp gần nhất. Trong khi đó, khoản 10 Điều 75 của Dự thảo quy định Quốc hội có quyền bãi bỏ (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị có quy định làm rõ vị trí pháp lý của “đại biểu Quốc hội chuyên trách” (5/54 ý kiến); có những quy định cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, đặc biệt là đại biểu Quốc hội chuyên trách (1/54 ý kiến); đề nghị quy định tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách ít nhất 50% tổng số đại biểu Quốc hội (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị quy định về Ủy viên thường trực trong Điều 81 và 82 (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị nên có một điều riêng hoặc một khoản trong Điều 84 của Dự thảo với nội dung bổ sung như sau: “Các đại biểu Quốc hội trong một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội; Đoàn đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn và có thể có Phó đoàn” (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị trong Hiến pháp cần có quy định về Đoàn ĐBQH và làm rõ Đoàn ĐBQH có phải là cơ quan hành chính hay không? (2/54 ý kiến).
+ Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan của Quốc hội chỉ nên đưa vào một Điều trong Hiến pháp. Quy định chi tiết nên đưa vào Luật tổ chức Quốc hội (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị cần làm rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với Quốc hội, đại biểu Quốc hội với Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội… (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị cần nghiên cứu để có cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả hơn (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị làm rõ Quốc hội có cơ quan lãnh đạo hay không? Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có phải là cơ quan lãnh đạo hay không? Có ý kiến cho là các đại biểu Quốc hội có địa vị pháp lý như nhau, nhưng cũng có ý kiến cho rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực thì không thể không có lãnh đạo? Do đó, Quốc hội cần có cơ quan lãnh đạo nhưng phải làm rõ hình thức, nội dung lãnh đạo? (1/54 ý kiến).
+ Về vị thế của ĐBQH (Điều 85, 86, 87, 89): Có ý kiến cho rằng, hạt nhân quan trọng góp phần tạo nên thành quả chung trong hoạt động của Quốc hội chính là các đại biểu Quốc hội. Do đó, các quy định liên quan đến quyền, nghĩa vụ, chức năng, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội cần được thể chế hóa và quy định cụ thể, đầy đủ trong Hiến pháp nhằm xác lập cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ (2/54 ý kiến).
+ Về điều kiện bảo đảm thực hiện quyền lực của Quốc hội: Nhiều ý kiến cho rằng, Dự thảo quy định Quốc hội có nhiệm vụ: “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao...”. Tuy nhiên, Dự thảo chưa bổ sung quy định bảo đảm điều kiện để thực hiện chức năng này. Vì vậy, đề nghị nghiên cứu bổ sung các quy định nhằm bảo đảm đầy đủ điều kiện để thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới các quy định về chế tài xử lý nhằm nâng cao tính nghiêm minh trong thực hiện các kiến nghị sau giám sát của Quốc hội (2/54 ý kiến).
+ Về thẩm quyền của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội: Có ý kiến cho rằng, ngoài chức năng thẩm tra, cho ý kiến về các dự án luật, cần bổ sung quy định về thẩm quyền của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc xem xét, quyết định không trình ra Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội các dự luật chưa bảo đảm chất lượng (2/54 ý kiến).
+ Về giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp: Có ý kiến đề nghị bổ sung một điều quy định thành lập Hội đồng lập pháp với chức năng thực hiện quyền lập pháp theo uỷ quyền của Quốc hội, ban hành các đạo luật chuyên ngành do Quốc hội ủy nhiệm nhằm góp phần (1) Khắc phục tình trạng làm luật không theo kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội như hiện nay; (2) Nâng cao chất lượng của các đạo luật (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung thêm nội dung bầu và phê chuẩn nhân sự. Các chức vụ: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính phủ, Phó Chủ tịch nước, và các nhân sự cao cấp do Quốc hội bầu phải có ít nhất 2 người trong danh sách bầu cử để bầu lấy 1 người. Các chức danh do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn thì giới thiệu 1 để bầu 1 (2/54 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định thống nhất, làm rõ nội hàm các khái niệm điều trần, giải trình, chất vấn đang được sử dụng trên thực tế; theo đó, đề nghị sử dụng chung khái niệm “chất vấn” để phù hợp với định hướng tăng cường vai trò của các cơ quan của Quốc hội và của Quốc hội, phù hợp với xu hướng đổi mới về chính trị và tương ứng với quá trình đổi mới về kinh tế hiện nay, làm cơ sở cho việc ban hành Luật chất vấn sau này (1/54 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu để quy định phân biệt rõ hơn giữa thẩm quyền lập hiến và thẩm quyền lập pháp của Quốc hội (2/54 ý kiến).
+ Đề nghị quy định Quốc hội ban hành luật để điều chỉnh ngân sách nhà nước hằng năm (2/54 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định trường hợp đặc biệt, khẩn cấp cần quyết định những nhiệm vụ liên quan đến chức danh của Chủ tịch Quốc hội thì ai là người thực hiện thay nhiệm vụ này? (1/54 ý kiến).
+ Tại điểm 7, Điều 75 Dự thảo có quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc “phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia”. Tuy nhiên, việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia lại chưa thấy quy định. Nếu việc bổ sung 2 thiết chế này trong Dự thảo là cần thiết, thì cần xem xét quy định rõ thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của hai cơ quan này vì nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này rất quan trọng và rất khác nếu so sánh với thành viên của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (1/54 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 74 (10 ý kiến, trong đó có 06 ý kiến ở cơ quan, 04 ý kiến của cá nhân)
- Dự thảo thể hiện sự đổi mới quan niệm về quyền lập hiến, quyền lập pháp của Quốc hội, gián tiếp khẳng định nhân dân cũng là chủ thể của quyền này (1/10 ý kiến).
- Đề nghị không quy định “quyền lập hiến” của Quốc hội và sửa đổi đoạn 2 Điều này như sau: “Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát hoạt động của Chính phủ” (2/10 ý kiến).
- Đồng ý với Dự thảo, đã thể hiện được nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép (2/10 ý kiến).
- Đề nghị làm rõ quyền lập hiến, lập pháp của nhân dân (1/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” vào cuối đoạn 2 của Điều này (1/10 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, quyền lập pháp, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (4/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định chế độ làm việc của Quốc hội như sau: “Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số”, bảo đảm phù hợp với tính chất hoạt động của Quốc hội và vị trí, quyền hạn của đại biểu Quốc hội là bình đẳng, ngang nhau, hơn nữa đây là nguyên tắc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung, dân chủ trong hoạt động của Quốc hội đã được quy định tại các bản Hiến pháp trước đó cần được kế thừa (1/10 ý kiến).
- Dự thảo quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến..., quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước...”, khoản 11 Điều 79 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của UBTVQH: “Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội”. Như vậy, Quốc hội là cơ quan thông qua Hiến pháp chứ không phải nhân dân. Vì vậy, đề nghị thiết kế lại các điều này theo hướng Hiến pháp là do dân làm ra và quyết định; nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp là đương nhiên phải được thực hiện; quyền lập hiến là của dân, còn Quốc hội chỉ giữ quyền lập pháp (1/10 ý kiến).
Điều 75 (23 ý kiến, trong đó có 11 ý kiến ở cơ quan, 12 ý kiến của cá nhân)
- Đồng ý như dự thảo (1/23 ý kiến).
- Đề nghị sắp xếp các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội lần lượt theo 3 nhóm chức năng của Quốc hội là lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước (1/23 ý kiến).
- Đề nghị quy định bổ sung quyền của Quốc hội trong việc thành lập, giải thể, chia tách Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và thẩm quyền quyết định phê chuẩn các điều ước quốc tế có điều khoản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (1/23 ý kiến).
- Về quy định Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, việc bổ sung quy định này là không cần thiết vì Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vị trí pháp lý và nguyên tắc hoạt động đặc thù, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi quy định Quốc hội có quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; nếu Thẩm phán là chức danh do Quốc hội phê chuẩn thì cũng cần được Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (1/23 ý kiến).
- Đề nghị Hiến pháp cần quy định rõ về việc Quốc hội thành lập một số Ủy ban quan trọng (Ủy ban Hiến định) như một số nước khác, trong đó có Ủy ban Dân nguyện và Tòa án Hiến pháp (3/23 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc những nhiệm vụ và quyền hạn khác của Quốc hội đã được quy định trong pháp luật hiện hành thì nên đưa vào Hiến pháp (1/23 ý kiến).
- Nội dung Điều này chưa có quy định về vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (1/23 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm thẩm quyền Quốc hội quyết định chính sách xã hội (1/23 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định: “Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt” để thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 107 (1/23 ý kiến).
Đề nghị sửa đổi như sau:
“Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Xem xét, thông qua, sửa đổi Hiến pháp và luật;
2. Giám sát hoạt động của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ;
3. Thẩm tra và phê chuẩn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
8. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Chính phủ;
9. Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
10. Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
11.Quyết định đại xá;
12. Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;
15. Quyết định việc trưng cầu ý dân.” (1/23 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị giữ nguyên nhiệm vụ, quyền hạn “quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh” như Hiến pháp hiện hành (2/23 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “Làm Hiến pháp và sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, làm luật và sửa đổi, bổ sung luật” (1/23 ý kiến) hoặc “Ban hành Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, ban hành luật và sửa đổi luật” (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị thay từ “làm” bằng cụm từ “xây dựng, ban hành” (2/23 ý kiến) hoặc bằng từ “ban hành” hoặc bằng từ “xây dựng” (1/23 ý kiến); thay cụm từ “làm Hiến pháp” bằng cụm từ “lập Hiến” và cụm từ “làm luật và sửa đổi luật” bằng cụm từ “xây dựng, ban hành và sửa đổi luật” (1/23 ý kiến); thay cụm từ “làm Hiến pháp, làm luật” bằng cụm từ “Xây dựng Hiến pháp, ban hành Luật” (4/23 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi như sau:“Xây dựng Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; soạn thảo hoặc thông qua các dự thảo luật và sửa đổi luật” (2/23 ý kiến).
+ Đề nghị quy định rõ là ngoài Ủy ban thường vụ Quốc hội được Quốc hội ủy quyền lập pháp thì các chủ thể khác như Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương, v.v.. có được Quốc hội ủy quyền lập pháp không hay các chủ thể này có quyền lập pháp trực tiếp từ Hiến pháp; nếu có thì điều kiện đối với việc ủy quyền lập pháp là gì? Đây là vấn đề cần được quy định để có cơ sở kiểm soát quyền lực (2/23 ý kiến).
+ Cần xác định rõ ràng hơn liệu thẩm quyền lập hiến có nên chỉ tập trung vào Quốc hội không? (1/23 ý kiến).
Khoản 3:
+ Đề nghị bỏ cụm từ “cơ bản” vì Hiến pháp chỉ quy định tổng quát Quốc hội quyết định nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước là đủ, hơn nữa bỏ cụm từ này còn để tránh suy luận thế nào là cơ bản hay không cơ bản (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị giữ nguyên nội dung khoản 3 Điều 84 của Hiến pháp hiện hành, vì ngắn gọn, đủ ý (2/23 ý kiến).
Khoản 4:
+ Tán thành với dự thảo, Quốc hội phải quyết định mức giới hạn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ là quy định mới, đúng đắn, hợp lý (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị giữ nguyên như Hiến pháp hiện hành, càng quy định chi tiết thì lại càng thiếu, những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết định như chương trình mục tiêu quốc gia không thể liệt kê vào Hiến pháp được (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị thay đoạn “Quốc hội quyết định ngân sách Trung ương” bằng “Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ ngân sách Nhà nước” (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ hoặc diễn đạt lại quy định về Quốc hội “quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia” vì quy định khoản 3 đã bao hàm nội dung này; đồng thời tạo hướng mở cho việc cân nhắc nâng cao vị thế của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là Ngân hàng Trung ương độc lập (2/23 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ cụm từ: quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, và cụm từ xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước vì đó là các nhiệm vụ cụ thể trong quyền, nhiệm vụ quyết định dự toán, phân bổ, quyết toán ngân sách nhà nước (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đoạn “quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu” bằng đoạn “quyết định tỷ lệ phân chia các nguồn thu giữa các cấp ngân sách” (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị quy định Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước cho phù hợp với thực tế, bảo đảm nguyên tắc ngân sách nhà nước là thống nhất, bởi vì có quyết định dự toán ngân sách nhà nước mới điều tiết được cho ngân sách trung ương và phân bổ được ngân sách cho các cấp, các ngành (1/23 ý kiến).
+ Quy định về việc Quốc hội quyết định chính sách tiền tệ quốc gia chưa rõ nội hàm, thực tế Quốc hội đã ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, do đó cần nghiên cứu kỹ hai luật này để quy định một số nội dung chính sách tiền tệ vào Hiến pháp, chẳng hạn như việc in tiền, loại tiền, mệnh giá đồng tiền và tỷ giá hối đoái… (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định “Quốc hội quyết định các loại lệ phí và phí, vì đây là lĩnh vực thuộc quyền tài sản của công dân (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị làm rõ quy định “Quốc hội quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia”. Thực tế Quốc hội không chỉ xem xét nhiều báo cáo, như báo cáo tổng hợp dự toán, báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước, mà xem xét rất nhiều vấn đề; đề nghị rà soát các quy định cụ thể để quy định phù hợp, tránh vừa thừa, vừa thiếu (2/23 ý kiến).
Khoản 3 và 4: Đề nghị bỏ các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội về việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia vì nên coi đây là các hoạt động thực thi quyền hành pháp (1/23 ý kiến).
Khoản 6:
+ Đề nghị bổ sung “ủy ban điều tra dư luận xã hội” để thực hiện dân chủ trực tiếp (1/23 ý kiến).
Khoản 7:
+ Đồng ý như dự thảo về quy định Quốc hội bầu “Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội”, bảo đảm quyền linh hoạt cho Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc kiện toàn tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Hơn nữa, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội không có thẩm quyền quyết định bất kỳ vấn đề gì mà chỉ làm tham mưu cho Quốc hội (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung thẩm quyền của Quốc hội bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên thường trực chuyên trách ở Trung ương, còn các thành viên khác do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị không quy định về quyền hạn của Quốc hội “phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”, vì đây là chức danh có nghề nghiệp đặc thù, trực tiếp tiến hành hoạt động xét xử, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nên giao thẩm quyền này cho Chủ tịch nước (2/23 ý kiến).
Khoản 8:
+ Tán thành với dự thảo (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị chỉnh sửa lại câu chữ, làm rõ việc đánh giá sự tín nhiệm đối với hoạt động của Quốc hội, điều hành của Chính phủ và người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị không quy định vấn đề “lấy phiếu tín nhiệm” trong Hiến pháp, vì về bản chất, đây chỉ là việc thăm dò tín nhiệm trước khi bỏ phiếu bất tín nhiệm (6/23 ý kiến).
+ Đề nghị cân nhắc phạm vi lấy phiếu tín nhiệm (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị không quy định bỏ phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp; đề nghị quy định các vấn đề này trong luật và chỉ đối với các chức danh trong cơ quan hành pháp (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị sửa theo hướng “bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” và thu hẹp đối tượng bị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm (chỉ nên bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ) nhằm kiểm soát quyền lực, nâng cao tính khả thi và hiệu quả của việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này (1/23 ý kiến).
Khoản 9:
+ Đề nghị đưa quy định về “thẩm quyền thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật” lên trước các quy định về thực hiện quyền giám sát tối cao, quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan; đồng thời bổ sung quy định về việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm người đứng đầu các cơ quan khác đó (1/23 ý kiến).
Khoản 10:
+ Đề nghị quy định “Bổ sung, bãi bỏ, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật…” (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị quy định Tòa án (văn bản dưới luật) hoặc Hội đồng Hiến pháp (Hiến pháp, Luật) khi xem xét tính hợp hiến của văn bản luật (1/23 ý kiến).
Khoản 13:
+ Đề nghị bổ sung đoạn “nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt cho Hội đồng quốc phòng và an ninh trong trường hợp có chiến tranh” sau cụm từ “quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình” bảo đảm tính logic với quy định tại khoản 2 Điều 94 (1/23 ý kiến).
Khoản 14:
+ Tán thành với Dự thảo (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi như sau:“Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn, gia nhập hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tham gia tổ chức quốc tế phổ cập, tổ chức khu vực quan trọng, điều ước quốc tế đòi hỏi sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành luật hoặc làm phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng”, do trên thực tế có những tổ chức quốc tế không mang tính phổ cập, phạm vi hẹp, mang tính chất chuyên môn, kỹ thuật, không tới mức phải được Quốc hội xem xét, quyết định (1/23 ý kiến) hoặc “14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, gia nhập hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tham gia tổ chức quốc tế và khu vực, điều ước quốc tế liên quan đến quyền lập pháp của Quốc hội hoặc làm phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng”, theo đó bổ sung hai loại điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ của Quốc hội là (i) điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký và (ii) điều ước quốc tế mà việc thực hiện đòi hỏi Quốc hội cần ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung luật. Thay cụm từ “chiến tranh và hòa bình” bằng cụm từ “hòa bình và an ninh”, phù hợp với xu thế hòa bình (2/23 ý kiến)
+ Đề nghị thay cụm từ “chiến tranh và hòa bình” bằng cụm từ “quốc phòng, an ninh”, vì các điều ước quốc tế về quốc phòng, an ninh có những nội dung quan trọng, nhạy cảm, cần được Quốc hội quyết định phê chuẩn hoặc bãi bỏ (2/23 ý kiến).
+ Đề nghị quy định cụ thể, tránh chồng chéo với thẩm quyền của Chủ tịch nước (khoản 6 Điều 93) và Chính phủ (khoản 7 Điều 101) (1/23 ý kiến).
Khoản 15:
+ Đề nghị quy định như Hiến pháp năm 1946 (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “15. Quyết định trưng cầu ý dân; bảo đảm thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp của công dân” (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị quy định trực tiếp, Hiến pháp được làm ra phải được trưng cầu ý dân thay vì phải được Quốc hội quyết định rồi mới trưng cầu ý dân (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi khoản này như sau “Quyết định trưng cầu dân ý những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia và quyền lợi cơ bản của nhân dân” (1/23 ý kiến).
+ Đề nghị quy định cụ thể hơn các trường hợp Quốc hội phải trưng cầu ý dân để bảo đảm quyền biểu quyết của công dân được thực hiện, mà quan trọng trước nhất là phúc quyết về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; cụ thể như sau: “Quyết định trưng cầu dân ý về Hiến pháp sửa đổi, bổ sung và một số việc khác do luật định” (1/23 ý kiến).
Điều 76 (ý kiến ở 03 cơ quan)
- Đề nghị quy định rõ ‘‘Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc theo chế độ Hội nghị và quyết định theo đa số. Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội’’ (1/3 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm. Thể lệ bầu cử và số lượng đại biểu Quốc hội do luật định. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Tại phiên họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội, Quốc hội bầu Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội và căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban mà quyết định xác nhận tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội” (1/3 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định“Số đại biểu Quốc hội cố định là 500 đại biểu” cho nhất quán (1/3 ý kiến).
Điều 77 (04 ý kiến, trong đó có 03 ý kiến ở cơ quan, 01 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị bổ sung trách nhiệm của Chủ tịch Quốc hội “thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân những vấn đề quan trọng mà Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghị quyết” vì sẽ làm rõ hơn tinh thần Quốc hội chịu trách nhiệm trước nhân dân, giải thích công khai những quyết định của mình để nhân dân hiểu và giám sát (1/4 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thẩm quyền ký ban hành pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội… cho đầy đủ (1/4 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “giúp Chủ tịch” trong đoạn quy định nhiệm vụ của các Phó Chủ tịch Quốc hội (1/4 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “lãnh đạo” bằng “điều hành” sẽ thể hiện chính xác hơn vai trò của Chủ tịch Quốc hội đối với việc điều hành hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Dự thảo quy định Chủ tịch Quốc hội là người lãnh đạo công tác Ủy ban thường vụ Quốc hội là không hợp lý, không thể hiện được nguyên tắc hoạt động tập thể, quyết định theo đa số của Ủy ban thường vụ Quốc hội (1/4 ý kiến).
Điều 78 (ý kiến ở 1 cơ quan)
- Đề nghị bổ sung chức danh Tổng Thư ký Quốc hội và sửa đổi như sau: “Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội và các Ủy viên”.
Điều 79 (15 ý kiến, trong đó có 11 ý kiến ở cơ quan, 04 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị bổ sung quy định về “thẩm quyền quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam của Ủy ban thường vụ Quốc hội”, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Đại sứ ta, giống như quy trình Quốc hội xem xét, bổ nhiệm Đại sứ tại một số nước (1/15 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung khoản 12 như sau: “12. Xem xét, quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam ở nước ngoài trước khi Chủ tịch nước bổ nhiệm và phê chuẩn” để phù hợp với thông lệ quốc tế và thể hiện rõ tầm quan trọng trong quan hệ ngoại giao của đất nước (1/15 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thẩm quyền quyết định về cơ cấu tổ chức của các cơ quan tư pháp, quyết định biên chế, số lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán (1/15 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau:
“Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; (bỏ khoản này nếu thành lập Hội đồng bầu cử độc lập)
2. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;
3. Phối hợp với Chính phủ xây dựng chương trình kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm và nhiệm kỳ;
4. Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; (đề nghị chuyển sang Tòa án)
5. Ban hành pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
6. Giám sát hoạt động của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
7. Hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
8. Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội;
9. Trong thời gian Quốc hội không họp, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội;
10. Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất;
11. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
12. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
13. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.” (1/15 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn các Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc và các Ủy viên Hội đồng, Phê chuẩn các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên các Ủy ban của Quốc hội (1/15 ý kiến).
Khoản 2:
+ Nhất trí như dự thảo về thẩm quyền ban hành pháp lệnh của UBTVQH, trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên, chưa thể ban hành đầy đủ, kịp thời tất cả các luật để điều chỉnh mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thì việc tiếp tục giao cho UBTVQH ban hành pháp lệnh là cần thiết và phải được Quốc hội giao trong những trường hợp cần thiết (1/15 ý kiến).
+ Đề nghị chuyển chức năng giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh cho Hội đồng Hiến pháp vì thực tế Ủy ban thường vụ Quốc hội rất ít khi thực hiện quy định này (2/15 ý kiến).
+ Đề nghị thay từ “ra” bằng từ “ban hành” (3/15 ý kiến).
Khoản 3: Đề nghị bổ sung thêm Ủy ban điều tra dư luận xã hội và nhiệm vụ khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện chính sách pháp luật của Quốc hội (1/15 ý kiến).
Khoản 5:
+ Đề nghị giữ nguyên như Hiến pháp hiện hành “Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động, công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội”, vì Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đều do Quốc hội thành lập, không phải là cấp trên, cấp dưới (7/15 ý kiến).
+ Đề nghị cân nhắc quy định “Ủy ban thường vụ bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội” do mẫu thuẫn với quy định tại khoản 3 Điều 87 “Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội” (1/15 ý kiến); bỏ đoạn “bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội” (2/15 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “5- Lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan trực thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội” (1/15 ý kiến).
Khoản 6:
+ Đề nghị bổ sung từ “quốc gia” trước từ “nhân dân” ở cuối khoản này (1/15 ý kiến).
+ Đề nghị quy định rõ thẩm quyền hướng dẫn và giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân? Thực tế có nhiều vấn đề khó hướng dẫn (1/15 ý kiến).
+ Đề nghị thay đoạn “giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” bằng đoạn “đình chỉ hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đề nghị Quốc hội xem xét giải tán …” (1/15 ý kiến).
Khoản 7:
+ Tán thành với dự thảo (1/15 ý kiến).
Khoản 8:
+ Đề nghị bổ sung đoạn “quyết định các biện pháp lập pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc” vào sau đoạn “tuyên bố tình trạng chiến tranh” (2/15 ý kiến).
Khoản 9:
+ Cần xem xét, cân nhắc lại việc sử dụng từ “ban bố” (1/15 ý kiến).
Khoản 11:
+ Đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội phải tổ chức thực hiện trưng cầu ý dân, điều tra dư luận xã hội, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm (1/15 ý kiến).
+ Đề nghị quy định cụ thể hơn vấn đề trưng cầu ý dân (1/15 ý kiến).
Điều 80 (10 ý kiến, trong đó có 08 ý kiến ở cơ quan, 02 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị bổ sung quy định: Hội đồng Dân tộc là cơ quan của Quốc hội, là cơ quan đại diện cho tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam (2/10 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành, các Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban và các thành viên do Quốc hội bầu, như vậy mới đủ thẩm quyền thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Quốc hội giao (7/10 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung vào đoạn cuối cụm từ “…theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng dân tộc” để tăng thêm tính chặt chẽ và là căn cứ khi thực hiện (3/10 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung từ “Quốc hội” sau cụm từ “Hội đồng dân tộc” (1/10 ý kiến).
+ Đề nghị cần phân biệt việc Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc, bầu Ủy ban của Quốc hội là việc lập ra các cơ quan này gắn với cơ cấu bên trong của một tổ chức, khác với việc bầu hoặc phê chuẩn chức danh, chức vụ (1/10 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ cụm từ “Hội đồng Dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các Ủy viên, Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu” (1/10 ý kiến).
+ Đề nghị chuyển khoản 1 Điều 80 và khoản 1 Điều 81: “các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội bầu”, “các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội bầu” lên quy định tại Điều 79 (1/10 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ cụm từ “Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu” vì đã quy định ở khoản 7 Điều 75 (1/10 ý kiến).
Khoản 2:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, thực hiện quyền giám sát …” (2/10 ý kiến).
Khoản 3:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “Trước khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải xin ý kiến thẩm tra của Hội đồng Dân tộc” (2/10 ý kiến).
+ Đề nghị quy định thống nhất Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội đều được mời tham dự các phiên họp Chính phủ khi có nội dung có liên quan (1/10 ý kiến).
+ Đề nghị giữ cách thể hiện như Điều 94 hiện hành vì bảo đảm tính lôgic về mặt nội dung: khi Chính phủ ban hành chính sách dân tộc phải tham khảo ý kiến Hội đồng dân tộc, từ đó mới có cơ sở để quy định Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc (2/10 ý kiến).
+ Đề nghị quy định “Chủ tịch Hội đồng dân tộc có quyền tham dự” thay cho quy định “được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc” (1/10 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “được sự đồng thuận” trước cụm từ “của Hội đồng dân tộc” (1/10 ý kiến).
Điều 81 (16 ý kiến, trong đó có 11 ý kiến ở cơ quan, 05 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị bỏ Điều 83 và sửa đổi Điều 81 như sau: “1. Quốc hội quyết định thành lập, giải thể các Ủy ban của Quốc hội. 2. Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên. Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu; các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Mỗi Uỷ ban có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách. 3. Ủy ban của Quốc hội thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật và dự án khác, báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban. 4. Các Ủy ban của Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban mới. 5. Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về những vấn đề nhất định” (2/16 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quyền của Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn về các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban, giống như thẩm quyền của Hội đồng dân tộc. Hiện nay, các Ủy ban của Quốc hội khi thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật và các dự án khác, bàn về các vấn đề quan trọng… đều mời lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự đối với các nội dung thuộc bộ, ngành phụ trách (1/16 ý kiến).
- Đề nghị quy định về thời gian làm việc của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong giai đoạn từ khi được Quốc hội thành lập cho đến khi Quốc hội bầu xong các thành viên của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban khóa mới theo hướng “Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội của mỗi khóa Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội bầu ra các thành viên của Hội đồng dân tộc, Ủy ban khóa mới” (1/16 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị bổ sung vào đoạn cuối cụm từ “…theo đề nghị của Chủ nhiệm Ủy ban” để tăng thêm tính chặt chẽ và là căn cứ khi thực hiện (3/16 ý kiến).
+ Đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành, Phó Chủ nhiệm Ủy ban và các thành viên do Quốc hội bầu để khẳng định vai trò, địa vị pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các đại biểu Quốc hội (8/16 ý kiến).
+ Đề nghị chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm các Ủy ban do Quốc hội bầu, Ủy viên của các Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn (2/16 ý kiến).
+ Đề nghị cân nhắc không nên quy định quá chi tiết các nội dung về kỹ thuật, quy trình, thủ tục trong Hiến pháp mà nên để luật điều chỉnh (4/16 ý kiến).
+ Đề nghị xác định rõ cơ chế làm việc của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là cơ chế thủ trưởng hay cơ chế hội đồng, theo đó sẽ có thiết kế cơ chế bầu tương ứng đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban cũng như các thành viên khác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; nếu theo cơ chế hội đồng thì nên giữ quy định như Hiến pháp hiện hành (2/16 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ cụm từ “Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên. Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu” vì đã quy định ở khoản 7 Điều 75 (1/16 ý kiến).
+ Tán thành quy định về việc Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm của các Ủy ban Quốc hội và các Ủy viên thường trực do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, nhưng ai sẽ trình ra để phê chuẩn vì Uỷ ban thường vụ Quốc hội là khóa mới? (3/16 ý kiến).
+ Đề nghị sử dụng thống nhất chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch của cơ quan Quốc hội (3/16 ý kiến).
Khoản 2:
+ Đề nghị cân nhắc việc quy định khoản này, vì sẽ khó khăn cho việc thành lập các Ủy ban có chức năng, nhiệm vụ đặc thù sau này (1/16 ý kiến).
+ Đề nghị giữ lại thẩm quyền của Ủy ban “trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh” (1/16 ý kiến).
Khoản 3:
+ Đề nghị bỏ quy định tại khoản này vì việc giải thể Ủy ban của Quốc hội là đương nhiên, quy định này thường thì chỉ áp dụng đối với các ủy ban lâm thời nên không nên quy định trong Hiến pháp (1/16 ý kiến).
+ Đề nghị chuyển về Điều 75 thì hợp lý hơn, vì thực chất đây là quy định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định trong việc thành lập, giải thể các Ủy ban (1/16 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “việc thành lập, giải thể, chia tách, hợp nhất các Ủy ban do Quốc hội quyết định” để phù hợp với thực tế (1/16 ý kiến).
Điều 82 (ý kiến ở 3 cơ quan)
- Đề nghị bổ sung quy định về thẩm quyền của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội nghe giải trình về dự kiến nhân sự các chức danh ở các bộ, ngành thuộc lĩnh vực hoạt động của HĐDT, Ủy ban; trên cơ sở đó, HĐDT, Ủy ban ra báo cáo kiến nghị để Quốc hội có thêm thông tin quyết định (2/3 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị sửa đoạn “có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ” thành “Các thành viên Chính phủ có nghĩa vụ giải trình…” (1/3 ý kiến).
Khoản 2:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “Cơ quan, tổ chức….trả lời các ý kiến của Hội đồng Dân tộc…” (1/3 ý kiến).
Điều 83 (ý kiến ở 4 cơ quan)
- Tán thành với dự thảo, qua nghiên cứu Hiến pháp các nước, cần thành lập Ủy ban lâm thời, chỉ giải quyết một vụ việc sau đó giải tán (1/4 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau “Khi cần thiết theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc ít nhất 1/3 đại biểu Quốc hội, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một số vấn đề và báo cáo tại kỳ họp Quốc hội gần nhất” (1/4 ý kiến).
- Đề nghị nên đưa nội dung Điều này lên Điều 75 vì đó là quyền và nhiệm vụ của Quốc hội (1/4 ý kiến).
- Đề nghị gọi tên là uỷ ban chuyên đề (2/4 ý kiến).
Điều 84 (10 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 06 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị bổ sung điều kiện bãi nhiệm đại biểu Quốc hội (2/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn đối với Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia (1/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm quy định “đại biểu Quốc hội không đồng thời là thành viên của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao” (4/10 ý kiến).
- Đề nghị hoạt động của đại biểu Quốc hội phải chịu kiểm soát của nhân dân và cử tri (1/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ cấu đại biểu Quốc hội, số lượng, tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách (1/10 ý kiến).
- Đề nghị nêu rõ đại biểu Quốc hội là người đại diện của nhân dân, do cử tri bầu ra, do đó cần quy định đại biểu Quốc hội được quyền xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (1/10 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định “đại biểu Quốc hội bầu ra cơ quan lãnh đạo và đánh giá sự tín nhiệm” (1/10 ý kiến).
- Đề nghị xem xét lại quy định “đại biểu Quốc hội phải trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri” vì đây là vấn đề khó, nhiều yêu cầu và kiến nghị của cử tri đại biểu không trả lời trực tiếp ngay được, vì không nắm rõ hoặc không thuộc thẩm quyền giải quyết (1/10 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị bổ sung quy định tại khoản này, thể hiện đại biểu Quốc hội là người đại diện “cho lợi ích quốc gia” (1/10 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung hoặc xây dựng thành một điều riêng quy định như sau: “đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước và của nhân dân ở đơn vị bầu đại biểu. Trong số đại biểu Quốc hội có tỷ lệ thích đáng đối với số đại biểu hoạt động chuyên trách” (2/10 ý kiến).
+ Đề nghị thay từ “và” bằng cụm từ “đặc biệt là” (1/10 ý kiến).
Khoản 2:
+ Đề nghị sửa đổi đoạn đầu thành “Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm liên hệ chặt chẽ với cư tri” (1/10 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc việc bỏ từ “xem xét” trước cụm từ “theo dõi và đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo” (1/10 ý kiến).
Khoản 3:
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “có nghĩa vụ” vào sau cụm từ “đại biểu Quốc hội” (1/10 ý kiến).
Điều 85 (06 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 02 ý kiến của cá nhân)
Khoản 2:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “Người bị chất vấn phải trả lời đại biểu Quốc hội. Hình thức trả lời chất vấn do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo quy định của pháp luật” (4/6 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung về việc trả lời chất vấn tại phiên giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (2/6 ý kiến).
Điều 86 (ý kiến ở 4 cơ quan)
- Đề nghị viết cô đọng hơn về quyền miễn trừ tư pháp của ĐBQH, vì Hiến pháp nên quy định khái quát (1/4 ý kiến).
- Đề nghị đưa các quy định về việc bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội vào các Luật chuyên ngành như Luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Quốc hội (1/4 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau “Không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong trường hợp Quốc hội không họp thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội…” hoặc “Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp mà không có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội;….” (2/4 ý kiến) hoặc “Đại biểu Quốc hội có quyền bất khả xâm phạm trong khi thi hành nhiệm vụ. Không có sự đồng ý…” (1/4 ý kiến).
Điều 87 (ý kiến ở 5 cơ quan)
- Đề nghị cân nhắc lại quy định “đại biểu Quốc hội có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội” vì như hiện nay số lượng thành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban là có hạn trong khi tất cả các đại biểu đều có nguyện vọng được là thành viên của Hội đồng hoặc Ủy ban, như vậy sẽ khó khả thi trên thực tế (2/5 ý kiến).
Khoản 2: Đề nghị nghiên cứu, bổ sung trách nhiệm của các cơ quan Đảng, đoàn thể, doanh nghiệp…cho đầy đủ (1/5 ý kiến).
Khoản 3:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: ‘‘Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật’’ (1/5 ý kiến).
+ Đề nghị quy định thống nhất giữa khoản này “Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội” với khoản 5 Điều 79 “Ủy ban thường vụ bảo đảm điều kiện hoạt động đại biểu Quốc hội” (1/5 ý kiến).
Điều 88 (07 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 03 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị chuyển lên sau Điều 76 để nội dung về hoạt động chung của Quốc hội được liên tục (1/7 ý kiến).
- Đề nghị không nên quy định Quốc hội mỗi năm họp 02 lần, Hiến pháp chỉ nên quy định những nguyên tắc cơ bản, những thiết chế lớn của Quốc hội (3/7 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị bổ sung quy định cho phép công dân được dự nghe hoặc tổ chức truyền thanh, truyền hình trực tiếp các phiên họp công khai của Quốc hội. Bởi lẽ, việc thực hiện này vừa thể hiện được tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan dân cử, vừa là sự giám sát của cử tri đối với hoạt động của Quốc hội, tại Điều 30 Hiến pháp 1946 đã quy định: “Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe…” (1/7 ý kiến).
Khoản 2:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “Quốc hội họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ” để làm phân biệt rõ với trường hợp họp bất thường (1/7 ý kiến).
+ Đề nghị quy định Quốc hội họp mỗi năm 3 hoặc 4 kỳ, mỗi kỳ kéo dài khoảng 15 ngày để bảo đảm chất lượng của các kỳ họp, tránh tốn kém, hình thức và tạo điều kiện để các đại biểu kiêm nhiệm có thể tham gia các kỳ họp đầy đủ, đồng thời vẫn bảo đảm giải quyết các công việc được giao (1/7 ý kiến).
+ Đề nghị quy định Quốc hội họp ít nhất mỗi năm 2 kỳ để cho linh hoạt, việc tăng thêm kỳ họp tùy thuộc vào điều kiện, thời gian do Luật tổ chức Quốc hội quy định (1/7 ý kiến).
Điều 89 (04 ý kiến, trong đó có 03 ý kiến ở cơ quan, 01 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị bổ sung nội dung “Cơ quản chủ trì dự án luật phải có trách nhiệm, chủ động phối hợp với các cơ quan thẩm quyền trong việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giải thích khi luật, pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực thi hành” (1/4 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị bổ sung đoạn “và kèm theo văn bản dự thảo hướng dẫn thực hiện” (1/4 ý kiến).
+ Đề nghị sửa cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận” thành “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” để thống nhất với các văn kiện khác (1/4 ý kiến).
Khoản 3:
+ Đề nghị bổ sung như sau: “3. Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định” (1/4 ý kiến).
Điều 90 (07 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 03 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị giữ nguyên quy định của Hiến pháp hiện hành về điều kiện bãi nhiệm đại biểu Quốc hội khi được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (2/7 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghi bỏ cụm từ “trừ trường hợp” trước từ “Hiến pháp” và từ “quy định” sau từ “Hiến pháp” cho gọn và rõ hơn (1/7 ý kiến).
+ Đề nghị tách đoạn “trừ trường hợp Hiến pháp quy định phải có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành” thành một khoản riêng và nói rõ là áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 124 (3/7 ý kiến).
Khoản 2:
+ Đề nghị lấy mốc thời gian công bố các văn bản trên kể từ ngày bế mạc kỳ họp Quốc hội hoặc từ ngày kết thúc phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội thay vì kể từ ngày được thông qua để có đủ thời gian làm các thủ tục, phù hợp với thực tế (1/7 ý kiến).
7. Về Chương VI, Chủ tịch nước
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Có 26 ý kiến góp ý vào Chương VI (trong đó có 07 ý kiến ở cơ quan, 19 ý kiến của cá nhân).
- Đề nghị sửa đổi tên Chương, nội dung Chương
+ Đề nghị quy định Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại các luật, nghị quyết của Quốc hội đã thông qua (1/26 ý kiến).
+ Đề nghị phân biệt rõ chức danh chỉ huy Quân đội nào do Chủ tịch nước với tư cách là thống lĩnh lực lượng vũ trang bổ nhiệm, cụ thể như đối với Tư lệnh quân đoàn, Tư lệnh quân khu... là thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước bổ nhiệm; đối với những chức danh thuộc quản lý nhà nước về quốc phòng thuộc thẩm quyền của Thủ tướng bổ nhiệm (1/26 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu để quy định rõ hơn tính “kiểm soát” của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với Quốc hội và Chính phủ theo hướng Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội thảo luận, biểu quyết lại những những vấn đề mà Chủ tịch nước có ý kiến khác hoặc Chủ tịch nước cho rằng chưa bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật, có quyền triệu tập và chủ trì phiên họp của Chính phủ (1/26 ý kiến).
+ Đề nghị: (1) Quy định rõ Chủ tịch nước thuộc bộ phận nào trong 3 nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp). (2) Đề nghị quy định thẩm quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao và quy định Chính phủ chỉ điều hành về kinh tế - xã hội của đất nước. (3) Chủ tịch nước là người đứng đầu quốc gia (1/26 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung làm rõ mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp (1/26 ý kiến).
+ Đề nghị cân nhắc việc đặt Điều 94 trong chương này, vì không logic (1/26 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 91 (10 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 06 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị quy định Chủ tịch nước có chức năng thống lĩnh công tác tư pháp và hành pháp thay cho công tác đối nội và đối ngoại (1/10 ý kiến).
- Đề nghị cân nhắc nhất thể hóa hai vị trí người đứng đầu Đảng và người đứng đầu Nhà nước, do từ góc độ quốc phòng, an ninh, Tổng Bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương, là người thực sự thống lĩnh các lực lượng vũ trang, trong khi đó thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh trong quân đội thì lại thuộc về Chủ tịch nước và Thủ tướng (10/10 ý kiến).
- Quy định Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng bảo vệ Hiến pháp vì Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia có đủ uy tín, quyền lực để thực hiện được nhiệm vụ này (1/10 ý kiến).
Điều 92 (07 ý kiến, trong đó có 02 ý kiến ở cơ quan, 05 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với dự thảo (1/7 ý kiến).
- Đề nghị quy định cụ thể về tiêu chuẩn, độ tuổi, thời gian đảm nhiệm chức vụ này cho phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế (1/7 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định “Chủ tịch nước không giữ chức vụ quá 2 nhiệm kỳ liên tục” (2/7 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu” vì đã quy định ở khoản 7 Điều 75 (1/7 ý kiến).
+ Đề nghị thay cụm từ “bầu Chủ tịch nước mới” bằng “bầu Chủ tịch nước kế nhiệm” sẽ phù hợp hơn (1/7 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi đoạn 2 như sau “Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội mỗi năm một lần và báo cáo hoạt động của cả nhiệm kỳ” (1/7 ý kiến).
Điều 93 (08 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 04 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành quy định quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc “bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các tòa án khác” thể hiện sự tôn nghiêm của pháp luật, đề cao trách nhiệm của Thẩm phán (1/8 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung một khoản quy định Chủ tịch nước trực tiếp chủ trì, quản lý khối tư pháp và quyết định những vấn đề cụ thể về công tác tư pháp, vì vừa qua mảng này chưa có ai nào phụ trách (1/8 ý kiến).
- Đề nghị quy định tăng thêm thẩm quyền của Chủ tịch nước (1/8 ý kiến).
Khoản 3:
+ Tán thành quy định Chủ tịch nước bổ nhiệm tất cả các Thẩm phán là phù hợp với địa vị pháp lý của Thẩm phán, là người nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra bản án, quyết định nên cần phải do người đứng đầu Nhà nước bổ nhiệm, đây cũng là định hướng phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp (1/8 ý kiến).
+ Đề nghị không quy định thẩm quyền của Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức “thẩm phán các tòa án khác”, do số lượng Thẩm phán các Tòa án khác trên cả nước rất lớn, khó bổ nhiệm kịp thời, đúng thời hạn, dễ mang tính hình thức, nếu thực hiện theo quy định này thì không bảo đảm tính kịp thời về thời gian bổ nhiệm, nhất là trong bổ nhiệm lại (2/8 ý kiến).
Khoản 5:
+ Tán thành việc quy định rõ quyền quyết định phong hàm, cấp sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang nhân dân, Đô đốc, Phó Đô đốc, Chuẩn Đô đốc hải quân; bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam là cần thiết, phù hợp với nhiệm vụ của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng, an ninh (1/8 ý kiến).
+ Đề nghị bỏ quy định phong hàm cấp sỹ quan (1/8 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định Chủ tịch nước bổ nhiệm tư lệnh quân khu, tư lệnh quân đoàn, binh chủng vì Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang (1/8 ý kiến).
+ Đề nghị làm rõ quy định “thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân” (1/8 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “5. Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng hàm, cấp sĩ quan cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm các chức vụ có quân hàm cấp tướng trừ các chức vụ thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an và các chức danh do Quốc hội phê chuẩn. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh. Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, căn cứ vào quyết nghị của Hội đồng Quốc phòng và An ninh ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương” (2/8 ý kiến).
+ Đề nghị không quy định “trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được”, vì số lượng thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không nhiều, làm việc theo chế độ chuyên trách nên việc họp là trách nhiệm chính trị thường xuyên, không cần trù liệu trường hợp không thể họp được (1/8 ý kiến).
Điều 94 (04 ý kiến, trong đó có 03 ý kiến ở cơ quan, 01 ý kiến của cá nhân)
- Đồng ý với dự thảo, vì thiết chế Hội đồng quốc phòng và an ninh hoạt động không thường xuyên, là biểu tượng tập trung quyền lực nhà nước khi đất nước trong tình trạng chiến tranh nhằm tránh chồng chéo với chức năng các cơ quan của Đảng, Nhà nước (1/4 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định “Hội đồng quốc phòng và an ninh hoạt động thường xuyên”, vì trên thực tế, thiết chế này gặp nhiều lúng túng trong việc xác định nội dung, phương thức hoạt động; chỉ tổ chức họp phiên đầu tiên và phiên kết thúc nhiệm kỳ; thiếu một cơ quan giúp việc chuyên nghiệp (1/4 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “1. Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Một đạo luật về Hội đồng quốc phòng và an ninh được Quốc hội ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quốc phòng và an ninh. 2. Trong trường hợp có chiến tranh, Hội đồng quốc phòng và An ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao” (1/4 ý kiến) hoặc “1. Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. 2. Trong trường hợp có chiến tranh, Hội đồng quốc phòng và an ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao. 3. Một đạo luật về Hội đồng quốc phòng và an ninh được Quốc hội ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quốc phòng và an ninh. 4. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng quốc phòng và an ninh do luật định” (1/4 ý kiến).
Khoản 1:
+ Đề nghị nghiên cứu đưa nội dung tại đoạn 2 về Chương Bảo vệ Tổ quốc cho hợp lý, vì Hội đồng quốc phòng, an ninh có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (2/4 ý kiến).
+ Nếu quy định Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh là Chủ tịch nước thì phải khẳng định: “Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh” hoặc “Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh” (1/4 ý kiến).
Điều 95 (05 ý kiến, trong đó có 03 ý kiến ở cơ quan, 02 ý kiến của cá nhân)
- Đồng ý với quy định như Dự thảo (2/5 ý kiến).
- Quy định tại Điều này về quyền của Chủ tịch nước khi tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, nhưng chưa quy định khi dự phiên họp của Chính phủ thì Chủ tịch nước giữ vai trò, quyền hạn như thế nào? đề nghị quy định “Tham dự họp các phiên họp của Chính phủ, khi cần thiết Chủ tịch nước chủ trì các phiên họp của Chính phủ bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước” (4/5 ý kiến).
- Đề nghị tăng hơn nữa thẩm quyền của Chủ tịch nước cho xứng tầm là nguyên thủ quốc gia. Hiện nay có 3 nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng Chủ tịch nước không biết nằm ở nhánh nào? (1/5 ý kiến).
Điều 96 (ý kiến của 01 cá nhân)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “theo luật định” vào cuối điều này (1/1 ý kiến).
Điều 98 (05 ý kiến, trong đó có 02 ý kiến ở cơ quan, 03 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch nước đảm nhiệm quyền Chủ tịch. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch giữ quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới” (1/5 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định trong trường hợp khuyết cả Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước (1/5 ý kiến).
- Đề nghị xác định rõ thời gian Chủ tịch nước không làm việc (3/5 ý kiến).
8. Về Chương VII, Chính phủ
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Có 18 ý kiến góp ý vào Chương VII (trong đó có 10 ý kiến ở cơ quan, 08 ý kiến của cá nhân).
- Tán thành với tên Chương, nội dung Chương VII đã quy định bảo đảm hợp lý vị trí của Chính phủ trong tổ chức quyền lực tương ứng với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp (1/18 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi tên Chương, nội dung Chương
+ Đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp trong việc ban hành văn bản Luật, chẳng hạn Chính phủ có quyền đề nghị Quốc hội chưa thông qua dự án Luật hoặc quyền rút lại dự án Luật do Chính phủ trình trong những trường hợp do luật định; đề xuất với Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật đã được thông qua. Vì theo nguyên tắc quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước, Chính phủ (quyền hành pháp) có quyền kiểm soát Quốc hội (quyền lập pháp) (1/18 ý kiến).
+ Đề nghị làm rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và tư cách cơ quan thực hiện quyền hành pháp; phân định rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ, cá nhân Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với trách nhiệm của tập thể Chính phủ; trách nhiệm cá nhân Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ trước Thủ tưởng Chính phủ (2/18 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu để quy định rõ hơn tính “kiểm soát” của Chính phủ trong mối quan hệ với Quốc hội, ví dụ như quy định Chính phủ có quyền rút lại dự án luật đã trình Quốc hội nếu cho rằng dự án luật đó không đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước của Chính phủ (3/18 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 99 (ý kiến ở 5 cơ quan)
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước” (1/5 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Chính phủ là cơ quan hành pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (3/5 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội” (1/5 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “là cơ quan chấp hành của Quốc hội” để bảo đảm sự độc lập tương đối của Chính phủ với hai cơ quan còn lại thực hiện quyền lập pháp và tư pháp, có như vậy sự phân công quyền lực mới có ý nghĩa; đồng thời trong nội hàm của “hành pháp” cũng có nội dung chấp hành Quốc hội trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc Chính phủ tổ chức thực thi luật, Nghị quyết của Quốc hội… do vậy không nhất thiết phải khẳng định lại (1/5 ý kiến).
Điều 100 (03 ý kiến, trong đó có 01 ý kiến ở cơ quan, 02 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị sửa đổi đoạn 1 như sau: “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các thành viên khác”. Quy định như vậy mới thể hiện được nguyên tắc kết hợp về chế độ tập thể với chế độ Thủ tướng, trong đó đề cao vai trò cá nhân của Thủ tướng và các Bộ trưởng. Đây cũng là nguyên tắc hiến định nhiều nước trên thế giới thể hiện trong hiến pháp của mình (1/3 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi đoạn 6 như sau: “Thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (1/3 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định về “trách nhiệm chính trị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội” (1/3 ý kiến).
- Đề nghị bỏ cụm từ “giúp Thủ tướng” trong đoạn quy định nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng (1/3 ý kiến).
Điều 101 (05 ý kiến, trong đó có 04 ý kiến ở cơ quan, 01 ý kiến của cá nhân)
Khoản 1:
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “ban hành chính sách theo thẩm quyền luật định” vào cuối khoản cho đầy đủ, rõ ràng hơn (1/5 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung nhiệm vụ “theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Chính phủ” (1/5 ý kiến).
Khoản 7:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ theo thẩm quyền do Quốc hội quy định; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên …” (2/5 ý kiến).
+ Đề nghị sửa lại là “… nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…” để thống nhất với các điều khoản khác (1/5 ý kiến).
Điều 102 (ý kiến của 01 cá nhân)
Đề nghị thay cụm từ “thành lập Chính phủ mới” bằng “thành lập Chính phủ nhiệm kỳ mới”
Điều 103 (08 ý kiến, trong đó có 07 ý kiến ở cơ quan, 01 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị chuyển nội dung “đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ” (khoản 2) và “quyết định việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ” (Khoản 4) trong nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng sang nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, bởi vì đây là những vấn đề hệ trọng, liên quan chặt chẽ đến các thể chế, chính sách cần được thảo luận tập thể, quyết định theo đa số (1/8 ý kiến).
- Đề nghị nghiên cứu xem xét bỏ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ để tránh lạm quyền; phát huy dân chủ và trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ trong quản lý Nhà nước. Thực tế từ trước đến nay Báo cáo hằng năm trước Quốc hội chỉ có của Chính phủ, chứ không có của Thủ tướng. Vả lại, kinh nghiệm các nước như Trung Quốc, Lào…Hiến pháp cũng chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ mà không quy định nhiệm vụ quyền hạn của Thủ tướng (1/8 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi đoạn đầu như sau: “Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội” (2/8 ý kiến).
Khoản 2: Đề nghị quy định Thủ tướng có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức thứ trưởng vì đây là các chức danh có chức năng quản lý Nhà nước, còn việc bổ nhiệm các chức vụ và phong quân hàm trong lực lượng vũ trang (trừ sĩ quan cấp tướng) nên giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Công an là phù hợp và sẽ tránh được sự chồng chéo với thẩm quyền của Chủ tịch nước (2/8 ý kiến).
Khoản 3: Đề nghị không quy định thẩm quyền của Chính phủ đình chỉ việc thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mà nên quy định thẩm quyền này cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chính phủ chỉ phát hiện và kiến nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc chính Hội đồng nhân dân xử lý những sai phạm (1/8 ý kiến).
Khoản 4:
+ Đề nghị sửa đổi như sau:“Đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 93; đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ và điều ước quốc tế với người đứng đầu Chính phủ khác; chỉ đạo thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên” (2/8 ý kiến).
+ Quy định “chỉ đạo việc đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ” tại khoản này là thừa vì khoản 7 Điều 101 đã quy định (1/8 ý kiến).
Khoản 5:
+ Đề nghị sửa đổi như sau: “thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” (1/8 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “thuộc thẩm quyền và trách nhiệm” vào đoạn cuối, cụ thể là “…Về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền và trách nhiệm mà Chính phủ phải giải quyết” (1/8 ý kiến).
+ Đề nghị thay cụm từ “mà Chính phủ phải giải quyết” bằng cụm từ “thuộc trách nhiệm quản lý” (1/8 ý kiến).
Điều 104 (03 ý kiến, trong đó có 02 ý kiến ở cơ quan, 01 ý kiến của cá nhân)
- Đề nghị bổ sung quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ không phải là đại biểu Quốc hội để tăng số lượng đại biểu chuyên trách và làm việc chuyên nghiệp (1/3 ý kiến).
- Khoản 2: Đề nghị sửa đổi như sau “Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, phải thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” (2/3 ý kiến).
Điều 105 (01 ý kiến, trong đó có 01 ý kiến ở cơ quan, 0 ý kiến của cá nhân)
Đề nghị sửa đổi như sau: “…ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện nhiệm vụ …” (1/1 ý kiến).
Điều 106 (ý kiến ở 1 cơ quan)
Đề nghị sửa đổi như sau “Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và những người đứng đầu của các đoàn thể được mời tham gia phiên họp của Chính phủ khi bàn về những vấn đề có liên quan”.
9. Về Chương VIII, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 20 ý kiến góp ý vào Chương VIII (trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 17 ý kiến của cá nhân).
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Tán thành với dự thảo (01/20 ý kiến)
+ Đề nghị dự thảo giữ nguyên quy định cơ quan Tòa án (02/20 ý kiến) và Viện kiểm sát (01/20 ý kiến) như Hiến pháp năm 1992; xác định rõ Ủy ban kiểm sát là cơ chế lãnh đạo tập thể của Viện kiểm sát (01/20 ý kiến).
+ Đề nghị không quy định Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất, vì theo nguyên tắc tố tụng thì chỉ có hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm; hơn nữa, các bản án khi có hiệu lực pháp luật thì có giá trị pháp lý như nhau, không có bản án của cấp nào cao hơn cấp nào (01/20 ý kiến).
+ Đề nghị nghiên cứu, xem xét lấy lại chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát trước đây (02/20 ý kiến)
+ Không tán thành với quy định chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố (01/20 ý kiến)
+ Đề nghị quy định Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền công tố, bỏ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (01/20 ý kiến).
+ Viện kiểm sát là một công cụ để kiểm sát quyền lực, do đó, có thể chuyển Viện kiểm sát về Chương X để nó đứng song song với các cơ quan như kiểm toán, Ủy ban phòng, chống tham nhũng quốc gia (03/20 ý kiến)
+ Đề nghị quy định nội dung Chương này chi tiết hơn (01/20 ý kiến).
+ Nêu rõ những loại “Tòa án khác”, “Viện kiểm sát khác” (01/20 ý kiến)
+ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có được ban hành văn bản không? (01/20 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 107 (3 ý kiến, trong đó có 2 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị bổ sung khoản 1 là: “, giữ vị trí trung tâm thực hiện quyền tư pháp”; thay cụm từ “Tòa án khác” bằng cụm từ “Tòa án cấp dưới” (01/3 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi khoản 2: “Tòa án nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý...” (01/3 ý kiến)
- Không tán thành khoản 3: Đề nghị cân nhắc bỏ quy định về thành lập Tòa án đặc biệt để bảo đảm Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử duy nhất thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm quyền công dân trên cơ sở tiêu chí mọi người có quyền được xét xử bởi Tòa án theo thủ tục tố tụng luật định (01/3 ý kiến).
Điều 108 (6 ý kiến, trong đó có 3 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị bổ sung “Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán” (01/6 ý kiến)
Khoản 5
- Bổ sung như sau: “Nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” (01/6 ý kiến)
- Đề nghị bỏ khoản này vì đây là một nguyên tắc trong tố tụng mới đang được nghiên cứu và bước đầu được áp dụng trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta (01/6 ý kiến);
Khoản 6
- Đề nghị thay từ “chế độ” bằng từ “trình tự” (01/6 ý kiến)
- Đề nghị bỏ khoản này (01/6 ý kiến)
Khoản 7
- Đề nghị không phải là nguyên tắc mà là quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự, do đó cần đưa về Chương II (03/6 ý kiến)
- Thay cụm từ “lợi ích hợp pháp” bằng cụm từ “quyền và lợi ích hợp pháp” (01/6 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung một khoản quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được kéo dài thời gian công tác cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu lại các chức danh này (01/6 ý kiến).
Điều 109 (2 ý kiến, trong đó có 1 ý kiến ở cơ quan, 1 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị bổ sung cuối câu như sau “, thực hiện quyền tư pháp” (01/2 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung quy định: “Trường hợp pháp luật chưa quy định thì quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC và Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao có giá trị áp dụng bắt buộc đối với TAND cấp dưới” để bước đầu thực thi án lệ ở Việt Nam (01/2 ý kiến).
Điều 110 (4 ý kiến, trong đó có 1 ý kiến ở cơ quan, 3 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị bổ sung: “… việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định”. (01/4 ý kiến)
Khoản 2
- Đề nghị bổ sung quy định chế độ chịu trách nhiệm, nhiệm vụ báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân khác và đề nghị sửa lại là “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm về báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; Chánh án các Tòa án khác chịu trách nhiệm báo cáo công tác theo quy định của luật” (01/4 ý kiến)
- Quốc hội có nên bổ nhiệm các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hay không hay chỉ bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao còn các chức danh khác giao Chủ tịch nước thực hiện (01/4 ý kiến)
Khoản 3: đề nghị bổ sung từ “bãi nhiệm” sau chữ “bầu” (01/4 ý kiến)
Điều 111 (1 ý kiến)
Đề nghị bỏ từ “nhân dân”; thay từ “hữu quan” bằng từ “liên quan”.
Điều 112 (3 ý kiến, trong đó có 1 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị bổ sung “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và những việc khác theo quy định của luật hoặc và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong một số lĩnh vực theo quy định của pháp luật hoặc nghị quyết của Quốc hội” (01/3 ý kiến)
- Đề nghị cân nhắc quy định Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp, vì Điều 107 đã quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (01/3 ý kiến)
- Đề nghị xác định rõ Viện kiểm sát nhân dân thuộc cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp (01/3 ý kiến)
- Đề nghị xác định Viện kiểm sát là cơ quan tư pháp. Trong Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp trong đó công an, kiểm sát, tòa án, bộ phận điều tra và thi hành án đều là cơ quan tư pháp, nếu chỉ quy định Tòa án là cơ quan tư pháp thì chưa chính xác. Đồng thời, cần nghiên cứu bổ sung quyền công tố và những nội dung liên quan được thể hiện Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp (01/3 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung vào cuối khoản này quy định “Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan độc lập, không phụ thuộc vào chính quyền địa phương các cấp” (01/3 ý kiến)
Khoản 2
- Đề nghị quy định cụ thể hơn về nguyên tắc tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát để làm cơ sở cho Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ chính trị của mình (01/3 ý kiến)
Khoản 3
- Đề nghị quy định Viện kiểm sát xử lý các vi phạm hành chính và thực hiện kiểm sát văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thống nhất, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật (01/3 ý kiến)
Điều 114 (3 ý kiến, trong đó có 1 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Cần phải nâng cao vị thế của thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp (01/3 ý kiến)
Khoản 1 đề nghị quy định như sau: “Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo, Ủy ban kiểm sát là cơ chế lãnh đạo tập thể của Viện kiểm sát do Viện trưởng là người đứng đầu. Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát tối cao. Việc thành lập Ủy ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Ủy ban kiểm sát phải thảo luận, quyết định theo đa số, theo luật định” (01/3 ý kiến)
Khoản 2 cần phải xem xét, nghiên cứu kỹ việc quy định viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp để sau này không bị vướng khi sửa Luật tố tụng hình sự và các Luật tổ chức Viện kiểm sát, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự (02/3 ý kiến)
10. Về Chương IX, chính quyền địa phương
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 55 ý kiến góp ý vào Chương IX (trong đó có 9 ý kiến ở cơ quan, 46 ý kiến của cá nhân).
- Ý kiến tập trung vào các Điều: 115, 117
- Về tên chương:
+ Tán thành đổi tên Chương thành “Chính quyền địa phương” (04/55 ý kiến)
+ Không tán thành đổi tên Chương (01/55 ý kiến)
+ Đề nghị sửa lại tên Chương là “Ủy ban hành chính” (03/55 ý kiến)
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Cần tổ chức các hội thảo khoa học, tiếp thu ý kiến chuyên gia trước khi đưa ra các phương án thiết kế cho Chương này. (01/55 ý kiến)
+ Đề nghị không bỏ HĐND cấp huyện để duy trì quyền làm chủ của nhân dân ở cấp chính quyền này (02/55 ý kiến)
+ Đề nghị xác lập nguyên tắc: ở đâu lập bộ máy hành chính thì ở đó phải có tổ chức dân cử là HĐND thực hiện giám sát và tham gia quản lý xã hội (03/55 ý kiến)
+ Đề nghị quy định rõ Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân do cơ quan nào bầu hoặc bổ nhiệm để dẫn chiếu tới trách nhiệm là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và lý giải mối quan hệ này trong điều kiện không còn Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường (01/55 ý kiến)
- Các ý kiến đề nghị sửa đổi:
+ Đề nghị làm rõ hơn hai khái niệm “đơn vị hành chính lãnh thổ” và “đơn vị hành chính nhà nước”; xác định vị trí của đơn vị hành chính lãnh thổ cho phép biến đổi mô hình tổ chức bộ máy linh hoạt, năng động, phù hợp yêu cầu quản lý theo vùng đô thị, nông thôn (sẽ được thể chế hóa trong luật về chính quyền địa phương) (01/55 ý kiến)
+ Đề nghị quy định xây dựng mô hình chính quyền địa phương theo hướng làm rõ mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, xác định nguyên tắc phân cấp (trong đó có nội dung liên quan đến ngân sách quốc gia tại Điều 59) (01/55 ý kiến); xác định vị thế, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cho phù hợp với tính chất của chính quyền địa phương nằm trong cơ cấu hành chính (Hội đồng nhân dân không phải là cơ quan cấp dưới của Quốc hội) (01/55 ý kiến); xây dựng mô hình chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm (01/55 ý kiến)
+ Đề nghị thiết kế chính quyền địa phương tự quản, có vị thế tương đối độc lập; bổ sung quy định về chính quyền đô thị… Chỉ quy định những vấn đề nguyên tắc trong Hiến pháp, như nguyên tắc phân cấp giữa trung ương và địa phương, nguyên tắc cho phép tiến tới tổ chức chính quyền địa phương có sự phân biệt đặc thù giữa chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo, đặc khu kinh tế... (01/55 ý kiến)
+ Đề nghị giữ lại chương về Hội đồng nhân dân như quy định của Hiến pháp hiện hành và xác định rõ vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân trong Hiến pháp để làm cơ sở quy định trong các luật sau này (03/55 ý kiến)
+ Đề nghị vẫn tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường theo chính quyền 4 cấp là tỉnh, huyện, xã và khi cụ thể hóa bằng Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân sửa đổi sắp tới theo Hiến pháp thì bổ sung những đặc điểm mà quản lý đô thị khác với nông thôn vào trong nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở vùng có tính chất quản lý đô thị (03/55 ý kiến)
+ Đề nghị không bỏ Hội đồng nhân dân cấp huyện mà phải nâng cao được vai trò trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (02/55 ý kiến). Cần tổng kết, đánh giá trước khi thực hiện việc bỏ Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường (03/55 ý kiến)
+ Đề nghị bỏ Hội đồng nhân dân cấp huyện và tăng chuyên trách ở Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (01/55 ý kiến). Đề nghị xây dựng chính quyền địa phương theo hướng chỉ còn cấp tỉnh - cấp xã, phường (bỏ cấp huyện, quận; thực tế ở Việt Nam rất nhiều năm nay có những tỉnh không có cấp huyện như ở một số đảo- ví dụ Côn Đảo, Phú Quốc…); Từ đó, tăng tính thực quyền của đại biểu HĐND các cấp (2 cấp: tỉnh, xã) so với hiện nay (01/55 ý kiến)
+ Để tránh chồng chéo, “hai vai”, vừa tốn kém ngân sách nhà nước, vừa không hiệu quả khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đề nghị nghiên cứu giảm số lượng đại biểu HĐND kiêm nhiệm, tăng số lượng, trách nhiệm, quyền hạn của đại biểu HĐND chuyên trách cấp tỉnh, cấp xã, phường. Thực hiện theo mô hình này, ngân sách Nhà nước sẽ không phải “nuôi” hệ thống đại biểu HĐND 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) kiêm nhiệm như hiện nay (vừa cồng kềnh tốn kém, vừa không có hiệu quả vì đại biểu không có thực quyền) (01/55 ý kiến)
+ Để đảm bảo tính thực quyền, đề nghị chỉ bố trí đại biểu HĐND cấp tỉnh, xã, phường chuyên trách, không bố trí kiêm nhiệm. Từ đó, số lượng sẽ giảm hơn hiện nay. Tuy nhiên, cần quy định đại biểu HĐND phải có vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn, phương tiện làm việc tương đương cấp Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc cấp xã, phường. Họ sẽ làm việc 100% thời gian để thực hiện nhiệm vụ đại biểu, vì thế sẽ góp phần nâng cao hơn chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh, xã, phường so với hiện nay (01/55 ý kiến)
+ Cần tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 nơi nào có Ủy ban nhân dân, Ủy ban hành chính thì nơi đó phải có Hội đồng nhân dân là thiết chế dân chủ để kiểm soát lại cơ quan này (01/55 ý kiến)
+ Cần cân nhắc kỹ việc đưa khái niệm, mô hình “chính quyền đô thị” vào Hiến pháp, vì chưa được thực tiễn kiểm nghiệm (01/55 ý kiến)
- Các ý kiến đề nghị bổ sung nội dung mới:
+ Đề nghị đưa nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân vào trong chương này (01/55 ý kiến)
+ Cần quy định nguyên tắc để xác định đơn vị hành chính cấp tỉnh và giao Luật tổ chức chính quyền địa phương quy định để làm căn cứ khoa học và thực thi khi chia tách và sáp nhật, thành lập mới các đơn vị hành chính (01/55 ý kiến)
+ Đề nghị quy định trong Hiến pháp về mô hình phát triển đô thị, bảo đảm phát triển hài hòa giữa nông thôn và thành thị (01/55 ý kiến). Bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về phân biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tạo cơ sở pháp lý cho Luật tổ chức chính quyền địa phương, quy định sự khác biệt cụ thể giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị sẽ tạo sự thống nhất trong luật pháp, trong Nhà nước pháp quyền (01/55 ý kiến). Bổ sung quy định việc thành lập “khu hành chính kinh tế đặc biệt” trong trường hợp cần thiết (01/55 ý kiến)
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 115 (16 ý kiến, trong đó có 7 ý kiến ở cơ quan, 9 ý kiến cá nhân)
Khoản 1
- Đề nghị bỏ quy định phân chia thành cấp huyện, quận (01 ý kiến); Đề nghị thay đoạn “thành phố thuộc tỉnh, thị xã” bằng đoạn “thành phố, thị xã thuộc tỉnh” (01/16 ý kiến)
- Đề nghị diễn đạt lại nội dung cho rõ hơn, cụ thể là: Tỉnh chia thành huyện, thành phố và thị xã thuộc tỉnh. Thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã thuộc thành phố; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh và thị xã chi thành phường và xã; quận chia thành phường (01/16 ý kiến)
- Đề nghị sửa lại là: “Các đơn vị hành chính lãnh thổ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời” (01/16 ý kiến)
- Bổ sung vào cuối khoản: Đối với các đô thị đặc biệt thành phố trực thuộc Trung ương thì việc phân chia cấp hành chính sẽ do Quốc hội quyết định, ghi rõ nguyên tắc bộ máy chính quyền địa phương (01/16 ý kiến)
Khoản 2
- Đề nghị quy định thành lập Hội đồng nhân dân theo từng cấp như Hiến pháp năm 1992. (06/16 ý kiến)
- Đề nghị xem xét lại quy định tại khoản này, vì hiện nay đang thí điểm thực hiện việc không tổ chức HĐND ở một số cấp (01/16 ý kiến)
- Đề nghị khẳng định rõ thành lập HĐND ở mấy cấp; đồng thời cần xem xét thấu đáo việc bỏ HĐND ở bất kỳ cấp nào, vì đây là hình thức “tước” quyền lực của nhân dân được quy định tại Điều 6 (01/16 ý kiến) và trái Điều 2 (01/16 ý kiến)
- Đề nghị thay cụm từ “Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân” bằng “các tổ chức chính quyền địa phương” sẽ phù hợp với những quan điểm, định hướng của Đảng được nêu trong các văn kiện của Đảng, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hiện nay Nhà nước đang chỉ đạo thực hiện điểm mô hình không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường; lập đề án trước chính quyền địa phương theo hướng phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Nếu việc tiến hành thành công thì quy định như trên sẽ không bị vướng khi sửa đổi Luật Hội đồng nhân dân năm 2013 (01/16 ý kiến)
- Đề nghị sửa như sau: “Việc thành lập HĐND và UBND ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm đô thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi, hải đảo” (01/16 ý kiến ) hoặc “HĐND và UBND được thành lập ở đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã” (01/16 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung vào cuối điều này là: khi cần thiết Quốc hội thành lập đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt (01/16 ý kiến)
Điều 116 (ý kiến ở 4 ở cơ quan)
Khoản 1
- Ý kiến không tán thành: Việc quy định Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương là không đầy đủ, không phù hợp với thực tế. Bởi vì, các biện pháp chỉ là một khâu trong quá trình tổ chức thực hiện, còn vấn đề quan trọng là quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quyết định các mục tiêu kinh tế - xã hội, quyết định những vấn đề quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội thuộc thẩm quyền của địa phương (01/4 ý kiến)
- Đề nghị thay “nhân dân” bằng cử tri” cho chính xác; cụ thể sửa lại là “Hội đồng nhân dân..., do cử tri địa phương bầu ra…”. (01/4 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung từ “quyết định” trước cụm từ “các vấn đề quan trọng của địa phương” (02/4 ý kiến)
- Đề nghị nghiên cứu thêm các đối tượng giám sát vì HĐND và đại biểu HĐND không chỉ có quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước tại địa phương mà có quyền giám sát hoạt động của mọi tổ chức và cá nhân ở địa phương trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật. (01/4 ý kiến)
Khoản 2
- Đề nghị sửa lại là “Chủ tịch UBND và các thành viên UBND phải chịu trách nhiệm về tập thể và cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ được giao trước HĐND, trước cơ quan hành chính cấp trên và trước nhân dân địa phương”. (02/4 ý kiến)
- Đề nghị giữ nguyên quy định “UBND do HĐND bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND” như Điều 123 Hiến pháp năm 1992 (02/4 ý kiến)
Điều 117 (7 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
- Đề nghị bổ sung nhiệm vụ của đại biểu Hội đồng nhân dân “phổ biến” chính sách, pháp luật vào đoạn 2. (01/7 ý kiến)
- Đề nghị diễn đạt lại, vì nhân dân không phải là chủ thể tham gia quản lý Nhà nước (01/7 ý kiến)
- Bổ sung quy định đại biểu HĐND có quyền xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (02/7 ý kiến)
- Đề nghị quy định bổ sung mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, liên kết vùng (01/7 ý kiến); Nghiên cứu bổ sung quy định tăng cường việc phân cấp quản lý nhà nước cho địa phương, khẳng định vai trò tự quản và năng động của địa phương (01/7 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung điều kiện bãi nhiệm đại biểu HĐND (01/7 ý kiến)
Điều 118 (ý kiến ở 3 cơ quan)
Đoạn 1
- Sửa câu cuối thành: “Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân ngay trong kỳ họp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày sau khi kỳ họp kết thúc” (02/3 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung cụm từ “cùng cấp”, sửa lại là “Đại biểu Hội đồng nhân dân…Ủy ban nhân dân cùng cấp…” (01/3 ý kiến)
- Trường hợp không tổ chức HĐND cấp huyện thì đề nghị bổ sung: “Ở những nơi không có HĐND cấp huyện thì HĐND cấp tỉnh có quyền chất vấn Chủ tịch UBND cấp huyện” (02/3 ý kiến)
Đoạn 2
Đề nghị quy định thống nhất như khoản 3 Điều 85 để tăng quyền hạn cho đại biểu HĐND; thể hiện lại để làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước ở địa phương (02/3 ý kiến)
11. Về Chương X, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 49 ý kiến góp ý vào Chương X (trong đó có 12 ý kiến ở cơ quan, 37 ý kiến của cá nhân).
- Ý kiến tập trung vào các Điều: 120, 121
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Tán thành với việc hiến định các thiết chế Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước. (04/49 ý kiến)
+ Đề nghị thành lập Tòa án Hiến pháp độc lập hoặc Hội đồng bảo hiến để kiểm soát, phán quyết và xử lý kịp thời những vấn đề vi hiến của các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước, các đại biểu dân cử và mọi người dân. Hơn nữa, nước ta đang thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nên để bảo đảm nhân dân có thể kiểm soát quyền lực thì phải thông qua thiết chế Tòa án Hiến pháp. (03/49 ý kiến)
+ Đề nghị thành lập Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng Bảo hiến có quyền lực phán quyết độc lập bằng bản án hoặc bằng quyết định hủy bỏ những văn bản vi hiến của mọi chủ thể; hủy bỏ các bản án của Tòa án nhân dân các cấp có vi phạm HP và pháp luật; có quyền phán xét cả các hành vi vi hiến của tổ chức và cá nhân. (02/49 ý kiến)
+ Đề nghị tiếp tục tổng kết cơ chế bảo hiến hiện hành, hoàn thiện nó hơn trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (01/49 ý kiến)
+ Đề nghị không quy định Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử QG (04 ý kiến); có thể giao chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia cho Ủy ban về công tác tổ chức và nhân sự của Quốc hội (Ban công tác đại biểu hiện nay) (01/49 ý kiến)
+ Đề nghị đặt vị trí Chương này sau Chương V (Quốc hội) cho phù hợp (01/49 ý kiến); Việc ghép 3 cơ quan Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước vào một chương là không phù hợp (01/49 ý kiến)
+ Đề nghị tách thành 3 chương độc lập (01/49 ý kiến)
+ Đề nghị làm rõ 3 thiết chế mới này thuộc nhánh quyền lực nào (01/49 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương:
+ Đề nghị bổ sung quy định ghi nhận quyền phán quyết của cả 3 thiết chế mới theo hướng tăng thẩm quyền hơn nữa cho các cơ quan này (01/49 ý kiến)
+ Đề nghị xem xét, quy định về thanh tra độc lập, góp phần kiểm soát xã hội hiệu quả. (01/49 ý kiến)
+ Đề nghị xem xét bổ sung quy định tạo hướng mở để nâng cao vị thế của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là Ngân hàng Trung ương quốc gia (01/49 ý kiến)
+ Đề nghị bổ sung vào chương này một cơ quan gọi là Ủy ban chống tham nhũng quốc gia và điều này sẽ quy định là “Ủy ban chống tham nhũng quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống tham nhũng, khởi tố, điều tra, truy tố các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp. Chủ tịch Ủy ban phòng, chống tham nhũng quốc gia là người đứng đầu Ủy ban do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Ủy ban phòng, chống tham nhũng quốc gia do luật định” (02/49 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 120 (32 ý kiến, trong đó có 11 ý kiến ở cơ quan, 21 ý kiến cá nhân)
- Tán thành với Dự thảo (04/32 ý kiến).
- Việc thành lập Hội đồng bảo hiến cần được cân nhắc thận trọng, đặc biệt là vấn đề cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Hội đồng bảo hiến. Đồng thời cần sớm hoàn thiện cơ chế, thủ tục của việc phát hiện, hủy bỏ, bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp. Cần tổng kết thật kỹ lưỡng việc thực hiện cơ chế bảo hiến trong thời gian qua. (01/32 ý kiến)
- Quốc hội không thể tự làm luật, tự giải thích và tự quyết định xem nó hợp hiến hay không. Thẩm quyền này phải thuộc Hội đồng Hiến pháp. Tuy nhiên, quy định về Hội đồng hiến pháp trong dự thảo chưa thể hiện tính khách quan. (01/32 ý kiến)
- Ở nước ta, cơ chế bảo hiến được thực hiện khá tốt, do đó không cần phải thành lập cơ quan bảo hiến riêng, tránh trùng lắp với chức năng của các cơ quan của Quốc hội gây tốn kém, hình thức (03/32 ý kiến)
- Dự thảo quy định Hội đồng Hiến pháp chỉ có thẩm quyền “kiến nghị” là chưa phù hợp, biến cơ quan này thành cơ quan thuần túy tư vấn cho Quốc hội, chưa đủ mạnh để trở thành thiết chế kiểm soát quyền lực, khó bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp (08/32 ý kiến); Đề nghị không quy định thẩm quyền “yêu cầu Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình” (01/32 ý kiến)
- Sửa lại tên gọi của thiết chế này là Hội đồng bảo vệ Hiến pháp (02/32 ý kiến)
- Đề nghị Hiến pháp quy định Hội đồng Hiến pháp theo hướng nguyên tắc chung, về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ thì giao có luật quy định (01/32 ý kiến)
- Sửa lại quy định về chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo với nhiệm vụ của các cơ quan của Quốc hội (02/32 ý kiến); quy định cơ chế giám sát hoạt động của Hội đồng Hiến pháp (01/32 ý kiến); đề nghị phân biệt và khẳng định chức năng tiền kiểm và chức năng hậu kiểm của Hội đồng này với các cơ quan của Quốc hội, nên chăng chỉ tập trung vào chức năng hậu kiểm (01/32 ý kiến). Chỉ nên ghi vắn tắt chức năng của cơ quan này là “phán quyết các trường hợp vi hiến”, những nội dung khác nên thể chế hóa bằng luật (01/32 ý kiến)
Khoản 1
- Đề nghị quy định rõ quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp là “Hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. (01/32 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung: “Hội đồng Hiến pháp hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (01/32 ý kiến)
- Cần làm rõ thêm nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp trong việc kiểm tra, kết luận về tính hợp hiến của luật, nghị quyết của Quốc hội nhằm bảo đảm tính thống nhất với Điều 32 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. (01/32 ý kiến)
Khoản 2
- Đề nghị sửa là “… kiểm tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bên ký kết hoặc gia nhập” nhằm thiết kế chức năng kiểm tra của Hội đồng Hiến pháp theo nguyên tắc độc lập và bao quát, không gắn với quy trình xem xét, quyết định ký kết, gia nhập điều ước quốc tế và không hạn chế về loại điều ước quốc tế (danh nghĩa Nhà nước hay Chính phủ). Hội đồng Hiến pháp có thể kiểm tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế ở bất kỳ giai đoạn nào, trong hay sau quy trình ký kết, gia nhập điều ước quốc tế. (02/32 ý kiến)
Khoản 3
- Đề nghị bổ sung quy định về tiêu chuẩn thành viên Hội đồng Hiến pháp để bảo đảm chất lượng thành viên Hội đồng. Hội đồng Hiến pháp phải hoạt động độc lập, không phải là cơ quan tư vấn cho Quốc hội. Thành phần của Hội đồng Hiến pháp không nên chỉ toàn đại biểu Quốc hội mà cần có sự tham gia của những người có nhiều kinh nghiệm về chính trị, pháp luật (01/32 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp trong việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, tạo cơ chế gắn thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật với việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh cho Hội đồng Hiến pháp thực hiện (02/32 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung thẩm quyền tạm hoãn thi hành, đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ văn bản vi hiến. (10/32 ý kiến)
- Giao cho Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng để bảo đảm quyền năng của Hội đồng được thực thi nghiêm túc (01/32 ý kiến)
- Bên cạnh thiết chế này, đề nghị thành lập Tòa án Hiến pháp thực hiện hoạt động tài phán đối với các trường hợp vi hiến (01/32 ý kiến)
Điều 121 (11 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 6 ý kiến cá nhân)
- Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia là cần thiết, góp phần giải quyết nhiều vấn đề còn vướng mắc hiện nay liên quan đến công tác bầu cử như xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến bầu cử, kết quả bầu cử; góp phần tăng cường tính chuyên nghiệp của các cơ quan trong bộ máy nhà nước (03/11 ý kiến)
- Việt Nam chưa có tổ chức chuyên nghiên cứu và hoàn thiện về chế định bầu cử, trưng cầu dân ý và phúc quyết Hiến pháp một cách độc lập. Do đó, việc bổ sung Hội đồng bầu cử quốc gia là cần thiết để góp phần hoàn thiện hơn nữa chế độ dân chủ (01/11 ý kiến)
- Đề nghị bỏ Điều này, vì vấn đề này chưa rõ, chưa có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn. Do đó, việc công bố và chủ trì tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội cần được bổ sung vào nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội (04/11 ý kiến). Thành lập cơ quan này là không cần thiết, vì ở Việt Nam không xảy ra việc khiếu nại kết quả bầu cử do chỉ có 1 đảng phái chính trị tổ chức bầu cử (01/11 ý kiến). Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp diễn ra 5 năm 1 lần và đã có luật hợp nhất giữa bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nên không cần thành lập cơ quan này (01/11 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia, vì trên thực tế, các cuộc bầu cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng nhân dân hiện nay được tiến hành 5 năm một lần, chủ yếu tập trung vào một khoảng thời gian nhất định (02/11 ý kiến)
- Đề nghị quy định rõ Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan hoạt động thường xuyên hay cơ quan lâm thời. Nếu là cơ quan lâm thời, đề nghị bổ sung: “Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan lâm thời, được thành lập… ngày trước khi diễn ra ngày bầu cử và tự giải tán sau… ngày khi cuộc bầu cử kết thúc”. (02 ý kiến); làm rõ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có còn thực hiện công tác bầu cử nữa không (01/11 ý kiến); nêu rõ điều kiện cho thành viên chuyên trách và thành viên kiêm nhiệm (01/11 ý kiến).
- Đề nghị nêu rõ Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm kỳ 5 năm theo quy định của pháp luật về bầu cử (01/11 ý kiến)
Điều 122 (7 ý kiến, trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 2 ý kiến cá nhân)
Khoản 1: Đề nghị bỏ câu “Tổng kiểm toán do Quốc hội bầu” vì đã quy định ở khoản 7 Điều 75 (01/7 ý kiến)
- Đề nghị xem lại quy định về chế định của KTNN vì quy định KTNN “thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” là thu hẹp hơn so với quy định của Luật kiểm toán. Theo quy định của Dự thảo thì KTNN sẽ không được kiểm toán khối doanh nghiệp nhà nước, đất đai, tài nguyên... Đề nghị giữ như quy định hiện hành và bổ sung việc kiểm toán đối với đất đai và tài nguyên vì đây là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. (02/7 ý kiến)
- Quy định Kiểm toán chịu trách nhiệm trước Quốc hội và trước Chính phủ là quy định không rõ mô hình. Kiểm toán cần phải được tổ chức độc lập với Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ thì mới bảo đảm tính khách quan trong việc kiểm soát chi tiêu và sử dụng ngân sách Nhà nước. Cơ quan Kiểm toán phải do Quốc hội thành lập. (02/7 ý kiến)
- Đề nghị nêu rõ Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan nào (01/7 ý kiến).
- Đề nghị quy định rõ nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán là 7 năm (khác với nhiệm kỳ của Quốc hội) để bảo đảm tính độc lập tương đối của hoạt động kiểm toán (01/7 ý kiến).
- Bổ sung quy định cơ chế kiểm soát, quyền lực của Kiểm toán Nhà nước, tránh lạm quyền (02/7 ý kiến).
12. Về Chương XI, hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 13 ý kiến góp ý vào Chương XI (trong đó có 5 ý kiến ở cơ quan, 8 ý kiến của cá nhân).
- Về bố cục, nội dung:
+ Đề nghị hiến định hình thức văn bản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp (01/13 ý kiến).
+ Đề nghị quy định rõ cơ chế kiểm soát quyền lập hiến (sửa đổi, bổ sung Hiến pháp) (01/13 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định về hiệu lực thi hành của Hiến pháp (01/13 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 123 (ý kiến của 2 cá nhân)
- Đề nghị bổ sung quy định rõ các hành vi vi phạm hiến pháp (vi phạm về nội dung, về hình thức hay vi phạm không thực hiện Hiến pháp) (01/2 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “bằng pháp luật” vào cuối điều này (01/2 ý kiến).
Điều 124 (9 ý kiến, trong đó có 4 ý kiến ở cơ quan, 5 ý kiến cá nhân).
Khoản 3: sửa cụm từ “dự thảo Hiến pháp” thành “dự thảo sửa đổi Hiến pháp” (01/9 ý kiến).
Khoản 4
- Đề nghị quy định phù hợp với khoản 2 Điều 76 theo hướng: Tùy từng trường hợp cụ thể, Quốc hội quyết định áp dụng hình thức bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết, không ấn định hình thức “biểu quyết” như quy định của Dự thảo nhằm bảo đảm tính linh hoạt, rộng đường cho quá trình thực hiện (01/9 ý kiến).
- Đề nghị sửa như sau: “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành và phải được đưa ra trưng cầu ý dân” hoặc “Sau đó, dự thảo Hiến pháp phải được đem ra cho toàn dân phê chuẩn bằng hình thức bỏ phiếu thông qua; khi có hơn 50% cử tri đồng ý thì Hiến pháp đó mới có hiệu lực” (03/9 ý kiến).
- Đề nghị thay cụm từ “làm Hiến pháp” bằng “xây dựng Hiến pháp” hoặc “việc sửa đổi Hiến pháp” trong toàn bộ điều này cho chuẩn xác về mặt ngôn ngữ (02/9 ý kiến).
- Bổ sung làm rõ vai trò của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân trong việc làm Hiến pháp, sửa đổi bổ sung Hiến pháp (01/9 ý kiến).
- Bổ sung “quyền phúc quyết Hiến pháp” của công dân (02/9 ý kiến).
- Đề nghị đặt ra giới hạn trong việc sửa đổi Hiến pháp (như không được sửa đổi Điều 1, Điều 2 của Hiến pháp) (01/9 ý kiến).
Trên đây là tổng hợp ý kiến của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách và Văn phòng Quốc hội tham gia vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, xin báo cáo Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Nơi nhận: - Ủy ban DTSĐHP; - Thành viên UBTVQH; - Thường trực HĐDT, các UB của QH; - Các cơ quan thuộc UBTVQH; - Thường trực Ban biên tập DTSĐHP; - VPQH; - Lưu HC, TH. - Số e-PAS: 25989 | TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH (Đã ký) Uông Chu Lưu |
Báo cáongày của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 11/06/2013
Số hiệu:135/BC-CP
Mô tả:
bc_CP.doc
Kính gửi: Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Thực hiện nhiệm vụ được phân công tại Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội và Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương triển khai việc lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 theo đúng mục tiêu, yêu cầu và phạm vi lấy ý kiến được Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp giao. Theo Hướng dẫn số 239/HD-UBDTSĐHP ngày 23/02/2013 về tập hợp, tổng hợp ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Chính phủ đã tổng hợp, xây dựng Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Chính phủ xin trình Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với những nội dung như sau:
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ KẾT QUẢ TỔ CHỨC VIỆC LẤY Ý KIẾN
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VIỆC LẤY Ý KIẾN
1. Kế hoạch và hoạt động triển khai của Chính phủ
Ngày 11/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch của Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 kèm theo Quyết định số 136/QĐ-TTg bám sát mục tiêu, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết số 38/2012/QH13. Kế hoạch của Chính phủ xác định rõ việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là một nhiệm vụ trọng tâm cần ưu tiên và tập trung chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương.
- Thực hiện Kế hoạch lấy ý kiến của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Kế hoạch của Chính phủ, ngày 28/02/2013, Trưởng Ban Chỉ đạo của Chính phủ tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 đã ban hành Quyết định số 25/QĐ-BCĐTKHP1992 ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2013 của Ban Chỉ đạo, trong đó xác định cụ thể các nhiệm vụ và hoạt động tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để các Bộ, ngành và địa phương thực hiện.
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lấy ý kiến và để việc lấy ý kiến đi vào trọng tâm, Ban Chỉ đạo cũng đã gửi Tài liệu hướng dẫn lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tới các Bộ, ngành, địa phương (ngày 28/02/2013).
- Thực hiện Quyết định số 224/QĐ-UBDTSĐHP ngày 06/02/2013 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, một số Thành viên Ban Chỉ đạo là Ủy viên Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tham gia các đoàn kiểm tra công tác lấy ý kiến nhân dân của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại một số địa phương[1], đồng thời thực hiện nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra địa phương theo sự phân công của Trưởng Ban chỉ đạo.
- Ngày 06/3/2013, Chính phủ tổ chức Hội nghị trực tuyến với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương về công tác lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (với điểm cầu trung tâm tại Hà Nội và 63 điểm cầu tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Tại Hội nghị, đại diện các Bộ, ngành và địa phương[2] đã báo cáo tình hình lấy ý kiến, kết quả bước đầu thực hiện, chia sẻ những kinh nghiệm hay, nêu những khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị hướng tháo gỡ.
- Bộ Tư pháp - Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo đã giúp Ban Chỉ đạo xây dựng Đề cương Báo cáo kết quả lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Chính phủ; chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ xây dựng Báo cáo chuyên đề về Chính phủ và Báo cáo chuyên đề về chính quyền địa phương; đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương thực hiện đúng Kế hoạch lấy ý kiến của Chính phủ (gửi báo cáo về Bộ Tư pháp trước ngày 15/3/2013 để tổng hợp, xây dựng Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992).
- Thường trực Ban Chỉ đạo tổ chức 02 hội thảo góp ý vào Báo cáo chuyên đề về Chính phủ và Báo cáo chuyên đề về chính quyền địa phương tại thành phố Hồ Chí Minh (ngày 13-14/3/2013) và Hà Nội (ngày 22/3/2013). Ngày 25/3/2013, Ban Chỉ đạo đã tổ chức Hội thảo góp ý Dự thảo Báo cáo của Chính phủ với sự tham gia của 150 đại diện các cơ quan: Hội đồng Dân tộc và một số Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội; Ban Nội chính, Văn phòng Trung ương Đảng; Văn phòng Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Sở Tư pháp, Sở Nội vụ của 12 tỉnh, thành phố phía Bắc.
- Ngày 28/3/2013, Chính phủ tổ chức phiên họp chuyên đề thảo luận, góp ý về Dự thảo Báo cáo của Chính phủ, đặc biệt thảo luận tập trung vào một số nội dung Chính phủ quan tâm có liên quan đến Chính phủ (về Chính phủ, chính quyền địa phương, Quốc hội, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng Hiến pháp) và biểu quyết bằng phiếu về một số vấn đề.[3]
2. Kế hoạch và hoạt động triển khai ở các bộ, ngành, địa phương
Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến trong toàn ngành, cơ quan, địa phương mình; thành lập Ban Chỉ đạo hoặc Tổ giúp việc để giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; ban hành các văn bản chỉ đạo, quán triệt, hướng dẫn, đôn đốc công tác tổ chức lấy ý kiến (như các quyết định, công văn, thông tri, chỉ thị, thông báo…); thành lập các đoàn kiểm tra công tác tổ chức lấy ý kiến; đôn đốc, chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí do bộ, ngành, địa phương mình quản lý thực hiện việc phổ biến, tuyên truyền về việc lấy ý kiến nhân dân; chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng chống phá, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong quá trình tổ chức lấy ý kiến.
II. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Xác định đây là nhiệm vụ rất quan trọng, có tác động lớn đến kết quả công tác tổ chức lấy ý kiến, đặc biệt là trong giai đoạn đầu triển khai, nên nhiều bộ, ngành, địa phương đã chủ động tổ chức việc tuyên truyền, phổ biến nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nội dung và cách thức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong toàn ngành, cơ quan, địa phương mình một cách hiệu quả, thiết thực. Cụ thể là:
- Tổ chức các hội nghị phổ biến, quán triệt về nội dung và cách thức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp theo nhiều phương thức khác nhau: Một số bộ, ngành, đia phương mời các chuyên gia tham dự hội nghị phổ biến và hướng dẫn việc lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (như Bộ Tài chính, Bộ Công thương, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nam…); một số địa phương tổ chức hội nghị quán triệt trực tuyến như Lào Cai,…
- Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương quán triệt việc mở chuyên trang, chuyên mục cũng như định hướng nội dung các bài viết liên quan đến lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trên các chuyên trang, chuyên mục của các báo, đài trung ương và địa phương.
- Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức các tọa đàm trực tuyến nhằm cung cấp thông tin để các tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (vào các ngày 28/02 và 04/3/2013).
- Đăng tải toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các tài liệu có liên quan trên Trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thường xuyên cập nhật, đưa tin, đăng tin về tình hình tổ chức lấy ý kiến của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, đăng tải các ý kiến góp ý của nhân dân cũng như các tài liệu, bài nghiên cứu của các chuyên gia, nhà khoa học.
- Một số Bộ, ngành, địa phương có các sáng kiến như: ghi âm và phát hành đĩa phát thanh tuyên truyền[4]; xây dựng tài liệu hướng dẫn lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cho toàn ngành, cơ quan, địa phương mình[5]; xây dựng Tài liệu hỏi - đáp về một số vấn đề cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; sử dụng báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật hoặc chuyên viên trong việc cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức và hướng dẫn lấy ý kiến cho đông đảo các tầng lớp nhân dân.[6]
III. CÁC HÌNH THỨC, PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN
- Các hình thức lấy ý kiến được sử dụng rất phong phú, đa dạng như: Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến với phạm vi khác nhau (như ở cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh, ở các cơ quan, đơn vị trực thuộc…); thiết lập các địa chỉ cụ thể để tiếp nhận các ý kiến đóng góp của nhân dân từ nhiều nguồn khác nhau (như góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản, thông qua cổng thông tin điện tử, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng…); giao các cơ quan, đơn vị của mình xây dựng chuyên đề góp ý chuyên sâu về các nội dung có liên quan trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Các địa phương tiến hành xin ý kiến của Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy, họp Hội nghị chuyên đề của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về Dự thảo Báo cáo kết quả lấy ý kiến của địa phương; các Bộ tiến hành xin ý kiến của Ban cán sự Đảng, Đảng ủy cơ quan về Dự thảo Báo cáo kết quả lấy ý kiến của Bộ, ngành mình.
Nhiều bộ, ngành, địa phương đã xây dựng chuyên trang, chuyên mục lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Theo thống kê của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, có 11 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ[7], 42 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương[8], 20 cơ quan báo chí có mở Chuyên mục lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trên Cổng Thông tin điện tử của cơ quan, địa phương mình[9]. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương đã chủ động, tích cực tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm góp ý về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và góp ý vào Dự thảo Báo cáo của các cơ quan, địa phương mình, thu hút tất cả các cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân.
- Về nội dung lấy ý kiến: Về cơ bản, các chương của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đều có các ý kiến đóng góp. Bên cạnh việc lấy ý kiến về toàn bộ Dự thảo, các bộ, ngành, địa phương còn căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình tập trung lấy ý kiến sâu về những nội dung liên quan trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực hoạt động của bộ, ngành, địa phương mình và những vấn đề mà bộ, ngành, địa phương quan tâm.
IV. CÁC ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC LẤY Ý KIẾN
Nhằm phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhiều bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tích cực triển khai công tác lấy ý kiến một cách rộng rãi, dân chủ, khoa học, công khai. Một số bộ còn tổ chức lấy ý kiến ở phạm vi toàn ngành (Bộ Tư pháp, Bộ Công an...)
Do vậy, các đối tượng được lấy ý kiến ở cả trung ương và địa phương rất phong phú, đa dạng: các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác, các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu, các cơ quan thông tấn, báo chí và các tầng lớp nhân dân, cụ thể là cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ (quân đội, công an), người làm việc trong các doanh nghiệp, luật sư, sinh viên, đoàn viên thanh niên, các cán bộ hưu trí, người dân địa phương thuộc nhiều tổ chức, đoàn thể khác nhau khác…
V. VIỆC TỔNG HỢP KẾT QUẢ LẤY Ý KIẾN VÀ XÂY DỰNG BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VỀ KẾT QUẢ LẤY Ý KIẾN VÀO DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Bộ Tư pháp đã nhận được báo cáo của 30/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, 63/63 báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 2 báo cáo chuyên đề về Chính phủ, về chính quyền địa phương, báo cáo của Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và một số ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác với tổng số khoảng hơn 5.000 trang (trong đó đã bao gồm các ý kiến góp ý của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý tại các cuộc hội thảo, tọa đàm và đăng trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương; các bài viết gửi về Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo). Trên cơ sở tổng hợp các báo cáo kết quả lấy ý kiến nêu trên và ý kiến thảo luận của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ giúp Ban Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tổng hợp kết quả lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, đảm bảo tính khách quan, trung thực, tổng hợp đầy đủ các ý kiến đóng góp theo đúng Hướng dẫn số 239/HD-UBDTSĐHP ngày 23/02/2013 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Qua kết quả tổng hợp cho thấy, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức 28.014 hội thảo, hội nghị lấy ý kiến và tiếp nhận khoảng 18 triệu lượt ý kiến góp ý của tập thể, cá nhân, cụ thể như sau:
- Lời nói đầu: Tổng số có 1.828.585 lượt ý kiến góp ý.
- Chương I: Tổng số có 1.838.112 lượt ý kiến góp ý.
- Chương II: Tổng số có 5.634.279 lượt ý kiến góp ý.
- Chương III: Tổng số có 1.941.553 lượt ý kiến góp ý.
- Chương IV: Tổng số có 433.008 lượt ý kiến góp ý.
- Chương V: Tổng số có 1.517.335 lượt ý kiến góp ý.
- Chương VI: Tổng số có 725.640 lượt ý kiến góp ý.
- Chương VII: Tổng số có 552.837 lượt ý kiến góp ý.
- Chương VIII: Tổng số có 1.272.267 lượt ý kiến góp ý.
- Chương IX: Tổng số có 1.021.819 lượt ý kiến góp ý.
- Chương X: Tổng số có 845.371 lượt ý kiến góp ý.
- Chương XI: Tổng số có 722.311 lượt ý kiến góp ý.
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Về tình hình lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp:
Về cơ bản, việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được các bộ, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc, công khai, dân chủ, đúng tiến độ, bám sát Kết luận của Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị Trung ương 6, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, của Chính phủ cũng như các văn bản chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tổ chức lấy ý kiến nhân dân.
Tuy nhiên, qua báo cáo của các bộ, ngành, địa phương cũng như qua quá trình trực tiếp kiểm tra cho thấy, việc triển khai tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp còn gặp phải một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc sau đây:
Thứ nhất, việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được tiến hành trong thời gian tương đối gấp, lại trùng vào thời gian các bộ, ngành và địa phương phải tập trung cho việc triển khai công tác năm 2013, sau đó là nghỉ Tết nguyên đán và tại một số địa phương còn trùng với mùa lễ hội truyền thống, do vậy, việc bố trí nhân lực và huy động sự tham gia của các đối tượng lấy ý kiến gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện đối tượng lấy ý kiến tham gia rộng, khối lượng công việc phải thực hiện lớn, trong khi nguồn lực có hạn.
Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trùng với thời điểm lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) nên thời gian nghiên cứu và tham gia ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có hạn chế hơn.
Thứ hai, do trình độ dân trí không đồng đều, đặc biệt là ở những nơi trình độ dân trí chưa cao, tại các vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, nên công tác tuyên truyền, phổ biến khó khăn, sự quan tâm và tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân cũng còn hạn chế.
Thứ ba, do không có hướng dẫn sớm về tập hợp, tổng hợp ý kiến của nhân dân nên nhiều bộ, ngành, địa phương đã chủ động tiến hành việc tập hợp, tổng hợp ý kiến theo cách thức khác nhau, cho đến khi Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ban hành Hướng dẫn số 239/HD-UBDTSĐHP ngày 23/02/2013 thì các bộ, ngành, địa phương phải tiến hành hướng dẫn và tập hợp, tổng hợp lại, gây mất thời gian và công sức.
Thứ tư, tuy Bộ Tài chính đã có hướng dẫn về kinh phí cho công tác tổ chức lấy ý kiến nhưng nhiều cơ quan, địa phương còn lúng túng, kinh phí chưa được cấp kịp thời, làm ảnh hưởng một phần đến tiến độ và chất lượng thực hiện công việc này.
- Về tiến độ, chất lượng của các Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ:
Về cơ bản, các báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã bám sát Hướng dẫn số 239/HD-UBDTSĐHP của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Kết quả lấy ý kiến cơ bản được bảo đảm đúng tiến độ, một số bộ, ngành, địa phương gửi báo cáo trước thời hạn (15/3/2013). Nhiều báo cáo của các bộ, ngành, địa phương được xây dựng công phu, bài bản, số lượng ý kiến tham gia đông, trong đó có nhiều ý kiến tham gia có chất lượng, tâm huyết; bên cạnh đó, cũng có một số báo cáo còn sơ sài, ý kiến góp ý chưa sâu, còn nặng về mặt kỹ thuật.
Số lượng lượt ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là rất lớn, trong đó, bên cạnh số lượng khá lớn ý kiến tán thành, nhất trí với các nội dung điều, khoản cụ thể của Dự thảo thì cũng có một lượng lớn các ý kiến góp ý đề nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Phần thứ hai
TỔNG HỢP CÁC Ý KIẾN GÓP Ý
VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
I. NHỮNG Ý KIẾN CHUNG
1. Về phạm vi, mức độ sửa đổi
Đa số các ý kiến góp ý tán thành với phạm vi, mức độ sửa đổi Hiến pháp[10]. Dự thảo đã bảo đảm cụ thể hóa các quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện của Đại hội Đảng XI về sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Phạm vi, mức độ sửa đổi về cơ bản đã xác lập được cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ đã được bổ sung, đặc biệt là đã khẳng định rõ Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Dự thảo đã xác lập được cơ chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, xét về tổng thể, các quy định về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn những điểm chưa thể hiện đầy đủ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đặc biệt là chưa làm rõ cơ chế để các cơ quan kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như cơ chế để nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực[11]. Các quy định về việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa tập thể Chính phủ với Thủ tướng Chính phủ, các Thành viên Chính phủ, mối quan hệ giữa trung ương và địa phương còn nhiều điểm chưa rõ[12]. Việc quy định thêm các thiết chế hiến định độc lập (Hội đồng hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước) là cần thiết nhưng cũng có một số nội dung cần hoàn thiện thêm, đặc biệt là các quy định về vị trí, vai trò của Hội đồng hiến pháp, nguyên tắc lựa chọn nhân sự cho Hội đồng Hiến pháp và Hội đồng bầu cử quốc gia[13]. Dự thảo đã khẳng định các nguyên tắc về chủ quyền của nhân dân nhưng chưa có quy định về quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân để thể hiện rõ hơn nữa vai trò của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp[14]. Ngoài ra, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng cần quy định rõ hơn phương thức lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân[15]. Quy định về tổ chức chính quyền địa phương quá khái quát, chưa đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết Đại hội Đảng XI, chưa tháo gỡ được những bất cập mà việc tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 đã chỉ ra[16]. Bên cạnh đó, một số ý kiến đề xuất bổ sung các quy định về một số lĩnh vực cụ thể mà Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa quy định.[17]
2. Về tên gọi
2.1. Tán thành tên gọi theo Dự thảo
Chỉ có một số ít ý kiến tán thành tên gọi như Dự thảo[18].
2.2. Ý kiến khác
- Đề nghị lấy tên là “Hiến pháp năm 2013”.[19]
Lý do: Nếu so với lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, thì việc sửa đổi, bổ sung lần này với quy mô lớn hơn, toàn diện hơn, trong đó có nhiều quy định lần đầu tiên được đưa vào Hiến pháp. Vì vậy, xét về thực chất, đây không phải là một bản Dự thảo Hiến pháp (sửa đổi) mà là một bản Dự thảo Hiến pháp mới. Cũng có ý kiến tham gia đề nghị nên xây dựng một bản Hiến pháp mới thay thế bản Hiến pháp năm 1992[20].
- Nên gọi tên Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này là “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2013)” vì theo Dự thảo không chỉ có nội dung sửa đổi mà có nhiều nội dung được bổ sung.[21]
- Một số ý kiến đề nghị gọi tên là “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013”[22] vì Dự thảo chỉ giữ nguyên 14 điều của Hiến pháp năm 1992; các chương, điều còn lại đều được sửa đổi, bổ sung; bố cục Dự thảo cũng được thay đổi cơ bản so với bố cục của Hiến pháp năm 1992.
3. Về bố cục của Dự thảo
3.1. Tán thành bố cục của Dự thảo
Về cơ bản, đa số các ý kiến cho rằng bố cục và kết cấu, vị trí của các chương, điều, khoản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là khoa học, hợp lý, có tính lôgic.[23]
3.2. Đề nghị sửa đổi
Nhiều ý kiến cho rằng tổng thể cơ cấu của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa thật sự cân đối giữa các điều, khoản. Cụ thể:
- Nên tách chương Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân thành hai chương riêng biệt cho hai thiết chế này để thể hiện rõ hơn quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân.[24]
- Chương II Dự thảo: các điều về quyền và nghĩa vụ không đi theo tuyến, đang nói về quyền thì lại đến nghĩa vụ, tiếp đó lại nói về quyền; khoản 2 Điều 8 lại chèn ý chống tham nhũng nằm giữa ý tôn trọng nhân dân và thực hành tiết kiệm... Điều 21 ghép lại Điều 46 (mới) thành khoản 3 của Điều 46, Điều 65 ghép vào Điều 66 thành một Điều, vì có nội dung tương đồng[25]. Có ý kiến đề nghị kết cấu Chương này gọn lại và lôgíc hơn.[26]
- Cần có một chương riêng quy định rõ hơn về vai trò, nhiệm vụ của Đảng cộng sản Việt Nam. Bổ sung một chương riêng về Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh, Công đoàn; một chương riêng về Hội đồng Hiến pháp (hoặc Tòa án Hiến pháp).[27]
- Đề nghị đưa Chương II về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thành Chương I; và Chương I của Dự thảo về Chế độ chính trị thành Chương II. Tách Chương II về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thành 02 chương: Chương về Quyền con người và Chương về Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.[28]
- Đề nghị hoán chuyển vị trí Chương IX về chính quyền địa phương với Chương X về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước để đảm bảo theo thứ bậc cơ cấu từ trung ương đến địa phương.[29]
- Đề nghị thay đổi bố cục: Chương I: Chế độ chính trị, Chương II: Bảo vệ Tổ quốc, Chương III: Thể chế, Chương IV: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.[30]
- Đề nghị bố cục của Dự thảo sắp xếp theo trình tự sau: Lời nói đầu; Chương I - Chính thể; Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương III - Cơ quan lập pháp; Chương IV - Nguyên thủ quốc gia; Chương V - Cơ quan hành pháp; Chương VI - Cơ quan tư pháp; Chương VII - Chính quyền địa phương; Chương VIII - Một số vấn đề cơ bản về kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng; Chương XI - Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô và ngày quốc khánh; Chương X - Hiệu lực Hiến pháp và quy trình sửa đổi Hiến pháp.[31]
- Chương V và Chương X nên ghép lại thành 1 chương sẽ phù hợp hơn, vì Chương V nội dung nói về Quốc hội và Chương X nội dung nói về các cơ quan do Quốc hội thành lập.[32]
- Đề nghị chuyển Chương IV “Bảo vệ Tổ quốc” lên trước Chương III “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường”. Lý do: nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải được thực hiện tốt thì mới thực hiện được các công việc khác.[33]
- Việc bố cục chương, điều tại Dự thảo chưa thật sự hợp lý, chưa đảm bảo tính lôgíc, khoa học. Cụ thể: Một số ý kiến cho rằng Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc cần phải đưa lên thành Chương II, sau Chương I: Chế độ chính trị. Lý do: Bảo vệ Tổ quốc là sứ mệnh hết sức quan trọng; có bảo vệ được chủ quyền, đảm bảo an ninh quốc phòng mới có thể phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đất nước, đảm bảo các quyền con người, quyền công dân.[34]
4. Về kỹ thuật lập hiến
4.1. Tán thành
Một số ít ý kiến tán thành về kỹ thuật lập hiến của Dự thảo.[35]
4.2. Góp ý hoàn thiện
Có nhiều ý kiến chưa tán thành về kỹ thuật lập hiến của Dự thảo, cụ thể:
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa có tính khái quát cao, còn mang nhiều tính chất lý luận.[36]
- Dự thảo có những điều còn quá dài, ý chưa rõ, nhưng cũng có những điều quá ngắn và nội dung khó hiểu.[37]
- Việc sử dụng một số từ, cụm từ chưa rõ, trùng ý giữa một số chương, điều, khoản.[38]
- Dự thảo còn có nhiều chỗ diễn đạt chưa rõ, còn khó hiểu; cách hành văn thiếu mạch lạc, chưa cô đọng, súc tích, chưa mang tính quy phạm; một số quy định còn mang tính tuyên truyền, khẩu hiệu và thiếu tính khả thi. Nhiều nội dung trình bày trong Dự thảo cần xem xét chỉnh sửa, bổ sung về nội dung, từ ngữ để Dự thảo được rõ hơn và đầy đủ hơn nhằm đạt được sự thống nhất cao của mọi tầng lớp nhân dân.[39]
- Việc sử dụng từ ngữ, các cụm từ tại một số điều của Dự thảo chưa thống nhất. Ví dụ: Tại Chương II về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có điều sử dụng cụm từ “do luật quy định”, có điều sử dụng cụm từ “do pháp luật quy định”, có điều lại sử dụng cụm từ “theo quy định của pháp luật”, cần thống nhất là “do luật định”. Hay có điều sử dụng từ “nơi ở”, có điều sử dụng từ “chỗ ở”. Vì vậy, hầu hết các ý kiến tham gia đề nghị cần thống nhất việc sử dụng từ ngữ trong những điều này.[40]
- Đề nghị nghiên cứu nên ghép: Điều 13 và Điều 14 thành một điều; Điều 21 và Điều 22 thành một điều; Điều 15 và Điều 20 thành một điều vì nội dung giống nhau; Điều 29 và Điều 30 thành một điều, vì các điều này có nội dung gần giống nhau và ghép khoản 1 và khoản 2 Điều 29 thành một khoản; Điều 11 và Điều 47 thành một điều, vì “hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và hành vi “phản bội Tổ quốc” là tương tự nhau và đều là trọng tội và phải bị nghiêm trị theo pháp luật; Điều 46 ghép với Điều 68 vì cùng quy định về môi trường; khoản 1 Điều 31, đề nghị tách ra khiếu nại và tố cáo ra thành 2 nội dung, vì chúng ta chỉ khiếu nại khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm, còn khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào bị xâm phạm thì mọi người đều được quyền tố cáo; chuyển khoản 1 Điều 11 lên Điều 1 của Dự thảo.
- Tại Chương II về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Một số ý kiến tham gia cho rằng: Bố cục sắp xếp lại các điều, đưa các điều khoản quyền con người mà trong Dự thảo đã phân biệt dùng thuật ngữ “mọi người” lên phần đầu chương. Lý do: “Quyền con người” và “quyền công dân” là hai khái niệm thống nhất. Tuy nhiên, quyền con người là quyền tự nhiên do pháp luật quốc tế quy định, còn quyền công dân là quyền có tính chất quốc gia do pháp luật của Nhà nước quy định. Về nhóm quyền dân sự, chính trị: đề nghị đưa các quyền chính trị lên trước gồm: các Điều 25, 26, 27, 28, 29, 30...; sắp xếp lại các điều thuộc quyền dân sự, bao gồm các Điều 22, 23, 24, 31, 32, 37... Về nhóm các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, bao gồm các Điều 33, 34, 35, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45, 46... Về nghĩa vụ của “mọi người”, “công dân” cần tách khỏi quyền và sắp xếp lại thành một số điều cuối Chương.[41]
- Khoản 1 Điều 37 và khoản 3 Điều 56 có mâu thuẫn với nhau; Chương II có khá nhiều điều, khoản; đề nghị gom các điều quy định về “quyền mọi người” riêng, về “quyền công dân” riêng; bố cục lại Chương II theo 3 nhóm: quyền con người: Điều 15, 16, 17, 33, 45, 46; nghĩa vụ công dân; quyền đối với người nước ngoài: Điều 50, Điều 51.[42]
- Đề nghị ghép Điều 45, 46, 47, 48 và Điều 49 thành một điều, phân rõ quyền và nghĩa vụ; tại Điều 34, đề nghị ghép chung khoản 1 và khoản 2, đưa Điều 50 về Điều 34.[43]
- Có nhiều điều nêu rất ngắn gọn nên nhìn vào Dự thảo thấy hình thức liệt kê điều luật khá nhiều. Do đó, đề nghị một số điều có mối liên hệ gắn kết, cùng nội hàm và gắn nghĩa với nhau cần nghiên cứu đưa vào chung thành một điều.[44]
- Trong Dự thảo còn sử dụng chưa thống nhất cụm từ “theo pháp luật”, “theo quy định của pháp luật”[45], cụm từ “nơi ở”, “chỗ ở”[46]. Do đó, đề nghị chỉnh lý lại theo hướng sử dụng thống nhất một cụm từ cho đồng bộ. Nên thay cụm từ “mọi người” thành cụm từ “công dân” cho thống nhất với luật pháp quốc tế, đảm bảo tính chính xác và đầy đủ hơn.[47]
- Một số từ không phải là ngôn ngữ pháp lý như: “làm Hiến pháp”, “làm luật”, “thứ thuế” (khoản 1, 4 Điều 75), “ra pháp lệnh” (khoản 2 Điều 79), “họp bàn” (Điều 95), “tình hình mọi mặt, lắng nghe” (Điều 119), “của mình” (Điều 120); đề nghị cần sử dụng từ khác cho phù hợp với văn phong pháp lý.[48]
- Vì Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản, nên những quy định mang tính cụ thể, chi tiết nên để luật chuyên ngành điều chỉnh, ví dụ như khoản 2, Điều 22; khoản 3, khoản 4 Điều 32 của Dự thảo.[49]
- Dự thảo có một số điều còn thể hiện tính chất tuyên ngôn, thể hiện văn phong như nghị quyết của Đảng như Điều 53, Điều 64[50]; có một số điều còn chung chung, không rõ ràng như Điều 42, Điều 65; một số điều quy định là "công dân có quyền" nhưng thực tế phải được quy định là "mọi người có quyền" thì mới chính xác như: Điều 24 về quyền tự do đi lại; Điều 36 về quyền có nơi ở hợp pháp; Điều 41 về quyền được bảo vệ sức khỏe.[51]
- Việc sử dụng từ ngữ trong Dự thảo chưa thống nhất; nên thống nhất cụm từ “nam, nữ” hoặc “nữ, nam”; lúc dùng cụm từ “theo quy định pháp luật” lúc thì dùng “luật quy định”.[52]
- Cách dùng cụm từ “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” mà không dùng cụm từ “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại các điều quy định về bộ máy nhà nước (Điều 74, 91, 99, 107, 109, 118) là chưa hợp lý.[53]
- Việc sử dụng ngôn ngữ cần đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu và phải sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, không nên sử dụng các từ, cụm từ gốc Hán - Việt, ví dụ như “kiến quốc”, “bảo hộ”, “nhục hình”; “bất khả xâm phạm”; “cư trú”...[54]
- Các quy định tại Chương V và Chương VII về Quốc hội và Chính phủ không nên quy định quá chi tiết về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trong Dự thảo mà chỉ quy định một cách khái quát nhất về địa vị pháp lý của hai chủ thể này, việc quy định chi tiết nên xây dựng trong Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức Chính phủ.[55]
- Về ngôn ngữ sử dụng trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: đề nghị cần có sự thống nhất về cách dùng từ, vì trong một số điều, thậm chí trong cùng một điều nhưng sử dụng những cụm từ khác nhau dù có ý nghĩa như nhau.[56]
- Đề nghị Điều 2, 3, 8 Chương I nên để liền nhau để phần nói về Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được liền mạch; Điều 3 nên đặt ở vị trí Điều 4; Điều 5 nên đặt ở vị trí Điều 6; Điều 6 nên đặt ở vị trí Điều 11. Chương II: Điều 18, 19 nên gộp thành 1 điều; Điều 21, 25 nên gộp thành 1 điều. Điều 21, 22 nên gộp thành 1 điều vì Điều 22 là cụ thể hóa Điều 21; Điều 21, 25 nên gộp thành 1 điều; Điều 41, 42 nên gộp thành 1 điều; Điều 42, 43 nên gộp thành 1 điều.[57]
- Cần quy định cụ thể hơn nữa để các quy định của Hiến pháp áp dụng ngay mà không cần chờ quy định của luật.[58]
- Đề nghị gộp Điều 9 và Điều 10, gộp Điều 17 và Điều 21, gộp Điều 47 và Điều 48, gộp khoản 5 và khoản 6 Điều 108 và biên tập lại thành một khoản như sau: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và tranh tụng tại phiên toà được đảm bảo”, tách Điều 116 thành 02 điều riêng: 1 điều về HĐND và 1 điều về UBND.[59]
- Đề nghị giữ nguyên Điều 66 Hiến pháp năm 1992 thành một điều mới trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.[60]
- Về tên riêng của các chức danh ví dụ như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ tại Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, có 04 ý kiến đề nghị ghi thống nhất và đầy đủ (không nên ghi Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch, Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng).[61]
4.3. Các góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-12).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 1.828.585 ý kiến.
1.1. Số ý kiến tán thành tên, bố cục, nội dung: 1.725.000/1.828.585 ý kiến.
Các ý kiến tán thành việc Lời nói đầu trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992. Cách thể hiện theo hướng khái quát, cô đọng hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến và thể hiện mạnh mẽ, cụ thể hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp.
1.2. Số ý kiến không tán thành tên, bố cục, nội dung: 106.583/1.828.585 ý kiến.
Rất nhiều ý kiến đề nghị cần thể hiện Lời nói đầu theo hướng ngắn gọn và súc tích hơn nữa; có ý kiến đề nghị cân nhắc về sự cần thiết phải có Lời nói đầu trong Dự thảo vì nội dung này sẽ được quy định trực tiếp tại các điều[62]; có ý kiến đề nghị đổi tên Lời nói đầu thành “Lời dẫn”...[63]
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
- Đa số ý kiến cho rằng Lời nói đầu còn dài, chưa làm nổi bật được mục đích, nhiệm vụ, vai trò của Hiến pháp và chủ thể của Hiến pháp là nhân dân; nên rút ngắn lại, cô đọng và súc tích hơn, lời văn cần trong sáng, mạch lạc hơn, tránh những câu đa nghĩa; không nên liệt kê thành tích, công lao nhiều.[64]
- Nhiều ý kiến đề nghị sửa, thay thế việc sử dụng các từ, cụm từ trong Lời nói đầu cho chuẩn xác, hợp lý hơn, như: sửa cụm từ “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử...” thành “Trải qua hàng nghìn năm lịch sử...”[65] hoặc “Trải qua các thời kỳ lịch sử...”[66]; sửa từ “kiến quốc” thành “xây dựng đất nước”...
- Nhiều ý kiến đề nghị sửa đoạn “Từ năm 1930… Có ý nghĩa lịch sử” và đoạn “dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin… thực hiện chủ quyền nhân dân”[67]. Có ý kiến đề nghị lược bỏ đoạn này.[68]
- Có ý kiến đề nghị cần khái quát đầy đủ hơn quá trình dựng nước, giữ nước, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH, khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định tại Điều 4. Trong đó, nhiều ý kiến đề nghị Dự thảo khẳng định và ghi nhận những mốc lịch sử quan trọng: Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 giải phóng Miền Bắc và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc năm 1975 như Hiến pháp 1992.[69]
- Rất nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung đoạn 5 Lời nói đầu[70], ví dụ như: Bổ sung nội dung về phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp như đã từng có trong Hiến pháp năm 1992; hoặc sửa theo hướng: “Nhân dân Việt Nam, với truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, xây dựng và thi hành Hiến pháp…, thông qua Quốc hội để nhân dân ban hành Hiến pháp”; hoặc để khẳng định và đề cao vị trí, vai trò độc tôn với ý nghĩa là đạo luật gốc, cơ bản, xuyên suốt trong hệ thống pháp luật của Hiến pháp, có ý kiến đề nghị chuyển nội dung Điều 123 Dự thảo lên đoạn 5 của Lời nói đầu…
- Có ý kiến đề nghị khẳng định “Mỗi bản Hiến pháp đã tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước”[71]; đề nghị bổ sung thời điểm đổi tên nước từ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” thành “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” như Hiến pháp năm 1992…[72]
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-0).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 1.838.112 ý kiến.
1.1. Các ý kiến góp ý vào các điều của Chương (Điều 1 - Điều 14), trong đó tập trung vào các điều: Điều 1 (105.815 ý kiến), Điều 4 (103.128 ý kiến), Điều 5 (113.793 ý kiến), Điều 6 (94.864 ý kiến), Điều 9 (101.989 ý kiến), Điều 10 (92.464 ý kiến), Điều 11 (107.043 ý kiến).
1.2. Tán thành với tên, nội dung Chương: 15.582/1.838.112 ý kiến.
Các ý kiến tán thành việc Dự thảo đã tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), phù hợp với đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng; làm rõ và đầy đủ hơn vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, quan điểm về chủ quyền nhân dân theo hướng nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan đại biểu, các cơ quan khác của Nhà nước; có bổ sung yếu tố kiểm soát vào nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.
Thống nhất với cách viết gọn tên Chương là “Chế độ chính trị” và đưa các quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh vào Chương I vì đây là những nội dung gắn liền với chế độ chính trị của đất nước.
1.3. Không tán thành với tên, nội dung, bố cục Chương: 1.100/1.838.112 ý kiến.
- Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung tên Chương, như: bổ sung thêm cụm từ “dân chủ” nhằm làm rõ hơn bản chất của nhà nước và chế độ; đổi tên chương thành Chương về Chính thể; hoặc đổi tên thành Chương về “Những quy định chung” hay “Những nguyên tắc nền tảng” vì nội dung của Chương không chỉ liên quan đến chế độ chính trị trị mà còn liên quan đến nhiều vấn đề khác…[73]
- Có ý kiến đề nghị Chương này cần đưa ra những nguyên tắc nền tảng cho xã hội Việt Nam, quốc gia Việt Nam về mọi mặt của đời sống xã hội, chứ không chỉ bó hẹp trong chế độ chính trị. Các quy định tại Chương I cần làm nền tảng cho các quy định ở các chương tiếp theo của Hiến pháp.[74]
- Một số ý kiến đề nghị thay đổi kết cấu các điều trong Chương[75], như: Nên dành một chương nói về nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chỉ có một điều như Điều 4[76]; gộp chung một số điều, khoản để bảo đảm tính hợp lý hoặc viết ngắn gọn như Hiến pháp năm 1992, như: ghép Điều 2 và Điều 6 thành một điều; gộp Điều 106 và khoản 1, Điều 119 vào Điều 9; gộp chung khoản 2 và khoản 3 Điều 4 làm thành một khoản; đưa Điều 6 Dự thảo lên khoản 4 Điều 3; đưa các Điều 11 đến Điều 14 lên sau Điều 3; đưa Điều 11 lên thành khoản 2, 3 của Điều 1; gộp chung Điều 13 và Điều 14 thành một điều… Nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi việc sử dụng một số từ ngữ[77] như: bỏ cụm từ “thiểu số” trong cụm từ “các dân tộc thiểu số” (Điều 5), thay từ “tạo điều kiện” bằng từ “trách nhiệm tạo điều kiện” (Điều 5), thay cụm từ “các tổ chức xã hội khác” bằng cụm từ “các tổ chức thành viên của Mặt trận” hoặc “các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác”, “các đoàn thể chính trị - xã hội” hoặc “các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp” (Điều 9)…
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
- Nhiều ý kiến đề nghị chuyển từ “độc lập” lên trước từ “dân chủ” tại Điều 1 Dự thảo nhằm khẳng định nền độc lập là điều kiện tiên quyết sau đó mới đến dân chủ[78]. Nhiều ý kiến đề nghị khẳng định chủ quyền đối với đầy đủ các vùng lãnh thổ, bao gồm: đất liền, vùng biển, vùng trời, hải đảo (đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), thềm lục địa, lòng đất, vùng nước, vùng lòng đất dưới đáy biển[79]. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng chỉ quy định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ” là đầy đủ nghĩa.[80]
- Đa số ý kiến đề nghị chỉ cần quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” tại Điều 2 là đủ[81]. Một số ý kiến đề nghị thay nội dung “mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” thành “khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.[82]
Nhiều ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung, cụ thể hơn về cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong Hiến pháp nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.[83]
- Tại Điều 4, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo duy nhất” để xác định vai trò lãnh đạo của Đảng.[84]
Nhiều ý kiến cũng đề nghị bổ sung trách nhiệm của Đảng trước dân tộc, nhân dân[85]; bổ sung các tổ chức Đảng và Đảng viên ngoài việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật thì đều phải chấp hành Điều lệ Đảng[86]; cụ thể hơn về cơ chế giám sát của nhân dân đối với Đảng…[87]
- Nhiều ý kiến đề nghị Dự thảo cần quy định rõ khi nào và đối với những vấn đề gì Nhà nước phải thực hiện trưng cầu dân ý[88]; làm rõ hơn các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và thông qua các cơ quan nào để thực hiện (Điều 6)…[89]
- Tại Điều 9, Điều 10, nhiều ý kiến góp ý quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong Dự thảo, như: một số ý kiến đề nghị bỏ Điều 10 về Công đoàn[90]; có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh,… nhằm khẳng định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị nước ta.[91]
- Một số ý kiến góp ý về đường lối đối ngoại (Điều 12), việc quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh và Thủ đô (Điều 13 và Điều 14), như: đề nghị quy định rõ tỉ lệ, hình dạng, màu chi tiết của Quốc kỳ, Quốc huy[92], nêu rõ tác giả của Quốc ca là nhạc sỹ Văn Cao…[93]
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-1).
1. Tổng số ý kiến góp ý về Chương II: 5.634.279 ý kiến.
Các điều, khoản cụ thể nhận được nhiều ý kiến góp ý: Các Điều 15, 16, 17, 18, 21, 22, 24, 26, 27, 30, 32, 46, 50.
1.1. Những nội dung đã được nhất trí
- Các ý kiến góp ý đều nhất trí quyền con người là một trong những giá trị cao quý của nhân loại, đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trên cả phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Vì vậy, việc ghi nhận những quyền cơ bản của con người và công dân trong Hiến pháp là việc làm cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn lập hiến của Việt Nam, thể chế hóa được chủ trương tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, trong Hiến pháp cần có những quy định về các cơ chế bảo đảm quyền con người và quyền công dân để tạo cơ sở cho các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành cụ thể[94].
- Hiến pháp chỉ nên đề cập tới các quyền con người và quyền, nghĩa vụ "cơ bản" của công dân; các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của con người và công dân do luật định.
1.2. Số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương II: 1.538/5.634.279 ý kiến.
- Dự thảo Hiến pháp còn thiếu quy định về một số quyền như: quyền của người cao tuổi, quyền của người khuyết tật, quyền của người thuộc giới tính thứ ba, quyền nghỉ ngơi, quyền được lao động trong môi trường trong lành, quyền giám sát, phản biện xã hội,... nghĩa vụ đối với cộng đồng, nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam[95].
Có ý kiến đề nghị đề nghị trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 cần giữ lại Điều 66 trong Chương V của Hiến pháp năm 1992 quy định về thanh niên vì thanh niên là lực lượng xã hội to lớn được Đảng và Nhà nước luôn coi trọng và đánh giá cao vị trí, vai trò của thanh niên trong suốt quá trình lịch sử của cách mạng Việt Nam và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc quy định vị trí, vai trò của thanh niên cũng như các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho thanh niên phát triển là việc làm cần thiết và có ý nghĩa đối với một quốc gia. Đồng thời, đó cũng chính là cơ sở để nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách và các quy định pháp luật cho thanh niên[96].
- Dự thảo mới đề nghị đến quyền của các cá nhân, chưa tính đến các quyền của tổ chức. Theo kinh nghiệm của Hiến pháp các nước, trong trường hợp quyền của các tổ chức tương tự như quyền của công dân và được thực hiện tương tự thì tổ chức được hưởng các quyền đó.
- Dự thảo cũng còn thiếu những quy định về thiết lập cơ chế bảo vệ và thúc đẩy thực hiện quyền trên thực tế. Đồng thời, cần bổ sung quy định về cơ chế để các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp có hiệu lực áp dụng trực tiếp[97].
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
2.1. Về tên Chương và bố cục của Chương
2.1.1. Tên Chương
Số ý kiến tán thành tên Chương: 4,911,618 lượt ý kiến.
Số ý kiến không tán thành tên Chương: 15 lượt ý kiến[98].
Lý do: đề nghị quy định tất cả các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân mà không chỉ giới hạn ở các quyền, nghĩa vụ "cơ bản".
2.1.2. Về bố cục của Chương
Số ý kiến tán thành: đa số ý kiến đều tán thành với bố cục của Chương.
Một số ý kiến đề nghị sửa đổi: Có ý kiến đề nghị Chương II được chia thành 3 mục: Mục 1 quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc chung của quyền con người, quyền công dân; Mục 2 quy định các quyền con người và các quyền cơ bản của công dân trong 5 lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; Mục 3 quy định các nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tại mục 2 phân định rõ quyền nào là quyền chung cho tất cả mọi người, quyền nào là quyền chỉ của công dân Việt Nam[99].
Bên cạnh đó, có ý kiến đề xuất sắp xếp lại vị trí của 38 điều ở Chương II (từ Điều 15 - Điều 52) để thể hiện được tính khoa học (mạch lạc về nội dung, sáng rõ về hình thức) với thứ tự như sau: Điều 15, Điều 20, Điều 18, Điều 19, Điều 16, Điều 17, Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 25, Điều 45, Điều 27, Điều 26, Điều 28, Điều 29, Điều 33, Điều 34, Điều 38, Điều 42, Điều 43, Điều 44, Điều 41, Điều 36, Điều 37, Điều 39, Điều 40, Điều 35, Điều 46, Điều 50, Điều 47, Điều 48, Điều 30, Điều 49, Điều 31, Điều 32, Điều 24, Điều 51, Điều 52. Với thứ tự này, nội dung các điều được sắp xếp diễn ra theo hướng: khái quát về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân à mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của công dân à định nghĩa công dân Việt Nam và trách nhiệm của Nhà nước à định nghĩa người Việt Nam định cư ở nước ngoài và trách nhiệm của Nhà nước à các quyền và nghĩa vụ cụ thể của mọi người hoặc công dân trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sự à người nước ngoài cư trú ở Việt Nam[100].
- Có ý kiến khác đề nghị cần bố cục Chương theo hướng những nội dung quy định về quyền con người ở phần đầu Chương, tiếp theo là các điều về quyền công dân[101].
2.1.3. Về vị trí của Chương
Tất cả các ý kiến tham gia đều tán thành với việc xếp Chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân lên thành chương thứ hai, theo đó, đã khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp, điều này hoàn toàn phù hợp với một xã hội tiến bộ và dân chủ, cũng như bảo đảm được xu thế hội nhập quốc tế, hội nhập khu vực đã và đang diễn ra nhanh chóng[102].
2.3. Những đề nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể: 194.618 lượt ý kiến.
Do quyền con người và quyền công dân là đa dạng phong phú, liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, việc đưa các nội dung liên quan đến vấn đề quyền con người và quyền công dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tập trung đề xuất sửa đổi, bổ sung vào những nội dung chính sau:
(1) Các quyền cơ bản được quy định trong Hiến pháp cần phù hợp với các tiêu chuẩn phổ cập, các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, có cân nhắc tới các điều ước quốc tế đa phương khác mà Việt Nam đang hướng tới tham gia như Tuyên bố về quyền con người của Liên hợp quốc (UNHR), Công ước về các quyền dân sự chính trị (ICCPR), Công ước về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (ICESCR)...[103] (ví dụ: Điều 15 bổ sung khoản 3 bằng việc sửa đổi khoản 2 Điều 16, Điều 17, Điều 21, Điều 22, Điều 29, Điều 32, Điều 42...).
(2) Các quyền con người, quyền công dân cần được phân định rõ ràng, tách bạch, cần được sắp xếp theo trật tự nhất định, bảo đảm tính xuyên suốt, bố cục quyền con người trước (Điều 17, 21, 22, 23, 25, 31, 32, 33, 34, 37, 43, 44, 46) đến quyền công dân (Điều 18, 24, 26, 28, 29, 30, 35, 36, 38, 39, 41, 42, 45). Cân nhắc sắp xếp theo từng nhóm quyền về chính trị (Điều 17, 18, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 28, 29, 30, 31, 32, 37, 39, 52), về dân sự, kinh tế, văn hóa (Điều 33, 34, 35, 36, 38, 41, 42, 43, 44, 45, 46)[104].
(3) Về nguyên tắc trao quyền và hạn chế quyền cũng như mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ: Các ý kiến đều khẳng định việc trao quyền có thể được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, còn việc hạn chế các quyền phải do Hiến pháp và luật quy định. Việc hạn chế đó nên được quy định đối với từng quyền cụ thể, không nên quy định chung về việc hạn chế. Nội dung này đòi hỏi phải chỉnh sửa các quy định tại Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 24. Trong khi đó, có một số ý kiến cho rằng quyền không đồng thời là nghĩa vụ, việc xác định quan hệ quyền và nghĩa vụ phải được đặt trong một mối quan hệ cụ thể. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân nên hiểu ở nghĩa: cùng với việc hưởng các quyền, công dân phải gánh vác các nghĩa vụ. Đây là mối quan hệ tương hỗ về quyền, nghĩa vụ giữa công dân với xã hội, với Nhà nước và giữa Nhà nước với công dân, chẳng hạn như Điều 42[105].
(4) Quy định về quyền trưng cầu dân ý chưa thể hiện được quyền công dân. Đã là quyền thì công dân có quyền yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý và được trưng cầu dân ý trong những trường hợp hiến định, luật định, không phải khi Nhà nước tổ chức mới có quyền. Đề nghị bổ sung “quyền phúc quyết của nhân dân” đối với Hiến pháp và các vấn đề trọng đại của đất nước, xác lập nguyên tắc các vấn đề trọng đại nhất thiết phải đưa ra cho nhân dân phúc quyết để làm cơ sở xây dựng một đạo luật quy định cụ thể cách thức, trình tự, thủ tục thực hiện quyền phúc quyết của toàn dân (Điều 28, Điều 30). Nhiều ý kiến đề nghị ghép Điều 28 và Điều 30 thành một điều chung quy định về các quyền về dân chủ trực tiếp như quyền bầu cử, quyền lấy ý kiến, trưng cầu dân ý và quyền phúc quyết[106]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị bổ sung một điều riêng quy định việc trưng cầu ý dân và điều này cần được nhanh chóng cụ thể hóa trong một đạo luật của Quốc hội[107].
(5) Cần làm rõ hơn một số quyền, ví dụ về quyền sống và quy định về quyền sống phải đưa đưa lên vị trí đầu tiên trong các quyền cơ bản của con người và khẳng định khái niệm bình đẳng đối với mọi giới không chỉ giới hạn ở giới nam và nữ (Điều 17, 21, 22, 24, 27, 29 và Điều 32)[108].
(6) Đề nghị bổ sung một điều quy định về thiết chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (có thể là Ủy ban về quyền con người thuộc Quốc hội) vì chế định này rất cần thiết để quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được bảo vệ và được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Việc bổ sung này phù hợp với thông lệ quốc tế[109].
(7) Các quyền tương tự nhau, trùng lặp nhau cần được khái quát, gom lại. Các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa được quy định tại Chương II thì Chương III Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 cũng có một số quy định liên quan tới vấn đề này như khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 61. Những quy định này cần được nghiên cứu để kết hợp lại cho tránh sự trùng lặp (ví dụ: khoản 1 Điều 56 có thể gộp với Điều 34; khoản 1 Điều 61 có thể gộp với Điều 38…)[110].
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-2).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 1.941.553 lượt ý kiến.
Các ý kiến góp ý tập trung vào vấn đề liên quan đến vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế (242.857 ý kiến), vấn đề về bảo vệ quyền tài sản (100.000 ý kiến) và quản lý, sử dụng đất đai (285.714 ý kiến), vấn đề về văn hóa, khoa học, công nghệ và môi trường (373.334 ý kiến).
Có 1.934.053/1.941.553 ý kiến đồng ý với bố cục, cấu trúc của dự thảo Hiến pháp.
Có 7.500/1.941.553 ý kiến đề nghị sửa tên Chương III vì chưa bao quát hết các lĩnh vực, theo đó cần bổ sung từ “y tế” sau từ “văn hóa”, bổ sung từ “tài nguyên” vào sau từ “công nghệ” hoặc đổi tên chương thành “Kinh tế - xã hội” để bao hàm được đầy đủ các nội dung được quy định tại Chương này và một số quy định trong Chương III còn có sự trùng lặp giữa quyền con người, quyền công dân (ví dụ: quyền lao động, quyền tự do kinh doanh), vì vậy cần nghiên cứu để cấu trúc lại cho hợp lý.[111]
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
2.1. Về vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân (Điều 54)
Đa số ý kiến tán thành với quy định của Hiến pháp về vấn đề này[112]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị cần tiếp tục liệt kê các thành phần kinh tế và xác định vai trò nền tảng, chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước nhằm phù hợp với Nghị quyết Đại hội Đảng và thực trạng hiện nay của nền kinh tế nước ta[113]. Ngoài ra, có ý kiến đề nghị cân nhắc bỏ cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” tại khoản 1, vì nước ta hiện đang trong quá trình đề nghị các quốc gia công nhận là nền kinh tế thị trường[114]. Một số ý kiến khác đề nghị bỏ từ “lâu dài” tại khoản 2, vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế là khách quan, đồng thời cần nhấn mạnh hơn nữa vai trò của Nhà nước trong điều hành nền kinh tế đất nước.[115].
2.2. Về bảo vệ quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân (Điều 56)
Đa số ý kiến tán thành với dự thảo Hiến pháp[116]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị sửa đổi, ví dụ như:
- Dự thảo Hiến pháp không nên quy định “Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền”, vì trong nền kinh tế thị trường, có những hình thức độc quyền là cần thiết do chính bản thân Nhà nước thực hiện và để thực hiện các mục đích công hoặc hình thức độc quyền kinh doanh và khai thác kết quả của sở hữu trí tuệ. Mặt khác, hoạt động “chống độc quyền” chỉ là một nội dung của khái niệm “hạn chế cạnh tranh” theo Luật Cạnh tranh.[117]
- Khoản 3 Điều 56 mâu thuẫn với khoản 3 Điều 58 vì cùng là tài sản được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, nhưng về bồi thường lại quy định khác nhau (khoản 3 Điều 56 quy định tài sản được Nhà nước trưng mua, trưng dụng thì được bồi thường theo giá thị trường, trong khi tại khoản 3 Điều 58 quy định tài sản là quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi thì bồi thường theo quy định của pháp luật).[118]
2.3. Về quản lý, sử dụng đất đai (Điều 58)
Đa số ý kiến tán thành với dự thảo Hiến pháp. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi cụ thể là: Đề nghị bỏ trường hợp Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân và bồi thường theo quy định của pháp luật vì lý do “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Quy định như dự thảo Hiến pháp rất dễ bị lạm dụng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Thực tiễn cho thấy, những bất ổn, khiếu nại, khiếu kiện đồng người phần lớn xuất phát từ cơ chế bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, đối với các dự án phát triển - kinh tế (khoản 3 Điều 58 Dự thảo) nên quy định theo hướng các chủ đầu tư dự án phải thương lượng với người sử dụng đất theo nguyên tắc thỏa thuận, có đền bù theo giá thị trường. Còn đối với các trường hợp khác thì Nhà nước bắt buộc người sử dụng đất chuyển nhượng theo giá thị trường. Quy định như vậy cũng để thống nhất với khoản 3 Điều 56 Dự thảo.[119]
2.4. Về vấn đề y tế, an sinh xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, văn hóa và môi trường
- Đa số ý kiến tán thành quy định về y tế (Điều 62 Dự thảo). Các ý kiến khác đề nghị sửa đổi theo hướng diễn đạt ngắn gọn hơn, bên cạnh bà mẹ, trẻ em, cần mở rộng đối tượng được ưu tiên chăm sóc sức khỏe như người cao tuổi, người khuyết tật.[120] Cũng có ý kiến cho rằng chỉ nên quy định những định hướng cơ bản của nền y tế, các chính sách cụ thể nên quy định tại các luật.[121]
- Đa số ý kiến tán thành quy định về chính sách an sinh xã hội (Điều 63 Dự thảo). Nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng cần kế thừa và bổ sung Điều 67 của Hiến pháp năm 1992 để khẳng định hơn nữa sự quan tâm của nhà nước đối với người có công với nước, với cách mạng và gia đình họ nhất là trong giai đoạn hiện nay;[122] quy định rõ Nhà nước có trách nhiệm phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng;[123] bổ sung thêm các đối tượng được hưởng chế độ an sinh xã hội như người lang thang, người không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng là nạn nhân chất độc màu da cam đioxin" bởi lẽ hậu quả này còn kéo dài nhiều năm, nhiều thế hệ.[124]
- Đa số ý kiến tán thành quy định về vấn đề văn hóa (Điều 64 Dự thảo). Tuy nhiên, có nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi, ví dụ như: Bổ sung cụm từ “và mục tiêu” vào sau cụm từ “Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực” cho phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), bỏ cụm từ “nhân văn, dân chủ, tiến bộ” vì nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã bao hàm luôn tính “nhân văn, dân chủ, tiến bộ” tại khoản 1 Điều 64 và sửa lại như sau: “Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu phát triển đất nước”[125]. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng cần tách nội dung quy định về phương tiện thông tin đại chúng tại khoản 2 thành môt điều riêng vì phát triển thông tin đại chúng còn nhằm để bảo đảm quyền được thông tin của công dân quy định tai Điều 26 Dự thảo chứ không phải chỉ nhằm mục đích phát triển văn hóa[126]. Cũng có ý kiến cho rằng điều này quá dài, chưa rõ chủ thể của việc xây dưng, phát triển” là ai, nên được thể hiện ngắn gọn hơn.[127]
- Đa số ý kiến tán thành quy định về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ (Điều 65 Dự thảo), tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị để khẳng định vị trí quan trọng của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nên bổ sung quy định “Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ”[128] và trách nhiệm của xã hội, của mọi công dân trong việc phát triển triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ vì đã từ lâu Hiến pháp quy định “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” nhưng dường như mọi người chỉ xem đó là khẩu hiệu hoặc đó là trách nhiệm của Nhà nước, không liên quan đến trách nhiệm của mình. Hiến pháp cần xác định rõ để tác động được đến quảng đại quần chúng.[129]
- Quy định về giáo dục tại Điều 66 Dự thảo có 95.000 ý kiến/286.000 tán thành. Nhiều ý kiến đề nghị quy định chung hơn về mục tiêu giáo dục như không nên quy định đào tạo “người lao động có nghề” mà nên quy định"có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp" hoặc “có chuyên môn nghề nghiệp”[130]; không quy định rõ loại hình giáo dục dễ dẫn đến lạc hậu, song cần nhấn mạnh vai trò của giáo dục công lập.[131] Để làm rõ sự nhất quán của Nhà nước trong việc ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn nhằm xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội, giữ gìn an ninh quốc gia, thực hiện công bằng giáo dục, nên quy đinh “ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác”. Mặt khác quy định “ưu tiên bảo đảm phát triển” còn cho thấy rõ cam kết việc thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc hiệt khó khăn khác. Việc bỏ quy định phổ cập giáo dục trong Hiến pháp và để luật quy định là không phù hợp, cần quy định rõ vấn đề phổ cập giáo dục ngay trong Hiến pháp và quy định giáo dục miễn phí đến cấp học nào[132]. Có ý kiến đề nghị cần khẳng định giáo dục phổ cập là bắt buộc và được miễn phí.[133]
- Đa số ý kiến tán thành quy định về vấn đề khoa học và công nghệ tại Điều 67 Dự thảo. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị sửa đổi, ví dụ như: Tại khoản 1 Điều 67, nếu phát triển khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay chỉ với mục tiêu “nhằm nâng cao trình độ quản lý” là không tương xứng với xu thế và tốc độ phát triển chung của nhân loại, không thỏa đáng với nhu cầu và sự quan tâm của xã hội. Vì vậy, đề nghị ngoài mục tiêu trên, cần đặt vấn đề gắn trách nhiệm cho khoa học và công nghệ với nhiệm vụ khác nữa là “nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh”, như thế mới đáp ứng được sự kỳ vọng của xã hội và đủ động lực để thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ; bổ sung thêm từ “tri thức” trước cụm từ “trình độ quản lý, phát triển văn hóa...”; nên thay cụm từ “then chốt, là động lực” bằng cụm từ “là nền tảng”; bỏ cụm từ “ giữ vai trò then chốt” , không cần thiết; thay cụm từ “then chốt” bằng cụm từ “hàng đầu”[134]. Bổ sung quy định Nhà nước có chính sách “khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ; bảo đảm quyền tự do nghiên cứu và sáng tạo khoa học, công nghệ”, “ưu đãi đối với đồng bào đang sinh sống tại nước ngoài tham gia nghiên cứu khoa học”, “bảo hộ lợi ích của người nghiên cứu và sáng tạo khoa học công nghệ” để thể hiện chính sách xã hội hóa khoa học - công nghệ và thu hút nhân tài trong lĩnh vực khoa học công nghệ.[135]
- Đa số ý kiến tán thành quy định về vấn đề môi trường (Điều 68 Dự thảo). Tuy nhiên, cũng còn ý kiến đề nghị sửa đổi, ví dụ như: Sửa đổi khoản 1 Điều 68 như sau: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của Nhà nước, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân”[136]; bổ sung chữ “tài nguyên” trước từ “môi trường”[137] hoặc bổ sung nhiệm vụ phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu cũng là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân”[138]; Đề nghị thay cụm từ “nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại” bằng cụm cụm từ “theo quy định của pháp luật” như sau: “Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên, thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý theo quy định của pháp luật”.[139]
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-3).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 433.008 lượt ý kiến.
Các ý kiến tập trung khá đồng đều vào từng điều của Chương đặc biệt là các điều từ 69 đến 72 của Chương IV: Điều 69 (120.980 ý kiến); Điều 70 (122.987 ý kiến); Điều 71 (80.287 ý kiến).
1.1. Số ý kiến tán thành tên, nội dung Chương: 238.560/433.008 ý kiến.
- Về cơ bản, các ý kiến tán thành với tên Chương, vì đã kế thừa Hiến pháp năm 1992, sắp xếp nội dung các điều một cách khoa học, ngắn gọn và nổi bật là bổ sung nội dung thực hiện nghĩa vụ quốc tế của lực lượng vũ trang nhân dân[140].
- Về nội dung Chương, đa số các ý kiến thống nhất[141]. Các ý kiến đánh giá nội dung Dự thảo được xây dựng phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12/7/2011 Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI về việc: “Tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là nòng cốt. Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”.
Các quy định về quốc phòng, an ninh trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp về tổng thể đã xác định rõ về mặt pháp lý vai trò, trách nhiệm của quân đội nhân dân và công an nhân dân trong việc đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia được quy định rõ ràng hơn[142]. Dự thảo đã đảm bảo được tính kế thừa hợp lý những nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992, đồng thời đã đưa vào nhiều nội dung mới quan trọng như nội dung quy định nhiệm vụ của lực lượng vũ trang có thể thực hiện nhiệm vụ quốc tế, cụ thể hóa những vấn đề trước kia chưa rõ ràng để đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình thực tiễn, thể chế hóa kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng. Các nội dung qui định đã phản ánh đầy đủ và chính xác các nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.[143]
1.2. Số ý kiến không tán thành tên, nội dung Chương: 289/433.008 ý kiến.
- Một số ý kiến đề nghị giữ nguyên tên Chương như Hiến pháp năm 1992 là: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[144]. Lý do: Để khẳng định rõ ràng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thể hiện niềm tự hào dân tộc.[145]
- Có một số ý kiến cho rằng, Dự thảo đã bỏ đi một nội dung quan trọng thể hiện bản chất và phương châm hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là tính nhân dân và dựa vào dân. Lý do: Một nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992 quy định là: “kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân” (Điều 46 Hiến pháp năm 1992), “Lực lượng Công an nhân dân dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội (Điều 47 Hiến pháp năm 1992), nhưng Dự thảo đã bỏ nội dung này. Đề nghị giữ lại nội dung trên trong Dự thảo[146].
1.3. Số ý kiến đề nghị sửa đổi tên, nội dung Chương: 295.359/433.008 ý kiến.
- Đổi tên chương thành: An ninh và Quốc phòng hoặc Bảo vệ Tổ quốc và An ninh Quốc gia[147]
Lý do: Vẫn có sự lúng túng, lẫn lộn, thiếu nhất quán trong việc sử dụng 3 khái niệm: bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia. Chẳng hạn tên gọi của Chương IV là Bảo vệ Tổ quốc, nhưng nội dung các Điều 69-73 lại phân biệt thành hai lĩnh vực là bảo vệ tổ quốc và giữ vững (Điều 69)/bảo vệ (Điều 72) an ninh quốc gia. Nếu phân biệt thành 2 lĩnh vực là quốc phòng và an ninh, thì nên thay đổi tên gọi của Chương IV.[148]
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
Về xác định sự nghiệp và trách nhiệm bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đa số các ý kiến cho rằng Điều 69 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thể hiện được nhiệm vụ và sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và thực hiện vai trò của quốc gia trong bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị, bên cạnh nhiệm vụ quốc phòng, nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự xã hội cần được thể chế rõ hơn trong Hiến pháp nhằm đáp ứng các đòi hỏi của thực tế hiện nay[149]; trách nhiệm bảo vệ tổ quốc, bảo vệ an ninh trật tự cần được xác định là sự nghiệp của toàn đảng, toàn quân, nhà nước và nhân dân[150]; vấn đề kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế, hợp tác quốc tế trong bảo vệ tổ quốc và an ninh cần được cân nhắc đến trong giai đoạn hiện nay.[151]
Trách nhiệm và sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với tổ quốc, nhân dân và Đảng là vấn đề quan trọng đã được khẳng định trong Hiến pháp. Đại đa số các ý kiến tại các cơ quan, đơn vị và ý kiến cá nhân đồng tình với việc thể chế sự trung thành của quân đội nhân dân và công an nhân dân đối với tổ quốc, nhân dân và Đảng cộng sản trong các Điều 70, Điều 71 và Điều 72 của Dự thảo.[152] Một số ý kiến đề nghị làm rõ nét, sâu sắc hơn nữa hơn sự trung thành tuyệt đối của lực lượng vũ trang đối với Nhà nước, đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.[153] Bên cạnh đó, có nhiều ý kiến thuộc các bộ, ngành, địa phương cho rằng nên thay đổi trật tự các cụm từ như sau “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Đảng cộng sản Việt Nam”[154] hoặc “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân”[155] vì Đảng hoạt động trên nền tảng của Tổ quốc và nhân dân, phục vụ lợi ích của tổ quốc và nhân dân, tổ quốc cần được đặt lên vị trí cao nhất và trang trọng nhất. Một số ý kiến cá nhân đề nghị giữ nguyên quy định cũ của Hiến pháp năm 1992 hoặc không đưa nội dung liên quan đến “Đảng Cộng sản Việt Nam” trong các điều này vì đã được thể hiện và đảm bảo thông qua Điều 4 và các cơ chế khác trong Hiến pháp.[156]
Một số ý kiến đề cần định danh rõ “lực lượng vũ trang” gồm có quân đội nhân dân và công an nhân dân[157] và đề nghị định hướng xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân đi thẳng lên hiện đại sau giai đoạn phát triển vừa qua.[158]
Dự thảo cần thể hiện sâu sắc và đầy đủ hơn chính sách cơ bản về an ninh quốc phòng, hậu phương quân đội, hậu phương công an; phương hướng kết hợp an ninh - quốc phòng với phát triển kinh tế - xã hội[159]; phát triển công nghiệp quốc phòng và công nghiệp an ninh.[160]
Nhiều kiến nghị cụ thể được đưa ra nhằm cụ thể hóa các kiến nghị đã nêu, một số kiến nghị đưa ra các phương án cụ thể cho từng điều khoản.
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-4).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 1.517.335 lượt ý kiến.
Các ý kiến tập trung vào các điều sau đây Điều 74 (180,383 ý kiến); Điều Điều 75 (250,382 ý kiến), Điều 79 (217,950 ý kiến), Điều 81 (69,028 ý kiến), Điều 84 (90,293 ý kiến).
1.1. Số ý kiến tán thành tên, nội dung Chương: 1.517.335/1.517.335 ý kiến.
1.2. Số ý kiến không tán thành tên, nội dung Chương: 00/1.517.335 ý kiến.
1.3. Số ý kiến đề nghị sửa đổi tên, nội dung Chương: 490.783/1.517.335 ý kiến.
Đề nghị đổi tên Chương thành “Hệ thống lập pháp”, trong đó bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; đồng thời chuyển nội dung quy định về Hội đồng nhân dân các cấp tại Chương IX vào Chương này[161] (15 ý kiến).
1.4. Số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương: 57.208/1.517.335 ý kiến.
+ Đề nghị trao cho Quốc hội quyền “Cho phép chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm những chủ trương, chính sách chưa được quy định trong luật”[162], “Quốc hội quyết định việc điều động lực lượng vũ trang ra nước ngoài hoạt động và việc rút lực lượng vũ trang về nước”[163].
+ Đề nghị trao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội[164] hoặc Chủ tịch nước[165] quyền quyết định thay cho Quốc hội một số vấn đề quan trọng như: tuyên bố tình trạng chiến tranh,... khi Quốc hội không họp được.
+ Đề nghị thành lập Uỷ ban Phòng, chống tham nhũng Trung ương trực thuộc Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện chức năng phòng chống tham nhũng[166].
+ Đề nghị bổ sung thẩm quyền của Quốc hội thành lập Tòa án đặc biệt[167].
+ Đề nghị bổ sung nội dung mới: “Lấy ý kiến và phiếu tín nhiệm của cử tri nơi bầu đại biểu Quốc hội khi đại biểu Quốc hội có những hành vi gây bức xúc trong dư luận để Quốc hội xem xét, bãi miễn tư cách đại biểu Quốc hội”[168].
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
Các ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương đều nhất trí với tên gọi của Chương V: Quốc hội như trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.Các nội dung cơ bản của Chương V được sự nhất trí và đồng tình cao trong các Bộ, ngành và địa phương.
Nội dung Chương V quy định về Quốc hội trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Việc quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất không mâu thuẫn với nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; vị trí, vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội được quy định rõ ràng. Dự thảo đã quy rõ hơn, khả thi và phù hợp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành, địa phương đều có những góp ý, đề xuất đối với các nội dung của Chương. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã triển khai rộng rãi trong địa phương và thu hút được hàng trăm ngàn ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Hiến pháp từ các cơ quan, đơn vị, tổ chức và nhân dân và tổng hợp vào văn bản góp ý về chương V thể hiện mức độ đồng tình cao với Dự thảo Hiến pháp.
Các ý kiến góp ý về Chương V tập trung vào những nội dung lớn sau đây:
2.1. Vị trí và chức năng của Quốc hội
Đa số thể hiện sự đồng tình đối với Dự thảo trong quy định về vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước, thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; bên cạnh đó, nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc điều chỉnh theo các hướng sau:
- Vị trí, chức năng của Quốc hội cần đặt trong mối quan hệ với quyền lực nhân dân và nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì vậy, nhất trí quy định Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân nhưng cần cân nhắc khi ghi nhận Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nhà nước.[169] Đề nghị xem xét khẳng định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước”[170]. Một số ý kiến kiến nghị sửa quy định của Điều 74 Dự thảo cần thể hiện rõ hơn mối quan hệ mật thiết, gắn bó và trách nhiệm giữa Quốc hội với nhân dân[171].
- Về quyền lập hiến, lập pháp của Quốc hội, phần lớn các ý kiến đều đồng tình với dự thảo. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc ghi nhận quyền lập hiến của Quốc hội trong mối quan hệ với quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân[172]. Có ý kiến đề nghị quy định quyền lập hiến thuộc về nhân dân[173]. Một số ý kiến đề nghị nêu rõ Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp[174].
Đối với chức năng lập pháp của Quốc hội, cần thể hiện rõ Quốc hội là cơ quan thông qua[175] luật/xây dựng[176]/ban hành[177] luật chứ không phải cơ quan duy nhất làm luật[178]. Thẩm quyền quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cần được thể hiện rõ trong Hiến pháp[179].
2.2. Phân định chức năng, thẩm quyền và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực cần phải thể hiện rõ trong việc xác định thẩm quyền và trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội liên quan đến các thẩm quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước đặc biệt là về chính sách, kinh tế, xã hội và ngân sách nhằm tôn trọng sự độc lập tương đối và tính chủ động trong việc thực hiện chức năng hành pháp của Chính phủ và phân công rành mạch giữa Quốc hội với Chính phủ. Nếu những quy định của Hiến pháp không rõ ràng có thể dẫn đến việc Quốc hội quyết định những vấn đề sang phạm vi của hành pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và mất đi sự chủ động và trách nhiệm của Chính phủ trong điều hành đất nước.
Đề nghị quy định rõ hơn về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia như mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách phát triển kinh tế xã hội lớn… tạo cơ sở cho việc thực hiện của Chính phủ, đồng thời đảm bảo nguyên tắc Quốc hội quyết định chính sách còn Chính phủ là cơ quan thực hiện[180]. Quy định theo hướng Quốc hội chỉ quyết định những nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội làm cơ sở để Chính phủ quyết định các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cụ thể [181]. Dự thảo quy định “Quốc hội quyết định chính sách tiền tệ quốc gia”, quy định này hạn chế tính chủ động của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt trong giai đoạn hiện nay[182].
Cần rà soát, điều chỉnh lại các quy định của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp về quyền kiểm soát của Quốc hội đối với Chính phủ theo hướng bảo đảm tính chủ động, linh hoạt cần thiết cho Chính phủ trong quản lý, điều hành các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế[183].
2.3. Một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội cần được cân nhắc hoặc điều chỉnh
- Đề nghị cân nhắc bỏ quy định thẩm quyền “phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức...Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”[184]. Bởi đây là các chức danh chuyên môn và nên để Chủ tịch nước được quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao[185] và cần thống nhất hóa thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao[186], do đó, đề nghị sửa đổi theo hướng quy định cùng một trình tự, thẩm quyền bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm đối với các chức danh pháp lý Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao[187].
- Việc quy định và phân định thẩm quyền giữa Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính địa phương trong Dự thảo Hiến pháp chưa hợp lý có thể dẫn đến tình trạng thành lập, sáp nhập một cách dễ dãi và khó kiểm soát đối với các đơn vị hành chính ở địa phương đồng thời tạo gánh nặng công việc lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Vì vậy, đề nghị quy định toàn bộ thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính địa phương cho Quốc hội [188]. Một số ý kiến cho rằng quy định như Điều 79 Dự thảo sẽ tạo gánh nặng công việc rất lớn cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội[189] hoặc kiến nghị nên trao quyền này cho Chính phủ[190]. Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung các quy định Quốc hội có quyền thành lập, sáp nhập, giải thể đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt”[191].
- Về thẩm quyền phê chuẩn việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế và giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế của Quốc hội cần nghiên cứu điều chỉnh:
+ Tăng cường vai trò của Quốc hội đối với những vấn đề lớn, quan trọng của đất nước, tăng cường kiểm soát của Quốc hội đối với công tác ký kết, tham gia hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế (ví dụ như phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn, gia nhập hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tham gia tổ chức quốc tế phổ cập, tổ chức khu vực quan trọng, điều ước quốc tế đòi hỏi sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành luật, hoặc làm phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng)[192].
Cần quy định rõ các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ của Quốc hội, đó là các điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình, các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực, thương mại quốc tế[193].
+ Tránh việc sẽ tạo gánh nặng công việc quá mức cho Quốc hội trong điều kiện Quốc hội không làm việc thường xuyên và gây chậm trễ trong công tác đối ngoại của nhà nước[194]. Một số ý kiến kiến nghị quy định rõ quyền hạn giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội.
- Thẩm quyền của Quốc hội trong thành lập, giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập[195]. Cần nghiên cứu bổ sung quyền của Quốc hội thành lập Tòa án đặc biệt[196]. Có một số ý kiến không tán thành thành lập Hội đồng Hiến pháp[197].
2.4. Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội
- Cần minh định rõ vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Nhiều ý kiến đề nghị bỏ hoặc hạn chế[198] thẩm quyền ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội[199]; đề nghị thay từ “ra pháp lệnh” bằng từ “ban hành pháp lệnh”[200].
+ Đề nghị điều chỉnh lại mối quan hệ giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đặc biệt cân nhắc sửa đổi hoặc bỏ quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong hướng dẫn, giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân, bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh (hiện không phù hợp với chức năng của cơ quan này)[201], đề nghị chỉ giữ lại quyền hạn, nhiệm vụ của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc “giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân”, còn các nhiệm vụ, quyền hạn khác như “hướng dẫn hoạt động, bãi bỏ nghị quyết, giải tán Hội đồng nhân dân...” đề nghị giao cho Chính phủ thực hiện[202]. Chức năng giải thích Hiến pháp, luật nên trao cho Hội đồng Hiến pháp[203].
- Tổ chức của các cơ quan của Quốc hội về cơ bản được nhất trí cao tuy nhiên có ý kiến đề nghị bỏ quy định tại Điều 80 của Dự thảo[204] hoặc giữ nguyên như quy định của Điều 94 Hiến pháp hiện hành[205], vì Hội đồng dân tộc của Quốc hội cũng giống như các Ủy ban khác của Quốc hội nên không cần quy định thành điều riêng và nên đặt tên là Ủy ban Dân tộc (của Quốc hội)[206].
Cần làm rõ về trật tự hình thành và tiêu chuẩn thành viên của các cơ quan này trong Hiến pháp như đề nghị phê chuẩn các phó chủ tịch, thành viên của Hội đồng Dân tộc[207] và các Ủy ban của Quốc hội như “các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ nhiệm Ủy ban”[208]”. Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định hiện nay[209] đồng thời có ý kiến đề xuất ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội bầu các ủy viên của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội [210].
- Cần xác định rõ những vấn đề nào do Hiến pháp quy định, còn những vấn đề cụ thể khác do luật quy định (nên cân nhắc về mức độ cụ thể hóa trong các Điều từ 77 đến Điều 85)[211].
2.5. Về đại biểu Quốc hội
Các ý kiến đề nghị làm rõ và sâu sắc hơn vị trí pháp lý của đại biểu Quốc hội trong mối liên hệ với nhân dân và các cơ quan, tổ chức hữu quan[212] như: thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhân dân và cử tri, chịu sự giám sát của nhân dân và cử tri; trả lời yêu cầu và kiến nghị của nhân dân và cử tri[213]; theo dõi, đôn đốc cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại[214], tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo”[215].
Nhiều ý kiến đề nghị quy định rõ về tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách[216] quy định về nguyên tắc kiêm nhiệm[217], số đại biểu chuyên trách không dưới 50% số đại biểu Quốc hội [218] hoặc “Số thành viên Chính phủ chỉ được chiếm tối đa 1/3 trong tổng số thành viên của Quốc hội”[219]. Đề nghị bổ sung một khoản vào Điều 84: “Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định[220] hoặc theo luật định”[221].
Có ý kiến đề nghị cần đưa tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách vào Dự thảo Hiến pháp, Đề nghị quy định đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách[222] nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp và độc lập của cơ quan này[223] như: “Đại biểu quốc hội phải là chuyên trách, không kiêm nhiệm, khi trúng cử đại biểu Quốc hội thì không giữ chức vụ trong chính quyền”[224]. Với vai trò ngày càng được nâng cao, nhiệm vụ ngày càng nhiều như hiện nay đòi hỏi các đại biểu Quốc Hội phải hoạt động chuyên trách, không được kiêm nhiệm những chức danh của cơ quan hành pháp, tư pháp”[225] mới có thể hoàn thành trách nhiệm của mình[226], khi hoạt động kiêm nhiệm thì vai trò giám sát sẽ không cao vì vừa đá bóng, vừa thổi còi[227].
2.6. Kỹ thuật lập hiến
Nhiều ý kiến đóng góp chi tiết vào kỹ thuật lập hiến, trình bày và cơ cấu các điều khoản của Chương được tổng hợp chi tiết trong Phụ lục của Báo cáo.
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-5).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 725.640 lượt ý kiến
Tổng số có 725.640 lượt ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức và cá nhân vào Chương VI, trong đó: các ý kiến góp ý vào Điều 91 (95.750 ý kiến) Điều 92 (89.965 ý kiến); Điều 93 (121.081 ý kiến), Điều 94 (75.705 ý kiến), Điều 95 (86.727 ý kiến), Điều 96 (79.565 ý kiến), Điều 97 (83.798 ý kiến) và Điều 98 (93.049 ý kiến).
1.1. Số ý kiến tán thành tên, nội dung Chương: Đa số các ý kiến đều tán thành tên Chương.
1.2. Số ý kiến không tán thành tên, nội dung Chương:
Có ý kiến cho rằng chế định về Chủ tịch nước không nên thay đổi để không phải sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành[228].
1.3. Số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương
- Đề nghị bổ sung quy định về Hội đồng tư pháp quốc gia để giúp Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến cơ quan tư pháp, điều hòa, phối hợp hoạt động tư pháp, hành pháp[229].
- Đề nghị bổ sung quyền của Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề nghị của Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật chưa đảm bảo tính khả thi[230].
- Đề nghị bổ sung quy định: Chủ tịch nước, trong thời gian Quốc hội không họp, theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ và phê chuẩn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, có quyền tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm người giữ quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cho đến khi Quốc hội họp[231]...
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
- Về địa vị pháp lý của Chủ tịch nước (Điều 91) (95.750 ý kiến)
Đề nghị quy định “Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội, đối ngoại”[232]; là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh”[233]; đề nghị quy định Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam[234], quy định rõ vai trò của Tổng bí thư Đảng và quan hệ phối hợp công việc giữa Chủ tịch nước và Tổng Bí thư[235].
- Về việc bầu chức danh Chủ tịch nước, trách nhiệm, nhiệm kỳ của Chủ tịch nước (Điều 92) (89.965 ý kiến)
+ Đề nghị quy định: “Chủ tịch nước do nhân dân bầu trong số đại biểu Quốc hội”[236]. Quốc hội giới thiệu danh sách 3 ứng cử viên để các đại biểu Quốc hội tiến hành bầu 01 ứng viên có số phiếu tín nhiệm cao nhất[237]. Chủ tịch nước do nhân dân bầu trực tiếp, trong số những Uỷ viên Bộ Chính trị, có nhiệm kỳ 05 năm, có toàn quyền quản lý nhà nước và đất nước[238]. Chủ tịch nước do cử tri cả nước bầu ra thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu[239].
+ Đề nghị quy định rõ Chủ tịch nước đảm nhiệm không quá hai nhiệm kỳ liên tục theo nhiệm kỳ của Quốc hội[240].
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 93) (121.081 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung quy định “Trong khi Quốc hội chưa có quyết định thì Chủ tịch nước chưa ký Lệnh công bố Pháp lệnh đó”; bổ sung quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề xuất của Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật đã thông qua[241]. Chủ tịch nước có quyền phủ quyết pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội[242].
+ Chủ tịch nước có quyền triệu tập phiên họp Chính phủ, yêu cầu Quốc hội thảo luận hoặc xem xét một dự luật khi ban hành[243].
+ Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định "quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ nếu văn bản đó không phù hợp với Hiến pháp và pháp luật"[244]; quyền bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành trái với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước[245].
+ Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề xuất của Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật đã thông qua khi có dấu hiệu vi hiến; hủy bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nếu văn bản đó trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội[246].
+ Chủ tịch nước có quyền “đề cử” và với sự phê chuẩn của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;[247] Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với các Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, còn lại các chức danh Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán của Tòa án nhân dân từ cấp tỉnh trở xuống nên giao cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao[248].
+ Đề nghị quy định Chủ tịch nước là người trực tiếp quyết định và công bố quyết định về tình trạng chiến tranh; ra lệnh tổng động viên và động viên cục bộ; tình trạng khẩn cấp; là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân[249].
+ Đề nghị bổ sung thẩm quyền “Cử, triệu hồi đại sứ…; uỷ quyền đàm phán ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác cho các cơ quan có liên quan…”[250]; quy định quyền “quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế”[251]; đề nghị sửa đổi đoạn “đàm phán, ký kết điều ước quốc tế” thành “quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế”; cần sửa cụm từ “đàm phán, ký kết” thành “đàm phán, ký” ở khoản 6 Điều 93[252]. Bổ sung quyền của Chủ tịch nước: “Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn, gia nhập hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về hòa bình, an ninh, biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tham gia tổ chức quốc tế phổ cập, tổ chức khu vực quan trọng, điều ước quốc tế đòi hỏi sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành luật, hoặc làm phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng”[253]; Đề xuất giảm thủ tục hành chính quy định Chủ tịch nước "trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế", đề nghị bổ sung làm rõ thẩm quyền Chủ tịch nước đối với điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước mà Chủ tịch nước không trực tiếp ký[254].
+ Về quyền của Chủ tịch nước quyết định phong hàm, cấp đại sứ [255]; Phong hàm, cấp sĩ quan, cấp tướng; bổ nhiệm... cho lực lượng (công an nhân dân) vũ trang nhân dân[256].
+ Đề nghị quy định quyền “ân xá” của Chủ tịch nước[257]; quyền phủ quyết các bản án của Tòa án nhân dân tối cao đã có hiệu lực”[258].
- Về một số quy định khác liên quan đến Hội đồng quốc phòng - an ninh; sự tham gia của Chủ tịch nước trong phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, về quyền ban hành văn bản pháp luật của Chủ tịch nước, về địa vị pháp lý của Phó Chủ tịch nước (Điều 94 - Điều 98) (418.844 ý kiến).
+ Về Hội đồng Quốc phòng - an ninh (Điều 94) (75.705 ý kiến)
Quy định cụ thể hơn quyền hạn của Hội đồng Quốc phòng và an ninh; quy định rõ cơ cấu của Hội đồng Quốc phòng và an ninh[259]; quy định quyền quyết định các biện pháp nhằm bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội cả khi có chiến tranh và không có chiến tranh[260]; đề nghị đổi tên Hội đồng Quốc phòng và an ninh thành Hội đồng An ninh quốc gia[261]; Đề nghị chuyển quy định về Hội đồng Quốc phòng và An ninh về Chương X cùng với Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước[262].
+ Về việc tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ (Điều 95) (86.727 ý kiến)
Đề nghị bổ sung các quy định: Chủ tịch nước có quyền yêu cầu và chủ trì họp Chính phủ bàn về các vấn đề của đất nước”[263]; có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ; quyền triệu tập và chủ trì phiên họp của Chính phủ để bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”[264]; quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về nhưng vấn đề bức xúc, hệ trọng của đất nước[265].
- Về thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật của Chủ tịch nước (Điều 96) (79.565 ý kiến)
+ Đề nghị quy định "Chủ tịch nước ban hành sắc lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định"[266]. Đề nghị bổ sung thêm cụm từ “theo quy định của pháp luật” tại Điều 96 “Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật”[267].
- Về chức danh Phó Chủ tịch nước (Điều 97) (83.798 ý kiến) và (Điều 98) (93.049 ý kiến)
+ Đề nghị quy định “Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch nước tạm giữ quyền Chủ tịch nước"[268]; nếu quy định “Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước” thì nên bỏ các Điều 97 và Điều 98 đề cập đến Phó Chủ tịch nước.[269]
+ Đề nghị quy định thời gian cụ thể đối với quy định: “Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch giữ quyền Chủ tịch”. Quy định rõ khi Chủ tịch nước không làm việc được thời gian dài là bao nhiêu lâu[270].
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-6).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 552.837 ý kiến
- Tổng số có 552.837 ý kiến, trong đó 64.243 ý kiến của cơ quan, tổ chức và 488.594 ý kiến cá nhân.
- Các ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung tập trung vào Điều 99 (2.473 ý kiến); Điều 101 (1.419 ý kiến), Điều 103 (2.143 ý kiến), Điều 104 (1.274 ý kiến).
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
2.1. Về Chính phủ
2.1.1. Về vị trí của Chính phủ (Điều 99 Dự thảo): 2.473 ý kiến
Đề nghị bỏ đoạn “là cơ quan chấp hành của Quốc hội”[271]: 2.384 ý kiến.
Lý do: Chính phủ là cơ quan hành pháp nên Chính phủ đương nhiên triển khai thực hiện các Nghị quyết, luật của Quốc hội hay nói cách khác hành pháp đã bao gồm chấp hành. Hơn nữa thuật ngữ “chấp hành” dễ gây hiểu nhầm Chính phủ là cấp dưới của Quốc hội trái với nguyên tắc phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước[272]. Theo đó, đề nghị quy định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp” nhằm thể hiện đúng vị trí, vai trò, quyền hạn của Chính phủ và bảo đảm phát huy quyền chủ động, sáng tạo của cơ quan hành pháp, bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát đối với Quốc hội trong thực thi quyền lập pháp.
2.1.2. Về thành viên Chính phủ
- Về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ: Đề nghị quy định cụ thể số lượng thành viên của Chính phủ[273] và quy định rõ “Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội quyết định và Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Quốc hội về sự điều hành, cơ cấu thành viên trong Chính phủ”.[274]
- Đề nghị bổ sung làm rõ nội dung nào báo cáo trước Quốc hội, nội dung nào báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, nội dung nào báo cáo trước Chủ tịch nước.[275]
- Đề nghị phân định rõ trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong cơ chế hoạt động tập thể của Chính phủ và phát huy vai trò của cá nhân.[276]
Trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ đối với hoạt động của Chính phủ với tư cách là người đứng đầu Chính phủ; trách nhiệm của cá nhân Thủ tướng về những nhiệm vụ được giao và cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.[277]
Trách nhiệm của Phó Thủ tướng Chính phủ theo hai tư cách: (1) là thành viên của Chính phủ. Theo tư cách này, Phó Thủ tướng Chính phủ không phải là người giúp việc của Thủ tướng Chính phủ. Phó Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chính phủ về những mảng công việc mà Chính phủ giao cho giải quyết; (2) giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ tướng Chính phủ theo phân công của Thủ tướng Chính phủ. Khi thực hiện những nhiệm vụ này, Phó Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ.[278]
- Trách nhiệm của Bộ trưởng trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công.[279]
- Đề nghị quy định cụ thể Chính phủ có mấy Phó Thủ tướng Chính phủ và phụ trách các lĩnh vực nào[280], đồng thời bổ sung quy định về Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ nhằm xác định rõ trách nhiệm Hiến định của Phó Thủ tướng Chính phủ.[281]
2.1.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ (Điều 101): 1.419 ý kiến.
- Đề nghị không quy định liệt kê cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn Chính phủ mà nên quy định khái quát đầy đủ theo hai nhóm: nhóm nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện chức năng hành pháp và nhóm nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện chức năng cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, vì nếu Hiến pháp liệt kê chi tiết, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ như Dự thảo thì không tạo được sự chủ động, linh hoạt trong việc điều hành nền hành chính trong điều kiện kinh tế thị trường của Chính phủ; nên để các luật liệt kê cụ thể để nếu cần thì sửa đổi, bổ sung dễ dàng hơn.[282]
- Đề nghị nghiên cứu quy định về chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ như sau: “Chính phủ xây dựng và thực hiện chính sách quốc gia; tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật; quản lý nhà nước các lĩnh vực của đời sống xã hội và tổ chức cung cấp dịch vụ công cơ bản, thiết yếu”, bởi quy định chức năng như vậy là phù hợp với vị trí, tính chất của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất và quy định này phản ánh sự thay đổi về chất, chuyển từ quản lý bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý nhà nước bằng pháp luật của Chính phủ đồng thời, đây là cơ sở và căn cứ để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong Luật Tổ chức Chính phủ.[283]
- Về mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan khác và chính quyền địa phương:
+ Đề nghị nêu rõ hơn nữa mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội như phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ và Quốc hội trong việc quyết định các chính sách quan trọng của quốc gia; Chính phủ có quyền đề nghị Quốc hội chưa thông qua một dự luật nếu chưa bảo đảm tính khả thi, vì theo nguyên tắc quyền lực nhà nước, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước thì Chính phủ (quyền hành pháp) có quyền kiểm soát Quốc hội (quyền lập pháp).[284]
+ Đề nghị phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước trong quản lý thống nhất về công tác đối ngoại và việc ký kết, đàm phán các điều ước quốc tế.[285]
+ Đề nghị xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ và Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với chính quyền địa phương trong việc hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của Hội đồng nhân dân; đình chỉ, bãi bỏ văn bản của Hội đồng nhân dân trái với Hiến pháp và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, giải tán Hội đồng nhân dân khi vi phạm nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân địa phương, để bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính.[286]
2.1.4. Về trách nhiệm của Chính phủ
- Đề nghị làm rõ trách nhiệm báo cáo công tác của Chính phủ trước Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ trong trường hợp Quốc hội không họp, đề nghị làm rõ trách nhiệm của Chính phủ trước nhân dân mà không chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội.[287]
- Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước và chỉnh sửa lại theo hướng “Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chủ tịch nước và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và toàn thể nhân dân” nhằm bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với Điều 93 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
2.2. Về Thủ tướng Chính phủ
2.2.1. Về vị trí, vai trò của Thủ tướng Chính phủ
Đề nghị xác định rõ “Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp và đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương”[288]. Dự thảo chưa thể hiện rõ thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc định hướng, điều hành hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, đảm bảo tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia.[289]
2.2.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ
- Đề nghị thiết kế lại nhiệm vụ quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ theo hướng bảo đảm nhóm nhiệm vụ là người đứng đầu cơ quan hành pháp và nhóm nhiệm vụ là người đứng đầu hệ thống hành chính, đồng thời bổ sung thêm một số thẩm quyền riêng của Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời ứng phó với các tình huống phát sinh mới.[290]
- Đề nghị bổ sung quy định về thẩm quyền của Thủ tướng trong việc quyết định, chỉ đạo việc đàm phán ký kết điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.[291]
- Dự thảo còn quy định chưa rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ. Do vậy, một mặt sẽ không phát huy được trách nhiệm cá nhân, mặt khác khó phân biệt được trách nhiệm của tập thể (Chính phủ) và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng trong việc điều hành nền hành chính nhà nước.[292] Đề nghị nên tăng quyền hạn cho người đứng đầu hệ thống hành chính, trong đó cần có đầy đủ thực quyền trong việc bổ nhiệm, điều động, cách chức người đứng đầu cấp dưới, kể cả đơn vị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trong trường hợp Quốc hội không họp có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước quyết định đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; đề nghị bổ nhiệm giữ quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Vì về nguyên tắc, trong một nhà nước đơn nhất, hệ thống hành chính phải thông suốt, phải có tính trật tự, thứ bậc để nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả quản lý, hạn chế tình trạng cục bộ địa phương.[293]
2.2.3. Về trách nhiệm của Thủ tướng
- Đề nghị bổ sung thêm trách nhiệm báo cáo công tác của Thủ tướng Chính phủ trước nhân dân[294].
- Đề nghị sửa đổi bổ sung theo hướng: Thủ tướng Chính phủ do nhân dân bầu (105 kiến).[295]
2.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng
- Đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa Bộ trưởng, thành viên Chính phủ với chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo, điều hành về ngành, lĩnh vực được phân công.[296]
- Đề nghị quy định cụ thể phương thức báo cáo trước nhân dân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ tương tự như phương thức báo cáo của Thủ tướng Chính phủ quy định tại khoản 5 Điều 103, tức là cần quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thực hiện báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.[297]
2.4. Đề nghị bổ sung thêm quy định về vai trò chủ động của Mặt trận, Đoàn thể chính trị xã hội trung ương đề xuất được dự họp một số phiên họp của Chính phủ để phản biện ý kiến[298]. Đồng thời đề nghị bổ sung Điều 106 “một số các tổ chức xã hội đặc thù khác” được tham dự phiên họp của Chính phủ, lý do: vì các tổ chức này cũng có những quyền lợi và nghĩa vụ trong xã hội.[299]
3. Góp ý về các điều khoản cụ thể (xem Phụ lục B-7).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 1.272.267 ý kiến
1.1. Tổng số ý kiến tán thành: 1.226.338 ý kiến
Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý: Điều 107, 108, 109, 110, 111 và Điều 112.
1.2. Số ý kiến đề nghị sửa đổi tên, nội dung Chương
- Đề nghị đổi tên chương VIII là “Tòa án và Viện Công tố” (lý do: theo tinh thần Nghị quyết số 49); tên là “Hệ thống tư pháp” (lý do: chuyển Viện kiểm sát vào Chương X); tên là: Cơ quan tư pháp quốc gia (có 04 bộ/ngành/địa phương có ý kiến, với 07 ý kiến)[300].
- Đề nghị nên bỏ từ “nhân dân” sửa tên chương thành “Tòa án và Viện kiểm sát” vì trong hệ thống Tòa án và Viện kiểm sát ngoài Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân thì còn Tòa án Quân sự và Viện kiểm sát Quân sự, nên nếu quy định tên chương như trong dự thảo là chưa bao hàm hết[301].
- Đề nghị tách các quy định về Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân thành các chương khác nhau trong Hiến pháp. Vì Tòa án là cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố và kiểm sát tư pháp, đây là thiết chế độc lập và không phải là cơ quan tư pháp[302] (có 26 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến: với 9.212 ý kiến).
1.3. Số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương
- Đề nghị bổ sung quy định về Toà bảo hiến (không nằm trong hệ thống Tòa án hiện nay) để xét xử những hành vi vi hiến và vi phạm pháp luật của cơ quan hành chính.
Lý do: Tòa Hiến pháp với vị trí độc lập so với các cơ quan hành pháp, tư pháp; với nhiệm vụ bảo vệ việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp, bảo đảm mọi quy định của luật, văn bản dưới luật mà vi phạm quyền lập hiến, trái với quy định của Hiến pháp phải được đưa ra xét xử tại Tòa án Hiến pháp sẽ đảm bảo tính nghiêm minh của đạo luật gốc[303] (có 4 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến: với 4 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung vào Chương VIII một điều khoản riêng quy định vị trí vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội thẩm nhân dân để thể hiện việc nhân dân tham gia vào việc thực hiện quyền lực nhà nước (quyền tư pháp)[304].
- Nên bổ sung một Điều về thẩm phán - nhân vật trung tâm của quyền tư pháp, của cải cách tư pháp (03/9 ý kiến)[305]:
Điều ... (bổ sung mới)
1. Thẩm phán là công dân Việt Nam từ đủ 25 tuổi trở lên, có bằng đại học luật, làm việc theo chuyên môn luật ít nhất 5 năm.
Luật có thể quy định những yêu cầu khác đối với Thẩm phán.
2. Thẩm phán không thể bị bãi miễn.
3. Quyền hạn của Thẩm phán chỉ có thể bị chấm dứt hoặc đình chỉ theo trình tự và điều kiện do Luật định.
- Đề nghị giữ lại nội dung “Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” (theo Điều 132 của Hiến pháp 1992)[306] (có 3 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến: với 3 ý kiến).
- Bổ sung thêm một khoản như sau: "Hoạt động của liên đoàn luật sư Việt Nam có nhiệm vụ góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” [307] (có 1 tỉnh có ý kiến: với 321 ý kiến).
- Đề nghị giữ lại Điều 133 của Hiến pháp năm 1992 là: “Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án” thành Khoản 8 Điều 108. Lý do: Bởi vì các dân tộc đều bình đẳng và có quyền lợi trước pháp luật[308] (có 13 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến: với 226 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung thêm khoản 8 Điều 108 như sau: “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải đảm bảo sự đúng đắn của bản án và chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản án do mình quyết định”[309].
- Đề nghị bổ sung Điều 111 nội dung: “Mọi hành vi xét xử trái pháp luật, xét xử oan sai phải bị xử lý nghiêm minh”[310] hoặc “Hội thẩm, thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về xiệc xét xử oan sai cho bị cáo”[311].
- Đề nghị bổ sung vào cuối Điều 111 quy định “Các cơ quan thi hành án có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Mọi hành vi xét xử trái pháp luật, xét xử oan sai phải xử lý nghiêm minh”. Lý do: Đảm bảo việc mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được thi hành[312] (có 4 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến: với 04 ý kiến).
- Đề nghị thể hiện nguyên tắc tính độc lập của Viện kiểm sát như sau: “Trong hoạt động của mình Viện kiểm sát nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm mọi hành động can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân” và khẳng định một nguyên tắc quan trọng như “Các quyết định của Viện kiểm sát nhân dân phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành” [313] (có 3 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến: với 03 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung một khoản vào Điều 112 quy định: “Viện Kiểm sát nhân dân làm trái luật, vi phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích công dân thì người đứng đầu bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn phải khắc phục hậu quả” [314].
- Đề nghị giữ nguyên khoản 2 Điều 138 Hiến pháp năm 1992 quy định về việc thành lập Ủy ban kiểm sát. Do đó, đề nghị bổ sung nội dung mới vào thành khoản 4 Điều 112 quy định về việc thành lập Ủy ban kiểm sát ở Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Vì thực tế Ủy ban kiểm sát đã giữ vị trí và vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, các thành viên Ủy ban kiểm sát đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính dân chủ, trí tuệ tập thể, đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng mà phải thảo luận, quyết định theo đa số. Đây cũng là cơ chế thực hiện kết hợp nguyên tắc Thủ trưởng chế với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện Kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng[315] (có 6 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến: với 06 ý kiến).
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
2.1. Về tên gọi và chức năng của Tòa án
- Qua tổng kết, có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 107 theo hướng quy định rõ các Tòa án nhân dân gồm những tòa án nào? Nếu theo phương án thành lập tòa án khu vực theo hướng cải cách tư pháp hiện nay thì cũng quy định rõ. Còn nếu hệ thống tòa án nhân dân như hiện nay (gồm cả các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự thì nên quy định rõ như sau: "Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác theo luật định".[316] (27 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến với 32 ý kiến).
- Nhiều ý kiến đề nghị khoản 3 Điều 109 đề nghị sửa đổi như sau: “Toà án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiến xét xử, giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và phát triển án lệ” [317] (có 38 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 617 ý kiến). Lý do:
+ Về phát triển án lệ: việc bổ sung này phù hợp với Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển án lệ trong công tác xét xử. Mặt khác, chức năng này gắn liền với nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xét xử. Vì qua việc tổng kết công tác xét xử, TANDTC có thể tổng kết, phát triển án lệ giúp các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.
+ Về giải thích pháp luật: Việc nghiên cứu, áp dụng pháp luật của Tòa án trong quá trình xét xử đòi hỏi phải rất sâu sắc, toàn diện, khách quan và chính xác. Do vậy, việc giao chức năng này cho Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn hợp lý.
2.2. Về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án
- Qua tổng kết có nhiều ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “trừ trường hợp do luật định” tại Khoản 4 Điều 108. Vì quy định như vậy không minh bạch, mặt khác theo mô hình tố tụng nào, bản chất nhà nước nào chăng nữa thì nguyên tắc xét xử theo tập thể và quyết định theo đa số đều là nguyên tắc phổ biến[318] (có 11 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến).
- Có nhiều ý kiến đề nghị sửa Khoản 5 Điều 108 như sau: "Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa được bảo đảm. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa"[319] để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp (có 15 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 32 ý kiến).
- Có nhiều ý kiến đề nghị chuyển quy định về quyền bào chữa tại khoản 7 Điều 108 sang thành khoản 5 Điều 32 của Chương II về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Vì như vậy sẽ phù hợp hơn vì quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa là một trong những quyền và tự do cơ bản của công dân[320] (có 12 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 1.060 ý kiến).
2.3. Về chức năng và vị trí của Viện kiểm sát nhân dân
Về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, có 3 luồng ý kiến chính sau:
Thứ nhất, Đề nghị quy định rõ Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng công tố mà không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp hoặc Viện kiểm sát nhân dân nên chuyển thành Viện công tố và chỉ thực hành quyền công tố. Vì Viện Kiểm sát nhân dân vừa thực hiện chức năng công tố vừa thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là chưa phù hợp với các chủ trương cải cách tư pháp lâu dài, ảnh hưởng không nhỏ đến nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án. Sự ảnh hưởng của quyền năng kiểm sát dẫn đến bảo thủ quyền năng công tố làm cho quyền năng xét xử, quyền năng điều tra của cơ quan điều tra dễ bị ảnh hưởng. Mặt khác, trong quan hệ tố tụng Viện kiểm sát vừa là một bên tranh tụng vừa là cơ quan kiểm sát hoạt động xét xử là không khách quan. Hơn nữa, hiện nay hoạt động của các cơ quan tư pháp đã có thanh tra chuyên ngành và có cơ chế giám sát trong nội bộ ngành. Do đó, có thêm sự kiểm sát của VKSND sẽ dẫn đến sự chồng chéo, lãng phí, không hiệu quả. Thực tế trong thời gian qua cho thấy khi có tình trạng vi phạm xảy ra, thì việc xác định trách nhiệm của cơ quan kiểm sát rất khó. Do vậy, chức năng “kiểm soát hoạt động tư pháp” nên giao cho một cơ quan độc lập khác thuộc Quốc Hội [321] (có 25 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 464 ý kiến).
Thứ hai, đề nghị bổ sung quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và những việc khác theo quy định của pháp luật” [322]. Lý do: ngoài chức năng công tố và kiểm sát tư pháp thì Viện kiểm sát còn thực hiện các công việc khác như: dẫn độ tội phạm và thực hiện tương trợ tư pháp, chuyển giao thi hành án với nước ngoài, thống kê tư pháp, điều tra tội phạm.. (có 25 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 453 ý kiến).
Thứ ba, đề nghị khôi phục lại chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) như trước đây. Vì Viện kiểm sát là cơ quan trực thuộc Quốc hội, độc lập với hệ thống cơ quan hành pháp mới đảm bảo việc giám sát các cơ quan hành pháp một cách khách quan. Thực tiễn từ khi thành lập đến 2001, Viện kiểm sát đã làm rất tốt chức năng này[323] (có 12 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 12 ý kiến).
2.4. Về việc bầu Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, nhiệm kỳ Thẩm phán
- Nhiều ý kiến đề nghị khoản 1 Điều 110 cần bổ sung cụm từ “trong số đại biểu Quốc hội” vào cuối câu “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu” như sau: “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định”. Lý do: Vì chức danh này phải là đại biểu Quốc hội[324] (có 16 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 16 ý kiến).
Tương tự cũng có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung sửa khoản 1 Điều 113 quy định rõ: “Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội” [325] (có 29 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 399 ý kiến)
- Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 3 Điều 110 quy định “Việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp không có thời hạn” (tức bổ nhiệm suốt đời) hoặc nhiệm kỳ từ 10 đến 15 năm. Lý do: bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm pháp[326] (có 16 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 16 ý kiến). Lý do: quy định như vậy sẽ phù hợp với nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
2.5. Về kỹ thuật lập pháp
- Nhiều ý kiến đề nghị sửa Điều 111: thay cụm từ “hữu quan” bằng cụm từ “có liên quan”, thành: “Bản án, quyết định của Toà án...; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[327]. Lý do: thay từ hán việt bằng từ thuần việt (có 11 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 11 ý kiến).
- Nhiều ý kiến đề nghị Điều 111 viết ngắn gọn lại thành: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành”[328] (có 11 bộ/ngành/tỉnh có ý kiến, với 11 ý kiến).
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-8).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 1.021.819 lượt ý kiến.
Các ý kiến tập trung chủ yếu vào Điều 115 và Điều 116, nhất là các vấn đề sau: (1) cách phân định đơn vị hành chính lãnh thổ; (2) quy định nguyên tắc thành lập mới, chia tách đơn vị hành chính lãnh thổ; (3) giải mã khái niệm chính quyền địa phương và mô hình chính quyền địa phương; (4) việc quy định nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương và cơ chế kiểm soát của trung ương với chính quyền địa phương; (5) việc xác định tính chất của Hội đồng nhân dân và (6) việc đổi tên và xác định nguyên tắc vận hành của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Nhiều bộ, ngành, địa phương bày tỏ tán thành cao với tên chương[329]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị đổi tên Chương thành “Chính quyền địa phương các cấp” cho dễ hiểu hoặc chặt chẽ hơn[330] hoặc thành “Chính quyền địa phương: Tỉnh, huyện, xã”[331] hoặc giữ nguyên tên chương như Hiến pháp hiện hành.[332]
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
- Đề nghị quy định nguyên tắc, điều kiện, tiêu chí, thẩm quyền, thủ tục chia tách, sáp nhập các đơn vị hành chính, khắc phục sự phát triển manh mún, khép kín, thiếu tính chiến lược, tính bền vững, khắc phục tình trạng chia tách đơn vị hành chính cấp huyện và xã tràn lan như thời gian qua.[333]
- Đề nghị làm rõ khái niệm “chính quyền địa phương” (gồm những cơ quan nào). Dự thảo nên quy định chính quyền địa phương có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính. Chính quyền địa phương không bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát ở địa phương[334]. Trong khi đó, có ý kiến đề nghị quy định chính quyền địa phương có cả Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và huyện.[335]
- Đề nghị bổ sung quy định việc bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, quy định rõ nguyên tắc phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương[336]. Đồng thời bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về kiểm tra, giám sát của chính quyền trung ương đối với chính quyền địa phương; giám sát của cử tri, của cơ quan tư pháp đối với chính quyền.[337]
- Đề nghị làm rõ mô hình tổ chức của chính quyền địa phương trong Hiến pháp, phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn[338]. Có ý kiến đề nghị quy định như mô hình Nghị quyết 26 năm 2008 của Quốc hội[339]. Trong khi đó, có ý kiến đề nghị giữ nguyên mô hình chính quyền địa phương của Hiến pháp hiện hành (mọi đơn vị hành chính lãnh thổ đều phải tổ chức đủ cả Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân).[340]
- Đề nghị đổi tên Uỷ ban nhân dân thành Uỷ ban hành chính[341] hoặc cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương[342] cho phù hợp với tính chất của cơ quan này và cũng là thuật ngữ đã được sử dụng trong Hiến pháp năm 1946 và 1959[343]. Đề nghị chuyển cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hoạt động theo chế độ thủ trưởng hoặc tăng thẩm quyền người đứng đầu Uỷ ban hành chính.[344]
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến của bộ, ngành, địa phương cho rằng quy định về các đơn vị, các cấp hành chính ở địa phương như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là cứng nhắc và máy móc. Đề nghị cần để mở các quy định nhằm tránh gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế.[345] Đề nghị chỉ ghi khái quát các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh do luật định[346], chấp nhận quan niệm trong thành phố trực thuộc trung ương có thành phố.[347] Đề nghị bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (ví dụ như trường hợp Phú Quốc hiện nay).[348]
Nhiều ý kiến của bộ, ngành, địa phương đề nghị bỏ quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.[349] Quy định hiện hành đã tạo ra sự nhận thức không thống nhất về địa vị pháp lý và mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân với các cơ quan nhà nước khác, làm cho khó xác định tính chất và vị trí của Hội đồng nhân dân. Trong khi đó, có ý kiến đề nghị tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương[350]. Đề nghị bổ sung quyền quyết định ngân sách địa phương cho Hội đồng nhân dân.[351]
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-9).
1. Tổng số ý kiến góp ý: 845.371 lượt ý kiến.
Các ý kiến tập trung chủ yếu vào tên chương và các quy định liên quan tới Hội đồng hiến pháp (Điều 120).
Một số bộ, ngành, địa phương bày tỏ tán thành toàn bộ với tên chương và các nội dung trong dự thảo.[352] Tuy nhiên, nhiều ý kiến ở các bộ, ngành, địa phương còn chưa tán thành hoàn toàn với tên chương và các nội dung cụ thể trong Chương. Có ý kiến đề nghị đổi tên chương thành “Các cơ quan thuộc Quốc hội” hoặc “Các cơ quan do Quốc hội thành lập”[353]. Có ý kiến đề nghị bỏ chương X, gộp các điều tại chương này vào chương V về Quốc hội, do các cơ quan này thuộc Quốc hội[354]. Có ý kiến đề nghị chuyển thành một chương độc lập sau chương quy định về Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.[355]
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
Nhiều ý kiến ở các bộ, ngành, địa phương bày tỏ tán đồng cao với việc thành lập Hội đồng Hiến pháp.[356] Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng vị thế và thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp còn rất hạn chế và đề nghị củng cố thêm vị thế và thẩm quyền của cơ quan này như:[357] Phải đảm bảo tính chuyên trách, độc lập[358] và bổ sung chức năng phán quyết;[359] bổ sung quyền áp dụng các biện pháp chế tài[360] như đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc thi hành các văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, trái luật của người, cơ quan có thẩm quyền từ cấp Chủ tịch nước ban hành trở xuống; “sửa đổi, hủy bỏ đối với các văn bản quy phạm pháp luật”; buộc chủ thể có hành vi vi hiến phải sửa chữa, khắc phục hoặc bãi bỏ…
Một số ý kiến ở bộ, ngành, địa phương đề nghị thành lập Tòa án Hiến pháp (có tính độc lập và chuyên nghiệp, có chức năng phán quyết)[361] thay cho Hội đồng Hiến pháp để việc bảo vệ Hiến pháp được hiệu quả hơn và phù hợp với tinh thần của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Nhiều ý kiến ở bộ, ngành, địa phương đề nghị không thành lập Hội đồng hiến pháp[362] vì: vị thế và thẩm quyền của Hội đồng còn hạn chế; có ý kiến cho rằng, cơ chế hiện có đã đủ để bảo vệ hiến pháp; việc thành lập thiết chế này có thể tạo ra sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước.
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-10).
CHƯƠNG XI: HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
1. Tổng số ý kiến góp ý: 742.311 ý kiến
1.1. Tán thành với nội dung của Chương[363]: 69.213 ý kiến
1.2. Số ý kiến đề nghị sửa đổi tên Chương, nội dung Chương
Lý do: Đề nghị sửa tên của Chương thành “Hiệu lực của Hiến pháp, việc ban hành Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp”. Lý do: Vì trong nội dung của Chương có đề cập đến việc “Làm Hiến pháp”.[364]
Đề nghị sửa tiêu đề Chương thành “Hiệu lực của Hiến pháp và việc làm, sửa đổi Hiến pháp” để phù hợp với nội dung của các Điều trong Chương.[365]
1.3. Số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương
- Cần bổ sung thêm vào chương hiệu lực một số điều quy định về quy trình sửa đổi Hiến pháp. Trong chương này cần phải quy định các vấn đề sau đây: Ai có quyền đưa sáng kiến sửa đổi Hiến pháp; thủ tục soạn thảo, thảo luận, lấy ý kiến nhân dân, phê chuẩn Hiến pháp như thế nào? Giới hạn sửa đổi Hiến pháp (những điều nào không được sửa đổi) và thủ tục công bố.[366]
- Cần bổ sung quy định về việc các cơ quan soạn thảo văn bản luật, dưới luật, hoặc các cơ quan khác hay cá nhân khi phát hiện điểm bất hợp lý, hoặc cần thiết phải bổ sung các quy định của Hiến pháp thì có quyền gửi ý kiến của mình đến cơ quan, người có quyền đề nghị làm, sửa đổi Hiến pháp. Trên cơ sở những ý kiến này cơ quan, người có quyền đề nghị làm, sửa đổi Hiến pháp quyết định việc có đề nghị hay không đề nghị làm, sửa đổi Hiến pháp.[367]
- Liên quan đến quyền lập hiến và sửa đổi Hiến pháp, Điều 124 cần phải bổ sung thêm quy định: “Công dân có quyền lập hiến, lập pháp thông qua cơ quan đại diện của mình là Quốc hội” và “Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải được trưng cầu dân ý. Sau khi trưng cầu dân ý, Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp”. Quy định như vậy để đảm bảo rằng mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và đảm bảo được nguyên tắc hiến định: lập hiến là quyền của dân, Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân dân thực hiện việc này. Quốc hội chỉ là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân, việc lập hiến phải được quy định là quyền của công dân.[368]
2. Những nội dung được nhiều ý kiến thảo luận, góp ý
2.1. Về đề nghị đổi tên Chương
Ý kiến góp ý cho rằng cần phải đổi tên Chương để phù hợp với nội dung của các Điều trong Chương, vì trong nội dung của Chương có đề cập đến việc “Làm Hiến pháp” và cần bổ sung thêm vào chương này một số điều quy định về quy trình sửa đổi Hiến pháp và đặt tên chương. Đề nghị sửa tên Chương cụ thể như sau:
- Hiệu lực của Hiến pháp, việc ban hành Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp;[369]
- Hiệu lực của Hiến pháp và việc làm, sửa đổi Hiến pháp;[370]
- Hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp;[371]
- Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.[372]
2.2. Về đề nghị xác định rõ thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp
Các ý kiến góp ý cho rằng cần phải xác định cụ thể và hợp lý thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp[373] để đảm bảo có đủ thời gian xem xét, sửa đổi các đạo luật khác có liên quan, cụ thể như sau:
- Hiến pháp nên quy định cụ thể có hiệu lực từ 2015;[374]
- Bản Hiến pháp này Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ…, nhất trí thông qua trong phiên họp ngày… tháng… năm 2013, vào lúc… giờ… phút”.[375]
2.3. Về chủ thể và thủ tục đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp
Các ý kiến góp ý cho rằng Quyền lập hiến là của nhân dân, bằng hiến pháp, nhân dân giao quyền cho nhà nước (trong đó có Quốc hội), Hiến pháp quy định việc thành lập bộ máy nhà nước. Do đó, Quốc hội không thực hiện quyền lập hiến mà nhân dân thực hiện quyền lập hiến, điều đó cũng thể hiện chủ quyền nhân dân, thể hiện bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân[376]. Do đó, việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp phải theo thủ tục đặc biệt.[377]
Cụ thể, đề nghị sửa đổi Điều 124 như sau: “Công dân có quyền lập hiến, lập pháp thông qua cơ quan đại diện của mình là Quốc hội”.[378]
2.4. Quy trình soạn thảo, sửa đổi Hiến pháp, về trưng cầu ý dân ý
Các ý kiến góp ý cho rằng cần quy định rõ trình tự, thủ tục thực hiện trưng cầu dân ý[379]. Đề nghị quy định các điều kiện, trường hợp trưng cầu ý dân (ví dụ như khi 2/3 người dân đồng ý) hoặc đề nghị quy định trước khi sửa đổi Hiến pháp phải trưng cầu ý kiến nhân dân,[380] chứ không phải lệ thuộc vào quyết định của Quốc hội như quy định tại Dự thảo.[381]
Để thể hiện đầy đủ chủ quyền nhân dân, đề nghị quy định theo hướng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua với đa số tuyệt đối thì phải được trưng cầu ý dân trước khi có hiệu lực.[382]
Đề nghị sửa đổi khoản 4 Điều 124 quy định “Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định” thành “Hiến pháp phải được trưng cầu ý dân”[383] hoặc “Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải được trưng cầu dân ý”.
2.5. Về xử lý hành vi vi phạm Hiến pháp
Dự thảo có quy định “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”, tuy nhiên lại không quy định bị xử lý như thế nào[384], đề nghị thêm cụm từ “theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” vào cuối câu cho đầy đủ[385] hoặc viết lại là: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý theo Hiến pháp và pháp luật”[386].
Đề xuất cụ thể: trong Chương X, đề nghị thành lập Tòa án Hiến pháp.
3. Những ý kiến góp ý cụ thể (xem Phụ lục B-11).
III. TỔNG HỢP PHẦN ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CỦA CÁC BỘ, NGÀNH VÀ ĐỊA PHƯƠNG VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Nội dung của phần này được tổng hợp từ mục đề xuất, kiến nghị trong báo cáo của 13/30[387] Bộ, ngành và 39/63[388] tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, gồm các nội dung sau:
1. Về tên gọi, bố cục của Hiến pháp
Một số ý kiến đề xuất nên lấy tên gọi Hiến pháp là “Hiến Pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013”[389] vì bản Hiến pháp lần này đã sửa đổi một cách cơ bản nội dung của Hiến pháp năm 1992.
2. Về Lời nói đầu
Nhiều đề xuất, kiến nghị cho rằng, cần biên tập lại Lời nói đầu của Dự thảo sao cho cô động, súc tích hơn nhưng vẫn thể hiện được sự đầy đủ, bao quát của một bản Hiến pháp[390]
3. Về Chế độ chính trị
- Nhiều đề xuất cho rằng Hiến pháp cần phải thể hiện được nước ta là một nước độc lập, dân chủ (chuyển cụm từ “độc lập” lên trước từ “dân chủ” trong Điều 1)[391] và thể hiện được chủ quyền cả “trong lòng đất”.[392]
- Liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều ý kiến tập trung đề xuất Hiến pháp cần khẳng định Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội (bổ sung từ “duy nhất” tại Khoản 1 Điều 4).
- Về Quốc kỳ, Quốc ca của nước Cộng hòa xã hội chủ ngĩa Việt Nam, nhiều kiến nghị là cần quy định cụ thể về tỷ lệ kích thước của ngôi sao vàng năm cánh;[393] quy định về tác giả bài hát Quốc ca là nhạc sỹ Văn Cao.[394]
4. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
- Trong Chương này, nhiều ý kiến đề xuất làm rõ nội hàm “quyền sống” được quy định tại Điều 21, nhất là khi nhà nước ta vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội phạm rất nghiêm trọng.[395]
- Liên quan đến quyền được xét xử trong trường hợp phạm tội, Hiến pháp cần sửa đổi để thể hiện rõ quy định không ai bị kết án hai lần vì cùng một hành vi phạm tội (Điều 32).[396]
- Quyền kết hôn và ly hôn (Điều 39) nên để luật quy định.
- Về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân (Điều 42), rất nhiều đề xuất cho răng cần giữ nguyên nội dung này như Hiến pháp năm 1992, đặc biệt là giữ quy định bậc học tiểu học là miễn phí.
5. Về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
- Nhiều bộ, ngành và địa phương kiến nghị Hiến pháp nước ta cần thể hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế (Điều 54).[397]
- Các đề xuất cũng tập trung nhiều vào vấn đề thu hồi đất cho các “dự án phát triển kinh tế - xã hội” (Điều 58). Nhiều ý kiến cho răng, nên bỏ quy định thu hồi đất cho các “dự án phát triển kinh tế - xã hội”.[398]
6. Về Quốc hội
Trong các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhiều kiến nghị liên quan đến chức năng lập pháp, cần thay cụm từ"làm" bằng cụm từ "xây dựng" tại Điều 75[399]; thay cụm từ “ra pháp lệnh” thành “ban hành pháp lệnh”tại Điều 79.[400]
7. Về Chủ tịch nước
Đề xuất, kiến nghị tập trung vào vấn đề cần nghiên cứu bổ sung các quy định để tăng thêm quyền hạn cho Chủ tịch nước, khẳng định vị trí Nguyên thủ quốc gia[401], như quyền tự mình hoặc theo đề xuất của Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật đã thông qua, quyền bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật, kiến nghị thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia do Chủ tịch Nước là Chủ tịch Hội đồng...
8. Về Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng
- Rất nhiều ý kiến đề xuất, kiến nghị liên quan đến vị trí, chức năng của Chính phủ, trong đó đề nghị Dự thảo sửa đổi Hiến pháp bỏ cụm từ Chính phủ“là cơ quan chấp hành của Quốc hội” nhằm bảo đảm nguyên tắc kiểm soát quyền lực ở Nhà nước ta giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.[402]
- Nhiều ý kiến cho rằng chế định Thủ tướng Chính phủ cần quy định rõ "Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội".[403]
9. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
Nhiều kiến nghị tập trung vào vấn đề cần có quy định về “và phát triển án lệ” của Tòa án.[404]
10. Về chính quyền địa phương
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần quy định cụ thể và khẳng định rõ: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có ở 3 cấp chính quyền địa phương.[405]
- Nhiều đề xuất là không nên quy định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”.
11. Về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước
- Nhiều kiến nghị cho rằng, quy định về vai trò của Hội đồng Hiến pháp như trong Dự thảo là còn quá mờ nhạt, khi phat hiện văn bản quy phạm pháp luật vi hiến, Hội đồng cần có quyền quyết định việc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật, mà không chỉ dừng lại ở việc “kiến nghị” như trong Dự thảo.[406]
- Liên quan đến Kiểm toán Nhà nước, nhiều ý kiến đề nghị quy định nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước theo nhiệm kỳ Quốc hội.[407]
12. Các vấn đề khác
- Ngoài các đề xuất, kiến nghị đối với các nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhiều bộ, ngành và địa phương có các đề xuất liên quan đến việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo, chẳng hạn kiến nghị về tiếp tục tổ chức lấy ý kiến lần hai, hoặc tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp ý kiến đóng góp cho Dự thảo sau thời hạn do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định (31/3/2013).[408]
- Đối với vấn đề tiếp thu ý kiến góp ý, rất nhiều đề xuất, kiến nghị cho rằng việc tổ chức lấy ý kiến đã được thực hiện công phu, toàn diện; các ý kiến đóng góp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị đều sát thực, hợp lý. Do vậy, đề nghị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp xem xét, tổng hợp và chỉnh lý cho phù hợp, đầy đủ và khách quan[409].
- Về kỹ thuật lập hiến, nhiều đề xuất, kiến nghị cho rằng Hiến pháp là một đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Do vậy, các quy định cần thể hiện tính khái quát, ổn định lâu dài, quy định, câu chữ phải xứng tầm là quy phạm, ngôn ngữ Hiến pháp.
Phần thứ ba
ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CỦA CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TIẾP THU,
CHỈNH LÝ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Trên cơ sở tổng hợp ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, ý kiến thảo luận của Chính phủ và Phiếu lấy ý kiến của các Thành viên Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề ngày 28/3/2013 về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Dự thảo Báo cáo của Chính phủ do Thường trực Ban Chỉ đạo của Chính phủ trình, Chính phủ thống nhất một số đánh giá chung và từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị về 7 nhóm vấn đề, trong đó, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ có đóng góp sâu về 02 chương, cụ thể là Chương VII - Chính phủ và Chương IX- Chính quyền địa phương.
A. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Về ưu điểm: Dự thảo đã bám sát các quan điểm, định hướng nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp được xác định tại Nghị quyết Đại hội Đảng XI, Nghị quyết Hội nghị TW2 và Kết luận của Hội nghị TW5 khoá XI. Với 09 vấn đề cơ bản được nghiên cứu sửa đổi theo hướng dẫn của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Dự thảo đã thể hiện rõ quy mô, phạm vi sửa đổi (cả về nội dung, cơ cấu các chương, điều và kỹ thuật lập hiến) của một bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhằm thể chế hoá Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đáp ứng yêu cầu và phù hợp với tình hình mới của đất nước.
Dự thảo đã ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản, nền tảng (như nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân gắn với tính thượng tôn Hiến pháp; nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân). Các nguyên tắc này cho thấy Hiến pháp của nước ta vừa thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc các giá trị chung của nhân loại về Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, vừa bảo đảm tính kế thừa với sự điều chỉnh hợp lý những giá trị đặc thù về chính trị - pháp lý của Hiến pháp thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dự thảo cũng đã ghi nhận và thể hiện khá nhất quán các nguyên tắc vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; khẳng định khái quát ở tầm hiến định vai trò và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước để đảm bảo mọi tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước theo quy định của pháp luật, mọi thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Về hạn chế : Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, Dự thảo cũng còn một số hạn chế cơ bản sau đây:
Một là, Dự thảo vẫn chưa quy định rõ, đầy đủ cơ chế “kiểm soát” quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy đã định danh được cơ quan thực hiện mỗi quyền, nhưng Dự thảo chưa làm rõ nội dung và giới hạn của mỗi quyền; do đó chưa phân công được thật rõ ràng, rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, chẳng hạn như chưa giải quyết được các vướng mắc, bất cập trong việc phân định thẩm quyền quyết định chính sách giữa Quốc hội và Chính phủ; còn thiếu các quy định nhằm thực hiện việc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong khi thực hiện quyền lực nhà nước, ngay cả các cơ quan mới được hiến định như Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia... cũng chưa được giao những nhiệm vụ, quyền hạn cần thiết nhằm tăng cường hiệu quả việc kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, Dự thảo chưa thể hiện rõ nguyên tắc phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương để làm cơ sở cho việc thể chế hoá chủ trương “bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm” của chính quyền địa phương trong nền hành chính quốc gia thống nhất của một nhà nước đơn nhất theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI.
Ba là, Dự thảo chưa tính đến các trường hợp ngoại lệ, nhiều thiết chế được quy định chỉ phù hợp để hoạt động trong điều kiện bình thường, chưa bảo đảm sự ứng phó kịp thời của các cơ quan nhà nước trong những điều kiện đặc biệt mà mọi quốc gia đều phải sẵn sàng đương đầu (vấn đề thiên tai, địch họa, đại dịch bệnh...); việc ghi nhận các nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong các tình huống đặc biệt cũng chưa chặt chẽ.
Bốn là, về kỹ thuật lập hiến, Dự thảo vẫn còn nhiều nội dung được quy định quá chi tiết, làm thay chức năng của các đạo luật, đặc biệt là ở Chương II và các chương về bộ máy nhà nước; một số điều vẫn giữ nguyên văn phong nghị quyết nhất là ở chương III, làm giảm phần nào tính quy phạm của Hiến pháp.
B. CÁC KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
I. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 1: Hoàn thiện Chương VII - Chính phủ
Yêu cầu chung về hoàn thiện Chương:
+ Xác định rõ vị trí, địa vị pháp lý của Chính phủ với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước.
+ Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng.
+ Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phải cụ thể hóa mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các thiết chế hiến định độc lập.
1. Về Chính phủ
1.1. Vị trí của Chính phủ (Điều 99 Dự thảo)
1.1.1. Yêu cầu hoàn thiện: Làm rõ và hoàn thiện quy định về vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp phù hợp với nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đã được khẳng định tại Điều 2.
1.1.2. Đề xuất phương án hoàn thiện Điều 99 Dự thảo (sửa đổi, bổ sung Điều 109) như sau [410]:
“Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, báo cáo công tác với Quốc hội, và trong thời gian Quốc hội không họp, báo cáo công tác với Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chính phủ báo cáo công tác với Chủ tịch nước”.
1.1.3. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
- Đoạn 1 - Về việc không quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Qua tổng hợp có 02 loại ý kiến:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo vẫn giữ quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội[411];
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Loại ý kiến này được tổng hợp từ số lượng lớn ý kiến của các bộ, ngành, địa phương[412] và tại Hội thảo góp ý dự thảo Báo cáo của Chính phủ về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Ban chỉ đạo của Chính phủ tổ chức ngày 25/3/2013. Các lập luận chính của loại ý kiến này là:
(i) Quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội là không cần thiết bởi vì trong chức năng “hành pháp” và “hành chính” đã thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ chấp hành Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua. Về bản chất, việc Chính phủ tổ chức thực thi pháp luật chính là hoạt động chấp hành ý chí của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật do Quốc hội ban hành, phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân.
(ii) Hơn nữa, việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, trên thực tế đã đặt Chính phủ vào vai trò thụ động của cơ quan chấp hành của Quốc hội như Báo cáo số 32/BC-CP ngày 29/02/2012 của Chính phủ về tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 (viết tắt là Báo cáo 32) đã phân tích[413], không phù hợp với vị trí độc lập tương đối của cơ quan thực hiện quyền hành pháp theo nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp được khẳng định tại Điều 2 Dự thảo. Trong mọi quốc gia, Chính phủ luôn giữ vai trò là cơ quan trung tâm trong việc khởi xướng, hoạch định và điều hành chính sách quốc gia. Sự hợp tác trên cơ sở phân công rành mạch và kiểm soát chặt chẽ giữa Quốc hội (lập pháp) và Chính phủ (hành pháp) chính là động lực cho việc vận hành tốt nền quản trị quốc gia, là động lực phát triển của cả bộ máy nhà nước.
(iii) Trong điều kiện Quốc hội nước ta hoạt động chưa thường xuyên, vai trò chủ động của Chính phủ với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp càng cần phải được coi trọng để đáp ứng các yêu cầu điều hành kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của đất nước.
Chính phủ đã thảo luận và đồng tình cao (24/25) với loại ý kiến thứ 2 - không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
- Đoạn 2 - Về quy định chế độ báo cáo của Chính phủ trước Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Theo Dự thảo, Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp của Quốc hội, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Do vậy, về nguyên tắc, Chính phủ chỉ phải báo cáo công tác trước Quốc hội. Xuất phát từ thực tiễn là Quốc hội không hoạt động thường xuyên nên đã hình thành cơ chế báo cáo công tác của Chính phủ trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp. Tuy nhiên, Hiến pháp hiện hành không quy định rõ về trách nhiệm báo cáo của Chính phủ trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ khi Quốc hội không họp, nên trên thực tế Chính phủ vẫn đang phải báo cáo trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội như một cơ quan, một cấp quyền lực trung gian giữa Chính phủ và Quốc hội ngay cả khi Quốc hội họp. Điều này là không hợp lý trong tổ chức quyền lực nhà nước theo quan điểm phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp[414].
Vì vậy, đề xuất bổ sung đoạn “và trong thời gian Quốc hội không họp” vào đoạn 2 Điều 99 Dự thảo.
1.2. Về cơ cấu, thành phần, chế độ làm việc và chịu trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên Chính phủ (Điều 100 Dự thảo)
1.2.1. Yêu cầu hoàn thiện: Cần làm rõ vị trí và chế độ trách nhiệm tập thể của Chính phủ và chế độ trách nhiệm cá nhân của các thành viên Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng.
1.2.2. Hướng hoàn thiện: Quy định vị trí, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ bảo đảm tương xứng với vị trí là người đứng đầu Chính phủ và đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước; chế độ làm việc của Chính phủ phù hợp với tính chất của cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; vị trí, trách nhiệm của các Phó Thủ tướng Chính phủ với 2 tư cách - là thành viên Chính phủ và là người được Thủ tướng Chính phủ phân công trách nhiệm giúp Thủ tướng thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng; vị trí, trách nhiệm của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cũng với 2 tư cách - là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu, chịu trách nhiệm về ngành, lĩnh vực được giao quản lý; đồng thời có quy định để đảm bảo sự điều hành thông suốt, liên tục của Chính phủ trong những điều kiện đột xuất, khẩn cấp (như thiên tai, địch họa, dịch bệnh,…) nhằm khắc phục các bất cập của Hiến pháp năm 1992 như Báo cáo 32 của Chính phủ đã nêu[415].
1.2.3. Đề xuất phương án hoàn thiện Điều 100 Dự thảo (sửa đổi, bổ sung Điều 110 và Điều 117)
“Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do luật định.
Những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phải được quyết định theo đa số.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao cho Thủ tướng Chính phủ; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp và với Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiệm vụ của thành viên Chính phủ, giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt thì Phó Thủ tướng Chính phủ thường trực được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và trước Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ”.
1.2.4. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
- Đoạn 2 - Về quy định “cơ cấu, số lượng thành viên của Chính phủ do luật định”: so với Dự thảo, thay đoạn cuối “do Quốc hội quyết định” bằng “do luật định” để đảm bảo tính ổn định cao hơn về cơ cấu tổ chức của Chính phủ đồng thời tạo sự phù hợp, đồng bộ với đề xuất sửa đổi liên quan đến khoản 6 Điều 75: Quốc hội ban hành luật quy định về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ... (xem Nhóm kiến nghị, đề xuất thứ 3).
- Đoạn 3 - Hiến pháp năm 1992 tại Điều 110 không quy định chế độ làm việc của Chính phủ nhưng tại Điều 115 đoạn 2 quy định “Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số”. Dự thảo khái quát hóa quy định này thành “Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số” và đưa vào đoạn 3 Điều 100. Chính phủ cho rằng quy định như Dự thảo (i) là không cần thiết và không tương thích với các chương khác của Dự thảo vì Dự thảo không có quy định khái quát chế độ làm việc của Quốc hội, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân; (ii) là chưa chính xác, chưa đầy đủ vì chế độ làm việc của Chính phủ, trên thực tế, bao gồm nhiều phương thức làm việc với những cách thức ra quyết định và chế độ trách nhiệm khác nhau, trong đó các phiên họp Chính phủ để thảo luận tập thể là một phương thức quan trọng nhưng không phải là duy nhất.
Vì vậy, để tạo sự thống nhất, đồng bộ giữa các chương, Chính phủ tán thành chuyển đoạn 2 Điều 115 Hiến pháp hiện hành lên đoạn 3 Điều 100 Dự thảo nhưng chỉ quy định nguyên tắc ra quyết định theo đa số của Chính phủ đối với các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, thể hiện chế độ trách nhiệm tập thể của Chính phủ (tương thích với quy định tại khoản 1 Điều 90 Dự thảo về nguyên tắc Quốc hội biểu quyết thông qua luật, nghị quyết hay quy định tại khoản 4 Điều 108 về nguyên tắc xét xử của Tòa án nhân dân và quyết định theo đa số).
- Đoạn 4, 5 và 6 - bổ sung các quy định làm rõ hơn so với Dự thảo vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ về hoạt động của Chính phủ và chế độ trách nhiệm cá nhân của từng thành viên Chính phủ. Cụ thể, đoạn 5 và 6 bổ sung quy định Phó Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đều phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ- người đứng đầu Chính phủ- đây là vấn đề mà Dự thảo đã bỏ qua, không quy định (kể cả Phó Thủ tướng là người được Thủ tướng phân công giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ, nhưng Dự thảo cũng không quy định Phó Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về việc thực hiện các việc được phân công, trong đó có việc phụ trách một số lĩnh vực, là điều bất hợp lý). Quy định như đề xuất trên đây nhằm tăng cường trách nhiệm cá nhân của từng thành viên Chính phủ trước người đứng đầu Chính phủ, trước tập thể Chính phủ và trước Quốc hội.
1.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ (Điều 101 Dự thảo)
1.3.1. Yêu cầu hoàn thiện: (i) yêu cầu hoàn thiện về nội dung: quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phải đảm bảo phù hợp với vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan hành chính nhà nước cao nhất[416]; (ii) yêu cầu về kỹ thuật lập hiến: quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phải có tính khái quát cao, có độ mở để vừa không cản trở, hạn chế sự năng động, chủ động và khả năng phản ứng nhanh nhạy, linh hoạt trong hoạt động của Chính phủ - đặc điểm cơ bản của cơ quan thực hiện quyền hành pháp, vừa không dẫn tới khả năng thiếu ổn định của Hiến pháp.[417]
1.3.2. Hướng hoàn thiện
- Quy định đầy đủ nhưng khái quát những nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của Chính phủ theo hai nhóm (i) để thực hiện chức năng của cơ quan thực hiện quyền hành pháp và (ii) để thực hiện chức năng của cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
- Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Chính phủ cần góp phần cụ thể hóa mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước, Toà án và quan hệ phân cấp với chính quyền địa phương.
- Về kỹ thuật lập hiến: Đảm bảo sự tương thích về mức độ khái quát và bao quát trong tương quan về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Tòa án.
1.3.3. Đề xuất phương án hoàn thiện Điều 101 Dự thảo (sửa đổi, bổ sung Điều 112) (viết mới)
“Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức và bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật.
2. Đề xuất, xây dựng chính sách, trình dự án luật, dự toán ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; đề nghị Quốc hội chưa thông qua dự án luật chưa đảm bảo tính khả thi; kiến nghị Chủ tịch nước, trước khi công bố, đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật chưa đảm bảo tính khả thi[418].
3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, an ninh quốc gia và quốc phòng.
4. Đề xuất và trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể bộ, cơ quan ngang bộ; việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính - lãnh thổ; việc thành lập, giải thể các đơn vị hành chính - lãnh thổ khác theo quy định tại khoản 1 Điều 115.
5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thống nhất quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; hướng dẫn, kiểm tra chính quyền địa phương thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó vi phạm pháp luật nghiêm trọng, làm thiệt hại lớn đến lợi ích của nhân dân và đề nghị Quốc hội xem xét giải tán[419].
6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyết định việc đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài”.
1.3.4. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
- Về phạm vi, nội dung các nhiệm vụ, quyền hạn: Các quy định của Dự thảo Hiến pháp xác định chưa rõ, chưa đủ các nhiệm vụ của Chính phủ với tư cách là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp” đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô, nhất là chất lượng xây dựng chính sách, thể chế, quy hoạch, năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Về khoản 2 - Chính phủ với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, trực tiếp tổ chức thi hành các luật, pháp lệnh, là cơ quan có điều kiện hiểu rõ nhất về tính hợp lý, tính khả thi của các luật, pháp lệnh, là cơ quan phải chịu trách nhiệm đến cùng về chất lượng, tính khả thi, hợp lý của các chính sách và các dự án luật trình Quốc hội. Do vậy, cần bổ sung cho Chính phủ quyền đề xuất với Quốc hội chưa thông qua dự án luật chưa đảm bảo tính khả thi; quyền kiến nghị với Chủ tịch nước, trước khi công bố, đề nghị Quốc hội xem xét lại đạo luật chưa đảm bảo tính khả thi. Đây là một cơ chế để cụ thể hóa Điều 2 Dự thảo liên quan đến việc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp. Trong Dự thảo đã có nhiều quy định tăng cường kiểm soát của Quốc hội, kể cả UBTVQH là cơ quan thường trực của Quốc hội đối với Chủ tịch nước và Chính phủ nhưng lại chưa có quy định nào xác lập cơ chế kiểm soát tương ứng của cơ quan thực hiện quyền hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền lập pháp.
- Về khoản 4 - về thẩm quyền quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Qua tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương có hai loại ý kiến khác so với Dự thảo của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp cụ thể là :
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng chỉ có Quốc hội có thẩm quyền xem xét và quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới của tất cả các đơn vị hành chính - lãnh thổ[420] vì đây là việc hệ trọng, tác động nhiều mặt đến đời sống nhân dân, định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, đồng thời ảnh hưởng đến tính ổn định về địa giới hành chính của địa phương. Vì vậy, thẩm quyền này phải được giao cho Quốc hội quyết định trên cơ sở đề án do Chính phủ trình. Một đạo luật sẽ quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục thực hiện việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới của tất cả các đơn vị hành chính - lãnh thổ, bao gồm cả việc lấy ý kiến nhân dân các địa phương liên quan (như đề xuất tại khoản 2 Điều 115).
Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên như Hiến pháp 1992, nghĩa là thẩm quyền này thuộc về Chính phủ nhưng bổ sung quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục thực hiện phải do luật định trên cơ sở lấy ý kiến nhân dân địa phương. (xem khoản 2 Điều 115). Quy định như vậy phù hợp với trách nhiệm của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất đồng thời khắc phục được những bất cập trong thực tiễn chia, tách các đơn vị hành chính thời gian qua do chưa có Luật quy định về tiêu chí, điều kiện và quy trình thực hiện, đặc biệt là chưa tổ chức lấy ý kiến nhân dân trong quá trình ra quyết định[421].
Do số lượng thành viên Chính phủ tán thành các phương án đều không quá bán, mức độ chênh lệch giữa các phương án là không lớn (loại ý kiến thứ 1 là 12/25 và loại ý kiến thứ hai là 10/25) nên Chính phủ đề xuất 2 Phương án như sau:
Phương án 1: Quốc hội có thẩm quyền quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới của tất cả các đơn vị hành chính - lãnh thổ và thiết kế lại khoản 4 Điều 101 như sau:
“Điều 101: Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
4. Đề xuất và trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể bộ, cơ quan ngang bộ; việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính- lãnh thổ; việc thành lập, giải thể các đơn vị hành chính –lãnh thổ khác quy định tại khoản 1 Điều 115”.
Phương án 2: Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chính phủ quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đồng thời bổ sung quy định “việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính - lãnh thổ phải được thực hiện trên cơ sở lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo các tiêu chí, trình tự, thủ tục do luật định”.
- Về khoản 5 - xác định nhiệm vụ, quyền hạn và quan hệ trách nhiệm của Chính phủ đối với Chính quyền địa phương: Dự thảo hiện nay vẫn giữ nguyên các quy định chứa đựng những mâu thuẫn, chồng chéo về thẩm quyền của UBTVQH và Chính phủ trong quan hệ với chính quyền địa phương, đặc biệt là với Hội đồng nhân dân, như đã được nêu trong Báo cáo 32 [422].
Chính quyền địa phương có chức năng quan trọng nhất là tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương, trong đó Hội đồng nhân dân với tư cách là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương phải chịu trách nhiệm ban hành các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật tại địa phương. Hội đồng nhân dân cùng với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là một mắt xích của nền hành chính quốc gia, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Sau khi thảo luận:
+ Đa số thành viên Chính phủ tán thành (18/25) đề xuất chuyển từ Ủy ban thường vụ Quốc hội sang Chính phủ nhiệm vụ, quyền hạn hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thẩm quyền bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
+ Chính phủ tán thành cao (24/25) đề xuất chuyển từ Ủy ban thường vụ Quốc hội sang Quốc hội thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân, đồng thời bổ sung quyền của Chính phủ đình chỉ hoạt động của Hội đồng nhân dân đó và đề nghị Quốc hội xem xét giải tán; đề nghị bổ sung cụm từ “vi phạm pháp luật nghiêm trọng” trước cụm từ ”làm thiệt hại lớn đến lợi ích của nhân dân”.
- Về khoản 6 - “Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”. Nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thuộc về chức năng của cả cơ quan thực hiện quyền hành pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này, Chính phủ phải có đủ các thiết chế có quyền năng phát hiện, phòng chống và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu Tòa án xử lý theo luật định các vi phạm pháp luật được phát hiện trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật. Các thiết chế đó là cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra và công tố. Tuy nhiên, hiện nay Viện kiểm sát vẫn đang là một thiết chế chưa được xác định rõ là cơ quan thực hiện quyền lực nào trong tổ chức quyền lực nhà nước và vẫn tạm xếp trong Chương về Tòa án nhân dân- cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã xác định hướng lâu dài là nghiên cứu chuyển Viện Kiểm sát nhân dân thành Viện công tố, mà về nguyên lý vận hành của quyền hành pháp trong nhà nước pháp quyền, công tố phải là một chức năng của quyền hành pháp. Điều này cần phải được tính tới khi xác định vị trí của Viện Kiểm sát vì Hiến pháp sửa đổi được xây dựng để phù hợp với sự phát triển lâu dài sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta.
- Về khoản 7 - Các đề xuất sửa đổi, bổ sung liên quan đến điều ước quốc tế được xem xét, đề xuất trong một thể thống nhất, phân định rõ ràng hơn về thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn[423]. Đối với Chính phủ, những sửa đổi chủ yếu có tính kỹ thuật, như bỏ đoạn “trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 93” vì không cần thiết do Chính phủ chỉ có thẩm quyền ký các điều ước quốc tế cấp Nhà nước khi được Chủ tịch nước ủy quyền; bỏ chữ "kết" sau chữ “ký”; hay bổ sung “tổ chức” và “quyết định” cho phù hợp với thiết chế tập thể Chính phủ.
2. Về Thủ tướng Chính phủ (Điều 103 Dự thảo)
2.1. Về vị trí, chức năng của Thủ tướng Chính phủ
2.1.1. Yêu cầu hoàn thiện: Quy định về vị trí của Thủ tướng tại điều này phải thống nhất với quy định về chế độ trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ tại Điều 100, phân định rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng về những nhiệm vụ được giao cho Thủ tướng Chính phủ và trách nhiệm của Thủ tướng về hoạt động chung của Chính phủ với vị trí là người đứng đầu Chính phủ và đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước.
2.1.2. Hướng hoàn thiện
Bổ sung quy định vị trí của Thủ tướng Chính phủ là “người đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước” nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo, điều hành hoạt động thông suốt của cả bộ máy hành chính từ trung ương đến cơ sở. Quy định này làm cơ sở cho việc thiết kế nhóm nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với vai trò của người đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước.
2.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ tướng Chính phủ
2.2.1. Yêu cầu hoàn thiện
Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ bảo đảm để Thủ tướng thực hiện đầy đủ, hiệu quả hai vai trò - người đứng đầu cơ quan hành pháp và người đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước[424], đảm bảo Thủ tướng Chính phủ tập trung vào:
- Lãnh đạo, định hướng chính sách để trình Quốc hội ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền của Chính phủ và của Thủ tướng Chính phủ các văn bản pháp luật nhằm giải quyết những vấn đề vĩ mô, vừa có tính chiến lược (các đạo luật) vừa bảo đảm tính nhạy bén, kịp thời và khả thi (các văn bản lập quy) nhất là trong việc giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình điều hành đất nước .
- Lãnh đạo việc thiết lập và duy trì trật tự, kỷ cương, kỷ luật trong hệ thống hành chính quốc gia nhưng không bị sa vào giải quyết các vấn đề sự vụ, phù hợp với xu hướng phân công, phân cấp, uỷ quyền hợp lý, hiệu quả giữa Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, đảm bảo Thủ tướng có đủ quyền hạn để giải quyết các vấn đề vượt quá thẩm quyền của Bộ trưởng và trực tiếp chỉ đạo xử lý đối với một số công việc lớn, đột xuất, các sự cố nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh lớn cần phải có sự chỉ đạo tập trung, huy động nguồn lực và phối hợp hoạt động của nhiều Bộ, ngành, địa phương[425].
2.2.2. Hướng hoàn thiện: Thiết kế các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ tướng Chính phủ theo các nhóm nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện chức năng lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ;
- Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện chức năng điều hành hệ thống hành chính quốc gia;
- Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương;
- Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện thẩm quyền riêng của Thủ tướng Chính phủ trong việc ban hành và áp dụng các biện pháp cần thiết để xử lý các vấn đề đột xuất, khẩn cấp trong quá trình điều hành kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia;
- Nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, trước nhân dân.
2.2.3. Đề xuất phương án hoàn thiện Điều 103 Dự thảo (sửa đổi, bổ sung Điều 114)
“Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, là người đứng đầu Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Định hướng và điều hành hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật.
2. Chỉ đạo việc đàm phán, ký điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; chỉ đạo thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; thay mặt Chính phủ thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn về điều ước quốc tế theo phân công của Chính phủ[426].
3. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia.
4. Trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; trong thời gian Quốc hội không họp, có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ chức vụ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; trong trường hợp khuyết Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và trong thời gian Quốc hội không họp, có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước quyết định bổ nhiệm người giữ quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cho đến khi Quốc hội họp[427]; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng, các chức vụ tương đương trong bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương; phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, quyết định điều động, cách chức người đứng đầu Cơ quan hành chính nhà nước/Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
5. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Cơ quan hành chính nhà nước/Ủy ban hành chính, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước/Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Chính phủ xem xét bãi bỏ.
6. Quy định và áp dụng các biện pháp cần thiết trong trường hợp khẩn cấp không thuộc tình trạng khẩn cấp và các biện pháp đặc biệt bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia theo quy định tại khoản 13 Điều 75.
7. Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ”.
2.2.4. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
Việc sửa đổi như trên nhằm khắc phục các hạn chế của Dự thảo, cụ thể:
- Quy định tại Dự thảo mới chỉ ghi nhận cụ thể vị trí, chức năng của Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ, còn vị trí đứng đầu cơ quan hành chính thì chưa khẳng định cụ thể mà còn lẫn trong các quy định chưa đầy đủ về nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ.
- Về khoản 2 - Do Chính phủ là thiết chế tập thể nên trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ về công tác điều ước quốc tế, Chính phủ có thể phân công Thủ tướng Chính phủ với vai trò là người lãnh đạo, điều hành công tác của Chính phủ, thực hiện một số nhiệm vụ và quyền hạn, nhất là đối với những vấn đề mà Chính phủ không nhất thiết phải thảo luận và quyết định tập thể. Vấn đề này đã qua kiểm nghiệm thực tế vận hành tốt nên Chính phủ đề xuất quy định trong Hiến pháp.
- Về khoản 4 và khoản 6 - Đề xuất bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ về công tác nhân sự của Chính phủ (khoản 4) và về quy định, áp dụng các biện pháp cần thiết (khoản 5) để tạo sự chủ động và bảo đảm việc điều hành của Thủ tướng Chính phủ trong những tình huống đặc biệt, đột xuất, khẩn cấp.
- Về khoản 5 - Trong mối quan hệ trung ương với địa phương, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ phải phù hợp với quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ như đã đề xuất tại Điều 100. Tuy nhiên, cần lưu ý để đảm bảo tính đồng bộ với các đề xuất ở Chương Chính quyền địa phương, đoạn cuối khoản 5 chưa xác định cụ thể tên cơ quan hành chính nhà nước và chức danh của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh.
- Về khoản 7 - Bổ sung so với Dự thảo “các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ” vào nội dung các vấn đề mà Thủ tướng Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân nhằm thể hiện đầy đủ hơn trách nhiệm của Thủ tướng về hoạt động chung của Chính phủ và trách nhiệm về những nhiệm vụ được giao cho cá nhân Thủ tướng.
3. Về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ (Điều 104 Dự thảo)
3.1. Yêu cầu hoàn thiện
Thể hiện được vị trí của Bộ trưởng là cầu nối giữa chức năng hành pháp và chức năng quản lý hành chính nhà nước; cụ thể là, một mặt Bộ trưởng cùng với tập thể Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp, tham gia đề xuất, hoạch định chính sách, mặt khác Bộ trưởng đồng thời là người đứng đầu, trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động của bộ máy hành chính trực thuộc. Phù hợp với Điều 100, cần xác định rõ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội và nhân dân đối với lĩnh vực, ngành mình được phân công phụ trách[428].
3.2. Đề xuất phương án hoàn thiện Điều 104 Dự thảo (sửa đổi, bổ sung Điều 116, Điều 117)
Khoản 1 bổ sung và sửa thành:
“Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc”.
Khoản 2 Điều 104 sửa lại thành:
“Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý”.
3.3. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
- Về khoản 1 - Việc bổ sung quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” để tạo sự thống nhất với nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm thi hành pháp luật của tập thể Chính phủ. Nhiệm vụ, quyền hạn này của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cùng với thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật, kiểm tra việc thi hành các văn bản pháp luật và xử lý văn bản pháp luật có vi phạm quy định tại Điều 105 Dự thảo và chế độ báo cáo công tác quy định tại khoản 2 Điều 104 làm rõ và đầy đủ hơn trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách là “tư lệnh”ngành, lĩnh vực.
- Về khoản 2 - Bổ sung so với Dự thảo quy định về tính chịu trách nhiệm của Bộ trưởng trước Thủ tướng Chính phủ[429] - người có quyền hạn và chịu trách nhiệm về việc “trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức... Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ” (khoản 2 Điều 103).
4. Về thẩm quyền ban hành và kiểm tra việc thi hành văn bản pháp luật (Điều 105 Dự thảo (sửa đổi Điều 115, Điều 116)
4.1. Yêu cầu hoàn thiện:
Để đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn ban hành và kiểm tra việc thi hành văn bản pháp luật cần bổ sung quyền hạn xử lý văn bản trái pháp luật được phát hiện trong quá trình kiểm tra và giao cho luật quy định về thẩm quyền ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật.
4.2. Đề xuất phương án hoàn thiện Điều 105 Dự thảo (sửa đổi Điều 115, Điều 116)
“Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý theo quy định của luật đối với các văn bản trái pháp luật được phát hiện”.
4.3. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
Việc trao thẩm quyền ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là cần thiết và hợp lý để đảm bảo cho các chủ thể này thực hiện hiệu quả chức năng hành pháp và hành chính nhà nước. Tuy nhiên, ở tầm hiến định, Dự thảo chỉ quy định thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về xử lý văn bản trái pháp luật do các bộ, ngành, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành, do đó, cần bổ sung tại điều này quy định “ xử lý theo quy định của luật” để giao cho luật quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành, kiểm tra và xử lý của các cơ quan khác.
II. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT THỨ 2: Hoàn thiện Chương IX - Chính quyền địa phương
1. Quy định về các đơn vị hành chính lãnh thổ (khoản 1 Điều 115)
1.1. Yêu cầu hoàn thiện
- Bảo đảm kế thừa quy định về phân chia các đơn vị hành chính lãnh thổ nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng bộ và ổn định trong cả nước cho việc tổ chức đơn vị hành chính, tuy nhiên có quy định mở cho khả năng xác lập trong tương lai loại đơn vị hành chính - lãnh thổ mới ở các các đô thị lớn của nước ta trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhưng phải đảm bảo tuân thủ tiêu chí, trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định.
- Hiến định rõ hơn về thẩm quyền, tiêu chí, điều kiện, thủ tục thành lập mới, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính - lãnh thổ nhằm bảo đảm tính ổn định các đơn vị hành chính - lãnh thổ, tránh tình trạng "nhập - tách" có phần dễ dãi, thiếu căn cứ, tiêu chí minh bạch, công khai, đặc biệt là thiếu sự tham gia ý kiến có tính quyết định của nhân dân như thực tế vừa qua ở nước ta.
1.2. Đề xuất phương án hoàn thiện khoản 1 Điều 115 Dự thảo
Trên cơ sở định hướng sửa đổi, đề nghị tách khoản 1 và khoản 2 Điều 115 Dự thảo thành hai điều độc lập như sau:
- Điều 115ª.
1. Các đơn vị hành chính - lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau[430]:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường, xã; quận chia thành phường.
Việc thành lập, giải thể đơn vị hành chính - lãnh thổ khác do luật định.
2. Việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính - lãnh thổ quy định tại khoản 1 Điều này phải được thực hiện trên cơ sở lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo các tiêu chí, trình tự, thủ tục do luật định.[431]
1.3. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
- Khoản 1 - Quy định mở về khả năng thành lập các đơn vị hành chính - lãnh thổ mới ngoài những đơn vị đã được xác định cụ thể tại khoản này nhằm tăng khả năng dự báo và tính ổn định của Hiến pháp trong việc đáp ứng nhu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế- xã hội về thiết lập và định danh một số loại đơn vị hành chính - lãnh thổ mới, chẳng hạn như thành phố trong thành phố, khu hành chính- kinh tế đặc biệt với các quy mô khác nhau (trên địa bàn của một hoặc một số đơn vị hành chính - lãnh thổ đang tồn tại theo quy định tại khoản 1).[432]
- Khoản 2 - Bổ sung quy định: việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính - lãnh thổ phải trên cơ sở tham khảo ý kiến nhân dân địa phương và theo tiêu chí, trình tự, thủ tục luật định[433]để khắc phục những bất cập đã nêu tại các phần trên của Báo cáo này.
2. Việc tổ chức chính quyền địa phương tại các đơn vị hành chính - lãnh thổ (khoản 2 Điều 115)
2.1. Định hướng hoàn thiện
- Tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, giảm tầng nấc; đảm bảo tổ chức của từng cấp chính quyền phù hợp với đặc thù đô thị, nông thôn để giải quyết những vướng mắc và bất cập trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương hiện nay;
- Thể hiện được nguyên tắc bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc vừa bảo đảm thực hiện nghiêm minh Hiến pháp, pháp luật của trung ương trong một nhà nước đơn nhất, vừa chủ động và có đủ thẩm quyền do Hiến pháp và luật giao để quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp theo tinh thần văn kiện Đại hội Đảng X và XI; bảo đảm đồng thời nguyên tắc chính quyền địa phương tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình và nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát của trung ương đối với địa phương, đảm bảo tính thống nhất trong việc thực hiện quyền lực nhà nước cũng như yêu cầu vận hành nền hành chính thống nhất, thông suốt theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.
2.2. Đề xuất phương án hoàn thiện khoản 2 Điều 115
Điều 115b (thành Điều 116)
1. Chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Cơ quan hành chính nhà nước/Ủy ban hành chính được thành lập ở tỉnh, thành phố, thị xã, thị trấn và xã.
2. Việc thành lập Hội đồng nhân dân, Cơ quan hành chính nhà nước/Ủy ban hành chính ở các đơn vị hành chính - lãnh thổ khác phù hợp với đặc điểm đô thị, nông thôn và phân cấp quản lý theo quy định của luật.[434]
3. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi địa phương; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi thẩm quyền do luật định; chịu sự kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
2.3. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
- Về tên gọi các cơ quan của chính quyền địa phương: Dự thảo đưa ra tên gọi của Chương là Chính quyền địa phương nhưng chưa đưa ra định nghĩa hay quy định nào để làm rõ khái niệm này. Do vậy, Chính phủ đề xuất quy định rõ chính quyền địa phương gồm- Hội đồng nhân dân và Cơ quan hành chính nhà nước hoặc Ủy ban hành chính.
Việc chưa xác định tên gọi cụ thể của cơ quan hành chính nhà nước ở mỗi đơn vị hành chính - lãnh thổ mà để cho Luật quy định nhằm tạo khả năng đổi mới, đa dạng hóa mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước địa phương phù hợp với đặc thù của từng mô hình chính quyền đô thị hoặc chính quyền nông thôn. Đây là phương án được một số bộ, ngành, địa phương và nhiều chuyên gia kiến nghị[435].
Nếu xác định cơ quan hành chính nhà nước là Ủy ban hành chính thay vì Ủy ban nhân dân như trong Dự thảo thì tính chất, vai trò, chức năng của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được thể hiện rõ hơn, đề cao hơn chế độ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan này, tạo sự đồng bộ, tương thích hơn về chế độ làm việc và chế độ trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước từ Chính phủ đến các cấp chính quyền địa phương. Đây cũng là phương án được nhiều bộ, ngành, địa phương kiến nghị[436].
- Về việc tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính - lãnh thổ.: có 02 loại ý kiến:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo, quy định mở có tính nguyên tắc “việc thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý” (khoản 2 Điều 115).
+ Loại ý kiến thứ hai đề xuất quy định rõ việc thành lập chính quyền địa phương đầy đủ (gồm cả Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước/ ủy ban hành chính cùng cấp) tại các đơn vị hành chính - lãnh thổ cơ bản, tự nhiên là tỉnh, thành phố (bao gồm cả thành phố trực thuộc trung ương, thành phố thuộc tỉnh), thị xã, thị trấn và xã, phù hợp với kết quả thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở quận, huyện phường theo tinh thần Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội
Chính phủ biểu quyết: 15/25 tán thành loại ý kiến thứ hai.
- Khoản 2 - Giữ nguyên về cơ bản tinh thần khoản 2 Điều 115 Dự thảo nhưng có nói rõ hơn đặc thù đô thị và nông thôn, đổi tên từ Ủy ban nhân dân thành Ủy ban hành chính hoặc Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
- Khoản 3 - Bổ sung nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách, pháp luật trong phạm vi được phân cấp theo tinh thần văn kiện Đại hội Đảng X và XI; nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát của trung ương đối với địa phương đảm bảo tính thống nhất trong việc thực hiện quyền lực nhà nước cũng như yêu cầu vận hành nền hành chính thống nhất, thông suốt theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Nhất quán với quan điểm về vị trí của Chính phủ, về mối quan hệ giữa Chính phủ với chính quyền địa phương đã thể hiện ở Chương VII, cần xác định rõ Chính quyền địa phương chịu sự kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Trên cơ sở của Hiến pháp, các đạo luật, trong đó có Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật tổ chức Chính phủ sẽ cụ thể hóa nguyên tắc này theo hướng xác định rõ những loại việc do chính quyền trung ương quyết định và tổ chức thực hiện, những việc do chính quyền địa phương quyết định và tổ chức thực hiện, những việc cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cùng thực hiện theo phân cấp và đảm bảo điều kiện thực hiện trong phạm vi phân cấp.
3. Quy định về vị trí, tính chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Điều 116 Dự thảo)
3.1. Yêu cầu và hướng hoàn thiện
- Xác định rõ hơn vị trí, tính chất pháp lý của HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân ở địa phương (do nhân dân địa phương bầu, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân địa phương) và trách nhiệm của cơ quan này trước nhân dân địa phương; xác định rõ hơn nguyên tắc tự chủ của HĐND trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, trong đó có vấn đề về ngân sách địa phương.
- Đối với cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chỉ xác định nguyên tắc chung, còn việc định danh và xác định cụ thể tính chất pháp lý, chế độ làm việc v.v. của cơ quan này sẽ dành cho luật định nhằm dự liệu cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương nói chung, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nói riêng.
3.2. Đề xuất phương án hoàn thiện Điều 116 Dự thảo
Điều 116 (thành Điều 117)
“1. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương; quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương.
2. Cơ quan hành chính nhà nước/Ủy ban hành chính chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao”.[437]
3.3. Cơ sở của kiến nghị, đề xuất
- Về khoản 1 - Có quy định tính chất của Hội đồng nhân dân “là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương” không? Qua tổng hợp có 02 loại ý kiến:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo tiếp tục quy định: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương” (khoản 1 Điều 116) vì đây là cơ quan do nhân dân địa phương trực tiếp bầu và giao phó quyền lực của nhân dân.
+ Loại ý kiến thứ hai không quy định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vì quy định này dễ tạo ra sự nhận thức không thống nhất và chưa chuẩn xác về tính chất và địa vị pháp lý của HĐND. Trong Nhà nước đơn nhất không thể phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lực nhà nước ở trung ương và quyền lực nhà nước ở địa phương. Theo tinh thần mới của Điều 6 Dự thảo: nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước. Ở trung ương và mỗi địa phương, không phải chỉ có các cơ quan đại diện nhân dân mới là cơ quan quyền lực nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước khác - cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp.. đều là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, đề xuất không tiếp tục quy định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Chính phủ tán thành cao (24/25) với loại ý kiến thứ hai - không quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Về chức năng, quyền hạn của Hội đồng nhân dân: tán thành quy định như Dự thảo: HĐND có 3 chức năng chính là cơ quan ban hành các biện pháp để bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi địa phương, chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương và chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương, nhưng để làm rõ hơn nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, đề xuất bổ sung quy định Hội đồng nhân dân “quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương”. Quy định này là phù hợp, tạo sự nhất quán với quy định mới tại khoản 4 Điều 75 về việc Quốc hội chỉ quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương.
4. Quy định về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Về cơ bản, Chính phủ nhất trí với các quy định trong Dự thảo, tuy nhiên, nếu như chúng ta chấp nhận đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo hướng, không nhất thiết tổ chức cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (UBND hiện hành) theo mô hình là cơ quan tập thể, thì về mặt kỹ thuật lập hiến, các quy định của Điều 118 này cũng cần có sự chỉnh sửa cho phù hợp. Bên cạnh đó, nội dung quy định này cần lưu ý tới chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, theo đó, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân có thể sẽ không được tổ chức theo các đơn vị hành chính mà được tổ chức theo khu vực thì mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân sẽ thay đổi và các quy định như vừa nêu có thể sẽ không còn phù hợp. Ngoài ra, để đảm bảo cho tính khái quát của Hiến pháp, các quy định tại Điều 118 không nhất thiết phải đưa vào trong Hiến pháp mà có thể để các đạo luật về tổ chức chính quyền địa phương quy định.
III. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT THỨ 3: Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về Quốc hội, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng Hiến pháp có liên quan đến Chính phủ nhằm cụ thể hóa nhất quán nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và nguyên tắc phân cấp, kiểm tra giữa trung ương và địa phương
1. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung
- Tạo sự đồng bộ, thống nhất, tương thích giữa các quy định liên quan về tổ chức bộ máy nhà nước trong Dự thảo nhằm đảm bảo cụ thể hóa các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.
- Bổ sung yếu tố kiểm soát quyền lực khi thiết kế các nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa Chính phủ và các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
2. Hướng sửa đổi, bổ sung
2.1. Về mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội (tập trung vào Điều 75 Dự thảo)
Về Điều 75, Chính phủ có 2 loại đề xuất:
2.1.1. Những đề xuất sửa đổi cụ thể nội dung từng khoản
- Đề xuất sửa khoản 1 Điều 75 Dự thảo “Quốc hội làm hiến pháp, sửa đổi hiến pháp; làm luật, sửa đổi luật” theo hướng “Quốc hội thông qua sửa đổi Hiến pháp; thông qua luật, sửa đổi luật”.[438]
Lý do: theo cách hiểu chung hiện nay thì làm Hiến pháp, làm luật tức là xây dựng Hiến pháp, xây dựng luật bao gồm nhiều công đoạn khác nhau có sự tham gia của nhiều chủ thể với những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Do đó, không chỉ riêng Quốc hội “làm” Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và làm luật, sửa đổi luật nhưng quyền hạn riêng có của Quốc hội trong quá trình “làm” đó chính là quyền thông qua Hiến pháp sửa đổi và thông qua luật, sửa đổi luật do đó, nên khẳng định rõ quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội chính là quyền thông qua sửa đổi Hiến pháp và thông qua luật, sửa đổi luật.
Về làm Hiến pháp hay chỉ sửa đổi Hiến pháp: nhiều ý kiến cho rằng, khi chế độ chính trị, mô hình chính thể không thay đổi thì mỗi quốc gia chỉ có một bản Hiến pháp và các bản sửa đổi Hiến pháp. Do vậy, ”làm Hiến pháp” với ý nghĩa là xây dựng một bản Hiến pháp tạo nền tảng pháp lý cho một Nhà nước thì chỉ có 01 lần, đó là khi xây dựng Hiến pháp đầu tiên, ở Việt Nam là Hiến pháp 1946, còn tất cả những lần sau chỉ là sửa đổi, bổ sung Hiến pháp mà không động chạm hoặc thay đổi những nguyên tắc nền tảng về chính trị, kinh tế và mô hình bộ máy nhà nước. Do vậy, Chính phủ đồng tình đề nghị ở khoản này và Điều 124 đều chỉ nên đề cập đến việc sửa đổi Hiến pháp.
- Đề xuất sửa khoản 8 Điều 75: Đề xuất không hiến định việc lấy phiếu tín nhiệm; tuy nhiên, thay vào đó cần quy định quyền của Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn - một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, đồng thời bổ sung quy định về nguyên tắc, điều kiện, phạm vi của việc tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm.[439]
Lý do: Lấy phiếu tín nhiệm là hoạt động bình thường trong công tác quản lý cán bộ, không phù hợp với tính chất của quyền giám sát chính trị của Quốc hội đối với các chức danh cao cấp nhất của bộ máy nhà nước. Việc lấy phiếu tín nhiệm mới chỉ được quy định bằng một nghị quyết của Quốc hội, chưa qua thực tiễn kiểm nghiệm về tính khả thi và hiệu quả, do đó, đề nghị chưa vội nâng thành quy định của Hiến pháp. Trong khi đó, lại chưa có quy định để Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với những người có vi phạm nghiêm trọng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn được giao, không hoàn thành trách nhiệm trước Nhà nước và nhân dân.
- Đề xuất sửa khoản 9 Điều 75 theo hướng Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đối với tất cả các đơn vị hành chính - lãnh thổ như đã đề xuất tại khoản 4 Điều 101.[440]
- Đề xuất sửa khoản 10 Điều 75 về thẩm quyền của Quốc hội bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan theo hướng chuyển quyền đình chỉ, bãi bỏ đối với các văn bản vi hiến cho Hội đồng Hiến pháp xem xét, xử lý theo thẩm quyền[441].
- Đề xuất sửa đổi khoản 14 Điều 75 liên quan đến điều ước quốc tế:
…… Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình, các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, các điều ước quốc tế đặc biệt quan trọng liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các điều ước quốc tế đặc biệt quan trọng về thương mại;tư cách thành viên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế phổ quát và giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế đó”[442].
Lý do: Quy định như Dự thảo là một bước tiến lớn trong việc hiến định sự tham gia mạnh mẽ hơn của Quốc hội vào công tác điều ước quốc tế. Tuy nhiên, quy định của Dự thảo sử dụng phương pháp liệt kê nhưng lại không thống nhất về tiêu chí liệt kê (có tiêu chí về nội dung và tiêu chí về hình thức “các tổ chức quốc tế và khu vực”) nên sẽ gây khó khăn cho thực hiện sau này. Phạm vi thẩm quyền của Quốc hội được mở ra quá rộng, khó bảo đảm tính khả thi, khó đáp ứng đòi hỏi sự nhanh nhạy của thực tiễn, nhất là trong điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên, ví dụ quy định Quốc hội phê chuẩn tư cách thành viên của Việt Nam tại tất cả các tổ chức quốc tế và khu vực hay phê chuẩn tất cả các điều ước quốc tế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, các điều ước quốc tế về thương mại đều không khả thi vì số lượng các tổ chức quốc tế và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia đều quá lớn. Với đặc thù tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta thì chỉ nên quy định việc phê chuẩn của Quốc hội đối với những điều ước quốc tế thực sự quan trọng, mang tính phổ quát, tác động lớn đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về thương mại quốc tế; cũng tương tự, Quốc hội chỉ nên xem xét và quyết định về tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế lớn, phổ quát.
2.1.2. Đề xuất sắp xếp lại và khái quát hóa các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội theo 3 nhóm để thực hiện 3 chức năng của Quốc hội: (i) lập pháp; (ii) quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; (iii) giám sát tối cao, cụ thể:
Điều 75 (mới): Quốc hội có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Thông qua Hiến pháp sửa đổi.
2. Thông qua luật, sửa đổi luật để quy định các chính sách cơ bản, có tính định hướng ổn định lâu dài, hiệu lực tác động trong phạm vi cả nước: chính sách phát triển kinh tế- xã hội; chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quy định, sửa đổi, bãi bỏ các thứ thuế; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của nhà nước; chính sách đối ngoại; quy định về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập; quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia.
3. Phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình, các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, các điều ước quốc tế đặc biệt quan trọng liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các điều ước quốc tế đặc biệt quan trọng về thương mại; tư cách thành viên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế phổ quát và giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế đó.
4. Quyết định nguyên tắc các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước.
5. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, danh sách thành viên Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia.
6. Quyết định, thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính - lãnh thổ; thành lập, giải thể các đơn vị hành chính - lãnh thổ khác quy định tại khoản 1 Điều 115; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật.
7. Quyết định đại xá.
8. Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình.
9. Quyết định trưng cầu ý dân về sửa đổi Hiến pháp và các vấn đề trọng đại của đất nước.
10. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
11. Bỏ phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
12. Bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái luật, nghị quyết của Quốc hội; theo đề nghị của Chính phủ xem xét, quyết định giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vi phạm pháp luật nghiêm trọng gây thiệt hại lớn cho nhân dân.
Trong 12 nhiệm vụ, quyền hạn trên: khoản 1 là quyền hạn của Quốc hội cùng với nhân dân thực hiện quyền lập hiến; khoản 2 và khoản 3 là các nhiệm vụ thuộc chức năng lập pháp; từ khoản 4 đến khoản 9 là các nhiệm vụ thuộc chức năng quyết định các vấn đề quan trọng; từ khoản 10 đến khoản 12 là các nhiệm vụ thuộc chức năng giám sát tối cao. Tuy nhiên, còn phải tính tới những trường hợp đặc biệt mà Quốc hội cần ban hành nghị quyết để điều chỉnh một số nội dung của luật để áp dụng hoặc không áp dụng đối với một số đối tượng nhất định trong điều kiện và thời gian nhất định.
Cách thiết kế Điều 75 như trên tạo sự tương thích về cách viết và mức độ khái quát so với Điều 101 về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, tạo điều kiện phân định rõ hơn thẩm quyền của Quốc hội và Chính phủ trong việc quyết định các chính sách- một nhiệm vụ thuộc về cả hai cơ quan. Như vậy, trong các lĩnh vực được liệt kê tại khoản 2, đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội mà Quốc hội chưa ban hành luật để điều chỉnh và những vấn đề thuộc chức năng của Chính phủ thì Chính phủ được ban hành chính sách và văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm ứng phó nhanh, chủ động trước các yêu cầu điều hành đất nước (phù hợp với Điều 105 Dự thảo).
2.2. Về mối quan hệ giữa Chính phủ và Uỷ ban thường vụ Quốc hội (tập trung vào hoàn thiện Điều 79 Dự thảo)
2.2.1. Đề xuất chung: Đề nghị cân nhắc điều chỉnh lại nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH theo hướng đảm bảo UBTVQH được giao và tập trung thực hiện tốt, hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với vị trí hiến định là cơ quan thường trực của Quốc hội, phối hợp, điều hòa hoạt động của các cơ quan của Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp[443].
Lý do: Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo tiếp tục quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thật phù hợp với vị trí hiến định nói trên, dẫn đến cơ quan này trở thành một cơ quan, một cấp quyền lực trong quan hệ với các cơ quan như Chủ tịch nước, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC và như một cấp trên của các cơ quan khác của Quốc hội vì theo Dự thảo “Uỷ ban thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội”.
2.2.2. Đề xuất cụ thể
- Khoản 2 Điều 79 - Đề nghị không quy định UBTVQH ban hành pháp lệnh (theo đúng tinh thần Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật); chuyển quyền giải thích Hiến pháp sang cho Hội đồng Hiến pháp; giải thích luật sang cho TAND.
- Cân nhắc điều chỉnh khoản 4 Điều 79 về thẩm quyền đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp sang cho Hội đồng Hiến pháp.
- Đề xuất điều chuyển nhiệm vụ, quyền hạn tại khoản 6 Điều 79: chuyển thẩm quyền bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân trái pháp luật sang cho Chính phủ và chuyển thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sang Quốc hội, lý do như đã trình bày tại Điều 75 và Điều 101.
- Đề xuất chuyển nhiệm vụ, quyền hạn tại khoản 7 Điều 79 (quyết định thành lập mới, chia, nhập đơn vị hành chính lãnh thổ dưới cấp tỉnh) sang Quốc hội[444].
- Đề xuất chuyển nhiệm vụ, quyền hạn tại khoản 11 Điều 79 (tổ chức trưng cầu ý dân) sang cho Hội đồng bầu cử quốc gia.
2.3. Về mối quan hệ giữa Chính phủ và Chủ tịch nước (tập trung vào Điều 93 Dự thảo)
2.3.1. Đề xuất chung: Tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước phù hợp với vị trí nguyên thủ quốc gia và vai trò điều hòa, phối hợp các cơ quan khi thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
2.3.2. Đề xuất cụ thể
- Khoản 1 Điều 93 - Bổ sung quy định Chủ tịch nước, trước khi công bố, có quyền tự mình hoặc theo đề nghị của Chính phủ, đề nghị Quốc hội xem xét lại luật của Quốc hội chưa bảo đảm tính khả thi[445].
Lý do: Quy định này là sự cụ thể hóa nguyên tắc kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Khoản 3 Điều 93 - Đề xuất bổ sung quyền của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước, trong thời gian Quốc hội không họp, theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ và phê chuẩn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, có quyền tạm đình chỉ công tác Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm người giữ quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ cho đến khi Quốc hội họp[446].
- Khoản 6 Điều 93 - Bổ sung và làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước đối với điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước mà Chủ tịch nước không trực tiếp ký như sau:[447]
“Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; phong hàm đại sứ; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác hoặc quyết định việc đàm phán, ký những điều ước quốc tế này khi Chủ tịch nước không trực tiếp thực hiện; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 75; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền do luật quy định.”
- Đề xuất bổ sung một điều mới (Điều 94a sau điều về Hội đồng Quốc phòng và an ninh) để hiến định Hội đồng Tư pháp quốc gia do Chủ tịch nước làm Chủ tịch[448].
Hội đồng Tư pháp quốc gia có chức năng phối hợp các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực hiện các nhiệm vụ hành chính - tư pháp nhằm hỗ trợ, thúc đẩy tính độc lập của tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Tổ chức, hoạt động của Hội đồng Tư pháp quốc gia do luật định.
Lý do: Tư pháp độc lập là một nguyên tắc nền tảng của Nhà nước pháp quyền, đòi hỏi các tòa án, thẩm phán xét xử phải độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, cần được hỗ trợ, bảo đảm các điều kiện cần thiết và được bảo vệ khỏi mọi áp lực có thể cản trở tính độc lập. Các cơ chế bảo đảm về mặt hành chính - tư pháp do một cơ quan hành chính (Bộ Tư pháp) hay một cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân tối cao) thực hiện đều có nhiều hạn chế. Vì vậy, phù hợp nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, mô hình Hội đồng Tư pháp quốc gia do Chủ tịch nước đứng đầu có sự tham gia của lãnh đạo các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các hiệp hội nghề nghiệp luật (luật sư, luật gia) là phù hợp với xu hướng chung của thế giới trong việc bảo đảm, thúc đẩy tư pháp độc lập. Vai trò này của Chủ tịch nước cũng phù hợp với thực tiễn là trong nhiều năm qua, Chủ tịch nước đã là người đứng đầu Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương.
2.4. Về mối quan hệ giữa Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao
Ngoài quy định tại Chương Chủ tịch nước về Hội đồng Tư pháp quốc gia có sự tham gia của đại diện Chính phủ, đề xuất bổ sung Khoản 3 Điều 109 nhiệm vụ, quyền hạn của TAND trong việc giải thích pháp luật và TANDTC ban hành án lệ phù hợp với định hướng trong Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật[449].
2.5. Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120 Dự thảo)
Trên cơ sở xem xét 4 loại ý kiến chính của các bộ, ngành, địa phương về Hội đồng Hiến pháp[450], Chính phủ tán thành quy định về Hội đồng Hiến pháp nhưng đề nghị bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn và tăng cường vị thế cho Hội đồng, chẳng hạn như bổ sung quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp (Điều 124 khoản 1) và quyền giải thích hiến pháp (vì đây là cơ quan có điều kiện để phát hiện sớm và chính xác những điểm chưa rõ cần giải thích, những bất cập trong các quy định của Hiến pháp cần đề nghị sửa đổi qua thực tiễn thi hành); đặc biệt là bổ sung quyền xem xét và quyết định áp dụng chế tài đối với các văn bản pháp luật vi hiến (ví dụ: thẩm quyền tạm đình chỉ thi hành văn bản vi hiến và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bãi bỏ…).
IV. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT THỨ 4: Hoàn thiện Lời nói đầu
- Nhóm ý kiến 1 - Về cơ bản đề nghị giữ các nội dung đã được thể hiện tại phần Lời nói đầu, tuy nhiên đề nghị biên tập lại sao cho ngắn gọn, súc tích hơn;[451] cơ cấu hợp lý hơn các giai đoạn lịch sử; khẳng định và nhấn mạnh vai trò vị trí của nhân dân Việt Nam, phù hợp với bề dầy lịch sử dựng nước và giữ nước
- Nhóm ý kiến 2 - viết gọn lại theo hướng nhập đoạn 3 và 4.[452]
- Nhóm thứ 3 - Viết gọn lai theo hướng bỏ cả đoạn 3 và 4.
Đề xuất: Giữ lại đoạn 1, đoạn 2 và đoạn cuối của Lời nói đầu theo hướng bảo đảm thể hiện vai trò của hiến pháp trong lịch sử dân tộc và trong Nhà nước pháp quyền, là đạo luật cơ bản của nhà nước và xã hội, do nhân dân đồng lòng xây dựng, thông qua và thi hành; Hiến pháp quy định về quyền lực nhân dân và việc thực hiện quyền lực nhân dân vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
V. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT THỨ 5: Hoàn thiện Chương I - Chế độ chính trị
1. Chủ quyền quốc gia (Điều 1)
Chính phủ tán thành với ý kiến đề nghị quy định ngắn gọn “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, vì như vậy là đầy đủ nghĩa, phần liệt kê đã có ở trong Luật.[453]
Còn nếu giữ phương án liệt kê thì cần điều chỉnh cho chính xác các thuật ngữ, cụ thể: gồm đất liền, đảo, quần đảo, vùng biển, lòng đất.
2. Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và việc cụ thể hóa nguyên tắc trong Dự thảo
Kiến nghị 1 - Cách thể hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân về bản chất, quyền lực Nhà nước là quyền lực của nhân dân, do toàn dân giao phó cho cơ quan nhà nước thực hiện. Cả 4 bản Hiến pháp đều khẳng định nguyên tắc này nhưng cách thể hiện khác nhau về “nhân dân”:
Hiến pháp 1946 (Điều thứ 1), Hiến pháp 1959 (Điều 4), Hiến pháp 1980 (Điều 6) - chỉ quy định quyền lực thuộc về nhân dân, không phân biệt giai cấp nào là nền tảng của nhân dân.
Hiến pháp 1992 đưa ra quy định về “nền tảng của nhân dân” là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, sau đó sửa đổi nhỏ thành “đội ngũ trí thức” trong lần sửa đổi năm 2001 và giữ nguyên trong Dự thảo.
Qua tổng hợp có 02 loại ý kiến chính:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không quy định nền tảng của nhân dân[454], như các bản Hiến pháp 1946, 1959 và 1980.
Như vậy, Điều 2 chỉ quy định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” vì quy định này đã thể hiện đầy đủ, bao trùm hết tất cả các giai cấp, tầng lớp, đội ngũ nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành có quy định nền tảng của nhân dân nhưng với nhiều đề nghị khác nhau về mở rộng phạm vi nền tảng của nhân dân[455], chẳng hạn như : nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân; bổ sung doanh nhân, bổ sung các lực lượng tiến bộ trong xã hội vào nền tảng của nhân dân .
Chính phủ tán thành với loại ý kiến thứ nhất.
Kiến nghị 2 - Ghi nhận và đảm bảo thực thi quyền lập hiến của nhân dân[456].
Quyền lập hiến là thể hiện cao nhất và đầy đủ nhất chủ quyền nhân dân, gồm: quyền sáng kiến lập hiến, quyền tham gia góp ý trong quá trình dự thảo Hiến pháp/Hiến pháp sửa đổi và cuối cùng là quyền biểu quyết về Hiến pháp/ Hiến pháp sửa đổi thông qua trưng cầu ý dân. Do đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các điều liên quan như sau:
- Lời nói đầu: cần khẳng định nhân dân thông qua Hiến pháp và thi hành Hiến pháp.
- Điều 30: Đề nghị sửa như sau: “Công dân có quyền biểu quyết về Hiến pháp và các việc trọng đại của quốc gia. Trình tự, thủ tục, giá trị hiệu lực của trưng cầu ý dân do luật định”.
- Khoản 15 Điều 75: Đề nghị sửa như sau: Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về hiến pháp và các việc trọng đại của quốc gia khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Đồng thời sửa Điều 74, khoản 1 Điều 75 theo hướng Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp (quyền quyết định thông qua luật), còn nhân dân mới là chủ thể của quyền lập hiến, Quốc hội có vai trò quan trọng trong quá trình đề xuất sửa đổi, bổ sung hiến pháp, trong quá trình soạn thảo và cũng là cơ quan có thẩm quyền thông qua hiến pháp sửa đổi trước khi đưa ra nhân dân biểu quyết nhưng Quốc hội không phải là cơ quan thực hiện quyền lập hiến theo nghĩa là cơ quan quyết định cuối cùng về thông qua Hiến pháp sửa đổi.
- Điều 124 - Quy định trưng cầu ý dân về việc sửa đổi Hiến pháp. Qua tổng hợp có 02 loại ý kiến chính:
+ Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định như Dự thảo: “Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định” (khoản 4 Điều 124).[457]
+ Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định: “Dự thảo Hiến pháp được trưng cầu ý dân sau khi Quốc hội thông qua với ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”, đồng thời bổ sung quy định: “Trình tự, thủ tục trưng cầu ý dân do luật định”.[458]
Lý do: Xuất phát từ nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và quan điểm tăng cường quyền dân chủ trực tiếp của công dân theo Nghị quyết Đại hội Đảng XI, theo đó quyền biểu quyết về hiến pháp thông qua trưng cầu ý dân chính là quyền dân chủ trực tiếp cao nhất và phải là quyền đương nhiên công dân được hưởng, Nhà nước có trách nhiệm tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp sẽ bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp trong đời sống xã hội. Nếu quy định như Dự thảo thì việc có trưng cầu ý dân về Hiến pháp sửa đổi hay không là thuộc quyền quyết định của Quốc hội, nghĩa là việc thực hiện quyền của nhân dân phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước.
Quy định trưng cầu ý dân về Hiến pháp không áp dụng với Hiến pháp sửa đổi lần này. Sau khi Hiến pháp sửa đổi được thông qua, Quốc hội sẽ ban hành Luật Trưng cầu ý dân làm cơ sở cho việc tổ chức trưng cầu ý dân trong những lần sửa đổi Hiến pháp sau.
Do số lượng thành viên Chính phủ tán thành các phương án đều không quá bán, mức độ chênh lệch giữa các phương án không lớn (12/25 và 10/25) nên Chính phủ đề xuất 2 Phương án như sau:
Phương án 1: Như loại ý kiến thứ nhất nêu trên.
Phương án 2: Như loại ý kiến thứ hai nêu trên.
Kiến nghị 3 - Hoàn thiện các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp khác[459]
- Bổ sung Quyền của công dân bãi miễn đại biểu nhân dân để đảm bảo thực thi khoản 2 Điều 7:
+ Sửa đổi, bổ sung 02 khoản vào Điều 28 như sau:
Khoản 2 Điều 28 - Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Khoản 3 Điều 28 - Trình tự, thủ tục thực hiện quyền bầu cử, ứng cử và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân do luật định
Lý do: Khoản 2 Điều 7 quy định đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm. Đồng thời khoản 8 Điều 75 cũng đã quy định quyền của Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu, trong đó có nhiều người là đại biểu Quốc hội. Vì vậy, cần bổ sung Quyền của cử tri bãi miễn đại biểu do mình bầu để đảm bảo thực thi đầy đủ quyền dân chủ quan trọng này của cử tri, tạo sự đồng bộ với khoản 2 Điều 7.
3. Vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Điều 4 - Tất cả các ý kiến đều tán thành việc ghi nhận tại Điều 4 về vị trí và vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản
Qua Hội thảo ngày 25/3/2013 do Ban Chỉ đạo tổ chức, các ý kiến tập trung vào 3 vấn đề:
- Hiến định chế độ trách nhiệm cụ thể của Đảng trước nhân dân;
- Quy định các nguyên tăc lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội;
- Quy định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất là bằng đường lối, chính sách và công tác cán bộ;
Bên cạnh đó, đề nghị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp cân nhắc một số đề nghị bổ sung, sửa đổi câu chữ trong Điều 4 như đã được tổng hợp tại Phụ lục B-1.
VI. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT THỨ 6: Hoàn thiện các quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân
1. Ghi nhận nguyên tắc các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được bảo đảm thực hiện bằng luật và cũng chỉ có thể bị hạn chế bằng luật để phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN
- Khoản 2 Điều 15: Đề nghị bỏ cụm từ “trật tự, an toàn xã hội” và “đạo đức xã hội” là điều kiện để hạn chế quyền và sửa thành: “Quyền con người, quyền cơ bản của công dân chỉ có thể bị giới hạn bằng luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia và sức khỏe của cộng đồng”[460].
- Sửa cụm từ “theo quy định của pháp luật” thành “theo quy định của luật” tại các điều liên quan đến quy định hoặc giới hạn quyền con người, quyền công dân, cụ thể: Điều 23(2), đoạn 2; Điều 24: Điều 26; Điều 31 (2); Điều 32 (4); Điều 33 (2).
2. Về quy định nguyên tắc quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân
Đề xuất không quy định thành nguyên tắc chung tại khoản 1 Điều 20 vì không phải mọi quyền đều đồng thời là nghĩa vụ, không phải quyền nào cũng có nội dung nghĩa vụ đi kèm; việc quy định quyền không tách rời nghĩa vụ phải được đặt trong từng quyền, từng nghĩa vụ cụ thể[461].
3. Các quyền và nghĩa vụ cụ thể
- Điều 21 - Mọi người có quyền sống: Cần quy định sao cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam vẫn còn duy trì hình phạt tử hình.
- Khoản 1 Điều 22: đề nghị bổ sung như sau:
Điều 22 (sửa đổi, bổ sung Điều 71)
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang”
Lý do: Điều 22 sửa đổi Điều 71 đã bỏ câu:” Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.” Đây là một điều khoản tồn tại xuyên suốt từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Theo tinh thần sửa Hiến pháp để tăng cường hơn quyền con người, quyền công dân thì việc lược bỏ câu này là chưa hợp lý.
- Điều 32: đề xuất sửa đổi như sau:
Khoản 1 nên thêm cụm từ “và phải chịu hình phạt” sau cụm từ “Không ai bị coi là có tội”, thành: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[462].
Khoản 3 cần quy định thêm về “Người bị tình nghi phạm tội” vào đối tượng được hưởng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa và chỉnh sửa như sau:
“3. Người bị tình nghi phạm tội, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa”.
Lý do: Quy định như Dự thảo là chưa đầy đủ quyền được hưởng sự trợ giúp pháp lý của những người có liên quan đến tố tụng hình sự. Thực tiễn tố tụng hình sự nước ta cho thấy, quyền được tiếp cận và sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa không nên chỉ giới hạn khi có quyết định bắt người tạm giữ hoặc khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can mà ngay cả khi người bị tình nghi phạm tội bị triệu tập, mời lên cơ quan công an do có đơn tố cáo hoặc thông tin tố giác tội phạm, họ phải được quyền mời người bào chữa tham gia tư vấn, trợ giúp pháp lý ngay từ đầu. Thực trạng hiện nay cho thấy, Cơ quan điều tra các cấp thường từ chối sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động “tiền tố tụng” gây ra sự lo lắng và quan ngại cho những người bị triệu tập, bị câu lưu. Lý do thường được đưa ra là: Vụ án chưa khởi tố, người mới bị tình nghi chưa có tư cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nên không cần và cũng không được chấp nhận cho phép người bào chữa tham gia. Điều này ảnh hưởng đến quyền của những người bị tình nghi phạm tội vì họ không được hưởng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa ngay từ khi có sự kiện bất lợi là cơ quan tiến hành tố tụng đặt vấn đề “tình nghi” đối với họ.
- Khoản 5 Điều 108: Đề xuất bổ sung cụm từ “Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” và sửa thành:
“Nguyên tắc tranh tụng được đảm bảo. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Lý do: tranh tụng dân chủ và phán quyết của tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá trong cải cách tòa án nói riêng, cải cách tư pháp nói chung. Tuy nhiên, trong thực tiễn tố tụng, nguyên tắc này chưa thật sự được nhận thức đúng đắn và coi trọng, tuân thủ, dẫn đến việc tranh tụng tại nhiều phiên tòa mang tính hình thức, không có ý nghĩa quyết định kết quả của việc xét xử.
Việc bổ sung cụm từ “Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” là hoàn toàn phù hợp với tinh thầnvà nội dung chủ trương về cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
VII. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT THỨ 7: Hoàn thiện Chương III - Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
1. Về quy định tài sản của công dân với việc Nhà nước trưng mua, trưng dụng có bồi thường theo giá thị trường (khoản 3 Điều 56) và quy định quyền tài sản của công dân là quyền sử dụng đất với việc Nhà nước thu hồi có bồi thường theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 58)
Đa số ý kiến đều cho rằng hai quy định này có mâu thuẫn với nhau vì cùng là tài sản được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, nhưng tài sản được Nhà nước trưng mua, trưng dụng thì được bồi thường theo giá thị trường còn quyền tài sản là quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi thì chỉ được bồi thường theo quy định của pháp luật[463]. Vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị[464] trong mọi trường hợp Nhà nước thu hồi đất, người sử dụng đất hợp pháp, đúng mục đích bị thu hồi đất đều phải được đền bù theo giá thị trường chứ không phải chỉ được bồi thường theo quy định của pháp luật một cách không rõ ràng như quy định trong Dự thảo. Như vậy sẽ bảo đảm sự thống nhất giữa quy định tại khoản 3 Điều 58 với quy định tại khoản 3 Điều 56 (ghi nhận quyền sử dụng đất là quyền tài sản của cá nhân, tổ chức).
2. Về quy định Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân vì lý do “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”
Qua tổng hợp có 02 loại ý kiến chính:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo: ”Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế -xã hội” (khoản 3 Điều 58).
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định trong Hiến pháp lý do thu hồi đất là “các dự án phát triển kinh tế- xã hội” để không xảy ra việc các chủ dự án sản xuất kinh doanh lợi dụng quy định này thu lợi bất chính từ việc thu hồi đất,vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của cá nhân, tổ chức như đã xảy ra trong thực tiễn, gây bức xúc lớn trong nhân dân. Đối với các dự án phát triển kinh tế- xã hội quan trọng, tầm quốc gia thì đã thuộc lý do vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Vì vậy, đề nghị sửa lại khoản 3 Điều 58 như sau“Nhà nước thu hồi đất do tổ chức cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”.
Luật đất đai và các luật liên quan do Quốc hội thông qua sẽ quy định cụ thể các trường hợp thu hồi đất vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trong đó có quy định danh mục các dự án phát triển kinh tế- xã hội quan trọng do Quốc hội, Chính phủ quyết định thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Việc bồi thường trong các trường hợp Nhà nước thu hồi đất phải theo quy định của luật.
Do số lượng thành viên Chính phủ tán thành các phương án đều không quá bán, mức độ chênh lệch giữa các phương án là không lớn (11/25 và 12/25) nên Chính phủ đề xuất 2 Phương án như sau:
Phương án 1: Như loại ý kiến thứ nhất nêu trên.
Phương án 2: Như loại ý kiến thứ hai nêu trên.
VIII. NHÓM KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT THỨ 8: Về kỹ thuật lập hiến
Về mặt kỹ thuật lập hiến, Dự thảo còn có một số điểm chưa hợp lý, một số quy định còn quá chi tiết, chưa xứng tầm của Hiến pháp. Một số quy định của Hiến pháp hoặc quá ngắn gọn súc tích, hoặc quá dài dòng với nhiều cách thức văn phong khác nhau, ngôn ngữ còn đa nghĩa, trừu tượng, đôi chỗ còn chưa chuẩn hóa theo ngôn ngữ pháp lý.
Để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp và để Hiến pháp trở thành đúng nghĩa đạo luật gốc, có thể áp dụng trực tiếp các điều khoản của Hiến pháp, để tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, đồng thời góp phần bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp thông qua việc xử lý các hành vi vi hiến, Chính phủ kiến nghị hoàn thiện về kỹ thuật lập hiến của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 theo hướng sau đây:
Một là, xác định phạm vi những vấn đề cần phải quy định trong Hiến pháp[465]. Việc xác định những vấn đề cần đưa vào Hiến pháp trước hết phải xuất phát từ bản chất và vai trò của Hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật quốc gia thì Hiến pháp chỉ điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia còn lại thì do luật điều chỉnh. Theo đó, chỉ tập trung điều chỉnh các nguyên tắc, các vấn đề có tính nền tảng của một quốc gia (Nhóm quan hệ xã hội cơ bản về chế độ chính trị (chính thể); Nhóm quan hệ xã hội cơ bản giữa nhà nước và cá nhân; Nhóm quan hệ xã hội về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước). Chẳng hạn như:
- Về nhiệm vụ, quyền hạn, hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội: Đề nghị rà soát lại các Điều từ 80 đến 82 Dự thảo để thu gọn theo hướng chỉ cần một điều với các nội dung: (i) Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; (ii) Chức năng của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Các quy định về thành viên, cách thức bầu thành viên và chế độ làm việc của các thiết chế này sẽ dành cho Luật tổ chức Quốc hội và Quy chế hoạt động của Quốc hội đảm nhiệm.
- Các quy định về Viện kiểm sát nhân dân cần được khái quát và thu gọn lại, chỉ nên quy định vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân mà không đi sâu quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt động của cơ quan này. Vấn đề này sẽ do luật điều chỉnh.
- Về Chính quyền địa phương, các quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Đại biểu Hội đồng nhân dân nên để Luật bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân quy định vì quá chi tiết, chưa đúng tầm Hiến pháp (Điều 117, 118 Dự thảo).
Hai là, bảo đảm tính nhất quán của chính sách và tính thống nhất của các quy định
Trong dự thảo còn có sự mâu thuẫn giữa quy định chung mang tính nguyên tắc và quy định cụ thể hóa nguyên tắc và mâu thuẫn giữa các quy định cụ thể với nhau (Chương II, hoặc khoản 3 Điều 56, khoản 3 Điều 58).
Đề nghị rà soát lại những quy định của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để đảm bảo tính nhất quán[466] của các quy định trong Dự thảo Hiến pháp như: nếu đã ghi nhận các quyền con người, quyền cơ bản của công dân phải được hiến định và việc hạn chế các quyền này phải trên cơ sở của luật thì cần rà soát toàn bộ các quyền trong Dự thảo để chỉ quy định trong Hiến pháp những quyền cơ bản. Những quyền không cơ bản như quyền kết hôn, ly hôn (Điều 39), quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (Điều 22)... thì để pháp luật quy định.
- Khi đã xác định nguyên tắc: các “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân do Hiến pháp và luật quy định”, thì cần nghiên cứu, chỉnh lý lại theo hướng: các quyền tự do như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định luật” mà không phải là ”pháp luật” như Điều 26 Dự thảo...
- Đề nghị sử dụng thống nhất các thuật ngữ tại các điều khác nhau hoặc ngay tại một điều, chẳng hạn như tại Điều 18, khoản 1 dùng “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong khi khoản 2, khoản 3 lại dùng “Công dân Việt Nam”.
Ba là, bảo đảm văn phong pháp lý trong Hiến pháp, bảo đảm tính minh bạch, tính khả thi, tính dự báo của các quy định[467]
- Một số quy định tại các chương, đặc biệt là chương III (Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường)… văn phong còn mang tính nghị quyết, chưa phù hợp với ngôn ngữ của văn bản pháp lý, đặc biệt là trong Hiến pháp. Đề nghị nghiên cứu rà soát lại một số điều, đặc biệt là ở các Chương III, Chương IV, V của Dự thảo để bảo đảm ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn đầy đủ các chế định và tính pháp lý cao và đảm bảo sự trong sáng, dễ hiểu, đúng với nội hàm diễn đạt và phù hợp với văn phong pháp lý (Điều 53, 64; 65; 67…). Một số từ không phải là ngôn ngữ pháp lý như: “làm Hiến pháp”, “làm luật” “thứ thuế” (khoản 1, khoản 4 Điều 75); “ra pháp lệnh” (khoản 2 Điều 79); “họp bàn” (Điều 95); “tình hình mọi mặt, lắng nghe” (Điều 119); “được bầu xong” (khoản 2 Điều 8).
- Đề nghị rà soát lại những quy định của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để đảm bảo tính dự báo, tính ổn định của các quy định trong Dự thảo như: việc quy định Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ (khoản 2 Điều 88 Dự thảo) thể hiện sự thiếu tính dự báo, không phù hợp với chủ trương tiến tới Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, chuyên nghiệp hơn.
Trên đây là Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Chính phủ kính trình Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992./.
Nơi nhận: - Như trên (để b/c); - Thủ tướng Chính phủ (để b/c); - Các Phó Thủ tướng CP (để biết); - Thường trực Ban Chỉ đạo; - VPCP: BTCN, các PCN; - Lưu: VT, PL (3b). | TM. CHÍNH PHỦ KT. THỦ TƯỚNG PHÓ THỦ TƯỚNG Nguyễn Xuân Phúc |
VỀ KẾT QUẢ TỔNG HỢP Ý KIẾN THÀNH VIÊN CHÍNH PHỦ TẠI PHIẾU LẤY Ý KIẾN
Số ý kiến Thành viên Chính phủ: 26 (không tính Bộ Tài chính).
Số ý kiến thu về: đến 11h ngày 02/4/2013: 25 phiếu, gồm (Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, các Bộ trưởng: Hà Hùng Cường, Nguyễn Bắc Son, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Thị Kim Tiến, Cao Đức Phát, Trịnh Đình Dũng, Nguyễn Minh Quang, Hoàng Tuấn Anh, Bùi Thanh Sơn - Bộ Ngoại giao, Bùi Quang Vinh, Vũ Đức Đam, Nguyễn Thái Bình, Phạm Thị Hải Chuyền, Phạm Ngũ Luận, Nguyễn Quân, Huỳnh Phong Tranh, Đinh La Thăng, Giàng Seo Phử, Trần Đại Quang, Vũ Huy Hoàng).
Còn thiếu: 01 ý kiến của đồng chí Nguyễn Văn Bình.
1. Quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”
- Phương án 1: Quy định như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
Đồng ý: 01/25.
- Phương án 2: Không quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
Đồng ý: 24/25.
2. Thẩm quyền của Chính phủ quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
- Phương án 1: Quy định như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn :”Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chinh dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Đồng ý: 03/25.
- Phương án 2: Quy định thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính như tại Hiến pháp năm 1992, cụ thể là: Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chinh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chính phủ quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chinh dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đồng thời bổ sung quy định “Tiêu chí, trình tự, thủ tục quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chinh do luật định trên cơ sở lấy ý kiến nhân dân địa phương”.
Đồng ý: 10/25.
- Phương án 3: Quy định Quốc hội có thẩm quyền quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới của tất cả các đơn vị hành chính - lãnh thổ đồng thời bố sung quy định “Tiêu chí, trình tự, thủ tục quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chinh do luật định trên cơ sở lấy ý kiến nhân dân địa phương”.
Đồng ý: 12/25.
3. Về tính chất của Hội đồng nhân dân
- Phương án 1: tiếp tục quy định như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương” (khoản 1 Điều 116).
Đồng ý: 02/25.
- Phương án 2: Không quy định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Đồng ý: 23/25.
4. Về việc điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội liên quan đến Hội đồng nhân dân
- Chuyển nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn hoạt động của HĐND, bãi bỏ nghị quyết trái pháp luật của HĐND cấp tỉnh (khoản 6 Điều 79 Dự thảo) sang cho Chính phủ.
Đồng ý: 18/25.
Không đồng ý: 05/25.
- Giao cho Chính phủ nhiệm vụ, quyền hạn đình chỉ hoạt động HĐND cấp tỉnh vi phạm nghiêm trọng pháp luật gây thiệt hại lớn đến quyền và lợi ích của nhân dân và chuyển thẩm quyền giải tán HĐND đó từ UBTVQH (khoản 6 Điều 79 Dự thảo) sang cho Quốc hội.
Đồng ý: 24/25.
Không đồng ý: 01/25.
5. Về quy định không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường
- Phương án 1 - Quy định như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: “việc thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý”
Đồng ý: 10/25.
- Phương án 2 - Quy định không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường hoặc không tổ chức Hội đồng nhân dân ở huyện, quận, phường, xã
Đồng ý: 15/25.
6. Về quy định Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân vì lý do “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”.
- Phương án 1: Nhất trí với quy định như trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sủ dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế -xã hội” (khoản 3 Điều 58).
Đồng ý: 11/25.
- Phương án 2: Không nhất trí với quy định này và đề nghị chỉ thu hồi đất “trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” vì trong lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng đã bao hàm các dự án phát triển kinh tế -xã hội quan trọng (Danh mục các dự án phát triển kinh tế- xã hội thuộc loại này sẽ do luật định).
Đồng ý: 12/25.
Có 2 ý kiến khác:
+ Không tán thành cả 2 Phương án và đề nghị chỉnh sửa khoản 3 Điều 58 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”. Việc thu hồi đất phục vụ xây dựng các dự án phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của Luật đất đai.
+ Không tán thành cả 2 Phương án và có ý kiến khác: các dự án phát triển - kinh tế xã hội quan trọng đã bao hàm trong lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Việc thu hồi đất để phục vụ các dự án này nên do Chính phủ quy định việc bồi thường nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân mà không để nhà đầu tư tự thoả thuận với tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất.
7. Về quy định trưng cầu ý dân về Hiến pháp
- Phương án 1: đồng ý như quy định tại Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: “Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định” (khoản 4 Điều 124).
Đồng ý: 12/25.
- Phương án 2: quy định: “Dự thảo Hiến pháp được trưng cầu ý dân sau khi Quốc hội thông qua với ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành” đồng thời bổ sung quy định: “Trình tự, thủ tục trưng cầu ý dân do luật định”
Đồng ý: 10/25.
Ý kiến khác: 03 thành viên Chính phủ không tán thành cả 02 phương án, trong đó 02 đồng chí có ý kiến khác, cụ thể:
+ Đây là vấn đề hết sức mới, nhạy cảm, do vậy, cần nghiên cứu kỹ trước khi đưa vào Hiến pháp lần này.
+ Vấn đề trưng cầu ý dân không nên đặt ra trong Dự thảo Hiến pháp vì với các quy định hiện hành về trình tự, thủ tục xây dựng Hiến pháp của nhà nước ta đã loại bỏ sự cần thiết của việc trưng cầu ý dân (khoản 4 Điều 124).
[1] Cụ thể: Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Kiều Đình Thụ tham gia Đoàn kiểm tra tại Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước; Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường tham gia Đoàn kiểm tra tại Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình, Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam Nguyễn Xuân Thắng tham gia Đoàn kiểm tra tại Cần Thơ, Tiền Giang và thành phố Hồ Chí Minh; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên tham gia Đoàn kiểm tra tại Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai.
[2] Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nội vụ; Cao Bằng, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Điện Biên, Đồng Nai, Hà Nội, Nghệ An, Vĩnh Phúc.
[3] 07 vấn đề: (1) về quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội”; (2) về thẩm quyền của Chính phủ quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (3) về tính chất của Hội đồng nhân dân; (4) về việc điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội liên quan đến Hội đồng nhân dân; (5) về quy định không tổ chức Hội đồng nhân dân ở huyện, quận, phường; (6) về quy định Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân vì lý do “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”; (7) về quy định trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
[4] Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh...
[5] Bộ Tư pháp, Lào Cai, Yên Bái...
[7] Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…
[8] Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Dương, Bình Định, Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hòa Bình, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Đồng Nai, Đồng Tháp, Khánh Hòa, Kon Tum, Lai Châu, Long An, Lào Cai, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Nam Định, Nghệ An, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế, Trà Vinh, Tuyên Quang, Tây Ninh, Vĩnh Phúc, Yên Bái,…
[9] Có hơn 100 ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân trên Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ; có 35 bài viết nghiên cứu của các chuyên gia, 27 ý kiến đóng góp vào các điều, khoản cụ thể trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp,…
[10] Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nội vụ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Dân tộc, Hà Giang, Bình Phước, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Trà Vinh, Sóc Trăng, Ninh Thuận, Kon Tum, Hưng Yên, Hà Nam, Hậu Giang, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cao Bằng, Bình Thuận, Bắc Kạn, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Bạc Liêu, Bình Dương, Phú Thọ, Tuyên Quang, Cà Mau, Bắc Giang, Đồng Nai, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Vĩnh Long, An Giang, Gia Lai, Quảng Bình, Thanh Hóa, Yên Bái, Đắk Nông,…
[11] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đài Tiếng nói Việt Nam, Bộ Công an, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương, Sóc Trăng, Quảng Trị, Bình Thuận, Tiền Giang, Cần Thơ, Đăk Lăk, Bình Dương, Quảng Nam, Hải Phòng, Nam Định, Bạc Liêu, Vĩnh Long,…
[12] Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam, Kon Tum, Hải phòng, Đà Nẵng, Cao Bằng, Điện Biên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bình Dương, Nghệ An, Quảng Bình, Gia Lai,…
[13] Bộ Tài Chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội Vụ, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bình Phước, Lào Cai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Trị, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Bến Tre, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Bình Dương, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Đà Nẵng, An Giang, Đắk Nông, Gia Lai, Quảng Bình, Thanh Hóa, Yên Bái,…
[14] Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư pháp, Quảng Bình, Đà Nẵng, Quảng Trị, Vĩnh Long, Lạng Sơn, Long An, Sóc Trăng, TP. Hồ Chí Minh, Nghệ An, Thanh Hóa,…
[15] Bộ Nội vụ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Xây dựng, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh,…
[16] Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp, Bắc Ninh, Ninh Thuận, Quảng Trị, Sóc Trăng, Trà Vinh, Điện Biên, Hà Tĩnh, Nghệ An, An Giang, Tây Ninh, Thái Bình, TP. Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Đà Nẵng, Kiên Giang, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Sơn La, Phú Thọ, Hưng Yên, An Giang, Gia Lai, Quảng Bình, Bình Phước, Bắc Kạn, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Hải Dương, Bình Định, Cao Bằng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kon Tum, Hòa Bình, Quảng Ngãi, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Phú Thọ, Lai Châu, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Nam Định, Ninh Bình,...
[17] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,…
[18] Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Ninh Thuận, Hưng Yên, Lào Cai,…
[19] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Giang, Bình Phước, Vĩnh Phúc, Hậu Giang, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cao Bằng, Phú Thọ, Lai Châu, Gia Lai, Quảng Bình, Yên Bái, Khánh Hòa, Cần Thơ,…
[21] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Giang, Đắk Nông,…
[22] Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tấn xã Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Vĩnh Phúc, Hậu Giang, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cao Bằng, Phú Thọ, Vĩnh Long, Cao Bằng, TP. Hồ Chí Minh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Giang, Yên Bái, Gia Lai, Quảng Bình, Lâm Đồng, Bình Định, Nam Định,…
[23] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Công an, Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam; Lào Cai, Sóc Trăng, Kon Tum, Hưng Yên, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Bạc Liêu, Bình Dương, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Giang, Cà Mau, Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Long, An Giang, Quảng Bình, Đắk Nông, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đồng Tháp, Phú Yên, Lâm Đồng, Hải Dương, Thanh Hóa,…
[24] Ninh Thuận, Hậu Giang, Phú Thọ, Tuyên Quang, Lai Châu, Quảng Bình,…
[25] Hậu Giang, Ninh Thuận, Đà Nẵng, Quảng Bình,…
[27] Ninh Thuận, Hải Phòng, Quảng Bình,…
[29] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bình Thuận,…
[32] Bà Rịa - Vũng Tàu, Sơn La,…
[33] Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
[35] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông; Hà Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Ninh Thuận, Kon Tum, Hưng Yên, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Phú Thọ, Bắc Giang, Cà Mau, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Long, Quảng Bình, Đắk Nông,…
[36] Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[39] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ; Bình Thuận, Quảng Bình, Đắk Nông,…
[40] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ; Quảng Trị, Đà Nẵng, Bắc Kạn, Bạc Liêu, Lai Châu, Lào Cai, Quảng Bình, Đắk Nông,…
[41] Sóc Trăng, Quảng Trị, Bình Phước, Bắc Kạn, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Phú Thọ,…
[45] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thanh tra Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Xây dựng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Đài truyền hình Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Khoa học và Công nghệ; Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Hòa Bình, Bắc Kạn, Bình Dương, Lào Cai, Lạng Sơn, Lai Châu, Cao Bằng, Bình Dương, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Bình Phước, Đà Nẵng, Quảng Bình, Đắk Nông, Ninh Thuận, Đồng Tháp, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Hải Dương, Thái Bình,…
[46] Bộ Công thương, Bộ Công an, Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Vĩnh Phúc, Sóc Trăng, Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Phú Thọ, Sơn La, Bắc Ninh, Thanh Hóa, An Giang, Đồng Tháp, Phú Yên, Lâm Đồng, Hải Dương,…
[47] Lào Cai, Sóc Trăng, Ninh Thuận, Kiên Giang.
[48] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Đà Nẵng.
[49] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bắc Kạn.
[52] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Đài truyền hình Việt Nam, Văn phòng Chính phủ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thanh tra Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ; Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Hòa Bình, Bắc Kạn, Bình Dương, Lào Cai, Lạng Sơn, Lai Châu, Cao Bằng, Bình Dương, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Bình Phước, Đà Nẵng, Quảng Bình, Đắk Nông, Ninh Thuận, Đồng Tháp, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Hải Dương, Thái Bình.
[53] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
[54] Bộ Nội vụ, TP. Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Vĩnh Long, Ninh Thuận,…
[64] Bộ Quốc phòng, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giao thông và Vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam; Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bình Thuận, Cao Bằng, Đà Nẵng, Đắk Lắk...
[65] Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Quốc phòng, Thanh tra Chính phủ; Bình Dương, Đà Nẵng, Đắk Nông, Gia Lai, Lâm Đồng, Quảng Bình, Quảng Trị, Tây Ninh, Thanh Hóa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Bình Định, Bình Phước...
[66] Hải Dương, Phú Yên, Tuyên Quang...
[67] Bộ Giao thông và Vận tải, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Bình Dương, Gia Lai, Lâm Đồng, Tây Ninh, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang...
[68] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; An Giang, Bình Định…
[69] Bộ Quốc Phòng; Bình Dương, Gia Lai, Lâm Đồng, Quảng Trị, Tây Ninh, Tuyên Quang...
[70] Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công an, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Vĩnh Phúc, Bình Thuận, Đà Nẵng, Lào Cai, Lâm Đồng, Hà Nội, Tây Ninh, Quảng Trị, Quảng Bình, Hải Dương, Cần Thơ...
[71] Lâm Đồng, Tây Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương…
[72] Bộ Khoa học và Công nghệ.
[73] Bộ Tài chính, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Hải Phòng...
[74] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
[75] Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Gia Lai, Quảng Bình, Yên Bái, Tiền Giang, Bắc Ninh, An Giang...
[76] Bộ Kế hoạch và Đầu tư; An Giang, Tiền Giang...
[77] Thanh tra Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Yên Bái, Bình Định, Gia Lai, Quảng Bình, Đắk Lắk...
[78] Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng; An Giang, Bắc Kạn, Bình Thuận, Bình Phước, Cà Mau, Cao Bằng, Điện Biên, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Nam, Hà Nội, Quảng Bình, Kiên Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Long An, Sóc Trăng, Sơn La, Quảng Trị, Thanh Hoá, Tiền Giang, Vĩnh Phúc, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Định, Cần Thơ, Đắk Lắk,…
[79] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Công an; Bạc Liêu, Bắc Giang, Bình Dương, Gia Lai, Hà Nội, Hậu Giang, Hòa Bình, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Thanh Hoá, Trà Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kon Tum, An Giang, Cà Mau, Cao Bằng, Hưng Yên, Lào Cai...
[80] Bộ Tư pháp, An Giang...
[81] Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Quảng Bình, Kon Tum...
[82] Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao, Uỷ ban Dân tộc; An Giang, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Đà Nẵng, Gia Lai, Hà Giang, Hậu Giang, Hưng Yên, Lạng Sơn, Lào Cai, Ninh Thuận, Quảng Bình, Thanh Hoá...
[83] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đài Tiếng nói Việt Nam, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương, Sóc Trăng, Quảng Trị, Bình Thuận, Tiền Giang, Cần Thơ, Đăk Lăk, Bình Dương, Quảng Nam, Hải Phòng, Nam Định,…
[84] Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ, Ban Quản lý lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban Dân tộc; Gia Lai, Quảng Bình, Yên Bái, Tiền Giang...
[85] Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao...
[86] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Dân tộc; Gia Lai, Quảng Bình, Yên Bái, Tiền Giang...
[87] Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Xây dựng...
[88] Bộ Nội vụ, Thông tấn xã Việt Nam, Quảng Bình...
[89] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đắk Lắk, Gia Lai…
[90] Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Ủy ban Dân tộc, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Xây dựng, Đà Nẵng, Bắc Ninh...
[91] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Đài tiếng nói Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Gia Lai, Quảng Bình...
[92] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng...
[93] Bộ Y tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Công an, Đài Tiếng nói Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Xây dựng; Gia Lai, Quảng Bình, An Giang, Bến Tre, Bình Định, Bình Thuận...
[94] Đa số ý kiến (trong Báo cáo của 30 Bộ, ngành và 63 địa phương) tham gia đều nhất trí về việc quy định, cũng như các nội dung các quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.
[95] Bộ Xây dựng, Bộ Công an, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, TP Hồ Chí Minh,…
[97] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Khánh Hòa, Trà Vinh, Hà Nội, Quảng Ngãi,…
[98] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kiên Giang, Kon Tum, Ninh Thuận, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Quảng Bình, Ninh Bình, Cần Thơ, Đắk Lắk, Điện Biên, Tuyên Quang, Gia Lai, TP Hồ Chí Minh,…
[99] Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Cà Mau, Kon Tum, Lạng Sơn, Ninh Thuận,…
[102] Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Hà Nội, Hải Phòng, An Giang,…
[103] Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, An Giang,…
[104] Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Thái Nguyên, Cà Mau, Hậu Giang, Điện Biên.
[105] Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Nam Định, Cần Thơ, Bình Dương, Đắk Lắk, Lai Châu, Kon Tum, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Hà Nội, Lâm Đồng, Yên Bái,…
[106] Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Bắc Kạn, Khánh Hòa, Điện Biên,…
[107] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
[108] Bộ Tư pháp, Thanh Tra Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Khánh Hòa, An Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nam, Lai Châu, Cần Thơ,…
[109] Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ, Khánh Hòa,…
[110] Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Thái Nguyên, Cà Mau, Hậu Giang, Hà Nội, Hải Phòng, An Giang,…
[111] Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bình Phước, Quảng Bình, TP Hồ Chí Minh,…
[112] Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao; Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Bình Phước, Hà Giang, Quảng Trị, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thanh Hóa, Quảng Bình, Lâm Đồng, Hà Nội, Bình Dương,…
[113] Bộ Thông tin - Truyền thông; Lào Cai, Bắc Kạn, Bến Tre, TP. Hồ Chí Minh,…
[115] Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Đà Nẵng, Quảng Trị, Hải Phòng, Quảng Bình,…
[116] Bộ Tư pháp, Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải; Bắc Ninh, Hải Phòng, Bình Phước, Thanh Hóa, Quảng Bình, TP Hồ Chí Minh,…
[117] Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông vận tải, Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Hải Phòng, Bình Phước, Quảng Trị,…
[118] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp, Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Thanh tra Chính phủ, Hà Giang, Bình Phước, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Quảng Bình, TP Hồ Chí Minh,…
[119] Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ủy ban dân tộc và miền núi, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bắc Ninh, Bình Phước, Quảng Trị, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lào Cai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Kạn, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bến Tre, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Cao Bằng, Hải Phòng, Bộ Y tế, Bộ Thông tin - Truyền thông, tỉnh Quảng Bình, Thanh Hóa, Hà Nội, Lâm Đồng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Bộ Tài chính, Đài Truyền hình Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính phủ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,…
[120] Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tây Ninh, Hải Dương, Thanh Hóa, Lạng Sơn, Bến Tre, Hải Phòng, Điện Biên, Bắc Kạn, Cà Mau, Gia Lai, Hậu Giang, Nam Định, Thái Nguyên,…
[121] Bộ Tài chính, Trà Vinh, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,…
[122] Bộ Nôi vụ, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; Hà Giang, Bạc Liêu, Gia Lai, Hưng Yên, Nam Định, Thái Nguyên, Quảng Trị, Phú Thọ, Hải Phòng,…
[123] Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam,…
[124] Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế; Điện Biên, Bình Phước, Quảng Trị, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Nam Định,…
[125] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Trị, Bình Phước, Bạc Liêu, Lạng Sơn, An Giang, Bến Tre, Đà nẵng, TP Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Cà Mau, Nam Định, Thái Nguyên,…
[127] Bộ Tài chính, Quảng Trị,...
[128] Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[129] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Quảng Trị,…
[130] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Bình Phước, An Giang,…
[131] Quảng Trị, Ninh Thuận, Nghệ An, Vĩnh Long, Trà Vinh,…
[132] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Kon Tum, Long An,…
[133] Bộ Giao thông vận tải, Tây Ninh,…
[134] Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng; Lào Cai, Quảng Trị, Điện Biên, Ninh Thuận, Lạng Sơn, Đà Nẵng,…
[136] Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế; Cao Bằng, Ninh Thuận, Lạng Sơn,…
[138] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Đà Nẵng,…
[139] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính Phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Thông tấn xã Việt Nam; Quảng Trị, Lào Cai, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Cà Mau, Gia Lai, Nam Định, Nghệ An, Thái Nguyên, Sơn La,…
[140] Tiền Giang, Đăk Lăk, Cần Thơ (3.220/3.220), Thừa Thiên Huế, Ngân hàng Nhà nước (17/17), Bình Định, Nam Định (124/140 ý kiến), Ninh Bình (56/299 ý kiến), Đài truyền hình Việt Nam, Đăk Nông (467/467 ý kiến), Hải Dương, Lâm Đồng, Phú Yên, Ủy ban dân tộc, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Vĩnh Phúc, Ninh Thuận (169/169),…
[141] Đăk Nông (467/467 ý kiến), Tiền Giang, Đăk Lăk, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế, Đài truyền hình Việt Nam, Hà Nội, Phú Yên, Ủy ban Dân tộc, Vĩnh Phúc,…
[142] Tiền Giang, Đăk Lăk, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế,…
[143] Đài truyền hình Việt Nam
[144] Bình Định (02 ý kiến,) Bộ Quốc phòng, Sóc Trăng, Quảng Ngãi (2/80 ý kiến), Thừa Thiên Huế (1 ý kiến),…
[145] Bộ Quốc phòng, Sóc Trăng,…
[147] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (3/75 ý kiến)
[148] Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
[149] Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp; Quảng Trị, Hưng Yên, Phú Thọ, Quảng Bình, Bình Định, Tiền Giang, Hà Giang, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ…
[150] Bộ Nội vụ; Cao Bằng (10 ý kiến), Bắc Giang (48/126 ý kiến), Kiên Giang (2 ý kiến), An Giang (1 ý kiến), Quảng Trị, Ninh Thuận, Quảng Ninh, Hà Giang, Tiền Giang…
[151]Bộ Công an, Bộ Tư pháp; Hưng Yên (2 ý kiến), Cà Mau,…
[152] Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Ủy ban dân tộc, Văn phòng Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường; Lào Cai, Hưng Yên, Bắc Giang, Ninh Thuận, Quảng Bình, Đồng Tháp, Quảng Ninh, Bình Dương, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Dương, Thái Bình, Tiền Giang, Hà Giang, Nam Định, Đắk Lắk, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ…
[153] Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bắc Giang, Đồng Tháp, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bình Định, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Điện Biên, Ninh Thuận, Nam Định…
[154] Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Ủy ban Dân tộc, Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và truyền thông, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Ngoại giao, Bình Định, Thanh Hóa; Đăk Nông, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Tây Ninh, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Sóc Trăng, Quảng Nam, Bắc Giang, Cao Bằng, Quảng Bình, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Tiền Giang, Hà Giang, Nam Định, Đắk Lắk, Kiên Giang, Quảng Ninh,…
[155]Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (ý kiến tổ chức), Bộ Quốc phòng, Phú Thọ, Bình Định, Thanh Hóa (10 ý kiến), Kiên Giang (3/13 ý kiến), Quảng Ninh (39/25.962 ý kiến), Hưng Yên (3 ý kiến), Thừa Thiên Huế (3 ý kiến), Đăk Lăk,…
[156] Bộ Công an (20/99 ý kiến); Bình Định (1 ý kiến), Quảng Bình (17/91 ý kiến), Thừa Thiên Huế (1 ý kiến), Hải Dương (1 ý kiến), Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội…
[157] Tuyên Quang, Bộ Công an, Lào Cai, Ninh Bình, Hải Dương, Lâm Đồng, Ủy ban dân tộc…
[158] Bộ Quốc phòng; Quảng Bình, Tiền Giang, Nam Định, Đắk Lắk, Cần Thơ,…
[159] Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; Cà Mau, Tiền Giang, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ,…
[160] Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên và Môi trường; Tuyên Quang, Quảng Ninh, Tiền Giang, Thừa Thiên Huế,…
[164] Nghệ An, Bạc Liêu,…
[166] Tiền Giang, Tuyên Quang,…
[167] Kiên Giang, Ninh Thuận,…
[168] Tiền Giang (1 ý kiến).
[169] Văn phòng Chính phủ , Phú Thọ (714/714 ý kiến trong đó có 14 ý kiến cá nhân); Tuyên Quang (1 ý kiến), Đà Nẵng, Hải Phòng, Kon Tum, Vĩnh Long,…
[170] Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lạng Sơn,…
[171] Bộ Công an, Cà Mau, Thái Bình,…
[172] Lào Cai, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
[173] Bộ Tư pháp, Thái Bình, Thanh Hóa, Lào Cai, Thừa Thiên Huế, Trà Vinh,…
[174] Bắc Giang, Hà Tĩnh, Nghệ An, An Giang; Quảng Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cao Bằng, Thanh Hóa, Đồng Tháp, Cần Thơ, Băk Kạn, Lào Cai,…
[175] Tuyên Quang, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Đăk Lăk, Bình Phước,…
[176] Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ xây dựng, Bộ Tài chính, Ủy ban Dân tộc, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Phú Yên, Tuyên Quang, Cà Mau, Cao Bằng, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Ninh, Quảng Trị, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Bắc Ninh, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bắc Kạn, Bình Thuận, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hậu Giang, Hưng Yên, Kon Tum, Ninh Thuận, Long An, Hòa Bình, Điện Biên, Bình Dương, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Vĩnh Long,…
[177] Phú Yên, Quảng Ninh, Tiền Giang, Nam Định, Cần Thơ, Bắc Ninh, Ninh Thuận, Lạng Sơn,…
[178] Uỷ ban Dân tộc, Phú Yên, Tuyên Quang, Bộ Thông tin và Truyền thông, Cà Mau, Cao Bằng, Hà Tĩnh, Nghệ An, Bộ Xây dựng, Kiên Giang, Quảng Ninh, Tiền Giang, Phú Thọ,…
[179] Bộ Công An, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh,…
[180] Nghệ An (72 ý kiến).
[181] Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[182] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
[183] Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Đăk Lăk,…
[184] Thái Bình (1 ý kiến), Cà Mau (89 ý kiến), Nghệ An (146 ý kiến), Thanh Hóa (7 ý kiến), Đồng Nai, Nam Định, Cần Thơ, Bình Phước, Bình Thuận, Hưng Yên, Điện Biên,…
[186] Thái Bình (1 ý kiến), Cà Mau (89 ý kiến), Nghệ An (146 ý kiến), Thanh Hóa (7 ý kiến), Đồng Nai, Tiền Giang (1 ý kiến), Nam Định, Cần Thơ,…
[187] Tuyên Quang (1 ý kiến), Nghệ An (318 ý kiến), An Giang, Cần Thơ, Đà Nẵng, Vĩnh Long, Ninh Thuận,…
[188] Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Bắc Giang (36 ý kiến), Trà Vinh, Sóc Trăng,…
[190] Đồng Nai (2/5 ý kiến), Thừa Thiên Huế,…
[191] Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Ninh,…
[192] Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại Giao, Bình Dương,…
[194] Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao.
[195] Bình Dương, Cần Thơ.
[196] Kiên Giang, Đăk Lăk, Ninh Thuận,…
[197] Bộ Công An, Thừa Thiên Huế (1 ý kiến).
[198] Tây Ninh (2 ý kiến).
[199]Thái Bình, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Nghệ An (71 ý kiến); Thanh tra Chính phủ (6 ý kiến), Kiên Giang (1/1 ý kiến), Bộ Tư pháp (1/67 ý kiến); Thái Nguyên (1217/12.045 ý kiến); Quảng Ninh (829/25.050 ý kiến), Đăk Lăk, Tiền Giang (1 ý kiến), Hải Phòng, Tây Ninh (2 ý kiến), Ninh Thuận, Đà Nẵng,…
[200] Tuyên Quang (2 ý kiến), Hà Tĩnh, Nghệ An (15 ý kiến), Bộ Tư pháp (2/67 ý kiến), Đồng Nai (1 ý kiến), Tiền Giang (1 ý kiến), Cần Thơ, Bà rịa – Vũng tàu, Bình Phước, Bắc Ninh, Sóc Trăng, Quảng Nam, Băk Kan, Đà Nẵng, Kon Tum, Ninh Thuận, Phú Yên, Long An, Hòa Bình, Điện Biên,…
[201] Bộ Tư pháp, Cà Mau, Tiền Giang (19 ý kiến), Đăk Lăk,…
[202] Tuyên Quang (1 ý kiến), Tiền Giang (14 ý kiến),…
[203] Bình Dương (02 ý kiến), Bộ Tư pháp (3/67 ý kiến), Đà Nẵng, Bộ Tài chính, Lạng Sơn,…
[204] Bà Rịa - Vũng tàu, Quảng Trị, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (3 ý kiến).
[205] Thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Ủy ban dân tộc, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Long,…
[206] Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (3 ý kiến).
[207] Phú Yên (122 ý kiến), Bắc Giang (60 ý kiến),…
[209] Cà Mau, Bình Dương, Tuyên Quang, Hưng Yên, Vĩnh Long,…
[210] Bình Dương (1 ý kiến).
[211] Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân tộc, Quảng Ngãi, Thái Nguyên (1.034/12.045 ý kiến), Thanh Hóa,…
[212] Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Tĩnh, Bình Dương, Bắc Giang, Tuyên Quang, Kiên Giang,…
[213] Bình Dương (1 ý kiến).
[214] Bắc Giang (66 ý kiến).
[215] Bình Dương (1 ý kiến).
[216] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Thái Bình, An Giang, Nghệ An, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Cần Thơ,…
[217] Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[218] Thái Bình, An Giang, Nghệ An (1342 ý kiến).
[219] Cà Mau (1 ý kiến), Bảo Hiểm xã hội Việt Nam.
[221] Bình Dương (1 ý kiến), Bộ Xây dựng (1 ý kiến), Cần Thơ (2 ý kiến).
[222] Bến Tre, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Thuận, Điện Biên, Lào Cai, Phú Yên, Tuyên Quang, Cà Mau, Nghệ An, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Gia Lai, Quảng Bình, Đồng Tháp, Quảng Trị, Hà Giang, Bà Rịa – Vũng tàu, Cao Bằng
[223] Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bình Dương, Nghệ An, Cao Bằng, Cà Mau, Hà Giang (11 ý kiến), Nam Định, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ.
[225] Phú Yên (22/456 ý kiến), Tuyên Quang (3 ý kiến), Cà Mau (5 ý kiến), Nghệ An (1204 ý kiến), Lào Cai (19 ý kiến), Hà Giang (11 ý kiến).
[226] Bến Tre, Quảng Trị, Lào Cai, Hà Giang
[228] Đắk Nông, Bình Dương, Gia Lai, Hà Giang...
[229] Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Nam Định, Kiên Giang, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương, 415 lượt ý kiến của các cá nhân tại các tọa đàm, hội thảo, hội nghị, các bài viết nghiên cứu, đóng góp ý kiến trên trang các trang thông tin điện tử.
[230] Tuyên Quang, Điện Biên, Trà Vinh, Sóc Trăng, có 445 lượt ý kiến của các cá nhân tại các tọa đàm, hội thảo, hội nghị, các bài viết nghiên cứu, đóng góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
[231] Bộ Tư pháp, Tuyên Quang, Sóc Trăng, Lâm Đồng..., có 365 ý kiến lượt ý kiến của các cá nhân tại các tọa đàm, hội thảo, hội nghị, các bài viết nghiên cứu, đóng góp ý kiến trên trang các trang thông tin điện tử.
[232] Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ngân hàng nhà nước, Bộ Ngoại giao, Học viện Hành chính - Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Bắc Ninh, Quảng Trị, Lào Cai, Kon Tum, Quảng Nam, Tuyên Quang, Bình Dương, Phú Thọ, Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hưng Yên, Sóc Trăng…
[233] Bộ Tài chính, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Hàn lâm Khoc học xã hội Việt Nam, Học viện Hành chính - Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Tuyên Quang, Sóc Trăng,…
[234] Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lào Cai, Điện Biên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Kon Tum, Sóc Trăng, Bình Phước, Tuyên Quang, Bình Dương, Phú Thọ, Nghệ An, Đắk Nông, Thừa Thiên Huế,…
[235] Bộ Ngoại giao, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,…
[236] Quảng Trị, Bạc Liêu, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bình Dương, Bộ Giao thông vận tải , Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Vĩnh Phúc…
[237] Đà Nẵng, Điện Biên, Hà Giang, Lai Châu, Bạc Liêu…
[238] Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Bộ Giáo dục và Đào tạo,….
[239] Nghệ An, Điện Biên, Hải Phòng, Hưng Yên, Tiền Giang, Bộ Nội vụ, Ninh Thuận, Cần Thơ, Trà Vinh…
[240] Bộ Công An, Đà Nẵng, Nghệ An, Tiền Giang,…
[241] Tuyên Quang, Điện Biên, Lâm Đồng, Hồ Chí Minh, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bộ Tài chính,…
[242] Bạc Liêu, Bến Tre, Phú Yên, Ninh Thuận…
[243] Bến Tre, Sóc Trăng, Đồng Nai, Kiên Giang, Ninh Thuận,…
[244] Bộ Giao thông vận tải, Quảng Trị, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Hải Phòng, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bình Dương, Phú Thọ, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang,…
[245] Bộ Công an, Bắc Kạn, Bến Tre, Hưng Yên, Ninh Thuận, Thừa Thiên Huế,…
[246] Kon Tum, Bộ Công an, Sóc Trăng, Cần Thơ...
[247] Tuyên Quang, Đăk Lăk, Đăk Nông, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng,…
[248] Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Long,…
[249] Đà Nẵng, Bộ Quốc phòng, Học viện Hành chính - Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Công an, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,…
[250] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Kiên Giang, Trà Vinh, Gia Lai, Sóc Trăng, Đồng Nai, Phú Yên...
[251] Văn phòng Chính phủ, Cà Mau, Bình Dương, Bộ Ngoại giao...
[252] Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bình Dương, Bạc Liêu, Cà Mau,…
[255] Bộ Ngoại Giao, Bạc Liêu, Cà Mau,…
[256] Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tiền Giang, Điện Biên, Tây Ninh, Kiên Giang, Bắc Ninh, Bình Thuận, Đăk Lăk,…
[257] Thanh tra Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công an, Tây Ninh, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Bình Phước, Vĩnh Phúc, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Đà Nẵng, Kiên Giang, Ninh Thuận, Tuyên Quang,…
[258] Đăk Nông, Trà Vinh, Bến Tre...
[259] Bắc Ninh, Bộ Tư pháp, Trà Vinh, Thái Bình,…
[260] Bộ Công an, Đăk Lăk,…
[262] Đăk Lăk, Sóc Trăng, An Giang…
[263] Bắc Ninh, Trà Vinh, Đăk Nông, Gia Lai,…
[264] Bộ Quốc Phòng, Quảng Trị, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hậu Giang, Ninh Thuận, Cần Thơ, An Giang, Lâm Đồng,…
[265] Bộ Thông tin truyền thông, Tây Ninh, Lào Cai, Bạc Liêu, Kon Tum,…
[266] Tỉnh Quảng Trị, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Nguyên, Sơn La, Hải Phòng, Hậu Giang, Kon Tum, Tuyên Quang, Nghệ An,…
[267] Đà Nẵng, Bình Thuận, Kiên Giang,…
[268] Bà Rịa - Vũng Tàu, Ninh Thuận, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đà Nẵng, Đắk Nông, Tây Ninh,…
[270] Điện Biên, Bộ Công an, Đăk Lăk, Ngân hàng nhà nước, Bình Phước, Hà Giang, Lào Cai, Quảng Trị, Vĩnh Phúc, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bình Thuận, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hậu Giang, Hưng Yên, Kon Tum, Ninh Thuận, Quảng Nam, Kiên Giang, Yên Bái, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Bình Dương, Phú Thọ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quảng Ngãi, Nghệ An, Quảng Bình, TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Bộ Nội Vụ, Gia Lai, Đắc Nông, Cần Thơ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Vĩnh Long...
[271] Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Ngoại giao, Viện Hàn lâm khoa học và Cộng nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ủy ban Dân tộc, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải (đồng ý với Báo cáo chuyên đề Chính phủ), Kon Tum, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cao Bằng, Điện Biên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bình Dương, Nghệ An, Quảng Bình, Gia Lai, Lâm Đồng, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Bình Định, Cần Thơ, Đắk Lắk,…
[272] Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam, Kon Tum, Hải phòng, Đà Nẵng, Cao Bằng, Điện Biên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bình Dương, Nghệ An, Quảng Bình, Gia Lai,…
[275] Bộ Tư pháp, Bộ Công an; Hải Phòng...
[276] Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Long An, Quảng Trị...
[277] Quảng Ninh, Bắc Giang, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Nam Định, Hà Nội...
[278] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ...
[279] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...
[281] Sơn La, Bộ Tư pháp,…
[282] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Hải Phòng, Long An,…
[283] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ,…
[284] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Kiên Giang…
[285] Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Hòa Bình, Đà Nẵng…
[286] Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Quảng Trị, Lâm Đồng, Quảng Bình, Ninh Thuận…
[287] Hải Phòng, Ủy ban Dân tộc, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ…
[288] Ninh Thuận, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ…
[290] Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ…
[291] Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp…
[292] Quảng Ninh, Ninh Thuận…
[293] Bà Rịa - Vũng Tàu, Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành và chuyên gia, nhà khoa học (ý kiến góp ý vào dự thảo chuyên đề Chính phủ).
[294] Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành và chuyên gia, nhà khoa học (ý kiến góp ý vào dự thảo chuyên đề Chính phủ).
[295] Quảng Trị, Ninh Thuận, Hưng Yên, Hậu Giang, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bắk Kạn, Bình Dương, Vĩnh Long, Hưng Yên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nghệ An…
[296] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
[297] Lào Cai, Lai châu, Hưng Yên, Bộ Thông tin và Truyền thông, Yên Bái, Thanh Hóa, Gia Lai, Ủy ban Dân tộc…
[298] Quảng Trị, Bến Tre...
[300] Ninh Thuận, Quảng Nam, Hải Phòng, Tuyên Quang, Quảng Bình,…
[301] Thái Bình, Trà Vinh, Cà Mau...
[302] Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Hành chính - Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Thái Bình, An Giang, Đồng Tháp, Đăk Nông, Yên Bái, TP. Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Quảng Nam, Hải Phòng, Tuyên Quang, Bạc Liêu, Nghệ An, Bình Phước, Điện Biên, Hòa Bình, Kon Tum, Long An, Bộ Tư pháp, Hà Nội, Nam Định, Cần Thơ,…
[303]Tuyên Quang, Nghệ An, Bình Phước, Nam Định,…
[305] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
[306] TP. Hồ Chí Minh, Cà Mau, Bộ Xây dựng,…
[307] Nghệ An (321 ý kiến), Tiền Giang, An Giang,…
[308] Hà Nội, Sơn La, Nghệ An (214 ý kiến), Quảng Bình, Giai Lai, Hải Phòng, Ninh Thuận, Cao Bằng, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Nam Định, Ủy ban dân tộc...
[309] Bạc Liêu, Đăk Lăk, Đăk Nông, Trà Vinh, Lâm Đồng, Tiền Giang ...
[310] Bắc Ninh, Kiên Giang, Trà Vinh, Lâm Đồng,…
[311] Thanh Hóa, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp,…
[312] Kon Tum, Hà Nội, Kiên Giang, Thái Nguyên,…
[313] Bộ Tài Chính, Quảng Ninh, TP. Hồ Chí Minh,…
[314] Điện Biên, Nghệ An, Lâm Đồng,…
[315] TP. Hồ Chí Minh, Bình Phước, Phú Thọ, Quảng Ninh, Đắk Nông, Hà Nội,…
[316] Hải Dương, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Ninh Bình, An Giang, Bộ Công an, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Gia Lai, Quảng Ninh, Quảng Nam, Tuyên Quang, Hưng Yên, Hải Phòng, Bộ Tư pháp, Ninh Thuận, Điện Biên, Long An, Bình Dương, Bộ Giao thông vận tải, Hà Tĩnh, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Trị, Cao Bằng, Hà Nội, Đà Nẵng, Nam Định (05 ý kiến),…
[317] Khánh Hòa, Đắc Lắc, Tiền Giang, Bình Định, Lâm Đồng, Hà Nội, Thái Bình, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Gia Lai, Tây Ninh, Yên Bái, Lạng Sơn, Quảng Bình, An Giang, Phú Thọ, Tuyên Quang, Kiên Giang, Bắc Kạn, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bến Tre, Bạc Liêu, Hưng Yên, Điện Biên, Hòa Bình, Bình Phước, Kon Tum, Bộ Giao thông vận tải, Cà Mau, Hà Tĩnh, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Nghệ An (566 ý kiến của cơ quan, đơn vị), Hải Phòng, Cần Thơ, Ngân hàng Nhà nước,…
[318] Quảng Ninh, Gia Lai, Đăk Nông, Bắc Kạn, Hải Phòng, Ninh Thuận, TP. Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Bình Phước, Hà Tĩnh,…
[319] Hà Nội, Nam Định, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Quảng Trị, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Yên Bái, Hải Phòng, Bình Dương, Tuyên Quang, Điện Biên, Quảng Ngãi, Bộ Giao thông vận tải, Thanh Hóa, Bộ Công an, Cà Mau,…
[320] Hà Nội, Bộ Tài Chính, Đồng Tháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Yên Bái, Bắc Kạn, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bộ Tư pháp, Nam Định, Nghệ An,…
[321] Hà Nội, Đắk Lắk, Bộ Ngoại giao, Học viện Hành chính - Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Gia Lai, Đồng Tháp, Bình Phước, Quảng Nam, Điện Biên, Bến Tre, Phú Thọ, Quảng Bình, Đăk Nông, Nghệ An, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cà Mau, Hải Phòng, Long An, Ngân hàng nhà nước Việt Nam,…
[322] Lâm Đồng, Tiền Giang, Thừa Thiên Huế, Ninh Bình, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Trị, Đồng Tháp, Sơn La, Tây Ninh, Gia Lai, Vĩnh Long, Cà Mau, Yên Bái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bạc Liêu, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Quảng Ninh, Nghệ An, Điện Biên, Hòa Bình, Bắc Kạn, Kon Tum, Tuyên Quang,…
[323] Hà Nội, An Giang, Đắc Lắc, Long An, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Hải Phòng, Vĩnh Long, Lai Châu, Yên Bái, Quảng Bình, Bình Định,…
[324] Hà Nội, Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an, Tuyên Quang, Quảng Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hà Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Bộ Tư pháp, Bắc Kạn, Bắc Giang, Cà Mau, Vĩnh Long, Đăk Nông...
[325] Hà Nội, Bộ Tài Chính, Bộ Công an, Gia Lai, Cà Mau, Đắc Nông, Nam Định, Bộ Tư pháp, Lạng Sơn, Yên Bái, Bắc Giang, Bình Dương, Bắc Kạn, Bến Tre, Bắc Ninh, Bình Phước, Bộ Quốc Phòng, Hà Giang, Vĩnh Long, Ninh Thuận, Nghệ An, Quảng Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Lao Cai, Điện Biên, Kon Tum, Kiên Giang, Quảng Bình,…
[326] Hải Dương, Bình Định, Lâm Đồng, Hà Nội, Kon Tum, Bộ Tư pháp, Ninh Thuận, Hà Giang, An Giang, Tây Ninh, Quảng Ngãi, Gia Lai, Bắc Kạn, Quảng Bình, Hải Phòng, Kiên Giang,…
[327] Quảng Ninh, Bình Dương, Phú Thọ, TP. Hồ Chí Minh, Bạc Liêu, Bình Phước, Tuyên Quang, Quảng Trị, Kon Tum, Bình Định, Cần Thơ,…
[328] Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Điện Biên, Bạc Liêu, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bình Phước, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tài Chính, Lâm Đồng, Bình Định, Ninh Bình,…
[329] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế; Cần Thơ, Bắc Ninh, Bình Phước, Hà Giang, Lào Cai, Quảng Trị, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Bến Tre, Bình Thuận, Cao Bằng, Hải Phòng, Hưng Yên, Kiên Giang, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Phú Yên, Hòa Bình, Long An, Quảng Ngãi, Nghệ An, Quảng Ninh, An Giang, Thanh Hóa, Gia Lai, Yên Bái, Quảng Bình, Đắk Nông, TP. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Hải Dương, Thái Bình...
[332] Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Ninh Bình, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế...
[333] Bộ Tài chính; Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Nghệ An, Hải Phòng, Sơn La, Lạng Sơn, Quảng Ninh...
[334] Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Văn phòng Chính phủ; Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Nghệ An, Bình Định, Nam Định, Ninh Bình...
[336] Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Văn phòng Chính phủ; Bắc Ninh, Ninh Thuận, Quảng Trị, Sóc Trăng, Trà Vinh, Điện Biên, Hà Tĩnh, Nghệ An, An Giang, Tây Ninh, Điện Biên, Thái Bình, TP Hồ Chí Minh…
[337] Bộ Y tế, Bộ Tài chính; Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Ninh Thuận, Quảng Trị, Sóc Trăng, Trà Vinh, Điện Biên, Hà Tĩnh, Nghệ An, An Giang, Tây Ninh...
[338] Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao; Bình Thuận, Đà Nẵng, Kiên Giang, Bắc Ninh, Lào Cai, Sóc Trăng, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Sơn La, Phú Thọ, Hưng Yên, Nghệ An, Quảng Ninh, An Giang, Gia Lai, Quảng Bình, Bình Phước, Quảng Trị, Bắc Kạn, Hưng Yên, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Hải Dương, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Định, Cao Bằng, Tây Ninh, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế...
[340] Bộ Công an; Cao Bằng, Lào Cai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Vĩnh Long, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Yên Bái, Nghệ An, Quảng Bình...
[341] Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Bình Thuận, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hưng Yên, Bạc Liêu, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kon Tum, Ninh Thuận, Quảng Trị, Quảng Nam, Sóc Trăng, Trà Vinh, Điện Biên, Hòa Bình, Quảng Ngãi, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Phú Thọ, Lai Châu, Lạng Sơn, Quảng Ninh, An Giang, Gia Lai, Quảng Bình, Đắk Nông, Tây Ninh, Lâm Đồng, Hải Dương, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Khánh Hòa, Nam Định, Ninh Bình.
[342] Bộ Tư pháp, Đà Nẵng, Nam Định...
[343] Bộ Nội vụ; Bình Thuận, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hưng Yên, Bạc Liêu, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kon Tum, Ninh Thuận, Quảng Trị, Quảng Nam, Sóc Trăng, Trà Vinh, Điện Biên, Hòa Bình, Quảng Ngãi, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Phú Thọ, Lai Châu, Lạng Sơn, Quảng Ninh, An Giang, Gia Lai, Quảng Bình, Đắk Nông, Tây Ninh....
[344] Bộ Ngoại giao; TP Hồ Chí Minh...
[345] Bộ Nội vụ; TP Hồ Chí Minh, Thái Bình...
[346] TP Hồ Chí Minh, Hải Dương, Hà Nội, Bến Tre, Đà Nẵng, Quảng Trị, Điện Biên...
[347] TP Hồ Chí Minh, Hải Dương, Đắk Nông...
[348] Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Đà Nẵng, Hà Nội, Kiên Giang, Ninh Thuận, Trà Vinh, Nghệ An, Quảng Ninh, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hậu Giang, Hưng Yên, Kon Tum, Phú Thọ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc...
[349] Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao; Sóc Trăng, Kon Tum, Trà Vinh, Cao Bằng, Hậu Giang, Kiên Giang, Ninh Thuận, Điện Biên, Hòa Bình, Quảng Ngãi, Vĩnh Long, Nghệ An, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Hải Dương, Thái Bình, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Sơn La, Phú Thọ, Cà Mau...
[350] Đà Nẵng, Bắc Ninh, Kiên Giang, Lào Cai, Đà Nẵng, Sóc Trăng, Long An, Nghệ An, Gia Lai, Quảng Bình, Đắk Nông, Hà Nội...
[351] Bình Phước, Bắc Kạn, Hưng Yên, Hà Nội...
[352] Bộ Quốc Phòng, Hà Giang...
[353] Thanh tra Chính phủ.
[354] Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Yên Bái...
[356] Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội Vụ, Bộ Y tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bình Phước, Lào Cai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Trị, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Bến Tre, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Bình Dương, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Đà Nẵng, An Giang, Đắk Nông, Gia Lai, Quảng Bình, Thanh Hóa, Yên Bái, Bình Định, Cần Thơ, Nam Định, Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh....
[357] Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội Vụ, Bộ Y tế; Bình Phước, Lào Cai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Trị, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Bến Tre, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Bình Dương, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Đà Nẵng, An Giang, Đắk Nông, Gia Lai, Quảng Bình, Thanh Hóa, Yên Bái...
[358] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế; Quảng Trị, Đồng Nai, Lai Châu, Thanh Hóa, Bình Thuận...
[359] Bộ Tài chính, Bộ Y tế; Lào Cai, Bến Tre, Bình Thuận, Điện Biên, Phú Thọ, Vĩnh Long...
[360] Bà Rịa - Vũng Tàu, Cao Bằng, Ninh Thuận, Quảng Nam, Điện Biên, Trà Vinh, Long An, Tuyên Quang, Cà Mau, Đồng Nai, Lạng Sơn, Sóc Trăng, An Giang, Đắk Nông, Gia Lai, Thanh Hóa...
[361] Bảo Hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Nội Vụ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Bắc Kạn, Hậu Giang, Hưng Yên, Kiên Giang, Ninh Thuận, Quảng Nam, Trà Vinh, Điện Biên, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Ninh, Hà Giang, Quảng Trị, Bến Tre, Hòa Bình, Long An, Bình Dương, Tuyên Quang, Bắc Giang, Cà Mau, Đồng Nai, Lai Châu, Vĩnh Long, Đà Nẵng, An Giang, Đắk Nông, Quảng Bình...
[362] Bộ Công an, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bình Phước, Hà Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hưng Yên, Kiên Giang, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Hòa Bình, Bình Dương, Tuyên Quang, Cà Mau, Đồng Nai, Vĩnh Long, An Giang, Đắk Nông, Quảng Bình, Tây Ninh, Yên Bái...
[363] Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương, Đài truyền hình Việt Nam; Quảng Trị, Hải Phòng, Hà Giang, Sơn La, Kon Tum, Quảng Bình...
[372] Điện Biên, Quảng Ninh...
[373] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Lào Cai, Quảng Trị, Trà Vinh, Lạng Sơn, Quảng Bình, Đắk Nông...
[376] Điện Biên, Quảng Ninh...
[379] Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Hàn Lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Đà Nẵng, Bình Dương, Bình Thuận, Bình Định, Nam Định, Hải Dương...
[381] Bộ Tư pháp, Đà Nẵng...
[383] Bộ Tư pháp; Quảng Trị, Vĩnh Long, Lạng Sơn, Long An, Sóc Trăng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An, Thanh Hóa...
[384] Bình Phước, Đắk Nông…
[385] Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Lào Cai, Hưng Yên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Vĩnh Long, Kiên Giang, Bến Tre, Tây Ninh, Lâm Đồng, Hà Nội…
[387] 13/30 Bộ, ngành có phần đề xuất, kiến nghị: Bộ Tư pháp, Bộ quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ủy ban dân tộc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
[388] 39/63 tỉnh, thành phố có phần đề xuất, kiến nghị: Tuyên Quang, Phú Thọ, Quảng trị, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hậu Giang, Hưng Yên, Kiên Giang, Kon Tum, Hà Nội, Ninh Thuận, Trà Vinh, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Cà Mau, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La, Vĩnh Long, Quảng Ngãi, TP.Hồ Chí Minh, An Giang, Yên Bái, Gia Lai, Đắk Nông, Hà Nam, Lâm Đồng, Hải Dương, Khánh Hòa, Ninh Bình, Nam Định, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế, Đắk Lăk, Tiền Giang.
[389] Hậu Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long
[390] TP. Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Vĩnh Long, Quảng Ngãi, Gia Lai, Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang…
[391] Bộ Quốc phòng, Quảng Trị, Bạc Liêu, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Quảng Ngãi, TP.Hồ Chí Minh, Gia Lai, Bộ Công an, Tiền Giang…
[392] An Giang, Bộ Công an
[393] Bộ Quốc phòng, Quảng Trị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hà Nam,...
[394] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giao thông vận tải, Quảng Ngãi, An Giang, Ủy ban Dân tộc,...
[395] Quảng Trị, Bạc Liêu, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Kon Tum, Bộ Giao thông vận tải, Hà Nam,...
[396] Bộ Tư pháp, Bạc Liêu, Hà Nam,...
[397] Bạc Liêu, Kon Tum, Quảng Ngãi, TP.Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế, Bộ Công an,...
[398] Kon Tum, TP.Hồ Chí Minh, Hà Nam, Ủy ban Dân tộc,...
[399] Kon Tum, Sơn La, Hà Nam, Ủy ban Dân tộc, Tiền Giang,...
[400] Tuyên Quang, Kon Tum, TP. Hồ Chí Minh, Gia Lai, Quảng Bình, Đồng Tháp, Bình Định,...
[401]Bộ Tư pháp, Tuyên Quang, Quảng Trị, Hà Nội, Bộ Quốc phòng, Kon Tum, Hà Nam, Quảng Ngãi…
[402] Bộ Tư pháp, Tuyên Quang, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Nội vụ, Gia Lai…
[403] Bộ Tư pháp, Quảng Trị, Tuyên Quang, Kon Tum, Gia Lai, Hà Nam…
[404] Tuyên Quang, Bạc Liêu, Kon Tum, Gia Lai, Hà Nam…
[405] Lào Cai, Gia Lai, Ninh Bình...
[406] Tuyên Quang, Lào Cai, Bạc Liêu, Kon Tum...
[407] Bạc Liêu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Gia Lai...
[408] Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Cao Bằng, Khánh Hòa, Kiên Giang, Vĩnh Phúc, Sơn La, Yên Bái,...
[409] Bộ Xây dựng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bình Phước, Hà Gang, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hậu Giang, Hưng Yên, Hòa Bình, Lạng Sơn, Nghệ An, Yên Bái, Đắk Nông, Đắk Lắk, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa,...
[410] Từ đây, trong các điều, khoản được viện dẫn đều in nghiêng và gạch chân dưới những cụm từ, từ, câu có sửa đổi, bổ sung so với Dự thảo của Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp.
[411] Bộ Công thương, Quảng Trị, Lào Cai,…
[412] Kon Tum, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cao Bằng, Điện Biên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bình Dương, Nghệ An, Quảng Bình, Gia Lai, Lâm Đồng, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Bình Định, Cần Thơ, Đắk Lắk, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Ngoại giao, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải (tổng số là 2.384 ý kiến qua các hội nghị, hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp)
[413] Trích Báo cáo số 32:” Vị trí của Chính phủ trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước chưa được xác lập do Chính phủ chưa được phân công, phân nhiệm một cách rõ ràng, vì vậy, Chính phủ chưa có được một vị thế riêng, phù hợp với tính chất của cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội” trên thực tế dẫn đến Chính phủ ở thế thụ động (chỉ chấp hành nghị quyết, luật do Quốc hội ban hành), làm hạn chế sự chủ động của Chính phủ trong việc khởi xướng, hoạch định chính sách quốc gia; hạn chế tính năng động, chủ động và sáng tạo của Chính phủ trong điều hành chính sách và tổ chức thực thi pháp luật” (trang 12).
[414] Trích Báo cáo số 32: “Quy định Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm báo cáo công tác với UBTVQH chưa thật hợp lý vì UBTVQH không phải là cơ quan thành lập ra Chính phủ, bầu ra Thủ tướng hay phê chuẩn danh sách các thành viên Chính phủ; chưa phân định rõ tính chất của việc UBTVQH xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giữa hai kỳ họp Quốc hội” (trang 20).
[415] Báo cáo 32, trang 31:” Hiến pháp năm 1992 chưa phân định rõ thẩm quyền và có một số quy định chưa phù hợp với nguyên tắc hoạt động của Chính phủ và của Thủ tướng Chính phủ. Hiến pháp năm 1992 đã định hình thiết chế Thủ tướng với nhiều nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm khác nhau nhưng chưa có sự phân biệt, tách bạch các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ với tư cách là người lãnh đạo Chính phủ và với tư cách một thiết chế độc lập”.
“Hiến pháp1992 chưa phân biệt và tách bạch các vai trò, trách nhiệm khác nhau của Thủ tướng, Bộ trưởng, chưa đề cao, phát huy vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng trong quản lý đối với ngành, lĩnh vực. Có thực tế là trong một số trường hợp, Thủ tướng Chính phủ phải làm thay việc của Bộ trưởng”.
[416] Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Hải Phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Long An, Văn phòng Chính phủ,…
[417] Báo cáo 32, trang 14: Quy định về chức năng,nhiệm vụ của Chính phủ chưa phù hợp, chưa phản ánh được quá trình chuyển đổi tất yếu từ một Chính phủ “chấp hành” thụ động bằng mệnh lệnh hành chính trong nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp sang Chính phủ “hành pháp”chủ động khởi xướng, hoạch định và điều hành chính sách vĩ mô nhanh nhạy, sáng tạo, ứng phó, giải quyết kịp thời các vấn đề cuộc sống đặt ra trong Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường
Báo cáo 32, trang 82: Về kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp chủ yếu quy định khái quát các nhiệm vụ, quyền hạn thuộc chức năng hành pháp của Chính phủ và một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc chức năng hành chính quan trọng nhất còn lại để Luật tổ chức Chính phủ quy định, đảm bảo để Chính phủ có thể quản lý bao quát, toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội.
[418] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Kiên Giang…
[419] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Quảng Trị, Lâm Đồng,…
[420] Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Bắc Giang…
[421] Đồng Nai, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch,…
[422] Báo cáo 32, trang 20 - “Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH và Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân vừa có sự chồng chéo khó thực hiện trên thực tế, vừa tạo nên sự nhận thức không thống nhất về địa vị của Hội đồng nhân dân (Quốc hội, UBTVQH là cấp trên của Hội đồng nhân dân).
[424] Ninh Thuận, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ,…
[425] Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ,…
[426] Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp,…
[427] Bà Rịa - Vũng Tàu, Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành và chuyên gia, nhà khoa học (ý kiến góp ý vào dự thảo chuyên đề Chính phủ).
[428] Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Hải Phòng,…
[429] Mặc dù Điều 101 Dự thảo vẫn quy định “thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ, Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách...
[430] Có ý kiến đề nghị thiết kế Điều 115a như sau:
1. Các đơn vị hành chính lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Các đơn vị hành chính lãnh thổ trong tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Các đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt.
2. Tiêu chí, trình tự và thủ tục thành lập mới, chia tách, sáp nhập các đơn vị hành chính lãnh thổ, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt do luật định.
[431] Cũng có một số ý kiến đề nghị, tại khoản 3 này cần quy định rõ hơn là: việc thành lập mới, chia tách, sáp nhập các đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương.
[432] Đà Nẵng, Hà Nội, Kiên Giang, Ninh Thuận, Trà Vinh, Nghệ An, Quảng Ninh, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hậu Giang, Hưng Yên, Kiên Giang, Kon Tum, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bộ Nội vụ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư (mô hình các khu hành chính- kinh tế đặc biệt tương đương cấp tỉnh, huyện)
[433] Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Nghệ An, Hải Phòng, Sơn La, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bộ Tài chính,…
[434] Cũng có ý kiến đề nghị: cần khẳng định luôn tại Điều này việc không thành lập Hội đồng nhân nhân dân huyện, quận, phường như tinh thần của Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường
[435] Bộ Tư pháp, Đà Nẵng, các chuyên gia tại Hội thảo về chính quyền địa phương tại Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và Hội thảo do Ban chỉ đạo của Chính phủ tổ chức ngày 25/3/2013.
[436] Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Bình Thuận, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hưng Yên, Bạc Liêu, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kon Tum, Ninh Thuận, Quảng Trị, Quảng Nam, Sóc Trăng, Trà Vinh, Điện Biên, Hòa Bình, Quảng Ngãi, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Phú Thọ, Lai Châu, Lạng Sơn, Quảng Ninh, An Giang, Gia Lai, Quảng Bình, Đắk Nông, Tây Ninh, Lâm Đồng, Hải Dương, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội,…
[437] Trường hợp thuật ngữ “cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương” được thay thế bằng thuật ngữ ”Ủy ban hành chính” thì nên bổ sung quy định “Các thành viên khác của Ủy ban hành chính chịu trách nhiệm cá nhân trước Chủ tịch Ủy ban hành chính về việc thực hiện nhiệm vụ được giao” để mở đường cho khả năng áp dụng chế độ thủ trưởng chế trong các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
[438] Uỷ ban Dân tộc, Phú Yên (41 ý kiến); Tuyên Quang (3 ý kiến), Bộ Thông tin và Truyền thông, Cà Mau (28 ý kiến); Cao Bằng (9 ý kiến); Hà Tĩnh; Nghệ An (725 ý kiến); Bộ xây dựng, Kiên Giang (5/5 ý kiến); Quảng Ninh (35 ý kiến), Tuyên Quang (1 ý kiến), Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (5 ý kiến), Đăk Lăk, Bình Phước, Thừa Thiên Huế,…
[439] Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ,…
[440] Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Bắc Giang…
[441] Bà Rịa - Vũng Tàu, Cao Bằng, Ninh Thuận, Quảng Nam, Điện Biên, Trà Vinh, Long An, Tuyên Quang, Cà Mau, Đồng Nai, Lạng Sơn, Sóc Trăng, An Giang, Đắk Nông, Gia Lai, Thanh Hóa,…
[442] Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp,…
[443] Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ,…
[444] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2 ý kiến), Sóc Trăng,…
[445] Tuyên Quang, Bạc Liêu, Bộ Tư pháp,…
[446] Tuyên Quang, Bộ Tư pháp,…
[449] Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ
[450] 4 nhóm ý kiến là i) Tán thành cần có quy định về Hội đồng Hiến pháp nhưng cần hoàn thiện theo hướng củng cố thêm vị thế và thẩm quyền của cơ quan này[450],(ii) Đề nghị Không thành lập Hội đồng Hiến pháp; (iii)Đề nghị thành lập Tòa án Hiến pháp (có tính độc lập và chuyên nghiệp); (iv) Đề nghị chuyển giao nhiệm vụ bảo hiến cho các cơ quan khác chuyên trách về pháp luật (UBPL của Quốc hội) hoặc về tư pháp (TANDTC).
[451] TP. Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Vĩnh Long, Quảng Ngãi, Gia Lai,…
[453] Các Phương án khác là Phương án 2- Bổ sung và viết lại như sau: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, quần đảo,vùng biển, vùng trời và trong lòng đất”; Gộp Điều 11 vào Điều 1 thành Điều 1 gồm 3 khoản.
[454] Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư pháp, Quảng Bình, Kon Tum,…
[455] Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao, Uỷ ban Dân tộc; An Giang, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Đà Nẵng, Gia Lai, Hà Giang, Hậu Giang, Hưng Yên, Lạng Sơn, Lào Cai, Ninh Thuận, Quảng Bình, Thanh Hoá,…
[456] Bộ Công an, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Bắc Kạn,...
[457] Đà Nẵng, Hà Nội, Lâm Đồng, Quảng Trị, Vĩnh Long, Lạng Sơn, Long An, Sóc Trăng, Nghệ An, Thanh Hóa, An Giang, Tây Ninh, Đồng Tháp,…
[458] Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Quảng Ninh, Bình Thuận, Phú Thọ, Hải Dương, Quảng Trị, Vĩnh Long, Lạng Sơn, Long An, Sóc Trăng, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An, Thanh Hóa, An Giang, Tây Ninh, Đồng Tháp, Cao Bằng, Đà Nẵng, Hưng Yên, Bình Dương, Bắc Kạn, Hà Nội, Quảng Ninh, Điện Biên, Hải Phòng, Lâm Đồng,…
[459] Bộ Kế hoạch và Đầu tư
[460] Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Ngoại giao,…
[461] Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp,…
[462] Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,…
[463] Hà Giang, Bình Phước,…
[464] Bộ Y tế, Bộ Thông tin - Truyền thông, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bắc Ninh, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bình Phước, Quảng Trị, Lào Cai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Kạn, Bến Tre, Cao Bằng, Hải Phòng,… (188.700/ 285.714 ý kiến).
[465] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sóc Trăng, Kon Tum, Cao Bằng, Hòa Bình, Quảng Ninh, Bắc Kạn, Bình Dương, Lào Cai, Lạng Sơn, Lai Châu, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Bình Phước, Đà Nẵng, Quảng Bình, Đắk Nông,…
[466] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thanh tra Chính phủ, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Hòa Bình, Bắc Kạn, Bình Dương, Lào Cai, Lạng Sơn, Lai Châu, Cao Bằng, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Bình Phước, Đà Nẵng, Quảng Bình, Đắk Nông, Ninh Thuận, Đồng Tháp,…
[467] Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trà Vinh, Vĩnh Long, Quảng Bình, Hải Phòng, Quảng Bình, Đà Nẵng, Bình Dương, Quảng Nam, Bắc Giang,…
Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 04/06/2013
Số hiệu:13/BC-TANDTC
Mô tả:
Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28-12-2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai lấy ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tòa án nhân dân tối cao xin gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với các nội dung cụ thể như sau:
bc13-TAND.doc
Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28-12-2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai lấy ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tòa án nhân dân tối cao xin gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với các nội dung cụ thể như sau:
I. Quá trình tổ chức lấy ý kiến vào dự thảo Hiến pháp
1. Công tác tổ chức lấy ý kiến
Việc tổ chức lấy ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai nghiêm túc, dân chủ, khoa học, chất lượng, thiết thực và tiết kiệm theo đúng tinh thần chỉ đạo tại Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 38/2012/QH13 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28-12-2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tại Quyết định số 05/QĐ-TANDTC ngày 18/01/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch của Tòa án nhân dân tối cao về việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; thành lập Ban chỉ đạo việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong ngành Tòa án.
Thực hiện kế hoạch nêu trên Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức phổ biến, quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Kế hoạch của Tòa án nhân dân tối cao về việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cho cán bộ chủ chốt trong ngành Tòa án tại Hội nghị tổng kết triển khai công tác năm 2013 của ngành Tòa án vào các ngày 22-23/01/2013, theo đó việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành cần được ưu tiên tập trung chỉ đạo thực hiện, bảo đảm chất lượng và đúng tiến độ theo yêu cầu.
Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án quân sự cấp quân khu và các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức phổ biến, quán triệt, lấy ý kiến của toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, xây dựng Báo cáo của cơ quan, đơn vị, địa phương mình về kết quả đóng góp ý kiến gửi về Tòa án nhân dân tối cao để tổng hợp. Tòa án nhân dân tối cao đã nhận được 73 Báo cáo của các Tòa án địa phương, đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao phản ánh hơn 2000 ý kiến về các nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Tòa án nhân dân tối cao cũng đã nhận được nhiều ý kiến góp ý trực tiếp hoặc góp ý qua Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao. Nhìn chung, các Tòa án, đơn vị trong ngành đã thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, đúng tiến độ việc lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các ý kiến đóng góp đều rất toàn diện và cụ thể, đề cập đến toàn bộ nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng như từng điều khoản cụ thể của Dự thảo, thể hiện trách nhiệm cao của cán bộ, công chức ngành Tòa án trong việc đóng góp ý kiến để hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trên cơ sở các Báo cáo của các Tòa án địa phương, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao và các ý kiến góp ý trực tiếp hoặc góp ý qua Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành tập hợp đầy đủ, chính xác, khách quan, trung thực và xây dựng Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Hội nghị lãnh đạo các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, lãnh đạo các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để góp ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Tòa án nhân dân tối cao đã tiếp thu các ý kiến đóng góp, chỉnh lý, hoàn thiện Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
2. Các hình thức tổ chức lấy ý kiến
Để phục vụ việc lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ, công chức, Hội thẩm Tòa án các cấp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tòa án nhân dân tối cao đã đăng tải toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các tài liệu có liên quan lên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, Báo Công lý và Tạp chí Tòa án nhân dân làm tài liệu nghiên cứu đóng góp ý kiến theo đúng hướng dẫn của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Các ý kiến được tập hợp thông qua các hình thức góp ý trực tiếp tại các cuộc họp, hội nghị, hội thảo do các Tòa án, đơn vị trong ngành tổ chức; góp ý kiến bằng văn bản gửi đến cơ quan, đơn vị nơi công tác; góp ý kiến thông qua Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, Báo Công lý hoặc Tạp chí Tòa án nhân dân.
3. Các đối tượng được lấy ý kiến
Đối tượng lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 bao gồm: các thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; các Thẩm phán, Hội thẩm, các cán bộ, công chức, viên chức công tác trong ngành Tòa án.
4. Các đối tượng đóng góp ý kiến và được tổng hợp vào Báo cáo
Các thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; các Thẩm phán, Hội thẩm, các cán bộ, công chức, viên chức công tác trong ngành Tòa án.
II. Đánh giá chung về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Nhìn chung, các ý kiến nhất trí với những nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và có chung quan điểm về nội dung quan trọng của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; cụ thể là:
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có sự kế thừa những giá trị khoa học về nội dung và kỹ thuật lập hiến trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã thể chế hóa kịp thời các quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh và văn kiện Đại hội Đảng khóa XI, Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12-7-2011 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Kết luận số 20-KL/TW ngày 25-5-2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trong số 124 Điều của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có 11 điều mới, 99 điều sửa đổi, bổ sung với nhiều nội dung mới. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa rõ hơn bản chất của chế độ ta, của Nhà nước ta, khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân... Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung hợp lý các quy định về các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; ghi nhận và làm sâu sắc hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Điều này cho thấy việc sửa đổi Hiến pháp lần này là khá toàn diện, bảo đảm là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính dự báo và ổn định lâu dài.
Về tổng thể, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã giải quyết được những vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn đặt ra trong quá trình tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992; đã bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, phân định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; về cơ bản đã thể hiện rõ nội dung đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
Việc tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội trong Hiến pháp là cần thiết. Đây là nội dung cực kỳ quan trọng, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với lịch sử và những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Việc quy định lực lượng vũ trang có nhiệm vụ tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là đúng đắn; không thể phi chính trị hóa quân đội như đề nghị của một vài ý kiến.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã xác lập được cơ chế bảo đảm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hầu hết các ý kiến cho rằng việc khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật là cần thiết; tuy nhiên, có nhiều ý kiến đề nghị cần khẳng định trong Hiến pháp vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể để làm rõ hơn tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc khẳng định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia thuộc sở hữu toàn dân là phù hợp; tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về việc Nhà nước trưng mua, trưng thu đối với diện tích đất do tổ chức, cá nhân sử dụng trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội thay cho quy định về việc Nhà nước thu hồi đất có bồi thường để bảo đảm tôn trọng quyền sử dụng đất của các cá nhân, tổ chức.
Về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, các quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; quy định bổ sung nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”; quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là cần thiết, phù hợp với những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp. Đa số ý kiến đều đồng tình, đánh giá cao việc bổ sung một số nội dung mới vào các điều, khoản quy định về Tòa án và cho rằng nếu các quy định này được thông qua sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự hoàn thiện, phát triển và tiến bộ của hệ thống Tòa án trước mắt cũng như trong tương lai, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của ngành Tòa án.
III. Về nội dung cụ thể của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
1. Về Lời nói đầu của Hiến pháp
Đa số các ý kiến nhất trí với các nội dung được thể hiện trong Lời nói đầu của Hiến pháp. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, Hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ đều được công nhận là đạo luật cơ bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của quốc gia với nội dung cơ bản là thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và bảo vệ đất nước, khẳng định quyền lực của nhân dân, chủ quyền của quốc gia, đồng thời xác định cơ chế, phương thức và các thiết chế thực hiện quyền lực nhà nước... Lời nói đầu của bản Hiến pháp cần có nội dung thể hiện có tính chất “tuyên ngôn” những vấn đề nêu trên. Vì vậy, một số ý kiến đề nghị bổ sung một số nội dung của Lời nói đầu tại đoạn 4 và bổ sung thêm một đoạn mới trong Lời nói đầu về tính chất và giá trị pháp lý của Hiến pháp như sau:
“... Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, thực hiện chủ quyền nhân dân, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí quyền lực của nhân dân và chủ quyền quốc gia; xác định cơ chế, phương thức phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; xây dựng và bảo vệ tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; thực hiện công bằng xã hội; tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Hiến pháp này là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Bên cạnh đó, để thể hiện rõ ràng và chính xác hơn một số vấn đề nêu trong Lời nói đầu của Hiến pháp, có ý kiến đề nghị, thay cụm từ: “Dưới ánh sáng” tại đoạn 4 bằng cụm từ: “Trên tinh thần”, thay thế cụm từ “thực hiện chủ quyền nhân dân” bằng cụm từ “thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”, sửa đổi cụm từ “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử” bằng cụm từ “Trải qua thời gian dựng nước và giữ nước” hoặc “Xuyên suốt chiều dài lịch sử”. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng cần nêu rõ tên hiệu của nước ta hiện nay trong Lời nói đầu bằng cách bổ sung cụm từ “nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sau cụm từ “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” . Có ý kiến cho rằng độc lập là khát vọng ngàn đời của dân tộc, vì vậy đề nghị bổ sung hai từ “độc lập” vào đoạn 5 như sau: “... vì mục tiêu độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Đặc biệt, có ý kiến đề nghị cần làm rõ phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp ngay trong Lời nói đầu. Vì vậy cần bổ sung thêm một đoạn mới với nội dung là: “Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”.
2. Về Chương I: Chế độ chính trị
Về cơ bản, đa số các ý kiến đều nhất trí với những nội dung được thể hiện tại Chương chế độ chính trị. Tuy nhiên, Chương này có nội dung thể hiện các nguyên tắc cơ bản về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, các thiết chế chính trị và mối quan hệ của các thiết chế đó trong hệ thống chính trị. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung một điều mới hoặc một điểm mới vào Điều 7 để quy định nguyên tắc: “Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm người đứng đầu các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập” nhằm bảo đảm vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về các điều khoản cụ thể trong Chương này có một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
- Về Điều 1:
Với quan điểm cho rằng nước ta là một nước độc lập, dân chủ và lãnh thổ của một đất nước phải bao gồm cả thềm lục địa. Vì vậy cần sửa lại Điều 1 là: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển, thềm lục địa, vùng trời”
- Về Điều 2:
Có ý kiến cho rằng nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cách ủy quyền cho nhà nước thông qua việc thực hiện quyền bầu cử, ứng cử. Vì vậy cần thể hiện những nội dung này trong Điều 2 và thể hiện lại là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thực hiện thông qua việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan đại diện”.
- Về Điều 4
Các ý kiến nhất trí với nội dung Dự thảo, nhất trí về việc cần khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội trong Hiến pháp. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước để phát huy đầy đủ quyền lãnh đạo của Đảng và khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời cần nhấn mạnh thêm sự lãnh đạo của Đảng bằng cách bổ sung thêm cụm từ “duy nhất” tại khoản 1 như sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam…, là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn diện nhà nước và xã hội” . Bên cạnh đó, cần xác định rõ hơn trách nhiệm và mục tiêu lãnh đạo của Đảng bằng cách bổ sung khoản 2 và khoản 3 như sau: “2. Sự lãnh đạo của Đảng hướng đến mục tiêu hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy lợi ích của dân tộc định hướng cho hành động, kiên quyết xóa bỏ mọi biểu hiện cửa quyền, tham nhũng.
3. Mọi hoạt động của tổ chức của Đảng, đảng viên đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, luôn gắn bó mật thiết với quyền lợi nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và dân tộc Việt Nam về việc lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị quy định rõ thêm phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội thông qua Cương lĩnh, Nghị quyết, công tác cán bộ.
- Về Điều 5
Để bảo đảm rõ nghĩa và có nội dung toàn diện hơn đối với các vấn đề được quy định tại Điều này, có một số ý kiến đề nghị: thay 2 từ “đất nước” bằng hai từ “lãnh thổ”, bổ sung cụm từ “ và người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài” sau cụm từ “các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” tại khoản 1; bổ sung khoản 2 như sau: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và có trách nhiệm giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ và phân biệt dân tộc”; bổ sung khoản 3 như sau: “Ngôn ngữ chính thức của quốc gia là tiếng Việt…”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị giữ nguyên điều này như quy định của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 6
Có ý kiến cho rằng nhân dân không chỉ thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước mà còn có thể thông qua các tổ chức chính trị xã hội mà họ tham gia. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung điều này như sau: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, …qua các cơ quan khác của nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác”.
- Về Điều 7
Để thể hiện rõ ràng, mạch lạc hơn nội dung thể hiện tại điều này, có ý kiến đề nghị sửa đổi khoản 2 như sau: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
Ngoài ra, để việc bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được chặt chẽ, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “quá trình bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải công khai chương trình hành động và tài sản của các ứng cử viên”.
- Về Điều 8
Với quan điểm cho rằng hoạt động nhà nước không chỉ có hoạt động hành chính mà còn bao gồm cả hoạt động tư pháp, bởi vậy cần bổ sung cụm từ “tư pháp” sau cụm từ “hành chính”.
Có ý kiến cho rằng cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ không được tham nhũng, vì vậy đề nghị thay cụm từ “chống tham nhũng” bằng cụm từ “không được tham nhũng” ở khoản 2 và bổ sung thêm quy định: “Chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân trong bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm tăng cường hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng và làm trong sạch bộ máy nhà nước. Đồng thời, cần chỉnh lý lại khoản 3 như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, có trách nhiệm đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật”.
- Về Điều 9
Để bảo đảm quy định đầy đủ hơn về Mặt trận Tổ quốc cả về thành phần và nguyên tắc hoạt động, có ý kiến đề nghị sửa đổi lại khoản 2 và khoản 3 như sau:
“2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, cá nhân thành viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
3. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, cá nhân thành viên hoạt động theo tôn chỉ và mục đích phục vụ nhân dân của mình”.
Ngoài ra, một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “tạo điều kiện” ở khoản 3 bằng cụm từ “đảm bảo điều kiện” hoặc “có trách nhiệm” nhằm khẳng định nhiệm vụ của Nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc.
- Về Điều 10
Có ý kiến đề nghị cần có quy định về giới hạn hoạt động của Công đoàn để xác định Công đoàn phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Về Điều 11
Để tránh dùng từ Hán - Việt, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “bất khả” ở khoản 1 bằng cụm từ “không được”.
Với quan điểm cho rằng dân chủ vừa là bản chất vừa là giá trị của chế độ ta, vì vậy, một số ý kiến đề nghị bổ sung khoản 2 như sau: “Mọi hành vi chống lại dân chủ, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ… đều bị nghiêm trị”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị giữ nguyên đoạn 2 Điều 13 Hiến pháp 1992.
- Về Điều 12
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “các tổ chức quốc tế khác” sau cụm từ “với tất cả các nước”
- Về Điều 13
Một số ý kiến đề nghị ở khoản 1 cần quy định rõ kích cỡ ngôi sao vàng theo tỷ lệ lá cờ và hướng quay của các cánh ngôi sao nhằm tránh trường hợp kích cỡ không hợp lý và hướng quay của cánh ngôi sao bị sai lệch. Đồng thời, cần định lượng rõ số răng của nửa bánh xe trong Quốc huy và thay từ “Chung quanh” bằng từ “bao quanh” hoặc “xung quanh” cho rõ nghĩa.
- Về Điều 14
Một số ý kiến đề nghị gộp chung Điều 14 vào thành khoản 5 Điều 13 để xác định vai trò ngang nhau của Thủ đô và Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca; đồng thời bổ sung cụm từ “Thành phố” trước cụm từ “Hà Nội”.
3. Về Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Đại đa số các ý kiến đóng góp đều hoan nghênh và đồng tình với các nội dung được sửa đổi và bổ sung tại Chương này. Tuy nhiên, để chặt chẽ và rõ ràng hơn trong việc quy định các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều như sau:
- Về Điều 15
Một số ý kiến đề nghị cần nêu rõ các căn cứ giới hạn quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp; do đó, nên bổ sung, chỉnh lý lại khoản 2 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết và do luật định vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”
- Về Điều 16
Lợi ích hợp pháp của mọi người cần được tôn trọng, vì vậy một số ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 như sau: "Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác".
- Về Điều 17
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Không ai bị” ở khoản 2 bằng cụm từ “Nghiêm cấm mọi hành vi”, bổ sung thêm cụm từ “Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” vào cuối khoản 2 và chỉnh lý lại đoạn này như sau: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
- Về Điều 18
Đối với nội dung quy định “Công dân Việt Nam không thể bị… giao nộp cho Nhà nước khác” tại khoản 2, có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trừ trường hợp có quy định khác”, để loại trừ những trường hợp việc giao nộp được thực hiện theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ quốc tế.
- Về Điều 20
Có ý kiến cho rằng bảo đảm để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình là trách nhiệm của Nhà nước, vì vậy, đề nghị bổ sung thêm khoản 4 với nội dung như sau: “Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình”.
- Về Điều 21
Để quy định chặt chẽ, phù hợp thực tiễn pháp luật của nước ta về quyền sống và trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền sống cho mọi người, có ý kiến đề nghị sửa đổi lại điều này như sau:
“1. Mọi người có quyền sống, trừ trường hợp bị Tòa án kết án tử hình và bị Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình.
2. Nhà nước bảo đảm quyền sống cho mọi người trên lãnh thổ Việt Nam”
Ngoài ra, có nhiều ý kiến đề nghị gộp khoản 1 Điều 22 vào Điều 21 và chỉnh lý lại như sau: “Mọi người có quyền được sống; có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”.
- Về Điều 22
Có ý kiến đề nghị bổ sung và biên tập lại khoản 1 Điều này như sau: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 3 cụm từ “và được phép của cơ quan có thẩm quyền” sau cụm từ “được người đó đồng ý”.
- Về Điều 23
Một số ý kiến đề nghị bổ sung và chỉnh lý lại khoản 1 Điều này như sau: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
Nghiêm cấm thu thập, lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác nếu không được người đó đồng ý”.
- Về Điều 25
Về nguyên tắc thì chỉ có những gì hợp pháp mới được pháp luật bảo hộ và mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để quy định chặt chẽ hơn, có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hợp pháp” và chỉnh lý lại khoản 2 như sau: “… Nơi thờ tự hợp pháp của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”; đồng thời, bổ sung thêm khoản 4 với nội dung: "Các tổ chức tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
- Về Điều 26
Để ngăn ngừa việc lợi dụng quyền lập hội để tiến hành hoạt động chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân, có ý kiến đề nghị cơ cấu nội dung của Điều này thành 2 khoản như sau:
“1. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
2. Mọi công dân đều có quyền lập hội và tham gia các hội. Nghiêm cấm việc thành lập các tổ chức có những hoạt động quân sự hoặc bán quân sự hoặc tạo ra phân biệt đối xử về tôn giáo, chủng tộc hoặc dân tộc. Trình tự, thủ tục đăng ký thành lập hội do luật định”.
- Về Điều 27
Có ý kiến cho rằng, việc nhấn mạnh “công dân nam, nữ” vô hình chung đã loại bỏ những công dân là người chuyển giới hoặc lưỡng giới do đó đề nghị dùng từ “công dân” để đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả mọi người hoặc sửa đổi lại khoản 1 như sau: “Công dân, không phân biệt giới tính bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt”.
- Về Điều 28
Trên thực tế có người đủ 18 tuổi hoặc đủ 21 tuổi nhưng không có quyền bầu cử hoặc ứng cử do họ bị hạn chế quyền theo quyết định của Tòa án. Vì vậy, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên... và đủ hai mươi tuổi trở lên” bằng cụm từ “Công dân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật” và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Công dân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp”, đồng thời bổ sung quy định “Nhà nước bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và quyền ứng cử” vào Điều này.
- Về Điều 29
Có ý kiến cho rằng quyền và nghĩa vụ của công dân không tách rời nhau, vì vậy đề nghị bổ sung cụm từ “và nghĩa vụ” và chỉnh lý lại khoản 1 như sau: "Công dân có quyền và nghĩa vụ tham gia quản lý nhà nước và xã hội...".
- Về Điều 30
Do chỉ những vấn đề hệ trọng của đất nước mới cần đưa ra trưng cầu ý dân, vì vậy có ý kiến đề nghị sửa đổi lại Điều này như sau: “Công dân có quyền biểu quyết về các vấn đề hệ trọng của đất nước”.
- Về Điều 31
Có ý kiến cho rằng ngoài việc khiếu nại, tố cáo thì công dân còn có quyền khởi kiện đối với các quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đồng thời cần xác định rõ việc xử lý đối với các hành vi giải quyết khiếu nại, tố cáo sai quy định hoặc cản trở người khiếu nại. Do đó, cần bổ sung cụm từ “quyền khởi kiện” ở khoản 1; bổ sung khoản 2 nội dung: “Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo giải quyết khiếu nại, tố cáo sai quy định của pháp luật sẽ bị nghiêm trị” và sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau: “Nghiêm cấm và xử lý nghiêm việc cản trở, sách nhiễu, trả thù người khiếu nại...”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị thiết kế nội dung “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” thành một điều riêng để thể hiện được bản chất Nhà nước cũng như tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
- Về Điều 32
Để đảm bảo chặt chẽ hơn về mặt nội dung và bảo đảm tốt hơn quyền của công dân trong tư pháp hình sự, một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm một khoản mới với nội dung: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Đồng thời, bổ sung thêm cụm từ “và phải chịu hình phạt” sau cụm từ “không ai bị coi là có tội” tại khoản 1; thay cụm từ: "vì một tội phạm" bằng cụm từ "về một hành vi phạm tội" tại khoản 2; bổ sung thêm cụm từ “tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc” sau cụm từ “có quyền” tại khoản 3; bổ sung cụm từ “thi hành án” sau từ “xét xử” ở khoản 4.
- Về Điều 33
Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “của Hiến pháp” và chỉnh lý lại khoản 1 như sau: “... đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58 của Hiến pháp”.
- Về Điều 34
Việc kinh doanh của cá nhân, tổ chức phải tuân theo pháp luật và chỉ được phép kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” và chỉnh lý lại khoản 1 như sau: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” hoặc bổ sung cụm từ “các ngành nghề pháp luật không cấm” vào sau cụm từ “… tự do kinh doanh” ở khoản 1.
- Về Điều 35
Nhà nước cần thể hiện trách nhiệm của mình đối với việc bảo đảm các quyền an sinh xã hội. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “các đối tượng chính sách được hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo đảm an sinh xã hội”.
- Về Điều 36
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 37
Trên thực tế, có trường hợp Cơ quan điều tra có thể vào chỗ ở của công dân để tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Vì vậy, có một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ: “trừ trường hợp được pháp luật cho phép” vào sau cụm từ “… không được người đó đồng ý” ở khoản 2.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định của Hiến pháp 1992.
Có ý kiến đề nghị bổ sung đoạn 2 khoản 2 như sau: “Việc khám xét chỗ ở do pháp luật quy định”.
- Về Điều 38
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 1: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân” do quyền và nghĩa vụ lao động có liên quan trực tiếp đến quyền có việc làm, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc như nội dung Điều này đã thể hiện.
- Về Điều 39
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản mới tại Điều này có nội dung quy định: “3. Nghiêm cấm việc ngược đãi vợ chồng, bạo lực gia đình” nhằm bảo đảm hạnh phúc gia đình và bảo vệ phụ nữ, trẻ em trong quan hệ gia đình.
- Về Điều 40
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” để bảo đảm thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Về Điều 41
Để quy định toàn diện hơn và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 quy định như sau: "Công dân có quyền được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe; bình đẳng trong việc…”, đồng thời bổ sung thêm quy định về việc Nhà nước có chính sách bảo vệ sức khỏe cho công dân và ưu tiên thực hiện chính sách bảo vệ sức khỏe cho đồng bào miền núi như sau: “3. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số”.
- Về Điều 42
Để nâng cao trình độ dân trí, Nhà nước cần có trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập. Vì vậy có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập” và có chính sách về giáo dục tiểu học bắt buộc, phát triển tài năng đối với người có năng khiếu, tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật và những người có hoàn cảnh khó khăn được học văn hóa và học nghề phù hợp.
- Về Điều 43
Có ý kiến đề nghị nên giữ nguyên như quy định của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 44
Bên cạnh việc quy định mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa thì cần quy định trách nhiệm của công dân trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Công dân có trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam”.
- Về Điều 45
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách, tạo điều kiện để công dân xác định dân tộc của mình và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ”.
- Về Điều 46
Để quy định chặt chẽ việc bảo vệ môi trường và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong công tác bảo vệ môi trường, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định: “Nghiêm cấm mọi hành vi làm ảnh hưởng xấu đến môi trường” và “Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường”.
- Về Điều 47
Công dân phải có nghĩa vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Vì vậy, có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều này như sau: “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” hoặc thay thế cụm từ “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” bằng cụm từ “mọi hành vi phản bội Tổ quốc đều bị xử lý theo quy định pháp luật” để thể hiện rõ hơn tính chất pháp lý của quy định này.
- Về Điều 48
Một số ý kiến đề nghị thống nhất sử dụng thuật ngữ “thực hiện” thay cho thuật ngữ “làm” và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự...”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định”.
- Về Điều 49
Việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật là nghĩa vụ của tất cả mọi người chứ không chỉ công dân mới có nghĩa vụ này. Vì vậy, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Công dân” bằng cụm từ “Mọi người” và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Mọi người có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”.
- Về Điều 50
Để bảo đảm bao quát mọi trường hợp phải nộp thuế, có nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi quy định tại Điều này như sau: “Cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật”.
- Về Điều 51
Mọi cá nhân, tổ chức làm việc và cư trú tại Việt Nam đều phải có nghĩa vụ chấp hành pháp luật của Việt Nam. Vì vậy, có ý kiến đề nghị sửa đổi, chỉnh lý lại Điều này như sau: “Người nước ngoài, người không quốc tịch cư trú ở Việt Nam… được Nhà nước bảo hộ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam, có nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng của Việt Nam nơi mình cư trú, làm ăn, sinh sống”.
4. Về Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
Đa số ý kiến đóng góp đều thống nhất cao với những sửa đổi, bổ sung trong Chương này về chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Về những vấn đề cụ thể cần sửa đổi, bổ sung, một số ý kiến đóng góp như sau:
- Về Điều 53
Đề nghị bổ sung cụm từ “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” vào sau cụm từ “hiện đại hóa đất nước”.
- Về Điều 54
Có ý kiến đề nghị quy định rõ vai trò then chốt, chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể để làm rõ hơn tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về Điều 58
Có ý kiến đề nghị bổ sung, biên tập lại khoản 1 Điều này như sau: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý, sử dụng theo quy hoạch và pháp luật nhằm bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 2 như sau: “… Người sử dụng đất có trách nhiệm quản lý, bảo vệ, bồi bổ ...”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị quy định bổ sung chế định Nhà nước trưng mua, trưng thu đối với diện tích đất do tổ chức, cá nhân sử dụng trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội thay cho quy định về việc Nhà nước thu hồi đất có bồi thường ở khoản 3, nhằm giải quyết những vướng mắc trong việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng và tình trạng khiếu kiện hiện nay trong lĩnh vực đất đai.
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hợp pháp” sau cụm từ “sử dụng” ở khoản 3 vì Nhà nước chỉ bồi thường đối với đất sử dụng hợp pháp.
Có ý kiến đề nghị gộp Điều 57 và Điều 58 và quy định thêm về trách nhiệm khai thác, sử dụng của tổ chức, cá nhân đối với tài nguyên nước, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên khác, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý.
- Về Điều 60
Để tạo điều kiện đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ các cá nhân, tổ chức trong việc phát hiện, hỗ trợ điều tra, xử lý hành vi lãng phí, tham nhũng”.
- Về Điều 61
Để tạo điều kiện cho người lao động phát huy khả năng sáng tạo, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm khoản 3 quy định: “3. Nhà nước có chính sách phù hợp, tạo điều kiện tốt nhất để người lao động phát huy khả năng sáng tạo”.
- Về Điều 62
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 3 quy định: “3. Nghiêm cấm sử dụng các biện pháp y học để áp đặt giới tính thai nhi”.
- Về Điều 63
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 như sau: “Nhà nước phát triển … có hoàn cảnh khó khăn nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo” để bảo đảm mục tiêu của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để thể hiện tính đa dạng, toàn diện của hệ thống an sinh xã hội, có ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng “trẻ em không nơi nương tựa” vào sau đối tượng “người khuyết tật”.
- Về Điều 65
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 35, 37 của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 66
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 3 như sau: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để mọi công dân có cơ hội học tập để phát triển tài năng. Người khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập ở các bậc học và học nghề phù hợp, ưu tiên giải quyết việc làm”.
- Về Điều 68
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối khoản 3.
5. Về Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc
Các ý kiến cơ bản nhất trí với việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương này. Có một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số vấn đề cụ thể như sau:
- Về Điều 70
Có quan điểm cho rằng lực lượng vũ trang là lực lượng của chuyên chính vô sản và là lực lượng trực tiếp chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vì vậy cần chịu sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng. Vì vậy, đề nghị bổ sung, thể hiện lại như sau: "Lực lượng vũ trang nhân dân chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân, có nhiệm vụ...”.
- Về Điều 71
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định tại Điều 46 Hiến pháp năm 1992.
- Về Điều 72
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định tại Điều 47 Hiến pháp năm 1992.
- Về Điều 73
Có quan điểm cho rằng giữa quốc phòng và an ninh có mối quan hệ với nhau. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung thể hiện lại Điều này như sau: “Nhà nước… kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, xã hội; kinh tế, xã hội với an ninh, quốc phòng”.
6. Về Chương V: Quốc hội
Về cơ bản, đa số ý kiến nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung thể hiện tại Chương này về Quốc hội. Tuy nhiên, có một số ý kiến đề nghị chỉnh lý lại một số cụm từ, nội dung sau đây:
- Về Điều 75
Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “làm Hiến pháp” tại khoản 1 bằng cụm từ “xây dựng Hiến pháp” hoặc “ban hành Hiến pháp”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng Hiến pháp, hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định “Quốc hội có quyền thành lập Tòa án đặc biệt” để phù hợp với quy định tại Điều 107.
- Về Điều 76
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “của mình” ở khoản 3 bằng cụm từ “Quốc hội”.
- Về Điều 78
Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội.
- Về Điều 79
Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn ở khoản 5 và khoản 7 thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
7. Về Chương VI: Chủ tịch nước
Các ý kiến cơ bản nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương này về thiết chế Chủ tịch nước, trong đó Dự thảo đã quy định rõ hơn quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh các lực lượng vũ trang, là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 91 của Dự thảo thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước cho nên có một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, có quyền đình chỉ các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật và kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đình chỉ các văn bản luật, pháp lệnh mà Chủ tịch nước cho rằng không hợp Hiến. Về các điều khoản cụ thể của Chương này, có một số ý kiến đề nghị chỉnh lý lại các nội dung sau đây:
- Về Điều 93
Có ý kiến đề nghị bổ sung quyền “ân giảm án tử hình” vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước để phù hợp với hệ thống pháp luật của nước ta cũng như thế giới.
- Về Điều 97
Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “nước” vào sau cụm từ “Chủ tịch” tại đoạn 2 Điều này để bảo đảm kỹ thuật và thể hiện lại như sau: “Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước ủy nhiệm thay Chủ tịch nước làm một số nhiệm vụ”.
- Về Điều 98
Một số ý kiến đề nghị quy định rõ khoảng thời gian cụ thể Chủ tịch nước không làm việc được để Phó Chủ tịch nước làm quyền Chủ tịch nước.
8. Về Chương VII: Chính phủ
Các ý kiến nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định về Chính phủ. Tuy nhiên, có một số ý kiến đề nghị cân nhắc nội dung quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội tại Điều 99 để thể hiện vị trí độc lập nhất định của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
9. Về Chương VIII: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
Các ý kiến cơ bản nhất trí cao với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, vì đã thể chế hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp, trong đó có việc khẳng định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp; đồng thời đã bổ sung và khẳng định nhiệm vụ quan trọng của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cần bổ sung quy định để làm rõ về cơ quan tư pháp và quyền tư pháp; các ý kiến này đề nghị quy định rõ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan thực hiện quyền tư pháp cao nhất và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là người đứng đầu cơ quan tư pháp tương tự như quy định về Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định về mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp; quy định về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nước. Trong đó, có nhiều ý kiến đề nghị tách các quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thành hai chương khác nhau vì Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp còn Viện Kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố. Về các điều khoản cụ thể, có một số ý kiến đề nghị cân nhắc sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau đây:
- Về Điều 108
Một số ý kiến đề nghị cần thể hiện lại để làm rõ các quy định tại Điều này là các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân vì trong Dự thảo cụm từ “nguyên tắc” chỉ được sử dụng đối với yêu cầu tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, các ý kiến này đề nghị chuyển quy định tại khoản 2 Điều 109 về việc “Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác” về Điều 108 để làm rõ đây cũng là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “trừ trường hợp do luật định” vào khoản 6 Điều 108, vì trong trường hợp đặc biệt thì có thể thành lập Toà án đặc biệt và Toà án này chỉ giải quyết theo thủ tục đặc biệt nên có thể sẽ không có thủ tục phúc thẩm vì nếu có phúc thẩm thì Toà án nào sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang xây dựng dự án Pháp lệnh thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự theo hướng việc giải quyết theo thủ tục rút gọn sẽ không được kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 nội dung: “Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung khoản 5 như sau: “Nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” để thể hiện đầy đủ theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “lợi ích hợp pháp” ở cuối khoản 7 bằng cụm từ “quyền và lợi ích hợp pháp”
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định nội dung: “Toà án xét xử trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và án lệ”.
- Về Điều 109
Theo quy định tại Điều này thì Tòa án nhân dân tối cao có chức năng thực hiện việc tồng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử. Việc bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử theo quy định hiện hành được thực hiện bằng hình thức ban hành các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng pháp luật khác. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải tuân thủ theo quy trình luật định và thực tiễn cho thấy các hình thức này là chưa đầy đủ, chưa đáp ứng kịp thời việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử. Vì vậy, có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung nhiệm vụ “phát triển án lệ” vào khoản 3 Điều 109 và đây cũng là yêu cầu đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Các ý kiến này cũng đề nghị việc áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc của Tòa án chỉ được thực hiện trong những trường hợp quy định của pháp luật chưa rõ ràng, không thống nhất và có những cách hiểu khác nhau; không áp dụng đối với những trường hợp pháp luật chưa có quy định mà trường hợp này cần phải kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trừ trường hợp do luật định” vào khoản 2 Điều 109 tương tự như đối với khoản 6 Điều 108.
- Về Điều 110
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 1 như sau: “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội”, vì Chánh án Tòa án nhân dân nhân tối cao với tư cách là người đứng đầu cơ quan thực hiện quyền tư pháp, trước hết phải là người được nhân dân tín nhiệm thông qua việc bầu cử là đại biểu Quốc hội; hơn nữa, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là đại biểu Quốc hội mới có thể chính thức tham dự các phiên họp của Quốc hội và phát biểu ý kiến; Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị cùng với việc quy định “nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội”, thì cần bổ sung quy định: “Khi hết nhiệm kỳ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nhiệm kỳ mới”.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 1: “…Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định”.
Có nhiều ý kiến đề nghị quy định rõ nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán Tòa án khác theo hướng: “nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là suốt đời; nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án khác là 10 năm”. Một số ý kiến đề nghị không quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán.
- Về Điều 111
Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Nhà nước bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế”.
- Về Điều 112
Đa số ý kiến đồng ý với nội dung quy định tại Điều này về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “Kiểm sát hoạt động tư pháp” ở khoản 1 và chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; trường hợp vẫn quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì cần giới hạn chức năng kiểm sát trong lĩnh vực hình sự và hành chính, không kiểm sát trong lĩnh vực dân sự nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên trong các vụ việc dân sự.
- Về Điều 114
Một số ý kiến đề nghị bỏ quy định về việc Kiểm sát viên chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ở khoản 2 Điều này để đảm bảo yêu cầu Kiểm sát viên độc lập khi thực hành quyền công tố.
10. Về Chương IX: Chính quyền địa phương
Về cơ bản, các ý kiến nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định về chính quyền địa phương tại Chương này. Tuy nhiên, có một số ý kiến đề nghị cân nhắc chỉnh lý, bổ sung một số nội dung sau đây:
- Về Điều 115
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 cụm từ: “Và các đơn vị tương đương” sau từ “thành phố trực thuộc trung ương”.
- Về Điều 116
Có ý kiến đề nghị sửa đổi cụm từ “Cơ quan nhà nước cấp trên” ở khoản 1 thành “Cơ quan quyền lực nhà nước cấp trên”.
11. Về Chương X: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước
Đa số ý kiến nhất trí với nội dung của Chương này về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước. Tuy nhiên, đối với Hội đồng Hiến pháp là cơ quan được thành lập nhằm thực hiện chủ trương của Đại hội IX, X, XI về việc xây dựng cơ chế phán quyết những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Với nội dung đã được thể hiện trong Dự thảo thì vẫn chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí của Hội đồng Hiến pháp trong Bộ máy nhà nước. Vì vậy, có ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Hiến pháp theo hướng giao cho Hội đồng Hiến pháp chức năng giải thích pháp luật và có quyền đình chỉ các văn bản vi Hiến. Về các điều khoản cụ thể của Chương này, có một số ý kiến đề nghị như sau:
- Về Điều 120
Có ý kiến đề nghị quy định Hội đồng Hiến pháp theo hướng: “Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, các thành viên khác gồm có: Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban tư pháp của Quốc hội và một số Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, có thể có một số nhà khoa học pháp lý có học hàm, học vị cao, có uy tín trong đội ngũ các nhà khoa học pháp lý, am hiểu sâu sắc pháp luật trong nước và luật pháp quốc tế, các nhà khoa học pháp lý này cũng sẽ do Quốc hội bầu”.
Một số ý kiến đề nghị quy định rõ hơn cơ cấu, tổ chức, chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp, nhưng phải bảo đảm Hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội thành lập và thực hiện những chức năng, nhiệm vụ được Quốc hội giao.
- Về Điều 122
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định để làm rõ hơn vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán nhà nước; trong đó cần thể hiện Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập để giúp Quốc hội trong việc xem xét quyết định ngân sách nhà nước, thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách nhà nước, dự toán các công trình quan trọng của quốc gia do Quốc hội quyết định; thẩm tra và trình Quốc hội phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước, giám sát việc chấp hành ngân sách nhà nước.
Có ý kiến đề nghị sửa đổi khoản 2, quy định “Nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán theo nhiệm kỳ của Quốc hội”.
12. Về Chương XI: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp
- Về Điều 123
Có ý kiến đề nghị bỏ đoạn 1 Điều 123 vì đã đề nghị đưa vào Lời nói đầu của Hiến pháp. Hơn nữa, đoạn 2 Điều này (Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp) cũng đã thể hiện được hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp.
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối đoạn 3 Điều này.
- Về Điều 124
Có ý kiến đề nghị sửa đổi cụm từ “Việc làm Hiến pháp” ở đoạn 1 thành “Việc ban hành Hiến pháp” hoặc “Việc Xây dựng Hiến pháp” để bảo đảm kỹ thuật.
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định tại điều 147 Hiến pháp 1992
13. Về Kỹ thuật lập Hiến
Có ý kiến đề nghị cần bổ sung tiêu đề cho các điều của Hiến pháp; Có ý kiến cho rằng trong Dự thảo việc sử dụng thuật ngữ còn chưa thống nhất (Ví dụ: tại khoản 2, Điều 110 dùng từ “theo quy định của luật” nhưng tại khoản 1, 3 Điều 110 dùng từ “do luật định”). Có ý kiến đề nghị nên hạn chế dùng các thuật ngữ này vì Hiến pháp là đạo luật gốc, luật nguồn, các luật khác phải tuân thủ Hiến pháp và không được trái Hiến pháp, với cách quy định như Dự thảo có thể dẫn đến trường hợp nhiều quy định của Hiến pháp muốn thực thi phải chờ hướng dẫn, giải thích của các văn bản pháp luật khác, làm giảm hiệu lực của Hiến pháp.
Trên đây là tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tòa án nhân dân tối cao xin gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tổng hợp trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; - Văn phòng TW và các Ban của Đảng; - Văn phòng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp TW; - Văn phòng Tổng Bí thư; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Quốc hội; - Ban Cán sự Đảng TANDTC; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Lưu: VP, VKHXX (TANDTC). | KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn |
Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28-12-2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai lấy ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tòa án nhân dân tối cao xin gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với các nội dung cụ thể như sau:
I. Quá trình tỔ chỨc lẤy ý kiẾn vào DỰ thẢo HiẾn pháp
1. Công tác tổ chức lấy ý kiến
Việc tổ chức lấy ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai nghiêm túc, dân chủ, khoa học, chất lượng, thiết thực và tiết kiệm theo đúng tinh thần chỉ đạo tại Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 38/2012/QH13 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28-12-2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tại Quyết định số 05/QĐ-TANDTC ngày 18/01/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch của Tòa án nhân dân tối cao về việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; thành lập Ban chỉ đạo việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong ngành Tòa án.
Thực hiện kế hoạch nêu trên Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức phổ biến, quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Kế hoạch của Tòa án nhân dân tối cao về việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cho cán bộ chủ chốt trong ngành Tòa án tại Hội nghị tổng kết triển khai công tác năm 2013 của ngành Tòa án vào các ngày 22-23/01/2013, theo đó việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành cần được ưu tiên tập trung chỉ đạo thực hiện, bảo đảm chất lượng và đúng tiến độ theo yêu cầu.
Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án quân sự cấp quân khu và các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức phổ biến, quán triệt, lấy ý kiến của toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, xây dựng Báo cáo của cơ quan, đơn vị, địa phương mình về kết quả đóng góp ý kiến gửi về Tòa án nhân dân tối cao để tổng hợp. Tòa án nhân dân tối cao đã nhận được 73 Báo cáo của các Tòa án địa phương, đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao phản ánh hơn 2000 ý kiến về các nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Tòa án nhân dân tối cao cũng đã nhận được nhiều ý kiến góp ý trực tiếp hoặc góp ý qua Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao. Nhìn chung, các Tòa án, đơn vị trong ngành đã thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, đúng tiến độ việc lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các ý kiến đóng góp đều rất toàn diện và cụ thể, đề cập đến toàn bộ nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng như từng điều khoản cụ thể của Dự thảo, thể hiện trách nhiệm cao của cán bộ, công chức ngành Tòa án trong việc đóng góp ý kiến để hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trên cơ sở các Báo cáo của các Tòa án địa phương, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao và các ý kiến góp ý trực tiếp hoặc góp ý qua Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành tập hợp đầy đủ, chính xác, khách quan, trung thực và xây dựng Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Hội nghị lãnh đạo các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, lãnh đạo các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để góp ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Tòa án nhân dân tối cao đã tiếp thu các ý kiến đóng góp, chỉnh lý, hoàn thiện Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
2. Các hình thức tổ chức lấy ý kiến
Để phục vụ việc lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ, công chức, Hội thẩm Tòa án các cấp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tòa án nhân dân tối cao đã đăng tải toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các tài liệu có liên quan lên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, Báo Công lý và Tạp chí Tòa án nhân dân làm tài liệu nghiên cứu đóng góp ý kiến theo đúng hướng dẫn của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Các ý kiến được tập hợp thông qua các hình thức góp ý trực tiếp tại các cuộc họp, hội nghị, hội thảo do các Tòa án, đơn vị trong ngành tổ chức; góp ý kiến bằng văn bản gửi đến cơ quan, đơn vị nơi công tác; góp ý kiến thông qua Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, Báo Công lý hoặc Tạp chí Tòa án nhân dân.
3. Các đối tượng được lấy ý kiến
Đối tượng lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 bao gồm: các thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; các Thẩm phán, Hội thẩm, các cán bộ, công chức, viên chức công tác trong ngành Tòa án.
4. Các đối tượng đóng góp ý kiến và được tổng hợp vào Báo cáo
Các thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; các Thẩm phán, Hội thẩm, các cán bộ, công chức, viên chức công tác trong ngành Tòa án.
II. Đánh giá chung vỀ DỰ thẢo sỬa đỔi HiẾn pháp năm 1992
Nhìn chung, các ý kiến nhất trí với những nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và có chung quan điểm về nội dung quan trọng của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; cụ thể là:
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có sự kế thừa những giá trị khoa học về nội dung và kỹ thuật lập hiến trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã thể chế hóa kịp thời các quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh và văn kiện Đại hội Đảng khóa XI, Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12-7-2011 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Kết luận số 20-KL/TW ngày 25-5-2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trong số 124 Điều của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có 11 điều mới, 99 điều sửa đổi, bổ sung với nhiều nội dung mới. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa rõ hơn bản chất của chế độ ta, của Nhà nước ta, khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân... Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung hợp lý các quy định về các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; ghi nhận và làm sâu sắc hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Điều này cho thấy việc sửa đổi Hiến pháp lần này là khá toàn diện, bảo đảm là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính dự báo và ổn định lâu dài.
Về tổng thể, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã giải quyết được những vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn đặt ra trong quá trình tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992; đã bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, phân định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; về cơ bản đã thể hiện rõ nội dung đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
Việc tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội trong Hiến pháp là cần thiết. Đây là nội dung cực kỳ quan trọng, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với lịch sử và những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Việc quy định lực lượng vũ trang có nhiệm vụ tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là đúng đắn; không thể phi chính trị hóa quân đội như đề nghị của một vài ý kiến.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã xác lập được cơ chế bảo đảm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hầu hết các ý kiến cho rằng việc khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật là cần thiết; tuy nhiên, có nhiều ý kiến đề nghị cần khẳng định trong Hiến pháp vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể để làm rõ hơn tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc khẳng định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia thuộc sở hữu toàn dân là phù hợp; tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về việc Nhà nước trưng mua, trưng thu đối với diện tích đất do tổ chức, cá nhân sử dụng trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội thay cho quy định về việc Nhà nước thu hồi đất có bồi thường để bảo đảm tôn trọng quyền sử dụng đất của các cá nhân, tổ chức.
Về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, các quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; quy định bổ sung nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”; quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là cần thiết, phù hợp với những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp. Đa số ý kiến đều đồng tình, đánh giá cao việc bổ sung một số nội dung mới vào các điều, khoản quy định về Tòa án và cho rằng nếu các quy định này được thông qua sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự hoàn thiện, phát triển và tiến bộ của hệ thống Tòa án trước mắt cũng như trong tương lai, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của ngành Tòa án.
III. VỀ nỘi dung cỤ thỂ cỦa dỰ thẢo sỬa đỔi HiẾn pháp năm 1992
1. Về Lời nói đầu của Hiến pháp
Đa số các ý kiến nhất trí với các nội dung được thể hiện trong Lời nói đầu của Hiến pháp. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, Hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ đều được công nhận là đạo luật cơ bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của quốc gia với nội dung cơ bản là thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và bảo vệ đất nước, khẳng định quyền lực của nhân dân, chủ quyền của quốc gia, đồng thời xác định cơ chế, phương thức và các thiết chế thực hiện quyền lực nhà nước... Lời nói đầu của bản Hiến pháp cần có nội dung thể hiện có tính chất “tuyên ngôn” những vấn đề nêu trên. Vì vậy, một số ý kiến đề nghị bổ sung một số nội dung của Lời nói đầu tại đoạn 4 và bổ sung thêm một đoạn mới trong Lời nói đầu về tính chất và giá trị pháp lý của Hiến pháp như sau:
“... Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, thực hiện chủ quyền nhân dân, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí quyền lực của nhân dân và chủ quyền quốc gia; xác định cơ chế, phương thức phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; xây dựng và bảo vệ tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; thực hiện công bằng xã hội; tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Hiến pháp này là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Bên cạnh đó, để thể hiện rõ ràng và chính xác hơn một số vấn đề nêu trong Lời nói đầu của Hiến pháp, có ý kiến đề nghị, thay cụm từ: “Dưới ánh sáng” tại đoạn 4 bằng cụm từ: “Trên tinh thần”, thay thế cụm từ “thực hiện chủ quyền nhân dân” bằng cụm từ “thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”, sửa đổi cụm từ “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử” bằng cụm từ “Trải qua thời gian dựng nước và giữ nước” hoặc “Xuyên suốt chiều dài lịch sử”. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng cần nêu rõ tên hiệu của nước ta hiện nay trong Lời nói đầu bằng cách bổ sung cụm từ “nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sau cụm từ “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” . Có ý kiến cho rằng độc lập là khát vọng ngàn đời của dân tộc, vì vậy đề nghị bổ sung hai từ “độc lập” vào đoạn 5 như sau: “... vì mục tiêu độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Đặc biệt, có ý kiến đề nghị cần làm rõ phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp ngay trong Lời nói đầu. Vì vậy cần bổ sung thêm một đoạn mới với nội dung là: “Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”.
2. Về Chương I: Chế độ chính trị
Về cơ bản, đa số các ý kiến đều nhất trí với những nội dung được thể hiện tại Chương chế độ chính trị. Tuy nhiên, Chương này có nội dung thể hiện các nguyên tắc cơ bản về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, các thiết chế chính trị và mối quan hệ của các thiết chế đó trong hệ thống chính trị. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung một điều mới hoặc một điểm mới vào Điều 7 để quy định nguyên tắc: “Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm người đứng đầu các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập” nhằm bảo đảm vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về các điều khoản cụ thể trong Chương này có một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
- Về Điều 1:
Với quan điểm cho rằng nước ta là một nước độc lập, dân chủ và lãnh thổ của một đất nước phải bao gồm cả thềm lục địa. Vì vậy cần sửa lại Điều 1 là: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển, thềm lục địa, vùng trời”
- Về Điều 2:
Có ý kiến cho rằng nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cách ủy quyền cho nhà nước thông qua việc thực hiện quyền bầu cử, ứng cử. Vì vậy cần thể hiện những nội dung này trong Điều 2 và thể hiện lại là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thực hiện thông qua việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan đại diện”.
- Về Điều 4
Các ý kiến nhất trí với nội dung Dự thảo, nhất trí về việc cần khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội trong Hiến pháp. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn nội dung Đảng lãnh đạo Nhà nước để phát huy đầy đủ quyền lãnh đạo của Đảng và khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời cần nhấn mạnh thêm sự lãnh đạo của Đảng bằng cách bổ sung thêm cụm từ “duy nhất” tại khoản 1 như sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam…, là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn diện nhà nước và xã hội” . Bên cạnh đó, cần xác định rõ hơn trách nhiệm và mục tiêu lãnh đạo của Đảng bằng cách bổ sung khoản 2 và khoản 3 như sau: “2. Sự lãnh đạo của Đảng hướng đến mục tiêu hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy lợi ích của dân tộc định hướng cho hành động, kiên quyết xóa bỏ mọi biểu hiện cửa quyền, tham nhũng.
3. Mọi hoạt động của tổ chức của Đảng, đảng viên đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, luôn gắn bó mật thiết với quyền lợi nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và dân tộc Việt Nam về việc lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị quy định rõ thêm phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội thông qua Cương lĩnh, Nghị quyết, công tác cán bộ.
- Về Điều 5
Để bảo đảm rõ nghĩa và có nội dung toàn diện hơn đối với các vấn đề được quy định tại Điều này, có một số ý kiến đề nghị: thay 2 từ “đất nước” bằng hai từ “lãnh thổ”, bổ sung cụm từ “ và người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài” sau cụm từ “các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” tại khoản 1; bổ sung khoản 2 như sau: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và có trách nhiệm giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ và phân biệt dân tộc”; bổ sung khoản 3 như sau: “Ngôn ngữ chính thức của quốc gia là tiếng Việt…”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị giữ nguyên điều này như quy định của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 6
Có ý kiến cho rằng nhân dân không chỉ thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước mà còn có thể thông qua các tổ chức chính trị xã hội mà họ tham gia. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung điều này như sau: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, …qua các cơ quan khác của nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác”.
- Về Điều 7
Để thể hiện rõ ràng, mạch lạc hơn nội dung thể hiện tại điều này, có ý kiến đề nghị sửa đổi khoản 2 như sau: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
Ngoài ra, để việc bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được chặt chẽ, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “quá trình bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải công khai chương trình hành động và tài sản của các ứng cử viên”.
- Về Điều 8
Với quan điểm cho rằng hoạt động nhà nước không chỉ có hoạt động hành chính mà còn bao gồm cả hoạt động tư pháp, bởi vậy cần bổ sung cụm từ “tư pháp” sau cụm từ “hành chính”.
Có ý kiến cho rằng cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ không được tham nhũng, vì vậy đề nghị thay cụm từ “chống tham nhũng” bằng cụm từ “không được tham nhũng” ở khoản 2 và bổ sung thêm quy định: “Chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân trong bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm tăng cường hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng và làm trong sạch bộ máy nhà nước. Đồng thời, cần chỉnh lý lại khoản 3 như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, có trách nhiệm đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật”.
- Về Điều 9
Để bảo đảm quy định đầy đủ hơn về Mặt trận Tổ quốc cả về thành phần và nguyên tắc hoạt động, có ý kiến đề nghị sửa đổi lại khoản 2 và khoản 3 như sau:
“2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, cá nhân thành viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
3. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, cá nhân thành viên hoạt động theo tôn chỉ và mục đích phục vụ nhân dân của mình”.
Ngoài ra, một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “tạo điều kiện” ở khoản 3 bằng cụm từ “đảm bảo điều kiện” hoặc “có trách nhiệm” nhằm khẳng định nhiệm vụ của Nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc.
- Về Điều 10
Có ý kiến đề nghị cần có quy định về giới hạn hoạt động của Công đoàn để xác định Công đoàn phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Về Điều 11
Để tránh dùng từ Hán - Việt, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “bất khả” ở khoản 1 bằng cụm từ “không được”.
Với quan điểm cho rằng dân chủ vừa là bản chất vừa là giá trị của chế độ ta, vì vậy, một số ý kiến đề nghị bổ sung khoản 2 như sau: “Mọi hành vi chống lại dân chủ, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ… đều bị nghiêm trị”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị giữ nguyên đoạn 2 Điều 13 Hiến pháp 1992.
- Về Điều 12
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “các tổ chức quốc tế khác” sau cụm từ “với tất cả các nước”
- Về Điều 13
Một số ý kiến đề nghị ở khoản 1 cần quy định rõ kích cỡ ngôi sao vàng theo tỷ lệ lá cờ và hướng quay của các cánh ngôi sao nhằm tránh trường hợp kích cỡ không hợp lý và hướng quay của cánh ngôi sao bị sai lệch. Đồng thời, cần định lượng rõ số răng của nửa bánh xe trong Quốc huy và thay từ “Chung quanh” bằng từ “bao quanh” hoặc “xung quanh” cho rõ nghĩa.
- Về Điều 14
Một số ý kiến đề nghị gộp chung Điều 14 vào thành khoản 5 Điều 13 để xác định vai trò ngang nhau của Thủ đô và Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca; đồng thời bổ sung cụm từ “Thành phố” trước cụm từ “Hà Nội”.
3. Về Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Đại đa số các ý kiến đóng góp đều hoan nghênh và đồng tình với các nội dung được sửa đổi và bổ sung tại Chương này. Tuy nhiên, để chặt chẽ và rõ ràng hơn trong việc quy định các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều như sau:
- Về Điều 15
Một số ý kiến đề nghị cần nêu rõ các căn cứ giới hạn quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp; do đó, nên bổ sung, chỉnh lý lại khoản 2 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết và do luật định vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”
- Về Điều 16
Lợi ích hợp pháp của mọi người cần được tôn trọng, vì vậy một số ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 như sau: "Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác".
- Về Điều 17
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Không ai bị” ở khoản 2 bằng cụm từ “Nghiêm cấm mọi hành vi”, bổ sung thêm cụm từ “Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” vào cuối khoản 2 và chỉnh lý lại đoạn này như sau: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
- Về Điều 18
Đối với nội dung quy định “Công dân Việt Nam không thể bị… giao nộp cho Nhà nước khác” tại khoản 2, có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trừ trường hợp có quy định khác”, để loại trừ những trường hợp việc giao nộp được thực hiện theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ quốc tế.
- Về Điều 20
Có ý kiến cho rằng bảo đảm để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình là trách nhiệm của Nhà nước, vì vậy, đề nghị bổ sung thêm khoản 4 với nội dung như sau: “Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình”.
- Về Điều 21
Để quy định chặt chẽ, phù hợp thực tiễn pháp luật của nước ta về quyền sống và trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền sống cho mọi người, có ý kiến đề nghị sửa đổi lại điều này như sau:
“1. Mọi người có quyền sống, trừ trường hợp bị Tòa án kết án tử hình và bị Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình.
2. Nhà nước bảo đảm quyền sống cho mọi người trên lãnh thổ Việt Nam”
Ngoài ra, có nhiều ý kiến đề nghị gộp khoản 1 Điều 22 vào Điều 21 và chỉnh lý lại như sau: “Mọi người có quyền được sống; có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”.
- Về Điều 22
Có ý kiến đề nghị bổ sung và biên tập lại khoản 1 Điều này như sau: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 3 cụm từ “và được phép của cơ quan có thẩm quyền” sau cụm từ “được người đó đồng ý”.
- Về Điều 23
Một số ý kiến đề nghị bổ sung và chỉnh lý lại khoản 1 Điều này như sau: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
Nghiêm cấm thu thập, lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác nếu không được người đó đồng ý”.
- Về Điều 25
Về nguyên tắc thì chỉ có những gì hợp pháp mới được pháp luật bảo hộ và mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để quy định chặt chẽ hơn, có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hợp pháp” và chỉnh lý lại khoản 2 như sau: “… Nơi thờ tự hợp pháp của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”; đồng thời, bổ sung thêm khoản 4 với nội dung: "Các tổ chức tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
- Về Điều 26
Để ngăn ngừa việc lợi dụng quyền lập hội để tiến hành hoạt động chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân, có ý kiến đề nghị cơ cấu nội dung của Điều này thành 2 khoản như sau:
“1. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
2. Mọi công dân đều có quyền lập hội và tham gia các hội. Nghiêm cấm việc thành lập các tổ chức có những hoạt động quân sự hoặc bán quân sự hoặc tạo ra phân biệt đối xử về tôn giáo, chủng tộc hoặc dân tộc. Trình tự, thủ tục đăng ký thành lập hội do luật định”.
- Về Điều 27
Có ý kiến cho rằng, việc nhấn mạnh “công dân nam, nữ” vô hình chung đã loại bỏ những công dân là người chuyển giới hoặc lưỡng giới do đó đề nghị dùng từ “công dân” để đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả mọi người hoặc sửa đổi lại khoản 1 như sau: “Công dân, không phân biệt giới tính bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt”.
- Về Điều 28
Trên thực tế có người đủ 18 tuổi hoặc đủ 21 tuổi nhưng không có quyền bầu cử hoặc ứng cử do họ bị hạn chế quyền theo quyết định của Tòa án. Vì vậy, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên... và đủ hai mươi tuổi trở lên” bằng cụm từ “Công dân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật” và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Công dân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp”, đồng thời bổ sung quy định “Nhà nước bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và quyền ứng cử” vào Điều này.
- Về Điều 29
Có ý kiến cho rằng quyền và nghĩa vụ của công dân không tách rời nhau, vì vậy đề nghị bổ sung cụm từ “và nghĩa vụ” và chỉnh lý lại khoản 1 như sau: "Công dân có quyền và nghĩa vụ tham gia quản lý nhà nước và xã hội...".
- Về Điều 30
Do chỉ những vấn đề hệ trọng của đất nước mới cần đưa ra trưng cầu ý dân, vì vậy có ý kiến đề nghị sửa đổi lại Điều này như sau: “Công dân có quyền biểu quyết về các vấn đề hệ trọng của đất nước”.
- Về Điều 31
Có ý kiến cho rằng ngoài việc khiếu nại, tố cáo thì công dân còn có quyền khởi kiện đối với các quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đồng thời cần xác định rõ việc xử lý đối với các hành vi giải quyết khiếu nại, tố cáo sai quy định hoặc cản trở người khiếu nại. Do đó, cần bổ sung cụm từ “quyền khởi kiện” ở khoản 1; bổ sung khoản 2 nội dung: “Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo giải quyết khiếu nại, tố cáo sai quy định của pháp luật sẽ bị nghiêm trị” và sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau: “Nghiêm cấm và xử lý nghiêm việc cản trở, sách nhiễu, trả thù người khiếu nại...”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị thiết kế nội dung “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” thành một điều riêng để thể hiện được bản chất Nhà nước cũng như tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
- Về Điều 32
Để đảm bảo chặt chẽ hơn về mặt nội dung và bảo đảm tốt hơn quyền của công dân trong tư pháp hình sự, một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm một khoản mới với nội dung: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Đồng thời, bổ sung thêm cụm từ “và phải chịu hình phạt” sau cụm từ “không ai bị coi là có tội” tại khoản 1; thay cụm từ: "vì một tội phạm" bằng cụm từ "về một hành vi phạm tội" tại khoản 2; bổ sung thêm cụm từ “tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc” sau cụm từ “có quyền” tại khoản 3; bổ sung cụm từ “thi hành án” sau từ “xét xử” ở khoản 4.
- Về Điều 33
Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “của Hiến pháp” và chỉnh lý lại khoản 1 như sau: “... đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58 của Hiến pháp”.
- Về Điều 34
Việc kinh doanh của cá nhân, tổ chức phải tuân theo pháp luật và chỉ được phép kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” và chỉnh lý lại khoản 1 như sau: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” hoặc bổ sung cụm từ “các ngành nghề pháp luật không cấm” vào sau cụm từ “… tự do kinh doanh” ở khoản 1.
- Về Điều 35
Nhà nước cần thể hiện trách nhiệm của mình đối với việc bảo đảm các quyền an sinh xã hội. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “các đối tượng chính sách được hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo đảm an sinh xã hội”.
- Về Điều 36
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 37
Trên thực tế, có trường hợp Cơ quan điều tra có thể vào chỗ ở của công dân để tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Vì vậy, có một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ: “trừ trường hợp được pháp luật cho phép” vào sau cụm từ “… không được người đó đồng ý” ở khoản 2.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định của Hiến pháp 1992.
Có ý kiến đề nghị bổ sung đoạn 2 khoản 2 như sau: “Việc khám xét chỗ ở do pháp luật quy định”.
- Về Điều 38
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 1: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân” do quyền và nghĩa vụ lao động có liên quan trực tiếp đến quyền có việc làm, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc như nội dung Điều này đã thể hiện.
- Về Điều 39
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản mới tại Điều này có nội dung quy định: “3. Nghiêm cấm việc ngược đãi vợ chồng, bạo lực gia đình” nhằm bảo đảm hạnh phúc gia đình và bảo vệ phụ nữ, trẻ em trong quan hệ gia đình.
- Về Điều 40
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” để bảo đảm thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Về Điều 41
Để quy định toàn diện hơn và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 quy định như sau: "Công dân có quyền được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe; bình đẳng trong việc…”, đồng thời bổ sung thêm quy định về việc Nhà nước có chính sách bảo vệ sức khỏe cho công dân và ưu tiên thực hiện chính sách bảo vệ sức khỏe cho đồng bào miền núi như sau: “3. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số”.
- Về Điều 42
Để nâng cao trình độ dân trí, Nhà nước cần có trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập. Vì vậy có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập” và có chính sách về giáo dục tiểu học bắt buộc, phát triển tài năng đối với người có năng khiếu, tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật và những người có hoàn cảnh khó khăn được học văn hóa và học nghề phù hợp.
- Về Điều 43
Có ý kiến đề nghị nên giữ nguyên như quy định của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 44
Bên cạnh việc quy định mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa thì cần quy định trách nhiệm của công dân trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Công dân có trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam”.
- Về Điều 45
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách, tạo điều kiện để công dân xác định dân tộc của mình và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ”.
- Về Điều 46
Để quy định chặt chẽ việc bảo vệ môi trường và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong công tác bảo vệ môi trường, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định: “Nghiêm cấm mọi hành vi làm ảnh hưởng xấu đến môi trường” và “Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường”.
- Về Điều 47
Công dân phải có nghĩa vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Vì vậy, có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều này như sau: “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” hoặc thay thế cụm từ “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” bằng cụm từ “mọi hành vi phản bội Tổ quốc đều bị xử lý theo quy định pháp luật” để thể hiện rõ hơn tính chất pháp lý của quy định này.
- Về Điều 48
Một số ý kiến đề nghị thống nhất sử dụng thuật ngữ “thực hiện” thay cho thuật ngữ “làm” và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự...”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định”.
- Về Điều 49
Việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật là nghĩa vụ của tất cả mọi người chứ không chỉ công dân mới có nghĩa vụ này. Vì vậy, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Công dân” bằng cụm từ “Mọi người” và chỉnh lý lại Điều này như sau: “Mọi người có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”.
- Về Điều 50
Để bảo đảm bao quát mọi trường hợp phải nộp thuế, có nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi quy định tại Điều này như sau: “Cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật”.
- Về Điều 51
Mọi cá nhân, tổ chức làm việc và cư trú tại Việt Nam đều phải có nghĩa vụ chấp hành pháp luật của Việt Nam. Vì vậy, có ý kiến đề nghị sửa đổi, chỉnh lý lại Điều này như sau: “Người nước ngoài, người không quốc tịch cư trú ở Việt Nam… được Nhà nước bảo hộ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam, có nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng của Việt Nam nơi mình cư trú, làm ăn, sinh sống”.
4. Về Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
Đa số ý kiến đóng góp đều thống nhất cao với những sửa đổi, bổ sung trong Chương này về chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Về những vấn đề cụ thể cần sửa đổi, bổ sung, một số ý kiến đóng góp như sau:
- Về Điều 53
Đề nghị bổ sung cụm từ “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” vào sau cụm từ “hiện đại hóa đất nước”.
- Về Điều 54
Có ý kiến đề nghị quy định rõ vai trò then chốt, chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể để làm rõ hơn tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về Điều 58
Có ý kiến đề nghị bổ sung, biên tập lại khoản 1 Điều này như sau: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý, sử dụng theo quy hoạch và pháp luật nhằm bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 2 như sau: “… Người sử dụng đất có trách nhiệm quản lý, bảo vệ, bồi bổ ...”.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị quy định bổ sung chế định Nhà nước trưng mua, trưng thu đối với diện tích đất do tổ chức, cá nhân sử dụng trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội thay cho quy định về việc Nhà nước thu hồi đất có bồi thường ở khoản 3, nhằm giải quyết những vướng mắc trong việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng và tình trạng khiếu kiện hiện nay trong lĩnh vực đất đai.
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hợp pháp” sau cụm từ “sử dụng” ở khoản 3 vì Nhà nước chỉ bồi thường đối với đất sử dụng hợp pháp.
Có ý kiến đề nghị gộp Điều 57 và Điều 58 và quy định thêm về trách nhiệm khai thác, sử dụng của tổ chức, cá nhân đối với tài nguyên nước, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên khác, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý.
- Về Điều 60
Để tạo điều kiện đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ các cá nhân, tổ chức trong việc phát hiện, hỗ trợ điều tra, xử lý hành vi lãng phí, tham nhũng”.
- Về Điều 61
Để tạo điều kiện cho người lao động phát huy khả năng sáng tạo, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm khoản 3 quy định: “3. Nhà nước có chính sách phù hợp, tạo điều kiện tốt nhất để người lao động phát huy khả năng sáng tạo”.
- Về Điều 62
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 3 quy định: “3. Nghiêm cấm sử dụng các biện pháp y học để áp đặt giới tính thai nhi”.
- Về Điều 63
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 như sau: “Nhà nước phát triển … có hoàn cảnh khó khăn nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo” để bảo đảm mục tiêu của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để thể hiện tính đa dạng, toàn diện của hệ thống an sinh xã hội, có ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng “trẻ em không nơi nương tựa” vào sau đối tượng “người khuyết tật”.
- Về Điều 65
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 35, 37 của Hiến pháp 1992.
- Về Điều 66
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 3 như sau: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để mọi công dân có cơ hội học tập để phát triển tài năng. Người khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập ở các bậc học và học nghề phù hợp, ưu tiên giải quyết việc làm”.
- Về Điều 68
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối khoản 3.
5. Về Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc
Các ý kiến cơ bản nhất trí với việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương này. Có một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số vấn đề cụ thể như sau:
- Về Điều 70
Có quan điểm cho rằng lực lượng vũ trang là lực lượng của chuyên chính vô sản và là lực lượng trực tiếp chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vì vậy cần chịu sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng. Vì vậy, đề nghị bổ sung, thể hiện lại như sau: "Lực lượng vũ trang nhân dân chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân, có nhiệm vụ...”.
- Về Điều 71
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định tại Điều 46 Hiến pháp năm 1992.
- Về Điều 72
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định tại Điều 47 Hiến pháp năm 1992.
- Về Điều 73
Có quan điểm cho rằng giữa quốc phòng và an ninh có mối quan hệ với nhau. Vì vậy, có ý kiến đề nghị bổ sung thể hiện lại Điều này như sau: “Nhà nước… kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, xã hội; kinh tế, xã hội với an ninh, quốc phòng”.
6. Về Chương V: Quốc hội
Về cơ bản, đa số ý kiến nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung thể hiện tại Chương này về Quốc hội. Tuy nhiên, có một số ý kiến đề nghị chỉnh lý lại một số cụm từ, nội dung sau đây:
- Về Điều 75
Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “làm Hiến pháp” tại khoản 1 bằng cụm từ “xây dựng Hiến pháp” hoặc “ban hành Hiến pháp”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng Hiến pháp, hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định “Quốc hội có quyền thành lập Tòa án đặc biệt” để phù hợp với quy định tại Điều 107.
- Về Điều 76
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “của mình” ở khoản 3 bằng cụm từ “Quốc hội”.
- Về Điều 78
Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội.
- Về Điều 79
Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn ở khoản 5 và khoản 7 thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội lãnh đạo công tác của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
7. Về Chương VI: Chủ tịch nước
Các ý kiến cơ bản nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương này về thiết chế Chủ tịch nước, trong đó Dự thảo đã quy định rõ hơn quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh các lực lượng vũ trang, là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 91 của Dự thảo thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước cho nên có một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, có quyền đình chỉ các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật và kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đình chỉ các văn bản luật, pháp lệnh mà Chủ tịch nước cho rằng không hợp Hiến. Về các điều khoản cụ thể của Chương này, có một số ý kiến đề nghị chỉnh lý lại các nội dung sau đây:
- Về Điều 93
Có ý kiến đề nghị bổ sung quyền “ân giảm án tử hình” vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước để phù hợp với hệ thống pháp luật của nước ta cũng như thế giới.
- Về Điều 97
Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “nước” vào sau cụm từ “Chủ tịch” tại đoạn 2 Điều này để bảo đảm kỹ thuật và thể hiện lại như sau: “Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước ủy nhiệm thay Chủ tịch nước làm một số nhiệm vụ”.
- Về Điều 98
Một số ý kiến đề nghị quy định rõ khoảng thời gian cụ thể Chủ tịch nước không làm việc được để Phó Chủ tịch nước làm quyền Chủ tịch nước.
8. Về Chương VII: Chính phủ
Các ý kiến nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định về Chính phủ. Tuy nhiên, có một số ý kiến đề nghị cân nhắc nội dung quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội tại Điều 99 để thể hiện vị trí độc lập nhất định của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
9. Về Chương VIII: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
Các ý kiến cơ bản nhất trí cao với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, vì đã thể chế hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp, trong đó có việc khẳng định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp; đồng thời đã bổ sung và khẳng định nhiệm vụ quan trọng của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cần bổ sung quy định để làm rõ về cơ quan tư pháp và quyền tư pháp; các ý kiến này đề nghị quy định rõ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan thực hiện quyền tư pháp cao nhất và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là người đứng đầu cơ quan tư pháp tương tự như quy định về Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định về mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp; quy định về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nước. Trong đó, có nhiều ý kiến đề nghị tách các quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thành hai chương khác nhau vì Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp còn Viện Kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố. Về các điều khoản cụ thể, có một số ý kiến đề nghị cân nhắc sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau đây:
- Về Điều 108
Một số ý kiến đề nghị cần thể hiện lại để làm rõ các quy định tại Điều này là các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân vì trong Dự thảo cụm từ “nguyên tắc” chỉ được sử dụng đối với yêu cầu tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, các ý kiến này đề nghị chuyển quy định tại khoản 2 Điều 109 về việc “Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác” về Điều 108 để làm rõ đây cũng là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “trừ trường hợp do luật định” vào khoản 6 Điều 108, vì trong trường hợp đặc biệt thì có thể thành lập Toà án đặc biệt và Toà án này chỉ giải quyết theo thủ tục đặc biệt nên có thể sẽ không có thủ tục phúc thẩm vì nếu có phúc thẩm thì Toà án nào sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang xây dựng dự án Pháp lệnh thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự theo hướng việc giải quyết theo thủ tục rút gọn sẽ không được kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 nội dung: “Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung khoản 5 như sau: “Nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa” để thể hiện đầy đủ theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “lợi ích hợp pháp” ở cuối khoản 7 bằng cụm từ “quyền và lợi ích hợp pháp”
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định nội dung: “Toà án xét xử trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và án lệ”.
- Về Điều 109
Theo quy định tại Điều này thì Tòa án nhân dân tối cao có chức năng thực hiện việc tồng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử. Việc bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử theo quy định hiện hành được thực hiện bằng hình thức ban hành các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng pháp luật khác. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải tuân thủ theo quy trình luật định và thực tiễn cho thấy các hình thức này là chưa đầy đủ, chưa đáp ứng kịp thời việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử. Vì vậy, có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung nhiệm vụ “phát triển án lệ” vào khoản 3 Điều 109 và đây cũng là yêu cầu đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Các ý kiến này cũng đề nghị việc áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc của Tòa án chỉ được thực hiện trong những trường hợp quy định của pháp luật chưa rõ ràng, không thống nhất và có những cách hiểu khác nhau; không áp dụng đối với những trường hợp pháp luật chưa có quy định mà trường hợp này cần phải kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trừ trường hợp do luật định” vào khoản 2 Điều 109 tương tự như đối với khoản 6 Điều 108.
- Về Điều 110
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 1 như sau: “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội”, vì Chánh án Tòa án nhân dân nhân tối cao với tư cách là người đứng đầu cơ quan thực hiện quyền tư pháp, trước hết phải là người được nhân dân tín nhiệm thông qua việc bầu cử là đại biểu Quốc hội; hơn nữa, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là đại biểu Quốc hội mới có thể chính thức tham dự các phiên họp của Quốc hội và phát biểu ý kiến; Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị cùng với việc quy định “nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội”, thì cần bổ sung quy định: “Khi hết nhiệm kỳ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nhiệm kỳ mới”.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 1: “…Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định”.
Có nhiều ý kiến đề nghị quy định rõ nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán Tòa án khác theo hướng: “nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là suốt đời; nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án khác là 10 năm”. Một số ý kiến đề nghị không quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán.
- Về Điều 111
Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Nhà nước bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế”.
- Về Điều 112
Đa số ý kiến đồng ý với nội dung quy định tại Điều này về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “Kiểm sát hoạt động tư pháp” ở khoản 1 và chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; trường hợp vẫn quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì cần giới hạn chức năng kiểm sát trong lĩnh vực hình sự và hành chính, không kiểm sát trong lĩnh vực dân sự nhằm bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên trong các vụ việc dân sự.
- Về Điều 114
Một số ý kiến đề nghị bỏ quy định về việc Kiểm sát viên chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ở khoản 2 Điều này để đảm bảo yêu cầu Kiểm sát viên độc lập khi thực hành quyền công tố.
10. Về Chương IX: Chính quyền địa phương
Về cơ bản, các ý kiến nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định về chính quyền địa phương tại Chương này. Tuy nhiên, có một số ý kiến đề nghị cân nhắc chỉnh lý, bổ sung một số nội dung sau đây:
- Về Điều 115
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 cụm từ: “Và các đơn vị tương đương” sau từ “thành phố trực thuộc trung ương”.
- Về Điều 116
Có ý kiến đề nghị sửa đổi cụm từ “Cơ quan nhà nước cấp trên” ở khoản 1 thành “Cơ quan quyền lực nhà nước cấp trên”.
11. Về Chương X: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước
Đa số ý kiến nhất trí với nội dung của Chương này về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước. Tuy nhiên, đối với Hội đồng Hiến pháp là cơ quan được thành lập nhằm thực hiện chủ trương của Đại hội IX, X, XI về việc xây dựng cơ chế phán quyết những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Với nội dung đã được thể hiện trong Dự thảo thì vẫn chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí của Hội đồng Hiến pháp trong Bộ máy nhà nước. Vì vậy, có ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Hiến pháp theo hướng giao cho Hội đồng Hiến pháp chức năng giải thích pháp luật và có quyền đình chỉ các văn bản vi Hiến. Về các điều khoản cụ thể của Chương này, có một số ý kiến đề nghị như sau:
- Về Điều 120
Có ý kiến đề nghị quy định Hội đồng Hiến pháp theo hướng: “Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, các thành viên khác gồm có: Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban tư pháp của Quốc hội và một số Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, có thể có một số nhà khoa học pháp lý có học hàm, học vị cao, có uy tín trong đội ngũ các nhà khoa học pháp lý, am hiểu sâu sắc pháp luật trong nước và luật pháp quốc tế, các nhà khoa học pháp lý này cũng sẽ do Quốc hội bầu”.
Một số ý kiến đề nghị quy định rõ hơn cơ cấu, tổ chức, chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp, nhưng phải bảo đảm Hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội thành lập và thực hiện những chức năng, nhiệm vụ được Quốc hội giao.
- Về Điều 122
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định để làm rõ hơn vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán nhà nước; trong đó cần thể hiện Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập để giúp Quốc hội trong việc xem xét quyết định ngân sách nhà nước, thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách nhà nước, dự toán các công trình quan trọng của quốc gia do Quốc hội quyết định; thẩm tra và trình Quốc hội phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước, giám sát việc chấp hành ngân sách nhà nước.
Có ý kiến đề nghị sửa đổi khoản 2, quy định “Nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán theo nhiệm kỳ của Quốc hội”.
12. Về Chương XI: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp
- Về Điều 123
Có ý kiến đề nghị bỏ đoạn 1 Điều 123 vì đã đề nghị đưa vào Lời nói đầu của Hiến pháp. Hơn nữa, đoạn 2 Điều này (Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp) cũng đã thể hiện được hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp.
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối đoạn 3 Điều này.
- Về Điều 124
Có ý kiến đề nghị sửa đổi cụm từ “Việc làm Hiến pháp” ở đoạn 1 thành “Việc ban hành Hiến pháp” hoặc “Việc Xây dựng Hiến pháp” để bảo đảm kỹ thuật.
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định tại điều 147 Hiến pháp 1992
13. Về Kỹ thuật lập Hiến
Có ý kiến đề nghị cần bổ sung tiêu đề cho các điều của Hiến pháp; Có ý kiến cho rằng trong Dự thảo việc sử dụng thuật ngữ còn chưa thống nhất (Ví dụ: tại khoản 2, Điều 110 dùng từ “theo quy định của luật” nhưng tại khoản 1, 3 Điều 110 dùng từ “do luật định”). Có ý kiến đề nghị nên hạn chế dùng các thuật ngữ này vì Hiến pháp là đạo luật gốc, luật nguồn, các luật khác phải tuân thủ Hiến pháp và không được trái Hiến pháp, với cách quy định như Dự thảo có thể dẫn đến trường hợp nhiều quy định của Hiến pháp muốn thực thi phải chờ hướng dẫn, giải thích của các văn bản pháp luật khác, làm giảm hiệu lực của Hiến pháp.
Trên đây là tổng hợp ý kiến của ngành Tòa án về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tòa án nhân dân tối cao xin gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tổng hợp trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; - Văn phòng TW và các Ban của Đảng; - Văn phòng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp TW; - Văn phòng Tổng Bí thư; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Quốc hội; - Ban Cán sự Đảng TANDTC; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Lưu: VP, VKHXX (TANDTC). | KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn |
Báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tổng hợp ý kiến của ngành kiểm sát góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 29/05/2013
Số hiệu:27/BC-VKSTC-V8
Mô tả:
Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 38/2013/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ban cán sự Đảng và Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành tổng hợp ý kiến công chức, viên chức, người lao động về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
bc27-VKS.doc
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VIỆC LẤY Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1. Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 38/2013/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ban cán sự Đảng và Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành các công việc sau đây:
- Ngay sau khi nhận được Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 05/01/2013, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch số 01/KH-VKSTC tổ chức lấy ý kiến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân và triển khai Kế hoạch lấy ý kiến trong toàn Ngành một cách cụ thể, chặt chẽ, khoa học theo đúng Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội và Kế hoạch của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; ngày 05/2/2013, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch số 06/KH-VKSTC về việc tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn Ngành góp ý kiến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Tổ chức quán triệt, phổ biến đến cán bộ, Kiểm sát viên, công chức, viên chức trong toàn Ngành về nội dung Chỉ thị của Bộ chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; yêu cầu các cấp kiểm sát quán triệt tới cán bộ, công chức, viên chức mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tham gia góp ý Hiến pháp; chỉ đạo các cơ quan thông tin, tuyên truyền của ngành Kiểm sát mở chuyên trang, chuyên mục nhằm thu hút, đăng tải các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
- Lãnh đạo và tổ chức việc lấy ý kiến của cán bộ, Kiểm sát viên, công chức, viên chức trong toàn Ngành về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, uốn nắn, phòng ngừa những biểu hiện lệch lạc qua việc tổ chức lấy ý kiến trong Ngành.
- Thực hiện yêu cầu của Bộ Chính trị tại Công văn số 146-CV/TW ngày 22/02/2013 về việc tiếp tục tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã quán triệt sâu sắc chỉ đạo của Bộ Chính trị tới các cán bộ chủ chốt, kiểm sát viên và yêu cầu thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/12/2012 của Quốc hội, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Ngành trong năm 2013. Nhắc nhở cán bộ, kiểm sát viên đề cao tinh thần trách nhiệm trong việc tham gia góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; chỉ đạo các cơ quan thông tin, tuyền truyền của Ngành chú trọng đăng tải các thông tin nhằm làm rõ quan điểm, cơ sở lý luận, thực tiễn của những nội dung trong Dự thảo Hiến pháp; tăng lượng các bài viết, thông tin đồng thuận và các bài tranh luận, phản bác lại những ý kiến lợi dụng việc góp ý để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta.
- Căn cứ Hướng dẫn số 239/HD-UBDTSDHP ngày 23/02/2013 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, ngày 01/3/2013, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành hướng dẫn số 18/HD-VKSTC-V8 hướng dẫn các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập hợp, tổng hợp ý kiến góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Thực hiện yêu cầu của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Công văn số 223/UBDTSDHP ngày 30/01/2013 về việc báo cáo định kỳ tình hình triển khai lấy ý kiến tham gia Dự thảo Hiến pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có Công văn yêu cầu các đơn vị, Viện kiểm sát địa phương cập nhật báo cáo tình hình triển khai Hiến pháp ở Viện kiểm sát địa phương, đơn vị mình vào các ngày 8, 18, 28 hàng tháng để kịp thời báo cáo theo quy định. Định kỳ 10 ngày/ 1đợt, Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp về tình hình triển khai lấy ý kiến trong ngành Kiểm sát theo đúng hướng dẫn tại Công văn số 233/UBDTSĐHP.
2. Việc việc lấy ý kiến của cán bộ, Kiểm sát viên, công chức, viên chức trong toàn ngành Kiểm sát về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thực hiện thông qua các hình thức phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự ở mỗi cấp, cụ thể như: 1) Ngày 28/02/2013, tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn Ngành nối điểm cầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao với 65 điểm cầu ở Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, đại diện Văn phòng tại thành phố Hồ Chí Minh. Với cách thức tổ chức khoa học, Hội nghị đã thu nhận được nhiều ý kiến phát biểu, các ý kiến phát biểu sôi nổi, thắn thắn, trách nhiệm, đề xuất nhiều kiến nghị có cơ sở khoa học, xác đáng. Buổi chiều cùng ngày, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thảo luận tại địa phương, đơn vị mình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (việc thảo luận tại các đơn vị, Viện kiểm sát địa phương diễn ra sôi nổi, thu hút được nhiều ý kiến tham gia, các ý kiến phát biểu tâm huyết, có cơ sở lý luận và thực tiễn). Tổng hợp kết quả Hội nghị ngày 28/2/2013, toàn Ngành đã có 642 lượt ý kiến phát biểu góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. 2) Tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm ở từng đơn vị, từng cấp Viện kiểm sát. 3) Góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản gửi về Viện kiểm sát nhân dân tối cao để tập hợp, tổng hợp chung. 4) Góp ý thông qua các phương tiện thông tin, tuyên truyền của Ngành (Tạp chí kiểm sát, Báo bảo vệ pháp luật, Trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
3. Việc tổ chức lấy ý kiến cán bộ, Kiểm sát viên, công chức, viên chức trong ngành Kiểm sát nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được triển khai khẩn trương, nghiêm túc, đúng tiến độ và hiệu quả; bảo đảm công khai, dân chủ, bám sát Nghị quyết Trung ương II, Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Kế hoạch của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Kế hoạch của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng như ý kiến chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tổ chức lấy ý kiến nhân dân.
Các ý kiến tham gia góp ý tâm huyết, chất lượng và tập trung vào những nội dung liên quan đến phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước; vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch Nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, chính quyền địa phương, các thiết chế hiến định độc lập; quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; chế định trưng cầu ý dân; đặc biệt góp ý sâu vào các vấn đề liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân.
4. Đến nay, đã có 834 Báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp của các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp; 12.279 ý kiến của cán bộ, công chức, kiểm sát viên góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; 02 lượt ý kiến tham gia bằng văn bản, hòm thư điện tử gửi đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Toàn Ngành Kiểm sát nhân dân đã tổ chức 01 Hội nghị trực tuyến toàn Ngành; 93 hội nghị, hội thảo ở cấp đơn vị, Viện kiểm sát địa phương.
II. NHỮNG Ý KIẾN CHUNG VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
1. Về phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
Các ý kiến góp ý của các đơn vị và cá nhân đều tán thành với phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, cho rằng phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng được yêu cầu phát kinh tế, xã hội của đất nước hiện nay (13.113/13.113 ý kiến).
Hầu hết các ý kiến tán thành và đánh giá cao bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp, cho rằng Dự thảo lần này có nhiều điểm mới, vừa kế thừa được các nội dung của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước. Dự thảo đã khẳng định và làm rõ hơn bản chất của chế độ ta về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân, trên cơ sở thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng được nêu trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước (10.092/13.113 ý kiến).
2. Về tên gọi, bố cục của Hiến pháp
- Đề nghị tên gọi của Hiến pháp là “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013” (116/13.113 ý kiến)
- Tán thành bố cục của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (11.905/13.113 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung, đẩy mạnh các thiết chế nhằm tăng cường sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cụ thể, đề nghị hiến định thiết chế Ủy ban nhà nước về phòng, chống tham nhũng (1.187/13.113 ý kiến); khôi phục chức năng của Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính, ban hành văn bản quy phạm hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh (12.767/13.113 ý kiến)
3. Về kỹ thuật lập hiến
- Kỹ thuật lập Hiến có nhiều tiến bộ, bố cục chặt chẽ, logic, bảo đảm tính khoa học và tính hiện đại (7.315/13.113 ý kiến).
- Sắp xếp, ghép các điều có nội dung trùng lặp (3.201/13.113 ý kiến).
- Sửa tất cả các điều có cụm từ “pháp luật bảo hộ”, thay bằng “Nhà nước bảo hộ”, bởi vì Nhà nước mới là chủ thể có trách nhiệm bảo hộ, còn pháp luật chỉ là một trong những công cụ để Nhà nước bảo hộ (1.112/13.113 ý kiến).
- Đề nghị thống nhất cách dùng từ: “theo Hiến pháp, pháp luật”, “theo quy định của pháp luật”, theo quy định của luật”, “do luật định”, “theo pháp luật”, “được quy định trong luật”, “luật định”; “nơi ở”, “chỗ ở”… (1.252/13.113 ý kiến).
III. NHỮNG GÓP Ý CỤ THỂ
LỜI NÓI ĐẦU
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 319 ý kiến góp ý (trong đó có 284 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 35 ý kiến của cá nhân).
+ Tán thành với lời nói đầu (0/319 ý kiến).
+ Không tán thành với lời nói đầu (0/319 ý kiến).
+ Đề nghị sửa đổi lời nói đầu (319/319 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý cụ thể
- Lời nói đầu còn dài, văn phong có chỗ còn trừu tượng, khó hiểu, đề nghị trình bày ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, bảo đảm văn phong pháp lý, bảo đảm tính khái quát cao, nêu bật được truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc (274/319 ý kiến).
- Đề nghị viết lại Lời nói đầu như sau:
“Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.
Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992.
Xuất phát từ yêu cầu lịch sử và thể theo nguyện vọng của nhân dân, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; thực hiện công bằng xã hội; tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam, với truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, xây dựng và thi hành Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (01/319 ý kiến).
- Đề nghị bỏ đoạn 2 Lời nói đầu; thay cụm từ “mấy nghìn năm” bang cụm từ “hàng nghìn năm” (81/319 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “chống ngoại xâm” vào đoạn 1 của Loài nói đầu (19/319 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “yêu nước” đặt sau từ “hun đúc nên truyền thống” (33/319 ý kiến).
CHƯƠNG I
CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 745 ý kiến góp ý về Chương I (trong đó có 720 ý kiến của cơ quan, tổ chức; 25 ý kiến của cá nhân).
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 1 (168/745 ý kiến); Điều 4 (444/745 ý kiến); Điều 9 (242/745 ý kiến); Điều 13 (137/745 ý kiến).
- Về tên Chương:
+ Tán thành với tên Chương, nội dung Chương (101/745 ý kiến)
+ Không tán thành với tên Chương, đề nghị đổi tên Chương (0/745 ý kiến)
- Đề nghị sửa tên Chương, nội dung Chương (3/745 ý kiến)
- Về nội dung, bố cục của Chương: Gộp Điều 1 với Điều 11; Gộp Điều 2 với Điều 12 (1/745 ý kiến); Gộp khoản 1 Điều 5 vào Điều 1; Điều 1 sẽ được viết lại như sau: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước dân chủ, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời; là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” (1/745 ý kiến); Nhập Điều 6 vào Điều 2; nhập quy định về ngôn ngữ quốc gia ở khoản 3 Điều 5 vào Điều 13 để Điều 5 chỉ ghi nhận về bình đẳng dân tộc nhằm tăng tính chặt chẽ, logic, súc tích (10/745 ý kiến); Chuyển các quy định tại Điều 11, 12, 13 lên trước quy định về Mặt trận tổ quốc và các tổ chức để phù hợp về tính chất quan trọng (1/745 ý kiến); Chuyển Điều 13 và Điều 14 lên sau Điều 2 (01/745 ý kiến); Bỏ quy định tại Điều 9, Điều 10 để đảm bảo sự công bằng với các tổ chức chính trị - xã hội khác (3/745 ý kiến); Nhập quy định Điều 10 và 11 để tăng cường tính súc tích, hợp lý (10/745 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung: Bổ sung 01 Điều quy định về Ngày Hiến pháp nhằm tôn vinh giá trị của Hiến pháp, khích lệ toàn dân bảo vệ Hiến pháp vì lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích của chính mình (30/745 ý kiến); Bổ sung một điều quy định Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ phải tuyên thệ khi nhận chức (8/745 ý kiến); Bổ sung 1 Điều quy định về Đoàn thanh niên (4/745 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 1 (Có 168 ý kiến đóng góp, trong đó có 160 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 8 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 1 (18/168 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/168 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: đổi tên nước là “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” như Hiến pháp 1946 cho phù hợp với tình hình hiện nay (15/168 ý kiến); chuyển cụm từ “dân chủ” sang Điều 2 để phù hợp với bản chất của Nhà nước ta, theo đó Điều 1 chỉ quy định về chủ quyền quốc gia của Nhà nước ta (01/168 ý kiến); Gộp Điều 1 và Điều 2 cho gọn, chỉ cần quy định “Nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN” là đủ (2/168 ý kiến); Bổ sung cụm từ “tự do” sau cụm từ “độc lập” (7/168 ý kiến); Đổi vị trí hai cụm từ “dân chủ, độc lập”, thành “độc lập, dân chủ” (99/168 ý kiến); Sửa theo hướng bao hàm hết cả lòng đất, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, phía trên, phía dưới vùng nước… phù hợp với Luật quốc tế về lãnh thổ quốc gia (26/168 ý kiến).
Điều 2 (Có 119 ý kiến đóng góp, trong đó có 116 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 3 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (43/119 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/119 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: quy định về “kiểm soát” việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng toàn bộ các nội dung quy định ở các điều sau đó chưa thể hiện rõ cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa các cơ quan (2/119 ý kiến);
+ Đoạn 1 sửa đổi như sau: “ Nhà nước… của nhân dân Việt Nam, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực…. trí thức Việt Nam” (10/119 ý kiến); Bổ sung cụm từ “mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam” vào cuối đoạn 1 để khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng (3/119 ý kiến); Bỏ cụm từ “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giải cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” vì nội dung đã bao hàm trong cụm từ “Nhà nước của nhân dân”. Mặt khác việc nhấn mạnh tính giai cấp trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp (11/119 ý kiến); Bỏ cụm từ “mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (26/119 ý kiến); Thay cụm từ “đội ngũ trí thức” bằng cụm từ “tầng lớp trí thức” để bao quát hơn (2/119 ý kiến)
+ Đoạn 2 thay cụm từ “các quyền lập pháp, hành pháp, từ pháp” bằng cụm từ “quyền lực nhà nước” để tăng cường tính khái quát vì Điều 122 đã bổ sung chế định kiểm toán là quyền độc lập với ba quyền quyền lập pháp, hành pháp, từ pháp (22/119 ý kiến)
Điều 3 (Có 78 ý kiến đóng góp, trong đó có 76 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (28/78 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/78 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: giữ nguyên quy định “Nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và nhân dân” trong Hiến pháp hiện hành để khẳng định sự tôn nghiêm của quốc gia (17/78 ý kiến); Bổ sung cụm từ “xã hội” trước cụm từ “dân chủ” cho phù hợp với quy định Khoản 3 Điều 20 (4/78 ý kiến); Chuyển nội dung “mọi người có cuộc sống ấm no…toàn diện” vào Điều 21 vì không phù hợp quy định ở Chương về Chế độ chính trị (2/78 ý kiến); Bổ sung từ “bình đẳng” trước cụm từ “ấm no” (1/78 ý kiến); Bổ sung từ “tự do” trước cụm từ “ấm no” (27/78 ý kiến)
Điều 4 (Có 444 ý kiến đóng góp, trong đó có 429 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 15 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (35/444 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/444 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: không dùng ngôn ngữ của Điều lệ Đảng mà cần diễn đạt theo ngôn ngữ pháp lý (01/444 ý kiến); luật hóa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội và quy định rõ quyền thực hiện giám sát đối với tổ chức Đảng và đảng viên của Nhân dân (3/444 ý kiến); gộp nội dung Khoản 3 vào Khoản 2 cho ngắn gọn (18/444 ý kiến).
+ Khoản 1: sửa đổi như sau: “…là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội” nhằm khẳng định nước ta chỉ có 01 chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng và xã hội, chống các luận điệu xuyên tạc, phản động (121/444 ý kiến); Bỏ cụm từ “lao động” sau cụm từ “nhân dân” (16/444 ý kiến); Bỏ cụm từ “đồng thời là” và cụm từ “và của cả dân tộc Việt Nam”, để tránh trùng lặp, khẳng định tầm vóc của Đảng (72/444 ý kiến); Đề nghị bổ sung cụm từ “toàn diện” vào sau cụm từ “lãnh đạo” (5/444 ý kiến); viết gọn lại như sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, trí thức và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (2/444 ý kiến).
+ Khoản 2: bỏ cụm từ “gắn bó mật thiết với nhân dân”, thêm cụm từ “và trước pháp luật” vào sau cụm từ “chịu trách nhiệm trước nhân dân” vì nội dung gắn bó mật thiết với nhân dân đã bao hàm tại Khoản 1, đồng thời tăng cường tính chịu trách nhiệm của Đảng trước pháp luật (47/444 ý kiến); bổ sung quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách những chủ trương của Đảng cũng có ảnh hưởng tới nhân dân (65/444 ý kiến).
+ Khoản 3: sửa như sau “Vai trò lãnh đạo của Đảng được đảm bảo bằng pháp luật” để tạo cơ sở cho việc chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân (34/444 ý kiến); Bỏ từ “đảng viên” vì không cần thiết (1/444 ý kiến); Bổ sung cụm từ “và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam” vào cuối quy định Khoản 3 (1/444 ý kiến); quy định về sự Lãnh đạo của Đảng thành 01 Chương riêng thay vì chỉ có 01 Điều (1/444 ý kiến).
Điều 5 (Có 163 ý kiến đóng góp, trong đó có 159 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 4 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (5/163 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/163 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: thêm từ “độc lập” trước từ “thống nhất” (10/163 ý kiến); Bỏ cụm từ “cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” vì không bao quát người mang quốc tịch Việt Nam sống ở nước ngoài (5/163 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa đổi như sau: “2. Các dân tộc bình đẳng,… và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, phát triển” để thể hiện rõ nét hơn sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với các dân tộc trên lãnh thổ quốc gia (15/163 ý kiến); Đề nghị bỏ cụm từ “mọi hành vi” vì không cần thiết (4/163 ý kiến); giữ nguyên nội dung quy định Điều 5 Hiến pháp 1992 (10/163 ý kiến).
+ Khoản 3: thay cụm từ “tốt đẹp” bằng cụm từ “không trái pháp luật” (16/163 ý kiến); bổ sung cụm từ “chữ Việt” sau cụm từ “tiếng Việt” để bao hàm cả tiếng nói và chữ viết (3/163 ý kiến); bổ sung làm rõ việc lấy ngôn từ Hà Nội làm chuẩn. Nhà nước có biện pháp bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt để tránh tình trạng lai căng, ngoại hóa ngôn từ tiếng Việt trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay (11/163 ý kiến).
+ Khoản 4: sửa đổi như sau: “4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc…” nhằm làm rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách dân tộc và thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN (01/163 ý kiến); bỏ cụm từ “tất cả” và cụm từ “thiểu số” vì không cần thiết, tăng cường tính bình đẳng giữa các dân tộc (77/163 ý kiến); thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng cụm từ “Có trách nhiệm tạo điều kiện” để xác định rõ hơn trách nhiệm của nhà nước đối với sự phát triển của các dân tộc thiểu số (16/163 ý kiến).
Điều 6 (Có 85 ý kiến đóng góp, trong đó có 85 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (14/85 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/85 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bổ sung chủ thể “người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài” vì hiện có hơn 4 triệu người thuộc đối tượng (5/85 ý kiến); Bổ sung vào cuối Điều như sau: “… thông qua các cơ quan khác của Nhà nước, thông qua các đại biểu do mình bầu ra” vì cần có quy định về hình thức dân chủ trực tiếp (39/85 ý kiến); Bổ sumg cụm từ “tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội” sau đoạn “thông qua các” để đảm bảo việc nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các tổ chức đó (1/85 ý kiến); thay cụm từ “và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” bằng cụm từ “và các cơ quan của Nhà nước” để tránh sự lặp từ (17/85 ý kiến); Nếu quy định HĐND trong Hiến pháp thì phải tổ chức HĐND cấp huyện (9/85 ý kiến)
Điều 7 (Có 115 ý kiến đóng góp, trong đó có 114 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (14/115 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/115 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung quy định “Nhân dân có quyền trực tiếp bầu một số vị trí lãnh đạo cao nhất của Nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đề cử của Đảng và Mặt trận tổ quốc” vì đây là những chức danh có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền là lợi ích của nhân dân, là người đại diện cho nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước và có khả năng thực hiện những mong ước trong cuộc sống của nhân dân (16/115 ý kiến); sửa đổi theo hướng đại biểu HĐND tỉnh do đại diện cử tri bầu, HĐND cấp xã thì bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu vì nhân dân đã bầu ra người đại diện cho mình ở cấp xã thì để đại diện phát huy trách nhiệm đại biểu HĐND (13/115 ý kiến); bổ sung quy định “công khai chương trình hành động và tài sản của các ứng viên” (02/115 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa đổi theo hướng cử tri có quyền đề nghị bãi nhiệm Đại biểu Quốc hội vì quy định cử tri có quyền bãi nhiệm là không khả thi, trên thực tế không có cơ chế nào để cử tri thực hiện quyền này (32/115 ý kiến); bỏ quyền bãi miễn của cử tri vì thực tế cử tri không có quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và HĐND mà cử tri đã bầu ra (34/115 ý kiến); thay cụm từ “không còn xứng đáng” bằng cụm từ “không đủ tư cách” để dễ hiểu hơn (4/115 ý kiến).
Điều 8 (Có 189 ý kiến đóng góp, trong đó có 186 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 3 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (5/189 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/189 ý kiến)
- Đề nghị sửa :
+ Khoản 1: thay từ “bằng” bằng cụm từ “trong khuôn khổ” cho sát nghĩa hơn (16/189 ý kiến); Bổ sung cụm từ “không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” vào cuối Khoản 1 như quy định Điều 12 Hiến pháp hiện hành (11/189 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa đổi, bổ sung theo hướng đảm bảo quyền giám sát của nhân dân, khẳng định bản thân cán bộ, công chức không được tham nhũng (64/189 ý kiến); cụm từ “Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ” trong câu 1 Khoản 2 cần phải được giải thích cụ thể vì các cụm từ này rất khó hiểu, không gắn liền với câu thứ 2 của Khoản 2 “Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân…”, trong khi các cơ quan nhà nước cũng phải chịu sự giám sát của nhân dân chứ không chỉ riêng cán bộ, công chức (30/189 ý kiến); Thay cụm từ “Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ” bằng cụm từ “Bộ máy nhà nước và hoạt động của bộ máy nhà nước” (3/189 ý kiến); Khoản 2 có nội dung trùng lặp với Điều 60 về việc cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng (31/189 ý kiến); Bỏ quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức vì nghĩa vụ này nên để Luật cán bộ, công chức điều chỉnh (13/189 ý kiến).
+ Khoản 3: bổ sung cụm từ “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh” nhằm tăng cường tính chế tài (13/189 ý kiến); thay cụm từ “phòng, chống” bằng cụm từ “phải chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với” cho cụ thể hơn (1/189 ý kiến); Bỏ quy định khoản 1, 2 vì trùng lặp với Điều 2 (1/189 ý kiến); bổ sung quy định Nhà nước và bộ máy nhà nước được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân (1/189 ý kiến).
Điều 9 (Có 242 ý kiến đóng góp, trong đó có 239 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 3 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (14/242 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/242 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1, 2 cần bỏ từ “các” nhằm tránh sự lặp từ, đồng thời chuyển cụm từ “Mặt trận tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân” ở khoản 2 lên khoản 1 để làm rõ khái niệm Mặt trận Tổ quốc (16/242 ý kiến).
+ Khoản 1: làm rõ các khái niệm “liên minh”, “liên hiệp chính trị”, “liên hiệp tự nguyện”, “tổ chức chính trị”, “tổ chức chính trị - xã hội” (06/242 ý kiến).
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “do pháp luật quy định” sau cụm tự “phản biện xã hội hội”, bổ sung cụm từ “theo quy định pháp luật” vào cuối Khoản 2 (25/242 ý kiến); bổ sung làm rõ Mặt trận Tổ quốc là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm xác định rõ vị trí của Mặt trận (28/242 ý kiến); Bổ sung quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (1/242 ý kiến).
+ Khoản 3: bỏ cụm từ “và các tổ chức xã hội khác” vì Điều 9 chỉ quy định về vị trí và hoạt động của Mặt trận tổ quốc mà không đề cập tới các tổ chức xã hội khác (16/242 ý kiến); Bổ sung cụm từ “có hiệu quả” vào cuối Khoản 3 để bảo đảm sự quan tâm của Nhà nước đối với Mặt trận và các tổ chức thành viên (16/242 ý kiến); Bổ sung cụm từ “theo quy định pháp luật” vào cuối Khoản 3 (25/242 ý kiến); Thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng từ khác để khẳng định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng mối đoàn kết toàn dân (94/242 ý kiến); Bổ sung từ “phải” sau từ “Nhà nước” (1/242 ý kiến).
Điều 10 (Có 109 ý kiến đóng góp, trong đó có 107 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (39/109 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/109 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bổ sung các tổ chức chính trị xã hội khác như Hội nông dân, Hội phụ nữ… cho đầy đủ (14/109 ý kiến); cần đặt đúng tính chất chính trị của Công đoàn Việt Nam vì quy định như dự thảo thì Công đoàn chỉ là một hiệp hội giản đơn, không có động lực giáo dục lý tưởng cộng sản, ý chí chính trị cho giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như Cương lĩnh phát triển đất nước do Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra (1/109 ý kiến); Nhập Điều 10 vào nội dung Điều 9, tránh việc phải quy định thêm các tổ chức khác (10/109 ý kiến); sửa đổi như sau: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân …” (16/109 ý kiến); Bỏ cụm từ “giai cấp công nhân” vì công nhân cũng là người lao động (28/109 ý kiến); Bổ sung quy định Công đoàn Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (1/109 ý kiến).
Điều 11 (Có 70 ý kiến đóng góp, trong đó có 68 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (19/70 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/70 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung cụm từ “một thể thống nhất” trước cụm từ “thiêng liêng” để khẳng định tính toàn vẹn (10/70 ý kiến).
+ Khoản 2: thay cụm từ “chống lại” bằng cụm từ “xâm phạm” cho chính xác hơn (2/70 ý kiến); thay cụm từ “Mọi hành vi” bằng cụm từ “Mọi âm mưu và hành động” để bao hàm cả trường hợp không hành động (3/70 ý kiến); sửa đổi theo hướng bao hàm cả việc xử lý hành vi xâm lăng của quốc gia khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế vì quy định hiện hành mới làm rõ đối tượng xử lý là cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước (19/70 ý kiến); bổ sung vào khoản 2 Điều 11 “…đều bị nghiêm trị theo luật pháp của Việt Nam và luật pháp quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận” (9/70 ý kiến); bổ sung cụm từ “tự do” sau cụm từ “độc lập” (8/70 ý kiến).
Điều 13 (Có 137 ý kiến đóng góp, trong đó có 134 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 3 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (26/137 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/137 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Chuyển Điều 13 lên sau Điều 1 vì nội dung Điều này quy định về biểu trưng của Việt Nam (2/137 ý kiến);
+ Khoản 1: bổ sung quy định về quốc hiệu (có 1/137 ý kiến); Bổ sung quy định về tỷ lệ kích thước của ngôi sao so với lá cờ (5/137 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa từ “chung quanh” thành “xung quanh” (10/137 ý kiến).
+ Khoản 3: sửa đổi theo hướng bổ sung tên nhạc sỹ và năm sáng tác bài hát để vinh danh, tôn trọng quyền tác giả cũng như để tránh nhầm lẫn (57/137 ý kiến).
+ Khoản 4: bổ sung cụm từ “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sau từ “Quốc khánh” (11/137 ý kiến); bổ sung số 0 trước số 2 (25/137 ý kiến).
Điều 14 (Có 66 ý kiến đóng góp, trong đó có 65 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (26/66 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/66 ý kiến)
- Đề nghị ghép vào nội dung Điều 13 thành Khoản 5 (40/66 ý kiến).
CHƯƠNG II
QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số: 745 ý kiến góp ý về Chương II (trong đó có 657 ý kiến của cơ quan, tổ chức; 88 ý kiến của cá nhân).
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 15 (270/745 ý kiến); Điều 21 (410/745 ý kiến); Điều 22 (241/745 ý kiến); Điều 32 (433/745 ý kiến); Điều 34 (250/745 ý kiến); Điều 37 (192/745 ý kiến); Điều 38 (120/745 ý kiến).
- Về tên Chương:
+ Tán thành với tên Chương, nội dung Chương (150/745 ý kiến)
+ Không tán thành với tên chương, nội dung Chương (0/745 ý kiến)
- Về kết cấu Chương: Đổi vị trí quy định Điều 21 sau Điều 16 (30/745 ý kiến); Nhập quy định các Điều 17, 18, 19 thành một Điều (1/745 ý kiến); Nhập Điều 47 và 48 vì cùng quy định về nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc (7/745 ý kiến); Ghép các điều: 43, 44, 45, 46 thành 01 điều vì đều quy định về quyền con người (1/745 ý kiến); Tách các điều quy định về quyền con người, quyền công dân; chia Chương II thành 2 phần: Phần I. Quyền con người; Phần II. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (1/745 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: Sửa tên Chương thành “Nghĩa vụ và quyền của công dân” hoặc “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, công dân” cho hợp lý hơn (17/745 ý kiến); Sửa một số quyền ghi nhận là quyền công dân thành quyền con người để phù hợp với thực tế như quyền tự do đi lại (Điều 24); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 36); quyền được bảo vệ sức khỏe (Điều 41) (30/745 ý kiến); Làm rõ khái niệm “quyền con người”, “quyền công dân” và đặt quy định về quyền con người trước quyền công dân (33/745 ý kiến); Bỏ các cụm từ “do pháp luật” hoặc “theo quy định của pháp luật” tại các Điều 23, 24, 25, 26, 30, 32, thay thế bằng cụm từ “do luật định” hoặc “theo quy định của luật” (1/745 ý kiến); thống nhất một cụm từ cho các cụm từ: “có nơi ở hợp pháp”, “có nơi ở”, “chỗ ở hợp pháp” tại các điều 35, 36, 37 (1/745 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung: Bổ sung 01 điều quy định rõ khái niệm quyền con người, quyền công dân; phạm vi, nội dung, cơ chế bảo hộ quyền con người, bảo đảm và bảo vệ quyền công dân (1/745 ý kiến); Bổ sung quy định quyền bầu cử của người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhằm tạo điều kiện để cho họ tham gia thực hiện các quyền cơ bản của công dân (1/745 ý kiến); Bổ sung quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền công dân tại các điều 38, 41, 42 (1/745 ý kiến); Bổ sung một Điều quy định: “Quốc hội quyết định những vấn đề cấn đưa ra trưng cầu ý dân khi có đề nghị của Chủ tịch nước hoặc Chủ tịch Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ hoặc có 1/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua. Kết quả của cuộc trưng cầu ý dân là căn cứ để Quốc hội quyết định thông qua hoặc phủ quyết vấn để đó” nhằm đảm bảo sự kết hợp giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện (01/745 ý kiến); Bổ sung quy định về “Người phạm tội là người dân tộc thiểu số có quyền dùng tiếng nói của dân tộc mình tại phiên tòa” (30/745 ý kiến); Bổ sung quy định về một số quyền quan trọng dành cho một số đối tượng đặc biệt, chẳng hạn quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền tham gia vào quyết định các vấn đề về môi trường liên quan đến cuộc sống của mình, quyền của người cao tuối, người khuyết tật… (30/745 ý kiến); Cần thiết lập một thiết chế mới Cơ quan Nhân quyền quốc gia để bảo vệ quyền con người (30/745 ý kiến); Bổ sung quy định về quyền của công dân yêu cầu Nhà nước giải quyết công việc có liên quan đến quyền lợi của mình (10/745 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 15 (Có 270 ý kiến đóng góp, trong đó có 267 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 3 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (35/270 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/270 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bỏ cụm từ “thừa nhận” vì quyền con người là quyền vốn có, không phụ thuộc vào việc có thừa nhận hay không (32/270 ý kiến).
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” sau cụm từ “trong trường hợp cần thiết” nhằm tránh việc lấy những lý do một cách tùy tiện, xâm phạm quyền con người, quyền công dân (125/270 ý kiến); thay các từ “cần thiết” bằng các từ “do luật định” (1/270 ý kiến); làm rõ khái niệm “trường hợp cần thiết” (8/270 ý kiến); sửa theo hướng “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp Chủ tịch nước tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố tình trạng khẩn cấp” cho cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu và không bị lợi dụng (6/270 ý kiến); sửa đổi như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn khi cần thiết vì lý do an ninh quốc gia hoặc do quyết định của cơ quan có thẩm quyền” (1/270 ý kiến); Đề nghị bổ sung quy định về cơ quan có thẩm quyền giới hạn quyền công dân (17/270 ý kiến); viết khái quát lại “Quyền con người, quyền công dân chỉ bị giới hạn trong trường hợp cần thiết” (8/270 ý kiến); bổ sung lý do “kinh tế, văn hóa” sau cụm từ “an ninh quốc gia”; bổ sung cụm từ “tính mạng” sau cụm từ “đạo đức” nhằm tăng cường tính đầy đủ (24/270 ý kiến); bổ sung lý do “thiên tai” vì trong trường hợp thiên tai xảy ra, nhà nước có thể áp dụng các biện pháp buộc di dời làm hạn chế quyền con người, quyền công dân (10/270 ý kiến); Bổ sung từ “ai” sau từ “Không” để làm rõ tính chủ thể (3/270 ý kiến).
Điều 16 (Có 100 ý kiến đóng góp, trong đó có 98 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (37/100 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/100 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung cụm từ “hợp pháp” sau từ “quyền” (39/100 ý kiến); Bổ sung cụm từ “và nghĩa vụ” sau cụm từ “tôn trọng quyền” (2/100 ý kiến)
+ Khoản 2: đề nghị sửa lại như sau “Trong khi hưởng thụ quyền của mình, mọi người không được xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” vì cụm từ “không được lợi dụng quyền con người” không rõ (19/100 ý kiến); Bổ sung quy định về hạn chế quyền con người trong trường hợp vi phạm pháp luật (4/100 ý kiến); Bổ sung từ “danh dự”, đặt trước các từ “quốc gia”, “dân tộc”, “của người khác” (1/100 ý kiến).
Điều 17 (Có 101 ý kiến đóng góp, trong đó có 101 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (27/101 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/101 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Cần ghép Khoản 1 và Khoản 2, đồng thời sửa đổi như sau: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt…. , xã hội và gia đình” đảm bảo sự thống nhất với quy định Khoản 1 Điều 27 (65/101 ý kiến); bỏ khoản 2 vì đã được bao hàm trong nội dung Khoản 1 (3/101 ý kiến);
+ Khoản 1: thay cụm từ “Mọi người” bằng cụm từ “Mọi công dân” để loại trừ đối tượng là người đã mất quyền công dân (2/101 ý kiến).
+ Khoản 2: thay cụm từ “Không ai bị phân biệt đối xử” bằng cụm từ “Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử” để tăng tính quy phạm (4/101 ý kiến).
Điều 18 (Có 117 ý kiến đóng góp, trong đó có 111 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 6 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (29/117 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/117 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 2: sửa đổi theo hướng bao hàm cả trường hợp người có 02 quốc tịch, trường hợp Việt Nam thực hiện nghĩa vụ của mình theo điều ước quốc tế đã ký kết (52/117 ý kiến); bỏ đoạn “giao nộp cho nhà nước khác” vì không cần thiết (10/117 ý kiến); sửa từ “giao nộp” thành “để giao” hoặc “dẫn độ” (3/117 ý kiến); bỏ khoản 2 vì không cần thiết, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã có quy định (3/117 ý kiến); bổ sung cụm từ “trừ trường hợp luật định” vào cuối khoản 2 (1/117 ý kiến).
+ Khoản 3: sửa đổi theo hướng làm rõ đối tượng của bảo hộ là “quyền lợi chính đáng” của công dân Việt Nam ở nước ngoài (16/117 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: quy định công dân Việt Nam có quyền có 02 quốc tịch (2/117 ý kiến).
Điều 19 (Có 43 ý kiến đóng góp, trong đó có 42 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (25/43 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (25/43 ý kiến)
- Đề nghị giữ nguyên như quy định Điều 75 Hiến pháp hiện hành (16/43 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung từ “một” trước từ “bộ phận” (1/43 ý kiến).
+ Khoản 2: Thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng cụm từ “có trách nhiệm” để tăng cường tính trách nhiệm (1/43 ý kiến).
Điều 20 (Có 98 ý kiến đóng góp, trong đó có 98 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (5/98 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/98 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Đề nghị đảo Khoản 2 và Khoản 1 (17/98 ý kiến).
+ Bỏ Khoản 1 vì nội dung đã bao hàm trong khoản 2, 3 (14/98 ý kiến).
+ Khoản 2: thay cụm từ “… và luật quy định” bằng cụm từ “và pháp luật quy định” để bao hàm rộng hơn (36/98 ý kiến).
+ Khoản 3: bổ sung hai từ “quyền và” trước cụm từ “nghĩa vụ” vì có những quyền đồng thời là nghĩa vụ (25/98 ý kiến); bổ sung quy định “Không ai được lợi dụng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân để làm trái pháp luật và chính sách của nhà nước” vào cuối Khoản 3 (1/98 ý kiến).
Điều 21 (Có 410 ý kiến đóng góp, trong đó có 403 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 7 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (9/410 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/410 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Về kết cấu: chuyển Điều 21 lên đầu Chương II vì đây là quyền quan trọng nhất (11/410 ý kiến); Chuyển nội dung Điều 21 vào Khoản 1 Điều 15 (14/410 ý kiến); Gộp Điều 21 vào Khoản 1 Điều 22 quy định về quyền cơ bản của con người vì cùng quy định về quyền nhân thân để tăng tính súc tích, logic của Hiến pháp (95/410 ý kiến); Bỏ Điều 21 vì nội dung đã được bao hàm trong Điều 22 và trong nhiều điều khác (18/410 ý kiến).
+ Về nội dung: sửa như sau “Mọi người có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, trừ trường hợp khác do luật định” nhằm bao quát hết quyền con người, vốn là quyền tự nhiên, mặt khác pháp luật nước ta vẫn quy định án tử hình là hình phạt tước bỏ quyền được sống của con người (223/410 ý kiến); Quy định rõ “Mọi người có quyền sống và quyền được pháp luật bảo vệ quyền sống của mình, không bị tước đoạt một cách tùy tiện trái với quy định của pháp luật” (1/410 ý kiến); Bổ sung vào cuối Điều 21 cụm từ “và phải tuân thủ theo quy định của pháp luật” (1/410 ý kiến); Bổ sung quyền được chết, quyền quyết định về thân thể của mình (7/410 ý kiến); làm rõ khái niệm “quyền sống” (31/410 ý kiến).
Điều 22 (Có 241 ý kiến đóng góp, trong đó có 239 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (25/241 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/241 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: thay cụm từ “được pháp luật bảo hộ” bằng cụm từ “được Nhà nước bảo hộ” hoặc “được bảo hộ bằng pháp luật” để tăng tính chính xác trong cách dùng ngôn từ (30/241 ý kiến); Bổ sung vào cuối Khoản 1 “Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khám người phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật” (38/241 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa đổi như sau: “Nghiêm cấm mọi hành vi bắt và giam giữ người trái pháp luật, mọi hình thức đối xử, tra tấn, bạo lực…” nhằm quy định đầy đủ hơn việc bảo vệ quyền con người (04/241 ý kiến); như sau: “Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người” để tăng tính nguyên tắc, quy phạm, tránh liệt kê dài dòng, không cần thiết (30/241 ý kiến); Thay cụm từ “nghiêm cấm” bằng cụm từ “không được” vì nghiêm cấm phải đi liền với chế tài (2/241 ý kiến); Bỏ Khoản 2 vì nội dung đã bao hàm trong Khoản 1 (5/241 ý kiến).
+ Khoản 3: bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” sau cụm từ “bất kỳ hình thức thử nghiệm khác” để thể hiện các hình thức thử nghiệm trên cơ thể người phải được Nhà nước quản lý, tránh việc thử nghiệm tùy tiện, trái pháp luật (28/241 ý kiến); Bổ sung cụm từ “của mình” sau cụm từ “hiến xác” để rõ nghĩa hơn (5/241 ý kiến); Bổ sung quyền hiến máu (1/241 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: bổ sung Khoản 4 như sau “4. Mọi người có quyền chuyển đối giới tính theo quy định của pháp luật” cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn (1/241 ý kiến); Đề nghị giữ nguyên nội dung quy định Điều 71 Hiến pháp hiện hành (72/241 ý kiến).
Điều 23 (Có 82 ý kiến đóng góp, trong đó có 81 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (26/82 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/82 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung vào cuối Khoản 1 cụm từ “trừ trường hợp pháp luật quy định.” (13/82 ý kiến); Làm rõ các quyền quy định tại Khoản 1 được Nhà nước bảo hộ (23/82 ý kiến); Bỏ từ “phép” trong cụm từ “Không được phép” tại đoạn 2 (1/82 ý kiến).
+ Khoản 2: thay Đoạn 2 bằng quy định “Việc quản lý khai thác, trao đổi thông tin theo quy định của pháp luật” để tránh việc bỏ sót các phương tiện trao đổi thông tin (1/82 ý kiến); Làm rõ trường hợp nào thì hạn chế quyền bí mật thư tín, điện tín, điện thoại và các hình thức trao đổi thông tin nhằm tránh việc lạm dụng (18/82 ý kiến)
Điều 24 (Có 82 ý kiến đóng góp, trong đó có 82 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (25/82 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/82 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bổ sung quy định “Việc cấm đi khỏi nơi cư trú phải theo đúng quy định của pháp luật” (30/82 ý kiến); sửa theo hướng ghi nhận quyền đi lại, quyền cư trú của người nước ngoài, người không quốc tịch tại Việt Nam (27/82 ý kiến).
Điều 25 (Có 101 ý kiến đóng góp, trong đó có 97 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 4 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (27/101 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/101 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung vào cuối khoản quy định “…, không ai có quyền bắt buộc hoặc không theo một tôn giáo nào” để đảm bảo sự tự do về tôn giáo, tín ngưỡng (11/101 ý kiến); Bổ sung cụm từ “tự do” vào trước cụm từ “tôn giáo” cho rõ nghĩa hơn (2/101 ý kiến); Bỏ cụm từ “theo hoặc hoặc không theo tôn giáo nào” vì quyền tự do, tín ngưỡng đã bao hàm nội dung này (5/101 ý kiến); Sửa từ “một” thành từ “bất kỳ” (5/101 ý kiến); Bổ sung cụm từ “được Nhà nước Việt Nam công nhận” sau cụm từ “Các tôn giáo” (1/101 ý kiến).
+ Khoản 2: thay cụm từ “được pháp luật bảo hộ” bằng cụm từ “tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật. Các tổ chức tôn giáo là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” để tăng tính chính xác vì Nhà nước mới là chủ thể bảo hộ các quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo bằng pháp luật (30/101 ý kiến); Bổ sung từ “hợp pháp” trước cụm từ “được pháp luật bảo hộ” (5/101 ý kiến).
+ Khoản 3: thay cụm từ “không ai” bằng cụm từ “Nghiêm cấm mọi hành vi” để tăng tính quy phạm hơn (14/101 ý kiến); Tách thành hai khoản: (3) Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (4) Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để vi phạm pháp luật (01/101 ý kiến).
Điều 26 (Có 66 ý kiến đóng góp, trong đó có 66 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (33/66 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/66 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bỏ cụm từ “theo quy định của pháp luật” để làm rõ hơn quyền công dân là quyền hiến định (1/66 ý kiến); Bổ sung quy định nghiêm cấm việc lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để làm trái pháp luật, chính sách của nhà nước (2/66 ý kiến); Sửa theo hướng bổ sung quyền tự do tư tưởng và quyền tiếp cận thông tin (30/66 ý kiến).
Điều 27 (Có 141 ý kiến đóng góp, trong đó có 139 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (17/141 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/141 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Đề nghị dùng cụm từ thống nhất chỉ giới tính ở cả 3 Khoản (30/141 ý kiến).
+ Khoản 1: bỏ cụm từ “nam, nữ” sau cụm từ “công dân” vì trên thế giới có nhiều quốc gia đã thừa nhận công dân có giới tính thứ ba. Ở Việt Nam cũng có nhiều người thuộc nhóm này, cần thiết phải quy định các quyền cho họ (50/141 ý kiến); Thay từ “ngang” bằng từ “như” để tăng tính bình đẳng hơn (4/141 ý kiến); Bỏ cụm từ “và có quyền ngang nhau” vì thuật ngữ “bình đẳng” đã bao hàm nội dung này (11/141 ý kiến).
+ Khoản 2: thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng cụm từ “có trách nhiệm” để tăng cường tính trách nhiệm (1/141 ý kiến); Bỏ quy định “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội” vì không phù hợp với Khoản 1 (3/141 ý kiến).
+ Khoản 3: sửa đổi như sau: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới, về sắc tộc” để tránh phân biệt đối xử về sắc tộc, bảo vệ tốt hơn quyền con người (25/141 ý kiến)
Điều 28 (Có 77 ý kiến đóng góp, trong đó có 73 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 4 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (32/77 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/77 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: theo hướng quy định từ 21 tuổi trở lên, để tránh phải tính đủ tháng, đủ ngày (5/77 ý kiến); Bổ sung cụm từ “biểu quyết” vào sau cụm từ “bầu cử” để bổ sung quyền biểu quyết của công dân (7/77 ý kiến); Bỏ cụm từ “các cấp” cho tổng quát hơn (7/77 ý kiến); Thay từ “vào Quốc hội” bằng cụm từ “làm đại biểu Quốc hội” (1/77 ý kiến); Bổ sung từ “Việt Nam” đặt sau từ “Công dân” (5/77 ý kiến); bổ sung quy định về độ tuổi tối đa của quyền ứng cử vì liên quan đến sức khỏe và điều kiện thực hiện nhiệm vụ (1/77 ý kiến); bổ sung quy định “đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật” (19/77 ý kiến).
Điều 29 (Có 124 ý kiến đóng góp, trong đó có 123 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (33/124 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/124 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung quy định “yêu cầu Quốc hội trưng cầu ý dân về những vấn đề quan trọng của đất nước” (3/124 ý kiến)
+ Khoản 2: sửa đổi như sau: “; công khai, minh bạch trong việc Cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (71/124 ý kiến); Thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng cụm từ “có chính sách thích hợp” để tăng cường tính cụ thể, phù hợp với việc ban hành chính sách của nhà nước (2/124 ý kiến); Sửa như sau “… Nhà nước phải công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý, giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức” (1/124 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: quy định về quyền của công dân cử đại diện của mình giám sát các hoạt động của Nhà nước, giám sát các hoạt động liên quan đến thu-chi nhân sách Nhà nước trong các lĩnh vực: Y tế, Văn hóa, Thể thao… , trừ lĩnh vực liên quan đến bí mật nhà nước, an ninh quốc gia (14/124 ý kiến).
Điều 30 (Có 110 ý kiến đóng góp, trong đó có 107 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 3 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (33/110 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/110 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: Giữ nguyên quy định Điều 21 Hiến pháp 1946 “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia theo luật định” (14/110 ý kiến); Ghép vào nội dung Điều 29 vì cùng quy định về quyền công dân (25/110 ý kiến); Sửa đổi cụ thể như sau: “Công dân có quyền được trưng cầu ý kiến và biểu quyết về những dẫn đề do Quốc hội quyết định khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.” (02/110 ý kiến); Thay cụm từ “biểu quyết” bằng cụm từ “đóng góp ý kiến” (1/110 ý kiến); Bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” sau cụm từ “biểu quyết” để thể hiện sự tập trung dân chủ, đảm bảo trật tự, kỷ cương (13/110 ý kiến); Bổ sung cụm từ “và nghĩa vụ” sau cụm từ “Công dân có quyền” để đảm bảo quyền đi liền nghĩa vụ (1/110 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: quy định về các trường hợp cụ thể Nhà nước phải trưng cầu ý dân để tạo thuận lợi cho việc thực hiện (8/110 ý kiến); quy định công dân có quyền yêu cầu nhà nước trưng cầu ý dân (13/110 ý kiến).
Điều 31 (Có 116 ý kiến đóng góp, trong đó có 115 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (33/116 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/116 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Giữ nguyên quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Điều 74 Hiến pháp hiện hành vì tình trạng khiếu nại vượt cấp, kéo dài vẫn còn phổ biến. Nếu bỏ quy định này sẽ gây bất lợi cho dân (30/116 ý kiến).
+ Khoản 1: bổ sung quy định trách nhiệm trước pháp luật về nội dung khiếu nại, tố cáo của người khiếu nại, tố cáo (7/116 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa đổi theo hướng làm rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết khiếu nại tố cáo kịp thời, đúng quy định của pháp luật (10/116 ý kiến).
+ Khoản 3: đề nghị bỏ cụm từ “vu cáo” (7/116 ý kiến).
+ Khoản 4: bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ người khiếu nại, tố cáo và gia đình để khẳng định việc Nhà nước khuyến khích người đấu tranh bảo vệ công lý (29/116 ý kiến).
Điều 32 (Có 433 ý kiến đóng góp, trong đó có 419 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 14 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (16/433 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/433 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: giữ nguyên quy định Khoản 1 Điều 72 Hiến pháp hiện hành (8/433 ý kiến); bổ sung quy định về trách nhiệm chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (21/433 ý kiến).
+ Bỏ Khoản 2, Khoản 3 vì không cần thiết, đã được quy định trong BLTTHS (66/433 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa đổi như sau: “2… Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm về một hành vi phạm tội.” để tránh hiểu lầm nếu một người đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản thì không bị kết án về tội phạm này nữa nếu người đó tái phạm (293 ý kiến); Thay cụm từ “kết án” bằng cụm từ “kết tội” (30/433 ý kiến); Bỏ cụm từ “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” vì không cần thiết, dễ dẫn đến hiểu lầm là tái phạm về tội đó thì không bị xét xử (1/433 ý kiến); Bỏ đoạn “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử” vì nội dung đã được bao hàm trong Khoản 1 (18/433 ý kiến); Sửa cụm từ “có quyền được Tòa án xét xử”, sửa thành “phải do Tòa án xét xử” (5/433 ý kiến);
+ Khoản 3: bổ sung vào cuối khoản cụm từ “…và những người khác theo quy định của pháp luật” vì ngoài người bào chữa còn có trợ giúp pháp lý của trợ giúp viên có thể cung cấp trợ giúp pháp lý (73/433 ý kiến); Bổ sung quy định việc sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa theo quy định của pháp luật vì có trường hợp hạn chế quyền bào chữa do cần giữ bí mật điều tra (3/433 ý kiến); Bổ sung đối tượng là “Người bị khởi tố” (15/433 ý kiến); Bổ sung đối tượng là “Người bị tình nghi” vì đây là đối tượng chịu nhiều sức ép từ cơ quan điều tra (2/433 ý kiến); Thay cụm từ “… có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” bằng cụm từ “có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa” (30/433 ý kiến).
+ Khoản 4: sửa đổi như sau: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi về danh dự và quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử các hoạt động tố tụng đó gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh theo các quy định của pháp luật” (66/433 ý kiến); Bổ sung cụm từ “Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở, gây khó khăn cho việc thực hiện quyền trợ giúp pháp lý” (5/433 ý kiến); Thay cụm từ “có quyền” bằng cụm từ “phải được” để tăng cường tính cụ thể (12/433 ý kiến); Bổ sung cụm từ “yêu cầu” sau cụm từ “có quyền” vì có trường hợp không có yêu cầu hoặc có yêu cầu cũng phải có thời hạn theo luật định (10/433 ý kiến); bổ sung cụm từ “cố ý” trước cụm từ “làm trái pháp luật” để thể hiện rõ là lỗi cố ý (1/433 ý kiến).
+ Đề nghị bổ sung nội dung mới: Khoản 7 Điều 108 chuyển thành Khoản 5 Điều 32 (30/433 ý kiến).
Điều 33 (Có 12.183 ý kiến đóng góp, trong đó có 12.183 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (6/12.183 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/12.183 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: sửa như sau “Mọi người có quyền sở hữu về tài sản hợp pháp” để tăng cường tính cô đọng, súc tích, tránh liệt kê, dài dòng (34/12.183 ý kiến); Bỏ cụm từ “đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58” vì đất đã được quy định tại điều cụ thể nên không cần thiết phải trích dẫn lại (78/12.183 ý kiến); Gộp nội dung khoản 1 vào Khoản 3 Điều 56 vì cùng có nội hàm là quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu (35/12.183 ý kiến).
+ Khoản 2: thay cụm từ “được pháp luật bảo hộ” bằng cụm từ “được bảo hộ bằng pháp luật” vì chỉ có Nhà nước mới là chủ thể bảo hộ các quyền bằng pháp luật (30/12.183 ý kiến).
Điều 34 (Có 250 ý kiến đóng góp, trong đó có 243 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 7 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (6/250 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/250 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: Ghép Khoản 1, Khoản 2, đồng thời sửa đổi như sau: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật và được Nhà nước bảo hộ” (244/250 ý kiến).
Điều 35 (Có 91 ý kiến đóng góp, trong đó có 91 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (6/91 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/91 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: giữ nguyên quy định Điều 67 Hiến pháp hiện hành vì cụ thể và dễ hiểu hơn (57/91 ý kiến); quy định cụ thể đối tượng được nhà nước có chính sách ưu đãi (1/91 ý kiến); làm rõ nội hàm của quyền an sinh (27/91 ý kiến).
Điều 36 (Có 75 ý kiến đóng góp, trong đó có 73 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (7/75 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (27/75 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Thay cụm từ “nơi ở hợp pháp” và “nơi ở” bằng cụm từ “nơi cư trú” như Luật cư trú (2/75 ý kiến)
+ Khoản 1: làm rõ khái niệm “hợp pháp” (30/75 ý kiến); Bổ sung cụm từ “chỗ ở” sau cụm từ “nơi ở” để bảo đảm sự thống nhất với Khoản 1 Điều 37 (28/75 ý kiến); thay cụm từ “công dân có quyền có nơi ở hợp pháp” bằng “mọi người có quyền có nơi ở hợp pháp” (1/75 ý kiến); bổ sung chủ thể là “người gốc Việt Nam” như quy định của Luật nhà ở (2/75 ý kiến)
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “việc làm và” trước cụm từ “nơi ở” (8/75 ý kiến)
Điều 37 (Có 192 ý kiến đóng góp, trong đó có 191 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (44/192 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/192 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: làm rõ khái niệm “hợp pháp” (68/192 ý kiến); thay cụm từ “chỗ ở hợp pháp” bằng cụm từ “nơi cư trú” như Luật cư trú (2/192 ý kiến); gộp vào Điều 36 vì cùng nói về nơi ở là quyền của con người, quyền công dân (41/192 ý kiến).
+ Khoản 2: bổ sung vào cuối đoạn “trừ trường hợp luật định” (1/192 ý kiến); Thay từ “vào” bằng từ “xâm phạm” cho hợp lý hơn (35/192 ý kiến); sửa đoạn 2 thành “Việc khám xét chỗ ở được tiến hành theo luật định” (1/192 ý kiến).
Điều 38 (Có 120 ý kiến đóng góp, trong đó có 120 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (49/120 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/120 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối quy định Khoản 1 (25/120 ý kiến)
+ Khoản 2: thay cụm từ “sử dụng người lao động chưa thành niên trái pháp luật” bằng cụm từ “sử dụng người lao động trái pháp luật” để tăng tính bao quát (30/120 ý kiến); Bổ sung đối tượng là “người già” để thể hiện sự quan tâm của Nhà nước với người già (2/120 ý kiến); Bổ sung quy định “Nghiêm cấm các hành vi không thực hiện các chính sách đối với người lao động như: đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; nghiêm cấm các hành vi sử dụng lao động không đúng mục đích lao động” (1/120 ý kiến); Bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để công dân có việc làm” (3/120 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung quy định làm rõ trách nhiệm của nhà nước đối với người lao động (10/120 ý kiến).
Điều 39 (Có 111 ý kiến đóng góp, trong đó có 110 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (49/111 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/111 ý kiến)
- Đề nghị giữ nguyên quy định Điều 64 Hiến pháp 1992 để đề cao vai trò của gia đình (2/111 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bỏ quyền ly hôn vì quyền này không được xã hội khuyến khích, Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới cũng không quy định (30/111 ý kiến); Bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối câu 1 Khoản 1(24/111 ý kiến)
+ Khoản 2: bổ sung đối tượng bảo hộ là người cha (1/111 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: quy định nghiêm cấm việc kết hôn cùng huyết thống (5/111 ý kiến).
Điều 40 (Có 38 ý kiến đóng góp, trong đó có 38 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (27/38 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/38 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc cân bằng giới tính để phù hợp với thực tế hiện nay (1/38 ý kiến); bổ sung quyền khai sinh vì đây là quyền cơ bản của con người (10/38 ý kiến)
Điều 41 (Có 189 ý kiến đóng góp, trong đó có 187 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (33/189 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/189 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: Bổ sung cụm từ “chăm sóc” trước cụm từ “bảo vệ sức khỏe” (5/189 ý kiến); Thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” vì có nghĩa rộng hơn (32/189 ý kiến); Bổ sung cụm từ “nâng cao thể chất” sau cụm từ “bảo vệ sức khỏe” (15/189 ý kiến).
+ Khoản 2: Bổ sung cụm từ “làm ảnh hưởng” vào sau cụm từ “đe dọa” cho sát nghĩa hơn (1/189 ý kiến); Bổ sung quy định nghiêm cấm hành vi xâm phạm đến cuộc sống và sức khỏe của người khác và cộng đồng (12/189 ý kiến); Bỏ cụm từ “bóc lột sức lao động” (16/189 ý kiến); Thay từ “đe dọa” bằng từ “xâm phạm” (25/189 ý kiến); Bổ sung cụm từ “xâm phạm hoặc” sau từ “hành vi” (2/189 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: quy định Nhà nước có chính sách ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe đối với đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn vì những vùng này còn có khoảng cách khá xa so với đồng bằng, miền xuôi (38/189 ý kiến); Bổ sung quy định làm rõ trách nhiệm của Nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân (10/189 ý kiến).
Điều 42 (Có 91 ý kiến đóng góp, trong đó có 91 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (6/91 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/91 ý kiến)
- Đề nghị giữ nguyên quy định Điều 59 Hiến pháp hiện hành vì có tính khái quát, nhân đạo cao (26/91 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi cụ thể như sau:
“1. Mọi người có quyền và nghĩa vụ học tập, học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức.
2. Giáo dục tiểu học là bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người.
3. Nhà nước và xã hội cần tạo điều kiện để học sinh có năng khiếu được học tập để phát triển tài năng.
4. Nhà nước và xã hội cần tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được học văn hóa và học nghề phù hợp.” (12/91 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: quy định Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập (29/91 ý kiến); Bổ sung quy định “Nhà nước có trách nhiệm thực hiện chính sách học phí, học bổng phù hợp với yêu cầu xã hội” vì có nhiều người muốn học tập nhưng không học được vì nghèo, gia cảnh khó khăn, thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước (18/91 ý kiến).
Điều 43 (Có 65 ý kiến đóng góp, trong đó có 65 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (33/65 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/65 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: gộp vào Điều 44 vì văn học, nghệ thuật cùng nằm trong cụm từ văn hóa (16/65 ý kiến).
+ Khoản 2: bỏ cụm từ “bóc lột sức lao động” (16/65 ý kiến).
Điều 44 (Có 107 ý kiến đóng góp, trong đó có 104 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 3 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (33/107 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/107 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: Bổ sung vào cuối Điều cụm từ “và có nghĩa vụ bảo vệ các giá trị văn hóa” để đảm bảo sự gắn liền của quyền và nghĩa vụ (25/107 ý kiến); Bổ sung vào cuối Điều cụm từ “theo truyền thống văn hóa dân tộc của Việt Nam” (12/107 ý kiến); Bổ sung vào cuối Điều cụm từ “theo quy định của pháp luật” (37/107 ý kiến).
Điều 45 (Có 114 ý kiến đóng góp, trong đó có 113 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (49/114 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/114 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: Bỏ cụm từ “tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” để tránh bị lợi dụng, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, chẳng hạn như người Việt nhưng không sử dụng tiếng Việt (30/114 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: quy định về quyền xác định giới tính (8/114 ý kiến); Bổ sung làm rõ quyền xác định dân tộc theo cha hoặc mẹ để đảm bảo sự chính xác, tránh suy diễn (22/114 ý kiến); Bổ sung quy định về quyền sử dụng ngôn ngữ cha đẻ (2/114 ý kiến); Bổ sung quy định làm rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc mình (3/114 ý kiến).
Điều 46 (Có 100 ý kiến đóng góp, trong đó có 99 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (49/100 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/100 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Ghép Khoản 1 và Khoản 2 để tăng tính cô đọng, súc tích (30/100 ý kiến).
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “ý thức và” vào sau cụm từ “Mọi người có” (10/100 ý kiến); bổ sung cụm từ “tài nguyên” trước cụm từ “môi trường” (4/100 ý kiến); bỏ khoản vì trùng với quy định Khoản 1 Điều 68 (2/100 ý kiến).
+ Khoản 3: bổ sung quy định về nghiêm cấm hành vi làm ô nhiễm môi trường (4/100 ý kiến); Bổ sung quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường của công dân (1/100 ý kiến).
Điều 47 (Có 184 ý kiến đóng góp, trong đó có 182 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 2 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (32/184 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/184 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: Bỏ quy định “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” vì nặng, hay nhẹ là tính theo quy định khung hình phạt cao nhất trong BLHS (145/184 ý kiến); Bổ sung quy định mọi hành vi gây tổn hại đến lợi ích đất nước đều bị xử lý theo quy định của pháp luật (1/184 ý kiến); Bổ sung cụm từ “Công dân nêu cao tinh thần yêu nước” vào đầu Điều 47 (5/184 ý kiến); Bổ sung cụm từ “bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam” vào cuối Điều 47 (1/184 ý kiến).
Điều 48 (Có 82 ý kiến đóng góp, trong đó có 81 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (48/82 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/82 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: ghép vào quy định của Điều 47 vì cùng quy định về nghĩa vụ trung thảnh, bảo vệ Tổ quốc (33/82 ý kiến); Khoản 1 bổ sung từ “trách nhiệm” trước từ “Nghĩa vụ” (1/82 ý kiến).
Điều 49 (Có 63 ý kiến đóng góp, trong đó có 63 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (49/63 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/63 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bổ sung cụm từ “xây dựng nền an ninh nhân dân” trước cụm từ “chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” (3/63 ý kiến); Thay từ “công dân” bằng từ “mọi người” để không loại trừ bất kỳ chủ thể nào (11/63 ý kiến).
Điều 50 (Có 154 ý kiến đóng góp, trong đó có 150 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 4 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (22/154 ý kiến).
- Không tán thành, đề nghị bỏ vì Khoản 1 Điều 56 đã bao hàm mọi nghĩa vụ cá nhân, trong đó có nghĩa vụ nộp thuế (25/154 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: Bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối Điều vì không phải đối tượng nào cũng có nghĩa vụ nộp thuế (107/154 ý kiến).
Điều 51 (Có 42 ý kiến đóng góp, trong đó có 42 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; 0 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (6/42 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/42 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi như sau: “… theo pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia” để đảm bảo sự phù hợp với thực tể bảo quyền quyền và lợi ích của người nước ngoài cư trú tại Việt nam (30/42 ý kiến); Sửa đổi theo hướng bao hàm cả người không quốc tịch (6/42 ý kiến).
Điều 52 (Có 60 ý kiến đóng góp, trong đó có 60 ý kiến của Cơ quan, tổ chức; không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (49/60 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/60 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung cụm từ “chân chính” sau cụm từ “sự nghiệp khoa học” để loại trừ các trường hợp nghiên cứu khoa học không nhằm phục vụ con người mà hủy diệt con người (11/60 ý kiến).
CHƯƠNG III
KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC,
CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 520 ý kiến góp ý về Chương III (trong đó có ý kiến ở 585 cơ quan, tổ chức, 35 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 54 (57/520 ý kiến); Điều 57 (41/520 ý kiến); Điều 58 (117/520 ý kiến).
- Về tên chương:
+ Tán thành với tên chương, nội dung chương (430/520 ý kiến)
+ Không tán thành với tên chương, đề nghị đổi tên chương: giữ nguyên chương kinh tế như Hiến pháp hiện hành, không nên gộp vào chương này vì chế độ kinh tế là một thiết chế hết sức quan trọng để phát triển đất nước và tỷ lệ số điều chiếm 9/16 điều (23 ý kiến/520 ý kiến); đề nghị sửa đổi tên chương là “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường” (5/520 ý kiến).
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Đề nghị nhập Điều 46 và Điều 68 vì hai điều luật cùng nói về một vấn đề môi trường (2/520 ý kiến).
+ Bổ sung 01 điều quy định về “Nhà nước và xã hội quan tâm phát triển thể dục, thể thao, khoa học và nhân dân; tăng cường phát triển du lịch trong nước và du lịch quốc tế” (3/520 ý kiến) hoặc giữ lại Điều 41, 42 và 66 của Hiến pháp hiện hành vì thể dục, thể thao và du lịch là một trong những vấn đề quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, để khẳng định và quãng bá Việt Nam với các nước trên thế giới nên cần được quy định trong Hiến pháp để bảo vệ và phát triển. Thanh niên cũng là lực lượng nòng cốt trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc, nước ta hiện có Luật Thanh niên, nếu bỏ điều luật này thì Luật Thanh niên không có căn cứ (4/520 ý kiến).
+ Tách riêng giữa giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ tại các điều 65, 66, 67 vì đây là những lĩnh vực khác nhau (2/520 ý kiến).
- Bổ sung quy định xác lập quyền sở hữu cá nhân đối với đất đai hoặc quyền sử dụng đất của tổ chức cá nhân phải đảm bảo thời hạn tối thiếu là 50 năm, tối đa là 99 năm. Nhà nước chỉ được thu hồi đất của tổ chức và cá nhân để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án, phát triển kinh tế - xã hội thật cần thiết. Đất và các nguồn lợi trên đất bị thu hồi phải được Nhà nước hoặc bên được giao đất phải đền bù theo quy định của Bộ luật dân sự (4/520 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 53 (Có 32 ý kiến, trong đó có 31 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (32/32 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/32 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi (0/32 ý kiến):
Điều 54 (Có 57 ý kiến, trong đó có 56 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (37/57ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/57 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: sửa đổi theo hướng quy định chi tiết, cụ thể những hình thức sở hữu và những thành phần kinh tế để làm rõ hơn tính chất nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là nền tảng chính (3/57 ý kiến); quy định “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, không phân biệt các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu” cho phù hợp với thực tiễn và thể hiện đúng đặc trưng nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta (5/57 ý kiến); quy định rõ các thành phần kinh tế như đã nêu tại Nghị quyết Trung ương 5, đồng thời khẳng định “thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo” để làm rõ bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế” (13/57 ý kiến).
+ Khoản 2: bỏ cụm từ “cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” (2/57 ý kiến ); thay cụm từ “lâu dài” thành “bền vững, trên cơ sở” (2/57 ý kiến); bỏ cụm từ “quan trọng” vì các thành phần kinh tế đều quan trọng, bình đẳng như nhau (2/57 ý kiến); bỏ cụm từ “là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân” vì không cần thiết (5/57 ý kiến); đảo cụm từ “bình đẳng” lên trên cho hợp lý như sau: “bình đẳng cùng phát triển lâu dài” (2/57 ý kiến); bổ sung cụm từ “đúng quy định” trước từ “pháp luật” để rõ nghĩa hơn (3/57 ý kiến).
Điều 55 (Có 33 ý kiến, trong đó có 32 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (27/33 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (7/33 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung nội dung “Việc quản lý kinh tế của nhà nước phải minh bạch, công khai, dân chủ” vì hiện nay, mặc dù kinh tế Việt Nam đang vận hành theo cơ chế thị trường nhưng trong quản lý kinh tế của nhà nước vẫn nặng về cơ chế xin cho; việc quản lý kinh tế thiếu minh bạch đã gây hệ lụy đến phát triển kinh tế, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh tham nhũng (2/33 ý kiến).
+ Khoản 2: thay cụm từ “Phát triển các hình thức hợp tác kinh tế với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế” bằng cụm từ “Phát triển các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế” để đảm bảo ngắn gọn, cô đọng và đầy đủ (3/33 ý kiến).
Điều 56 (Có 37 ý kiến, trong đó có 36 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (27/37 ý kiến)
- Không tán thành, đề nghị giữ nguyên nội dung của Điều 22 Hiến pháp hiện hành (1/33 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung quyền tự do sản xuất (3/37 ý kiến); bổ sung cụm từ “những ngành nghề pháp luật không cấm” sau cụm từ “tự do sản xuất, kinh doanh” (1/37 ý kiến)
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “chống phá giá”(1/37 ý kiến)
+ Khoản 3: bỏ chữ “thật” trong cụm từ “thật cần thiết” (5/37 ý kiến); quy định rõ “quyền sử dụng đất” có phải là đối tượng được Nhà nước trưng mua, trưng dụng không?. Nếu là đối tượng được trưng mua, trưng dụng thì cần quy định rõ trường hợp nào Nhà nước trưng mua, trưng dụng và trường hợp nào Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại khoản 3 Điều 58 (1/33 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: bổ sung khoản 4 “Nhà nước có trách nhiệm xây dựng kế hoạch đầu tư cơ chế chính sách để đảm bảo phát triển cân đối giữa các vùng, miền quốc gia” để khắc phục tình trạng mất cân đối giữa các vùng, miền hiện nay (6/37 ý kiến).
Điều 57 (Có 41 ý kiến, trong đó có 40 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (11/41 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/41 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Cần đa dạng hóa các hình thức sở hữu về đất đai vì đất đai có thể thuộc sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng hoặc sở hữu nhà nước, không nên quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” dễ dẫn đến nhiều cách hiểu không đúng, làm phát sinh các khiếu kiện về đất đai, tạo điều kiện cho tham nhũng (4/41 ý kiến).
+ Bỏ cụm từ “do nhà nước đầu tư” vì làm hẹp đối tượng sở hữu toàn dân vì trên thực tế có nhiều loại tài sản không do nhà nước đầu tư nhưng thuộc sở hữu toàn dân (01/41 ý kiến); bỏ cụm từ “các tài sản khác” (1/41 ý kiến); bỏ từ “công” trước cụm từ “thuộc sở hữu toàn dân” vì tài sản thuộc sở hữu toàn dân cũng chính là tài sản công (1/41 ý kiến); bỏ cụm từ “do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật” để bảo đảm tính pháp lý cao nhất trong công tác quản lý và khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên của đất nước (21/41 ý kiến)
+ Bổ sung từ “rừng” vào cụm từ “Đất đai, tài nguyên nước, rừng, khoáng sản và tài nguyên” cho đầy đủ (2/41 ý kiến); bổ sung từ “các đảo” sau từ “vùng biển” vì lãnh thổ Việt Nam bao gồm cả các đảo (3/41 ý kiến); thay cụm từ “tài sản công” bằng cụm từ “tài sản quốc gia” để xác định rõ quyền sở hữu của Nhà nước (1/41 ý kiến); thay cụm từ “do Nhà nước đầu tư, quản lý” bằng cụm từ “thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam” cho chặt chẽ vì thực tế hiện nay có những vùng đất, vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam nhưng Nhà nước chưa quản lý được (3/41 ý kiến)
Điều 58 (117 ý kiến, trong đó có 116 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (0/117 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/117 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: sửa đổi theo hướng “1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật; quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” (1/117 ý kiến); theo hướng “1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là tài sản của đất nước, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật” (1/117 ý kiến); bổ sung cụm từ “nhà nước” trước từ “quản lý” để thể hiện vai trò quản lý của nhà nước(2/117 ý kiến); sửa đoạn cuối như sau “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả” (2/117 ý kiến); bổ sung từ “để” trước cụm từ “phát triển đất nước” (2/117 ý kiến); bỏ cụm từ “theo quy hoạch” (5/117 ý kiến); thay cụm từ “nguồn lực quan trọng” bằng cụm từ “tư liệu sản xuất đặc biệt” (5/117 ý kiến).
+ Khoản 2: bỏ các cụm từ “tiết kiệm”, “bồi bổ”, “khai thác hợp lý”, “trong trường hợp thật cần thiết” và “Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ” vì những quyền này chỉ được sử dụng trong những trường hợp cụ thể, quy định như dự thảo dễ dẫn đến cách hiểu những quyền này là hợp pháp và việc thu hồi đất là trái pháp luật, dẫn đến tình trạng khiếu kiện gây khó khăn cho công tác thu hồi bồi thường về đất (2/117 ý kiến) ; Bổ sung cụm từ “cải tạo” trong cụm từ “Người sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, cải tạo, khai thác hợp lý, hiệu quả, sử dụng tiết kiệm” (1/117 ý kiến); thay cụm từ “bồi bổ” bằng cụm từ khác cho sát nghĩa và bảo dảm thuật ngữ pháp lý hơn (1/117 ý kiến); sửa cụm từ “được chuyển quyền sử dụng đất”, thành “có các quyền sử dụng, chuyển nhượng đất” (1/117 ý kiến); quy định rõ việc xác lập quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân phải đảm bảo thời hạn tối thiểu là 50 năm, tối đa là 99 năm (2/117 ý kiến); bổ sung đối tượng được giao đất là hộ gia đình cho phù hợp thực tiễn và quy định của Bộ luật dân sự hiện hành (3/117 ý kiến); thay từ “người” bằng cụm từ “cá nhân, tổ chức”, bổ sung cụm từ “thực hiện các quyền và nghĩa vụ” để thể hiện quyền sử dụng đất hợp pháp của tổ chức, cá nhân phải được thống nhất bảo hộ như nhau, không có sự phân biệt(3/117 ý kiến); diễn đạt lại khoản 2 để làm rõ chủ thể sử dụng đất như sau: “2. Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân để sử dụng ổn định ổn định lâu dài hoặc có thời hạn. Tổ chức, cá nhân sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích; được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền nghĩa vụ liên quan theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ” (19/117 ý kiến).
+ Khoản 3: sửa đổi theo hướng tách nội dung khoản 3 về vấn đề nhà nước thu hồi đất trong trường hợp cần thiết thành 2 nhóm: Thu hồi đất để phục vụ quốc phòng, an ninh và nhóm 2: thu hồi đất để phục vụ lợi ích phát triển kinh tế xã hội để dễ hiểu, dễ thực hiện, không bị nhầm lẫn hai nhóm thu hồi dẫn đến khiếu kiện lâu dài (1/117 ý kiến); Quy định rõ cụm từ “các dự án phát triển kinh tế - xã hội” gồm hai nhóm: nhóm 1: các dự án phát triển kinh tế nhằm phục vụ lợi ích cộng đồng xã hội do Nhà nước thực hiện và nhóm 2: các dự án phát triển kinh tế của các doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh, thương mại. Đối với nhóm 2, nhà nước không cần và không nên can thiệp vào việc thu hồi đất mà do chủ doanh nghiệp thỏa thuận với công dân, nhà nước chỉ đóng vai trò là trọng tài, giải quyết thỏa đáng lợi ích của người bị thu hồi đất và chủ dự án (1/117 ý kiến); bổ sung nội dung “Trường hợp thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng không phải vì lý do Quốc phòng an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng phải được sự đồng ý của tổ chức, cá nhân sử dụng đất và phải bồi thường theo giá thị trường” nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất, tránh việc lạm dụng (4/117 ý kiến); quy định rõ đối với trường hợp thu hồi đất để đầu tư các dự án phát triển kinh tế-xã hội, cần có sự đồng thuận của tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất (1/117 ý kiến); Bỏ cụm từ “dự án phát triển kinh tế - xã hội” để tách bạch rõ ràng giữa kinh doanh và phục vụ lợi ích xã hội nhằm hạn chế điều kiện cho tham nhũng phát sinh, tránh nguy cơ tùy tiện trong thu hồi đất; tình trạng nhiều địa phương, tổ chức lợi dụng, lấy lý do “phát triển kinh tế - xã hội”' để thu hồi đất của dân một cách tràn lan (6/117 ý kiến);
Sửa đổi khoản 3 như sau: “Nhà nước chỉ có quyền thu hồi đất theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Đối với các dự án phát triển kinh tế- xã hội, trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường cá nhân, tổ chức theo giá cả thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định, tối thiểu phải đảm bảo ổn định đời sống người dân về lâu dài không thấp hơn trước khi bị thu hồi”(1/117 ý kiến);
Chuyển cụm từ “trong trường hợp thật cần thiết vì lý do…” lên đầu khoản để khẳng định lý do việc thu hồi đất chỉ trong trường hợp thật cần thiết và vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội (7/117 ý kiến);
Bổ sung từ “hợp pháp” sau cụm từ “cá nhân sử dụng” nhằm khẳng định cá nhân, tổ chức sử dụng đất hợp pháp mới được bồi thường khi Nhà nước thu hồi (7/117 ý kiến); thay cụm từ “theo quy định của pháp luật” bằng cụm từ “theo giá cả thị trường” nhằm bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cá nhân khi thu hồi đất, phù hợp với thực tiễn và quy định tại khoản 3 Điều 56 Dự thảo Hiến pháp (24/117 ý kiến); quy định rõ các trường hợp thu hồi đất vì mục đích kinh doanh, thương mại thì giá bồi thường do bên tổ chức thu hồi đất phải thỏa thuận với công dân trên cơ sở quy định của pháp luật (3/117 ý kiến); quy định rõ đối với các Dự án phát triển kinh tế xã hội thì Nhà nước trưng thu, trưng mua, không quy định Nhà nước thu hồi như Dự thảo (2/117 ý kiến); quy định cụ thể: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo mức giá Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định có sự phê duyệt của Hội đồng nhân dân cùng cấp”( 1/117 ý kiến); bổ sung trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc thu hồi đất, xác định rõ nghĩa vụ chấp hành của tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành quyết định thu hồi đất hợp pháp (5/117 ý kiến); bổ sung đoạn “Đất và các nguồn lợi trên đất bị thu hồi phải được nhà nước hoặc bên được giao đất đền bù theo quy định Bộ luật dân sự” (6/117 ý kiến);
Bổ sung nguyên tắc “nhà nước cần đảm bảo các quyền của người sử dụng đất, quyền lợi và hỗ trợ cho họ thực hiện các quyền” như có chính sách tái định cư, giải quyết các vấn đề việc làm, hỗ trợ đời sống, sản xuất, kinh doanh (5/117 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: bổ sung khoản 4 quy định “Mọi tổ chức, cá nhân vi phạm chế độ quản lý, sử dụng đất đều bị xử lý nghiêm theo quy định của Pháp luật”(1/117 ý kiến).
Điều 59 (Có 29 ý kiến, trong đó có 28 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (24/29 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/29 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: Khoản 1 bỏ từ “dự trữ quốc gia” sau từ “Ngân sách nhà nước” vì dự trữ quốc gia không có công khai, minh bạch (2/29 ý kiến); bổ sung từ “quan liêu” sau từ “tham nhũng” (2/29 ý kiến); bổ sung cụm từ “sử dụng đúng mục đích” (1/29 ý kiến).
Điều 60 (31 ý kiến, trong đó có 30 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (28/31 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/31 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bổ sung quy định“Nhà nước có chủ trương thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí” để thể hiện yêu cầu Nhà nước ta về công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng (3/31 ý kiến).
Điều 61 (Có 47 ý kiến, trong đó có 46 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (17/47 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/47 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: sửa đổi như sau: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tạo việc làm, có thu nhập thỏa đáng cho người lao động” để đầy đủ hơn (1/47 ý kiến ); thay từ “thỏa đáng” thành từ “phù hợp” hoặc bỏ cụm từ “có thu nhập thỏa đáng” vì rất khó xác định bao nhiêu là thỏa đáng (2/47 ý kiến).
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “quy định và” vào cụm từ sau: “Nhà nước quy định và bảo vệ...” (18/47 ý kiến).
Điều 62 (Có 43 ý kiến, trong đó có 42 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (10/43 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/43 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: thay từ “công bằng” thành từ “chất lượng” và bỏ đoạn “phát triển nền y học Việt Nam theo hướng kết hợp đông y và tây y, phòng bệnh và chữa bệnh“ vì không cần thiết và Luật khám chữa bệnh đã quy định hoặc thay cụm từ “kết hợp đông y và tây y” thành “phát triển y học cổ truyền với y học hiện đại” để có ý nghĩa toàn diện, trọn vẹn hơn; (3/43 ý kiến); thành “xây dựng nền y tế phát triển hiệu quả và từng bước hiện đại” cho phù hợp ( 10/43 ý kiến); thay cụm từ “phát triển nền y học Việt Nam theo hướng kết hợp đông y và tây y, phòng bệnh và chữa bệnh” bằng cụm từ “áp dụng thành tựu khoa học tiên tiến..” cho phù hợp (5/43 ý kiến); bổ sung cụm từ “phục hồi chức năng” vào giữa đoạn “phòng bệnh và chữa bệnh”(3/43 ý kiến); thay cụm từ “dân tộc thiểu số” bằng cụm từ “dân tộc ít người” (7/43 ý kiến); bổ sung đối tượng được Nhà nước ưu tiên chăm sóc sức khỏe là người nghèo, người có công, gia đình chính sách (8/43 ý kiến)
+ Khoản 2: bỏ từ “mẹ, trẻ em” ”(6/43 ý kiến); bổ sung cụm từ “người cao tuổi, người tàn tật, người già yếu không nơi nương tựa và trẻ em, mọi người có trách nhiệm”( 6/43 ý kiến); bổ sung cụm từ ‘công tác dân số” trước “kế hoạch hóa gia đình” (1/43 ý kiến)
Điều 63 (Có 27 ý kiến, trong đó có 26 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (17/27 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/27 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: sửa đổi như sau: “1. Nhà nước phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có tính chia sẽ, công bằng, bền vững, trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người nghèo, trẻ em mồ côi, người già neo đơn, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn” (2/27 ý kiến); bổ sung đối tượng chất độc màu da cam bởi lẽ hậu quả này còn kéo dài nhiều năm, nhiều thế hệ ( 2/27 ý kiến); bổ sung đối tượng “gia đình chính sách” (18/27 ý kiến)
+ Khoản 2: sửa đổi như sau: “Nhà nước và xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện các chính sách ưu đãi đối với người có công đối với đất nước” (4/27 ý kiến).
Điều 64 (Có 42 ý kiến, trong đó có 41 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 64 (22/42 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 64 (0/42 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung cụm từ “vừa là mục tiêu, vừa là động lực” để phản ánh đầy đủ quan điểm của Đảng về văn hoá được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 Khoá VIII: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội” (5/42 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa cụm từ “nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân” thành “nhu cầu tinh thần đa dạng phong phú và lành mạnh của nhân dân” (4/42 ý kiến): thay cụm từ “phương tiện” bằng cụm từ “hệ thống” (1/42 ý kiến); thay cụm từ “phát triển văn học nghệ thuật” bằng cụm từ “Nhà nước khuyến khích các sáng tác, biểu diễn văn hoá nghệ thuật nhằm” (2/42 ý kiến); thêm cụm từ “bảo trợ và phát triển các tài năng văn hoá, nghệ thuật” vào trước cụm từ “phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ…” vì các sáng tác nghệ thuật có nội dung ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, hoặc tài năng về văn hoá, nghệ thuật cần phải được Nhà nước khuyến khích, bảo trợ, nhằm phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (2/42 ý kiến).
+ Khoản 3: sửa đổi như sau “Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc và tiến bộ…” (3/42 ý kiến); chuyển từ “hạnh phúc” lên trước từ “tiến bộ”, bổ sung cụm từ “Gia đình là tế bào của xã hội” để tiếp tục khẳng định vị trí cấu trúc của gia đình trong xã hội Việt Nam (1/42 ý kiến).
+ Khoản 4: sửa đổi như sau:“Nghiêm cấm các hành vi lợi dụng họat động văn hóa…và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam; truyền bá tư tưởng, xuất bản…” (2/42 ý kiến); thay cụm từ “phá hoại” bằng cụm từ “xâm hại”, thay cụm từ “xuất bản phẩm” bằng “xuất bản văn hóa phẩm” (5/42 ý kiến).
- Bổ sung nội dung mới: bổ sung khoản 5 với nội dung: “nghiêm cấm hành vi xâm phạm, chiếm đoạt các di sản, công trình văn hoá, nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử được Nhà nước công nhận (5/42 ý kiến).
Điều 65 (Có 7 ý kiến, trong đó có 6 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (5/7 ý kiến)
- Không tán thành (0/7 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: gộp Điều 65 vào khoản 1 Điều 66 vì cùng nội hàm phát triển giáo dục, đào tạo (2/7 ý kiến)
Điều 66 (29 ý kiến, trong đó có 28 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
-Tán thành (17/29 ý kiến)
- Không tán thành (0/29 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: sửa đổi như sau: “1. Phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, đạo đức, năng lực của công dân…”; bổ sung quy định “Phát triển giáo dục nhằm nâng cao lý tưởng cách mạng, hình thành…” cho đầy đủ (3/29 ý kiến).
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “đa dạng hóa các loại hình” sau cụm từ “học phí hợp lý….”; thay cụm từ “dân tộc thiểu số” bằng “dân tộc ít người” (4/29 ý kiến).
+ Khoản 3: bổ sung cụm từ “có chính sách sử dụng nhân tài hợp lý” trước cụm từ “Người khuyết tật…” (7/29 ý kiến); bổ sung cụm từ “quan tâm bảo đảm chính sách, sử dụng, đãi ngộ hợp lý người có tài” vào sau cụm từ “phát triển tài năng” (3/29 ý kiến); sửa đổi như sau “Người khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập ở các bậc học văn hóa và học nghề phù hợp và giải quyết việc làm” (2/29 ý kiến).
Điều 67 (Có 18 ý kiến, trong đó có 17 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (2/18 ý kiến)
- Không tán thành (0/18 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung cụm từ “khoa học công nghệ giữ vai trò nền tảng” và bổ sung quy định về vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp phát triển lĩnh vực này (1/18 ý kiến).
+ Khoản 2: bổ sung cụm từ “các phát minh, sáng chế được nhà nước bảo hộ” vào đoạn cuối (16/18 ý kiến); bổ sung cụm từ “thu hút đầu tư chất xám từ các quốc gia khác” sau cụm từ “thế giới” (1/18 ý kiến).
Điều 68 (31 ý kiến, trong đó có 30 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (0/27 ý kiến)
- Không tán thành (0/27 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1 sửa đổi như sau “1. Bảo vệ môi trường… là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân, công dân” (1/27 ý kiến);
+ Khoản 2: sửa đổi như sau: “Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch” (1/27 ý kiến); thay từ “có” bằng cụm từ “nhà nước ban hành”, bổ sung cụm từ “nhà nước bảo vệ” để khẳng định rõ trách nhiệm của nhà nước (24/27 ý kiến).
+ Khoản 3: sửa đổi như sau: “Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường… phải bị xử lý theo quy định của pháp luật và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại” (2/27 ý kiến ); như sau: “3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” (1/27 ý kiến); bỏ cụm từ “có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại” vì đã xử lý nghiêm thì đã bao gồm việc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại (1/27 ý kiến); bổ sung cụm từ “hậu quả” sau từ “khắc phục” để cụ thể hóa trách nhiệm tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học (1/27 ý kiến )
CHƯƠNG IV
BẢO VỆ TỔ QUỐC
Phần thứ nhất: Tổng quan đánh giá chung
- Tổng số có 225 ý kiến góp ý về Chương IV (trong đó có ý kiến ở 221 cơ quan, tổ chức, 4 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào những vấn đề sau đây: Điều 69 (52/225 ý kiến), Điều 72 (53/225 ý kiến), Điều 73 (45/225 ý kiến).
- Về tên chương:
+ Tán thành với tên chương, nội dung chương (195/225 ý kiến)
+ Không tán thành, đề nghị đổi tên chương (0/225 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: bổ sung quy định về hợp tác quốc tế trong chương IV Bảo vệ Tổ quốc theo hướng Nhà nước tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng cho đầy đủ, toàn diện, góp phần đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, giảm đối tượng, thêm đối tác, các bên cùng có lợi, tăng cường thêm sức mạnh quốc phòng, an ninh nhằm bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN (01/225 ý kiến).
- Phần thứ hai: Những góp ý về các điều khoản cụ thể:
Điều 69 (Có 52 ý kiến, trong đó có 51 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (32/52 ý kiến)
- Không tán thành(0/52 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi như sau:
+ Bỏ cụm từ “Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, thay cụm từ “đất nước” bằng cụm từ “toàn dân”, thay từ “sự nghiệp” bằng từ “nhiệm vụ” cho phù hợp hơn, bổ sung cụm từ “và thế trận lòng dân” sau cụm từ “an ninh nhân dân” cho đầy đủ (1/52 ý kiến); thay cụm từ “sự nghiệp” bằng từ “trách nhiệm” (1/52 ý kiến);
+ Bổ sung đoạn 1 “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và nhân dân” để làm rõ thêm vai trò của Đảng và Nhà nước, đảm bảo tính thống nhất và cụ thể (1/52 ý kiến);
+ Bổ sung cụm từ: "kết hợp sức mạnh quốc tế" trước cụm từ "để bảo vệ vững chắc Tổ quốc" cho đầy đủ hơn, tăng cường sự ủng hộ quốc tế, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế (1/52 ý kiến); bổ sung cụm từ “và toàn vẹn lãnh thổ” sau cụm từ “bảo vệ Tổ quốc” (18/52 ý kiến).
+ Bổ sung quy định về hợp tác quốc tế trong bảo vệ Tổ quốc nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế trong tình hình mới theo hướng:“Nhà nước tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh”(1/52 ý kiến)
Điều 70 (Có 38 ý kiến, trong đó có 37 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (25/38 ý kiến )
- Không tán thành (3/38 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: như sau “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, biển đảo, thềm lục địa, lòng đất, biên giới, vùng trời, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước” để thể hiện đầy đủ nội hàm bảo vệ chủ quyền đất nước bao gồm biển đảo, thềm lục địa, lòng đất, biên giới, vùng trời của Tổ quốc, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống như: tội phạm phi quốc gia, tội phạm phi truyền thống, động đất, sống thần, lũ lụt, hạn hán, thảm hỏa thiên nhiên, sự cố bùn đỏ, hạt nhân, vỡ đập thủy điện (1/38 ý kiến); như sau “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân” để khẳng định rõ việc bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích giai cấp là trên hết và phù hợp với xu thế hiện nay (9/38 ý kiến); sửa đổi như sau “…trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Đảng cộng sản Việt Nam” (20/38 ý kiến); bỏ cụm từ “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa” cho văn phong cô đọng hơn (1/38 ý kiến); bổ sung cụm từ “được sử dụng những biện pháp do pháp luật quy định” (1/38 ý kiến).
Điều 71 (37 ý kiến, trong đó có 36 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (17/37 ý kiến)
- Không tán thành (0/37 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy” để lôgic hơn (4/37 ý kiến); bỏ cụm từ “cách mạng” vì cụm từ này được sử dụng để chỉ một lực lượng tiến bộ, sử dụng cụm từ này là không cần thiết, không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Việc bỏ cụm từ này cũng phù hợp Điều 70 đồng thời tránh sự suy diễn hoặc hiểu lầm là Quân đội và Công an lại có lực lượng khác không cách mạng (15/37 ý kiến); đề nghị bỏ cụm từ “từng bước” vì không phù hợp với “tầm” của Hiến pháp (2/37 ý kiến); thay cụm từ “nhiệm vụ quốc phòng” bằng cụm từ “sự nghiệp quốc phòng” (2/37 ý kiến); bổ sung đoạn cuối “...làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” nhằm thể hiện rõ sức mạnh quân đội trong thời bình (1/37 ý kiến).
Điều 72 (Có 53 ý kiến, trong đó có 52 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (33/53 ý kiến)
- Không tán thành (0/53 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm” để thể hiện chủ trương Nhà nước phải ưu tiên hiện đại hóa ngay lập tức một số lực lượng cốt yếu cho phù hợp với thời cuộc, nhằm đấu tranh có hiệu quả tội phạm mới, tội phạm xuyên quốc gia trong tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp và nhiều nguy cơ tiềm ẩn như hiện nay (1/53 ý kiến); như sau “Xây dựng Công an Nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy…” (2/53 ý kiến); bỏ cụm từ “cách mạng” vì cụm từ này không cần thiết, không còn phù hợp và không rõ nghĩa trong giai đoạn lịch sử hiện nay đồng thời phù hợp với Điều 70, tránh sự suy diễn hoặc hiểu lầm là Quân đội và Công an lại có lực lượng khác không cách mạng (11/53 ý kiến); bỏ cụm từ “từng bước” vì không phù hợp với tầm của Hiến pháp và lực lượng công an cần phải xây dựng ngay để đáp ứng nhu cầu của Cách mạng (4/53 ý kiến); thay cụm từ “sự nghiệp” bằng “nhiệm vụ” để bảo đảm sự thống nhất giữa Điều 72 với Điều 71 (9/53 ý kiến); bổ sung cụm từ “và các tệ nạn xã hội” vào sau cụm từ “chống tội phạm” vì thực tế hiện nay lực lượng công an nhân dân đang thực hiện nhiệm vụ này (7/53 ý kiến);
Cân nhắc quy định Công an nhân dân là một lực lượng vũ trang vào Hiến pháp, tương ứng với Quân đội nhân dân Việt Nam vì trong một đất nước khi xảy ra nội chiến mới có hai lực lượng vũ trang, theo đó cần chuyển Điều 72 xuống sau Điều 114 hoặc quy định riêng một Chương về Công an nhân dân (1/53 ý kiến).
Điều 73 (Có 45 ý kiến, trong đó 44 có ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 1 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành (15/45 ý kiến)
- Không tán thành (0/45 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi: bỏ từ “các” trước cụm từ “lực lượng vũ trang nhân dân” cho thống nhất với Điều 71 (2/45 ý kiến); thay cụm từ “chính sách hậu phương quân đội” thành “chính sách hậu phương lực lượng vũ trang” vì có lực lượng vũ trang thì có quân đội - công an (12/45 ý kiến): sửa đổi như sau: “Nhà nước…công nghiệp hóa quốc phòng, an ninh đảm bảo trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với kinh tế, kinh tế - quốc phòng an ninh,…bảo vệ an ninh quốc gia”(2/45 ý kiến); bổ sung đoạn “kết hợp chặt chẽ quốc phòng - an ninh với kinh tế - xã hội, kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh,…bảo vệ an ninh quốc gia” để thể hiện mối quan hệ đan kết giữa các nội dung này, phát huy sức mạnh tổng hợp trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước, phù hợp với định hướng phát triển đã nêu trong Văn kiện Đại hội Đảng X cũng như phản ánh đúng thực tiễn khách quan, đúc kết kinh nghiệm lịch sử về đường hướng xây dựng, phát triển đất nước ta (11/45 ý kiến);
Sửa đổi, bổ sung thể chế hóa quan điểm của Đảng về “xây dựng nền công nghiệp an ninh” và bổ sung mối quan hệ giữa kinh tế với an ninh vào điều 73 như sau: “Nhà nước …; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương Quân đội, Công an, xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng, Công an, xây dựng các lực trang nhân dân hùng mạnh” để thể chế hóa quan điểm của Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) về “Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh đảm bảo cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại”; kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh với quốc phòng, an ninh với kinh tế nhằm tăng cường khả năng giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, tránh coi trọng hiệu quả kinh tế mà ký kết các hợp đồng kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng đến thế trận an ninh, quốc phòng của đất nước (13/45 ý kiến).
CHƯƠNG V
QUỐC HỘI
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 389 ý kiến góp ý vào chương V (trong đó có 354 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 35 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 74 (76/389 ý kiến); Điều 75 (310/389 ý kiến); Điều 86 (92/389 ý kiến).
- Về tên chương:
+ Tán thành với tên chương, nội dung chương V (322/389 ý kiến).
+ Không tán thành với tiên chương, đề nghị đổi tên chương V (0/389 ý kiến).
- Về nội dung, bố cục của chương:
+ Đề nghị bổ sung nội dung: quy định về cơ chế giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương (1/389 ý kiến); quy định về tổ chức bộ máy của Quốc hội (1/389 ý kiến); bổ sung một điều luật quy định: Quốc hội quyết định những vấn đề cần đưa ra trưng cầu ý dân khi có đề nghị của Chủ tịch nước hoặc Chủ tịch Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ hoặc có 1/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua. Kết quả của cuộc trưng cầu ý dân là căn cứ để Quốc hội quyết định thông qua hoặc phủ quyết vấn đề đó. Quy định như vậy sẽ đảm bảo kết hợp giữa hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện (1/389 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 74 (Có 76 ý kiến, trong đó có 75 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 74 (59/76 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 74 (0/76 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Cần có sự thống nhất trong diễn đạt với Điều 2 Chương 1 để thể hiện Quốc hội chỉ là cơ quan đại biểu, đại diện cho quyền lực của nhân dân chứ không hiểu theo nghĩa Quốc hội là cơ quan riêng mình có quyền lực cao nhất, đứng trên nhân dân (1/76 ý kiến); Quy định rõ Quốc hội gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Đại biểu Quốc hội. Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định (9/76 ý kiến);
+ Khoản 2: sửa đổi theo hướng Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp (3/76 ý kiến);
+ Khoản 8: bổ sung cơ chế để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (9/75 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 74 (0/76 ý kiến).
Điều 75 (Có 310 ý kiến, trong đó có 298 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 75 (33/310 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 75 (0/310 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: thay cụm từ “làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật” thành “xây dựng Hiến pháp và xây dựng luật” (10/310 ý kiến); thành “làm Hiến pháp và sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; làm luật và sửa đổi, bổ sung luật” (17/310 ý kiến); thành “Ban hành Hiến pháp và sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; ban hành luật và sửa đổi, bổ sung luật” (13/310 ý kiến); thành “Dự thảo Hiến pháp và dự thảo sửa đổi Hiến pháp” (2/310 ý kiến);
+ Khoản 4: sửa đổi theo hướng “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ loại thuế…” (3/310 ý kiến);
+ Khoản 7: quy định Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là không cần thiết vì Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là các chức danh pháp lý tương đương với Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do đó nên quy định như hiện hành vì thực hiện như hiện nay không có vướng mắc gì (291/310 ý kiến); quy định Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao vì loại Kiểm sát viên này phải có vị trí ngang bằng với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mới thực hiện được quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án (22/310 ý kiến); thay đổi việc bầu Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước theo hướng trao quyền này cho nhân dân, thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu để phân định rõ thẩm quyền của Quốc hội và nhân dân, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân (11/310 ý kiến);
+ Khoản 8: bổ sung quy định “Người giữ chức vụ nếu không quá 50% tín nhiệm của Đại biểu Quốc hội sẽ phải từ chức hoặc bị bãi nhiệm”. Đồng thời bổ sung nội dung “Khi Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước hoặc ít nhất ¼ số đại biểu Quốc hội yêu cầu thì tại kỳ họp gần nhất, Quốc hội tiến hành lấy tín nhiệm đối với cá nhân Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ” (40/310 ý kiến);
+ Khoản 9: bổ sung cụm từ “thành lập cơ quan độc lập về phòng chống tham nhũng” vì đấu tranh phòng chống tham nhũng là một yêu cầu cấp bách, quyết liệt của Đảng, Nhà nước ta cần phải tạo ra cơ chế pháp lý quan trọng nhằm đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả trong thời gian tới (23/310 ý kiến); bổ sung quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Tòa án đặc biệt để bảo đảm đồng bộ với Điều 107 (2/310 ý kiến).
+ Khoản 10: bổ sung cụm từ “theo đề nghị của Hội đồng Hiến pháp” trước cụm từ “Nghị quyết của Quốc hội” (2/310 ý kiến); bổ sung cụm từ “Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng kiểm toán” trước cụm từ “trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội” (2/310 ý kiến);
+ Khoản 15: quy định rõ việc trưng quyết định trưng cầu dân ý phải theo luật và đưa những nội dung trọng yếu để xin ý kiến nhân dân (11/310 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 75: quy định cụ thể về số lượng đại biểu Quốc hội và tăng số lượng đại biểu chuyên trách để đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội (1/310 ý kiến).
Điều 76 (Có 52 ý kiến, trong đó có 51 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 76 (34/52 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 76 (0/52 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 3: sửa đổi như sau: “rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội trong trường hợp đặc biệt” (11/52 ý kiến); “Trong trường hợp đặc biệt nếu được ít nhất hai phần ba... Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội chỉ được cho phép trong trường hợp xảy ra chiến tranh, thời hạn kéo dài do Quốc hội quyết định” (17/52 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 76 (0/52 ý kiến).
Điều 77 (Có 49 ý kiến, trong đó có 49 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 77 (33/49 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 77 (0/49 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: như sau “Các Phó chủ tịch Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội” để đảm bảo sự lãnh đạo tập thể của Ủy ban thường vụ Quốc hội” (16/49 ý kiến); thay từ “lãnh đạo” bằng cụm từ “điều hành” để thể hiện chính xác và hợp lý về vai trò của Chủ tịch quốc hội đối với việc điều hành hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số (16/49 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 77 (0/49 ý kiến).
Điều 78 (Có 59 ý kiến, trong đó có ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 78 (59/59 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 78 (0/59 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/59 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 78 (0/59 ý kiến).
Điều 79 (Có 89 ý kiến, trong đó có 88 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 79 (68/89 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 79 (0/88 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 4: bổ sung cụm từ “theo đề nghị của Hội đồng Hiến pháp” trước cụm từ “Nghị quyết của Quốc hội” (2/89 ý kiến);
+ Khoản 6: sửa đổi như sau “…bãi bỏ các Nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân…” (1/89 ý kiến); như sau “…bãi bỏ các Nghị quyết trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên của Hội đồng nhân dân…” (10/89 ý kiến).
+ Khoản 11: quy định rõ việc trưng cầu dân ý phải theo luật và đưa những nội dung trọng yếu để xin ý kiến nhân dân vào trong luật để tránh khẩu hiệu sáo rỗng, khắc phục trường hợp nhiều chủ trương, chính sách lớn can hệ đến đời sống xã hội những nhân dân không được biết như mở rộng thủ đô, xây dựng nhà máy điện hạt nhân… (20/89 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 79: bổ sung 02 khoản về quyền đề nghị rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội trong trường hợp đặc biệt cho phù hợp với Điều 76; và quyền phê chuẩn một số chức danh của các cơ quan do Quốc hội bầu hoặc thành lập (9/89 ý kiến).
Điều 80 (Có 69 ý kiến, trong đó có 68 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 80 (66/69 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 80 (0/69 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: quy định rõ Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Ủy ban của Quốc hội (2/69 ý kiến); bổ sung quy định thẩm quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn các chức vụ Phó Chủ tịch và các ủy viên Hội đồng dân tộc (1/69 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 80 (0/69 ý kiến).
Điều 81 (Có 49 ý kiến, trong đó có 49 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 81(49/49 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 81(0/49 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi điều, khoản (0/49 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 81 (0/49 ý kiến).
Điều 82 (Có 49 ý kiến, trong đó có 49 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 82 (49/49 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/49 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi điều, khoản (0/49 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 82 (0/49 ý kiến).
Điều 83 (Có 49 ý kiến, trong đó có 49 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 83 (48/49 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 83 (0/49 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: bổ sung cụm từ “Khi cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội tham mưu” để đảm bảo tính kịp thời, thực hiện nhiệm vụ cấp bách được giao vì Quốc hội họp mỗi năm 02 kỳ (1/49 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 83 (0/49 ý kiến).
Điều 84 (Có 74 ý kiến, trong đó có 74 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 84 (71/74 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/74 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: bỏ cụm từ “và của nhân dân ở đơn vị bầu đại biểu” vì cụm từ “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước” đã đủ nghĩa (3/74 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 84 (0/74 ý kiến).
Điều 85 (Có 49 ý kiến, trong đó có 49 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 85(49/49 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 85 (0/49 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/49 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 85 (0/49 ý kiến).
Điều 86 (Có 92 ý kiến, trong đó có 92 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 86 (0/92 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 86 vì mâu thuẫn với Điều 17 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” vì trước Quốc hội, Đại biểu hoạt động mang tính chính trị, còn trong cuộc sống hàng ngày Đại biểu Quốc hội cũng làm một công dân bình đẳng như những công dân khác, phải tuân thủ và chấp hành pháp luật (46/92 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau “Không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp thì không được bắt giam…(19/92 ý kiến); bổ sum cụm từ “trong khi chờ quyết định, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiến hành hoạt động tố tụng theo luật” (01/92 ý kiến); bổ sung các từ “tạm giữ, tạm” vào sau từ “bắt” và bỏ từ “vì” (1/92 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét bắt giam, truy tố Đại biểu Quốc hội (26/92 ý kiến).
Điều 87 (Có 51 ý kiến, trong đó có 49 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 02 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 87 (34/51 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 87 (0/51 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1 và 2 sửa đổi như sau:
“1. Đại biểu quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu; 2. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ và thực hiện quyền hạn đại biểu” vì Đại biểu Quốc hội là đại diện của nhân dân nên không chỉ thực hiện quyền mà còn là trách nhiệm của Đại biểu (9/51 ý kiến);
+ Bỏ khoản 3 vì cụm từ “Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội” đã được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội, không cần thiết phải quy định trong Hiến pháp (1/51 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 87: tập hợp các nhiệm vụ, quyền hạn của Đại biểu để quy định tập trung trong 01 điều giống như Điều luật về Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (7/51 ý kiến).
Điều 88 (Có 47 ý kiến, trong đó có 47 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 88 (39/47 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 88 (0/47 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: Bỏ khoản 2 “Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp Quốc hội” vì quy định này đã được nêu tại khoản 1 Điều 79, còn về thủ tục tổ chức kỳ họp nên được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội (8/47 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 88 (0/47 ý kiến).
Điều 89 (Có 33 ý kiến, trong đó có 33 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 88 (33/33 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 88 (0/33 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/33 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 88 (0/33 ý kiến).
Điều 90 (Có 33 ý kiến, trong đó có 33 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 90 (6/33 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 90 (0/33 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi thành “… Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được ít nhất 2/3 tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành” (27/33 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 90 (0/33 ý kiến).
CHƯƠNG VI
CHỦ TỊCH NƯỚC
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 499 ý kiến góp ý vào chương V (trong đó có 463 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 36 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 91 (104/499 ý kiến); Điều 93 (273/499 ý kiến); Điều 95 (89/499 ý kiến); Điều 98 (78/499 ý kiến);
- Về tên chương:
+ Tán thành với tên chương, nội dung chương V (292/499 ý kiến)
+ Không tán thành với tiên chương, đề nghị đổi tên chương, đề nghị đổi tên chương (0/499 ý kiến).
- Về nội dung, bố cục của chương (những góp ý chung về chương):
+ Đề nghị bổ sung nội dung (0/499 ý kiến)
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 91 (104 ý kiến, trong đó có 98 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 6 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 91 (46/104 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 91 (0/104 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau: “Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia… hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật…” (1/104 ý kiến);
+ Đề nghị quy định Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam đồng thời là Chủ tịch nước để tránh chồng chéo về thẩm quyền (57/104 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 91 (0/104 ý kiến).
Điều 92 (57 ý kiến, trong đó có 57 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 92 (47/57 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 92 (0/57 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi theo hướng Chủ tịch nước do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (10/57 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 92 (0/57 ý kiến).
Điều 93 (Có 273 ý kiến, trong đó có 260 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 13 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 93 (0/273 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 93 (0/273 ý kiến);
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: bổ sung quyền của Chủ tịch nước “đề nghị Quốc hội xem xét lại luật trước khi công bố, nếu xét thấy nội dung của Luật còn có những điểm không phù hợp với Hiến pháp” để đảm bảo thận trọng hơn khi công bố luật, mặt khác tạo thêm quyền chủ động cho Chủ tịch nước và cơ chế giám sát của Chủ tịch nước đối với cơ quan lập pháp (97/273 ý kiến);
+ Khoản 3: sửa đổi theo hướng: bỏ quy định Quốc hội phê chuẩn, chỉ giao cho Chủ tịch nước xem xét bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì Quốc hội họp mỗi năm 02 kỳ, trong khi đó việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc bãi nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là thường xuyên (249/273 ý kiến); tách quyết định đặc xá, căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội công bố quyết định đại xá thành một khoản riêng (1/273 ý kiến); đưa cụm từ “Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao” lên sau cụm từ “cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” và thêm cụm từ “Kiểm sát viên các Viện kiểm sát khác” sau cụm từ “Phó Viện trưởng” vì Kiểm sát viên phải có vị trí ngang bằng với Thẩm phán nên cần quy định cả Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp đều được Chủ tịch nước bổ nhiệm (28/273 ý kiến); bỏ cụm từ “Thẩm phán các Tòa án khác” vì việc ký, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thẩm phán này nên giao cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là phù hợp hơn (41/273 ý kiến); thay cụm từ “căn cứ vào Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” bằng cụm từ “căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội” (36/273 ý kiến); bổ sung quyền “ân giảm” của Chủ tịch nước để phản ánh chế độ ưu việt của Nhà nước ta (55/273 ý kiến); sửa đổi theo hướng “…Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án TANDTC, Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán Toà án khác” (27/273 ý kiến);
+ Khoản 5: sửa đổi theo hướng tách quy định Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang và công bố tình trạng khẩn cấp thành một khoản riêng (1/273 ý kiến); bổ sung cụm từ “quản lý lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân nhằm bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia” (11/273 ý kiến); bổ sung quy định Chủ tịch nước có quyền công bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được (1/273 ý kiến); trao quyền điều hành, quản lý trực tiếp của Chủ tịch nước đối với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ ngoại giao nhằm đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước đúng thực chất, tránh hình thức về danh nghĩa và không thực quyền (40/273 ý kiến); có quyền phong hàm, cấp sỹ quan cấp tướng, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc, hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân; bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam để phù hợp với vị trí, vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân (18/273 ý kiến); quy định “Trường hợp UBTVQH không thể họp được” là không phù hợp vì UBTVQH là cơ quan chuyên trách, không có lý do gì lại không thể họp được (1/273 ý kiến).
+ Khoản 6: bổ sung cụm từ “Quản lý công tác đối ngoại” vào trước cụm từ “cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền” do Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia nên cần phải quy định rõ những quyền hạn cụ thể cho tương xứng với vị thế, vai trò là nguyên thủ quốc gia (1/273 ý kiến); cần quy định rõ “quy định tại khoản 14 Điều 75” của Hiến pháp (19/273 ý kiến); quy định thẩm quyền của Chủ tịch Nước trong việc ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ “Chỉ đạo việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước” để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với quy định tại khoản 4 Điều 103 (1/273 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 93: có quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ; có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước khi cần thiết (6/273 ý kiến); có quyền bãi bỏ văn bản pháp luật do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành trái với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (26/273 ý kiến); có quyền giám sát Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, có quyền triệu tập Chính phủ để chủ trì họp bàn những vấn đề thuộc về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (5/273 ý kiến);
Điều 94 (Có 31 ý kiến, trong đó có 31 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 94 (31/31 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 94 (0/31 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/31 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 94 (0/94 ý kiến).
Điều 95 (Có 90 ý kiến, trong đó có 89 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 95 (4/90 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 95 (0/89 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi như sau “Khi cần thiết Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp và chủ trì cuộc họp…” vì khi Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thì phải giao cho Chủ tịch nước quyền chủ trì và điều hành cuộc họp là phù hợp (82/90 ý kiến); thay cụm từ “... thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước” bằng cụm từ “quan trọng của đất nước” (4/90 ý kiến);
+ Khoản 2: sửa đổi như sau “Khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn và báo cáo về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ” (17/90 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 95 (0/90 ý kiến).
Điều 96 (Có 47 ý kiến, trong đó có 47 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 96 (47/47 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/47 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/47 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 96 (0/47 ý kiến).
Điều 97 (Có 47 ý kiến, trong đó có 47 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 97 (47/47 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 97 (0/47 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/47 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 97 (0/47 ý kiến).
Điều 98 (78 ý kiến, trong đó có 76 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 02 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 98 (43/78 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 98 (43/78 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi điều 98: quy định cụ thể định lượng về thời gian Chủ tịch nước không làm việc được để Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch (26/78 ý kiến); sửa cụm từ “Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch” thành “Phó Chủ tịch nước giữ chức quyền Chủ tịch nước” (3/78 ý kiến); thay cụm từ “trong một thời gian dài” bằng cụm từ “trong thời gian theo quy định của pháp luật” cho cụ thể và dễ thực hiện (1/78 ý kiến); bằng cụm từ “trong thời gian dài từ 06 tháng trở lên” (3/78 ý kiến); bằng cụm từ “trong thời gian dài từ 01 năm trở lên” (10/78 ý kiến); bổ sung cụm từ “cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới” sau cụm từ “Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch” (1/78 ý kiến); sửa từ “không” thành từ “không thể” (1/78 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 98 (0/78 ý kiến); .
CHƯƠNG VII
CHÍNH PHỦ
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 391 ý kiến góp ý vào chương VII (trong đó có 374 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 17 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 99 (78/391 ý kiến); Điều 100 (69/391 ý kiến); Điều 101 (61/391 ý kiến);
- Về tên chương:
+ Tán thành với tên chương, nội dung chương VII (308/391 ý kiến).
+ Không tán thành với tiên chương, đề nghị đổi tên chương VII (0/391 ý kiến).
- Về nội dung, bố cục của chương (những góp ý chung về chương):
+ Đề nghị bổ sung nội dung thành lập Ủy ban xây dựng pháp luật của Chính phủ nhằm thống nhất quản lý, tránh tình trạng ban hành chính sách quản lý không sát thực tiễn hay hay hành chính hóa dân chủ (1/391 ý kiến).
Điều 99 (Có 78 ý kiến, trong đó có ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 99 (2/78 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 99 (0/78 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: theo hướng đưa cụm từ “là cơ quan chấp hành của Quốc hội” lên trước cụm từ “ thực hiện quyền hành pháp” để thể hiện rõ quyền lực của nhà nước ta là thống nhất, thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội (77/78 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 99 (0/78 ý kiến).
Điều 100 (Có 69 ý kiến, trong đó có ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 100 (0/68 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 100 (0/68 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Bổ sung cụm từ “Thủ tướng Chính phủ” trước cụm từ “về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách” nhằm tạo cơ chế thuận lợi hơn cho Thủ tướng điều hành hoạt động của Chính phủ (1/68 ý kiến); xác định rõ hơn trách nhiệm của người đứng đầu Chính phủ và trách nhiệm trong trường hợp quy định “Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số” (37/68 ý kiến); bổ sung quy định trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội (28/68 ý kiến); quy định cụ thể số lượng Bộ, cơ quan ngang Bộ và tách cơ quan điều tra độc lập với Bộ công an (10/68 ý kiến); theo hướng thành viên Chính phủ phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ để thể hiện vai trò của Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu Chính phủ (16/68 ý kiến);
+ Khoản 5: bổ sung cụm từ “và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công” sau cụm từ “lãnh đạo công tác của Chính phủ” (1/68 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 100 (0/68 ý kiến).
Điều 101 (Có 61 ý kiến, trong đó có 60 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 101 (18/61 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 101 (0/61 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Thay cụm từ “bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và xã hội” thành “bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội” (1/61 ý kiến).
+ Khoản 2: sửa đổi theo hướng “Tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nội bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thuộc thẩm quyền của Chính phủ…” để khắc phục tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, kém hiệu quả như hiện nay (27/61 ý kiến);
+ Khoản 6: theo hướng “Là cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước quản lý về quốc phòng, an ninh” vì giao cho Chủ tịch nước là đầu mối quản lý về quốc phòng, an ninh (12/61 ý kiến);
+ Khoản 7: sửa đổi theo hướng “Là cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước quản lý về công tác đối ngoại” vì giao cho Chủ tịch nước là đầu mối quản lý về công tác đối ngoại (11/61 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 101: quy định “Theo định kỳ xây dựng chương trình, kế hoạch phòng ngừa tội phạm trong phạm vi toàn quốc và báo cáo trước Quốc hội về việc này” (10/61 ý kiến).
Điều 102 (Có 18 ý kiến, trong đó có 18 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (18/18 ý kiến).
- Không tán thành với Điều (0/18 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/18 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/18 ý kiến).
Điều 103 (Có 18 ý kiến, trong đó có 18 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 103 (18/18 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 103 (0/18 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: (0/18 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 103 (0/18 ý kiến).
Điều 104 (Có 54 ý kiến, trong đó có 54 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 104 (45/54 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 104 (0/54 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: bỏ cụm từ “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ” và cụm từ “bộ, cơ quan ngang bộ” vì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên của Chính phủ đã được quy định tại đoạn 1 Điều 100 (9/54 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 104 (0/54 ý kiến).
Điều 105 (Có 83 ý kiến, trong đó có 83 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, không có ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 105 (58/83 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 105 (0/83 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: thay cụm từ “văn bản pháp luật” bằng cụm từ “văn bản quy phạm pháp luật” vì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (14/83 ý kiến); bổ sung cụm từ “Đồng thời phải chịu trách nhiệm về sai phạm trong ban hành văn bản pháp luật” sau cụm từ “kiểm sát việc thi hành các văn bản đó” vì hiện nay tình trạng sai sót khi ban hành văn bản pháp luật của các bộ, ngành xảy ra nhiều nên cần quy định trách nhiệm này (11/83 ý kiến);
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 105 (0/83 ý kiến).
Điều 106 (Có 59 ý kiến, trong đó có 59 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 01 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 106 (19/59 ý kiến).
- Không tán thành với Điều 106 (0/59 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi: theo hướng “Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan” (40/59 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 106 (0/59 ý kiến).
CHƯƠNG VIII
TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 13.113 ý kiến góp ý về Chương VIII (trong đó có 834 ý kiến ở cơ quan, 12.279 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 107 (12.754/13.113 ý kiến); Điều 108 (12.881/13.113 ý kiến); Điều 110 (13.113/13.113 ý kiến); Điều 112 (13.113/13.113 ý kiến); Điều 113 (13.113/13.113 ý kiến); Điều 114 (13.113/13.113 ý kiến);
- Tán thành với tên Chương (11.780/13.113 ý kiến)
- Không tán thành tên Chương, đề nghị đổi tên Chương VIII là Các cơ quan tư pháp vì theo các nghị quyết của Đảng thì cả Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân đều được xác định là cơ quan tư pháp, thực hiện hoạt động tư pháp (1.121/13.113 ý kiến); Bỏ cụm từ “nhân dân” ở tên Tòa án và Viện kiểm sát (212/13.113 ý kiến).
- Về nội dung, bố cục của Chương (những góp ý chung về chương):
+ Đề nghị tách Tòa án nhân dân (TAND) và Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thành 2 chương độc lập vì có chức năng, nhiệm vụ độc lập (246/13.113 ý kiến).
+ Không nên quy định TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý (Điều 107), VKSND bảo vệ pháp luật (Điều 112) vì suy cho cùng bảo vệ công lý và bảo vệ pháp luật đều hướng tới việc bảo vệ pháp luật, nên quy định hai cơ quan này là cơ quan bảo vệ pháp luật (115/13.113 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung:
Bổ sung một điều quy định trách nhiệm của chính quyền các cấp bảo đảm điều kiện hoạt động của TAND và VKSND cho phù hợp với các nghị quyết của Đảng thời gian qua yêu cầu bảo đảm điều kiện để các cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao (389/13.113 ý kiến).
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 107 (Có 12.754 ý kiến, trong đó có 662 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.092 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 107 (1.048/12.754 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 107 (0/12.754 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi Điều 107:
+ Khoản 1: Đưa cụm từ “thực hiện quyền tư pháp” lên trước cụm từ “là cơ quan xét xử” (171/12.754 ý kiến); Chỉ quy định “TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam”, không quy định “là cơ quan thực hiện quyền tư pháp” (5.301/12.754 ý kiến); Thêm cụm từ “cùng với cơ quan khác” trước cụm từ “thực hiện quyền tư pháp” và sửa lại khoản này như sau: “TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, cùng với các cơ quan khác thực hiện quyền tư pháp” vì các nghị quyết của Đảng và pháp luật nước ta xác định có nhiều cơ quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp chứ không chỉ là Tòa án (2.110/12.754 ý kiến); Quy định cụ thể hệ thống tổ chức TAND gồm 4 cấp như Nghị quyết 49-NQ/TW đã xác định và bổ sung các Tòa án chuyên ngành khác do luật định (2.113/12.754 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “Tòa án khác” bằng cụm từ “Tòa án địa phương và hệ thống Tòa án án quân sự” (1.175/12.754 ý kiến); Bỏ cụm từ “bảo vệ” trước cụm từ “quyền con người, quyền công dân” (1.123/12.754 ý kiến).
+ Khoản 2: Bổ sung Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm xét xử công bằng (399/12.754 ý kiến).
+ Khoản 3: Bỏ quy định về Tòa án đặc biệt vì đất nước ta đã kết thúc chiến tranh gần 40 năm, đang ổn định, phát triển (221/12.754 ý kiến); Thay cụm từ “tình hình” bằng cụm từ “trường hợp” (814/12.754 ý kiến).
Điều 108 (Có 12.881 ý kiến, trong đó có 795 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.086 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 108 (2311/12.881 ý kiến);
- Không tán thành với Điều 108 (0/12.881 ý kiến);
- Đề nghị sửa đổi Điều 108:
+ Đề nghị quy định cụ thể hơn việc bảo đảm thực hiện các nguyên tắc quy định tại điều này (52/12.881 ý kiến).
+ Khoản 1: Chỉ quy định việc xét xử của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm có sự tham gia của Hội thẩm, bỏ cụm từ “trừ trường hợp do luật định” vừa bảo đảm nguyên tắc hoạt động xét xử có sự tham gia của nhân dân, vừa bảo đảm tính khái quát của Hiến pháp (6.118/12.881 ý kiến); Không quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp (3.252/12.881 ý kiến); Quy định rõ Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, quản lý và phân công nhiệm vụ (4.110/12.881 ý kiến).
+ Khoản 2: Bỏ cụm từ “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm” vì cụm từ “chỉ tuân theo pháp luật” đã bao hàm đầy đủ yêu cầu trên (1.224/12.881 ý kiến).
+ Khoản 3: Bỏ vì không cần thiết (2.102/12.881 ý kiến).
+ Khoản 4: Chỉ quy định “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số”, bỏ cụm từ “trừ trường hợp do luật định” để bảo đảm nguyên tắc tố tụng tiến bộ này được tuân thủ trên thực tế (877/12.881 ý kiến); Thay chủ thể “Tòa án nhân dân xét xử” bằng “Hội đồng xét xử xét xử” để bảo đảm tính chính xác (12.215/12.881 ý kiến).
+ Khoản 5: Sửa lại “nguyên tắc thẩm vấn kết hợp với tranh tụng tại phiên tòa được bảo đảm” để phù hợp với thực tế đội ngũ cán bộ tư pháp và luật sư nước ta (1.052/12.881 ý kiến); Bỏ khoản này vì không phù hợp với mô hình tố tụng xét hỏi nước ta, đồng thời là nguyên tắc tố tụng chung chứ không phải là nguyên tắc của Tòa án (10.249/12.881 ý kiến); Bổ sung từ phải để nhấn mạnh yêu cầu bắt buộc áp dụng “Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa phải được bảo đảm” (644/12.881 ý kiến); Thể hiện lại kỹ thuật cho phù hợp hơn “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa” (1.214/12.881 ý kiến).
+ Khoản 6: Chỉ quy định “Chế độ xét xử theo hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm”, bỏ cụm từ “được bảo đảm” để đáp ứng yêu cầu về tính khái quát của Hiến pháp (6.221/12.881 ý kiến); Thể hiện lại về kỹ thuật cho phù hợp hơn “Bảo đảm chế độ xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm” (3.132/12.881 ý kiến).
+ Khoản 7: Bỏ ra khỏi Dự thảo vì đây là quyền của bị can, bị cáo, đương sự thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật tố tụng, không nên đưa vào chương Tòa án nhân dân (7.317/12.881 ý kiến); đưa vào chương II (5.211/12.881 ý kiến); Chỉ quy định “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”, bỏ câu sau “Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” để bảo đảm tính khái quát (1.124/12.881 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 108 (0/12.881 ý kiến).
Điều 109 (Có 12.746 ý kiến, trong đó có 678 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.068 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 109 (8.329/12.746 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 109 (0/12.746 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 2: Không nên quy định TAND tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án đặc biệt, Tòa án đặc biệt sẽ hoạt động theo thủ tục tố tụng đặc biệt, không theo thủ tục tố tụng chung (3.301/12.746 ý kiến).
+ Khoản 3: Bổ sung quy định giao Tòa án nhân dân tối cao giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, ban hành án lệ để phù hợp với yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW (1.228/12.746 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/12.746 ý kiến).
Điều 110 (Có 13.113 ý kiến, trong đó có 13.113 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.279 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 110 (0/13.113 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 110 (0/13.113 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: Bổ sung “Chánh án TAND tối cao được bầu trong số đại biểu Quốc hội” để giúp Chánh án TANDTC có điều kiện tham gia và nắm bắt đầy đủ yêu cầu của Quốc hội, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao (13.113/113.113 ý kiến).
+ Khoản 3: Quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán các cấp Tòa án thuộc thẩm quyền của Chánh án TAND tối cao vì có điều kiện theo dõi cán bộ nên bổ nhiệm chính xác và giảm bớt thủ tục, thời gian (9.110/13.113 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/13.113 ý kiến).
Điều 111 (Có 12.183 ý kiến, trong đó có 151 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.032 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 111 (9.011/12.183 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 111 (0/12.183 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Thay từ “hữu quan” bằng từ “liên quan” và sửa lại như sau “… cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (935/12.183 ý kiến); Bổ sung một câu vào đoạn sau của điều này “Thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong việc ra bản án, quyết định” nhằm xác định rõ trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi thực hiện chức năng xét xử (820/12.183 ý kiến); Bỏ cụm từ “tôn trọng” bản án, quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật (1.019/12.183 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/12.183 ý kiến)
Điều 112 (Có 13.113 ý kiến, trong đó có 834 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.279 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 112 (120/13.113 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 112 (0/13.113 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Đề nghị sắp xếp thứ tự các khoản trong Điều 112 theo thứ tự: vị trí, chức năng và tổ chức của VKSND và bổ sung một điều xác định rõ vị trí của VKSND trong bộ máy nhà nước theo hướng VKSND là cơ quan tư pháp hoặc cơ quan thực hiện quyền tư pháp vì Viện kiểm sát nước ta khi thực hành quyền công tố không chỉ có vai trò là một bên (bên buộc tội) như Viện Công tố một số nước mà còn có thẩm quyền quyết định các biện pháp cưỡng chế hạn chế các quyền tự do cơ bản của công dân (2.223/13.113 ý kiến); Xác định vị trí của VKSND theo hướng “VKSND là cơ quan công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” (3.521/13.113 ý kiến).
+ Khoản 1: về chức năng của VKSND có 3 loại ý kiến:
Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị ngoài hai chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, cần khôi phục chức năng của Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung) (12.767/13.113 ý kiến) bởi lẽ thời gian qua, tình trạng lạm dụng quyền lực, tham nhũng diễn ra khá phổ biến và nghiêm trọng, trong khi đó các thiết chế kiểm soát quyền lực mặc dù từng bước được bổ sung song chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu các thiết chế giám sát độc lập, có tính chuyên nghiệp nên hiệu lực, hiệu quả chưa cao, vẫn chủ yếu là các thiết chế kiểm tra, giám sát nội bộ nên chưa bảo đảm tính khách quan. Thực tiễn 42 năm thực hiện công tác kiểm sát chung của VKSND đã chứng minh, với vị trí là cơ quan độc lập, có bộ máy từ trung ương đến địa phương, do Quốc hội lập ra, hoạt động chuyên trách nên đã thu được những kết quả quan trọng, phát hiện và xử lý theo pháp luật các vi phạm và tội phạm, đấu tranh khôi phục trật tự pháp luật. Tuy nhiên về phạm vi thực hiện chức năng kiểm sát chung cũng có 3 ý kiến: Thứ nhất, đề nghị giao Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát chung đối với tất cả các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội như Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (506/13.113 ý kiến); Thứ hai, chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính để không chồng chéo với các thiết chế giám sát khác được bổ sung thời gian qua (251/13.113 ý kiến); Thứ ba, chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (133/113 ý kiến ở cơ quan). Thứ tư, đề nghị khôi phục chức năng kiểm sát chung để Viện kiểm sát thực hiện và chỉ thực hiện kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính, tuy nhiên, ngoài các chức năng này, các luật hiện hành còn giao Viện kiểm sát thực hiện một số nhiệm vụ khác như thống kê tội phạm, làm đầu mối tương trợ tư pháp về hình sự, tham gia xem xét dẫn độ tội phạm và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, do vậy đề nghị quy định khái quát chức năng của VKSND như sau “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện một số nhiệm vụ khác do luật định” (9.877/13.113 ý kiến).
Loại ý kiến hai: bên cạnh hai chức năng như dự thảo, bổ sung và thực hiện hoạt động điều tra một số tội phạm do luật định để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đang được giao đảm nhiệm (231/13.113 ý kiến).
Loại ý kiến ba: nhất trí giữ hai chức năng như Dự thảo (115/13.113 ý kiến)
+ Khoản 2: Sửa lại quy định về hệ thống VKSND như sau: “VKSND gồm VKSND tối cao, VKSND các cấp, VKS quân sự các cấp và các Viện kiểm sát chuyên ngành do luật định” vì quy định như Dự thảo quá khái quát (3.040/13.113 ý kiến); Bỏ cụm từ “Viện kiểm sát khác” thay bằng “Viện kiểm sát địa phương và hệ thống Viện kiểm sát quân sự” (2.357/13.113 ý kiến); Bổ sung quy định thành lập Viện kiểm sát đặc biệt để thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại Tòa án đặc biệt cho phù hợp với quy định về Tòa án đặc biệt (3.117/13.113 ý kiến).
+ Khoản 3: Bổ sung “Các quyết định, yêu cầu của VKSND phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành” để bảo đảm hiệu lực của VKSND trong thực thi chức năng, nhiệm vụ (12.276/13.113 ý kiến); Bổ sung nhiệm vụ của VKSND trong việc bảo vệ pháp chế XHCN (1.117/13.113 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 112:
+ Bổ sung một khoản quy định “Trong hoạt động của mình, VKSND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm mọi hành động can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của VKSND” nhằm bảo đảm VKSND độc lập trong thực hiện chức năng nhiệm vụ, không bị can thiệp từ bên ngoài (12.211/13.113 ý kiến)
+ Bổ sung một khoản mới “Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu. Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của VKSND phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện kiểm sát cấp trên về việc ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu đó” (631/13.113 ý kiến).
Điều 113 (Có 13.113 ý kiến, trong đó có 834 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.279 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 113 (0/13.113 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 113 (0/13.113 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: Bổ sung “Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội” nhằm tạo điều kiện để Viện trưởng VKSND tối cao tham gia đầy đủ các sinh hoạt của Quốc hội, nắm bắt đầy đủ yêu cầu của Quốc hội để thực hiện tốt nhiệm vụ Quốc hội giao (13.113/13.113 ý kiến)
+ Khoản 2: Giữ như Điều 140 Hiến pháp năm 1992 để tránh hiểu là Viện kiểm sát quân sự cũng phải báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân (2.316/13.113 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới: bổ sung một khoản quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp, chức vụ thuộc VKSND do luật định (3.112/13.113 ý kiến)
Điều 114 (Có 13.113 ý kiến, trong đó có 834 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 12.279 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 114 (98/13.113 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/13.113 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: Quy định rõ tên nguyên tắc là tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước địa phương nào; quy định rõ Viện trưởng Viện kiểm sát từng cấp chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát cấp mình và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao nhằm khẳng định rõ yêu cầu bảo đảm sự độc lập của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ (9.095/13.113 ý kiến); Bỏ dấu “;” và sửa lại như sau “VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao” (2.218/13.113 ý kiến).
+ Khoản 2: Bổ sung “nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện trưởng và kiểm sát viên” nhằm đáp ứng yều cầu bảo đảm sự độc lập của Viện kiểm sát, Viện trưởng, Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ (5.411/13.113 ý kiến); Ngoài chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, bổ sung quy định Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng vì quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, có một số tình huống phát sinh ngoài chỉ đạo của Viện trưởng, không thể kịp thời xin ý kiến chỉ đạo được thì Kiểm sát viên tự quyết định nhưng phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về quyết định của mình (2.303/13.113 ý kiến); Thay cụm từ “thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” bằng cụm từ “thực hiện chức năng, nhiệm vụ” và thể hiện lại như sau: “Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND” (1.210/13.113 ý kiến); Quy định rõ Kiểm sát viên chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp thay vì quy định chung như Dự thảo là chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND (988/13.113 ý kiến); Không nên quy định sự độc lập của Kiểm sát viên mà khẳng định sự độc lập của Viện kiểm sát (525/13.113 ý kiến); Bổ sung một số từ ngữ và sửa lại khoản 2 như sau: “Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật nhưng chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND” (876/13.113 ý kiến); Bổ sung quy định “Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện những nhiệm vụ khác do luật định, Kiểm sát viên độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có các quyền theo luật định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình” (1.003/13.113 ý kiến).
+ Khoản 3: Ngoài bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Kiểm sát viên, đề nghị bổ sung chức danh Điều tra viên vì trong cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát có Cơ quan điều tra, Điều tra viên (1.287/13.113 ý kiến); Không quy định nhiệm kỳ của Kiểm sát viên vì đây là chức danh nghề nghiệp, không phải chức vụ, nếu Kiểm sát viên không đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn do luật định thì thực hiện việc miễn nhiệm (7.689/13.113 ý kiến; Quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm kiểm sát viên các cấp thuộc thẩm quyền của Viện trưởng VKSND tối cao vì có điều kiện theo dõi cán bộ nên bổ nhiệm chính xác và giảm bớt thủ tục, thời gian (3.020/13.113 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới:
+ Đề nghị giữ quy định về Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp hiện hành vì có vai trò bảo đảm sự kết hợp giữa nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong Ngành với nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND hơn 50 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn, hiệu quả, cần thiết của thiết chế này (13.113/13.113 ý kiến)
+ Đề nghị bổ sung một khoản quy định về cơ cấu cán bộ của VKSND như sau: VKSND gồm Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên và các ngạch công chức khác do luật định (10.128/13.113 ý kiến).
CHƯƠNG IX
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 408 ý kiến góp ý về Chương IX (trong đó có 384 ý kiến ở cơ quan, 22 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 115(323/408 ý kiến); Điều 116 (387/408 ý kiến);
- Tán thành với tên Chương, nội dung Chương: 255 (255/408 ý kiến)
- Không tán thành tên Chương, đề nghị đổi tên Chương: giữ tên chương như Hiến pháp hiện hành vì ngoài HĐND và UBND thì các cơ quan khác như TAND, VKSND cũng là các cơ quan thuộc chính quyền địa phương (10/408 ý kiến)
- Về nội dung, bố cục của Chương:
+ Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương: (0/408 ý kiến)
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 115 (Có 323 ý kiến, trong đó có 297 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 26 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 115 (12.183/323 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 115 (12/323 ý kiến) vì thực tiễn thực hiện đã chứng minh mô hình hiện nay là phù hợp.
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: Thay từ “Nước” bằng cụm từ “Lãnh thổ quốc gia” (21/323 ý kiến); Bổ sung vào đoạn cuối khoản này quy định “Trường hợp cần thiết, Quốc hội có thể quyết định thành lập các đơn vị hành chính đặc biệt” vì hiện nay Chính phủ đang chỉ đạo nghiên cứu xây dựng đề án thành lập khu hành chính – kinh tế Phú Quốc (91/323 ý kiến)
+ Khoản 2: Giữ như Điều 118 Hiến pháp hiện hành (117/323 ý kiến); Đổi tên “Ủy ban nhân dân” thành “Ủy ban hành chính” (28/323 ý kiến); Không nên quy định Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân (34/323 ý kiến); Bỏ khoản này vì không thể vì lý do kinh tế, tài chính hay quy mô địa giới hành chính mà không thành lập HĐND và UBND (87/323 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 115 (0/323 ý kiến)
Điều 116 (Có 387 ý kiến, trong đó có 301 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 86 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 116 (217/387 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 116 (0/387 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: Không quy định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương để bảo đảm tính thống nhất của quyền lực (14/387 ý kiến); Quy định HĐND là cơ quan hành pháp, chịu sự chỉ đạo của Chính phủ vì tính chất hoạt động của HĐND về bản chất là thực hiện quyền hành pháp (5/387 ý kiến); Bổ sung “HĐND chịu sự giám sát của nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” vì HĐND là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước do vậy cần phải chịu sự giám sát (95/387 ý kiến).
+ Khoản 2: Đưa cụm từ “là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương” lên trước cụm từ “cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân” nhằm nhấn mạnh chức năng hành chính nhà nước đối với UBND (140/387 ý kiến); Đổi tên UBND thành Ủy ban hành chính vì tính chất hoạt động của UBND mang đậm nét hoạt động hành chính (78/387 ý kiến); Đổi tên Chủ tịch thành Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Quận trưởng, Huyện trưởng, Xã trưởng nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu (62/387 ý kiến); Nhất thể hóa Bí thư Đảng bộ là Chủ tịch UBND (108/387 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (11/387 ý kiến).
+ Bổ sung thêm một khoản và quy định như sau: “Đối với một số đô thị lớn, Quốc hội quyết định mô hình chính quyền đô thị, không theo quy định tại khoản 1, 2 điều này” để phù hợp với việc nghiên cứu mô hình chính quyền đô thị hiện nay (101/387 ý kiến).
Điều 117 (Có 286 ý kiến, trong đó có 251 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 35 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 117 (106/286 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 117 (0/286 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Đoạn 1: Bổ sung nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân “giám sát việc giải quyết của các cơ quan, tổ chức về những yêu cầu, kiến nghị của cử tri” vì trên thực tế Hội đồng nhân dân vẫn đang thực hiện nhiệm vụ này (164/286 ý kiến)
+ Đoạn 2: Sửa lại “Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định” để bảo tính khái quát, súc tích của Hiến pháp (111/286 ý kiến); Bổ sung các trường hợp bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân để bảo đảm tính cụ thể, chặt chẽ (80/286 ý kiến); Bổ sung quy định nếu người bị chất vấn trả lời bằng văn bản thì phải trả lời trong thời hạn luật định (92/286 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/286 ý kiến)
Điều 119 (Có 243 ý kiến, trong đó có 230 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 13 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 119 (129/243 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 119: Đề nghị giữ như Hiến pháp hiện hành, không cần thiết sửa đổi, bổ sung quy định này (114/243 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi điều, khoản (0/243 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/243 ý kiến)
CHƯƠNG X
HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP, HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA,
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 1086 ý kiến góp ý về Chương X (trong đó có 1026 ý kiến của cơ quan, 60 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 120 (201/1086 ý kiến); Điều 122 (892/1086 ý kiến).
- Tán thành với tên Chương, nội dung Chương (173/1086 ý kiến)
- Không tán thành tên Chương, đề nghị đổi tên Chương: đổi tên Hội đồng Hiến pháp thành Hội đồng bảo hiến (10/1086 ý kiến)
- Về nội dung, bố cục của Chương:
+ Đề nghị tách riêng Hội đồng Hiến pháp để quy định thành một chương riêng nhằm đề cao tầm quan trọng của thiết chế này (12/1086 ý kiến); Tách Kiểm toán Nhà nước thành chương riêng (4/1086 ý kiến); Các thiết chế này đều do Quốc hội lập ra do vậy đề nghị quy định chung vào Chương V – Quốc hội vì đây là cơ quan thuộc Quốc hội (10/1086 ý kiến);
+ Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương: Ủy ban Nhà nước về phòng, chống tham nhũng hoặc cơ quan điều tra độc lập án tham nhũng (187/1086 ý kiến)
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 120 (Có 201 ý kiến, trong đó có 182 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 19 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 120: (16/201 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 120: Không nên thành lập Hội đồng Hiến pháp vì không phù hợp với tổ chức quyền lực ở nhà nước ta (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến), nhất là nếu Hội đồng Hiến pháp chỉ thực hiện quyền kiến nghị như Dự thảo thì càng không cần thiết vì các thiết chế hiện nay cũng đang thực hiện quyền kiến nghị, mặt khác còn trùng lắp với chức năng của các Ủy ban của Quốc hội. (130/201 ý kiến).
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 1: Khẳng định rõ vị trí của Hội đồng Hiến pháp để tránh hiểu nhầm là có vị trí giống như các Ủy ban của Quốc hội (19/201 ý kiến).
+ Khoản 2: Nếu thành lập thiết chế Hội đồng Hiến pháp thì đề nghị giao cho thiết chế này thẩm quyền đủ mạnh để hoạt động hiệu quả, không nên dừng ở quyền kiến nghị, yêu cầu, đề nghị như Dự thảo, nghiên cứu giao cho cơ quan này thẩm quyền hủy bỏ các văn bản trái Hiến pháp. Đồng thời, đề nghị mở rộng phạm vi hoạt động của Hội đồng Hiến pháp có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được hiến định bị vi phạm (136/201 ý kiến); Giao Hội đồng Hiến pháp thẩm quyền tạm đình chỉ văn bản pháp luật (20/201 ý kiến); Giao Hội đồng Hiến pháp thẩm quyền kháng nghị (13/201 ý kiến); Chỉ quy định Hội đồng Hiến pháp kiến nghị đối với các văn bản của Quốc hội vi hiến, còn văn bản của các cơ quan khác vi hiến thì có thẩm quyền hủy bỏ (32/201 ý kiến); Bổ sung cơ chế bảo đảm thực hiện thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp (19/201 ý kiến); Cân nhắc thành lập Hội đồng Hiến pháp vì trùng lắp với nhiệm vụ của UBTVQH khoản 4 Điều 79 (16/201 ý kiến); Bổ sung thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật trước khi Quốc hội thông qua (21/201 ý kiến); Thành lập Tòa án Hiến pháp giao thẩm quyền phán quyết hành vi vi phạm Hiến pháp thay vì thành lập Hội đồng Hiến pháp chỉ có thẩm quyền kiến nghị, yêu cầu như Dự thảo (39/201 ý kiến); Bổ sung cho Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến trong hành vi của các chủ thể để bảo đảm tính toàn diện (17/201 ý kiến).
+ Khoản 3: Bỏ cụm từ “cụ thể” vì tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn chung hay cụ thể của Hội đồng Hiến pháp do luật quy định (11/201 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/201 ý kiến)
Điều 121 (Có 198 ý kiến, trong đó có 191 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 7 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều. (60/198 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 121: Không nên thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia, gây cồng kềnh, tốn kém trong tổ chức bộ máy nhà nước (120/198 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Điều 121 còn quá sơ sài, để nghị bổ sung cho cụ thể hơn (17/120 ý kiến).
+ Khoản 3: đề nghị bỏ cụm từ “cụ thể” vì tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn chung hay cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật quy định (11/120 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/120 ý kiến)
Điều 122 (Có 892 ý kiến, trong đó có 13.113 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 58 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều (11/892 ý kiến)
- Không tán thành với Điều (0/892 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Khoản 2: Quy định Tổng Kiểm toán Nhà nước là người do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội (835/892 ý kiến); Đề nghị quy định rõ nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội thay vì do luật định như Dự thảo vì đây là chức danh do Quốc hội bầu nên phải theo nhiệm kỳ của Quốc hội (43/892 ý kiến); Quy định nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán nhà nước nước dài hơn nhiệm kỳ của Quốc hội (78/892 ý kiến); Quy định rõ nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán (110/892 ý kiến).
+ Khoản 3: Bỏ cụm từ “cụ thể” vì tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn chung hay cụ thể của Kiểm toán nhà nước sẽ do luật quy định (11/892 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều 122:
+ Bổ sung một khoản quy định về kiểm toán viên vì đây là nhân vật trung tâm, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán (92/892 ý kiến)
CHƯƠNG XI
HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Phần thứ nhất: Tổng quan, đánh giá chung
- Tổng số có 334 ý kiến góp ý về Chương XI (trong đó có 312 ý kiến ở cơ quan, 22 ý kiến của cá nhân)
- Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 123 (189/334 ý kiến); Điều 124 (146/334 ý kiến)
- Tán thành với tên Chương, nội dung Chương (299/334 ý kiến)
- Không tán thành tên Chương, đề nghị đổi tên Chương (0 /334 ý kiến)
- Về nội dung, bố cục của Chương:
+ Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Chương (0/334 ý kiến)
Phần thứ hai: Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 123 (Có 189 ý kiến, trong đó có 173 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 15 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 123 ( 179/189 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 123(0/189 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Đoạn 1: Bỏ cụm từ “là luật cơ bản của Nhà nước” (10/189 ý kiến)
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/189 ý kiến)
Điều 124 (Có 146 ý kiến, trong đó có 141 ý kiến ở cơ quan, tổ chức, 5 ý kiến của cá nhân)
- Tán thành với Điều 124 (88/146 ý kiến)
- Không tán thành với Điều 128 (0/146 ý kiến)
- Đề nghị sửa đổi:
+ Thay cụm từ “làm Hiến pháp” bằng cụm từ “xây dựng Hiến pháp” để đúng văn phong pháp lý (18/146 ý kiến)
+ Khoản 1: Không nên giao Chính phủ quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp (10/146 ý kiến); Bổ sung “… Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp sau khi đã tổ chức lấy ý kiến nhân dân và khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biếu quyết tán thành” để bảo đảm quyền của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp (31/146 ý kiến).
+ Khoản 4: Nâng tỷ lệ biểu quyết tán thành Hiến pháp vì đây là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản của Nhà nước nên cần tạo được sự nhất trí cao (32/146 ý kiến); Áp dụng chế định trưng cầu ý dân, quyền phúc quyết của nhân dân đối với bản Dự thảo Hiến pháp vì hiện nay trình độ dân trí đã nâng cao, điều kiện kinh tế xã hội đã chín muồi để giao cho nhân dân thực hiện quyền quan trọng này (54/146 ý kiến).
- Đề nghị bổ sung nội dung mới vào Điều (0/146 ý kiến).
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VIỆC TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Trên cơ sở kết quả tập hợp, tổng hợp ý kiến góp ý của toàn ngành Kiểm sát nhân dân (834 đơn vị, Viện kiểm sát các cấp và 12.279 cá nhân), Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề xuất việc chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cụ thể như sau:
1. Chương 1: Chế độ chính trị
1.1. Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4)
Toàn ngành Kiểm sát nhân dân nhất trí phải khẳng định và làm rõ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp và tán thành các nội dung bổ sung, phát triển tại Điều 4 Dự thảo. Tuy nhiên, để thể hiện rõ nền tảng tư tưởng định hướng cho hoạt động của Đảng và phù hợp với nội dung được chỉ ra trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), đề nghị bổ sung cụm từ “kim chỉ nam cho hành động” vào đoạn cuối khoản 1 và thể hiện như sau: “… lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
1.2. Về hoàn thiện bộ máy nhà nước để phục vụ nhân dân (Điều 8)
Nhất trí với nội dung sửa đổi, bổ sung Hiến pháp theo hướng tiếp tục khẳng định Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc bổ sung quy định tại khoản 2 “Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân” là chưa đầy đủ. Đề nghị quy định theo hướng “Nhà nước và bộ máy nhà nước được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân”.
2. Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
2.1. Về một số vấn đề chung của Chương II
- Những nội dung sửa đổi, bổ sung trong chương này cơ bản đã làm rõ nội dung quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân… Các điều luật được thiết kế theo hướng ghi nhận các quyền của con người, quyền công dân, đồng thời xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ, bảo hộ quyền hoặc tạo điều kiện để công dân thực hiện các quyền hiến định này. Tuy nhiên, cũng còn một số điều luật mới chỉ dừng ở việc ghi nhận các quyền con người, quyền công dân mà chưa xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền này như: quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 17); quyền sống (Điều 21); quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 24); quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội (Điều 26); quyền bầu cử, ứng cử (Điều 28); quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 30); quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe (Điều 41); quyền học tập (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong trong lành (Điều 46) và một số quyền khác. Đề nghị rà soát để bổ sung, hoàn thiện nhằm thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân được thực hiện tốt.
- Điều 20 tiếp tục khẳng định nguyên tắc đã được ghi nhận trong các Hiến pháp trước đây: Quyền và nghĩa vụ của công dân chỉ do Hiến pháp và luật quy định. Tuy nhiên, một số quy định trong Dự thảo chưa bảo đảm sự thống nhất với nguyên tắc này, quy định một số quyền do pháp luật quy định (bao gồm cả văn bản dưới luật) như: quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 24); quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội (Điều 26); quyền được bồi thường thiệt hại (Điều 31). Đề nghị rà soát, chỉnh lý để bảo đảm tính thống nhất với nguyên tắc được xác định tại Điều 20 Dự thảo.
- Một số quyền quan trọng và nghĩa vụ của công dân đã được Dự thảo Hiến pháp ghi nhận nhưng chưa quy định chặt chẽ, dễ dẫn đến lạm dụng hoặc nhận thức khác nhau trong thực tiễn như: Mọi người có quyền tự do kinh doanh (Điều 34); Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế (Điều 50)... Để bảo đảm tính chặt chẽ, chính xác, đề nghị bổ sung cụm từ “theo luật” và sửa thành: Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo luật; Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật.
2.2. Về quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (Điều 22)
Nhất trí với khoản 3 Dự thảo về việc bổ sung quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác, thể hiện tính nhân văn, trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng. Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ, đề nghị bổ sung cụm từ “của mình” và diễn đạt lại như sau: “3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của mình theo quy định của luật”.
2.3. Về quyền được bảo vệ các thông tin và bí mật cá nhân, gia đình (Điều 23)
Vấn đề bảo vệ các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của con người là cần thiết. Tuy nhiên, quy định tại khoản 1 về việc cấm các hành vi thu thập, lưu giữ những thông tin này khi chưa được người đó đồng ý là không phù hợp và không bảo đảm tính khả thi. Trên thực tế, có trường hợp thu thập, lưu giữ thông tin của một người chỉ vì lý do hâm mộ người đó (Ví dụ: thu thập các thông tin liên quan đến ca sĩ, ngôi sao điện ảnh v.v…). Do đó, đề nghị chỉ quy định cấm đối với hành vi sử dụng, phổ biến các thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác nếu không được sự đồng ý của người đó.
2.4. Về vấn đề trưng cầu ý dân (Điều 30)
Trưng cầu ý dân là phương thức quan trọng để nhân dân thể hiện chính kiến của mình đối với những vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tách quyền biểu quyết của công dân khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân khỏi Điều 53 để quy định thành một quyền độc lập và dành riêng Điều 30 quy định về quyền này, qua đó khẳng định rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền của công dân biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Để bảo đảm thực hiện quyền quan trọng này của công dân, đề nghị quy định rõ trong Hiến pháp giá trị, hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân. Những vấn đề cụ thể như: trường hợp, điều kiện Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân, trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu v.v… giao cho Luật trưng cầu ý dân quy định.
2.5. Về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ người khiếu nại, tố cáo (Điều 31)
Cơ bản nhất trí với Dự thảo về việc ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo của công dân; quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, để phát huy tinh thần trách nhiệm của công dân trong việc phát hiện những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ người khiếu nại, tố cáo tại Điều này.
2.6. Về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp (Điều 32)
Khoản 2 quy định “…Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” là chưa chính xác. Đề nghị sửa lại như sau: “… Không ai bị kết tội hai lần về cùng một hành vi phạm tội”.
3. Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
3.1. Về chế độ kinh tế (Điều 54)
Nghị quyết Trung ương II và Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI nêu rõ “Thể chế chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Nghiên cứu để thể hiện rõ vai trò của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế quốc dân vào Hiến pháp”. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi theo hướng quy định chung “Nền kinh tế tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”, không quy định cụ thể các thành phần kinh tế và xác định vai trò của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đối với nền kinh tế như yêu cầu của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Trung ương II và Kết luận Hội nghị lần thứ năm. Vì vậy, đề nghị thể chế hóa các các yêu cầu của Đảng về phát triển nền kinh tế vào Dự thảo Hiến pháp, một mặt, đáp ứng nhu cầu phát triển năng động của các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế trong thời gian tới, đồng thời thể hiện rõ tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
3.2. Về các chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (Điều 57)
Khoản 2 Dự thảo chỉ quy định hai chủ thể được Nhà nước giao đất, cho thuê đất gồm tổ chức và cá nhân là chưa đầy đủ. Đề nghị bổ sung chủ thể là hộ gia đình cho phù hợp với Luật đất đai hiện hành và thể hiện lại như sau: “2. Tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn…”.
4. Chương V: Quốc hội
4.1. Về một số vấn đề chung của Chương V
- Đề nghị xây dựng một điều riêng quy định về các cơ quan thuộc Quốc hội nhằm bảo đảm tính thống nhất trong cách quy định ở các chương về bộ máy nhà nước (Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân),
- Về kỹ thuật sắp xếp thứ tự các điều, đề nghị đưa điều quy định về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội (Điều 87) lên trước điều quy định về bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội (Điều 86).
4.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 75)
- Khoản 4 Dự thảo quy định Quốc hội quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Về vấn đề này Điều 3 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 đưa ra định nghĩa về chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, đồng thời phân định thẩm quyền quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia như sau: Chính sách tài chính tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định.
Phân định thẩm quyền của các cơ quan trong quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là phù hợp với vị trí, tính chất của từng cơ quan (Quốc hội, Chính phủ). Do đó, đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp theo hướng phân định hợp lý thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ trong vấn đề này. Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng nhất, có tính định hướng đối với chính sách tiền tệ quốc gia; những nội dung khác của chính sách tiền tệ quốc gia như công cụ và biện pháp thực hiện mục tiêu nên giao Chính phủ thực hiện nhằm bảo đảm sự điều hành linh hoạt của cơ quan hành pháp trong điều kiện phát triển cơ chế thị trường định hướng XHCN. Vấn đề này cũng đã được đề cập tại Báo cáo tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992.
- Khoản 7 Dự thảo bổ sung thẩm quyền của Quốc hội “phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”. Việc phê chuẩn này được thực hiện giống như với các chức danh Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên của Chính phủ. Đây là vấn đề mới trong thực tiễn hoạt động của Quốc hội cũng như thực tiễn tư pháp ở nước ta, cần nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng để bảo đảm tính khả thi. Theo quy định của Hiến pháp thì nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới, Quốc hội sẽ phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ mới. Trong khi đó, nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không theo nhiệm kỳ của Quốc hội, do vậy dễ dẫn đến khả năng kỳ họp nào của Quốc hội cũng sẽ làm thủ tục xem xét bổ nhiệm mới hoặc bổ nhiệm lại Thẩm phán. Mặt khác, chế độ hoạt động của Quốc hội là thông qua các kỳ họp (1 năm : 2 kỳ), do vậy, nếu thủ tục phê chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán (nhất là bổ nhiệm lại) tiến hành không kịp thời có khả năng ảnh hưởng đến công tác xét xử của các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Rà soát các quy định về thẩm quyền của Quốc hội ở các chương để quy định trong Điều này cho đầy đủ (Ví dụ: thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Tòa án đặc biệt, Điều 107).
5. Chương VI: Chủ tịch nước
Để phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 103 “Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước…”, đề nghị bổ sung vào khoản 6 Điều 93 thẩm quyền của Chủ tịch nước ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ đàm phán, ký kết các điều ước nhân danh Nhà nước.
6. Chương VII: Chính phủ
6.1. Về xác định vị trí, tính chất của Chính phủ (Điều 99)
Nhằm bảo đảm tính thống nhất trong cách quy định về các thiết chế (Quốc hội, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân) và phù hợp với Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, đề nghị diễn đạt lại đoạn 1 theo hướng Chính phủ là cơ quan gì, thực hiện quyền nào. Cụ thể, đề nghị sửa như sau: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp”.
6.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ (Điều 101)
Khoản 2 quy định Chính phủ tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước là chưa phù hợp với phạm vi điều hành của Chính phủ. Việc tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí là trách nhiệm của người đứng đầu từng hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước. Do đó, đề nghị sửa đổi phạm vi tổ chức và lãnh đạo của Chính phủ với công tác này chỉ trong lĩnh vực thực hiện quyền hành pháp.
6.3. Về việc mời tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều 106)
Nhằm thực hiện tốt nguyên tắc phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước và phù hợp với thực tiễn hiện nay, đề nghị bổ sung quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn về những vấn đề có liên quan.
7. Chương VIII: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
7.1. Về các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (Điều 108)
- Khoản 5: Tranh tụng là nguyên tắc tố tụng tiến bộ, được áp dụng ở các quốc gia có điều kiện kinh tế phát triển, có đội ngũ luật sư đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, đồng thời đã hình thành văn hóa, thói quen sử dụng sự trợ giúp pháp lý của luật sư trong các quan hệ pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng tư pháp nói riêng. Thực tiễn giải quyết các vụ án thời gian qua cho thấy, số lượng bị can, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn chiếm tỷ lệ lớn, số lượng các vụ án có sự tham gia của luật sư chỉ khoảng 10% (bao gồm cả các trường hợp luật sư do các cơ quan nhà nước mời). Để phù hợp với điều kiện thực tế nước ta, đề nghị chưa nên đưa “nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa được bảo đảm” điều chỉnh ở tầm Hiến pháp như quy định tại khoản 5. Thời gian tới, sửa đổi các luật tố tụng tư pháp (Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự…) sẽ nghiên cứu, tính toán để bổ sung các quy định hợp lý, đáp ứng yêu cầu tăng cường dân chủ, đẩy mạnh tranh tụng.
- Khoản 7: Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự là rất cần thiết, nhất là trong điều kiện đẩy mạnh tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, về kỹ thuật lập hiến, việc đặt nguyên tắc này trong Điều 108 (quy định về các nguyên tắc xét xử của Tòa án) là chưa phù hợp, dễ dẫn đến cách hiểu các quyền này chỉ được bảo đảm ở giai đoạn xét xử. Do vậy, đề nghị đưa lên Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tại Điều 32 quy định về bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp.
7.2. Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 112)
Quy định về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tại Điều 112 Dự thảo cơ bản là đầy đủ, tuy nhiên, đối chiếu với các chức năng, nhiệm vụ mà Viện kiểm sát đang được giao đảm nhiệm và trước những yêu cầu mới của Đảng về kỹ thuật lập hiến thì cũng cần được bổ sung cho phù hợp (Ý kiến của 12.767 đơn vị, cá nhân trong ngành Kiểm sát nhân dân).
Ngoài hai chức năng như Dự thảo quy định, pháp luật hiện hành[1] còn giao cho Viện kiểm sát thực hiện một số nhiệm vụ như: thống kê tội phạm; làm đầu mối tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Những nhiệm vụ này không thuộc chức năng thực hành quyền công tố, cũng không thuộc chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng do Viện kiểm sát là cơ quan tố tụng duy nhất được pháp luật quy định tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng, có điều kiện tốt nhất để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên nên Quốc hội quyết định giao cho Viện kiểm sát thực hiện. Trong hoạt động xem xét việc dẫn độ tội phạm, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, bên cạnh việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát còn có trách nhiệm phát biểu quan điểm về việc cho phép hay không cho phép dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Hoạt động thống kê tội phạm của Viện kiểm sát không phải là biện pháp để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp mà là thực hiện trách nhiệm Quốc hội giao tiến hành thống kê ở cấp quốc gia về tội phạm, giúp Quốc hội và các cơ quan nhà nước thấy rõ tình hình, diễn biến, nguyên nhân, điều kiện phạm tội để đề ra các biện pháp phòng ngừa phù hợp. Đặc biệt, một trong những yêu cầu mới đối với kỹ thuật lập hiến được Nghị quyết trung ương II và Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành trung ương khóa XI nhấn mạnh đó là “những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước cần được quy định rõ trong Hiến pháp; những vấn đề thuộc quy trình, thủ tục, cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước… do pháp luật quy định”. Do vậy, đề nghị bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát cho phù hợp.
Đồng thời, qua tổng kết thực tiễn 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, thảo luận lần đầu tại Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, trên cơ sở kết quả lấy ý kiến toàn ngành Kiểm sát nhân dân, ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho thấy, sau khi Viện kiểm sát thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung), một số lĩnh vực thực hiện quyền lực nhà nước chưa được kiểm tra, giám sát chặt chẽ bởi các thiết chế giám sát độc lập, chủ yếu vẫn chỉ là kiểm tra, thanh tra trong nội bộ, đang là một trong những nguyên nhân dẫn đến những vi phạm pháp luật nghiêm trọng thời gian qua, trong đó nổi lên hai lĩnh vực: xử lý vi phạm hành chính và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Các ý kiến nêu trên đề nghị phải bổ sung các thiết chế giám sát độc lập đối với các lĩnh vực này và khẳng định trong các thiết chế giám sát hiện nay ở Nhà nước ta, giao lại cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với hai lĩnh vực này là phù hợp và khả thi bởi lẽ Viện kiểm sát nhân dân là hệ thống cơ quan độc lập, tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, duy nhất chỉ trực thuộc Quốc hội, không lệ thuộc chính quyền địa phương. Đồng thời, Viện kiểm sát có bộ máy được tổ chức từ trung ương đến cơ sở, với đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên trên 15 nghìn người được đào tạo cử nhân luật và nghiệp vụ kiểm sát nên có điều kiện thuận lợi hơn bất cứ cơ quan nào trong việc thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm pháp chế thống nhất. Thực tiễn 42 năm thực hiện công tác kiểm sát chung, Viện kiểm sát đã phát hiện và kiến nghị hàng nghìn văn bản quy phạm và các trường hợp xử lý vi phạm hành chính có vi phạm pháp luật, góp phần củng cố pháp chế trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Trên cơ sở đó, các ý kiến đề nghị bổ sung Điều 112 Dự thảo như sau: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố; kiểm sát hoạt động tư pháp, hoạt động xử lý vi phạm hành chính, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện những nhiệm vụ khác do luật định”.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy, mọi lĩnh vực thực hiện quyền lực nhà nước đều phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đặc biệt phải thiết lập cho được các cơ chế giám sát độc lập, hoạt động khách quan, hiệu quả. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện yêu cầu của Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội XI. Thời gian qua, Quốc hội đã thành lập một số thiết chế giám sát độc lập để thực hiện kiểm soát với một số lĩnh vực. Tuy nhiên, lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh vẫn chỉ được giám sát bởi hình thức tự kiểm tra bên trong hệ thống. Đây là hai lĩnh vực quan trọng, có phạm vi tác động rộng, liên quan chặt chẽ đến yêu cầu bảo đảm pháp chế, trật tự công cộng, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu không được kiểm tra, giám sát chặt chẽ sẽ tiềm ẩn nguy cơ vi phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự pháp luật, nảy sinh hiện tượng hành chính hóa các quan hệ pháp luật hình sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Sửa đổi Hiến pháp lần này phải khắc phục cho được những lỗ hổng trong các cơ chế kiểm tra, giám sát hiện nay ở Nhà nước ta. Trường hợp Quốc hội quyết định giao Viện kiểm sát tiếp tục đảm nhận chức năng này thì hoàn toàn có cơ sở và có nhiều điều thuận lợi để thực hiện tốt chức năng được giao bởi Viện kiểm sát sẵn có bộ máy, con người và kinh nghiệm kiểm sát mấy chục năm qua.
Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ Viện kiểm sát đang được giao đảm nhiệm, bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội ban hành, đáp ứng các yêu cầu mới về kỹ thuật lập hiến và đòi hỏi từ thực tiễn 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 112 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp như sau: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hiện những nhiệm vụ khác do luật định”. Phạm vi những nhiệm vụ cụ thể và việc giao Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát tuân theo pháp luật đối với lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh sẽ được quy định chi tiết trong các đạo luật của Quốc hội. (Đây cũng là ý kiến đề nghị của 12.767 đơn vị, cá nhân trong ngành Kiểm sát nhân dân, ý kiến của các Đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XIII thảo luận lần đầu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, của đại biểu Hội đồng nhân dân, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn tại các cuộc Hội thảo trong nước và quốc tế về Hiến pháp).
7.3. Về hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107 và Điều 112)
Dự thảo Hiến pháp quy định Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định; Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định. Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy, việc sửa đổi các quy định về hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân một mặt phải đáp ứng yêu cầu thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị, đồng thời, không làm vướng trong việc cụ thể hóa của các Luật sau này. Trên cơ sở đó, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức của Tòa án nhân dân theo hướng: Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân các cấp, Tòa án quân sự các cấp và các Tòa án chuyên ngành do luật định. Tương ứng với đó, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng: Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Viện kiểm sát quân sự các cấp và các Viện kiểm sát chuyên ngành do luật định. Quy định cụ thể về từng cấp tòa án và từng cấp kiểm sát sẽ do Luật điều chỉnh nhằm bảo đảm tính ổn định của Hiến pháp, đồng thời tạo sự linh hoạt, đáp ứng yêu cầu đổi mới Tòa án, Viện kiểm sát trong từng giai đoạn.
7.4. Về việc bầu chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước (Điều 110, 113, 122)
Đề nghị khẳng định rõ trong Hiến pháp “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội”. Khác với các Nhà nước tổ chức theo cơ cấu tam quyền phân lập, quyền lực nhà nước ta là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Do vậy, những người đứng đầu các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và những cơ quan khác do Quốc hội thành lập phải được bầu trong số đại biểu Quốc hội mới phù hợp (tương tự như các chức danh Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đang được Hiến pháp điều chỉnh). Việc xác định người đứng đầu hệ thống các cơ quan Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước là thành viên của Quốc hội sẽ tạo điều kiện tốt nhất để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước được tham gia đầy đủ, toàn diện các hoạt động của Quốc hội, lĩnh hội yêu cầu từ Quốc hội để thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đó. Đồng thời, việc bổ sung quy định này cũng phù hợp với thực tiễn tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước ở nước ta, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước luôn luôn là đại biểu Quốc hội.
7.5. Về các nguyên tắc cơ bản liên quan đến tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và thiết chế Ủy ban kiểm sát (Điều 114)
- Khoản 1 và khoản 2: việc bổ sung, hoàn thiện các quy định liên quan đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cơ bản là phù hợp, đáp ứng yêu cầu tăng cường sự độc lập của Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành. Để hoàn thiện Dự thảo Hiến pháp, đề nghị quy định rõ tên của nguyên tắc tại khoản 1 là nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và bổ sung các quy định nhằm ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào hoạt động của Kiểm sát viên, tương tự như quy định đối với Thẩm phán và Hội thẩm tại khoản 2 Điều 108. Cụ thể, đề nghị bổ sung như sau:
“1. Viện kiểm sát nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp trái pháp luật vào việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên”.
- Ủy ban kiểm sát là thiết chế quan trọng thuộc cơ cấu của Viện kiểm sát nhân dân. Việc sửa đổi Hiến pháp vào năm 1992 đặt yêu cầu phải bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành với nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, trên cơ sở đó đã quy định thiết chế Ủy ban kiểm sát trong Hiến pháp và giao Ủy ban kiểm sát có thẩm quyền quyết định một số vấn đề quan trọng thay vì vai trò là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng như Hiến pháp năm 1959, 1980. Tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 cho thấy, quy định về Ủy ban kiểm sát là phù hợp, phát huy trí tuệ và trách nhiệm của Ủy ban kiểm sát, đồng thời không mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành. Dự thảo Hiến pháp sửa theo hướng bỏ quy định về Ủy ban kiểm sát, chỉ ghi nhận nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, vô hình chung đã tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Viện trưởng, đưa Ủy ban kiểm sát trở lại vị trí tư vấn cho Viện trưởng như Hiến pháp năm 1559, 1960. Điều này không phù hợp với tổng kết thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992. Vì vậy đề nghị giữ quy định về Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp hiện hành và quy định thành một khoản trong Điều 114 Dự thảo: “Việc thành lập Ủy ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Ủy ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định”
7.6. Về các chức danh tư pháp và thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh thuộc Viện kiểm sát nhân dân (Điều 114)
- Khoản 3 Điều 114: Theo quy định của pháp luật hiện hành, các chức danh tư pháp thuộc Viện kiểm sát nhân dân không chỉ có Kiểm sát viên mà còn gồm Điều tra viên. Quá trình cải cách tư pháp hiện nay đặt yêu cầu nghiên cứu mở rộng diện các chức danh tư pháp ở mỗi cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu phân công lao động hợp lý trong hoạt động tư pháp. Đối với những hoạt động tố tụng đơn giản như (lập biên bản tố tụng, ghi lời khai…) có thể giao cho Kiểm tra viên đảm nhiệm mà không nhất thiết phải do Kiểm sát viên tiến hành mới có giá trị pháp lý như hiện nay. Nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy, đều đặt ra nhiều chức danh tư pháp trong mỗi cơ quan tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án. Để phù hợp với pháp luật hiện hành và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đề nghị bổ sung khoản 3 Điều 114 như sau: “Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Kiểm sát viên, Điều tra viên và các chức danh tư pháp khác thuộc Viện kiểm sát nhân dân do luật định”.
- Về thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Hiến pháp hiện hành quy định thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh tư pháp và chức danh quản lý của Viện kiểm sát nhân dân. Dự thảo Hiến pháp sửa theo hướng không quy định thẩm quyền này của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với lý do để điều chỉnh trong Luật nhằm bảo đảm tương thích với phần về Tòa án nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy, Hiến pháp hiện hành chỉ quy định thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh tư pháp và chức danh quản lý mà không quy định thẩm quyền này của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là xuất phát từ sự khác nhau trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hai hệ thống cơ quan. Viện kiểm sát nhân dân chịu sự điều chỉnh của nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành. Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Xuất phát từ nguyên tắc đặc thù này, các bản Hiến pháp nước ta luôn quy định thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh tư pháp và chức danh quản lý thuộc Viện kiểm sát. Trong khi đó, Tòa án chịu sự điều chỉnh của nguyên tắc độc lập khi thực hiện chức năng xét xử (bao gồm: độc lập với bên ngoài và độc lập giữa các cấp Tòa án) nên Hiến pháp nước ta và các nước đều không quy định thẩm quyền này của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tham khảo Hiến pháp các nước, nhất là các nước duy trì mô hình Viện kiểm sát giống nước ta đều quy định thẩm quyền này của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 129 Hiến pháp Liên bang Nga, Điều 53 Hiến pháp Hungari, Điều 126 Hiến pháp Belarus, Điều 155 Hiến pháp Triều Tiên v.v…). Trên cơ sở đó, đề nghị tiếp tục quy định trong Hiến pháp thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh tư pháp và chức danh quản lý thuộc Viện kiểm sát nhân dân.
8. Chương X: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước
Việc bổ sung Chương X quy định về một số thiết chế hiến định độc lập (Hội đồng Hiến pháp, Kiểm toán nhà nước) là điểm tiến bộ trong lịch sử lập hiến nước ta, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, khắc phục những hạn chế, bất cập của công tác này hiện nay, đáp ứng sự mong mỏi của nhân dân, đề nghị hiến định thiết chế phòng, chống tham nhũng cấp quốc gia trong chương này (có thể đặt tên là Ủy ban quốc gia hay Ủy ban nhà nước về phòng, chống tham nhũng). Xác định rõ mối quan hệ của thiết chế này với Quốc hội là cơ quan do Quốc hội thành lập, có vị trí giống như Hội đồng Hiến pháp, Kiểm toán nhà nước; thực hiện trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, tổng hợp, báo cáo Quốc hội về tình hình phòng, chống tham nhũng trên phạm vi cả nước, kiến nghị với Quốc hội áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng và trong một số trường hợp đặc biệt có thể được Quốc hội giao điều tra những vụ án tham nhũng nhất định.
Đề nghị cân nhắc tính cần thiết của việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia, đánh giá tính hiệu quả của thiết chế này so với các thiết chế tổ chức bầu cử hiện nay nhằm bảo đảm tính khả thi, tránh tốn kém, cồng kềnh bộ máy nhà nước.
Trên đây là Báo cáo tổng hợp ý kiến của ngành Kiểm sát nhân dân tham gia góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và những đề xuất cụ thể đối với việc hoàn thiện, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trân trọng kính gửi Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Nơi nhận: - Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương; - Các Đ/c lãnh đạo VKSNDTC; - Lưu: VT, VKH. | VIỆN TRƯỞNG Nguyễn Hòa Bình |
[1] Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tương trợ tư pháp năm 2008
Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước tổng hợp ý kiến công chức, viên chức, người lao động về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 29/05/2013
Số hiệu:363/BC-KTNN
Mô tả:
Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 24/11/2012 của Quốc hội và Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Kiểm toán Nhà nước báo cáo kết quả tổng hợp ý kiến công chức, viên chức, người lao động về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
bcao_tongkiemtoan.doc
Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 24/11/2012 của Quốc hội và Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Kiểm toán Nhà nước báo cáo kết quả tổng hợp ý kiến công chức, viên chức, người lao động về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau:
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VIỆC LẤY Ý KIẾN
1. Công tác triển khai, quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
- Để triển khai lấy ý kiến công chức, viên chức, người lao động về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đạt kết quả tốt, Đảng ủy Kiểm toán Nhà nước đã chỉ đạo các Đảng bộ, Chi bộ trực thuộc quán triệt tới toàn thể đảng viên Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị; chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với Công đoàn, Đoàn thanh niên tổ chức lấy ý kiến công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị mình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đảm bảo tiến độ, chất lượng.
- Ngày 15/01/2013 Kiểm toán Nhà nước ban hành Kế hoạch số 53/KH-KTNN lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Kế hoạch xác định rõ: Việc tham gia đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là sự kiện trọng đại đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, xác định địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước và Tổng Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp; các đơn vị cần xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng của toàn ngành trong năm 2013, chủ động triển khai lấy ý kiến công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đảm bảo chất lượng, hiệu quả; đề nghị Công đoàn, Đoàn thanh niên Kiểm toán Nhà nước tuyên truyền, vận động thành viên tổ chức mình tích cực nghiên cứu, góp ý về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
- Triển khai Kế hoạch trên, Ngày 22/01/2013 Kiểm toán Nhà nước tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn ngành để phổ biến những nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và quán triệt các văn bản liên quan đến việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp như: Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị, nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Xây dựng dự toán kinh phí bảo đảm việc lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Kiểm toán Nhà nước theo hướng dẫn tại Công văn số 512/BTC-HCSN ngày 05/01/2013 của Bộ Tài chính về việc xây dựng dự toán sử dụng và thanh quyết toán kinh phí lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Ngày 23/01/2013 Kiểm toán Nhà nước có văn bản số 89/TB-KTNN chỉ đạo các đơn vị trong ngành khẩn trương tổ chức Hội nghị lấy ý kiến công chức, viên chức, người lao động của đơn vị mình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong đó yêu cầu:
+ Thủ trưởng đơn vị chủ trì Hội nghị, trường hợp vì lý do khách quan phải ủy quyền cho cấp phó chủ trì thì báo cáo và được sự đồng ý của lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước phụ trách trước khi thực hiện;
+ Cung cấp tài liệu và quán triệt đầy đủ Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 38/2012/QH13 của Quốc hội và Kế hoạch số 53/KH-KTNN ngày 15/01/2013 của Kiểm toán Nhà nước tới từng công chức, viên chức, người lao động để việc tham gia ý kiến bảo đảm chất lượng, hiệu quả; cử công chức có năng lực chuyên môn, trình độ pháp luật làm thứ ký, tổng hợp ý kiến gửi về Vụ Pháp chế đảm bảo đúng tiến độ.
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến Dự thảo
Nhằm đảm bảo việc lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được chất lượng, Kiểm toán Nhà nước đã chủ động tuyên truyền nội dung Dự thảo và các tài liệu có liên quan bằng các hình thức sau:
- Tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn ngành để phổ biến nội dung cơ bản của Dự thảo và các tài liệu liên quan (02 hội nghị).
- Gửi tài liệu đến từng công chức, viên chức, người lao động;
- Tổ chức Hội nghị phổ biến nội dung Dự thảo và lấy ý kiến công chức tại tất cả các đơn vị trong ngành.
- Báo Kiểm toán, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán và trang thông tin điện tử của Kiểm toán Nhà nước có nhiều tin, bài tuyên truyền Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và tình hình lấy kiến về Dự thảo.
3. Các hình thức tổ chức lấy ý kiến
Việc lấy ý kiến công chức, viên chức, người lao động của Kiểm toán Nhà nước về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thực hiện qua các hình thức sau:
- Phát tài liệu để công chức nghiên cứu, tham gia ý kiến trực tiếp;
- Các đơn vị tổ chức Hội nghị lấy ý kiến công chức, viên chức, người lao động, tổng hợp ý kiến của đơn vị gửi Vụ pháp chế tổng hợp báo cáo chung của Kiểm toán Nhà nước;
- Tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn ngành để thảo luận, tham gia ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
4. Đánh giá tình hình tham gia ý kiến của công chức, viên chức, người lao động
- Công chức, viên chức, người lao động của Kiểm toán Nhà nước đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong nghiên cứu, tham gia ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Các ý kiến tham gia góp ý vào toàn bộ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và tập trung nhiều về các nội dung liên quan đến Kiểm toán Nhà nước, Tổng Kiểm toán Nhà nước. Các ý kiến đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao theo đúng các yêu cầu và quan điểm về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
5. Số liệu cụ thể về ý kiến tham gia vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
- Số đơn vị trực thuộc gửi báo cáo: 31/31 đơn vị.
- Số hội nghị, hội thảo, tọa đàm: 32 hội nghị (trong đó có 02 hội nghị trực tuyến toàn ngành).
- Số ý kiến tham gia Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992: 657 ý kiến.
II. NHỮNG Ý KIẾN CHUNG VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
1. Phạm vi, mức độ sửa đổi, bổ sung
- Việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là cần thiết để hệ thống pháp luật của nhà nước ta bảo đảm tính thống nhất và chặt chẽ, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và xu thế phát triển trên thế giới. Dự thảo đã đáp ứng yêu cầu của đất nước trong sự nghiệp đẩy mạnh Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa, bảo vệ chủ quyền quốc gia và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
- Dự thảo đã bám sát những quan điểm, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước; khẳng định và ghi nhận các nguyên tắc cơ bản, nền tảng về chủ quyền nhân dân gắn với tính thượng tôn của Hiến pháp, về tổ chức quyền lực Nhà nước, về tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tiếp cận các giá trị chung của nhân loại về Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, vừa thể hiện tính kế thừa với sự điều chỉnh hợp lý những giá trị phản ánh đặc thù chính trị - pháp lý của Hiến pháp thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
- Dự thảo quy định rõ ràng và đầy đủ hơn các vấn đề cơ bản về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn bản chất vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Dự thảo, bổ sung mới các thiết chế độc lập như Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Tên gọi, bố cục
Về tên của Dự thảo: Đề nghị đặt tên Hiến pháp là “Hiến pháp năm 2013”, do Dự thảo sửa đổi, bổ sung rất nhiều nội dung so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 99 điều, bỏ 04 điều, bổ sung mới 11 điều). Trong đó có những cơ quan mới, thiết chế độc lập lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp như: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, nên có thể coi đây là bản Hiến pháp mới.
Về bố cục: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được sắp xếp khoa học, hợp lý. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị đổi vị trí Chương X “Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước” và Chương IX “Chính quyền địa phương” vì đây là các thiết chế Hiến định độc lập ở cấp trung ương.
3. Về kỹ thuật lập hiến
Dự thảo có sự đầu tư kỹ càng, công phu, có nội dung ngắn gọn và súc tích hơn so với Hiến pháp năm 1992. Cấu trúc mới của Hiến pháp thể hiện tính chặt chẽ với sự điều chỉnh, kết hợp một số chương của Hiến pháp 1992 thành các chương mới phù hợp hơn với các nội dung liên quan.
Để đảm bảo thể thức của một văn bản có tính pháp lý cao nhất, vừa thể hiện tính lôgic, dễ nhớ và thuận tiện cho việc tra cứu, viện dẫn, cần đặt tiêu đề cụ thể cho các điều; hạn chế sử dụng từ hán việt để đảm bảo dễ hiểu.
III. NHỮNG GÓP Ý CỤ THỂ
1. Các ý kiến góp ý vào Lời nói đầu
Tổng số có 14 ý kiến góp ý về các nội dung sau:
Tại đoạn một, đề nghị tham vấn các nhà sử học để cụ thể hóa “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử” là bao nhiêu nghìn năm, để đảm bảo tính khoa học và minh bạch của Hiến pháp. Đồng thời, tại đoạn 3, đề nghị thay từ “kiến quốc” bằng từ thuần Việt hơn.
Bổ sung thêm câu “Ngày 02/7/1976, Quốc hội đã quyết định đổi tên nước là CHXHCN Việt Nam” vào sau “Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời” để bảo đảm sự liên tục, kế thừa giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại đoạn cuối, đề nghị thêm từ “độc lập” sau cụm từ “vì mục tiêu” và viết lại như sau: “Nhân dân Việt Nam, với truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, xây dựng và thi hành Hiến pháp vì mục tiêu độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” để khẳng định mục tiêu, khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam.
2. Các ý kiến góp ý vào Chương I
2.1.Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 97 ý kiến góp ý vào Chương I. các ý kiến tập trung vào Điều 4 (18/97 ý kiến), Điều 5 (9/97 ý kiến), Điều 7 (11/97 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị gộp Điều 13 và Điều 14 thành một điều. vì đều quy định về các biểu tượng quốc gia.
2.2.Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 1 (5 ý kiến) góp ý về các nội dung:
Chuyển từ “độc lập” lên trên từ “dân chủ” để khẳng định vấn đề độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng nhất.
Quy định cụ thể ranh giới nước Việt Nam để mỗi công dân có thể nhận thức rõ và đấu tranh bảo vệ lãnh thổ của Tổ quốc khi bị xâm phạm.
Điều 2 (8 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và các nội dung:
Đưa thêm tầng lớp doanh nhân vào quy định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” để phù hợp với sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay.
Làm rõ hơn khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” và phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Điều 3 (1 ý kiến) đề nghị bỏ đoạn “mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” vì chỉ cần quy định Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là đủ.
Điều 4 (18 ý kiến)
Các ý kiến đều khẳng định: Điều 4 Dự thảo là phù hợp với vị trí, vai trò của Đảng đối với nhà nước, xã hội, phù hợp với thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
Điều 5 (9 ý kiến) tham gia về cách diễn đạt và các nội dung:
Chuyển quy định "Ngôn ngữ quốc gia là Tiếng Việt" tại khoản 3, Điều 5 về Điều 13 cùng các quy định về biểu tượng quốc gia khác.
Khoản 4, bỏ từ “thiểu số”, và biên tập thành: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước”, tránh sự phân biệt giữa các dân tộc Việt Nam.
Điều 6 (3 ý kiến)
Đề nghị quy định rõ cơ chế để “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác”.
Điều 7 (11 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và đề nghị sửa đổi, bổ sung các nội dung:
Đề nghị quy định cụ thể tỷ lệ số cử tri được lấy phiếu tín nhiệm đồng ý thì Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân sẽ thực hiện bãi miễn đại biểu.
Đề nghị bỏ quy định cho phép cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân vì quy định này không thực tế và sẽ khó thực hiện.
Điều 8 (8 ý kiến) tham gia về các nội dung sau:
Khoản 1, đề nghị bổ sung thêm cụm từ “gần dân, hiểu dân, có trách nhiệm với dân” và “nghiêm cấm cán bộ, công chức tham nhũng…”.
Khoản 2, đề nghị bổ sung từ “công bộc của dân” và biên tập lại như sau: “…Cán bộ, công chức, viên chức phải là công bộc của dân, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát toàn diện của nhân dân...” để làm sâu sắc hơn nữa quan điểm cán bộ, công chức, viên chức phải thực sự là công bộc của dân.
Điều 9 (6 ý kiến) tham gia về cách diễn đạt và đề nghị thay cụm từ “nhà nước tạo điều kiện” tại khoản 3 thành "Nhà nước đảm bảo” cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác". Đồng thời, cần quy định rõ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xã hội.
Điều 10 (4 ý kiến) đề nghị xem xét lại quy định “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người lao động” vì quy định này chưa đề cập đến giai cấp nông dân và những người là công chức, viên chức.
Điều 11 (6 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và đề nghị bổ sung từ “Dân chủ” trước từ độc lập tại khoản 2 và biên tập như sau: “Mọi hành vi chống lại dân chủ, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ....” cho phù hợp Điều 1.
Điều 12 (1 ý kiến) đề nghị bổ sung nội dung “đấu tranh giữ vững hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ” trước câu “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Điều 13 (10 ý kiến) góp ý vào các nội dung sau:
Khoản 1, đề nghị bổ sung quy định cụ thể tỷ lệ ngôi sao vàng 5 cánh, chất liệu vải, chất lượng của nền đỏ để đảm bảo trang trọng, thống nhất đối với cờ Tổ quốc.
Khoản 3, Đề nghị bổ sung quy định "Ngôn ngữ quốc gia là Tiếng Việt" từ khoản 3 Điều 5 cho phù hợp.
Điều 14 (4 ý kiến) Đề nghị xác định rõ Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt tại thành phố Hà Nội.
2. Các ý kiến góp ý vào Chương II
2.1.Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 223 ý kiến góp ý vào Chương II. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 15 (20/223 ý kiến), Điều 21 (24/223 ý kiến), Điều 39 (12/223 ý kiến), Điều 42 10/223 ý kiến).
Ý kiến tham gia chung:
Đề nghị bổ sung một điều riêng, thể hiện đầy đủ quyền của trẻ em và trách nhiệm của Nhà nước đối với trẻ em, nhất là trẻ em tàn tật bởi đây là nhóm yếu thế trong xã hội.
Sắp xếp lại thứ tự các điều theo trình tự đưa các quyền cơ bản của con người lên trên. Gộp Điều 18 với Điều 19; Điều 36 và Điều 37 vì nội dung những điều này có liên quan trực tiếp đến nhau.
Giữ quy định tại Điều 41 và Điều 42 của Hiến pháp năm 1992 vì Nhà nước vẫn cần phải phát triển và quản lý nền thể dục thể thao, du lịch.
2.2.Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 15 (20 ý kiến) tham gia về cách diễn đạt và các nội dung sau:
Cần quy định rõ quyền con người là những quyền gì (quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc….).
Khoản 2, đề nghị sửa lại là: “…có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết, theo luật định vì lý do quốc phòng, an ninh…” cho phù hợp với yêu cầu Nhà nước pháp quyền và Công ước quốc tế về nhân quyền.
Đề nghị bổ sung thêm trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền công dân, quyền con người.
Điều 16 (12 ý kiến) góp ý vào các nội dung sau:
Đề nghị sửa “quyền của người khác” tại khoản 11 thành “quyền hợp pháp của người khác” và biên tập thành: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền hợp pháp của người khác.” để rõ nghĩa và đầy đủ hơn.
Bổ sung quy định: “…thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường” vào cuối khoản 2.
Điều 17 (6 ý kiến) góp ý vào các nội dung sau:
Đề nghị sửa “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” tại Khoản 1 thành “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.”, vì trong nhiều lĩnh vực người nước ngoài không thể bình đẳng như công dân Việt Nam (như quyền sử hữu nhà; quyền sử dụng đất…); bổ sung những quy định để bảo đảm quyền bình đẳng của công dân.
Đề nghị bỏ quy định tại khoản 2 vì chỉ cần quy định như khoản 1: “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” là đủ.
Điều 18 (3 ý kiến) góp ý vào các nội dung sau:
Đề nghị xem xét lại khoản 2 vì nếu công dân có 02 quốc tịch và quốc gia mà công dân đó có quốc tịch yêu cầu giao nộp thì xử lý như thế nào?
Điều 19 (01 ý kiến) đề nghị sửa Khoản 2 là “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ mối quan hệ gắn bó tốt đẹp với gia đình, bạn bè, quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước thêm giàu đẹp”.
Điều 21 (24 ý kiến) góp ý vào các nội dung sau:
Đề nghị bổ sung quy định “Mọi người có quyền sống và mưu cầu hạnh phúc” như lời Bác trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945.
Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 21 vì đã được quy định tại Điều 15.
Điều 22 (9 ý kiến) tham gia về các nội dung
Khoản 3, bổ sung quy định việc hiến mô, bộ phận cơ thể người do người đó hoặc người giám hộ đồng ý nếu người đó là người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự; bổ sung mọi người có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác cho đầy đủ.
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định như nội dung Điều 71 Hiến pháp năm 1992.
Điều 23 (11 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị bổ sung quy định “trừ trường hợp pháp luật cho phép vào cuối khoản 1” vì trong đấu tranh chống tội phạm, chống tham nhũng nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền cần phải kiểm tra, kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân.
Điều 25 (2 ý kiến)
Đề nghị bỏ đoạn “theo hoặc không theo một tôn giáo nào” tại Khoản 1, chỉ cần quy định “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” là đủ.
Điều 27 (11 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị sửa quy định “bình đẳng và có quyền ngang nhau” tại khoản 1 theo hướng ngắn gọn hơn như sau “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.” (bỏ đoạn: và có quyền ngang nhau).
Đề nghị thay “công dân nam, nữ” thành “mọi công dân” để bao quát hơn; quy định cụ thể biện để chống phân đối xử về giới.
Điều 28 (3 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị quy định tuổi ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân phải từ 23 tuổi trở lên nhằm nâng cao nhận thức, trình độ và năng lực của đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Điều 29 (9 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và đề nghị bổ sung quyền giám sát của công dân đối với việc chấp hành pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức và viên chức.
Điều 30 (4 ý kiến) góp ý về các nội dung:
Bổ sung quyền tham gia ý kiến của công dân khi được nhà nước trưng cầu ý dân và yêu cầu công dân có đủ điều kiện theo luật định mới có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Điều 31 (11 ý kiến) góp ý về các nội dung:
Tại khoản 1 bổ sung quyền khiếu nại, tố cáo với cá nhân có thẩm quyền cho đầy đủ.
Ngoài bồi thường về vật chất, tinh thần, danh dự như cho người bị thiệt hại như trong Dự thảo, đề nghị bổ sung cho người bị thiệt hại quyền được phục hồi về chức vụ.
Điều 32 (6 ý kiến) góp ý về các nội dung:
Khoản 2 đề nghị sửa thành “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một hành vi phạm tội”.
Điều 34 (10 ý kiến) đề nghị bổ sung cụm từ “ theo quy định của pháp luật” vào cuối khoản 1 để ghi nhận quyền tự do kinh doanh nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật, đồng thời cũng để phù hợp với quy định tại Điều 56 Dự thảo Hiến pháp 1992.
Điều 35 (2 ý kiến) đề nghị quy định cụ thể hơn quyền được bảo đảm an sinh xã hội của công dân và bổ sung quyền được chăm sóc sức khỏe tối thiểu khi mất sức lao động.
Điều 38 (5 ý kiến)
Bổ sung câu “phù hợp với quy định của pháp luật” vào cuối khoản 1 và biên tập như sau: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc phù hợp với các quy định của Pháp luật” cho chuẩn xác.
Đề nghị bổ sung vào khoản 2 quy định “Cấm sử dụng lao động không đúng mục đích".
Điều 39 (12 ý kiến) tham gia vào các nội dung:
Tại Khoản 2 đề nghị bổ sung người cao tuổi vào các đối tượng được bảo hộ quyền lợi trong hôn nhân.
Đề nghị thay “Nam và nữ” tại khoản 3 thành “Mọi người” và biên tập như sau: “Mọi người có quyền kết hôn và ly hôn...” để đảm bảo sự bình đẳng cho những người thuộc giới tính thứ ba.
Điều 42 (10 ý kiến) góp ý về các nội dung sau:
Bổ sung quy định để Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện cho công dân được học tập; đào tạo tiểu học là bắt buộc và miễn học phí tại các cơ sở đào tạo công lập, để đảm bảo phù hợp với công ước của Liên hợp quốc.
Đề nghị thay cụm từ “Công dân” thành cụm từ “mọi người” đảm bảo chính xác hơn.
Điều 43 (5 ý kiến) đề nghị bổ sung cụm từ "nhưng không nhằm mục đích xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chống lại chế độ XHCN" và biên tập thành “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật nhưng không nhằm mục đích xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chống lại chế độ Xã hội chủ nghĩa” để tránh có những tác phẩm văn học, nghệ thuật xuyên tạc chủ trương đường lối của Đảng, chống lại chế độ XHCN.
Điều 44 (6 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Bổ sung cụm từ “theo luật định” hoặc không được đi ngược lại truyền thống, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc Việt Nam vào cuối Điều 44 cho đảm bảo chặt chẽ.
Điều 45 (3 ý kiến) đề nghị chuyển Điều này vào khoản 03 của Điều 5 vì 02 nội dung này giống nhau.
Điều 46 (5 ý kiến)
Đề nghị bỏ khoản 2 “Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” vì nội dung này đã được quy định tại Điều 68
Điều 47 (8 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và đề nghị bổ sung như sau: "Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất và phải bị trừng trị nghiêm khắc theo quy định của pháp luật"
Điều 48 (3 ý kiến) tham gia về cách diễn đạt và đề nghị quy định rõ tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự của nam và nữ.
Điều 49 (1 ý kiến)
Đề nghị bỏ câu “Công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” vì khoản 3, điều 8 đã nêu “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”, do đó quy định như trên sẽ trùng lắp.
Điều 50 (9 ý kiến) tham gia cách diễn đạt và đề nghị sửa thành “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật”.
Điều 51 (2 ý kiến) tham gia về cách diễn đạt và đề nghị bổ sung trường hợp xử lý đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt nam và Luật pháp quốc tế trong lãnh thổ Việt Nam.
4. Các ý kiến góp ý vào Chương III
4.1.Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 72 ý kiến góp ý vào Chương III. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 57 (10/72 ý kiến), Điều 58 (18/72 ý kiến).
4.2.Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 53 (5 ý kiến) tham gia về cách diễn đạt và đề nghị bổ sung quy định về phát triển kinh tế cần kết hợp hài hòa với bảo vệ an ninh quốc gia.
Điều 54 (4 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và đề nghị khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước trong Hiến pháp. Vì trong thực tế, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong các mũi nhọn của kinh tế đất nước, thực hiện các công trình trọng điểm về an ninh năng lượng, an ninh quốc phòng, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, đảm bảo an sinh xã hội…
Quy định cụ thể hơn các đặc trưng đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để có mục tiêu cụ thể để trong quá trình thực hiện.
Điều 55 (3 ý kiến) đề nghị bổ sung từ “giám sát” trước “phân công, phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành…” tại Khoản 1, để bảo đảm sự giám sát của nhà nước với nền kinh tế.
Điều 56 (4 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị gộp điều 50 quy định về việc nộp thuế vào khoản 1 điều 56.
Tại khoản 2, thay cụm từ “lành mạnh” bằng cụm từ “công bằng” cho chuẩn xác.
Điều 57 (10 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và các nội dung:
Đề nghị bổ sung “tài nguyên số và tài sản khác phát hiện trên đất” là tài sản công, vì còn nhiều tài sản khác không phải là khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên được phát hiện trên đất nhưng vẫn thuộc tài sản công như cổ vật,….
Đề nghị làm rõ khái niệm sở hữu toàn dân là gì và cơ chế đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (cụ thể về quyền trong quản lý, sử dụng, định đoạt).
Điều 58 (18 ý kiến) góp ý về các nội dung:
Đề nghị bỏ cụm từ “quy hoạch” vì quản lý theo quy định của pháp luật trong đó đã có quy hoạch.
Bổ sung từ “hiệu quả” sau “sử dụng tiết kiệm” để đảm bảo việc sử dụng đất không chỉ tiết kiệm mà còn phải hiệu quả.
Đề nghị việc thu hồi đất nên chia làm 2 nhóm mục đích: Phục vụ quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó có quy định về đền bù cho phù hợp.
Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 3, do Điều 56 đã quy định.
Điều 59 (4 ý kiến)
Đề nghị bổ sung vào Khoản 1 quy định việc sử dụng tiết kiệm ngân sách nhà nước và các nguồn tài chính công khác cho đầy đủ.
Điều 64 (3 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và đề nghị bổ sung cụm từ “đảm bảo quốc phòng, an ninh” vào cuối khoản 2.
Điều 65 (2 ý kiến) đề nghị bổ sung việc phát triển ý tế cũng là quốc sách hàng đầu.
Điều 66 (11 ý kiến) góp ý về cách diễn đạt và các nội dung:
Tại Khoản 1 đề nghị bổ sung mục tiêu “hình thành, bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc” như Hiến pháp 1992 vì lòng tự hào dân tộc là sức mạnh của mỗi quốc gia cần phải giữ gìn, vun đắp.
Tại Khoản 3, đề nghị thêm cụm từ “cho mọi người được” cho thành câu đầy đủ: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho mọi người được học tập để phát triển tài năng….”
Điều 68 (6 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị bổ sung cụm từ “tài nguyên thiên nhiên” trước cụm từ môi trường cho đầy đủ và phù hợp với quy định tại khoản 2.
Đề nghị bổ sung quy định sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên vào khoản 2 cho đầy đủ.
Từ Điều 69 đến Điều 73 (3 ý kiến )
Đề nghị viết ngắn gọn, rõ nghĩa, tránh sử dụng các cụm từ không cần thiết vì các điều này còn rườm rà, mang văn phong tuyên truyền hơn là văn phong pháp quy.
5. Các ý kiến góp ý vào Chương IV
5.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 15 ý kiến góp ý vào Chương IV. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 70 (6/15 ý kiến), Điều 71 (5/15 ý kiến), Điều 72 (4/15 ý kiến).
5.2. Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Các ý kiến góp ý về cách diễn đạt và đề nghị bỏ từ cách mạng trong cụm từ “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng”, “Công an nhân dân Việt Nam cách mạng” tại các Điều 70, 71 và Điều 72.
6. Các ý kiến góp ý vào Chương V
6.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 55 ý kiến góp ý vào Chương V. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 75 (20/55 ý kiến), Điều 79 (8/55 ý kiến).
6.2. Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 74 (5 ý kiến) đề nghị bổ sung quy định: “Quốc hội đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân” và biên tập như sau cho đầy đủ: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Điều 75 (20 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị sắp xếp lại bố cục, chuyển Khoản 13, 14 lên sau Khoản 4 vì đây là những vấn đề rất hệ trọng của đất nước.
Khoản 6 và Khoản 7, đề nghị bổ sung thẩm quyền để Quốc hội Quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan khác do Quốc hội thành lập và thẩm quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm người đứng đầu các cơ quan này cho đầy đủ.
Khoản 10, đề nghị bổ sung thẩm quyền bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Kiểm toán Nhà nước ban hành trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội cho đầy đủ. Vì theo Luật Kiểm toán Nhà nước và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành quyết định để quy định, hướng dẫn chuẩn mực Kiểm toán Nhà nước; quy định cụ thể quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán. Thực tế những năm qua, Kiểm toán Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Biên tập lại như sau:
"Đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội".
Khoản 15, đề nghị bổ sung quy định cụ thể những trường hợp Quốc hội phải quyết định trưng cầu ý dân, nhằm đảm bảo cho nhân dân được trực tiếp bày tỏ quan đểm của mình với những vấn đề hệ trọng của đất nước.
Điều 76 (3 ý kiến) đề nghị bổ sung quy định biện pháp xử lý đối với trường hợp trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ 60 ngày mà Quốc hội khóa mới chưa bầu xong, đảm bảo chủ động khi có tình huống trên.
Điều 77 (02 ý kiến) đề nghị bổ sung quy định về tiêu chuẩn, thủ tục bầu đối với chức danh Chủ tịch Quốc hội cho đầy đủ.
Điều 79 (8 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Khoản 4, đề nghị bổ sung thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc đình chỉ thi hành và bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Kiểm toán Nhà nước, tương tự như khoản 10 Điều 75.
Bổ sung một khoản quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước cho đầy đủ và phù hợp thực tế. Vì Luật Kiểm toán Nhà nước quy định Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sau khi trao đổi thống nhất với Thủ tướng Chính phủ.
Điều 81 (4 ý kiến) đề nghị biên tập Khoản 2 như sau: “Ủy ban của Quốc hội thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; …..”.
Điều 82 (2 ý kiến) đề nghị bổ sung thêm cụm từ “về những vấn đề liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân” vào cuối khoản 1 cho chặt chẽ.
Điều 84 (4 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị bổ sung vào cuối khoản 1 quy định “Số lượng đại biểu Quốc hội do luật định” đảm bảo đầy đủ và là cơ sở để Quốc hội quyết định số lượng đại biểu Quốc hội phù hợp với từng thời kỳ.
Bổ sung quy định để đại biểu Quốc hội không được kiêm nhiệm chức danh quản lý các cơ quan hành pháp và tư pháp để phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tại khoản 2, đề nghị bổ sung quyền của đại biểu Quốc hội trong giám sát việc thực hiện lời hứa của cơ quan Nhà nước trước Quốc hội. Vì thực tế nhiều trường hợp lãnh đạo các bộ, ngành khi trả lời chất vấn trước quốc hội hoặc tiếp xúc cử tri đã hứa trước quốc hội và cử tri nhưng không thực hiện.
Điều 86 (1 ý kiến)
Đề nghị bỏ quy định miễn trừ đối với đại biểu Quốc hội. Vì trước pháp luật đại biểu Quốc hội cũng phải bình đẳng như công dân khác.
Điều 88 (2 ý kiến)
Đề nghị bỏ quy định “trong trường hợp cần thiết” tại khoản 1, vì quy định này không rõ ràng. Chỉ cần có đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba đại biểu Quốc hội thì Quốc hội có thể quyết định họp kín.
Điều 90 (1 ý kiến)
Khoản 1, đề nghị quy định “Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được ít nhất hai phần ba tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành”,vì đây là những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, có tác động lớn trong cả nước nên cần có sự đồng thuận cao, phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu biểu quyết tán thành.
7. Các ý kiến góp ý vào Chương VI
7.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 12 ý kiến góp ý vào Chương VI. Các ý kiến góp ý vào Điều 93 (8/12 ý kiến), Điều 98 (4/12 ý kiến)
7.2.Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 93 (8 ý kiến) đề nghị bổ sung quyền của Chủ tịch nước trong việc đề nghị Quốc hội bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Kiểm toán Nhà nước cho đầy đủ và tương thích với các chức danh lãnh đạo trong bộ máy nhà nước.
Điều 98 (3 ý kiến) đề nghị định lượng cụ thể thời gian bao lâu khi Chủ tịch nước không làm việc được thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch. Vì đây là vấn đề hệ trọng của quốc gia.
8. Các ý kiến góp ý vào Chương VII
8.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 7 ý kiến góp ý vào Chương VII. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 101 (5/7 ý kiến), Điều 104 (2/7 ý kiến).
8.2. Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 101 (5 ý kiến) đề nghị quy định rõ trách nhiệm cá nhân Thủ tướng và trách nhiệm tập thể Chính phủ đảm bảo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Điều 104 (2 ý kiến)
Đề nghị quy định cụ thể hình thức báo cáo của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khi thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý, tránh nhầm lẫn với trách nhiệm trả lời chất vấn trước Quốc hội.
9. Các ý kiến tham gia vào Chương VIII
9.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 7 ý kiến góp ý vào Chương VIII. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 107 (3/7 ý kiến), Điều 108 (3/7 ý kiến).
9.2.Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 107 (3 ý kiến) đề nghị quy định cụ thể Tòa án nhân dân gồm tòa án nhân dân tối cao và những tòa án nào. Không nên để luật quy định hệ thống tòa án nhân dân như trong dự thảo.
Điều 108 (3 ý kiến) đề nghị quy định cụ thể trong Hiến pháp, hạn chế những trường hợp để luật định.
Điều 114 (1 ý kiến) đề nghị quy định “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật” để đảm bảo sự độc lập của kiểm sát viên trong thi hành nhiệm vụ.
10. Các ý kiến góp ý vào Chương IX
10.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 13 ý kiến góp ý vào Chương IX. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 115 (5/13 ý kiến), Điều 116 (6/13 ý kiến).
10.2. Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 115 (5 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị bổ sung một khoản quy định “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đơn nhất”, để khẳng định Việt Nam không phải là nước liên bang.
Đề nghị giữ nguyên quy định như Hiến pháp năm 1992 “UBND do hội đồng nhân dân bầu ra”. Bổ sung thẩm quyền bầu Chủ tịch UBND và các thành viên UBND để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Điều 116 (6 ý kiến) tham gia về các nội dung:
Đề nghị tách Điều 116 thành 2 điều, một điều quy định về Hội đồng nhân dân và một điều quy định về Ủy ban nhân dân.
Không nên quy định Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực để đảm bảo tính tập trung thống nhất.
Quy định cụ thể chức danh Chủ tịch UBND, vì Chủ tịch UBND là người đứng đầu cơ quan hành chính của địa phương, nhằm đảm bảo thống nhất với quy định người đứng đầu các cơ quan.
Điều 118 (2 ý kiến) đề nghị bổ sung quyền bỏ phiếu tín nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu, nâng cao trách nhiệm của những chức danh này.
11. Các ý kiến góp ý vào Chương X
11.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 131 ý kiến góp ý vào Chương X. Các ý kiến góp ý tập trung vào Điều 120 (15/131 ý kiến), Điều 122 (116/131 ý kiến).
11.2.Những góp ý về các điều, khoản cụ thể
Điều 120 (15 ý kiến)
Đề nghị thành lập Tòa Hiến pháp, có chức năng phán quyết như đình chỉ, bác bỏ, hủy bỏ những văn bản quy phạm pháp luật vi hiến và các quyền khác.
Đề nghị tăng thẩm quyền và quy định cụ thể hơn chức năng "bảo Hiến" của Hội đồng Hiến pháp. Theo dự thảo, chức năng chủ yếu của Hội đồng Hiến pháp là "kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật" của một số cơ quan Nhà nước và "yêu cầu" các cơ quan đó "sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ". Với thẩm quyền như vậy, chưa đủ để Hội đồng Hiến pháp thực hiện tốt chức năng "bảo Hiến". Mặt khác, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng Hiến pháp lại do luật định. Do vậy, đề nghị tăng thẩm quyền cho Hội đồng Hiến pháp trong việc đình chỉ, hủy bỏ đối với các văn bản không phù hợp với Hiến pháp.
Có ý kiến đề nghị không nên thành lập Hội đồng Hiến pháp. Vì Hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội thành lập nhưng có quyền kiểm tra, yêu cầu hủy bỏ cả các văn bản do Quốc hội thông qua là chưa hợp lý và không phù hợp với thông lệ Quốc tế.
Điều 122 (116 ý kiến)
Hầu hết các ý kiến thể hiện sự nhất trí cao với nội dung Dự thảo, việc hiến định Kiểm toán Nhà nước như vậy phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực của Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) và thông lệ quốc tế; phù hợp với tực tiễn hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam. Một số ý kiến tham gia thêm về các nội dung sau:
Đối với Khoản 1
Đa số ý kiến nhất trí với quy định “Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” nhưng để đảm bảo chặt chẽ, một số ý kiến đề nghị sửa như sau “… thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính nhà nước, tài sản công”.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung nhiệm vụ kiểm toán nguồn lực quốc gia. Vì thực tế ngoài tài sản, tài chính công thì nguồn nhân lực và các thương hiệu có yếu tố quốc gia… cần được quản lý, sử dung hiệu quả.
Có ý kiến đề nghị quy định Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm toán tối cao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đối với Khoản 2
Một số ý kiến đề nghị quy định rõ nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp như sau “Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội” để đảm bảo thống nhất với nhiệm kỳ của Quốc hội, vì khi Quốc hội hết nhiệm kỳ thì tất cả các chức danh do Quốc hội bầu ra đều hết nhiệm kỳ, như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng Kiểm toán Nhà nước…
12. Các ý kiến góp ý vào Chương XI
12.1. Tổng quan, đánh giá chung
Tổng số có 11 ý kiến góp ý vào Chương XI. Trong đó, tham gia vào Điều 123 (2/11 ý kiến), Điều 124 (9/11 ý kiến).
12.2.Các ý kiến cụ thể
Điều 123 (2 ý kiến) đề nghị nêu rõ cơ chế và chế tài để xử lý hành vi vi phạm Hiến pháp.
Điều 124 (9 ý kiến) đề nghị xem xét thay thế cụm từ "làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp" bằng cụm từ "xây dựng Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp" cho đúng văn phong hành chính.
IV. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾP PHÁP NĂM 1992
Trên cơ sở các ý kiến tham gia của công chức, viên chức, người lao động, Kiểm toán Nhà nước đề nghị Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quan tâm xem xét, tiếp thu các nội dung sau:
- Về kỹ thuật lập hiến: Đề nghị biên tập theo hướng, hạn chế sử dụng các từ hán việt trong Hiến pháp.
- Khoản 3 Điều 13, đề nghị bổ sung quy định "Ngôn ngữ quốc gia là Tiếng Việt" từ khoản 3 Điều 5 cho phù hợp.
- Đề nghị bổ sung vào Điều 21 quyền mọi người trong việc “mưu cầu hạnh phúc”.
- Bổ sung vào Điều 30 quyền “tham gia ý kiến” của công dân khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
- Điều 42, đề nghị bổ sung quy định đào tạo tiểu học là bắt buộc.
Trên đây là báo cáo tổng hợp ý kiến công chức, viên chức và người lao động của Kiểm toán Nhà nước về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trân trọng gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp./.
Nơi nhận: - Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; - Tổng Kiểm toán Nhà nước (để b/c); - Các Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước (để b/c); - Lưu: VT, VPC (03). | KT.TỔNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC PHÓ TỔNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC Cao Tấn Khổng |
Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng hợp ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 29/05/2013
Số hiệu:số 408/BC-MTTW-BTT
Mô tả:
bc408-MTTQ-1.doc
Kính gửi: Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/ 2012 của Quốc hội và Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 317/KH-MTTW-BTT ngày 02/01/2013 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Sau một thời gian khẩn trương, nghiêm túc tổ chức lấy ý kiến trong hệ thống, đồng thời vận động và tổ chức để nhân dân tham gia góp ý kiến rộng rãi đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trên tinh thần dân chủ, khách quan, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam báo cáo kết quả tập hợp, tổng hợp ý kiến của nhân dân đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau:
A. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN
I. CÔNG TÁC TRIỂN KHAI, QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN VÀO DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam xác định việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị nói chung và hệ thống MTTQ Việt Nam nói riêng, nhằm phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội; đồng thời góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc sửa đổi Hiến pháp và thi hành Hiến pháp. Vì vậy, ngay sau khi có Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã chủ động ban hành kế hoạch triển khai việc lấy ý kiến nhân dân trong toàn hệ thống Mặt trận. Ngày 03/01/2013, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức hội nghị với các tổ chức thành viên để thảo luận và đi đến thống nhất về triển khai thực hiện công tác đặc biệt, quan trọng này. Đây là hội nghị đầu tiên trong toàn quốc được tổ chức để triển khai việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Tại hội nghị này, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và đại diện lãnh đạo các tổ chức thành viên thống nhất cho rằng, đây là một công việc quốc gia hệ trọng, cần được tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; có cơ chế bảo đảm sự tham gia rộng rãi của MTTQ, các tổ chức thành viên, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và nhân dân.
Trên cơ sở đó, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã đề nghị Ban lãnh đạo các tổ chức thành viên chủ động phối hợp với Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức thảo luận, lấy ý kiến của các thành viên tổ chức mình, ý kiến của các tổ chức xã hội khác, ý kiến của các đại diện tiêu biểu trong giới nhân sĩ, trí thức, luật gia, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và nhất là hội viên, đoàn viên của tổ chức thành viên để tổng hợp ý kiến góp ý gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam với yêu cầu bảo đảm chất lượng, hiệu quả, phản ánh đầy đủ nhất, chân thực nhất ý kiến góp ý của nhân dân và bảo đảm tiến độ đề ra.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chủ trương triển khai trong hệ thống việc lấy ý kiến đối với toàn bộ nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, kể cả kỹ thuật trình bày các quy định của Hiến pháp. Trong đó quan tâm góp ý sâu vào các nội dung về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo vệ Tổ quốc; bộ máy nhà nước; vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của MTTQ Việt Nam.
Theo báo cáo, các tổ chức thành viên của Mặt trận và Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai việc lấy ý kiến nhân dân trong tổ chức và địa phương mình. Nhìn chung, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động tham mưu cho cấp ủy, phối hợp với chính quyền và các tổ chức thành viên cùng cấp tích cực triển khai việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân và vận động nhân dân tích cực tham gia.
II. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP ĐẾN CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN
Công tác tuyên truyền, phổ biến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đến các tầng lớp nhân dân được tiến hành khẩn trương, tích cực, có trọng tâm, trọng điểm thông qua các phương tiện thông tin truyền thông của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên. Hệ thống báo giấy, báo mạng và truyền hình của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên đã mở các chuyên trang, mục, thường xuyên đăng tải những bài viết, bài trao đổi, phóng sự, phỏng vấn đăng tải nội dung góp ý đối với Dự thảo Hiến pháp năm 1992, đồng thời phát huy tối đa hiệu quả công tác tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông, mạng lưới truyền thanh cơ sở; tuyên truyền bằng hệ thống bảng tin, băng rôn, sinh hoạt chi đoàn, chi hội… Qua dư luận nhân dân, nhiều tin, bài viết, phóng sự, phát biểu trong hệ thống Mặt trận có chiều sâu, tâm huyết, trách nhiệm, xây dựng, đoàn kết trên cơ sở làm rõ những nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp với lập luận khoa học, thuyết phục, chặt chẽ; làm cho người dân nắm vững, hiểu đúng nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, từ đó bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình, hạn chế việc lợi dụng góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để truyền bá những quan điểm sai trái, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chú trọng phát huy vai trò của Ban Công tác Mặt trận nhằm chuyển tải những nội dung của Dự thảo tới người dân ở khu dân cư một cách thường xuyên, thông qua các hình thức phong phú, đa dạng. Việc in ấn, cấp phát tài liệu phục vụ tổ chức triển khai lấy ý kiến nhân dân kịp thời, hiệu quả, thiết thực. Mặc dù triển khai trong thời gian không dài, nhưng công tác tuyên truyền đã đạt được những kết quả tích cực, kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. Việc phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc tuyên truyền được quan tâm, chú trọng, do đó về cơ bản Dự thảo được triển khai rộng rãi xuống khu dân cư, hộ gia đình; nhiều nơi nhân dân đã tham gia vào đợt sinh hoạt chính trị pháp lý này một cách tích cực, có nhiều ý kiến tham gia sôi nổi, tâm huyết, trách nhiệm, thực sự trở thành đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý thu hút được sự quan tâm đông đảo trong nhân dân.
Phát huy những kết quả đạt được, đồng thời để việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân được đều khắp, sâu rộng hơn đến từng khu dân cư, cũng như hội viên, đoàn viên của các tổ chức thành viên, ngày 27/02/2013 Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tiếp tục có văn bản đề nghị các tổ chức thành viên và Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm hơn nữa trong việc triển khai sâu rộng đến từng khu dân cư, đến các hội viên, đoàn viên; định hướng góp ý tập trung đối với những nội dung sửa đổi của Hiến pháp, đồng thời quan tâm đến Điều 9 quy định về MTTQ Việt Nam; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân để góp phần làm cho các ý kiến thảo luận của hội viên, đoàn viên, cán bộ, đảng viên và nhân dân có tính xây dựng, đoàn kết trên cơ sở đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và điều lệ của các tổ chức thành viên.
III. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN
Việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được Ủy ban MTTQ Việt Nam tổ chức bằng nhiều hình thức, có phân loại đối tượng lấy ý kiến nhằm phát huy tối đa tính hiệu quả, các ý kiến đóng góp được chuyên sâu, có chất lượng.
Cụ thể, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức các hội nghị:
- Hội nghị lấy ý kiến các vị Ủy viên Đoàn Chủ tịch và Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (khoá VII) (ngày 17/01/2013);
- Hội nghị lấy ý kiến đại diện người Việt Nam định cư ở nước ngoài là Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (ngày 17/01/2013);
- Các Hội nghị của 07 Hội đồng tư vấn của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam;
- Hội nghị lấy ý kiến các vị trong Ban Thường trực, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam các thời kỳ; Ban Chủ nhiệm các Hội đồng tư vấn của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (ngày 19/02/2013);
- Hội nghị lấy ý kiến các tổ chức thành viên và một số tổ chức xã hội khác (ngày 27/02/2013);
- Hội nghị lấy ý kiến của Chủ tịch MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (ngày 8/3/2013);
- Hội nghị lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của lãnh đạo, cán bộ, công chức cơ quan Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (ngày 15/3/2013).
- Hội nghị lấy ý kiến nhân sỹ, tri thức, người tiêu biểu trong các dân tộc thiếu số, chức sắc tôn giáo (ngày 20/3/2013).
- Hội nghị Liên tịch giữa Chủ tịch nước và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức lấy ý kiến nhân sỹ, tri thức, người tiêu biểu trong các dân tộc thiếu số, chức sắc tôn giáo (ngày 27/3/2013).
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thành lập Tổ Thư ký giúp việc Ban Thường trực tập hợp, tổng hợp ý kiến nhân dân; tổ chức việc trực, tiếp nhận trực tiếp những ý kiến đóng góp của nhân nhân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Cơ quan Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Những ý kiến đóng góp đều được ghi chép, tổng hợp đầy đủ.
Nhiều nơi, Ủy ban MTTQ các cấp giữ vai trò nòng cốt trong việc tổ chức lấy ý kiến, nhiều tổ chức thành viên đã có những hình thức tổ chức lấy ý kiến đa dạng, hiệu quả, phù hợp với phương thức hoạt động của tổ chức mình. Một số tổ chức thành viên có những hình thức phong phú như mở diễn đàn, tạo banner, mở cửa sổ “Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” để tập hợp các ý kiến góp ý qua mạng Internet, cung cấp hộp thư điện tử… nhằm tiếp nhận kịp thời ý kiến đóng góp của nhân dân.
IV. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THAM GIA Ý KIẾN CỦA NHÂN DÂN
Mặc dù thời gian triển khai không dài, lại trùng với thời điểm nghỉ tết cổ truyền của dân tộc, nhưng MTTQ Việt Nam đã phát huy tinh thần trách nhiệm trong việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân góp ý kiến vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Do làm tốt công tác tuyên truyền, việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân diễn ra khá thuận lợi, tạo ra một đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp, thu hút được sự quan tâm và tham gia đông đảo của người dân.
Quá trình triển khai tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được tiến hành dân chủ, rộng rãi, khoa học, công khai, bảo đảm tiến độ, chất lượng, thiết thực và tiết kiệm. Mọi ý kiến đóng góp của nhân dân được tập hợp, tổng hợp đầy đủ, chính xác, thể hiện tinh thần cầu thị. Những góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được tập hợp một cách đầy đủ, chính xác, tất cả đều nhằm phát huy cao nhất quyền và vai trò của người dân trước các vấn đề lớn của đất nước. Việc tập hợp ý kiến tham gia vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được tổ chức dưới nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để mọi cá nhân đều có thể bày tỏ, thể hiện quan điểm, chính kiến của mình.
Đã có rất nhiều ý kiến góp ý thể hiện trí tuệ, trách nhiệm công dân, phản biện các vấn đề rất khoa học, thực sự vì dân, vì nước. Đại đa số các ý kiến góp ý dù góc độ tiếp cận và quan điểm có khác nhau nhưng với tinh thần xây dựng, đoàn kết và mong muốn bản Hiến pháp này phải phản ánh được sâu sắc ý chí và nguyện vọng của nhân dân, góp phần xây dựng một bản Hiến pháp chất lượng, khoa học, mang tính nhân dân, phù hợp tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đến ngày 30/3/2013 theo thống kê bước đầu của Ủy ban MTTQ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 05 tổ chức chính trị - xã hội (chưa bao gồm các tổ chức thành viên khác) đã có tổng số 3.181.529 lượt người tham gia ý kiến (trong đó có 676 lượt người tham gia ý kiến tại các Hội nghị do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức; 964.349 lượt người tham gia ý kiến của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 2.216.504 lượt người tham gia ý kiến của 05 tổ chức chính trị - xã hội (chưa bao gồm các tổ chức thành viên khác).
Tổng số có 8.071.919 ý kiến góp ý vào hầu hết các nội dung của Dự thảo Hiến pháp, kể cả về bố cục, hình thức, ngôn ngữ. Cụ thể như sau:
- Về bố cục, hình thức, ngôn ngữ của Hiến pháp: Tổng số có 76.225 ý kiến tham gia.
- Lời nói đầu: Tổng số có 522.017 ý kiến tham gia.
- Chương I. Chế độ chính trị: Tổng số có 1.513.769 ý kiến tham gia.
- Chương II. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Tổng số có 1.747.153 ý kiến tham gia.
- Chương III. Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, Khoa học, Công nghệ và mội trường: Tổng số có 603.539 ý kiến tham gia.
- Chương IV . Bảo vệ tổ quốc: Tổng số có 325.721 ý kiến tham gia.
- Chương V. Quốc hội: Tổng số có 416.760 ý kiến tham gia.
- Chương VI. Chủ tịch nước: Tổng số có 416.576 ý kiến tham gia.
- Chương VII. Chính phủ: Tổng số có 440.419 ý kiến tham gia.
- Chương VIII. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân: Tổng số có 497.022 ý kiến tham gia.
- Chương IX. Chính quyền địa phương: Tổng số có 472.953 ý kiến tham gia.
- Chương X. Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước: Tổng số có 972.693 ý kiến tham gia.
- Chương XI. Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp: Tổng số có 67.472 ý kiến tham gia.
V. NGUỒN VĂN BẢN TẬP HỢP, TỔNG HỢP VÀ CÁC SỐ LIỆU CỤ THỂ
- Các hội nghị lấy ý kiến nhân dân được tổ chức tại cơ quan Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.
- Báo cáo của các tổ chức thành viên của MTTQ Việt Nam.
- Báo cáo của Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Trong quá trình lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã nhận được một số thư góp ý kiến của nhân dân trực tiếp gửi tới.
B. NHỮNG Ý KIẾN CHUNG VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
I. VỀ PHẠM VI, MỨC ĐỘ SỬA ĐỔI
1. Tán thành với nội dung Dự thảo
Hầu hết các ý kiến góp ý về phạm vi, mức độ sửa đổi đều cho rằng: So với thời điểm sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trước đây (2001), tình hình nước ta đã có nhiều thay đổi, tình hình quốc tế cũng có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế…là cần thiết. Phạm vi và mức độ sửa đổi theo Dự thảo tương đối hợp lý trong hoàn cảnh nước ta hiện nay.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có sự kế thừa những giá trị khoa học về nội dung và kỹ thuật lập hiến trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, cụ thể hóa nhiều nội dung quan trọng của Cương lĩnh xây dựng đất nước và văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, bổ sung được một số chế định mới phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế. Dự thảo đã thể hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đây là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng và phát triển đất nước. So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo sửa đổi có những ưu điểm nổi bật như: kỹ thuật lập hiến có nhiều tiến bộ, nội dung sâu rộng, chú trọng hơn đến quyền con người với việc có hẳn một chương (chương II) quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Đặc biệt, Dự thảo bổ sung một số thiết chế hiến định độc lập như Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia và có quy định mới về thẩm quyền của Quốc hội, vai trò của nhân dân trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, quy trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Trong chương về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, môi trường…quy định khá khái quát, có tính nguyên tắc thay vì chi tiết như Hiến pháp năm 1992, có nhiều điểm sửa đổi về cách hiến định các thành phần kinh tế phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội theo quan điểm phát triển bền vững, lược bỏ đi những quy định quá chi tiết trong Hiến pháp 1992.
2. Những ý kiến đề xuất liên quan đến phạm vi, mức độ sửa đổi
Nhiều ý kiến cho rằng: Dự thảo cần làm rõ hơn quyền làm chủ của nhân dân; cần thể hiện rõ chủ quyền nhân dân; các nguyên tắc tổ chức của bộ máy nhà nước chưa được thể hiện một cách rõ nét trong Dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị cần cụ thể hơn vấn đề này; Dự thảo cũng chưa thể hiện rõ về cơ chế phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; Dự thảo khẳng định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhà nước ta nhưng trong các quy định về tổ chức bộ máy lại chưa có cơ chế tương xứng (ví dụ: đại biểu Quốc hội vẫn chủ yếu là hoạt động kiêm nhiệm); Dự thảo cũng chưa có quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên Chính phủ, chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa Thủ tướng Chính phủ và các bộ trưởng; bộ máy hành chính nước ta còn quá phức tạp nhưng Hiến pháp chưa có điều khoản nào hiến định vấn đề cải cách bộ máy hành chính; Hội đồng Hiến pháp là một chế định mới, nhưng theo Dự thảo thì cũng chỉ là cơ quan tham mưu, vì vậy sẽ ít phát huy tác dụng trên thực tế. Theo nhiều đại biểu thì phải thêm thẩm quyền phán quyết cho cơ quan này và cơ quan này nên do Chủ tịch nước là Chủ tịch; về chính quyền địa phương, Dự thảo cũng chưa đưa ra được những quy định thuyết phục vì trên thực tế còn nhiều tranh cãi về tên gọi, thẩm quyền, cách tổ chức và cả về bản chất; Chế định về Hội đồng bầu cử quốc gia được nhiều ý kiến cho rằng không nhất thiết phải đưa vào Hiến pháp vì cơ quan này chỉ thành lập khi bầu cử và tự giải tán sau khi bầu cử, cơ quan này thành lập sẽ chỉ làm cho bộ máy nhà nước thêm cồng kềnh, không hiệu quả…
II. VỀ KỸ THUẬT LẬP HIẾN
Góp ý vào kỹ thuật lập hiến, có tổng số 75.890 lượt ý kiến.
1. Những nội dung tán thành
Các ý kiến cho cho rằng, kỹ thuật lập hiến có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cũng như sửa đổi Hiến pháp, là nhân tố làm cho Hiến pháp được thể hiện một cách khoa học, chặt chẽ, logíc. Phạm vi những nội dung được điều chỉnh và cách diễn đạt rõ ràng minh bạch, đủ khái quát và cụ thể của một bản Hiến pháp sẽ góp phần nâng cao chất lượng của Hiến pháp, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thực thi Hiến pháp sau khi ban hành.
Về cơ bản, nội dung của Dự thảo Hiến pháp năm 1992 sửa đổi là phù hợp, khái quát được những quan hệ cơ bản nhất của đời sống xã hội nước ta hiện nay, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước. Tuy nhiên, việc sắp xếp một số điều, khoản chưa chuẩn xác, nội dung trùng lặp, sử dụng từ ngữ một số chỗ chưa trong sáng.
- Về phương diện xã hội và phương diện pháp lý, Dự thảo Hiến pháp ghi nhận những thành quả đạt được của dân tộc, của đất nước, chứa đựng những giá trị xã hội cao quý của dân tộc Việt Nam về dân chủ, nhân quyền, nhân đạo, công bằng, bình đẳng, bác ái văn minh của quốc gia; về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, của công dân. Vì Hiến pháp là đạo luật gốc, nên các nhóm quan hệ xã hội cơ bản về Chế độ chính trị; Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường; Bảo vệ Tổ quốc; Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Chính quyền địa phương; Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước; Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp được thể hiện với tư cách là các nguyên tắc, các vấn đề có tính nền tảng, cốt lõi của quốc gia, không quy định chi tiết, cụ thể.
- Việc khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã được nhân dân ta, mà đại diện cao nhất là Quốc hội thừa nhận và ghi vào Hiến pháp; Khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để mỗi cơ quan thực thi có hiệu lực chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật, với sự phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước là những nội dung phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay.
- Về chế độ kinh tế, những nội dung được sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo mục tiêu, định hướng chính sách lớn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển là phù hợp.
- Về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp thể hiện được sự khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
- Trong tổ chức bộ máy Nhà nước, Dự thảo khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, thực hiện quyền giám sát tối cao, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; xác định rõ hơn nội dung những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội quyết định.
- Về Chủ tịch nước, Dự thảo xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thực hiện vị trí, vai trò là nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Với Chính phủ, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong việc xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả; quy định rõ hơn ở tầm hiến định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội, các cơ quan tư pháp.
- Với chính quyền địa phương, sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng nghiên cứu xác định rõ hơn địa vị pháp lý của chính quyền địa phương, mô hình tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, cơ chế phân cấp, phân quyền giữa trung ương với địa phương.
- Các ý kiến cũng nhất trí với các quy định mới về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước; Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
2. Những kiến nghị, đề xuất xem xét sửa đổi
- Nhiều ý kiến nhấn mạnh, một trong những nhược điểm khiến Hiến pháp của nước ta phải sửa nhiều lần là vấn đề kỹ thuật, nhiều vấn đề quy định quá cụ thể, gây vướng mắc trong tổ chức, thực hiện và khi cần thay đổi lại phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Hiến pháp chỉ nên quy định các nguyên tắc, định hướng lớn và theo hướng mở.
- Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật có hiệu lực cao nhất được dùng làm cơ sở pháp lý thống nhất cho toàn Nhà nước, toàn Đảng, toàn dân tiến hành sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong một thời kỳ lâu dài. Vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị cần hoàn thiện thêm cách diễn đạt, cách dùng từ ngữ trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để vừa ngắn gọn, dễ hiểu và thống nhất, để đa số nhân dân ai đọc là hiểu được.
- Trong các mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, tổ chức cộng đồng đề nghị xem lại việc dùng cụm từ "tạo điều kiện", vừa thiếu tính quy phạm, vừa dễ tạo ra tâm lý “ban phát” “xin - cho”. Dự thảo dùng tới 13 lần cụm từ "tạo điều kiện" (Điều 5 Khoản 4; Điều 9 Khoản 3; Điều 19 Khoản 2; Điều 29 khoản 2; Điều 36 Khoản 11; Điều 61 khoản 1; Điều 66 Khoản 2, 3; Điều 67 Khoản 11; Điều 87 Khoản 2; Điều 101 Khoản 2. Một số chỗ dùng từ chưa chính xác.
Dự thảo dùng 5 lần cụm từ “do Hiến pháp và pháp luật”, “bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 8, Điều 15, Điều 20, Điều 64, Điều 75); 31 lần cụm từ “do luật định” (Điều 11, Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 26, Điều 31, Điều 32, Điều 37, Điều 48, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 69, Điều 101, Điều 107, Điều 108, Điều 110, Điều 112, Điều 113, Điều 114, Điều 120, Điều 121, Điều 122). Đề nghị nên xác định rõ quan điểm: những nội dung quy định tại Hiến pháp là phải rõ ràng, cụ thể mang tầm hiến định chứ không nên dẫn chiếu sang luật hoặc quy định một cách chung chung, không thực hiện được.
- Nhiều ý kiến cho rằng, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi còn nhiều điểm cần phải xem xét, cân nhắc, bổ sung như: Phải làm rõ và đủ trong Dự thảo Hiến pháp các tổ chức quan trọng trong hệ thống chính trị như Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị; Bổ sung, hoàn thiện và làm rõ hơn một số nội dung như cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; cơ chế phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; Lời nói đầu còn dài, một số cụm từ, thuật ngữ nhiều chỗ chưa nhất quán, còn chung chung, khó hiểu hoặc hiểu thế nào cũng được, như: “công dân”, “mọi người”, “dân tộc thiểu số”; “an sinh xã hội”, “cách mạng”; “theo pháp luật”; “pháp luật quy định”; “có thể”, “không thể”, “ nơi ở hợp pháp”, “chỗ ở hợp pháp”, “công dân nam, nữ”, “công dân nữ, nam”, “công dân Việt Nam”, “công dân nước cộng hòa XHCN Việt Nam”…, đề nghị cần nghiên cứu sửa đổi một số ngôn từ cho rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, không nên dùng từ Hán hoặc Hán - Việt và từ có nhiều nghĩa.
- Việc sắp xếp Chương, điều chưa khoa học, còn trùng lắp về nội dung, thứ tự sắp xếp cũng cần phải xem xét. Nhiều ý kiến đề nghị sắp xếp, ghép một số điều khoản như: ghép Điều 13, 14; ghép Điều 21,22; ghép Điều 15, 20; ghép Điều 29, 30; ghép Điều 11,47; ghép Điều 46, 68; …
- Việc sử dụng một số từ ngữ trong Dự thảo chưa trong sáng, chưa đúng với văn phong pháp lý như: “làm Hiến pháp”, “làm luật”, “kiến quốc”, …
C. NHỮNG GÓP Ý CỤ THỂ
VỀ TÊN GỌI CỦA HIẾN PHÁP
Nhiều ý kiến cho rằng, với việc thay đổi nhiều chương mục, sửa đổi, bổ sung 102 điều và thêm 11 điều mới, tức là sửa cơ bản Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001).
Để đánh dấu một chặng đường lịch sử của dân tộc trong xây dựng Hiến pháp, nên đặt tên mới cho bản Hiến pháp là Hiến pháp năm 2013 (hoặc năm 2014) tuỳ theo thời điểm công bố, không nên đặt tên là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
LỜI NÓI ĐẦU
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
Có tổng số: 522.017 ý kiến. Đa số ý kiến cho rằng Lời nói đầu của Dự thảo được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và xúc tích hơn về truyền thống, lịch sử dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới, mục tiêu xây dựng đất nước và thể hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp.
- Nhiều ý kiến đề nghị Lời nói đầu cần thể hiện ngắn gọn, xúc tích hơn, có tính hiệu triệu, động viên cả dân tộc; phải làm rõ bản chất của Hiến pháp nước ta là xuất phát từ quyền và lợi ích của nhân dân, theo đó vai trò của nhân dân cần được thể hiện đậm nét, sâu sắc hơn với tư cách là người làm chủ đất nước, người tạo ra Hiến pháp và lịch sử; khái quát được mục tiêu, mục đích mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam muốn hướng tới cũng như làm nổi bật được mục đích, chủ thể, nhiệm vụ của Hiến pháp, đồng thời các nội dung thể hiện trong Lời nói đầu cần được cơ cấu hợp lý hơn.
- Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu kế thừa và phát triển nội dung Lời nói đầu của hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, bổ sung thêm về giai đoạn lịch sử từ 1960 đến nay một cách ngắn gọn, cô đọng. Đề nghị lấy lại đoạn: "Ngày 02 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, vì sự ra đời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1976 sau 30 năm đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập, thống nhất đất nước là vấn đề quan trọng (có ý kiến cho rằng sự kiện này có ý nghĩa lịch sử ngang với việc khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945).
- Nhiều ý kiến đề nghị Lời nói đầu tiếp tục khẳng định cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý” như Hiến pháp hiện hành.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
Đoạn 1.
Đề nghị bỏ cụm từ “lao động” sau cụm từ “nhân dân Việt Nam”; thay cụm từ “chiến đấu” bằng cụm từ “đấu tranh”; thay cụm từ “hun đúc” bằng cụm từ “thiết lập”; bổ sung cụm từ “tấm lòng” trước cụm từ “nhân nghĩa”, cụm từ “ý chí” trước cụm từ “kiên cường”.
Tại câu đầu tiên của Lời nói đầu: “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo” mà để cụm từ “mấy ngàn năm” là không xác định được định lượng, định tính về thời gian, mập mờ về lịch sử như một câu hỏi đối với một đạo luật gốc là chưa phù hợp, chưa khẳng định được lịch sử Việt Nam. Vì vậy, đề nghị nên thay bằng cụm từ “hàng ngàn năm”.
Có ý kiến đề nghị bổ sung, làm rõ hơn nội hàm của thời kỳ quá độ lên CNXH. Có thể gợi ý như sau: “Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí và nhiệm vụ đấu tranh của nhân dân để bảo vệ chủ quyền quốc gia”. Qua đó, khẳng định là để có thể quá độ lên CNXH thì phải qua những cuộc đấu tranh trên nhiều lĩnh vực khác nhau để đảm bảo định hướng này.
Đoạn 4.
- Đề nghị xem xét lại đoạn này, vì nếu theo cách hiểu đơn giản về đoạn này, thì Cương lĩnh cao hơn Hiến pháp; trong khi hiện nay không phải người dân nào cũng biết chủ nghĩa Mác - Lênin và cũng không phải ai cũng theo chủ nghĩa Mác – Lên nin. Cách viết như vậy dễ bị cho là thể hiện sự áp đặt chủ nghĩa này lên toàn thể nhân dân. Không nên viết “dưới ánh sáng CN Mác – Lênin …”, Do vậy, trong Lời nói đầu chỉ cần khẳng định dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể chế Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong Lời nói đầu là đủ. Bên cạnh đó, tại Điều 4 đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên”.
- Đề nghị thay cụm từ “thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước” bằng cụm từ “thể chế hóa đường lối xây dựng đất nước” vì hiểu theo cách viết đoạn này thì Cương lĩnh cao hơn Hiến pháp, Hiến pháp chỉ là văn bản thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng chứ không phải Hiến pháp là của nhân dân.
Có ý kiến nhận xét việc dùng cụm từ “thực hiện chủ quyền nhân dân” là chưa hợp lý. Bởi “chủ quyền nhân dân” là một khái niệm mới, khó hiểu đối với rất nhiều người, vì vậy Dự thảo Hiến pháp nên thay bằng thuật ngữ dễ hiểu hơn là “quyền làm chủ của nhân dân”.
CHƯƠNG I
CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Có tổng số: 1.513.769 ý kiến
- Đa số ý kiến cho rằng Chương I của Dự thảo tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của chế độ chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và cơ bản kế thừa Hiến pháp năm 1992. Tuyệt đại đa số ý kiến đồng ý với việc đưa nội dung về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh, Thủ đô lên chương I.
- Đa số ý kiến nhất trí với nội dung cơ bản và kết cấu của Chương I và cho rằng, về cơ bản Dự thảo tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của chế độ chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992 đồng thời làm rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn đề về:
- Chính thể của nước ta là Cộng hòa XHCN Việt Nam, là một nước dân chủ, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; bổ sung và phát triển nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” theo tinh thần của Cương lĩnh; khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.Ðảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Ðảng và Ðảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Quy định rõ các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước; khẳng định Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; bổ sung quy định về nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân; khẳng định và thể hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; khẳng định nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với tất cả các nước, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
Về tên chương: Có 1.513.796 ý kiến
Có ý kiến cho rằng: Chương I có tiêu đề là “chế độ chính trị” nhưng trong nội dung chương chỉ có Điều 4, Điều 9, Điều 10, Điều 12 là nói đến chế độ chính trị, những điều còn lại đều có nội dung nói về thể chế Nhà nước. Vì vậy đề nghị sửa đổi tên Chương I đầy đủ là: Nhà nước và chế độ chính trị hoặc chế độ chính trị và thể chế Nhà nước.
Có ý kiến đề nghị phải có quy định về nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền và xác định: người dân có quyền làm những gì mà pháp luật không cấm; công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.
1. Điều 1: Có 314.679 ý kiến
- Đa số ý kiến đề nghị không cần thiết phải thêm từ “dân chủ” vào Điều 1 này mà nên giữ như Hiến pháp hiện hành, vì Điều 1 là khẳng định về chủ quyền quốc gia, không đề cập về bản chất của chế độ, vì thế nên để từ “dân chủ” ở các điều sau sẽ phù hợp hơn.
- Một số ý kiến đề nghị đặt cụm từ “độc lập” trước cụm từ “dân chủ” để trở thành câu: “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, dân chủ…”, như vậy sẽ logic hơn vì có độc lập mới có dân chủ.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “yêu chuộng hòa bình”, đồng thời đưa cụm từ “có chủ quyền” lên trước để phù hợp thực tế của đất nước hiện nay đồng thời khẳng định sự tồn tại, phát triển của đất nước có kế thừa từ hàng ngàn năm; bổ sung thêm các cụm từ: vùng biển, thềm lục địa, lòng đất thì mới đầy đủ và đảm bảo an toàn về an ninh, cụ thể sửa thành: “…Bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển, vùng trời và lòng đất”; bổ sung Quần đảo Hoàng sa và Trường Sa vào Hiến pháp để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này và thể hiện sự nhất quán, nhất trí của nhân dân Việt Nam về bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Một số ý kiến đề nghị sửa lại là “…Toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm: đất liền và các hải đảo, vùng biển, vùng trời, quần đảo Hoàng sa, Trường sa, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế bất khả xâm phạm.”
- Một số ít ý kiến đề nghị đổi tên “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thành “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” như bản Hiến pháp năm 1946 vì kinh tế nước ta đang ở trình độ đang phát triển với chế độ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
2. Điều 2: Có 568.482 ý kiến
Ở đoạn 1, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp khẳng định “… tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” là chưa phù hợp với tình hình hiện nay vì nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng hiện nay đã khác trước, cơ cấu giai tầng xã hội cũng khác trước. Trước đây cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc, nên nền tảng cách mạng là liên minh giai cấp công nhân với nông dân và trí thức. Hiện nay, thời kỳ quá độ lên CNXH, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc thì rất cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài, phấn đấu vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nếu giới hạn chỉ có giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức thì còn các lực lượng xã hội khác trong xã hội như đội ngũ doanh nhân, thương nhân, tiểu thương, nghệ sỹ…đang là lực lượng vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, góp phần giải quyết an sinh xã hội…thì vị trí của họ ở đâu. Vì vậy, đa số ý kiến đề nghị sửa lại là: “… Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung vai trò của “doanh nhân” vì quy định“… mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” là không phù hợp với giai đoạn hiện nay, không phù hợp với tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, đề nghị sửa thành “… Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân với đội ngũ trí thức và doanh nhân”.
Ở đoạn 2, đa số ý kiến đồng tình với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã bổ sung yếu tố “kiểm soát” quyền lực nhà nước, vì Hiến pháp khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì đương nhiên tất cả các quyền lực phải thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng khi có quyền lực là có nguy cơ lạm quyền, lộng quyền và tha hóa quyền lực và cũng không thể khẳng định khi trao quyền lực cho một ai đó thì có thể khẳng định và bảo đảm người đó làm đúng, làm tốt mà nhất thiết phải có cơ chế kiểm soát, không những thế khi người dân trao quyền lực thì phải có cơ chế kiểm soát để đảm bảo quyền lực trong tay nhân dân và vì lợi ích của nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm ở cuối đoạn 2 như sau: “Các cơ quan lãnh đạo đất nước và quản lý xã hội đều là công bộc của nhân dân, phục vụ nhân dân, được nhân dân ủy quyền thực hiện chức năng quản lý, lãnh đạo đất nước và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước pháp luật về hoạt động của mình”.
- Có ý kiến đề nghị nên tách đoạn "quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, có sự kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiên quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" thành một điều khác vì đoạn này là một nội dung mang tính nguyên tắc chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước có tính chất và ý nghĩa khác hẳn đoạn trên.
3. Điều 3: Có 499 ý kiến
- Nên bỏ cụm từ “phát huy” và giữ nguyên cụm từ “về mọi mặt” trong Hiến pháp 1992 và sửa đổi, bổ sung như sau: “Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân…”, vì: Nhà nước đảm bảo quyền dân chủ về mọi mặt của nhân dân, có nghĩa là Nhà nước phải thực hiện các nghĩa vụ để cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, việc “phát huy quyền làm chủ của nhân dân” chỉ là việc thực hiện chức năng của nhà nước.
- Có ý kiến đề nghị thêm cụm từ và bình đẳng vào sau cụm từ “toàn diện”.
- Đề nghị giữ nguyên cụm từ “Nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân” như Hiến pháp 1992 hiện hành.
- Bổ sung cụm từ quyền giám sát tối cao của nhân dân và viết lại thành Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quyền giám sát tối cao của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu...
4. Điều 4: Có 312.105 ý kiến
Vấn đề vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm và đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết. Các ý kiến đều khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được quy định trong Hiến pháp là khách quan, phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam.
Những góp ý cụ thể:
Thứ nhất: Về kết cấu, so với Hiến pháp năm 1992 thì Điều 4, Dự thảo sửa đổi quy định thành 3 khoản đầy đủ, rõ ràng hơn. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị: Vị trí, vai trò của Đảng CSVN phải được quy định thành một chương trong Hiến pháp như Quốc hội, Chính phủ… đồng thời ngôn từ nói về Đảng trong Hiến pháp không nên giống như trong Điều lệ Đảng mà phải được viết rõ hơn để nhân dân thấy rõ bản chất của Đảng luôn luôn đổi mới, tự hoàn thiện để lãnh đạo Nhà nước và xã hội; đồng thời phải quy định rõ thiết chế Đảng chịu sự giám sát của nhân dân.
Cũng có một số ý kiến cho rằng: cần phải có Luật về Đảng, để điều chỉnh mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và với nhân dân, Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, để hoạt động của Đảng công khai, minh bạch, MTTQ, các cơ quan hành pháp, lập pháp đều có luật, Đảng là cơ quan lãnh đạo Nhà nước và xã hội lại chưa có luật (Điều lệ Đảng chỉ giới hạn điều chỉnh trong nội bộ Đảng)…
Thứ hai: Những quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trong Điều 4 Dự thảo Hiến pháp phải được thể hiện rõ, vì thực tiễn đã chứng minh 83 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược và lãnh đạo công cuộc đổi mới đạt được những kết quả quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.
Từ thực tiễn đó, Điều 4 Hiến pháp cần được sửa đổi để khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, mà còn là của cả dân tộc Việt Nam. Ở nước ta đã từng có chế độ đa nguyên đa đảng nhưng các đảng đó đã tự giải tán khi hoàn thành sứ mạng lịch sử. Thực tiễn ở nước ta hiện nay phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền là phù hợp.
Cụ thể:
Qua tổng hợp, Hầu hết các ý kiến đồng tình và tán thành cao với việc Hiến pháp kế thừa quy định về vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với các nội dung được sửa đổi, bổ sung thêm.
Nhiều ý kiến đề nghị bỏ liên từ “đồng thời” trong đoạn “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc”, vì nếu để như Dự thảo dẫn đến cách hiểu là có sự coi trọng bên này hơn bên kia. Bỏ liên từ “đồng thời” trong đoạn trên là để khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Một số ý kiến cho rằng việc bổ sung thêm khoản 2 quy định “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” là cần thiết nhưng chưa đủ. Lập luận về vấn đề này, các ý kiến cho rằng khi nói trách nhiệm trước nhân dân thì đó mới là trách nhiệm chính trị. Tuy nhiên, cùng với trách nhiệm chính trị cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi tổ chức Đảng và đảng viên có quyết định sai trái làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, trách nhiệm của Đảng cầm quyền phải cao hơn về vị thế pháp luật so với các tổ chức khác. Mặt khác, với vai trò lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội, thì trách nhiệm đặt ra đối với Đảng cũng phải là trách nhiệm toàn diện trong toàn bộ hoạt động của mình chứ không thể chỉ dừng lại đối với những gì liên quan đến quyết định của Đảng. Nhiều ý kiến đề nghị nên thay nội dung “chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” bằng nội dung “chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo của mình”. Một số ý kiến đề nghị cần quy định rõ cơ chế nhân dân giám sát Đảng trong Hiếp pháp.
Một số ý kiến đề nghị cần có luật về sự lãnh đạo của Đảng để cụ thể hóa nội dung “các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” vì cho rằng cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý” không được đưa vào lời nói đầu, cũng như chưa được cụ thể hoá đầy đủ, sâu sắc trong Hiến pháp và pháp luật. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: "Vai trò lãnh đạo của Đảng cần được đảm bảo bằng pháp luật và do luật định”. Lập luận về vấn đề này, các ý kiến cho rằng nếu ban hành luật về sự lãnh đạo của Đảng thì luật này sẽ điều chỉnh mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, với Nhà nước và xã hội; tạo điều kiện để nhân dân có cơ sở pháp lý để tham gia xây dựng Đảng, giám sát và bảo vệ Đảng.
Bên cạnh đó, có một số đề xuất cụ thể:
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ và trước pháp luật vào sau cụm từ “chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
- Có ý kiến đề nghị sửa lại là: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhà nước, xã hội và nhân dân về Cương lĩnh, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và những quyết định của mình.
- Đề nghị thêm cụm từ lợi ích chính đáng của vào giữa cụm từ “phục vụ nhân dân” và sửa lại là: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ Cộng sản Việt Nam sau từ “Đảng” và cụm từ chăm lo đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân vào sau cụm từ “phục vụ nhân dân”.
- Đề nghị viết lại là: Đảng cộng sản Việt Nam phải không ngừng phấn đấu, xây dựng, trưởng thành. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những hoạt động của mình.
Đa số các ý kiến đồng tình với Dự thảo sửa đổi quy định về hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên đều phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, có nghĩa là tổ chức Đảng và đảng viên vi phạm pháp luật thì không chỉ bị xử lý theo pháp luật mà còn bị xử lý theo quy định của Điều lệ Đảng. Không thể lấy việc xử lý sai phạm theo pháp luật để thay cho kỷ luật của Đảng.
- Có ý kiến cho rằng quy định "các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” chưa thể hiện được bổn phận rất lớn của Đảng cầm quyền. Vì vậy nên sửa thành: "Vai trò lãnh đạo của Đảng cần được đảm bảo bằng pháp luật và do luật định”.
- Đề nghị thêm từ phải thành “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân”.
- Đề nghị sửa thành: Các tổ chức Đảng và đảng viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành động và kết quả của mình.
- Nhiều ý kiến đề nghị sửa thành: Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo của mình.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm Khoản 4 trong Điều 4: “Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là Chủ tịch Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” vì Việt Nam chỉ có một Đảng chính trị duy nhất giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội; mặt khác Hiến pháp quy định Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang, nhưng trong thực tế, người giữ vị trí cao nhất trong quân đội là Bí thư quân ủy Trung ương, Bí thư quân ủy lại là Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng. Hiến pháp ghi: Chủ tịch nước có quyền đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ. Nhưng Chủ tịch Nước không thể làm trái Nghị quyết của Bộ Chính trị, của BCH Trung ương Đảng. Do đó việc Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Nước là hợp lý.
- Có ý kiến đề nghị gộp khoản 2 và khoản 3 thành một khoản và đổi vị trí cho nhau, đồng thời bổ sung cụm từ: theo luật định và kết cấu lại là: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân; chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình theo luật định”.
- Đề nghị bổ sung cụm từ: chịu trách nhiệm trước pháp luật sau cụm từ “trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
- Một số ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn về phương thức lãnh đạo Nhà nước, xã hội của Đảng, cần quy định các tổ chức Đảng và Đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
5. Điều 5: Có 3.319 ý kiến
Khoản 1.
Một số ý kiến không tán thành trong dự thảo sử dụng cụm từ “các dân tộc” vì cụm từ “các dân tộc” chưa thể hiện tính thống nhất cao trong khối đại đoàn kết, cụm từ này thường được sử dụng khi nói đến các dân tộc trên thế giới, đối với một quốc gia thì nên dùng cụm từ “tộc người” thì chính xác hơn; đề nghị bỏ câu “… sinh sống trên đất nước Việt Nam”, vì chưa thể hiện tính bao quát toàn diện đối với mọi công dân Việt Nam, nếu dùng câu trên thì những công dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài thì như thế nào. Vì vậy, đề nghị sửa lại là: Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của dân tộc Việt Nam; đổi cụm từ “đất nước” thành lãnh thổ và sửa thành: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Khoản 2.
Có ý kiến đề nghị chuyển cụm từ “Đoàn kết” lên trước cụm từ “Bình đẳng” vì cần nhấn mạnh sự đoàn kết của các dân tộc rồi sau đó mới bình đẳng; bổ sung cụm từ có quyền trước cụm từ “bình đẳng” và sửa thành: Các dân tộc có quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; bổ sung từ “đoàn kết” sau từ “chia rẽ” cho đủ ý và viết là: “nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ đoàn kết dân tộc”.
Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị thêm cụm từ “dân tộc” và sửa thành: Các dân tộc có quyền…tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình; Có ý kiến đề nghị sửa thành: Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc văn hóa và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của mình.
- Nên quy định thêm chữ quốc ngữ là chữ thống nhất được sử dụng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước của nước CHXHCN Việt Nam.
Khoản 4.
Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “thiểu số”, để tạo sự bình đẳng giữa các dân tộc, phát huy sức mạnh của toàn dân, Nhà nước không nên chỉ phát triển toàn diện và tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số mà phải cho tất cả các dân tộc Việt Nam phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước, bổ sung cụm từ đảm bảo trước cụm từ “thực hiện” và sửa thành: “Nhà nước đảm bảo thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước”.
- Đề nghị thay cụm từ “thiểu số” bằng từ “Việt Nam” và viết lại là: Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc Việt Nam phát huy nội lực, hoà nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
6. Điều 6: Có 1.579 ý kiến
- Nhiều ý kiến tán thành với các sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo để làm rõ hơn, đầy đủ hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện không chỉ thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng quy định như Dự thảo là chưa đầy đủ và đề nghị cần bổ sung thêm việc nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (bao gồm Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận). Trong thực tế, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân mà còn có vai trò đại diện cho nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các hoạt động tham gia xây dựng chính quyền như tham gia tổ chức các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân; tham gia xây dựng pháp luật; giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước… Hơn nữa, việc bổ sung chủ thể này cũng nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng được khẳng định liên tục, xuyên suốt qua các văn kiện Đại hội X, XI, nhất là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
- Đa số ý kiến tán thành với việc sửa đổi, bổ sung Điều 6, đó là nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước chứ không phải sử dụng quyền lực và đã thể hiện rõ hình thức thực hiện là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và các cơ quan khác của Nhà nước. Như vậy việc thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân được mở rộng. Tuy nhiên các ý kiến cũng cho rằng quy định như trên là chưa đầy đủ mà đề nghị bổ sung thêm: các cơ quan khác của Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội. Vì MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được Hiến pháp thừa nhận và có chức năng bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân; nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và tập hợp, tổng hợp, phản ánh ý kiến của nhân dân, đồng thời vận động nhân dân phát huy quyền dân chủ.
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần nầy có ghi “Nhân dân thực hiện quyền nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước”nhưng chưa rõ, chưa cụ thể còn nặng về lí luận, chưa chỉ rõ cơ chế thực hiện và thực hiện ở những vấn đề gì. Vì vậy, nên quy định rõ nhân dân thực hiện “dân chủ trực tiếp” ở những nội dung, lĩnh vực cụ thể nào.
- Cụm từ "cơ quan khác" trong đoạn "Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" là trừu tượng, nên thay vào đó cụm từ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận hoặc: Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Không cần viết riêng Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
- Đề nghị thay đoạn "thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" bằng thông qua các cơ quan Nhà nước bởi lẽ: Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều là cơ quan Nhà nước, đều nhận và thực hiện quyền lực Nhà nước. Chúng chỉ khác nhau ở cách thưc thành lập và nhiệm vụ, quyền hạn. Do vậy, việc phân biệt Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước như trong dự thảo Hiến pháp là không cần thiết, đồng thời khi quy định phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước thì cũng nên quy định luôn trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước nhân dân thì phù hợp hơn.
- Có ý kiến đề nghị ghép Điều 6 vào Điều 2 vì nghĩa của hai điều này gần như nhau hoặc ghép thành khoản 1 của Điều 7 để cùng thể hiện về hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
7. Điều 7: Có 8.404 ý kiến
Để đảm bảo tính khả thi trong quá trình áp dụng quy định này, cần làm rõ cơ chế để cử tri bãi nhiệm đại biểu quốc hội, đại biểu HĐND. Bên cạnh đó khi Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền cần quy định rõ tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách đạt từ 2/3 trở lên.
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị sửa lại là: Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được tiến hành…., viết như vậy mới đầy đủ vì Hội đồng nhân dân có cả ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; bỏ từ “việc” và viết là: Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Câu văn ngắn gọn và rõ hơn; bổ sung cụm từ “dân chủ” vào sau từ “phổ thông” mới đầy đủ ý nghĩa, sửa lại là: “Việc bầu cử….theo nguyên tắc phổ thông, dân chủ, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”; bổ sung từ “đầu phiếu” vào sau cụm từ “nguyên tắc phổ thông”. Mỗi phiếu bầu chỉ in họ và tên một ứng cử viên (tránh tình trạng gạch đầu, gạch đuôi ứng cử viên trong cùng một danh sách ứng cử).
Khoản 2.
- Đề nghị sắp xếp lại cho hợp lý như sau: “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì bị cử tri hoặc Quốc hội, HĐND bãi nhiệm”; Bổ sung thêm từ “đề nghị” vào vào sau từ “cử tri” để đảm bảo tính thực thi tại Khoản 2 và cụm từ “vi phạm pháp luật hoặc’’ vào sau “đại biểu đó” thành “Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND bị cử tri đề nghị hoặc Quốc hội, HĐND bãi nhiệm khi đại biểu đó vi phạm pháp luật hoặc không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
- Bỏ từ “cử tri” vì theo quy định tại Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Điều 17 và Điều 25 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì việc bãi nhiệm Đại biểu Quốc hội và HĐND thuộc thẩm quyền của Quốc hội và HĐND. Mặt khác, trong thực tiễn không thể tổ chức để cử tri biểu quyết bãi nhiệm Đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp; bỏ từ “xứng đáng với”. Nên viết là “Đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân bị Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn sự tín nhiệm của nhân dân”.
- Thay từ “bị” bằng từ “khi”, thay từ “khi” bằng từ “thì” và sửa lại là: "Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm thì đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân".
- Cần khẳng định vị trí, vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân ngay tại điều 7; cần cân nhắc quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân; bổ sung quy định về nguyên tắc phân bổ thành phần đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân tại điều 7 này để làm cơ sở cho Luật bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân quy định cụ thể về tỷ lệ các thành phần tham gia Quốc hội, Hội đồng nhân dân, trong đó cần giảm thiểu các quan chức hành pháp, tư pháp đồng thời là đại biểu Quốc hội.
8. Điều 8: Có 98.107 ý kiến
Khoản 1.
- Đề nghị thêm từ “công khai, minh bạch” vào sau từ “dân chủ” để hiến định hóa việc công khai, minh bạch trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước; bỏ cụm từ “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”, sửa thành: "Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật"; bổ sung cụm từ “không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” và viết lại như sau: “quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa…”
Khoản 2.
- Thay từ “phải” bằng cụm từ “Có trách nhiệm”, thêm cụm từ “gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với nhân dân” trước cụm từ “tôn trọng nhân dân”. Nên viết là: “…Cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm tôn trọng nhân dân, gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với nhân dân …”; bỏ từ “phải tôn trọng nhân dân”, vì cán bộ là công bộc của dân, phải vì dân, phải suốt đời phục vụ nhân dân, là công bộc của dân rồi, tất nhiên phải tôn trọng, lễ phép với dân.. Nên sửa như sau: “Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức phải tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”; thêm cụm từ “lắng nghe ý kiến của nhân dân” và sau cụm từ “tôn trọng nhân dân”; thay cụm từ “chống tham nhũng” bằng cụm từ “không tham nhũng”, vì đã là cán bộ, công chức, viên chức thì phải là những người có đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật tốt thì phải không tham nhũng, quan lieu, hách dịch, cửa quyền. Viết lại là: “Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; không tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “chống tham nhũng” bằng cụm từ “không được tham nhũng” vì dùng từ chống tham nhũng thường được hiểu là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của toàn dân còn với cán bộ, công chức thì phải quy định rõ trách nhiệm của mình trước nhân dân là “Không được tham nhũng”.
Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị thêm từ “có trách nhiệm” vào trước từ “phòng, chống” thành “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và Luật pháp, có trách nhiệm phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật”; bổ sung: ”Nghiêm cấm các hành vi tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm chống lãng phí.”; bỏ từ "phòng" và từ "chống". Viết lại là: "Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, cấm các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật".
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm ý và sửa lại là: ”Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phòng, chống các hành vi, vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Nghiêm khắc xử lý mọi hành vi vi phạm làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước.”; bỏ cụm từ "phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật" và bổ sung bằng cụm từ "mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều bị xử lý" như sau "Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều bị xử lý".
- Có ý kiến đề nghị giữ đoạn cuối của Điều 12 Hiến pháp hiện hành và đưa vào cuối Khoản 3 của Dự thảo sửa đổi, câu: “Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật” với lý do: Điều 8 Dự thảo sửa đổi được phát triển trên cơ sở Điều 8 và Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 và chỉ đề cập đến việc “phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật” là chưa đủ. Câu hỏi đặt ra là liệu quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về việc xử lý đối với các hành vi xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân sẽ được thực hiện như thế nào. Do đó cần phải thể hiện sự tôn nghiêm của pháp luật bằng việc khẳng định như trên.
9. Điều 9: Có 202.733 ý kiến
Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến tham gia, đa số các ý kiến đề nghị bổ sung các vấn đề có tính chất cơ bản sau đây về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
- Thứ nhất, đề nghị bổ sung nội dung về vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị”.
Nội dung này đã được ghi trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
- Thứ hai, đề nghị bổ sung chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”.
Việc bổ sung chức năng này nhằm thể chế hoá quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội X của Đảng đã ghi: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã ghi đầy đủ hơn: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân…”.
Chức năng này hoàn toàn không chồng chéo với vai trò đại diện của Đảng, Nhà nước. Đảng đại diện cho nhân dân, cho toàn dân tộc với vị trí là tổ chức lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; Nhà nước đại diện cho nhân dân với vị trí là chính quyền nhân dân, thực hiện việc ban hành chính sách, pháp luật, quản lý điều hành kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…; còn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức đại diện rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân, gắn kết với nhân dân, có vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước như khẳng định tại nhiều nghị quyết của Đảng.
Thực tế nhiều năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích cho nhân dân trong các lĩnh vực như: tham gia xây dựng chính sách, pháp luật; bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; giám sát đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước; giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của Nhà nước; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh với cơ quan có thẩm quyền…
Từ đó, đề nghị sửa đổi nội dung “cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân” bằng nội dung “đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”, vì vấn đề “cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân” chỉ là một trong những phương thức phối hợp cụ thể của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước không nên quy định trong Hiến pháp. Vấn đề “đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân” có nội hàm rộng hơn.
- Thứ ba, không viết gộp: “giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức” vì đối tượng giám sát, phản biện xã hội là khác nhau. Hiến pháp chỉ cần ghi nhận có tính nguyên tắc, nội dung cụ thể sẽ được cụ thể hoá trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các luật chuyên ngành khác.
- Thứ tư, cần bổ sung nhiệm vụ có tính chất bao trùm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo chủ trương của Đảng và trong thực tiễn nhiều năm qua đã làm, đó là “tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đồng thời, đề nghị thay cụm từ “tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân” bằng cụm từ “tăng cường sự đồng thuận trong xã hội” như trong Nghị quyết Đại hội X của Đảng, (Mục X - Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
- Thứ năm, đề nghị bổ sung nhiệm vụ “tham gia xây dựng Đảng” cho phù hợp với chủ trương của Đảng, Điều 4 Dự thảo Hiến pháp và thực tiễn nhiều năm qua trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có nhiệm vụ làm công tác đối ngoại nhân dân, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế, hỗ trợ cho công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao của Nhà nước. Vì thế cần bổ sung vào Dự thảo nhiệm vụ “đối ngoại nhân dân” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Về khoản 3: đề nghị thay cụm từ “tạo điều kiện” tại khoản 3 của Dự thảo bằng cụm từ “bảo đảm điều kiện” để MTTQ Việt Nam hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, nên thay cụm từ “các tổ chức xã hội khác” bằng “các tổ chức thành viên của Mặt trận” để phù hợp với hệ thống tổ chức của MTTQ Việt Nam.
Trên cơ sở những nội dung nêu trên, đa số các ý kiến đề nghị sửa Điều 9 theo một trong hai phương án sau:
Phương án 1:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Mặt trận tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, thực hiện giám sát, phản biện xã hội và hoạt động đối ngoại nhân dân.
3. Nhà nước bảo đảm điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả”.
Phương án 2 (bao gồm cả 05 đoàn thể chính trị - xã hội)
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Mặt trận tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, thực hiện giám sát, phản biện xã hội và hoạt động đối ngoại nhân dân.
3. Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình.
4 . Nhà nước bảo đảm điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả”.
10. Điều 10: Có 1386 ý kiến
- Nhiều ý kiến cho rằng Điều 10 chỉ quy định về Công đoàn Việt Nam, mà không có điều nào quy định về các đoàn thể chính trị - xã hội khác là không đầy đủ vì Công đoàn cũng chỉ là một tổ chức tương đương về vị trí xã hội như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên…, đề nghị có hai hướng:
Thứ nhất: Nếu đã có quy định về tổ chức Công đoàn Việt Nam thì phải có quy định tương tự về các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên; Hội Phụ nữ; Hội Nông dân; Hội Cựu chiến binh vì các hội này đều do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, đoàn viên đông đảo của tổ chức mình…, đang có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai: Không cần quy định riêng về tổ chức chính trị - xã hội trong Hiến pháp, cũng như có Điều 10 về tổ chức Công đoàn vì đã có quy định tại Điều 9, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đủ, nói đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đã bao gồm trong đó các tổ chức thành viên; nếu để Điều 10 dễ phát sinh nhận thức cho rằng Nhà nước coi trọng tổ chức Công đoàn hơn các tổ chức khác, vì vậy nếu bổ sung thêm một khoản ở Điều 9 về các đoàn thể chính trị - xã hội sẽ phù hợp hơn.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác” vào trước cụm từ “người lao động...”, thêm cụm từ “chính đáng” trước cụm từ “của người lao động…”; đề nghị viết là: “…đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động...”; bổ sung từ “chính đáng” và từ “nghiêm” và sửa lại thành: "...bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động..." và "...vận động người lao động....chấp hành nghiêm pháp luật,..."; bổ sung từ “quyền” để tổ chức công đoàn có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những chính sách và pháp luật tác động trực tiếp đến người lao động và có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách và pháp luật của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp liên quan đến công nhân viên chức lao động.
11. Điều 11: Có 454 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị đưa Điều 11 lên vị trí Điều 3 vì sau khi khẳng định Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm thì mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền đều bị nghiêm trị theo phát luật; đề nghị bổ sung cụm từ “mọi công dân có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.”; bổ sung “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” vào cuối Khoản 1; đề nghị chuyển lên Điều 1 vì Tổ quốc Việt Nam phải có vị trí hàng đầu rồi mới đến dân tộc, đến Đảng, Nhà nước; ghép Điều 47 vào sau điều 11 vì cùng nội dung về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Khoản 2.
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “xâm hại lợi ích quốc gia và nhân dân” trước cụm từ "chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc" và sửa thành: “Mọi hành vi xâm phạm… chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị theo pháp luật”; bổ sung cụm từ “quyền chủ quyền” sau từ “chủ quyền” để đảm bảo đầy đủ về quyền của dân tộc Việt Nam; bổ sung cụm từ “Việt Nam xã hội chủ nghĩa” sau cụm từ ”bảo vệ Tổ quốc” để trở thành: “sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”; Bổ sung cụm từ “xã hội chủ nghĩa” sau cụm từ “…bảo vệ Tổ quốc” để trở thành: ”chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” bằng “… chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; bổ sung cụm từ “Việt Nam xã hội chủ nghĩa” sau cụm từ “…bảo vệ Tổ quốc” và sửa lại thành: “Mọi hành vi … xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật”; đề nghị bổ sung cụm từ “phá hoại khối lại đoàn kết toàn dân tộc” vào trước cụm từ "đều bị nghiêm trị theo pháp luật"; bổ sung cụm từ “gây chia rẽ, mất đoàn kết các dân tộc” vào sau cụm từ "xây dựng và bảo vệ tổ quốc”; bổ sung cụm từ “làm phương hại” vào sau từ “chống lại”; bổ sung từ “phỉ báng” vào sau từ “Mọi hành vi”; đề nghị sửa thành: “mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị theo pháp luật”.
12. Điều 12: Có 136 ý kiến
Các ý kiến cơ bản nhất trí với Dự thảo, tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng về chính sách đối ngoại của nước ta cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới; khẳng định nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với tất cả các nước, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
- Có ý kiến đề nghị các Điều 11, 12, 13, 14 nên để ngay sau Điều 3 cho phù hợp, bởi vì những quy định về Tổ quốc, về độc lập chủ quyền của Tổ quốc, về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh cần đặt trước các Điều 9 và 10 quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn; bổ sung cụm từ “Việt Nam xã hội chủ nghĩa” sau cụm từ “bảo vệ Tổ quốc” để trở thành: “Mọi hành vi … xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”; đề nghị bỏ cụm từ “không phân biệt chế độ chính trị và xã hội”; bổ sung cụm từ: “của Đảng cộng sản Việt Nam” sau từ “nhất quán đường lối” để trở thành: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, đối ngoại...."; đề nghị thêm cụm từ “bảo vệ môi trường trái đất” vào trước cụm từ “và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
13. Điều 13: Có 1.235 ý kiến
Khoản 1, 2. Nhiều ý kiến cho rằng cần quy định chính xác về tỉ lệ để tránh tùy tiện. Một số ý kiến đề nghị phải ghi cả tác giả của Quốc huy và cờ Tổ quốc.
Khoản 3. Để tránh nhầm lẫn với tên bài hát của tác giả khác, đề nghị ghi rõ là: “Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bài “Tiến quân ca”, nhạc và lời của nhạc sĩ Văn Cao”, hoặc: “Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đoạn 01, bài “Tiến quân ca”, nhạc và lời của nhạc sĩ Văn Cao” để dễ hát, dễ thuộc và không quá dài.
- Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu Quốc ca mới để phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Khoản 4. Có ý kiến đề nghị nên viết gọn và đầy đủ là: “Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Ngày 02 tháng 9 năm 1945”; bổ sung khoản 5 cụ thể như sau: “Nghiêm cấm các hành vi phá hoại, bôi nhọ, xuyên tạc Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Điều 14: Có 201 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị nên bổ sung thêm từ “Thành phố” vào trước cụm từ “Hà Nội” vì: Thành phố Hà Nội là một đơn vị hành chính trên lãnh thổ Việt Nam và sửa thành: “Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành phố Hà Nội”.
- Có ý kiến đề nghị nên ghép Điều 14 vào Điều 13 vì quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc Khánh và Thủ đô vào một điều là hợp lý.
CHƯƠNG II
QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN
CỦA CÔNG DÂN
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Có 1.747.131 ý kiến
Các ý kiến đều cho rằng, những quy định tại Chương II là điểm mới của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp so với Hiến pháp năm 1992. Dự thảo đã tách bạch quyền con người với quyền công dân, bổ sung một số quyền con người và thể hiện sự chú trọng quyền con người, quyền công dân bằng cách đưa Chương quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân lên vị trí thứ 2, sau chương Chế độ chính trị. Đây là bước tiến trong lịch sử lập hiến của nước ta. Tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng, quy định về quyền con người, quyền công dân trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vẫn còn một số thiếu sót, hạn chế cần phải được đánh giá một cách khách quan và cần được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Về tên gọi của chương: Việc sửa đổi tên chương “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” là hợp lý. Đồng thời, các quy định trong chương II cũng đã có sự phân biệt khá rõ ràng, mạch lạc về quyền con người và quyền công dân.
- Các điều, khoản trong Chương II cần được sắp xếp một cách khoa học theo thứ tự: Quyền con người rồi mới đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đề nghị đổi vị trí Điều 16 với Điều 18; Điều 37 cần được đặt đúng vị trí nằm trong nhóm quyền về dân sự, chính trị nghĩa là vị trí của Điều 37 thực ra phải là Điều 24, ngay sau quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở Điều 23.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 15: Có 79.420 ý kiến
Khoản 1.
Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" và sửa lại là: “Quyền con người, quyền công dân được Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”; bỏ từ “ở” tại đầu dòng, bỏ cụm từ "được nhà nước và xã hội ", "Hiến pháp và", thêm các cụm từ “bảo đảm, các quyền con người và quyền công dân” và sửa lại là: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam bảo đảm quyền con người và quyền công dân; thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người và quyền công dân theo pháp luật"; hoán đổi cụm từ “quyền con người, quyền công dân...” lên đầu câu để trở thành: “Quyền con người, quyền công dân ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được nhà nước và xã hội thừa nhận...”
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị sửa là: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”. Để khắc phục sự tùy tiện trong các văn bản dưới luật, các cơ quan Nhà nước nên bổ sung vào Khoản 2 nội dung "việc giới hạn quyền con người, quyền công dân trong những trường hợp này do luật định".
- Có ý kiến đề nghị sửa lại là “sức khoẻ của cộng đồng, thuần phong mỹ tục của dân tộc”. Có ý kiến nên bỏ cụm từ “chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết …, sức khỏe cộng đồng” thành “quyền con người, quyền công dân chỉ bị giới hạn bởi quyết định đúng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền”; đề nghị sửa lại là: “quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp này được nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm”; bổ sung cụm từ “truyền thống văn hóa” sau cụm từ “đạo đức” để trở thành: “an toàn xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm Khoản 3: “Nghiêm cấm mọi hành vi, ngăn cản, hạn chế, xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Lý do để khẳng định quyền công dân là bất khả xâm phạm.”
- Có ý kiến cho rằng không nên quy định: “quyền con người, … được Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm…” vì, quyền con người vốn có, không phụ thuộc vào việc pháp luật có thừa nhận hay không thừa nhận.
2. Điều 16: Có 22.274 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "hợp pháp” trước cụm từ "của người khác”. Cụ thể: "Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền hợp pháp của người khác" Lý do là quy định như vậy mới chặt chẽ, hợp lý. và đề nghị sửa lại như sau: “Mọi người đều phải tôn trọng quyền của người khác, nếu quyền ấy không xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, xã hội, công đồng và lợi ích của người khác”; bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào sau từ “khác” thành “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác theo quy định của pháp luật”; bổ sung cụm từ “chính đáng” trước cụm từ “của người khác” hoặc thêm cụm từ “hợp pháp” sau từ “quyền”. Đồng thời bổ sung thêm cụm từ “theo pháp luật quy định” sau cụm từ “người khác” vì như vậy sẽ rõ quyền của người khác là những quyền gì.
- Có ý kiến cho rằng: Quyền của người khác hay người thứ ba nằm trong “quyền và lợi ích công cộng”. “quyền của người khác” có nội hàm rất hẹp. Đề nghị bổ sung và viết lại Khoản 1 như sau: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền và lợi ích công cộng. Mọi vi phạm quyền và lợi ích công cộng đều bị nghiêm trị”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ nội dung Khoản 1, vì không phù hợp với bản chất của Hiến pháp; bản chất của Hiến pháp được coi như là một “khế ước” là “cam kết” giữa Nhà nước với nhân dân, vấn đề này thộc phạm vi điều chỉnh của Luật Dân sự. Vì thế, không nên đưa quyền và nghĩa vụ giữa các cá nhân với nhau vào Hiến pháp.
Khoản 2.
- Đa số ý kiến đề nghị thay từ “mọi người” bằng từ “công dân”; bổ sung cụm từ “lợi ích hợp pháp” vào trước cụm từ “của người khác” để trở thành: “Công dân có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi ích hợp pháp của người khác”; Đề nghị bổ sung cụm từ “lợi ích của tổ chức” để trở thành: “Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích của tổ chức, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Đề nghị bỏ từ “được” sau từ “không” để trở thành; “Không lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích hợp pháp của người khác”.
- Có ý kiến đề nghị chuyển Khoản 2 Điều 16 thành Khoản 3 của Điều 15, đồng thời sửa nội dung như sau: “Nghiêm cấm hành vi lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc” vì Khoản 1 Điều 15 Dự thảo quy định sự bảo hộ quyền con người, quyền công dân một cách chung nhất. Khoản 2 Điều 15 của Dự thảo đã đưa ra một điều kiện để hạn chế quyền; còn khoản 2 Điều 16 của Dự thảo thật ra cũng chỉ là điều kiện khác hạn chế quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, nếu cần bổ sung thì nên quy định thành một khoản (khoản 3) của Điều 15 là phù hợp, không nhất thiết phải quy định thêm Điều 16. Nếu để nguyên Điều 16 thì nên đổi vị trí xuống Điều 18 là hợp lý.
3. Điều 17: Có 44.745 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “mọi người” thành “mọi công dân” sửa thành: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị sửa là: “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”; Bổ sung thêm nội dung không phân biệt “dân tộc, giới tính, tôn giáo và màu da”. Vì việc phân biệt đối xử là vấn nạn không nhỏ ở một số quốc gia, và để rút kinh nghiệm, khi đã liệt kê thì liệt kê thêm những mục trên đảm bảo không phân biệt trên các mặt đời sống; Bỏ cụm từ “chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa” và sửa lại là: Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống xã hội; Đề nghị sổ sung từ “việc làm” và sửa như sau: “không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội và việc làm” vì hiện nay nhiều đơn vị không muốn nhận lao động là nữ.
- Có ý kiến đề nghị gộp 2 khoản thành một và sửa thành: “Mọi công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống xã hội.”; Đề nghị bổ sung nguyên tắc hưởng một số chính sách đặc thù phù hợp với một số nhóm công dân cần được hỗ trợ đặc biệt (trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ mang thai..) hoặc nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội như người khuyết tật.
4. Điều 18: Có 39.212 ý kiến
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị bỏ từ "thể" trước cụm từ “bị trục xuất” và thêm cụm từ "và không" trước cụm từ “giao nộp”. Viết lại là: “Công dân Việt Nam không bị trục xuất khỏi lãnh thổ nước cộng hòa XHCN Việt Nam và không giao nộp cho nhà nước khác.”
- Có ý kiến đề nghị Khoản 2 nên có phần nói về trường hợp người Việt Nam có từ 2 quốc tịch trở lên thì áp dụng điều, khoản nào khi họ vi phạm trên đất nước Việt Nam hoặc trên quốc gia mà họ đồng mang quốc tịch; Bổ sung cụm từ "khi không vi phạm pháp luật ở nước ngoài" trước cụm từ "giao nộp cho Nhà nước khác".
- Cần xem xét khi người có 2 quốc tịch mà nước đó và Việt Nam có kí kết về dẫn giải tội phạm nên cần thêm vào cuối khoản 2 điều này: "...trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định".
- Có ý kiến đề nghị bỏ Khoản 2.
Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ "quyền và lợi ích hợp pháp" thành: "Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp công dân Việt Nam ở nước ngoài" bởi chỉ có quyền và lợi ích hợp pháp mới được Nhà nước bảo hộ.
5. Điều 19: Có 4.832 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “không thể tách rời” vì quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam đã đầy đủ ý nghĩa.”
- Một số ý kiến nghị bổ sung: “Nhà nước bảo hộ kiều bào tham gia vào nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ để xây dựng đất nước” vì họ cần phải được tham gia một cách bình đẳng ở các hoạt động trong xã hội, kể cả tham gia hệ thống chính quyền chứ không phải chỉ là ở Mặt trận Tổ quốc như hiện nay, vì Kiều bào là bộ phận không tách rời với dân tộc cần có những quyền lợi, nghĩa vụ giống như những công dân trong nước.
- Có ý kiến đề nghị cần kế thừa điều 75 của Hiến pháp năm 1992 là: "Nhà nước bảo hộ các quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật nước sở tại".
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ: “…Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình, quê hương..” và thêm cụm từ: “hướng về Tổ quốc”, và “bảo vệ”. Viết lại thành: “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về Tổ quốc, góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước”. Đồng thời bổ sung thêm nội dung: “Người định cư ở nước ngoài đầu tư về Việt Nam được hưởng quyền lợi như người Việt Nam ở trong nước” vì Hiến pháp cần thể hiện thêm phần bảo hộ quyền lợi chính đáng về kinh tế cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “quê hương, đất nước” bằng cụm từ “Tổ quốc Việt Nam”.
6. Điều 20: Có 19.209 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị sửa thành: “Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ” và đảo lại vị trí của Khoản 1 và Khoản 2; Đề nghị bổ sung từ: “và gia đình” vào cuối câu để trở thành: “Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, xã hội và gia đình”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung đoạn: “duy trì, phát triển, nâng cao chất lượng giống nòi” trước cụm từ “thực hiện nghĩa vụ…” để trở thành: “Công dân có trách nhiệm duy trì, phát triển, nâng cao chất lượng giống nòi”.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “pháp” cho đầy đủ là pháp luật và sửa thành câu: “Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ điều này vì Hiến pháp đã có các quy định về các quyền và nghĩa vụ công dân rất cụ thể rồi.
7. Điều 21: Có 73132 ý kiến
Nhiều ý kiến cho rằng đây là quyền vốn có của con người, quy định về điều này có ý nghĩa pháp lý quan trọng, nhưng hiện nay ở Việt Nam chưa thể bãi bỏ hình phạt tử hình, do đó quy định này không khả thi và đề nghị:
- Một số ý kiến đề nghị sửa thành: “Mọi người có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bởi vì con người ta bên cạnh quyền được sống thì còn có mong muốn mưu cầu lợi ích riêng cho bản thân như học tập (theo Luật giáo dục), làm việc, kinh doanh buôn bán.v.v …Tuy nhiên, nếu liệt kê như vậy sẽ trở nên rườm rà và chưa hẳn đã hết ý. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) hiện còn áp dụng các trường hợp tử hình, tức là quy định các trường hợp người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng không có khả năng cải tạo, giáo dục thành người lương thiện, buộc phải loại bỏ người đó vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội. Quy định của Bộ luật Hình sự hiện nay sẽ mâu thuẫn với dự thảo Hiến pháp về quyền sống của con người. Do vậy, việc quy định "Mọi người đều có quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” hoặc “theo quy định của pháp luật” là hợp lý.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung: “Mọi người đều có quyền sống. Quyền sống của con người chỉ có thể bị tước bỏ bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”; Đề nghị ghép Điều 21 vào Khoản 1 Điều 22: “1. Mọi người có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm...”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “và được sống trong hòa bình” vào sau cụm từ “... có quyền sống” để nêu rõ nguyện vọng thiết tha được sống trong hòa bình của nhân dân Việt Nam và đề nghị thêm một khoản mới “Mọi người có quyền được học tập thường xuyên, học tập suốt đời trong một xã hội học tập; được học nghề, tạo việc làm, được sống trong môi trường hạnh phúc”.
- Có ý kiến đề nghị sửa thành: “Mọi người có quyền được bảo hộ về tính mạng, trừ trường hợp bị tước quyền sống theo quy định của pháp luật.” Quy định như vậy làm cơ sở ban hành luật chuyên ngành; Đề nghị bổ sung quyền được chết nhân đạo đối với những người bị bệnh hiểm nghèo không thể chữa trị, họ muốn chết để làm giảm gánh nặng cho xã hội và gia đình.
- Có ý kiến đề nghị ghép với Điều 21 với Điều 46 vì nội dung của 2 điều này cơ bản quy định về một lĩnh vực và có sự liên quan với nhau.
8. Điều 22: Có 23.588 ý kiến
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ "Việc bắt giữ người do pháp luật quy định” vào cuối Khoản 2 điều này. Lý do quy định như vậy mới đầy đủ, chặt chẽ, nhất là đối với những trường hợp bắt giữ đối tượng vi phạm pháp luật hoặc để bảo đảm an ninh nên buộc phải xâm phạm tự do thân thể cá nhân.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "mua bán" sau cụm từ "nghiêm cấm mọi hành vi" và viết lại là: "Nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xân phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người".
Khoản 3.
- Đề nghị bổ sung và sửa đổi với các nội dung: “Mọi người có quyền hiến mô,... phải được sự đồng ý của người đó hoặc đại diện hợp pháp của họ” vì người hiến mô có thể chưa đủ hành vi năng lực dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì phải được sự đồng ý của người đại diện hợp pháp của họ.
- Đề nghị bổ sung vào Khoản 3 sau cụm từ “hiến xác” là “..tự nguyện lúc còn sống hoặc di chúc sau khi chết theo quy định của pháp luật” và thêm cụm từ “và được pháp luật cho phép” vào cuối khoản 3 vì hiến xác, mô, bộ phận cơ thể có thể thực hiện lúc người đó sống hoặc khi đã chết.
9. Điều 23: Có 101.613 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị sửa: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình’; Đề nghị thay cụm từ “có quyền bất khả xâm phạm” bằng cụm từ “không được xâm phạm”; Đề nghị bỏ cụm từ “không được người đó đồng ý” sửa thành “phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật”; Bỏ cụm từ "bí mật" trước cụm từ "gia đình".
- Đa số ý kiến cho rằng quy định của Khoản 2 có mâu thuẫn giữa hai nội dung: Quy định “Mọi người có quyền bí mật thư tín, ....trao đổi thông tin riêng tư khác”, nhưng nội dung tiếp theo lại ghi là “việc bóc mở, kiểm soát...do pháp luật quy định” là không nhất quán dễ bị hiểu lầm và lạm dụng. Vì vậy đề nghị viết lại: “Trong trường hợp đặc biệt, vì lý do an ninh (chỉ một lý do an ninh) thì việc bóc mở... do pháp luật quy định”.
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 73 Hiến pháp năm 1992 vì quy định như Điều 73 Hiến pháp năm 1992 là khoa học, đầy đủ, phù hợp hơn quy định trong Dự thảo sửa đổi.
10. Điều 24: Có 7.213 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “và phải đăng ký nơi cư trú” trước cụm từ “theo quy định của pháp luật”; Đề nghị bổ sung nội dung: "Người nước ngoài và người không quốc tịch có mặt hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam có quyền tự do đi lại, cư trú, tự do ra khỏi và trở lại Việt Nam trong phạm vi luật định"; Đề nghị giữ nguyên như Điều 69 của Hiến pháp 1992 vì quy định như vậy là khoa học, phù hợp.
11. Điều 25: Có 37.764 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “hoạt động” trước cụm từ “tín ngưỡng, tôn giáo” vì hoạt động mới ảnh hưởng và cần điều chỉnh còn tin vào tôn giáo nào đó thì không ảnh hưởng, không cần điều chỉnh; Bổ sung cụm từ “được nhà nước công nhận” trước cụm từ “đều bình đẳng trước pháp luật”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “không ai có quyền bắt buộc theo hay không theo một tôn giáo nào”. Cụ thể: “Mọi người có quyền … tôn giáo không ai có quyền bắt buộc theo hay không theo một tôn giáo nào … trước pháp luật”; Bổ sung từ “tín ngưỡng” để trở thành “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tín ngưỡng tôn giáo nào…”
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị thay từ “Nơi thờ tự” thành “Cơ sở thờ tự” và thêm cụm từ “không ai có quyền bắt buộc theo hay không theo một tôn giáo nào" vào trước cụm từ “các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.”
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung đoạn: “không ai có quyền xúc phạm đến niềm tin, lý tưởng, giáo lý của các tôn giáo đang sinh hoạt hợp pháp” và “Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng theo pháp luật, hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước cho phép theo luật định; tạo điều kiện cho các tôn giáo thực hiện quyền dân sự” (tham gia chương trình xã hội hóa giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo..).
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung từ “và cơ sở” để trở thành: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, nơi thờ tự và cơ sở tôn giáo được pháp luật bảo hộ”; Bổ sung từ “những” và từ “đang sinh hoạt hợp pháp” và sửa thành "Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Những nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo đang sinh hoạt hợp pháp được pháp luật bảo hộ".
Khoản 3.
- Nhiều ý kiến đề nghị thay cụm từ “không ai” bằng cụm từ “mọi tổ chức, cá nhân” và sửa thành: Mọi tổ chức, cá nhân không được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
- Một số ý kiến đề nghị không dùng từ “lợi dụng” vì mang tính chủ quan nên dễ dẫn đến sự suy đoán tùy tiện của các cơ quan nhà nước và làm hạn chế quyền của con người, của công dân. Theo đó nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm; cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước chỉ làm những gì pháp luật quy định”.
- Có ý kiến đề nghị Dự thảo phải có quy định để tạo cơ chế cho việc xác định tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong các giao dịch dân sự.
12. Điều 26: Có 10.603 ý kiến
- Có ý kiến cho rằng quy định như Dự thảo là chưa hợp lý vì nếu có những hạn chế tự do ngôn luận, hội họp thì phải viết rõ trong Hiến pháp chứ không phải là căn cứ vào văn bản pháp luật nào đó. Quyền của công dân phải được hiến định chứ không phải là một khẩu hiệu chung chung hay viện dẫn pháp luật dẫn đến sự tùy tiện.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “theo quy định pháp luật”; Bổ sung đoạn 2 mới như sau: “Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin hội họp, lập hội, biểu tình để chống lại Nhà nước và trật tự an toàn xã hội”, có như vậy mới thể hiện rõ điều công dân được làm gì và không được làm gì.
13. Điều 27: Có 56.382 ý kiến
Về nội dung: chưa thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng giới, chưa khắc phục được những khía cạnh của bất bình đẳng giới trong thực tế như: Việc làm, tiền lương, chế độ thai sản, nhà trẻ, bệnh viện…
Khoản 1.
- Có ý kiến cho rằng nội dung bình đẳng nam - nữ chỉ là một loại quan hệ bất bình đẳng trong xã hội, trong khi còn nhiều nhóm quan hệ xã hội bất bình đẳng khác. Để đảm báo tính khái quát đề nghị bỏ cụm từ “nam, nữ” và bỏ từ “giới” ở Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị giữ lại nội dung Điều 63 Hiến pháp năm 1992 để đưa vào Khoản 1 Điều 27 theo hướng công dân nam, nữ bình đẳng về quyền và cơ hội tham gia, đóng góp, hưởng thành quả lao động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; giữ lại và bổ sung quy định “lao động nam, nữ làm công việc có tính chất hoặc giá trị ngang nhau thì tiền lương, tiền công và chế độ bảo hiểm xã hội ngang nhau”; bổ sung thêm nội dung về bình đẳng trong việc thực hiện trách nhiệm chia sẻ, hỗ trợ, tạo điều kiện để mỗi người thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân; hình thành một điều mới với các quy định cụ thể về nguyên tắc xác định vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt của phụ nữ trong tái tạo nguồn nhân lực quốc gia; xác định quyền hưởng chế độ thai sản của phụ nữ phù hợp với lao động thực tế theo vùng miền, theo nghề nghiệp; xác định trách nhiệm của nhà nước, gia đình, xã hội, nhà trường trong việc bảo đảm thiên chức người mẹ của phụ nữ và bảo đảm cho trẻ em gái phát triển toàn diện để thực hiện tốt vị trí, vai trò của phụ nữ trong tương lai.
- Có ý kiến cho rằng nên bổ sung “tuổi đời nghỉ hưu của lao động nữ là đủ 55 tuổi”, vì nếu không có khoản này trong Hiến pháp thì quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 145 Bộ Luật Lao động sẽ vi hiên vì đã phân biệt đối xử về tuổi đời nghĩ hưu: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, nên bỏ đoạn: “Nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau” thay bằng “có quyền ngang nhau”, vì đã là công dân không nên phân biệt nam, nữ, có quyền bình đẳng về mọi mặt. Bình đẳng là một thiết chế của xã hội, nhưng ngang nhau là một sự so sánh, cân, đong, đo đếm. Đã là cân, đong làm sao yêu cầu phụ nữ ngang nam giới vì kết cấu khoa học và sinh lý khác nhau, lại yêu cầu ngang nhau là phi khoa học và không thực tế.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị viết lại “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực”; bỏ đoạn “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung đoạn: “lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản” sau đoạn “phát huy vai trò của mình trong xã hội”; Bổ sung thêm cụm từ “cấm hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em’’ vào sau từ “xã hội”.
- Đa số ý kiến đề nghị thay cụm từ “tạo điều kiện” bằng “có trách nhiệm bảo đảm”, sửa lại như sau: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo đảm để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung từ “gia đình” vào trước từ “xã hội”. Cụ thể: “Nhà nước, xã hội và gia đình … phát huy vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội”; Đề nghị thêm cụm từ "và quyền" trước cụm từ "phát huy vai trò"và viết lại: “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện và quyền phát huy vai trò của mình trong xã hội.”
Khoản 3.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “cấm lợi dụng chăm sóc y tế phụ sản để lựa chọn giới tính” để hạn chế tình trạng mất cân đối giới tính và để đảm bảo quyền bình đẳng giới tính; Đề nghị bổ sung cụm từ "về màu da, sắc tộc, tôn giáo" vào cuối điều này để đảm bảo tất cả mọi người dù thuộc giới nào, dân tộc nào, màu da nào, tôn giáo nào cũng cũng đều được đối xử bình đẳng như nhau; Đề nghị bổ sung cụm từ “tính, màu da, dân tộc’’ sau “về giới’’ thành “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới tính, màu da, dân tộc”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung một khoản mới với quy định cụ thể về nguyên tắc xác định vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt của phụ nữ trong tái tạo nguồn nhân lực quốc gia; xác định quyền hưởng chế độ thai sản của phụ nữ phù hợp với lao động thực tế; xác định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, xã hội, nhà trường trong việc đảm bảo thiên chức người mẹ của người phụ nữ và đảm bảo cho trẻ em gái phát triển toàn diện để thực hiện tốt vị trí, vai trò của phụ nữ trong tương lai.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới tính”; Đề nghị bổ sung là “nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới và lựa chọn giới tính khi sinh.”; Đề nghị bổ sung Khoản 4: "Công dân có quyền được xác định lại giới tính theo quy định của pháp luật" vì đây là vấn đề mới, nhạy cảm, cần có sự can thiệp của Nhà nước.
14. Điều 28: Có 21.695 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị thêm vào cuối Điều 28: “... Nhà nước tạo đầy đủ các điều kiện để công dân thực hiện các quyền trên” để tạo cơ chế cho công dân được đảm bảo quyền tham gia ứng cử và bầu cử; Đề nghị thêm cụm từ "theo quy định của pháp luật" như sau: "Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của pháp luật".
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “đại biểu” vào trước cụm từ “Quốc hội, Hội đồng nhân dân” vì, không nên dùng nói Quốc Hội, Hội đồng nhân dân mang thuật ngữ chung chung, nên cụ thể là đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Điều 28 nên viết là: “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung Điều 28 là: “công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội và HĐND các cấp”, không cần phải đến 21 tuổi mới được ứng cử. Ngoài quy định về tuổi đời nên bổ sung thêm những người ứng cử, đề cử phải có thời gian cư trú nhất định tại địa phương mình ứng cử, đề cử để tránh tình trạng tùy tiện như hiện nay.
- Một số ý kiến đề nghị sửa đổi thành: “Công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và từ đủ 25 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp”. Vì đây là tuổi pháp lý và quy định phải tuổi từ đủ 25 mới hội đủ điều kiện, trong đó có trình độ học vấn.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung 1 Khoản “Khoản 2: công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp” để phù hợp với Khoản 2, Điều 7 của Dự thảo Hiến pháp.
15. Điều 29: Có 7.174 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị làm rõ quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. Có ý kiến cho rằng quy định về việc “công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội”…còn mang tính chung chung, chưa hiểu rõ được công dân có quyền tham gia vào công việc quản lý cùng với các cơ quan nhà nước hay việc công dân có quyền tham gia đóng góp ý kiến về các hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đề nghị ghép Điều 29 vào Điều 30 thành Điều 29 và sửa thành:
“1. Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền biểu quyết, tham gia ý kiến, tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị tại Khoản 2 nên viết lại: “Tiếp nhận và trả lời kiến nghị của công dân.”, vừa rõ, vừa gọn, dễ hiểu hơn; Đề nghị bổ sung cụm từ “có trách nhiệm đảm bảo các”, Khoản 2 nên viết là: “Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo các điều kiện để công dân”.
- Có ý kiến đề nghị “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội…”, cụm từ “tạo điều kiện” không thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước, vì vậy đề nghị sửa như sau: “Nhà nước tôn trọng và có cơ chế bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân; công khai…kiến nghị của công dân”, có nghĩa là Nhà nước phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền này.
- Một số ý kiến cho rằng Dự thảo quy định “…công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội...”. Việc quy định quyền này còn chung chung, chưa rõ được công dân có quyền tham gia vào công việc quản lý cùng với các cơ quan nhà nước hay việc công dân có quyền tham gia đóng góp ý kiến về các hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đề nghị nghiên cứu, bỏ sung cho phù hợp.
- Có ý kiến cho rằng tuổi ứng cử vào đại biểu Quốc hội là 25 tuổi.
16. Điều 30: Có 8.877 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị sửa lại theo tinh thần Điều 21 trong Hiến pháp năm 1946: “Nhân dân có quyền biểu quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” và bỏ ý “khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Như vậy là khẳng định Nhà nước phải tổ chức trưng cầu ý dân để nhân dân biểu quyết về hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia chứ không phải khi nào nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý.
- Một số ý kiến đề nghị xem lại quy định về trưng cầu ý dân, vì nếu chỉ quy định “Công dân có quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân” và “Quốc hội quyết định việc trưng cầu ý dân”(khoản 15 Điều 75) là chưa có sự phân định giữa quyền lực của Quốc hội và quyền lực của nhân dân, mà gần như Quốc hội toàn quyền. Cần kết hợp quyền của người dân và thẩm quyền của Quốc hội, đồng thời cũng cần xác định trong Hiến pháp trường hợp nào thực hiện trưng cầu ý dân.
- Một số ý kiến đề nghị nên thêm một đoạn là “công dân có quyền yêu cầu Quốc hội trưng cầu ý dân theo qui định của pháp luật. Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Lý do vì tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, khi xét thấy cần thiết nhân dân có quyền yêu cầu trưng cầu ý dân. Quốc hội là cơ quan có quyền hạn trưng cầu ý dân vì vậy quyền trưng cầu của công dân phải theo quy định của pháp luật.
- Một số ý kiến cho rằng nên bổ sung như sau: “Công dân có quyền góp ý và biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân.” Lý do công dân ngoài biểu quyết ra thì cũng có quyền được góp ý, ý kiến của mình khi Nhà nước trưng cầu ý dân.
17. Điều 31: Có 112.306 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “và được nhà nước bảo vệ” ở cuối câu. Thể hiện lại là: “mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân và được nhà nước bảo vệ” vì quy định như vậy mới chặt chẽ.
- Có ý kiến cho rằng “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” là chưa đầy đủ và không tương xứng với khoản 2 của Điều này khi quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo…”. Mặt khác Luật khiếu nại và Luật tố cáo hiện hành đều quy định trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo là "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền". Do vậy, Khoản 1 cần bổ sung quy định như sau “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “… và chịu trách nhiệm về nội dung khiếu nại, tố cáo của mình” vào Khoản 1 để tránh việc lợi dụng quyền tự do, dân chủ khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật và kích động lôi kéo người khác khiếu nại tố cáo.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Mọi người không chỉ có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà còn có quyền khởi kiện các cơ quan, tổ chức, cá nhân này.”
- Có ý kiến đề nghị nên tách quyền khiếu nại và tố cáo làm 2 phần riêng. Cụ thể đối với việc khiếu nại cần có giới hạn khi cá nhân, tập thể bị xâm phạm lợi ích; còn quyền tố cáo không giới hạn, công dân có quyền tố cáo khi thấy cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm phạm bất kỳ lợi ích của cá nhân, tập thể nào.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm “khi có căn cứ làm cơ sở”. Vì khi công dân được trao quyền khiếu nại, tố cáo mà không các chứng cứ, căn cứ có cơ sở thì sẽ tạo điều kiện cho nhiều đối tượng lợi dụng quyền này quấy rối hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "theo quy định của pháp luật" sau cụm từ "khiếu nại, tố cáo" và viết lại là: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật..."; Đề nghị thêm cụm từ "yêu cầu" trước cụm từ "được bồi thường". Viết lại là: "Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật" vì nếu người bị thiệt hại không có yêu cầu thì sẽ không có cơ sở để bồi thường;
- Một số ý kiến đề nghị thêm từ “đơn vị” vào sau từ “tổ chức”, vì trong hệ thống chính quyền, đoàn thể, kinh tế, xã hội, lực lượng vũ trang vẫn còn tổ chức gọi là đơn vị. Khoản 1 nên viết là: “Mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân”
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trong thời hạn luật định”, thực tế nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo được gửi đến cơ quan Nhà nước nhưng việc gải quyết thường quá hạn, đề người dân đi lại quá nhiều, gây bức xúc cho nhân dân. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, công chức được phân công làm nhiệm vụ này phải thực hiện việc giải quyết đơn thư của công dân đúng thời hạn quy định.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “nhân phẩm, uy tín” sau cụm từ “danh dự” để đảm bảo tính toàn diện. Cụ thể: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự, nhân phẩm, uy tín theo quy định của pháp luật”.
Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”; Đề nghị sửa lại là: “Nghiêm cấm việc trả thù..., tố cáo để vu khống, vu cáo làm tổn hại người khác”. Lý do: Bổ sung thêm từ tổn vào trước từ hại để mang tính chung nhất có thể là hại hoặc tổn hại.
- Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “nghiêm cấm việc trả thù” bằng cụm từ “Nhà nước bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khiếu nại…” và viết lại là: “Nhà nước bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khiếu nại, tố cáo; nghiêm cấm lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
- Có ý kiến đề nghị Khoản 4 với nội dung như sau: "Nhà nước bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của cá nhân và gia đình người thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo". Như vậy sẽ xác định rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước, tạo thêm sự tin tưởng an tâm hơn cho những người thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo. Thực tế vừa qua cho thấy có khá nhiều trường hợp người khiếu nại, tố cáo bị trù dập, hăm dọa, trả thù, tình hình trên đã thực sự gây hoang mang, lo sợ cho những ai có ý định khiếu nại, tố cáo.
18. Điều 32: Có 227.906 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị sửa là: “Người chưa có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.” như vậy vẫn bảo đảm nội dung và dễ hiểu hơn.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “trong một lần xét xử”, Khoản 2 nên viết là: “…Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong một lần xét xử”; Đề nghị bổ sung cụm từ "và chấp hành" viết lại là: "2...Không ai bị kết án và chấp hành hai lần vì một tội phạm". Lý do để đảm bảo không ai phải chấp hành một hình phạt hai lần; Đề nghị bỏ cụm từ "có quyền" sửa lại là: “Người bị buộc tội được Tòa án xét xử.”. Lý do quy định như vậy rõ nghĩa hơn; Đề nghị bỏ câu “Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử” và thay từ “tội phạm” bằng cụm từ “hành vi phạm tội” thành “không ai bị kết án hai lần vì hành vị phạm tội”.
- Có ý kiến cho rằng Khoản 2, quy định như dự thảo "không ai bị kết tội hai lần vì một tội phạm" là chưa chính xác, cần sửa lại là "không ai bị kết tội nhiều lần về cùng một hành vi phạm tội".
- Một số ý kiến đề nghị bỏ câu “không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”, vì đã được quy định trong Bộ luật Hình sự và Tố tụng hình sự; Đề nghị thay cụm từ “sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” bằng cụm từ “tự bào chữa hoặc mời luật sư bào chữa”. Vì trợ giúp pháp lý là một nội dung còn bào chữa gồm nhiều nội dung.
- Có ý kiến đề nghị bỏ Khoản 2 điều này vì quy định như vậy là quá dài dòng, trong khi bản thân khoản 1 của điều 32 đã quy định đầy đủ.
Khoản 3.
- Một số ý kiến cho rằng Khoản 3 quy định “người bị bắt, bị tạm giữ, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa”. Đây là một quy định mang tính chất tiến bộ, thể hiện quan điểm đề cao quyền con người trong hoạt động tố tụng, đồng thời đặt vị thế ngang tầm của người bào chữa trong mối quan hệ biện chứng với các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng quy định như trên là chưa đầy đủ, cần bổ sung thêm đối tượng đó là người bị tình nghi phạm tội bị triệu tập lên cơ quan công an do có đơn tố cáo hoặc có thông tin tố giác tội phạm cũng được quyền mời luật sư tham gia tư vấn, trợ giúp pháp lý ngay từ đầu. Đề nghị bổ sung thêm cụm từ “người bị tình nghi phạm tội” vào đầu Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị Khoản 2,3,4 của Điều 32 nên viết lại là:
“2. Người bị buộc tội có quyền được tòa án xét xử một cách nhanh chóng, công bằng và công khai. Những trường hợp ngoại lệ đối với việc xét xử công khai có thể được áp dụng vì lý do đạo đức, bảo vệ bí mật đời tư, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia; các phiên tòa được xét xử kín nhưng vẫn phải tuyên án công khai.
3. Không ai bị kết án hai lần một tội phạm.
4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp của người bào chữa, được sử dụng ngôn ngữ của mình và được giúp đỡ về phiên dịch khi cần thiết.”.
Khoản 4.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ: “bị xử lý theo pháp luật” thay vào đó là cụm từ: “Phải bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người bị hại”, nên viết là: “người làm trái pháp luật trong việc bắt giữ, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người bị hại”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định pháp luật’’ sau cụm từ “phục hồi danh dự” thành “… được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật” và dòng cuối cùng thêm từ “nghiêm minh” sau cụm từ “phải bị xử lý’’ thành “… ”.gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
- Có ý kiến cho rằng Khoản 3, khoản 4 cần bổ sung từ “triệu tập”, “khởi tố” thành “Người bị triệu tập, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” và “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”. Con người đó phải bị khởi tố mới bị điều tra, truy tố, xét xử. Mặt khác, theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước, thì phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự quy định tại Điều 26 có việc bị khởi tố trái pháp luật. Do vậy việc bổ sung từ "khởi tố" như trên là cần thiết.
19. Điều 33: Có 56.445 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” và sửa thành: “Mọi người có quyền sở hữu… đối với đất được Nhà nước giao sử dụng theo quy định tại điều 57, điều 58 và theo quy định của pháp luật...”; Đề nghị thêm từ “Hiến pháp” vào sau từ “Điều 58” ở cuối Khoản 1; thêm cụm từ “gia đình” sau cụm từ “tài sản khác trong” thành: “ vốn và tài sản khác trong gia đình, doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác...”.
- Đề nghị xem lại quy định: “Mọi người có quyền sở hữu....vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” vì quy định như vậy là không chính xác.
- Một số ý kiến đề nghị quy định một cách ngắn gọn như sau: “Mọi người có quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mình” vì quy định theo hình thức liệt kê đối tượng sở hữu như trong dự thảo còn rườm rà.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "Nhà nước công nhận quyền sở hữu của cá nhân về đất ở theo hạn mức phù hợp với quy hoạch sử dụng đất theo Luật đất đai"; Bỏ cụm từ "Đối với Nhà nước giao sử dụng theo quy định tại điều 57 và 58" vì Hiến pháp phải ghi rõ ràng, không nên viện dẫn.
20. Điều 34: Có 134.071 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến cho rằng quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh” và "Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh". Việc quy định như vậy sẽ chồng chéo, mâu thuẫn về những ngành nghề mà nhà nước cấm kinh doanh được quy định trong Luật Doanh nghiệp (năm 2009, Điều 7) như những hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khoẻ nhân dân, làm huỷ hoại tài nguyên, phá huỷ môi trường. Hay mâu thuẫn đối với những việc cấm cán bộ, công chức kinh doanh. Do vậy cần bổ sung quy định là “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật quy định” và "Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật".
- Một số ý kiến đề nghị thay từ "người" bằng cụm từ "công dân"; bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào sau cụm từ “kinh doanh”, sửa thành: “Mọi công dân có quyền tư do kinh doanh theo quy định của pháp luật.”
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “Theo quy định của pháp luật”; Đề nghị bổ sung cụm từ “hợp pháp” vào sau cụm từ “kinh doanh” để trở thành:“Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh hợp pháp”; Đề nghị bổ sung: Quyền về tư liệu sản xuất (đất đai); bổ sung cụm từ "hợp pháp" sau cụm từ "kinh doanh" viết lại là: “Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh hợp pháp; thêm cụm từ "ngành nghề mà pháp luật không cấm".
- Một số ý kiến đề nghị bỏ Điều 34 và bổ sung khoản 2 điều 34 vào Điều 56 của Dự thảo như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ khác đối với Nhà nước do luật định.
2. Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh và thực hiện chính sách chống độc quyền, bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh”.
- Một số ý kiến đề nghị ghép Điều 34 vào Điều 33.
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên điều 57 Hiến pháp năm 1992. “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ Khoản 1 vì nội dung của Khoản 1, Điều 56 đã bao hàm ý này.
21. Điều 35: Có 56.614 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị viết là: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ, được hưởng an sinh xã hội”.
- Một số ý kiến đề nghị giữ nguyên nội dung Điều 67 theo Hiến pháp 1992 và ghi rõ “ưu đãi người có công, người già, trẻ em, người tàn tật, mồ côi, không nơi nương tựa” vì như vậy sẽ cụ thể hơn.
- Có ý kiến đề nghị sửa là: “Công dân có quyền được Nhà nước đảm bảo an sinh xã hội”; Đề nghị sửa là: “Công dân có quyền bảo đảm an sinh xã hội và có trách nhiệm tham gia bảo đảm an sinh…”
- Có ý kiến đề nghị quyền được đảm bảo an sinh xã hội cần quy định dài hơn để nội hàm của điều luật hẹp lại, đối tượng được đảm bảo an sinh xã hội được giới hạn lại, tính khả thi sẽ cao hơn.
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như Điều 67 Hiến pháp năm 1992 vì từ an sinh xã hội là từ rất chung chung, nhiều người không hiểu. Mặt khác việc quan tâm giải quyết chế độ, giúp đỡ đối tượng người có công với cách mạng, gia đình chính sách, thương binh, đối với nước ta hiện nay và trong nhiều năm tới vẫn là những vấn đề lớn.
22. Điều 36: Có 56.645 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị sửa thành “Mọi người có quyền có nơi ở hợp pháp” vì trên lãnh thổ Việt Nam không chỉ công dân mà người nước ngoài, người không quốc tịch cũng có thể có nơi ở hợp pháp.
- Có ý kiến đề nghị điều 36 và 37 gộp chung thành một điều vì quyền có nơi ở của công dân và sự đảm bảo của Nhà nước thành một định chế trong một điều.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ "tạo điều kiện" bằng cụm từ "đảm bảo" sửa lại như sau: "Nhà nước có chính sách đảm bảo để công dân có nơi ở"
23. Điều 37: Có 45.532 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ từ “hợp pháp” và sửa thành: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở”; Đề nghị bổ sung cụm từ “trừ trường hợp luật định.”; Có ý kiến đề nghị thay đổi từ “chỗ ở” thành từ “nơi ở”.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "trừ trường hợp pháp luật cho phép" vào sau cụm từ "đồng ý” và sửa thành: “Không ai được tự ý vào chỗ ở hợp pháp của người khác nếu không được người đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.”
- Một số ý kiến đề nghị thay từ “do luật định” bằng cụm từ “phải tuân thủ theo quy định của pháp luật” để trở thành: “Việc khám xét chỗ ở phải tuân thủ theo quy định của pháp luật”; Đề nghị bỏ đoạn: "Không ai được tự ý vào chỗ ở hợp pháp của người khác nếu không được người đó đồng ý" vì trùng lắp với Khoản 1, viết lại Khoản 2 như sau: "Việc khám xét chỗ ở do luật định”.
- Một số ý kiến đề nghị thay từ “vào” bằng từ “xâm phạm”; thay từ “không ai” bằng “nghiêm cấm”; Có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “…tự nguyện..” thành “Không ai được tự ý vào chỗ ở hợp pháp của người khác nếu không được người đó tự nguyện đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định”.
24. Điều 38: Có 35.148 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "công dân có quyền đình công theo quy định của pháp luật" vào cuối câu;
- Một số ý kiến đề nghị viết lại: "Công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và có quyền đình công theo quy định của pháp luật.”
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên câu thứ nhất Điều 55 Hiến pháp năm 1992 là: “lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân”.
- Một ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để công dân có việc làm theo quy định của pháp luật” và sửa thành: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc. Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để công dân có việc làm theo quy định của pháp luật”.
- Có ý kiến đề nghị đổi vị trí các từ và sắp xếp thành: “Công dân có quyền lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, nơi làm việc và làm việc”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung đoạn “và người có nhược điểm về thể chất, tinh thần”, sửa thành: “Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử,…và người có nhược điểm về thể chất, tinh thần trái pháp luật”.
Khoản 2.
- Nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung thêm vào Khoản 2 nội dung "nghiêm cấm các hành vi không thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người lao động như đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…”, vì đây là vấn đề nhức nhối của xã hội trong thời gian qua mà chưa giải quyết được, đề nghị phải quy định trong Hiến pháp.
- Có ý kiến đề nghị sửa Điều này như sau:
"1. Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc.
2. Nhà nước bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Vì đây là quy định tiến bộ thể hiện sự tôn trọng và cam kết của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền cơ bản của con người.
3. Nghiêm cấm các hành vi…. trái pháp luật”.
25. Điều 39: Có 60.301 ý kiến
Khoản 1.
- Nhiều ý kiến đề nghị thay cụm từ “Nam, nữ” bằng cụm từ “Công dân từ đủ 18 tuổi đối với nữ và 20 tuổi đối với nam”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo qui định của pháp luật” vào sau cụm từ “nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn” và sửa thành “nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn theo qui định của pháp luật” bởi cụm từ “nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn” mang tính chung chung, không theo qui định. Hiến pháp nên gắn việc kết hôn và ly hôn vào những qui định của pháp luật.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “người cao tuổi”, ”cha”, nên viết là: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người cao tuổi, cha, mẹ và trẻ em”; Đề nghị bổ sung cụm từ “cùng có trách nhiệm xây dựng gia đình hạnh phúc” vào cuối Khoản 1 như vậy sẽ đảm bảo cho gia đình Việt Nam truyền thống không bị ảnh hưởng.
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị sửa cụm từ “bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em” thành “bảo hộ quyền lợi hợp pháp của người mẹ và trẻ em”; đề nghị bổ sung một khoản “Nghiêm cấm việc kết hôn đối với các đối tượng cùng giới tính”.
- Có ý kiến đề nghị giữ lại Khoản 4 của Điều 64 của Hiến pháp cũ là: “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm Khoản 3: “Gia đình là tế bào của xã hội, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái trưởng thành, nghiêm cấm việc phân biệt đối xử các thành viên trong gia đình về mọi mặt”. Vì gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, Nhà nước và xã hội quan tâm tốt tới gia đình thì gia đình càng tốt. Việc đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội sẽ góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, thông qua đó nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.
- Có ý kiến đề xuất nghiên cứu bổ sung vào phần quyền công dân là: "Quyền được yêu cầu xác định lại giới tính.” Vì giới tính mỗi người được xác định khi sinh ra căn cứ vào cách nhìn trực quan và hình thức bên ngoài, tuy nhiên trong quá trình phát triển và trưởng thành, con người có nhiều thay đổi, họ tự thấy giới tính mà mình đang “sở hữu” không phải là mình, nên có xuất hiện những người đã chuyển giới.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em” ở đoạn cuối Khoản 2, viết lại là: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”. Lý do: Thực tế có nhiều trường hợp bạo lực gia đình mà nạn nhân là nam giới, do vậy đã quy định nam nữ bình đẳng thì không nên đưa quy định chi tiết này vào Hiến pháp.
- Một số ý kiến đề nghị thêm Khoản 3 “phụ nữ có quyền làm mẹ” để phù hợp với Luật bình đẳng giới, bảo đảm vè quyền công dân, quyền trẻ em và trong thực tế rất nhiều trường hợp phụ nữ không xây dựng gia đình nhưng có con, làm mẹ và được xã hội thừa nhận. Khoản 3 nên viết là: “Phụ nữ có quyền làm mẹ”.
26. Điều 40: Có 18.006 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “nuôi dưỡng”, nên viết là: “Trẻ em có quyền được gia đình, nhà trường và xã hội bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục”. Đề nghị bỏ cụm từ "gia đình, nhà trường, Nhà nước và xã hội", sửa là: “Trẻ em có quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.” Vì quy định như vậy ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ ý nghĩa; Bổ sung cụm từ “dưới bất kỳ hình thức nào” sau từ “trẻ em” thành “Nghiêm cấm hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi vi phạm quyền trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quyền của người cao tuổi bởi vì người cao tuổi là những người có nhiều kinh nghiệm đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “mọi người có quyền” trước cụm từ “bình đẳng trong việc….” và cụm từ "chăm sóc" trước cụm từ "bảo vệ" và viết lại là: "Công dân có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ; mọi người có quyền bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "có quyền lựa chọn hình thức bảo vệ sức khoẻ theo điều kiện" trước cụm từ "và có nghĩa vụ thực hiện"và viết lại là: "Công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ; bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế có quyền lựa chọn hình thức bảo vệ sức khoẻ theo điều kiện và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.”
- Một số ý kiến đề nghị thay từ “và’’ thứ nhất bằng “dấu phẩy” thành “… đe dọa đến cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng”; Đề nghị bổ sung cụm từ “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em…học nghề phù hợp” vào cuối điều này; Đề nghị bổ sung cụm từ "nghiêm cấm các hành vi đe dọa đến cuộc sống và sức khoẻ của người khác.”;
- Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ "công dân" bằng cụm từ "mọi người" được sửa lại như sau: "Mọi người có quyền được bảo vệ sức khỏe; bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh".
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị nên sửa đổi, bổ sung theo hướng "quyền của trẻ em được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện" để phù hợp với Công ước mà Việt Nam tham gia ký kết.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "xâm hại tình dục" trước cụm từ "bóc lột" và viết lại là: "Nghiêm cấm hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.”
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm Khoản 3 với nội dung là “Nhà nước, xã hội chăm sóc, giáo dục, đào tạo thanh niên để kế thừa xứng đáng sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước”. Lý do, trong 2 khoản quy định tại Điều 40 chưa quy định trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội đối với thanh niên mà thanh niên là lực lượng trực tiếp, kế thừa thế hệ cha ông để bảo vệ, xã hội, phát triển đất nước.
- Có ý kiến cho rằng nên giữ nguyên Điều 66 Hiến pháp năm 1992 vì trong điều kiện hiện nay và cả lâu dài thanh niên là lực lượng cần quan tâm giáo dục lý tưởng, giáo dục ý thức công dân, bồi dưỡng về đạo đức cách mạng
27. Điều 41: Có 21.655 ý kiến
Khoản 1.
- Đa số ý kiến đề nghị bỏ từ “công dân” thay bằng từ “mọi người” bởi vì quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm khác nhau. Quyền được bảo vệ sức khỏe không phân biệt già trẻ, nam nữ, tất cả mọi người (kể cả người nước ngoài, người không quốc tịch sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam) đều có quyền được bảo vệ sức khỏe.
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “nâng cao thể chất”, viết lại là: “Công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe và nâng cao thể chất; bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”, lý do để bao quát và đầy đủ.
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị thay từ “và’’ thứ nhất bằng “dấu phẩy” thành “… đe dọa đến cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng”.
- Một số ý kiến đề nghị sửa cụm từ “Nghiêm cấm các hành vi đe dọa” thành “Nghiêm cấm các hành vi xâm phạm…” vì quy định như vậy sẽ rộng và phù hợp hơn.
28. Điều 42: Có 26.922 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị thay từ “công dân” bằng từ "mọi người” và sửa lại là: “Mọi người có quyền và nghĩa vụ học tập".
- Đa số ý kiến đề nghị bỏ từ “nghĩa vụ”, vì học tập hay không là quyền của mỗi người, nhà nước khuyến khích mọi người học tập nhưng nếu người nào đó không học thì cũng không có chế tài xử lý vì vậy từ “nghĩa vụ” trong điều này không có tính khả thi, nên viết là: “Công dân có quyền được học tập”.
- Đề nghị giữ nguyên câu “Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” như Hiến pháp 1992. Vì hiện nay nhà nước ta đang thực hiện phổ cập giáo dục và thực hiện chính sách quan tâm đến giáo dục.
- Một số ý kiến đề nghị Điều 42 nên sửa lại như sau:
“1. Công dân có quyền học tập.
2. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục ở tất cả các cấp” vì quyền và nghĩa vụ, học tập của công dân nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Một số ý kiến đề nghị xem xét thêm cụm từ: “Học tập suốt đời” bởi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ XI đều có nội dung: “Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”...
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm nội dung: “Nhà nước có chính sách học phí, học bổng, tạo điều kiện cho trẻ em nghèo, khó khăn, trẻ em bị khuyết tật”.
- Có ý kiến cho rằng Dự thảo sửa đổi quy định Điều 42 như vậy là quá ngắn gọn, chưa cụ thể, đề nghị xem xét sửa đổi lại điều 42 trên cơ sở điều 59 Hiến pháp 1992.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ: “Nhà nước đảm bảo cho..” vào trước cụm từ “công dân..” và bỏ từ “có”. Vì, xây dựng xã hội học tập là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Vai trò của Nhà nước là rất quan trọng, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đặc biệt khó khăn. Cũng có ý kiến đề nghị cần ghi rõ ở bậc tiểu học không phải đóng học phí. Mọi công dân đều có quyền học tập để nâng cao trình độ học vấn, học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phát triển tài năng.
29. Điều 43: Có 156 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung “quyền phát minh khoa học và công nghệ” cho đầy đủ, viết lại là: "Mọi người có quyền nghiên cứu, phát minh khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật.; Đề nghị bổ sung cụm từ "phát minh" trước cụm từ "nghiên cứu khoa học" và viết lại là: "Mọi ngựời có quyền phát minh nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật”.
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên theo Điều 60 của Hiến pháp năm 1992.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "văn hóa" vào trước cụm từ "văn học nghệ thuật"; Đề nghị bổ sung từ "tự do" sau từ "có quyền".
30. Điều 44: Có 86 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “sử dụng các cơ sở văn hóa”, vì không phải tất cả các cơ sở văn hóa của đất nước mọi người dân đều được sử dụng. Điều 44 nên viết là: “Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, tiếp nhận các giá trị văn hóa”.
- Có ý kiến đề nghị làm rõ nội dung “sử dụng các cơ sở văn hóa”, vì như vậy chung chung, thiếu cụ thể (cơ sở văn hóa tư nhân, của tập thể, của nhà nước…).
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “có nghĩa vụ bảo vệ và” sau cụm từ “mọi người”, vì có bảo vệ mới có thành quả để hưởng thụ. Nên viết là: “Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ và quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung “Mọi người có nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ, sàng lọc, kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị văn hóa, đồng thời có quyền hưởng thụ..” vì thế hệ cha ông và chúng ta không bảo vệ, giữ gìn, sàng lọc, kế thừa, sáng tạo thì không thể thụ hưởng các giá trị văn hóa.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung từ “văn minh” vào sau từ “giá trị văn hóa” thành câu “Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, văn minh…” vì hiện nay có một số giá trị văn hóa không còn phù hợp, mang màu sắc mê tín dị đoan…
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ "đời sống" thay bằng cụm từ "hoạt động" và viết lại là: "Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào hoạt động văn hoá, sử dụng các cơ sở văn hoá, tiếp cận các giá trị văn hóa”.
- Có ý kiến đề nghị ghép Điều 44 và Điều 45 thành 1 Điều; hoặc ghép Điều 44 vào Điều 43.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định: "Nhà nước đảm bảo cho mợi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận và sáng tạo các giá trị văn hóa”.
- Có ý kiến cho rằng đây là quy định mới, tiến bộ, tuy nhiên đề nghị bổ sung thêm từ "sáng tạo" vì con người là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
31. Điều 45: Có 45.665 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị bỏ từ "giao tiếp”, thêm cụm từ “của cha đẻ hoặc” và cụm từ "trong sinh hoạt” (Vì trong thực tế đời sống sinh hoạt hàng ngày, mọi người có quyền được sử dụng cả ngôn ngữ không chỉ của dân tộc của mẹ đẻ mà còn được quyền sử dụng cả ngôn ngữ của dân tộc cha đẻ, còn trong giao tiếp, bao gồm cả trong đối nội và đối ngoại trong nhiều trường hợp theo lễ nghi và theo quy định, không thể tự do lựa chọn mà phải sử dụng ngôn ngữ được quy định). Đề nghị sửa lại là: "Công dân có quyền xác định dân tộc của mình , sử dụng ngôn ngữ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ trong sinh hoạt."
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “và giới tính” sau từ “dân tộc”, viết lại là: “Công dân có quyền xác định dân tộc và giới tính của mình...”. Lý do: Thực tế hiện nay đã có nhiều trường hợp chuyển giới tính và xác định lại giới tính.
- Đa số ý kiến đề nghị thay cụm từ “công dân” bằng cụm từ “mọi người” vì trên thực tế công dân Việt Nam nhập quốc tịch nước ngoài nhưng sau đó họ vẫn được quyền xác định lại dân tộc của mình, viết lại là: "Mọi người có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.”
- Một số ý kiến đề nghị cụm từ "quê quán" sau cụm từ "xác định dân tộc" và viết lại là: Công dân có quyền xác định dân tộc, quê quán của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “không làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt” vào cuối câu;
- Một số ý kiến đề nghị ghép điều 45, 46, 47 thành một.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ "sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ" vì đã quy định quyền tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; Đề nghị bổ sung thêm quyền xác định cha, mẹ, con, giới tính; Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “và sử dụng ngôn ngữ” sau từ “xác định” đồng thời bỏ cụm từ: “sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ”, vì đây là lối văn nói; Đề nghị bổ sung cụm từ “phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế” sau cụm từ “lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” vì nếu trong một tập thể, mặc dù người đó sử dụng được ngôn ngữ phổ thông nhưng lại lựa chọn ngôn ngữ của dân tộc mình thì sẽ gây nhiều phức tạp trong cuộc sống.
- Một số ý kiến đề nghị nên bỏ cụm từ: "sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ" vì ghi như vậy gây khó hiểu. Tại Khoản 3 Điều 5 cũng đã quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt”; Đề nghị thêm cụm từ “giới tính” và sửa thành: “Công dân có quyền xác định dân tộc, giới tính của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”.
- Có ý kiến cho rằng quy định như vậy dễ bị lợi dụng việc xác định dân tộc vì lợi ích cá nhân, do đó cần quy định rõ việc xác định dân tộc theo bố, mẹ đẻ hoặc người nuôi dưỡng (nếu không còn bố mẹ đẻ); Đề nghị thay cụm từ “ngôn ngữ mẹ đẻ” bằng “ ngôn ngữ của dân tộc mình” vì nước ta có rất nhiều dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có tiếng nói của riêng mình.
32. Điều 46: Có 18.081 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị xem lại nội dung Khoản 1 vì chưa rõ nghĩa, khái niệm môi trường trong lành là quá trừu tượng, nên viết lại là: “Mọi người có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nơi mình sinh sống theo đúng truyền thống văn hóa dân tộc”.
- Một số ý kiến đề nghị ghép Khoản 1 vào nội dung Điều 21, cụ thể: “mọi người có quyền sống và được sống trong môi trường trong lành”.
Khoản 2.
- Một số ý kiến cho rằng quy định “mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” là trùng lặp vì nghĩa vụ này đã được quy định rất rõ tại Khoản 1 Điều 68. Đây là một loại nghĩa vụ của con người mà Khoản 1 Điều 68 còn quy định rõ ràng hơn, phạm vi rộng hơn, và thực tế hơn Khoản 2 Điều 46, Khoản 2 Điều 46 chỉ quy định là mọi người nó chỉ mang tính chất cá nhân, còn Khoản 1 Điều 68 quy định gồm cả cá nhân và tổ chức.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ Điều 46 vì tại Điều 68 đã quy định đầy đủ về môi trường.
- Có ý kiến đề nghị Khoản 1 Điều 68 có thể ghép vào Khoản 2 Điều 46 vì cũng quy định về trách nhiệm về bảo vệ môi trường.
- Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “trong lành” bằng cụm từ “trong sạch” cho rõ nghĩa và thêm cụm từ “không bị ô nhiễm và an toàn thực phẩm” vào cuối Khoản 1 và đề nghị đưa về quyền con người.
33. Điều 47: Có 9.050 ý kiến
- Đa số ý kiến đề nghị bổ sung thêm từ “có” trước cụm từ “tội nặng nhất”. Vì theo bộ Luật hình sự thì trong các tội danh có các khung hình phạt cụ thể, do đó ghi hình phạt nặng nhất sẽ không phù hợp, nên viết là: “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là có tội nặng nhất”.
- Đa số ý kiến đề nghị nên viết là: “Công dân có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người nào có hành vi phản bội Tổ quốc sẽ bị nghiêm trị theo pháp luật”.
- Một số ý kiến đề nghị xem xét lại cụm từ “phản bội tổ quốc là tội nặng nhất”. Lý do: Bộ luật Hình sự, không có quy định tội nào là tội nặng nhất; hơn nữa Hiến pháp không phải là đạo luật chuyên ngành. Biên tập lại như sau: “…Phản bội Tổ quốc là tội phạm, phải trừng trị nghiêm khắc".
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "tuyệt đối" vào sau cụm từ "Công dân có nghĩa vụ"; thay cụm từ "phản bội tổ quốc là tội năng nhất" bằng cụm từ "phản bội tổ quốc là tội đặc biệt nghiêm trọng". Viết lại là: Công dân có nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với Tổ quốc. Phản bội tổ quốc là tội đặc biệt nghiêm trọng.
34. Điều 48: Có 21.324 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “trách nhiệm” vào đoạn 1, cụ thể sửa lại như sau “Bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân”; Tại đoạn 2 đề nghị thay cụm từ "phải làm" bằng cụm từ "thực hiện"; cụm từ “do Luật định” bằng cụm từ “theo quy định của pháp luật”, viết lại như sau: "Công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của pháp luật" để rõ nghĩa hơn và thống nhất cách dùng từ; Đề nghị sửa lại là: “công dân có đủ sức khoẻ, năng lực hành vi dân sự phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Việc thực hiện nghĩa vụ thay nghĩa vụ quân sự do luật định”.
- Một số ý kiến đề nghị xem lại câu “việc thực hiện nghĩa vụ thay thể nghĩa vụ quân sự do luật định” vì viết chưa rõ nghĩa; Đề nghị thay từ “làm” bằng từ “thực hiện” và sửa lại là: "Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định ".
- Một số ý kiến đề nghị thêm chữ “nền” trước cụm từ “quốc phòng toàn dân”; Đề nghị thay từ “làm” thành cụm từ “thực hiện”, nên sửa lại là “công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định”.
- Có ý kiến đề nghị sửa đoạn cuối của đoạn 2 là: “Trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ quân sự thì thay bằng hình thức thực hiện nghĩa vụ dân sự theo luật định”. Vì, quy định như Dự thảo sửa đổi là chưa rõ, có thể dẫn đến việc hiểu sai, do vậy để xây dựng một xã hội công bằng, mọi công dân đều phải có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Có ý kiến đề nghị sửa vì Dự thảo ghi: "Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự" vậy nữ công dân, người già cũng phải làm nghĩa vụ quân sự?
35. Điều 49: Có 22.217 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ "có trách nhiệm" và sửa như sau: "Công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, có trách nhiệm tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng".
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “theo luật định’’ vào sau từ “cộng đồng” thành “Công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng theo luật định”.
- Có số ý kiến đề nghị sửa cụm từ quy tắc trong đoạn “….chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” thay bằng cụm từ “quy ước” cụ thể sửa thành “chấp hành những quy ước sinh hoạt công cộng”; Đề nghị thay cụm từ "công cộng" bằng cụm từ "cộng đồng" vì từ cộng đồng bao quát và phù hợp hơn; Đề nghị bổ sung thêm nội dung: “đồng thời có nghĩa vụ giữ gìn và bảo vệ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc” sau cụm từ "chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng".
36. Điều 50: Có 2.049 ý kiến
- Nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: “Mọi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật”.
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên như Điều 80 Hiến pháp năm 1992. Quy định như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa chặt chẽ, vì trong kinh doanh có trường hợp chưa phải nộp thuế, có người được miễn thuế, có người được giảm thuế và vậy quy định như Điều 80 Hiến pháp 1992 chặt chẽ và đầy đủ.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ "Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam" và "theo quy định của pháp luật", viết lại là: "Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật".
- Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “mọi người” bằng cụm từ “công dân” và bổ sung thêm cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào sau từ “nộp thuế”; đây là sự lẫn lộn giữa nghĩa vụ của của công dân với nghĩ vụ của con người; trẻ em chưa đến tuổi lao động, chưa có thu nhập thì chưa phải nộp thuế, người cao tuổi hết tuổi lao động thì không phải nộp thuế…
37. Điều 51: Có 303 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “tuân theo” thay bằng cụm từ “chấp hành” để thống nhất với Điều 49 và viết lại là: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải chấp hành theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam được nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam”.
- Một số ý kiến đề nghị cụm từ “sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” trước cụm từ “tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam” như vậy sẽ đầy đủ và toàn diện hơn. Viết lại là: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải chấp hành theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam được nhà nước bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam”.
- Một số ý kiến đề nghị cụm từ “người không có quốc tịch” cho chặt chẽ. Biên tập lại là: “Người nước ngoài, người không có quốc tịch Việt Nam cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”;
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “người nước ngoài cư trú ở Việt Nam vi phạm pháp luật Việt Nam thì bị xử theo pháp luật Việt Nam”.
38. Điều 52: Có 218.152 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị bỏ từ “việc” sau cụm từ “xem xét” và viết lại là: “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam xem xét cho cư trú”.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “Vì chủ nghĩa xã hội” và cụm từ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa”. Viết lại thành câu hoàn chỉnh như sau: “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được nhà nước Việt Nam xem xét cho cư trú”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “nhập quốc tịch” vào cuối điều này. Cụ thể: “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc…cho cư trú, nhập quốc tịch” vì để khuyến khích và tôn vinh người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc.
CHƯƠNG III
KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC,
CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Tổng số có 603.539 ý kiến
Nhiều ý kiến cho rằng, Dự thảo Hiến pháp năm 1992 sửa đổi đã nêu rõ việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Các quy định về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường mang tính nguyên tắc, khái quát.
- Về chế độ kinh tế: Quy định của Dự thảo đã bám sát nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất nước, phù hợp với tính chất quy định của Hiến pháp. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến đề nghị nêu cụ thể tên và vai trò của các thành phần kinh tế trong Hiến pháp để làm rõ hơn tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Việc khẳng định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, thuộc sở hữu toàn dân, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật; quy định tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, được công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng lâu dài hoặc có thời hạn; đồng thời bổ sung quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ; quy định về tài chính công nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác là phù hợp trong điều kiện ở nước ta.
- Về xã hội, văn hóa: Dự thảo đã kế thừa và khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực lao động, việc làm và an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, xây dựng gia đình truyền thống, phát triển con người; bổ sung quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Có ý kiến đề nghị Dự thảo nên có 01 điều, khoản quy định về việc nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân làm công tác từ thiện vì đất nước ta còn nhiều người nghèo, người yếu thế cần được sự chia sẻ của cộng đồng.
- Về giáo dục và khoa học, công nghệ: Dự thảo cơ bản kế thừa những nội dung về từng lĩnh vực trong Hiến pháp năm 1992 nhưng được thể hiện lại một cách tổng quát, chỉ nêu những định hướng lớn đã được xác định trong Cương lĩnh như tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, tiếp tục xác định mục đích, mục tiêu của phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ.
- Về bảo vệ môi trường: Dự thảo bổ sung một điều về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu cho phù hợp với tình hình mới, khẳng định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường là của Nhà nước, xã hội và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân; quy định cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường cũng như nguyên tắc xử lý hành vi gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học.
- Đề nghị đổi tên chương thành “Xây dựng Tổ quốc” vì nó phù hợp với Chương IV là Chương “Bảo vệ Tổ quốc” và cũng phù hợp với cương lĩnh của Đảng là: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” hoặc có thể bổ sung tên chương thêm từ “tài nguyên” thành “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường” vì trong các điều 57, 58 có đề cập đến "Tài nguyên".
- Có ý kiến cho rằng tên chương dài quá và thiếu mảng y tế. Đề nghị đặt lại tên chương là "Kinh tế - xã hội".
II. NHỮNG GÓP Ý CỤ THỂ
Điều 53: Có 35.068 ý kiến
- Có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “đảm bảo quốc phòng, an ninh” vào cuối Điều 53; đề nghị bổ sung cụm từ “giáo dục, khoa học và công nghệ” vào sau cụm từ “văn hóa” và sửa thành: “…đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa lại là: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường”.
Điều 54: Có 48.539 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến cho rằng cần quy định cụ thể tên và vai trò của các thành phần kinh tế (như nội dung báo cáo thuyết minh) là không cần thiết. Bởi lẽ, các quy định của Hiến pháp mang tính cương lĩnh, định hướng lâu dài, vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân có thể thay đổi trong một thời gian nhất định, mỗi thành phần kinh tế chỉ có vai trò lịch sử trong một thời gian nhất định, do đó để các văn bản Luật, dưới Luật quy định cụ thể tên và vai trò của các thành phần kinh tế là phù hợp hơn.
- Có ý kiến cho rằng cần xem lại quy định “thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”vì thực tiễn những năm qua, một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn “Giữ vai trò chủ đạo” như Vinashin, Vinalines… hoạt động kém hiệu quả, làm thất thoát tài sản của Nhà nước hàng chục nghìn tỷ đồng. Trong khi đó các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là kinh tế tư nhân phát triển, đạt hiệu quả cao, mang lại nhiều lợi nhuận về kinh tế thì lại chưa được quan tâm đúng mức. Việc quy định các thành phần kinh tế bình đẳng như nhau sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho Nhà nước.
- Có ý kiến cho rằng Hiến pháp 1992 xác định nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhưng tại Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 không còn nêu nội dung này nữa, do đó việc định hướng nền kinh tế thị trường theo XHCN là khó khả thi, vì bản chất của Kinh tế thị trường là của Chủ nghĩa tư bản, chế độ chính trị của Việt Nam là chế độ XHCN, việc định hướng đó sẽ như thế nào. Do vậy, đề nghị cần liệt kê các thành phần kinh tế và nêu rõ vai trò của các thành phần kinh tế đó, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng, có hiệu quả.
Khoản 2.
- Có một số ý kiến cho rằng cần bổ sung cụm từ “tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” vào sau cụm từ “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân”; đề nghị sửa thành: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “đúng quy định” trước cụm từ “pháp luật”; bổ sung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay; bổ sung thêm một khoản “Nhà nước quản lý các ngành, lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước”.
- Có nhiều ý kiến đề nghị cần chỉ rõ ra các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hỗn hợp; đề nghị thêm nội dung quy định kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Có một số ý kiến đề nghị giữ lại Điều 15 của Hiến pháp cũ năm 1992 cụm từ “trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập tập thể là nền tảng” giống như Hiến pháp 1992; đề nghị bổ sung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
- Có ý kiến nêu việc quy định trong Dự thảo “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…” tại khoản 1 điều 55 có mâu thuẫn với khoản 1 điều 54 hay không? Để không mâu thuẫn với điều 54, cần bổ sung như sau: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường có sự điều tiết của nhà nước”.
- Có ý kiến đề nghị giữ lại Điều 15 của Hiến pháp năm 1992; Điều 54, Điều 55, đề nghị gộp lại vì cùng nói về nền kinh tế thị trường và đề nghị viết khái quát hơn.
Điều 55: Có 123 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị sửa đoạn “thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm phát triển hợp lý” thành “thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, kinh tế ngành, bảo đảm phát triển hợp lý”; đề nghị thêm cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” sau cụm từ “quy luật thị trường” thành câu: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...”
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “phát triển bền vững và” vào sau cụm từ “bảo đảm cho nền kinh tế”, sửa thành: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững và vận hành theo quy luật thị trường...”.
- Khoản 2: Có ý kiến đề nghị sửa lại là: “Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức hợp tác kinh tế với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật, thông lệ quốc tế”.
Điều 56: Có 12.790 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “hợp pháp” sau từ “kinh doanh”. Viết lại là: ”Tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh hợp pháp, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật”; thêm cụm từ “sản xuất” vào Khoản 1: “Tổ chức, cá nhân được tự do sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật”.
- Tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Cụm từ “cá nhân được tự do kinh doanh…” trùng ý với quy định tại Khoản 1 Điều 34 là “Mọi người tự do kinh doanh”. Do đó đề nghị bỏ cụm từ “được tự do”, sửa đổi lại thành “Tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật” là hợp lý.
- Có ý kiến đề nghị bỏ nội dung Khoản 1.
Khoản 2: Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm từ: sản xuất vào câu: ...bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh”.
Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị gộp Khoản 3 Điều 56 vào Khoản 3 Điều 58 và ghi trong một Điều qui định về “trưng mua, trưng dụng”; đề nghị bổ sung thêm cụm từ “Nhà nước đảm bảo đời sống ổn định cho người bị thu hồi đất”.
- Có ý kiến đề nghị thay từ "cho" bằng từ "của". Viết lại thành: Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản cho cá nhân, tổ chức theo giá trị thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định”.
- Đề nghị bổ sung cụm từ "theo giá trị thỏa thuận hai bên trên cơ sở giá thị trường" thay cho cụm từ "theo giá thị trường". Viết lại thành: "…. Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá trị thỏa thuận hai bên trên cơ sở giá thị trường. Thể thức mua, trưng dụng theo luật định”.
- Đề nghị Khoản 1, 2, Điều 34 và Khoản 1, 3 Điều 56 quy định về tự do kinh doanh và đề nghị gộp lại thành một Điều.
Điều 57: Có 68.052 ý kiến
- Nhiều ý kiến cho rằng cần phải làm rõ khái niệm “sở hữu đất đai” và “quyền sở hữu đất đai”; cần xác định rõ là đất đai thuộc chế độ sở hữu toàn dân chứ không phải thuộc sở hữu toàn dân; xác định rõ quyền của người được giao đất.
- Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “quy hoạch, kế hoạch và”. Điều này sửa lại như sau:“Đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên khác, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch và quy định của pháp luật”.
- Một số ý kiến đồng tình với quy định tại Điều 57 nhưng đề nghị cần làm rõ nội hàm khái niệm “Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý…” và đề nghị nên thay “Nhà nước là đại diện chủ sở hữu” thành “Quốc hội là đại diện chủ sở hữu” và “Chính phủ thống nhất quản lý”.
Điều 58: Có 48.624 ý kiến
Khoản 1.
Có ý kiến cho rằng quy định “đất đai được quản lý theo quy hoạch và pháp luật” là khác nhau. Đề nghị sửa lại điều này theo hướng quy định đất là một tài nguyên đặc biệt của quốc gia. Nhà nước quy định có đất công và đất tư. Đất tư thuộc sở hữu của người dân Việt Nam, người dân toàn quyền sử dụng, đất công là đất của Nhà nước, thuộc sở hữu nhà nước. Cụ thể do Luật tài nguyên quy định. Cá nhân, tổ chức cần đất sản xuất kinh doanh ngoài đất tư đã có, có quyền thuê đất công của Nhà nước. Hết hạn thuê hoặc không sử dụng nữa thì trả lại cho Nhà nước.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị tại thêm cụm từ: “là người Việt Nam”, vì cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất là người Việt Nam, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng lâu dài hoặc có thời hạn. Mặt khác, nhà nước cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sau khi làm thủ tục thuê đất lại lấy đất đó làm tài sản để thế chấp vay ngân hàng, dẫn đến tình trạng nợ xấu, khủng hoảng bất động sản, khủng hoảng tài chính như hiện nay. Nên viết là: “Tổ chức, cá nhân là người Việt Nam được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn. Người sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích; được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các nghĩa vụ liên quan theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ”.
- Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ, đề nghị bỏ cụm từ “là quyền tài sản” thành: “Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ”, vì nội dung “quyền tài sản” đã được quy định trước đó (Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn... khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích; được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các nghĩa vụ liên quan theo quy định của luật). Hơn nữa, cần làm rõ quyền sở hữu đất đai của các thành phần kinh tế tư nhân, chính vì quyền tư hữu của các thành phần này chưa thể hiện rõ ràng đầy đủ trong Hiến pháp và trong luật đất đai chính là nguyên nhân bất cập xảy ra triền miên đến nay vẫn chưa giải quyết được.
Có ý kiến đề nghị tại Khoản 2 nên thay cụm từ “bồi bổ” bằng “cải tạo”, nên viết là: “…Người sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, cải tạo, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm,….”
Khoản 3.
- Tại Khoản 3, Điều 58 có rất nhiều ý kiến tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân vì nó liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, người dân bức xúc, khiếu kiện kéo dài phần lớn do việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội nói chung, bồi thường cho dân chưa thoả đáng, giải quyết chưa thật hài hoà giữa lợi ích của người bị thu hồi đất và chủ dự án đầu tư (người được cấp đất). Mặt khác, nếu gọi chung là dự án phát triển kinh tế- xã hội thì đối với các dự án kinh tế, vì lợi nhuận nên dễ phát sinh tình trạng “Lợi ích nhóm”, chủ đầu tư chạy dự án, thoả hiệp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thu hồi đất của tổ chức, cá nhân, điều này sẽ tạo môi trường và điều kiện cho tham nhũng phát sinh, phát triển một cách tinh vi. Chính điều đó gây ra những bất đồng trong toàn dân với hơn 70% khiếu kiện liên quan đến đất đai. Nhiều dự án sử dụng sai mục đích hoặc để hoang hóa nhiều năm trở nên ô nhiễm nghiêm trọng, trong khi đó người dân không có việc làm, thu nhập thấp. Do đó sửa đổi Hiến pháp 1992 cần nghiên cứu lại và có biện pháp xử lý kiên quyết đối với các dự án sai mục đích, hoặc bỏ hoang hóa. Việc thu hồi đất vì mục đích kinh doanh, thương mại thì phải thỏa thuận trực tiếp với người đang sử dụng đất đó.
- Như vậy có thể sửa đổi, bổ sung Khoản 3 như sau:
“Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo giá thị trường trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện, hỗ trợ tái định cư cho người bị thu hồi đất”.
- Nhiều ý kiến góp ý nên bỏ cụm từ “các dự án phát triển kinh tế- xã hội” hoặc phải quy định rõ trong trường hợp nào "vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội".
- Có nhiều ý kiến cũng đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định: “Nhà nước chỉ có quyền thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia. Trong trường hợp thật cần thiết vì lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội, thì Nhà nước phải trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường cho cá nhân, tổ chức theo giá thị trường”. Không dùng cụm từ “thu hồi” bởi việc này chỉ phù hợp khi Nhà nước giải quyết hành vi lấn chiếm, sử dụng sai mục đích hay vượt quá hạn mức... mà dùng cụm từ “trưng mua” hoặc “trưng dụng” vì đất đai ở đây đã là “quyền tài sản” của cá nhân, tổ chức để đảm bảo đất đai là tài nguyên đặc biệt. Đồng thời khẳng định quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ. Mặt khác, khắc phục tình trạng thu hồi đất tùy tiện, gây tình trạng lãng phí đất cần xác định rõ khái niệm trường hợp cần thiết. Nếu quy định như trên thì trong mọi trường hợp khi đã có quyết định thu hồi đất thì Nhà nước thu hồi đất của người dân là hoàn toàn hợp pháp.
Một số ý kiến khác:
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm từ “hợp pháp” vào sau cụm từ “sử dụng” vì đất không hợp pháp thì không được bồi thường.
- Có ý kiến đề nghị sửa thành: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng lâu dài hoặc có thời hạn. Người sử dụng đất có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý. Nếu sử dụng đất không đúng mục đích thì bị nhà nước thu hồi theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được nhà nước bảo hộ”.
- Đề nghị nên tách ra làm 02 nhóm gồm: Nhóm (1) là thu hồi đất phục vụ quốc phòng, an ninh; Nhóm (2) là thu hồi đất để phục vụ lợi ích phát triển kinh tế - xã hội,... để người bị thu hồi đất dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh nhầm lẫn, dẫn đến việc khiếu kiện kéo dài và không đúng pháp luật.
Điều 59: Có 171 ý kiến.
- Hầu hết ý kiến tán thành với việc bổ sung Điều 59, quy định về tài chính công, nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính Nhà nước và các nguồn tài chính công khác.
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị Nhà nước nên đưa nội dung bảo vệ Môi trường trở thành vấn đề then chốt gắn với sự phát triển bền vững, trong đó yêu cầu mọi công dân phải có ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường và quản lý môi trường cho thế hệ tương lai.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "quỹ quốc gia" sau cụm từ "quỹ tài chính nhà nước"; đề nghị thêm dấu phẩy (,) vào sau từ “thu” để tách biệt việc thu và chi ngân sách tại Khoản 2.
Điều 60: Có 158 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị đưa cụm từ “quản lý Nhà nước” lên trước cụm từ “hoạt động kinh tế - xã hội” vì phải nhấn mạnh hậu quả của tham nhũng, lãng phí gây ra trong quản lý nhà nước là vô cùng nghiêm trọng và sửa thành: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí, tham nhũng trong quản lý nhà nước và hoạt động kinh tế - xã hội”; bổ sung cụm từ “và công khai minh bạch” sau cụm từ “tham nhũng”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 60 Dự thảo Hiến pháp vì các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước là đương nhiên; đồng thời, đã được quy định tại Điều 8 Dự thảo Hiến pháp.
Điều 61: Có 231 ý kiến góp ý
- Có một số ý kiến đề nghị thay đổi cụm từ “thỏa đáng” thành từ “phù hợp” vì nói tới thu nhập thì không biết được bao nhiêu sẽ thỏa đáng chỉ có thể quy định được mức thu nhập phù hợp cho người lao động theo trình độ, công việc mà người đó đang phụ trách.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “cùng có lợi” trước cụm từ “hài hòa và ổn định”. Khoản 2 nên viết là: “Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, cùng có lợi, hài hòa và ổn định”.
- Bổ sung thêm khoản 3: “Nhà nước có chính sách thu hút nhân tài trên thế giới làm việc và cống hiến tại Việt Nam. Nhà nước có chế độ đãi ngộ nhân tài”.
Điều 62: Có 329 ý kiến góp ý
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “nâng cao” vào trước cụm từ “bảo vệ sức khỏe của nhân dân…”, thay cụm từ “đông y và tây y” bằng cụm từ “hiện đại và cổ truyền”; bổ sung cụm từ cuối khoản 1: “... đặc biệt khó khăn khác” bằng cụm từ “có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn khác”; - Có ý kiến bổ sung thêm cụm từ “phòng chống bạo lực giới” thành “Nhà nước… phòng chống bạo lực giới và kế hoạch hóa gia đình”. Đề nghị xem lại nội dung này vì hiện nay chưa nói vấn nạn bạo lực giới, bạo lực gia đình nên phải đưa vào Hiến pháp để đảm bảo tính thực thi và thực hiện bình đẳng giới hiệu quả.
- Khoản 2: Có một số ý kiến cho rằng khoản 2 chưa thể hiện được rõ và đầy đủ các khía cạnh liên quan đến trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân đối với người mẹ, trẻ em. Nên bổ sung thêm nội dung để đảm bảo tính nhân văn và giá trị pháp lý, truyền thống dân tộc đối với người mẹ và trẻ em, mầm non của đất nước.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm khoản 3: “Ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho các gia đình chính sách, gia đình thương bệnh binh, gia đình có công với cách mạng. Người già neo đơn không nơi nương tựa”.
Điều 63: Có 86.461 ý kiến
- Đa số ý kiến đóng góp đều nhất trí cao việc Dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này đã tách Điều 67 Hiến pháp năm 1992 thành hai Điều 35 và 63. Quy định này đã xác nhận công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với người và gia đình có công với nước, bảo đảm an sinh xã hội cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, nhóm yếu thế là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Khoản 1.
- Có ý kiến cho rằng đề nghị bổ sung vấn đề quỹ phúc lợi được nhiều người quan tâm trong chính sách an sinh xã hội của Nhà nước XHCN.
- Có ý kiến đề nghị nên giữ nội dung “Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc” tại Điều 67 Hiến pháp 1992 bổ sung vào Khoản 1 Điều 63 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 để khích lệ tinh thần của nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm đối tượng vào cuối khoản 1 như sau: “… người nghèo, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ, người có hoàn cảnh khó khăn”.
Khoản 2.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa lại là: “Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tôn vinh, khen thưởng, thực hiện các chính sách ưu đãi đối với người có công với nước.
Điều 64: Có 253.576 ý kiến
- Có ý kiến cho rằng, chúng ta đang hội nhập với chủ nghĩa tư bản hiện đại và đang bị một cuộc xâm lăng lớn của văn hóa nước ngoài. Những năm gần đây, các giá trị văn hóa bị xuống cấp rất nghiêm trọng, trong khi đó, Đảng chưa có nghị quyết nào về văn hóa thời kỳ hội nhập. Việc quản lý văn hóa của cơ quan nhà nước cũng hết sức lõng lẻo, thờ ơ. Hiến pháp năm 1992 có các điều 30, 31, 32, 33, 34 quy định về văn hóa thì Dự thảo chỉ có 1 Điều 64 quy định về văn hóa cho thấy sự quan tâm chưa đúng mức đối với văn hóa. Dự thảo cần khẳng định và có các quy định cho nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
- Dự thảo nên quy định rõ hơn về chủ thể và người chịu trách nhiệm chính trong phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Khoản 1.
- Có ý kiến cho rằng cần bỏ cụm từ “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển của đất nước” vì cụm từ này chỉ mang tính chất như một khẩu hiệu, không cần thiết trong văn bản quy phạm pháp luật.
- Bổ sung thêm cụm từ "và mục tiêu" sau từ "động lực" để theo đúng tinh thần Nghị quyết TW5 (khóa VIII): “Văn hóa là động lực, là mục tiêu phát triển của đất nước”.
- Có ý kiến cho rằng tại Khoản 2 nên thay bằng cụm từ “Nhà nước khuyến khích các sáng tác, biểu diễn văn hoá nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng, lành mạnh của nhân dân…Việt Nam; bảo trợ và phát triển các tài năng văn hoá, nghệ thuật…”. Vì trên thực tế, các sáng tác nghệ thuật có nội dung ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, hoặc các tài năng về văn hoá, nghệ thuật cần phải được Nhà nước khuyến khích, bảo trợ nhằm phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Khoản 3.
- Đề nghị bổ sung, sửa đổi là: Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có văn hóa, có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Khoản 4.
- Có ý kiến đề nghị chuyển Khoản 4 của Điều 64 sang Khoản 2 của Điều 44 vì có nội hàm tương tự; đề nghị thay cụm từ “phá hoại” bằng cụm từ ”xâm hại”, vì nhân cách thì không nên dùng từ phá hoại; bổ sung cụm từ “xuất bản các loại tài liệu, ấn phẩm” sau từ “truyền bá”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung một khoản quy định nghiêm cấm hành vi xâm phạm, chiếm đoạt các di sản, công trình văn hoá, nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử được Nhà nước công nhận.
Điều 65: Có 13.098 ý kiến
- Đề nghị Điều 65, 66, 67 nên gộp lại thành một điều với các khoản liên quan vì điều 65 khẳng định quan điểm về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; Khoản 66, 67 là cụ thể hóa quan điểm đó.
- Một số ý kiến cho rằng xác định việc “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” là rất phù hợp, thể hiện vai trò quan trọng của giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ trong phát triển kinh tế, phát triển dân trí, nâng cao trình độ và vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, quy định như vậy chưa rõ chủ thể ai sẽ là người thực hiện. Do vậy, nên bổ sung cụm từ “Nhà nước đảm bảo” và sửa thành “Nhà nước đảm bảo phát triển giáo dục giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”.
- Một số ý kiến đề nghị sửa lại là: Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, an ninh và quốc phòng là quốc sách hàng đầu”.
- Môt số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “Nhà nước đảm bảo” nên trước để quy định rõ chủ thể trong việc phát triển giáo dục thành “Nhà nước đảm bảo phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”.
Điều 66: Có 38.596 ý kiến
- Có một số ý kiến nêu về giáo dục, đào tạo trong Dự thảo chưa toát lên được tầm quan trọng, tính cấp bách hiện nay về chính sách giáo dục, chưa nói lên được việc cần thiết phải đổi mới tư duy trong giáo dục như trong Cương lĩnh về phát triển đất nước của Đảng. Nên bổ sung về chính sách trọng dụng người tài trong điều này.
- Khoản 1 đề nghị bổ sung cụm từ "khuyến khích và trọng dụng nhân tài" vào sau cụm từ "Đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài".
- Có một số ý kiến đề nghị sửa lại Khoản 3 như sau: “Nhà nước và xã hội đáp ứng tối đa nhu cầu học tập của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, sử dụng, thu hút tài năng, xem đây là nguồn nguyên khí quan trọng của quốc gia; người khuyết tật…”.
- Đề nghị bổ sung thêm một khoản vào Điều 66 đó là: “Nhà nước tập trung xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, có các cơ chế, chính sách để tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho mọi người được học tập thường xuyên, liên tục, suốt đời; là mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta”. Vì Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011), các Nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI nhằm xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, nhưng Hiến pháp là đạo luật cơ bản, luật gốc lại không hề đề cập đến.
Điều 67: Có 49 ý kiến góp ý
- Về vấn đề khoa học và công nghệ, một số đại biểu phản ánh thực tế trong quá trình làm khoa học, việc làm các thủ tục tài chính, quyết toán, thanh toán phức tạp và chiếm quá nhiều thời gian nên ảnh hưởng rất lớn tới công tác nghiên cứu. Vì vậy đề nghị Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi phải thể hiện được sự đảm bảo những điều kiện, có cơ chế đặc thù để các nhà khoa học làm việc, có như vậy mới xây dựng được một nền khoa học tự chủ, hiện đại.
- Đề nghị giữ lại Điều 41, 42 của Hiến pháp cũ nhưng có sự điều chỉnh: “Nhà nước cần định hướng phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc và hướng dẫn phát triển giáo dục thể chất trong trường học. Tạo điều kiện và khuyến khích phát triển các hình thức thể thao quần chúng. Chú trọng phát triển thể thao thành tích cao, đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao”.
Khoản 1.
Có ý kiến đề nghị sửa lại là: "Khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ giữ vai trò then chốt, …”.
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “mũi nhọn”, “tiên tiến, hiện đại”, thành “Nhà nước thúc đẩy phát triển các lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển chuyển giao, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ; bảo đảm quyền tự do nghiên cứu và sáng tạo khoa học, công nghệ”.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “doanh nhân” vào sau cụm từ “cá nhân” vào Khoản 2, bởi vì cần gắn việc nghiên cứu khoa học, công nghệ với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đây là một nguồn lực rất quan trọng.
Khoản 3.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa đoạn “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và được hưởng thụ lợi ích từ các hoạt động khoa học, công nghệ” thành: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia, thực hiện và được hưởng thụ lợi ích từ các hoạt động khoa học, công nghệ”.
- Đề nghị bổ sung Khoản 4: “Nhà nước tạo điều kiện đặc biệt để thu hút nhân tài nhằm phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học, công nghệ, an ninh quốc phòng”. Vì Dự thảo cần bổ sung nội dung đề cập đến việc sử dụng hợp lý tài năng của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ cao và độ dày kinh nghiệm.
Điều 68: Có 91 ý kiến
- Đề nghị Nhà nước nên đưa nội dung bảo vệ môi trường trở thành vấn đề then chốt gắn với sự phát triển bền vững, trong đó yêu cầu mọi công dân phải có ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường và quản lý môi trường cho thế hệ tương lai.
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị Khoản 1 Điều 68 có thể gộp Khoản 2 Điều 46 vì cũng quy định về trách nhiệm về bảo vệ môi trường.
Khoản 2:
- Đề nghị bổ sung cụm từ “bền vững” sau cụm từ “hiệu quả”, cụm từ “phát triển” sau cụm từ “bảo tồn”, “hợp tác quốc tế để phối hợp hành động bảo vệ môi trường” sau cụm từ “ứng phó với biến đổi khí hậu” và sửa thành: “Nhà nước có cơ chế .... sử dụng hiện quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn, phát triển đa dạng sinh học; phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, hợp tác quốc tế để phối hợp hành động bảo vệ môi trường” để nội dung của khoản này phù hợp, đầy đủ ý hơn”; đề nghị xem xét lại cách dùng từ “sản xuất sạch” và “tiêu dùng sạch”.
Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị thêm vào khoản 3 cụm từ “hậu quả gây ra” sau cụm từ “khắc phục”; bổ sung thêm cụm từ “theo pháp luật’’ vào sau “bị xử lý nghiêm’’ thành “… làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm theo pháp luật…”.
CHƯƠNG IV
BẢO VỆ TỔ QUỐC
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
Có tổng số 325.721 ý kiến tham gia góp ý:
- Về tên chương: Đa số các ý kiến tán thành tên chương.
- Góp ý chung: Có hơn 96.900 ý kiến góp ý:
+ Trên cơ sở giữ nội dung và bố cục Chương IV của Hiến pháp năm 1992, Dự thảo tiếp tục khẳng định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; bổ sung quy định về góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Ðồng thời, Dự thảo khẳng định lực lượng vũ trang có nhiệm vụ tuyệt đối trung thành với Ðảng và bảo vệ Ðảng, bổ sung việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế của lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Trong Chương IV: “Bảo vệ Tổ quốc” quy định Bộ đội, Quân đội, Công an có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhưng có ý kiến cho rằng nên mở rộng ra. Hiện nay chúng ta chưa có quy định về việc đưa quân ra nước ngoài nên cần có quy định quyền thực hiện nghĩa vụ quốc tế như Quân đội chúng ta tham gia lực lượng bảo vệ hòa bình của Liên hợp quốc.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 69: Có 68.268 ý kiến góp ý:
- Có ý kiến đề nghị sửa lại là: "Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng và an ninh, góp phần bảo vệ hòa bình ở trong khu vực và trên thế giới.
Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định".
Vì trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của lượng vũ trang và quần chúng nhân dân, ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Hôm nay trong thời bình, dù không có súng đạn nhưng trước chính sách mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước ta, các thế lực thù địch đã và đang bằng mọi cách thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" và "bạo loạn lật đổ", thậm chí sử dụng vũ khí công nghệ cao hòng xoá bỏ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, một số đối tượng khác “chui sâu, leo cao” vào trong nội bộ nhằm chuyển hóa tư tưởng, chuyển hóa nội bộ nhằm làm giảm lòng tin với Đảng, với Nhà nước. Như trong Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khóa XI đã ra Nghị quyết về "một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Cho nên, để Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia phải có Đảng lãnh đạo, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, sự phối hợp của các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và sự ủng hộ của nhân dân.
Khổ 1.
- Có nhiều ý kiến đề nghị thay cụm từ “sự nghiệp” bằng cụm từ “trách nhiệm” thể hiện rõ trách nhiệm của toàn xã hội với nhiệm vụ chung do vậy viết lại là: “Bảo vệ Tổ quốc Việt nam Xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là trách nhiệm của toàn xã hội”.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa lại là: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân”; đồng thời đề nghị bổ sung thêm cụm từ “củng cố quốc phòng” và “đảm bảo trật tự an toàn xã hội” để toàn diện hơn. Cụ thể: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân”.
Khổ 2.
Có một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ: ”gồm Quân đội nhân dân và Công an nhân dân”. Sửa lại là: “Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân gồm Quân đội nhân dân và Công an nhân dân giữ vai trò nồng cốt...”; một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ "nhiệm vụ ngoại giao và đối ngoại nhân dân".
Khổ 3.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa lại là: “Mọi cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”.
2. Điều 70: Có 342 ý kiến
- Nhiều ý kiến đồng tình với nội dung bổ sung, tuy nhiên đề nghị nên sắp xếp thứ tự như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam”. Một số ý kiến đề nghị nên cân nhắc việc bổ sung nội dung tuyệt đối trung thành với Đảng và bảo vệ Đảng vì ở nước ta, lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng lãnh đạo, đương nhiên phải tuyệt đối trung thành với Đảng và bảo vệ Đảng.
- Đề nghị bổ sung cụm từ "biển đảo, biên giới, vùng trời" và cụm từ "bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nền văn hóa, bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống" vào trước và sau cụm từ "thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội". Viết lại là: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, biển đảo, biên giới, vùng trời, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nền văn hóa, bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
- Đề nghị thay câu “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân...” bằng câu “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam...”.
- Có một số ý kiến đề nghị đảo cụm từ “Tổ quốc” lên trước “Đảng Cộng sản Việt Nam” tại Điều 70 thành: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân…” vì Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng Đảng vẫn phải hoạt động tuân thủ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; lợi ích của Tổ quốc phải đặt trên lợi ích của Đảng.
3. Điều 71: Có 46.223 ý kiến
- Đa số ý kiến cho rằng, Điều 71 ghi là “Quân đội nhân dân cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ…”. Từ trước đến nay chúng ta thường nói: Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng trong dự thảo ghi thêm: “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng” thì người ta có thể hiểu bên cạnh Quân đội nhân dân Việt Nam có thêm lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng. Cho nên có thể hiểu là có 2 lực lượng quân đội. Cho nên đề nghị Điều 71 cần sửa như sau “Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân cách mạng được xây dựng tinh nhuệ, chính quy từng bước hiện đại” để làm rõ bản chất của quân đội nhân dân Việt Nam.
- Có một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “từng bước” và nên viết lại: “Quân đội nhân dân Việt nam bao gồm 2 lực lượng: Thường trực và Dự bị; 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương, Dân quân tự vệ được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
Nói như thế là phù hợp, thể hiện tầm vóc của Đảng, dân tộc, quân đội đã có thực tiễn 2 cuộc kháng chiến lâu dài thắng lợi to lớn để phát triển lên tầm cao mới. Không thể “từng bước” mãi để ỷ vào khó khăn chậm hiện đại quân đội. Không thể hô hào “hùng hậu”, “rộng khắp” chung chung.
- Có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “là lực lượng” vào sau cụm từ “quân đội nhân dân Việt Nam” để khẳng định rõ vị trí, vai trò của quân đội là lực lượng cách mạng. Điều 71 nên viết là: “Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng cách mạng được xây dựng chính quy…”.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ từ “hùng hậu” thay bằng “…tổ chức chặt chẽ, vững mạnh, rộng khắp…” như vậy sẽ đảm bảo tính quy mô và chất lượng của lực lượng. Viết lại là: “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được xây dựng tổ chức chặt chẽ, vững mạnh, rộng khắp, rộng khắp, cùng với Quân đội nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”; bỏ cụm từ “cùng với Quân đội nhân dân” và thêm cụm từ “Lực lượng cảnh sát biển được xây dựng hiện đại” vào sau từ “rộng khắp”, thay dấu phẩy “,” bằng dấu chấm phẩy “ ; ”. Viết lại là: “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được xây dựng hùng hậu, rộng khắp; lực lượng Cảnh sát biển được xây dựng hiện đại; làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân” sau “...từng bước hiện đại...” để thống nhất với Điều 70. Viết lại là: “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được xây dựng hùng hậu, rộng khắp, cùng với Quân đội nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”; bổ sung cụm từ “vững mạnh” vào trước cụm từ “hùng hậu”. Viết lại là: “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, hùng hậu, rộng khắp, cùng với Quân đội nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
- Có một số ý kiến đề nghị thay từ “từng bước” bằng từ “tiến lên”. Viết lại là: “Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại; lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được xây dựng hùng hậu, rộng khắp, cùng với Quân đội nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”; bổ sung thêm cụm từ: “thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và một số nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước phân công”.
4. Điều 72: Có 81.667 ý kiến
- Có một số ý kiến đề nghị nêu trực tiếp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công an nhân dân Việt Nam tại Điều 72.
- Đa số ý kiến cho rằng, Điều 72 ghi là “Công an nhân dân cách mạng được xây dựng từng bước chính quy hiện đại”. Trước nay câu nói của chúng ta bao giờ cũng là: Công an nhân dân Việt Nam nhưng trong dự thảo ghi thêm “Công an nhân dân cách mạng” thì người ta có thể hiểu bên cạnh Công an nhân dân Việt Nam có thêm lực lượng Công an nhân dân cách mạng. Cho nên có thể hiểu là có 2 lực lượng Công an. Cho nên đề nghị sửa lại điều 72 như sau: “Công an nhân dân được xây dựng từng bước chính quy hiện đại làm nòng cốt trong sự nghiệp cách mạng, bảo vệ an ninh quốc gia”, để làm rõ bản chất của Công an nhân dân Việt Nam.
- Có nhiều ý kiến cho rằng: “Công an nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Nên bổ sung cụm từ "tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân". vì trải qua 2 cuộc kháng chiến, Lực lượng Công an nhân dân đã tỏ rõ một bãn lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc, với Nhân dân. Ngày nay, với nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ lập nên nhiều chiến công chói lọi, không ít cán bộ, chiến sĩ bị thương trong khi làm nhiệm vụ. Đó xuất phát từ ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn truyền thống của lực lượng công an nhân dân Việt Nam. Cũng như thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân" đối với Đảng phải tuyệt đối trung thành, đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép" và để phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
- Có một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “từng bước” mà phải luôn luôn hướng vào xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa lại là “Xây dựng Công an nhân dân Việt Nam cách mạng chính quy, tinh nhuệ , từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự , an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
- Một số ý kiến đề nghị sửa lại là: “... làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản chủ nghĩa xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”; đề nghị thay từ “từng bước” bằng từ “tiến lên”. Viết lại là: “Công an nhân dân Việt Nam cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
5. Điều 73: Có 32.321 ý kiến
- Có một số ý kiến đề nghị đưa Điều 94: Hội đồng Quốc phòng và an ninh vào chương này thành Điều 73, phù hợp với nội dung của chương IV và nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm từ “công an” và “an ninh nhân dân”, vì trong thời bình, chúng ta không thể tách rời hai lực lượng quốc phòng và an ninh, viết lại là: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội và công an; xây dựng công nghiệp quốc phòng và an ninh nhân dân, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng và công an; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”.
- Có nhiều ý kiến đề nghị bỏ từ "các" trong cụm từ "xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân" vì một nhà nước chỉ có một lực lượng vũ trang được thừa nhận trong Hiến pháp. Vì vậy, nếu dùng cụm từ các lực lượng vũ trang nhân dân là không chính xác. Khi nói đến lực lượng vũ trang nhân dân, mọi người hiểu ngay đó là Công an nhân dân và quân đội nhân dân.
- Có nhiều ý kiến đề nghị thêm cụm từ “xây dựng nền” vào sau cụm từ “chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân”, thành: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, xây dựng nền giáo dục quốc phòng và .....chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước” để nội dung của Điều 73 đầy đủ hơn; Có ý kiến đề nghị thêm cụm từ “trong mọi tình huống” vào cuối câu của Điều 73 thành: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, .....và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước trong mọi tình huống” để thể hiện tính chủ động, sẵn sàng trong việc bảo vệ đất nước.
- Nhiều ý kiến đề nghị bỏ câu “Bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng” vì nội dung này được cụ thể hóa theo luật định; đề nghị bổ sung cụm từ “an ninh” sau cụm từ “...; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự,”; cụm từ “công an” sau cụm từ “chính sách hậu phương quân đội,”; cụm từ “an ninh” sau cụm từ “...;xây dựng công nghiệp quốc phòng,” và bổ sung cụm từ “an ninh, đối ngoại” sau cụm từ “..., kết hợp quốc phòng”. Viết lại là: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, an ninh, chính sách hậu phương quân đội, công an; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “quân đội” sau cụm từ “chính sách”, sửa lại là: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách quân đội, hậu phương quân đội,...”; đề nghị bổ sung cụm từ “kiến thức”, và sửa lại là: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội...”.
CHƯƠNG V
QUỐC HỘI
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
Có tổng số 416.760 ý kiến tham gia góp ý:
- Về tên chương: Đa số các ý kiến tán thành tên chương.
- Góp ý chung về nội dung, bố cục của chương: Có hơn 90.200 ý kiến góp ý:
Quy định như trong dự thảo là quá dài. Hiến pháp chỉ cần nêu vai trò, vị trí, chức năng chính của Quốc hội như trên là đủ; còn quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể của Quốc hội thì do Luật tổ chức Quốc hội quy định; hơn nữa quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung và của Quốc hội nói riêng có thể thay đổi phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. (Tương tự chương quy định về Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác… cũng nên quy định gọn lại theo hướng như vậy để bản Hiến pháp có tính súc tích, gọn và ổn định lâu dài).
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 74: Có 34.938 ý kiến
- Đa số ý kiến cho rằng, việc quy định: “Quốc hội cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Về bản chất chế độ, chủ quyền nhân dân là tối cao, cho nên quyền lực nhân dân là cao nhất. Xét dưới góc độ tư duy logic thì không thể trong một chỉnh thể, một chính thể lại có hai chủ thể cao nhất. Nhưng điều quan trọng hơn, nếu qui định Quốc hội là “cơ quan quyền lực cao nhất” sẽ mâu thuẫn với linh hồn của Điều 2 (Tất cả mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân).
Vì vậy, để bảo đảm sự thống nhất về tinh thần và ý chí nêu tại Điều 2, chúng tôi kiến nghị sửa Điều 74 như sau: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát đối với hoạt động của Nhà nước”.
- Có nhiều ý kiến đề nghị phải bỏ đoạn 2, Điều 74 Dự thảo là “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến”. Quyền lập hiến thuộc về nhân dân và Quốc hội cũng không thể có quyền giám sát Tối cao mà quyền giám sát Tối cao thuộc về nhân dân. Quốc hội chỉ có quyền giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa đoạn 1 thành: “Quốc hội là cơ quan độc lập đại biểu cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” ; một số ý kiến đề nghị sửa thành: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Cộng hoà xã hội chủ nghĩa”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung từ “mọi” trước “hoạt động của Nhà nước”. Viết lại là: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của Nhà nước”; đề nghị bổ sung nội dung: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của mọi tổ chức chính trị - phi chính trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam là tổ chức đại diện bảo vệ tiếng nói chung của nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế”.
- Có một số ý kiến đề nghị sửa lại điều này vì Quy định như vậy là mâu thuẫn với điều 2 dự thảo là quyền lực Nhà nước “có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, bởi một khi Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất (không ai cao hơn) và thực hiện quyền giám sát tối cao thì các cơ quan hành pháp và tư pháp không thể có quyền “kiểm soát” đối với Quốc hội.
- Có một số ý kiến cho rằng nên viết làm 3 khoản để thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội:
“1. Là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
2. Là cơ quan thực hành quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
3. Là cơ quan giám sát tối cao.”
- Có một số ý kiến đề nghị giữ nguyên quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” như Hiến pháp 1992.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Quốc hội, nhà nước và xã hội”.
2. Điều 75: Có 98.728 ý kiến
Khoản 1.
Có ý kiến cho rằng, quyền lập pháp mà nhân dân giao cho Quốc hội chủ yếu là quyền thông qua Luật. Quá trình xây dựng Luật và quyết định Luật gồm nhiều công đoạn: đưa ra sáng kiến Luật, dự thảo Luật, đệ trình dự thảo Luật, thông qua Luật, công bố Luật. Những công việc ấy do nhiều cơ quan làm chứ không chỉ có Quốc hội. Một số ý kiến cho rằng, Điều 75 về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội, dự thảo viêt ở điểm 1, điều 75” “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm Luật và sửa đổi Luật”, đề nghị viết lại: “Thông qua dự thảo Hiến pháp và dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tổ chức trưng cầu ý dân để nhân dân biểu quyết về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Thông qua Luật và sửa đổi Luật”. Không nên dùng cụm từ “làm Hiến pháp” và “làm luật” vì viết như vậy không rõ nghĩa.
- Có một số ý kiến đề nghị thay từ “làm” bằng cụm từ “xây dựng”, thành “xây dựng Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, xây dựng luật và sửa đổi luật” hoặc “lập hiến, lập pháp”. Viết lại là: “Xây dựng Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; xây dựng luật và sửa đổi luật”. Bổ sung thêm “đại biểu Quốc hội có quyền đề xuất sáng kiến pháp luật”.
Khoản 5.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “chính sách đối nội, đối ngoại và việc tham gia làm thành viên các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự quốc tế” vào cuối khoản này.
Khoản 6.
Một số ý kiến đề nghị sửa thành: “Quyết định cơ cấu tổ chức...”. Viết lại là: “Quyết định cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa phương và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập”.
Khoản 7.
- Đa số ý kiến đề nghị không quy định: Quốc hội có quyền “phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” mà giữ nguyên quy định tại khoản 8 Điều 103 Hiến pháp 1992, đó là Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tóa án nhân dân tối cao. Bởi Thẩm phán là chức danh mang tính nghề nghiệp, không phải là chức danh lãnh đạo quản lý do đó việc thay đổi theo từng nhiệm kỳ Quốc hội mang tính hình thức và phát sinh nhiều thủ tục hành chính không cần thiết.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung: Quốc hội phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước đất nước, trước nhân dân theo Hiến pháp và luật pháp.
Khoản 8.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung “...công bố công khai kết quả bỏ phiếu tín nhiệm” vào cuối khoản này. Viết lại là: “Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; công bố công khai kết quả bỏ phiếu tín nhiệm”.
Khoản 11.
Một số ý kiến đề nghị sửa thành: “Quyết định đại xá các loại tội phạm trong các trại giam, các loại phạm nhân này đã hối cải, lao động cải tạo tốt. Đại xá ra tù trước hạn hoặc đại xá tù binh (nếu có)”.
Khoản 15.
Một số ý kiến đề nghị sửa thành: “Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về nhiệm vụ chiến lược, chiến thuật, xây dựng bảo vệ Tổ quốc (khi cần) hoặc trưng cầu ý dân về quyền lợi nghĩa vụ công dân theo pháp luật (khi cần)”.
3. Điều 76: Có 08 ý kiến
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị diễn đạt lại Khoản 2 như sau: “Quốc hội khóa mới phải được bầu xong trước khi Quốc khóa cũ hết nhiệm kỳ không quá sáu mươi ngày”.
Khoản 3.
- Có một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “nếu được” bằng từ “có”. Viết lại là: “Trong trường hợp đặc biệt, có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp chiến tranh”.
- Có ý kiến đề nghị chuyển Điều 76 lên gộp vào Điều 74, quy định về Quốc hội và nhiệm kỳ của Quốc hội.
4. Điều 77: Có 02 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị viết lại khổ cuối như sau: “Các Phó Chủ tịch Quốc hội thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “giúp Chủ tịch”, bổ sung cụm từ “Ủy Ban Thường vụ Quốc hội” vào sau cụm từ “...theo sự phân công của”; bổ sung cụm từ “Quốc hội” vào sau cụm từ “Chủ tịch”. Viết lại là: “Các Phó Chủ tịch Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội”.
5. Điều 78: Có 07 ý kiến
Khoản 3.
- Một số ý kiến đề nghị bỏ từ “thể”. Viết lại là: “Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không đồng thời là thành viên Chính phủ”.
- Có ý kiến đề nghị xem xét xác định độ tuổi ban đầu cho công dân khi bầu vào cơ quan lãnh đạo nhà nước các cấp. Số thành viên Chính phủ chỉ được chiếm tối đa 1/3 trong tổng số thành viên của Quốc hội.
Khoản 4.
Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “khóa”, cụ thể: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội của mỗi khóa Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa mới”.
6. Điều 79: Có 237 ý kiến
Khoản 2.
Có nhiều ý kiến cho rằng, trong điều kiện thực tế hiện nay, Quốc hội có đủ khả năng xây dựng và thông qua các luật cần thiết theo yêu cầu của nhân dân và Nhà nước. Do đó, về nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo viết Điểm 2 Điều 79: “Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Đề nghị bỏ nhiệm vụ và quyền hạn ra pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cần thống nhất, việc thông qua luật và các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị như luật vào Quốc hội.
- Có nhiều ý kiến đề nghị thay chữ “Ra” bằng chữ “Ban hành”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ nhiệm vụ ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, vì trong giai đoạn hiện nay các văn bản được ban hành nên được thể hiện ở hình thức luật, không nên là pháp lệnh.
Khoản 5.
Có ý kiến đề nghị sửa như sau: “Chỉ đạo phối hợp công tác của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội”.
Khoản 6.
Có ý kiến đề nghị thay hình thức “giải tán Hội đồng nhân dân” bằng hình thức “miễn nhiệm Chủ tịch HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong trường hợp HĐND đó vi phạm pháp luật gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích nhân dân, hoặc lợi ích địa phương, lợi ích quốc gia”.
Có ý kiến đề nghị thêm khoản 12.
“Ủy ban thường vụ Quốc hội giao cho một ủy ban chuyên trách của Quốc hội giải thích, hướng dẫn thực hiện các điều luật do Quốc hội ban hành.
Thành lập các cơ quan trực thuộc, giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình”.
Quy định trên nhằm để Ủy ban thường vụ Quốc hội linh động hơn, với ý tưởng thành lập Viện giám sát nhân dân trực thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát hiện nay và kiểm sát quyết định hành chính, hành vi hành chính. Với ý tưởng này đề nghị đổi tên Viện Kiểm sát thành “Viện Công tố Nhà nước”.
7. Điều 80: Có 04 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 94 Hiến pháp năm 1992.
- Có một số ý kiến đề nghị giữ lại đoạn 1 Điều 94 Hiến pháp 1992: “Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên” và đoạn 1 Điều 95 Hiến pháp 1992 sửa đổi như sau: “Quốc hội bầu các Uỷ ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các ủy viên”. Bởi Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra để đại diện cho mình. Việc tổ chức và thành lập các cơ quan của Quốc hội phải do nhân dân ủy nhiệm cho Quốc hội bầu, không nên ủy quyền cho cơ quan khác để nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Khoản 2.
- Có một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “vấn đề dân tộc”, viết lại như sau: “Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số”; đề nghị thay cụm từ “ thiểu số” bằng “ít người”.
Khoản 3.
Có ý kiến đề nghị viết lại: “Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải xin ý kiến thẩm định, thống nhất của Hội đồng dân tộc và Ủy ban Dân tộc”.
Khoản 4.
Có ý kiến đề nghị bỏ từ “khác”, sửa lại “Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ, quyền hạn như các Ủy ban của Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 81”.
8. Điều 81: Có 06 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 95 Hiến pháp năm 1992.
Khoản 1: Có một số ý kiến đề nghị bổ sung từ “Các” như sau: “Các Ủy ban của Quốc hội…”; đề nghị bổ sung “…và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn trên cơ sở các Chủ nhiệm Ủy ban đề nghị”.
Khoản 2.
Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “có trách nhiệm” , viết lại “Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật và dự án khác..”
9. Điều 82: Có 03 ý kiến
- Có ý kiến cho rằng, tại Khoản 1 có quy định: “Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ..” là quá lớn, cần bổ sung “sau khi được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua”.
- Tại khoản 2: Cần bổ sung đối với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban Quốc hội sau khi các tổ chức, cá nhân có báo cáo, giải trình phải có trách nhiệm đánh giá, nhận xét đúng sai sự việc báo cáo với Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
10. Điều 83: Có 09 ý kiến
- Đa số ý kiến đề nghị cần có quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban lâm thời.
- Có một số ý kiến nên bỏ Điều 83, nội dung Điều này chỉ cần quy định cụ thể trong Luật Tổ chức Quốc hội là được. Và trong Luật Tổ chức Quốc hội có thể quy định Quốc hội có quyền lập thêm các Ủy ban khác để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định.
- Một số ý kiến đề nghị sửa thành: “Quốc hội thành lập ủy ban lâm thời khi thấy cần thiết theo các thể thức luật định”; có ý kiến đề nghị sửa lại là: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội tham mưu Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời….” vì Quốc hội 01 năm họp có 2 kỳ thì những vụ việc cấp bách sẽ không giải quyết kịp.
- Có một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “một dự án”, “một vấn đề” thành “một số dự án”, “một số vấn đề” để dễ thực hiện trong thực tiễn.
- Có ý kiến đề nghị chuyển thành một khoản quy phạm riêng của Điều 75 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
11. Điều 84: Có 73.255 ý kiến
Đề nghị quy định đại biểu Quốc hội là chuyên trách, độc lập không phụ thuộc vào cơ quan hành pháp và tư pháp, vì hiện nay, đại bộ phận đại biểu Quốc hội là những cán bộ, nhân viên của cơ quan hành pháp, tư pháp nên tính quyền lực, hiệu lực của đại biểu Quốc hội không cao.
Khoản 1.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “Nhân dân ở từng địa phương có quyền bầu người đại diện của địa phương mình làm đại biểu Quốc hội theo cơ cấu do Quốc hội quy định” vào cuối khoản này.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung “Đại biểu Quốc hội có nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi, hoạt động theo quy tắc, quy chế được Quốc hội thông qua” vào cuối khoản này.
Khoản 2.
Có nhiều ý kiến đề nghị cần quy định chung, những vấn đề cụ thể thì để cho luật bầu cử, luật tổ chức quy định và cần trên 50% đại biểu Quốc hội là chuyên trách.
Khoản 3.
Có ý kiến đề nghị sửa lại là “Đại biểu Quốc hội gương mẫu thực hiện, phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật”; thay cụm từ “vận động” bằng “hướng dẫn”; bổ sung nội dung: “Đại biểu Quốc hội phải công khai thu nhập tài chính, công khai địa chỉ thư tín theo luật định”.
12. Điều 85: Có 141 ý kiến
Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung: “Chất vấn và trả lời chất vấn tại Quốc hội được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng”.
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung: “trường hợp đặc biệt thì trả lời chất vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng” vào cuối khoản này.
- Có nhiều ý kiến đề nghị thay cụm từ: “người bị chất vấn” thành “người được chất vấn”. Viết lại là: “Người được chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; …”.
Khoản 3.
- Có ý kiến đề nghị sửa thành: “Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của pháp luật...”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm từ “chịu sự giám sát của nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật”.
- Có ý kiến đề nghị sửa lại là: “Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội nhà nước cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động của các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội do mình phụ trách. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội nhà nước có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời gian luật định”.
13. Điều 86: Có 62.212 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị bỏ Điều 86 vì Khoản 1 Điều 17 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Do đó không nên quy định ngoại lệ dành riêng cho đại biểu Quốc hội.
- Có ý kiến cho rằng nên viết gọn lại “…không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp thì…”.
- Có ý kiến đề nghị sắp xếp lại cụm từ “không có sự đồng ý”, sửa lại là: “Không có sự đồng ý của Quốc hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội; nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội đó bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định “đại biểu Quốc hội không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ, trừ Thủ tướng Chính phủ.”
14. Điều 87: Có 03 ý kiến
Có một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định về quyền của đại biểu Quốc hội trong việc “tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội”.
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị sửa thành: “Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi người có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.”
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “ trách nhiệm tạo điều kiện” bằng cụm từ “cơ chế” vào sau cụm từ “các cơ quan khác của Nhà nước”.
15. Điều 88: Có 10 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị sửa thành: “Quốc hội họp công khai, được truyền hình trực tiếp ở tất cả các cuộc họp”.
- Khoản 2
- Một số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “Ủy ban thường vụ triệu tập kỳ hợp Quốc hội” vì nội dung này đã quy định tại Khoản 1 Điều 39.
- Có ý kiến cần xác định thời gian của các kỳ họp “Mỗi kỳ họp không quá 30 ngày”; thay đổi từ “hai kỳ” bằng “bốn kỳ” để có thời gian nghiên cứu nội dung sâu hơn.
- Có nhiều ý kiến đề nghị Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nên quy định phải có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội thay vì một phần ba như Dự thảo.
- Có một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung mới: “Các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội có trách nhiệm báo cáo công tác và trả lời chất vấn những điều đã hứa ở kỳ họp Quốc hội trước”. Và “Điều hành các kỳ họp Quốc hội do một số luật sư được bầu phiếu kín hàng năm”.
16. Điều 89: Có 12 ý kiến
- Có một số ý kiến đề nghị nên giữ nguyên Điều 87 của Hiến pháp năm 1992 như sau “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội. Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định”.
- Khoản 1:
+ Có nhiều ý kiến đề nghị thay cụm từ “các tổ chức thành viên của Mặt trận” bằng cụm từ “các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân dân”.
+ Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “các đoàn thể chính trị - xã hội” vào sau cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Viết lại là: “…Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị- xã hội và các tổ chức thành viên..” .
+ Có một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “các tổ chức thành viên” bằng cụm từ “các tổ chức chính trị - xã hội”. Viết lại là: “…Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội có quyền trình dự án luật trước Quốc hội” .
17. Điều 90: Có 56.985 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị sửa thành: “Hiến pháp phải có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc vụ biểu quyết tán thành”.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “trừ trường hợp” bằng cụm từ “đối với” trước cụm từ “Hiến pháp quy định”. Viết lại là: “Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, đối với Hiến pháp quy định phải có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành”.
Khoản 2.
Có một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “Hiến pháp” trước từ “luật” để đảm bảo về mặt thời gian công bố Hiến pháp, viết lại là: “Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày được thông qua”. Riêng việc công bố Pháp lệnh chậm nhất sau 15 ngày, kể từ ngày được thông qua có mâu thuẫn gì với trường hợp sau 10 ngày Pháp lệnh đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, nhưng Chủ tịch nước lại đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại. Nếu không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (Khoản 1 Điều 93). Như vậy thời hạn chậm nhất là 15 ngày để công bố Pháp lệnh khi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua là không đảm bảo.
CHƯƠNG VI
CHỦ TỊCH NƯỚC
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
Tính đến ngày 25 tháng 03 năm 2013 theo báo cáo có tổng số 416.576 ý kiến tham gia đóng góp.
- Về tên chương: Đa số ý kiến tán thành tên chương.
- Góp ý chung : Đa số ý kiến cho rằng Dự thảo lần này tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Quy định như vậy phù hợp với bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước của nước ta. Tuy nhiên nhiều ý kiến đề nghị Dự thảo Hiến pháp lần này cần quy định tăng quyền cho Chủ tịch nước; là thời điểm chín muồi để hợp nhất chức danh Chủ tịch nước và Tổng Bí thư; sắp xếp, bổ sung để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 91: Có 210.093 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị cần có thiết chế để hợp nhất chức danh Tổng Bí thư và Chủ tịch nước để tăng quyền lực của người đứng đầu Đảng và Nhà nước. Nghĩa là, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước và là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Một số ý kiến cho rằng Chủ tịch nước phải là có quyền lực thực sự, chứ không thể là tượng trưng; Đề nghị quy định Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, thay mặt cho nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về mặt đối nội và đối ngoại.
- Một số ý kiến cho rằng, vấn đề chế độ chính trị quyết định bởi đảng cầm quyền, do vậy phải có quy định pháp lý về vai trò của Đảng cầm quyền, phải thể hiện mối quan hệ của Đảng với nhà nước, phản ánh vai trò, trách nhiệm pháp lý của Đảng cầm quyền, người đứng đầu của Đảng phải giữ vị trí quyền lực nhất trong nhà nước, đó là người đứng đầu nhà nước, đứng đầu Chính phủ nắm quyền hành pháp với nguyên nhân sau: để người đứng đầu Đảng có quyền lực xã hội thực sự; để người đứng đầu của Đảng đưa được đường lối của Đảng thực thi trong xã hội; để phợp với quan hệ đối nội, đối ngoại trong quan hệ thế giới hiện nay; để người đứng đầu Đảng có trách nhiệm pháp lý thực sự trước xã hội. Nên bổ sung Chủ tịch nước là người đứng đầu Đảng, Chính phủ.
- Một số ý kiến đề nghị sửa lại là: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.”
- Một số ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 101 Hiến pháp năm 1992. Điều này ghi như sau: “Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.
2. Điều 92: Có 82.011 ý kiến
- Đa số ý kiến đề nghị thay đổi phương thức bầu Chủ tịch nước theo hướng dân bầu trực tiếp “Chủ tịch nước do nhân dân bầu trực tiếp trong số đại biểu Quốc hội”. Việc quy định như vậy mới thể hiện được tính độc lập và thể hiện quyền lực của Chủ tịch nước mạnh hơn. Việc bầu Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội và Chủ tịch nước là đại biểu Quốc hội đương nhiên, một người chỉ được làm Chủ tịch nước không quá hai nhiệm kỳ. Cần quy định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước phải xứng với vị trí của nguyên thủ quốc gia.
- Nhiều ý kiến đề nghị quy định Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng phòng chống tham nhũng tối cao và các hội đồng khác do Chủ tịch nước lập ra khi thấy cần thiết.
- Có ý kiến đề nghị sửa lại "Chủ tịch nước do nhân dân bầu trực tiếp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu cùng với bầu đại biểu Quốc hội; Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Quốc hội về những quyết định của mình và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ đến khi nhân dân bầu Chủ tịch nước mới".
- Có ý kiến đề nghị gộp Điều 91 lên vào Điều 92, quy định về Chủ tịch nước và nhiệm kỳ của Chủ tịch nước.
3. Điều 93: Có 89.526 ý kiến
- Đa số ý kiến đề nghị Hiến pháp lần này cần làm rõ và đề cao thực quyền của Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước phải xứng với vị trí của nguyên thủ quốc gia. Trong quyền của Chủ tịch nước, cần quy định cụ thể, rõ hơn về các quyền của Chủ tịch nước đối với Chính phủ như quyền giám sát của Chủ tịch nước đối với Thủ tướng Chính phủ vì Thủ tướng Chính phủ là do Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu.
- Có ý kiến góp ý bổ sung vào Dự thảo “Chủ tịch nước có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ nếu văn bản đó không phù hợp với Hiến pháp và pháp luật”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm: “Chủ tịch nước có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ nếu văn bản đó không phù hợp với Hiến pháp và pháp luật nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm quyền của Chủ tịch nước trong việc xem xét các đạo luật do Quốc hội thông qua; đề nghị bổ sung quy định: “Chủ tịch nước giữ quyền ký, hoặc ủy nhiệm cho thuộc cấp ký các hiệp định kinh tế, quân sự với nước ngoài.”; có ý kiến đề nghị gộp Điều 95 và Điều 96 vào điều 93 để thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch nước.
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị viết lại như sau: "Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp, của Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ nếu văn bản đó không phù hợp với Hiến pháp, luật, pháp lệnh".
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “Đề cử, giới thiệu với Quốc hội người kế nhiệm chức Chủ tịch nước” vào cuối khoản.
- Một số ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh: Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, thành viên Chính phủ và bộ trưởng; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội ra sắc lệnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh: Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và thành viên Chính phủ”.
Khoản 3.
- Đa số ý kiến đề nghị bổ sung quy định Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác; Chủ tịch nước có quyền giải tán Quốc hội, Chính phủ hoặc cách chức Thủ tướng Chính phủ; Các cơ quan quan trọng như Quốc phòng; Công an; Ngoại giao phải do Chủ tịch nước điều hành trực tiếp.
- Một số ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung: “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiễm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiện, cách chức Phó Chánh án Toàn án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá, ân xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá; có quyền bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Thẩm phán nhân dân tối cao ban hành trái với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”. Quy định này nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện rõ hơn mối quan hệ của Chủ tịch nước với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong hoạt động lập pháp; đồng thời phát huy tốt hơn cơ chế kiểm tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Đa số ý kiến đề nghị bổ sung thêm quyền “ân giảm án tử hình” vào quyền của Chủ tịch nước theo qui định của điều luật này; sửa đổi cụm từ “Thẩm phán các Tòa án khác” thành “Thẩm phán các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp…”. Viết lại là: “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá, ân giảm án tử hình; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá”.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền của Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp (khoản 3) để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp, bám sát tinh thần Kết luận Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Khoá XI, bảo đảm tính nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xét xử, tăng cường tính độc lập trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao vai trò, vị thế thẩm phán toà án nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "Chủ tịch nước có quyền bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trái với các văn bản do Chủ tịch nước ban hành" vào cuối của khoản 3.
Khoản 5.
- Một số ý kiến đề nghị Hiến pháp cần quy định cụ thể, rõ hơn về các quyền của Chủ tịch nước đối với lực lượng vũ trang; đề nghị bổ sung, Chủ tịch nước giữ quyền ban hành lệnh giới nghiêm, lệnh thiết quân luật cục bộ hay toàn quốc.
- Có ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng - An ninh quốc gia, phong hàm cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân; bổ nhiệm, cách chức các chức danh: Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương”.
- Có ý kiến đề nghị viết lại: “quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân; bổ nhiệm Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam”. Việc bổ sung thẩm quyền này cho Chủ tịch nước vừa phân định rõ ràng, cụ thể thẩm quyền phong hàm, cấp sĩ quan của Chủ tịch nước với các chủ thể có thẩm quyền khác, tạo cơ sở thống nhất cho việc cụ thể hóa trong các đạo luật và áp dụng trên thực tế; đồng thời phù hợp với vị trí, vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh của Chủ tịch nước.
4. Điều 94: Có 08 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị thêm cụm từ “và Chủ tịch nước làm chủ tịch Hội đồng” vào cuối đoạn 1; Sửa đoạn 2 như sau: “Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và do Chủ tịch Hội đồng quyết định cuối cùng”; Đề nghị bổ sung: “Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng - An ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân”.
5. Điều 95: Có 22 ý kiến:
- Đa số ý kiến đề nghị viết lại khổ 2, thay từ “yêu cầu” bằng “có quyền triệu tập” như sau: “Khi cần thiết, Chủ tịch nước có quyền triệu tập Chính phủ và chủ trì họp bàn những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.
- Có ý kiến, đề nghị bỏ cụm từ “có quyền”, Điều 95 nên viết là: “Chủ tịch nước tham dự các phiên họp...”. Việc điều chỉnh, bổ sung như vậy thể hiện đúng mức hơn quy định tại Điều 91 về vai trò đứng đầu Nhà nước của Chủ tịch nước.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “yêu cầu” thay bằng “có quyền”. Viết lại là: “Chủ tịch nước có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, có quyền triệu tập Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.
- Ngoài ra, có ý kiến đề nghị chuyển nội dung của Điều 95 và Điều 96 thành 02 khoản (khoản 7 và khoản 8) của Điều 93. Vì điều 93 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước.
6. Điều 96: Có 07 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Chủ tịch nước ban hành sắc lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định”; Đề nghị viết lại như sau: “Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định”.
7. Điều 97: Có 34.748 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị sửa lại khổ 1 như sau: “Phó Chủ tịch nước được Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội do Chủ tịch nước đề cử”; Bỏ cụm từ “có thể”; câu viết lại như sau: “Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ”; Đề nghị thay từ “làm” bằng cụm từ “thực hiện”. Viết lại là: “Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch thực hiện nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ”.
8. Điều 98: Có 161 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị cần phải quy định “thời gian dài” Chủ tịch nước không làm việc được cụ thể là bao lâu? Vì thế các ý kiến đề nghị quy định là từ 03 tháng trở lên; Đề nghị quy định cụ thể thời gian là 2 đến 3 tháng; Bổ sung cụm từ “giữ chức” vào trước “quyền Chủ tịch”. Viết lại là: “Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch giữ chức quyền Chủ tịch”.
Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch giữ chức quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới.
- Có ý kiến đề nghị cụm từ “tạm giữ chức” trước “quyền Chủ tịch”. Viết lại là: “Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch tạm giữ chức quyền Chủ tịch”.
Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch tạm giữ chức quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới”.
- Có ý kiến đề nghị nên có điều tương tự như Điều 98 quy định những trường hợp nào khuyết Thủ tướng; Sửa lại là: “Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài mà có lý do chính đáng thì Phó Chủ tịch nước được ủy quyền điều hành thay Chủ tịch nước”; Đề nghị xem xét xác định độ tuổi ban đầu cho công dân khi bầu vào cơ quan lãnh đạo nhà nước các cấp.
CHƯƠNG VII
CHÍNH PHỦ
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
Có tổng số 440.019 ý kiến
- Về tên chương: Đa số các ý kiến tán thành tên chương.
- Những góp ý chung: Có 216.537 ý kiến góp ý:
+ Chương VII quy định chưa rõ ràng về trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu Chính phủ hay đứng đầu bộ, ngành mà chỉ quy định một cách chung chung; đặc biệt mới chỉ đề cao “nhiệm vụ và quyền hạn” là chính. Học tập “tinh thần” Hiến pháp 1946 đã đặt ra vấn đề “Bộ trưởng phải được Nghị viện tín nhiệm, nếu không được tín nhiệm thì phải từ chức”; “Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội Các”, tập thể không phải liên đới chịu trách nhiệm về hành vi cá nhân của Bộ trưởng và “cá nhân Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách”.
+ Đề nghị bổ sung vào dự thảo Hiến pháp quy định về “từ chức”, nếu một khi Chính phủ không xứng đáng, thì Chính phủ bị giải tán; vấn đề ở đây không phải ở việc Chính phủ bị mất tín nhiệm hay không, mà ở chỗ nó thể hiện rõ chủ quyền thuộc về nhân dân. Trong Hiến pháp năm 1946 đã có quy định rất rõ ràng về từ chức mà các bản Hiến pháp sau này chưa thể hiện rõ được. Điều 54 của Hiến pháp năm 1946: "Trong thời hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thức nhất 48 giờ. Sau biểu quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ chức”.
+ Đề nghị đối với các chức danh Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ, bổ sung nội dung tuyện thệ trước nhân dân, trước Quốc hội về việc trung thành Hiến pháp, trung thành với đất nước, với nhân dân và quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 99: Có 15 ý kiến
- Một số ý kiến đề nghị sửa lại như sau “Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành thực thi Hiến pháp và luật pháp”, vì Chính phủ không phải là cơ quan hành chính và không phải là cơ quan cấp dưới, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước pháp quyền nhưng không phải là cơ quan đứng trên các cơ quan quyền lực khác của nhà nước, chế độ tam quyền của Nhà nước tuy không phân lập nhưng cũng phải độc lập, không thể có chế độ phân công quyền lực của Nhà nước. Nếu phân công quyền lực của Nhà nước thì không còn quyền lực của Nhà nước pháp quyền.
- Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ "thực hiện quyền hành pháp" ra sau cụm từ "là cơ quan chấp hành của Quốc hội" để phù hợp hơn với vị trí, nhiệm vụ của Chính phủ. Sửa lại là:"Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện quyền hành pháp".
- Một số ý kiến đề nghị quy định “Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp”, không nhất thiết phải quy định “là cơ quan chấp hành của Quốc hội” vì Chính phủ đã thực hiện quyền hành pháp thì đương nhiên phải chấp hành Hiến pháp, chấp hành các Nghị quyết của Quốc hội và phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
- Có ý kiến đề nghị chuyển Điều 102 lên gộp vào Điều 99, quy định về Chính phủ và nhiệm kỳ của Chính phủ; Đề nghị tăng cường vai trò của Chính phủ, của Thủ tướng trong đó Thủ tướng Chính phủ là người lãnh đạo, điều hành Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Quốc hội.
- Một số ý kiến nêu rõ: quyền hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực của quyền lực Nhà nước thống nhất. Quyền hành pháp không chỉ là quyền quản lý hành chính Nhà nước mà còn là quyền hoạch định chính sách và điều hành chính sách quốc gia trong phạm vi quyền hạn của quyền hành pháp. Chính phủ đề ra các chính sách có tính cơ bản trên các lĩnh vực, trình ra Quốc hội để xem xét, thông qua thành Luật. Chính phủ quyết định các giải pháp có tính chính sách để thi hành ngay khi chưa có Luật.
Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, nhưng không chỉ là một thiết chế chấp hành, thực hiện chính sách. Hiến pháp quy định giữa các cơ quan Nhà nước thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, cho nên không thể nói Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Do đó, về Điều 99 dự thảo viết: “Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quội”. Đề nghị viết lại đoạn này như sau: “Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước cộng hòa XHCN Việt Nam”.
- Có ý kiến cho rằng, Dự thảo viết: “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”, đề nghị đưa câu “Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp” lên trước rồi sau đó mới nói “là cơ quan hành chính cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Viết lại là: “Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan hành chính cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
2. Điều 100: Có 08 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị bổ sung việc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình đối với Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ vào cuối nội dung đoạn 4, đoạn 5.
- Một số ý kiến đề nghị viết lại đoạn 4 như sau: “Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và nhân dân về các quyết định, nghị quyết do Chính phủ ban hành và báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ "định kỳ" trước cụm từ "báo cáo". Sửa lại là: "Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và định kỳ báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước".
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ:...Phó thủ tướng “giúp Thủ tướng” và thêm cụm từ:... làm nhiệm vụ theo sự phân công của “chính phủ và” Thủ tướng. Viết lại là: “Phó Thủ trướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chính phủ và Thủ tướng”; Đề nghị bổ sung vào cuối điều một đoạn 6 như sau: “Khi Thủ tướng không làm việc được từ 2 đến 3 tháng thì Phó Thủ tướng quyền Thủ tướng”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung: “Chính phủ, các thành viên Chính phủ không được Quốc hội tín nhiệm thì phải từ chức theo quy định của pháp luật”.
- Có ý kiến đề nghị tiếp thu các ý của bản Hiến pháp 1946 về việc “Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Chính phủ”.
3. Điều 101: Có 369 ý kiến
Khoản 1.
Một số ý kiến đề nghị thêm cụm từ “ngay sau khi các văn bản này có hiệu lực thi hành” sau cụm từ “Chủ tịch nước” và thêm cụm từ “và công khai” trước cụm từ “mức giới hạn an toàn nợ quốc gia”. Viết lại là: “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước ngay sau khi các văn bản này có hiệu lực thi hành; trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
Khoản 2.
- Đa số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước và giải quyết khiếu nại, tố cáo” ở cuối Khoản 2. Sửa lại là: “Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia, xây dựng và tổ chức thực hiện chế độ công vụ; quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức; phân công, phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính lãnh thổ”.
- Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn như mục 2, 4, 6, 7 các cụm từ “thống nhất” cần xác định chủ thể thống nhất với ai trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Gom mục 3,5 lại thành một mục để tránh rườm rà, đồng thời hai mục này có đối tượng tương tự nhau.
- Một số ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Thống nhất quản lý nền hành pháp quốc gia, xây dựng và tổ chức thực hiện chế độ công vụ; quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức; phân công, phân cấp trong hệ thống hành pháp nhà nước; chỉ đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; qua Hội đồng nhân dân để giám sát và thực hiện văn bản của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cập theo luật định phải trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính; tổ chức thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước và giải quyết khiếu nại, tố cáo”, vì Nhà nước không có nền hành chính mà chỉ có nền hành pháp; bỏ “Kiểm tra Hội đồng nhân dân trong thực thi văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên”, vì cơ quan Hội đồng nhân dân các cấp thực chất là cơ quan (Quốc hội) của các địa phương cho nên chức năng kiểm tra Hội đồng nhân dân các cấp về thực thi văn bản, hay thực hiện chức năng quyền lực là do hệ thống tổ chức của Quốc hội đảm nhiệm, chịu sự giám sát của cử tri, không thuộc quyển của cơ quan hành pháp, Chính phủ chỉ có chức năng kiểm tra văn bản và thực hiện văn bản của hệ thống cơ quan Chính phủ; bỏ từ “lãnh đạo”, vì cơ quan hành pháp là cơ quan chỉ đạo thực hiện.
Khoản 4.
- Một số ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Thống nhất quản lý xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân theo định hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, thu và sử dụng ngân sách nhà nước” vì hiện nay Nhà nước không những phải quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản toàn dân mà cao hơn phải biết tổ chức, quản lsy sản xuất kinh doanh có hiệu quả thành hần kinh tế toàn dân, Nhà nước không phải là một thành phần kinh tế mà là người đại diện quản lý tổ chức kinh doanh của thành phần kinh tế toàn dân mà quen gọi là thành phần kinh tế nhà nước.
Khoản 8.
- Một số ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”, vì Nhà nước pháp quyền tổ chức ra các tổ chức chính trị - xã hội cũng chỉ là những tổ chức làm phương tiện để thực hiện quyền Nhà nước của mình. Dù tổ chức chính trị - xã hội có rộng lớn đến đâu cũng không thể ngang quyền với bất cứ một tổ chức quyền lực Nhà nước. Nếu không Nhà nước tam quyền sẽ trở thành đa quyền, Chính phủ sử dụng Mặt trận tổ quốc là phương tiện để thực thi quyền lực hành pháp, tổ chức Chính phủ không phải là một tổ chức xã hội, nên không phải là tổ chức phối hợp với các tổ chức khác.
- Có ý kiến đề nghị sửa đổi: “Phối hợp với Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện cần thiết để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả”.
4. Điều 102: Có 02 ý kiến
Có ý kiến đề nghị chuyển Điều 102 lên gộp vào Điều 99, quy định về Chính phủ và nhiệm kỳ của Chính phủ; Thay cụm từ “thành lập” thành cụm từ “bầu ra”. Sửa lại là: “... Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chính phủ mới”.
5. Điều 103: Có 56.935 ý kiến
Khổ 1.
- Đa số ý kiến đề nghị đưa cụm từ “là người đứng đầu Chính phủ” đứng sau “Thủ tướng Chính phủ”. Viết lại là “Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội”; Nên quy định “Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và nhân dân về họat động của Chính phủ”.
- Có ý kiến đề nghị sửa lại là: “Thủ tướng Chính phủ được Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội do Chủ tịch nước đề nghị, là người đứng đầu Chính phủ” để phù hợp với điều 93 quy định Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ.
Khoản 1.
Đề nghị thay cụm từ “định hướng” bằng cụm từ “chỉ đạo” và bổ sung thêm cụm từ “hành pháp”. Viết gọn lại cho phù hợp với chức năng của Chính phủ như sau: “ Chỉ đạo, điều hành hoạt động hành pháp của Chính phủ”.
Khoản 2.
Bổ sung cụm từ “Trình và thực hiện nghị quyết Quốc hội” vào trước cụm từ "miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương trong các cơ quan của Chính phủ”.
Khoản 4.
Cần bổ sung thêm nhiệm vụ của Chính phủ như sau: “Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia và quản lý, khai thác tài nguyên quốc gia tiết kiệm, có hiệu quả”.
6. Điều 104: Có 98.593 ý kiến
Khoản 1.
Đề nghị viết lại như sau: “Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên của Chính phủ, chỉ đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước của bộ và đơn vị mình phụ trách”, vì cơ quan nhà nước bộ hay ngang bộ khi được thành lập là do yêu cầu thực thi quyền lực ở các lĩnh vực Nhà nước cần có, các nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn đã được xác lập từ khi thành lập, cơ quan các bộ, cơ quang ngang bộ là cơ quan chỉ đạo thực hiện không phải là cơ quan lãnh đạo.
Khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề thuốc đơn vị mình phụ trách, thực hiện khi có yêu cầu”.
- Một số ý kiến cho rằng nên thêm cụm từ “thông qua các phương tiện thông tin đại chúng”. Viết lại là: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ; phải thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” để phù hợp với khoản 5 Điều 103.
7. Điều 105: Có 45.870 ý kiến
- Có ý kiến cho rằng cần sửa cụm từ “Ban hành văn bản pháp luật” thành “Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn luật và thực hiện nhiệm vụ”. Bởi văn bản quy phạm pháp luật gồm 2 loại là văn bản luật và văn bản dưới luật. Văn bản luật do Quốc hội và UBTVQH ban hành, Chính phủ chỉ ban hành văn bản dưới luật.
- Có ý kiến đề nghị viết lại như sau: “Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ có quyền được ban hành văn bản dưới luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và luật pháp, phải kiểm tra việc thực hiện, chịu trách nhiệm về các văn bản đó.”, vì Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không có quyền ban hành luật, như vậy tính pháp quyền của Hiến pháp và luật pháp mới tập trung cao.
8. Điều 106: Có 21.690 ý kiến
- Đa số ý kiến cho rằng cần sửa theo hướng thể hiện quyền và nhiệm vụ của chính phủ. Còn viết như dự thảo thì thể hiện quyền của các tổ chức, đoàn thể được mời tham dự.
- Nhiều ý kiến đề nghị bỏ từ “mời”. Viết lại là: “Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội được tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan”.
- Có ý kiến đề nghị để thể hiện được nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ quốc đề nghị thêm vào “của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các kỳ họp Quốc hội” và bỏ cụm từ “khi bàn các vấn đề có liên quan”. Viết lại là: “Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự các kỳ họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các kỳ họp Quốc hội và các phiên họp của Chính phủ” .
- Nhiều ý kiến đề nghị bỏ từ “khi” trong điều khoản trên vì nếu để từ này thì vai trò của người đứng đầu các tổ chức trên là chỉ khách mời tham gia với tư cách lắng nghe, tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, còn nếu bỏ từ này vai trò của người đứng đầu các tổ chức này được nâng cao hơn, sẽ được nói lên ý kiến của tổ chức mình, của nhân dân, bàn bạc, kiến nghị Chính phủ tiếp thu. Đề nghị viết lại như sau: “Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn các vấn đề có liên quan”.
- Một số ý kiến đề nghị thay cụm từ “tổ chức chính trị - xã hội” bằng cụm từ “các đoàn thể nhân dân”. Viết lại là: “Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan”.
- Có ý kiến đề nghị sửa lại: “Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ và tham gia ý kiến, các vấn đề có liên quan”.
CHƯƠNG VIII
TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Có 497.022 lượt ý kiến
Nhiều ý kiến cho rằng: Do Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nên cần chuyển các nội dung của Ðiều 126 của Hiến pháp năm 1992 vào Ðiều 107 và Ðiều 112 của Dự thảo là phù hợp.
Về Tòa án nhân dân: Dự thảo đã thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân; về Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; về các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân; về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao; về chế độ chịu trách nhiệm và báo cáo của Tòa án nhân dân; về tính hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án.
Về Viện kiểm sát nhân dân: Dự thảo đã bố cục, chỉnh sửa lại cho thống nhất với các quy định về Tòa án nhân dân, thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, chế độ chịu trách nhiệm và báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân. Cụ thể như sau:
Những bổ sung về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cơ bản là phù hợp, được sự nhất trí cao của nhân dân.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 107: Có 150.858 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến cho rằng tại Khoản 1 bổ sung “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa thượng thẩm, Tòa phúc thấm và Tòa án nhân dân khu vực”. Như vậy đề cập được thẩm quyền và phân cấp công việc trong quá trình xét xử.
- Đa số ý kiến cho rằng bổ sung nội dung thẩm quyền cho đúng với lĩnh vực hoạt động của Tòa án, đồng thời rút bớt những nội dung chuyển sang điều khác cho phù hợp hơn. Hai cụm từ: “Cơ quan xét xử” và “thực hiện quyền tư pháp” tại Khoản 1 của dự thảo sắp xếp chưa lôgic, cần xem xét lại vì “Xét xử” là một bộ phận của hoạt động tư pháp, Tòa án không chỉ duy nhất làm công tác xét xử mà còn thực hiện một số quyền năng khác do đó cần đảo lại hai cụm từ này. Đề nghị viết lại như sau:
“1. Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền xét xử các vụ án hình sự; Hòa giải, xét xử các vụ án dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân gia đình và các vụ án khác; Thực hiện thẩm quyền tư pháp đối với những vụ việc có yếu tố nước ngoài theo luật định.
2. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”
Việc sửa đổi bổ sung dự thảo phù hợp với yêu cầu cải cánh tư pháp cũng như thực tiễn hoạt động của tòa án. Hiện nay ta có Tòa án hành chính trong Tòa án nhân dân, nhiệm vụ của tòa này chủ yếu là giải quyết các khiếu nại về Quyết định hành chính, vì vậy mà việc không nhiều và không phát huy hiệu quả, trong lúc đó nhiều khiếu kiện kéo dài không được xem xét, giải quyết kịp thời.Trước yêu cầu thực tiễn thành lập các tòa án khu vực và kinh ngiệm của các nước khác, ở nước ta cần thành lập hệ thống tòa án hành chính để việc giải quyết tất cả những khiếu kiện liên quan đến chính quyền của người dân, Tòa hành chính được thành lập theo khu vực, không trùng với đơn vị hành chính để việc giải quyết của tòa án được khách quan, ít bị lệ thuộc, đây là biện pháp nhằm giải quyết nhanh chóng các khiếu nại của công dân, vừa bớt gánh nặng cho các cấp chính quyền.
- Có ý kiến cho rằng sắp xếp như sau: “Tòa án nhân dân và các tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN, thực hiện quyền tư pháp”.
- Một số ý kiến cho rằng thay cụm từ “theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân” thành “đôn đốc, giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
- Đề nghị thêm cụm từ “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa” viết lại “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”
2. Điều 108: Có 62.479 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến cho rằng, nên bổ sung thành “Tòa án nhân dân Tối cao là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCNVN”.
- Có ý kiến cho rằng Dự thảo viết khó hiểu. Tại khoản 1 Dự thảo quy định “... trừ trường hợp do luật định”, vậy tại sao không ghi cụ thể hơn là trong các trường hợp xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm…
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “Có trách nhiệm và chịu trách nhiệm là cán cân công lý”, nên viết là: “Thẩm phán, Hội thẩm có trách nhiệm và chịu trách nhiệm là cán bộ công lý, xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm”.
- Đa số ý kiến đề nghị sửa Khoản 2 là “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, Hội thẩm trái pháp luật” vì trong quá trình xét xử có thể có các tác động, can thiệp nhưng không trái pháp luật. Việc quy định như vậy sẽ góp phần minh bạch trong hoạt động tố tụng.
Khoản 3.
- Đa số ý kiến cho rằng, Dự thảo cần bổ sung quy định chức năng của Tòa án nhân dân tối cao trong việc giải thích luật và phát triển án lệ. Vì thực tiễn hiện nay Tòa án tối cao đã thực hiện nhiệm vụ giải thích luật thông qua việc ban hành Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Việc bổ sung chức năng giải thích luật và phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao sẽ góp phần đảm bảo việc áp dụng pháp luật đúng, thống nhất, từ đó đảm bảo sự bình đẳng của mọi tổ chức và công dân trước pháp luật và bổ khuyết kịp thời những “lỗ hổng” khi pháp luật chưa kịp điều chỉnh để bảo vệ quyền lợi người dân tốt hơn. Đồng thời bổ sung nội dung này cũng là để cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Khoản 5.
- Đa số ý kiến cho rằng nên sửa là: “kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để tòa án ra bản án, quyết định” vì bản án quyết định của tòa án đúng pháp luật có sức thuyết phục thì không chỉ căn cứ vào các chứng cứ mà còn phải căn cứ vào kết quả tranh tụng thì mới đảm bảo vụ án được công khai, dân chủ, minh bạch theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 của Bộ chính trị.
Khoản 7.
Đa số ý kiến cho rằng, việc dùng cụm từ “có thể” là chưa thể hiện được hết bản chất của quy định này. Khi dùng từ “có thể” tức là sử dụng một mệnh đề có điều kiện thì điều đó có thể được thực hiện nhưng cũng có thể không được thực hiện, tùy thuộc vào một hoặc một số điều kiện khác. Trong trường hợp này, đề nghị thay thế cụm từ “có thể” bằng từ “quyền”. Lý do là vì khi đã quy định đây là một quyền thì sẽ được thực hiện mà không cần kèm theo các điều kiện hoặc hạn chế nào khác. Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình, đương sự có quyền tự mình, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp cho họ. Khi Hiến pháp đã quy định đây là một quyền chứ không phải một hoạt động mang tính bổ trợ thì sẽ thể hiện được rõ ràng, chính xác bản chất của vấn đề. Khi Hiến pháp đã quy định hoạt động bào chữa, bảo vệ là một quyền thì Nhà nước có trách nhiệm ban hành, hoàn thiện các cơ chế đảm bảo thực thi quyền này.
Vì vậy Khoản 7 nên sửa đổi như sau: “quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm. Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa; đương sự quyền tự mình hoặc nhờ luật sư bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình”.
- Có ý kiến đề nghị Điều 108 thuộc Chương VIII là chương quy định về Tòa án nhân dân, Viện kiển sát nhân dân. Điều 108 quy định về Tòa án nhân dân. Việc sắp xếp quy định về quyền bào chữa, bảo vệ lợi ích hợp pháp trong điều luật, trong chương về Tòa án nhân dân có thể dẫn tới cách hiểu quyền bào chữa, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp là một bộ phận, một hoạt động của Tòa án. Quy định như vậy có thể dẫn tới có ý kiến cho rằng hoạt động này là một hoạt động nghiệp vụ của Tòa án và rằng tổ chức hành nghề luật sư là một bộ phận của tòa án. Do vậy, cần phải chuyển quy định này về chương về quyền cơ bản của công dân, nên ghép cả Khoản 7 - Điều 108 vào với Điều 32 trong dự thảo.
- Đa số ý kiến cho rằng, Dự thảo không có quy định về việc ngang quyền của thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử. Quy định như Dự thảo có thể hiểu là thẩm phán và hội thẩm nhân dân không ngang quyền khi xét xử.
3. Điều 109: Có 36.584 ý kiến
- Đa số ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và sử dụng án lệ trong hoạt động xét xử, đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử” vì thực tiễn xét xử rất phức tạp, có nhiều tình huống mà pháp luật chưa dự liệu hết, cần có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ "Tòa án nhân dân tối cao" thành "Tòa án tối cao", viết như vậy vừa ngắn gọn mà vẫn đủ ý, không cần thêm cụm từ “nhân dân” vào.
4. Điều 110: Có 26 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị bổ sung nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là nhiệm kỳ suốt đời và Thẩm phán các Tòa án khác tối thiểu 10 năm. Nếu ở khoản 1 đã quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là suốt đời và nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án khác là 10 năm thì ở khoản 3 bỏ cụm từ “và nhiệm kỳ” của Thẩm phán.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “tòa án khác” bằng cụm từ “tòa án cấp dưới”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 3 vì việc bổ nhiệm Thẩm phán đã được quy định trong Điều 93 (nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước).
5. Điều 111: Có 58.882 ý kiến
- Đa số ý kiến đề nghị thêm từ “phải” vào trước “tôn trọng” và viết là: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng….”.
- Có ý kiến cho rằng nên bỏ từ “nhân dân” và thay cụm từ “hữu quan” thành cụm từ “liên quan” và viết lại như sau: “Bản án quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan nghiêm chỉnh chấp hành”. Việc bỏ cụm từ “nhân dân” nhằm thống nhất với khoản 1 Điều 32 của dự thảo “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực”. Mặt khác, ngoài tòa án nhân dân còn có tòa án quân sự và tòa án đặc biệt (do Quốc hội thành lập theo Điều 107 dự thảo) thì bản án, quyết định đó cũng phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.
- Có ý kiến cho rằng tại Điều 111 nên thêm từ “mọi” trước cụm từ cơ quan, tổ chức, cá nhân viết lại như sau: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
6. Điều 112: Có 93.867 ý kiến
Khoản 1.
- Một số ý kiến cho rằng, bổ sung cụm từ “là cơ quan tư pháp” sau cụm từ “Viện kiểm sát nhân dân”, bởi vì thực tế còn rất nhiều cơ quan, cá nhân không biết rằng Viện kiểm sát là cơ quan tư pháp.
- Đa số ý kiến đề nghị bổ sung trong khoản này cụm từ “và các việc khác theo luật định” sau cụm từ “kiểm sát hoạt động tư pháp” vì hiện nay Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng thực tế theo quy định của Luật Tổ chức VKSND, Bộ Luật TTHS, Luật TTDS, Luật tố tụng hành chính, Luật thi hành án hình sự thì VKSND còn thực hiện các việc khác như: tiến hành điều tra các tội phạm xâm phạm các hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp; công tác thống kê tội phạm liên ngành; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp nhất là khiếu nại, tố cáo các quyết định hành vi tố tụng của Thủ trưởng cơ quan điều tra.
- Có ý kiến cho rằng Khoản 1 Điều 112 viết lại như sau “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát các họat động tư pháp, kiểm sát các hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước và kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật” vì trong hoàn cảnh hiện nay ta thấy cần thiết giao lại quyền kiểm sát hoạt động của các cơ quan hành chính và kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật cho Viện kiểm sát thì hiệu quả cao hơn và đảm bảo cho nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành nhà nước dân chủ đúng như bản chất.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung “Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền tư pháp” và sửa lại là “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, thực hiện quyền tư pháp và các hoạt động khác do luật định”.
Khoản 3.
Có ý kiến cho rằng cần nghiên cứu và bổ sung việc “giao cho Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật và kiểm sát việc xử lý vi phạm hành chính”.
7. Điều 113: Có 10 ý kiến
Khoản 1.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “Phó Viện trưởng” sau cụm từ Viện trưởng và trước cụm từ “các Viện kiểm sát khác…”
- Có ý kiến đề nghị Khoản 2 bỏ cụm từ “Hội đồng nhân dân”, bổ sung cụm từ “địa phương” vào sau cụm từ “Chánh án các tòa án địa phương khác báo cáo công tác và Viện trưởng các Viện Kiểm sát cấp dưới”
8. Điều 114: Có 17 ý kiến
Khoản 2.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cho rõ hơn “Viện trưởng, Phó viện trưởng các Viện kiểm sát khác do Viện trưởng viện kiểm sát tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ từ “và” sau cụm từ “công tố” và bổ sung cụm từ “và các việc khác theo luật định” sau cụm từ “kiểm sát hoạt động tư pháp” bởi vì giống khoản 1, Điều 112; ngoài hai chức năng, VKSND còn thực hiện các chức năng khác. Do vậy, cần phải bổ sung cụm từ này.
- Đa số ý kiến cho rằng, dự thảo quy định thêm chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực ban hành quy phạm pháp luật từ cấp Bộ trở xuống.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung một điều trong Hiến pháp: “Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của của Viện kiểm sát nhân dân phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành theo quy định của pháp luật”.
CHƯƠNG IX
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Có 472.953 lượt ý kiến.
Nhiều ý kiến cho rằng, về cơ bản Dự thảo tiếp tục kế thừa các quy định của Chương IX, Hiến pháp năm 1992 về phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đồng thời có một số quy định được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Dự thảo không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý” là phù hợp với thực tiễn cách tổ chức chính quyền địa phương có hiệu quả hiện nay.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị Hiến pháp chỉ quy định khái quát về đơn vị hành chính lãnh thổ để tạo điều kiện cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương. Theo đó, đơn vị hành chính lãnh thổ gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh.
Dự thảo sắp xếp lại và làm rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong tình hình mới.
Việc không quy định tính chất quyền lực của Hội đồng nhân dân, vì dẫn đến cách hiểu về sự phân tán của quyền lực nhà nước, không phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến cho rằng: Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi thay đổi tiêu đề thành chính quyền địa phương đã nhận thức về chính quyền không còn chuẩn xác, đặc biệt là phần Hội đồng nhân dân các cấp. Hiến pháp cũng như Luật tổ chức Hội đồng nhân dân quy định thì Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu sự giám sát của nhân dân-Đại biểu Hội đồng nhân dân là công dân đủ từ 21 tuổi trở lên; phải thường xuyên liên hệ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiện nay nhân dân làm chủ bằng 2 phương thức là trực tiếp và đại diện trong đó thông qua đại biểu dân cử là hết sức quan trọng, việc đổi thành chính quyền địa phương làm cho nhân dân hiểu sai Hội đồng nhân dân không còn là cơ quan đại diện cho mình nữa mà chủ yếu thực hiện quyền của cơ quan nhà nước, tức là tính nhân dân, cơ hội nhân dân làm chủ thông qua đại biểu Hội đồng nhân dân bị giảm sút vì vậy không cần thiết phải sửa tiêu đề chương IX nên để như Hiến pháp 1992 là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận, phường như trước đây.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
- Có ý kiến cho rằng, Khoản 1 điều 115 có ghi: “Các đơn vị hành chính lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: …”. Đề nghị bổ sung từ “trong”, trước từ “lãnh thổ”, hình thành nội dung mới là: “Các đơn vị hành chính trong lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: …” sẽ rõ nghĩa hơn.
- Đa số ý kiến đề nghị nên viết là: “Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã. Huyện chia thành xã, thị trấn; Thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh chia thành phường, xã; quận chia thành phường.”. Vì nếu viết như dự thảo sẽ dễ làm người đọc hiểu sai là huyện và thành phố trực thuộc cả tỉnh và thị xã.
- Có ý kiến đề nghị bỏ từ “chia thành” nên dùng từ “phân định theo 4 cấp”. Viết lại: “các đơn vị hành chính lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định theo 4 cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã; xã phường, thị trấn”
- Có ý kiến đề nghị xem lại khoản 2, chỉ thành lập HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vì khi đã thí điểm không tổ chức HĐND Quận, Huyện, Phường và đã có kết quả thực tế cần áp dụng trong cả nước. Bên cạnh đó tăng cường vai trò giám sát, phản biện của Ủy ban MTTQ các cấp là đủ, tránh cho bộ máy ở cơ sở quá cồng kềnh, không hiệu quả.
- Có ý kiến đề nghị thêm khoản 3 của Điều 115, nội dung là: “Mô hình chính quyền đô thị và nông thôn do luật định”. Vì, qua việc một số tỉnh, thành phố thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường nhận thấy tính hợp lý của mô hình này góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội, quy hoạch chung, quản lý phát triển đô thị, đảm bảo an ninh quốc phòng, chăm lo đời sống cho người dân do đó nên bổ sung một nguyên tắc, chế định về chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn do luật định. Từ đó có cơ sở để xây dựng Luật đô thị.
Cũng có đa số ý kiến cho rằng Chương IX nay đổi thành Chương Chính quyền địa phương do đó nên đổi tên Ủy ban nhân dân thành Ủy ban hành chính để phản ánh đúng chức năng của cơ quan này.
1. Điều 116: Có 150.003 ý kiến
Đa số ý kiến cho rằng Khoản 1 không nên quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước địa phương, vì viết như vậy dẫn tới hiểu quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương hoặc chỉ có Hội đồng nhân dân mới có quyền lực còn các cơ quan khác như Uỷ ban nhân dân thì không có quyền lực; trong việc đổi mới công tác quản lý, do đặc điểm hành chính rồi đây có đơn vị không còn thành lập Hội đồng nhân dân thì như thế nào.
- Đa số ý kiến đề nghị bổ sung tại khoản 1 ý “phải gần gũi nhân dân để hiểu cuộc sống của nhân dân ở địa phương” sau từ “bầu ra”.
Có ý kiến đề nghị Điều 116 đề nghị viết lại như sau “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do cử tri địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Có ý kiến cho rằng, khoản 1, mục 2 quy định, “Căn cứ… Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước tại địa phương”. Việc quy định HĐND chỉ giám sát các cơ quan Nhà nước tại địa phương là chưa đủ vì thực tế nhiều năm qua HĐND còn giám sát rất nhiều các tổ chức khác như các tổ chức kinh tế, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức xã hội trên địa bàn.
Một số ý kiến cho rằng cần quy định “nhiệm kỳ mỗi khóa HĐND các cấp theo nhiệm kỳ Quốc hội” trong Hiến pháp là cần thiết và hợp lý.
Có ý kiến đề nghị Khoản 2 viết lại như sau: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính ở địa phương. Ý 2 của Khoản 2 đề nghị bổ sung Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên UBND chịu trách nhiệm cá nhân trứơc pháp luật, trước Hội đồng nhân dân, trước nhân dân địa phương và cơ quan hành chính cấp trên; hiện nay Đảng đang có chủ trương thí điểm bỏ Hội đồng nhân dân ở huyện, quận, phường trong Hiến pháp nên ghi điều nhiệm vụ, quyền hạn , tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân do pháp luật quy định là đủ.
- Đa số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “chịu sự giám sát của cử tri và nhân dân ở địa phương mình” vào cuối khoản 2.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định bỏ phiếu tín nhiệm đối với Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn, những người do HĐND bầu thành chế định thường xuyên hàng năm.
Để mở rộng quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, đề nghị bổ sung thêm quy định chính quyền ở cấp phường, xã để dân bầu trực tiếp các chức danh lãnh đạo, chứ không phải thông qua HĐND bầu như hiện nay. Như vậy vừa có tác dụng tăng quyền lực cho dân và tăng hiệu quả cho việc phòng chống các hiện tượng như tham nhũng, hối lộ…
2. Điều 117: Có 12.945 ý kiến
Có ý kiến cho rằng cần bổ sung cụm từ “gương mẫu thực hiện” sau cụm từ có nhiệm vụ viết thành: “Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ gương mẫu thực hiện vận động nhân dân thực hiện chính sách pháp luật của nhà nước, nghị quyết của hội đồng nhân dân, động viện nhân dân tham gia quản lý nhà nước”
Một số ý kiến đề nghị bổ sung hai từ “tiêu biểu” trước từ “đại diện”, thành đoạn hoàn chỉnh là “Đại biểu Hội đồng nhân dân là người tiêu biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương”. Vì thực tế có một số đại biểu chưa thực sự tiêu biểu.
Có ý kiến đề nghị bổ sung: “Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, vận động nhân dân chấp hành Hiến pháp, luật pháp, chủ trương, chính sách của Nhà nước cấp trên, thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân dân tham gia quản lý xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền”.
- Có ý kiến, đề nghị thêm cụm từ “phải phản ánh đầy đủ những ý kiến, kiến nghị của cử tri” trước cụm từ “trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri”, nên viết là: “…hoạt động của đại biểu và của Hội đồng nhân dân phải phản ánh đầy đủ những ý kiến, kiến nghị của cử tri, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri…”.
3. Điều 118: Có 23.529 ý kiến
Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Hiến pháp 1992 hiện hành.
Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “kịp thời” trước câu “giải quyết kiến nghị của đại biểu”.
Có ý kiến, đề nghị nên bỏ cụm từ “có quyền chất vấn chủ tịch HĐND” vì chủ tịch HĐND là người đứng đầu cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nên viết lại: “Đại biểu HĐND có quyền chất vấn chủ tịch và các thành viên khác của UBND, chánh án toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND hoặc trả lời bằng văn bản”.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “trước Hội đồng nhân dân hoặc bằng văn bản”, chỉ nên quy định “người bị chất vấn phải trả lời chất vấn” bởi Hiến pháp mang tính khái quát cao, còn trả lời như thế nào sẽ để Luật tổ chức HĐND, Ủy ban nhân dân quy định.
- Đa số ý kiến cho rằng nên thay cụm từ “người bị chất vấn” trong dự thảo thành “người được chất vấn” vì người được chất vấn thể hiện vừa là trách nhiệm, vinh dự được quan tâm.
Có ý kiến đề nghị bổ sung “đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, các Phó Chủ tịch HĐND, các Trưởng ban của HĐND…”
4. Điều 119: Có 173.053 ý kiến
Đa số ý kiến cho rằng nên bổ sung cụm từ “Phản biện” để thể hiện chức năng của người đứng đầu các tổ chức chính trị- xã hội viết lại như sau: “Chủ tịch Ủy ban MTTQ, người đứng đầu tổ chức chính trị-xã hội ở địa phương được mời tham dự và phản biện các nội dung liên quan tại kỳ họp Hội đồng nhân dân và hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp”.
Có ý kiến cho rằng tại Điều 119 nên thêm cụm từ “tổ chức xã hội khác” viết lại như sau “Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người đứng đầu tổ chức chính trị, xã hội và tổ chức xã hội khác ở địa phương, được mời tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan”
Có ý kiến cho rằng Điều 119 nên thay cụm từ “động viên” thành cụm từ “tuyên truyền vận động” viết lại như sau “phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội tuyên truyền vận động nhân dân cùng nhà nước thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh ở địa phương”
- Đa số ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “khi bàn các vấn đề có liên quan”. Vì Văn kiện Đại hội X, XI của Đảng và cương lĩnh năm 2011 của đảng đều khẳng định MTTQ Việt Nam có trách nhiệm giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức. Điều này cũng đã được quy định tại Khoản 2, Điều 9 dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1992. Như vậy, để MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội phát huy tốt nhiệm vụ này thì Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam, người đứng đầu tổ chức chính trị xã hội ở địa phương phải được tham gia các hoạt động quản lý Nhà nước nói chung, phải được mời tham dự tất cả các kỳ họp của Hội đồng nhân dân và của Ủy ban nhân dân cùng cấp mới có điều kiện để giám sát và phản biện được.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân”, vì hướng đổi mới tổ chức chính quyền địa phương sẽ có một số đơn vị hành chính lãnh thổ không có Hội đồng nhân dân, nên Ủy ban nhân dân không phải là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân; đồng thời bổ sung thêm đoạn “làm nhiệm vụ quản lý xã hội và tổ chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên tại địa phương”.
- Đề nghị bổ sung sau cụm từ “ở địa phương” một đoạn sau: “thông qua tổ chức mặt trận và các tổ chức chính trị, xã hội khác, động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương”.
CHƯƠNG X
HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP, HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA,
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Tổng số có 972.693 ý kiến góp ý về Chương X
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
Điều 120: Có 501.146 ý kiến
- Có ý kiến cho rằng thay vì thành lập Hội đồng Hiến pháp, đồng ý như một số ý kiến là thành lập Tòa án Hiến pháp bởi Hội đồng Hiến pháp chưa thể hiện rõ, có hiệu quả và kịp thời chức năng bảo vệ Hiến pháp, mặt khác Tòa án Hiến pháp là cơ quan đặc biệt có chức năng chủ yếu là phán xét tính hợp hiến của các văn bản luật, là thiết chế quan trọng bậc nhất trong tổ chức của nhà nước pháp quyền, nhằm đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp, tăng cường pháp chế và trật tự pháp luật, đảm bảo tính bền vững của hệ thống chính trị và quyền tự do dân chủ của con người, ngoài ra Toà án này còn có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp giữa chính quyền Trung ương và địa phương, xét xử các quan chức cao cấp. Việc thành lập Hội đồng hiến pháp (Khoản 1) và Quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của bộ máy của Hội đồng (Khoản 2) với nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản qui phạm pháp luật do các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ban hành, kiến nghị lại khi có sai sót để các tổ chức các nhân nói trên sửa đổi bổ sung vào văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ văn bản vi phạm hiến pháp. Đây thực sự là một đổi mới cần thiết. Nhưng với chức năng của hội đồng Hiến pháp thì chỉ dừng lại ở chức năng nhiệm vụ mang tính tư vấn, kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, mà không có quyền phán quyết những trường hợp vi hiến nên chưa đủ mạnh để bảo vệ hiến pháp một cách có hiệu lực. Do vậy, đề nghị thành lập toà án hiến pháp và được bổ sung vào Điều 120. Chương X của bản sửa đổi hiến pháp, với chức năng thực thi pháp luật, phán quyết các trường hợp vi hiến của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp để bảo vệ hiến pháp một cách có hiệu lực hơn.
- Có ý kiến cho rằng, Khoản 2: Nên sửa câu “Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật” thành câu “Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản luật do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành”. Còn tính hợp pháp của văn bản dưới luật sẽ do cơ quan rà soát văn bản QPPL của Chính phủ thực hiện.
- Cũng trong Khoản 2 có ý kiến đề nghị ghi Hội đồng Hiến pháp có trách nhiệm “Công bố và giải thích nội dung chính xác những điều đã quy định trong Hiến pháp để toàn dân thi hành; Giám sát việc thực hiện đúng các quy định trong Hiến pháp đối với các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; Kiểm tra tính hợp hiến đối với các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước đã ban hành; Kiểm tra tính hợp hiến các văn bản ký kết với quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn; Xử lý theo thẩm quyền yêu cầu sửa đổi các văn bản trái với Hiến pháp hoặc đề nghị Quốc hội hủy bỏ các văn bản đó và truy cứu trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân vi phạm; Phát hiện và ngăn ngừa các âm mưu tự diễn biến, diễn biến hòa bình hoặc các hành động xuyên tạc làm thay đổi Hiến pháp để chiếm đoạt quyền lực Nhà nước”.
- Tuy nhiên cũng có ý kiến đề nghị không thành lập Hội đồng Hiến pháp tức là không có Điều 120, chúng ta đều biết ở nước ta, chế độ ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thống nhất có sự phân công, phối hợp và giám sát chứ không “tam quyền phân lập”, chỉ độc lập theo Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. Rõ ràng là mọi tổ chức, cá nhân, mọi công dân đều phải làm đúng Hiến pháp và pháp luật, còn chức năng của Hội đồng Hiến pháp là kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật… ban hành khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp thì yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm vi phạm Hiến pháp, nên điều 120 lại thêm một cơ quan mới là không cần thiết.
6. Điều 121: Có 341.311 ý kiến
- Đa số ý kiến cho rằng nên bỏ Điều 121, không nên đưa việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia vào Hiến pháp vì Hội đồng bầu cử 5 năm mới thành lập một lần và tự giải thể sau khi hoàn thành cuộc bầu cử.
- Có ý kiến thống nhất thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan độc lập, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác bầu cử, tuy nhiên, đề nghị xem xét khoản 3, nội dung quy định về nhiệm kỳ của Hội đồng bầu cử quốc gia: công tác bầu cử chỉ diễn ra trong thời gian tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, do đó, không cần thiết quy định nhiệm kỳ của Hội đồng bầu cử mà Hội đồng bầu cử chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
7. Điều 122: Có 36.766 ý kiến
- Có ý kiến đề nghị Khoản 1 viết “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán về tài nguyên quốc gia, nguồn nhân lực, tài chính, tài sản công; giám sát việc quản lý sử dụng hiệu quả các nguồn lực Nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng; xử lý theo thẩm quyền mọi hành vi làm trái pháp luật trong quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước hoặc đề nghị Quốc hội truy cứu trách nhiệm đôi với tổ chức, cá nhân đã vi phạm”
- Có ý kiến đề nghị viết lại Điều 122 thành “Kiểm toán nhà nước do Quốc hội thành lập, tổ chức nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm toán nhà nước do luật định”
- Có ý kiến cho rằng đưa Kiểm toán nhà nước thành một điều vào chương V Quốc hội vì đây chỉ là một cơ quan giúp Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao về ngân sách và tài sản công nhưng lại được đặt ở một vị trí độc lập là được thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung và điều chỉnh “Tổng kiểm toán Nhà nước là người chịu trách nhiệm cao nhất về kiểm toán”.
CHƯƠNG XI
HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
I. TỔNG QUAN, ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Có 67.472 ý kiến
Các ý kiến đều tán thành với Dự thảo chương XI. Hiến pháp mới khi có hiệu lực sẽ thể hiện ý chí chung của toàn dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân. Hiến pháp phải có mục tiêu kiến tạo hạnh phúc, tự do, công bằng, đoàn kết, loại bỏ mọi sự chia rẽ hay áp bức, hướng tới sự phát triển bền vững của dân tộc. Hiến pháp phải được xây dựng theo các nguyên tắc pháp luật phổ thông và phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Cũng có ý kiến cho rằng, để thể hiện đầy đủ chủ quyền nhân dân, cần quy định theo hướng Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua thì phải được trưng cầu ý dân trước khi có hiệu lực. Quy định như vậy nhằm xác lập chủ quyền nhân dân để nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước trong việc thông qua Hiến pháp.
II. NHỮNG GÓP Ý VỀ CÁC ĐIỀU, KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 123: Có 31.387 ý kiến
- Điều chỉnh câu cuối thành “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý theo quy định pháp luật”.
- Thay từ “Không được trái” cho từ “Phải phù hợp” để mang tính khẳng định. Sửa đổi, bổ sung thành: “Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất” (như quy định tại Điều 146 Hiến pháp năm 1992). Vì nếu quy định như Dự thảo chưa rõ nghĩa.
- Thay cụm từ “phù hợp với” bằng cụm từ “tuân thủ theo” thành “Mọi văn bản pháp luật khác phải tuân thủ theo Hiến pháp” tại Điều 123 vì từ “phù hợp” có thể dẫn đến hiểu theo nhiều nghĩa, nhiều cấp độ khác nhau.
- Dự thảo quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều phải xử lý”. Để đảm bảo thực hiện điều này, nên bổ sung vào phần cuối Điều 123 quy định về việc đảm bảo để thực thi, phát huy vai trò đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý cao nhất của Hiến pháp.
2. Điều 124: Có 36.085 ý kiến
Khoản 1.
- Đề nghị bổ sung cụm từ “Đảng cộng sản Việt Nam” trước cụm từ “Chủ tịch nước”, bổ sung cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” sau cụm từ “Chính phủ”.
- Bổ sung thêm quyền của nhân dân cùng với Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp vì Hiến pháp của nước nên quyền lập Hiến phải thuộc về nhân dân. Nội dung của Hiến pháp được xem là những thỏa thuận của nhân dân trong việc thiết lập và thực hiện quyền lực công trong tổ chức đời sống xã hội vì lợi ích chung của xã hội và của mỗi cá nhân. Thông qua Hiến pháp nhân dân thực hiện việc trao quyền và giới hạn quyền lực cho nhà nước cũng như cho các thiết chế khác trong xã hội; quy định cơ chế kiểm soát đối với thực hiện quyền lực công của các tổ chức và cá nhân; ghi nhận quyền con người, quy định quy chế pháp lý của công dân và của các cá nhân khác; quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...của đật nước. Vì vậy, việc làm Hiên pháp và sửa đổi Hiến pháp phải do nước (do nhân dân) quyết định. Đương nhiên, nhân dân không thể tự mình thực hiện được quyền lập hiến, không thể tự làm và sửa đổi Hiến pháp được mà phải thông qua những người đại diện cho nhân dân. Nhân dân thường chỉ giữ lại quyền quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và quyền phúc quyết đối với Dự thảo Hiến pháp thông qua việc trưng cầu ý dân. Do vậy việc ban hành Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp phải do cả Quốc hội và nhân dân quyết định. Trong trường hợp Quốc hội không quyết định được thì có thể trưng cầu ý dân về việc ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp.
- Việc thông qua Dự thảo Hiến pháp phải được Quốc hội tiến hành và được nhân dân phúc quyết thông qua thủ tục trưng cầu ý dân về Hiến pháp, để cử tri và nước biểu thị ý chí của mình đối với nội dung bản Hiến pháp. Có như vậy thì chủ quyền nhân dân mới được thể hiện đầy đủ, nhân dân mới thực sự là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nhân dân mới được sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và Hiến pháp mới thực sự là của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 4.
- “Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất 2/3 đại biểu biểu quyết tán thành, việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”. Đề nghị sửa lại câu sau cùng của khoản này như sau: “Quốc hội tổ chức trưng cầu ý dân để nhân dân biểu quyết về Hiến pháp sau khi dự thảo Hiến pháp được Quốc hội thông qua” vì Quốc hội có quyền quan trọng là thông qua dự thảo Hiến pháp còn bản thân bản Hiến pháp phải được nhân dân quyết định. Cần định rõ trong Hiến pháp như vậy vì nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, Quốc hội ta hiện nay là Quốc hội vừa lập pháp vừa lập hiến, nhiều ý kiến cho rằng phải đổi lại là quyền lập hiến phải của nhân dân trực tiếp, trưng cầu ý dân về Hiến pháp là một nguyên tắc hiến định chứ không phải quyết định có trưng cầu ý dân hay không về Hiến pháp.
- Bổ sung thêm quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; vì Hiến pháp của nước nên đề nghị ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải do cả các cơ quan nhà nước đề nghị và có thể do các tổ chức phi nhà nước (Đảng và Mặt trận) là những tổ chức có vai trò quan trọng trong xã hội đề nghị.
- Đề nghị bỏ cụm từ “Làm Hiến pháp” thay bằng cụm từ “Xây dựng Hiến pháp”.
- Đề nghị bổ sung vào một điều về quyền phúc quyết của nhân dân. Thực tế quyền này đã được xác định trong Hiến pháp năm 1946, Điều 21 quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”. Quyền này được hiểu là người dân có quyền quyết định cuối cùng về một số vấn đề trọng đại của đất nước, dự thảo cần xác định rõ lĩnh vực, vấn đề nào chỉ do nhân dân trực tiếp quyết định thông qua quyền phúc quyết của mình và điều kiện để đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền này.
- Đề nghị nên thiết kế một số điều về quy trình sửa đổi Hiến pháp để quy định cụ thể về quy trình này để bảo đảm việc sửa đổi Hiến pháp khoa học, chặt chẽ, phù hợp thực tế và bảo đảm được chủ quyền của nhân dân. Theo đó, cần xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động sửa đổi Hiến pháp, các giai đoạn của quy trình sửa đổi Hiến pháp. Cụ thể như sau:
- Giai đoạn sáng kiến lập hiến: Đề nghị nên giao cho 3 chủ thể sau có quyền sáng kiến lập hiến là: Chủ tịch nước, Đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quốc hội có quyền thông qua quyết định sửa đổi Hiến pháp.
- Giai đoạn soạn thảo Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Quốc hội thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp giúp Quốc hội dự thảo văn bản.
- Giai đoạn thẩm tra Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Quốc hội thành lập Ủy ban thẩm tra giúp Quốc hội thẩm tra Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
- Giai đoạn Quốc hội thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
- Giai đoạn tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp: Ủy ban sửa đổi Hiến pháp phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
- Giai đoạn Chủ tịch nước công bố Hiến pháp.
D. NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Qua quá trình tập hợp ý kiến nhân dân, Ban thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam có một số kiến nghị sau:
I. VỀ CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO
Tiếp tục xác định việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là nhiệm vụ trọng tâm, cần được ưu tiên thực hiện nhằm tạo sự nhất trí cao trong toàn xã hội. Với tinh thần đó, đề nghị Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tiếp tục quan tâm chỉ đạo sát sao hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến, bày tỏ quan điểm của mình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
II. VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
Công tác tuyên truyền, định hướng hết sức quan trọng. Vì thời gian lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn tiếp tục, đề nghị Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tiếp tục chỉ đạo các cơ quan truyền thông cần có nhiều tin, bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng phân tích, làm rõ những nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 với lập luận khoa học, thuyết phục, chặt chẽ; làm cho người dân nắm vững, hiểu đúng nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, từ đó bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình. Đồng thời, cần kịp thời đấu tranh, ngăn chặn việc lợi dụng góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để truyền bá những quan điểm sai trái, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá Đảng, Nhà nước.
III. VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN
Quá trình tổ chức lấy ý kiến vừa qua đã có nhiều hình thức phong phú, thích hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 sớm có hướng dẫn cụ thể sau thời điểm 31/3, nếu tiếp tục tiếp nhận ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp thì làm như thế nào, cách thức tổ chức, thực hiện ra sao…
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đề nghị nên chia làm 2 đợt để tổng hợp báo cáo và giá trị tổng hợp của 2 đợt là như nhau và Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần có hướng dẫn cụ thể.
Nơi nhận: - Như trên; - Lưu: VT, DCPL. | TM. BAN THƯỜNG TRỰC PHÓ CHỦ TỊCH KIÊM TỔNG THƯ KÝ (đã ký) Vũ Trọng Kim |
Báo cáo về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 22/05/2013
Số hiệu:287/BC-UBDTSĐHP
Mô tả:
Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chức hữu quan, bám sát Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng, Ủy ban DTSĐHP đã nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp này
bc287-UBSDHP_gtrinh_Du_thao_sua_doi_HP_1992.doc
ỦY BAN DỰTHẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 Số: 287/BC-UBDTSĐHP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2013 |
BÁO CÁO
Về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến nhân dân. Các cơ quan, tổ chức, địa phương đã tổ chức triển khai việc lấy ý kiến nhân dân một cách khẩn trương, đồng bộ, dân chủ, rộng khắp và đúng tiến độ. Việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2013, đã thu hút và nhận được sự quan tâm sâu sắc, đồng tình ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được phổ biến, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và được tổ chức góp ý bằng nhiều hình thức thích hợp và đã được chuyển đến từng hộ gia đình, đến công nhân, học sinh, sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng, đến các tổ viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể xã hội. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng đã được gửi xin ý kiến các đồng chí nguyên lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước.
Hoạt động lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thực sự là đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý dân chủ, sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị. Việc lấy ý kiến nhân dân không chỉ huy động được sự tham gia tích cực của nhân dân ở trong nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài để góp ý, hoàn thiện Dự thảo mà còn phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc xây dựng Dự thảo Hiến pháp, cũng như thực thi Hiến pháp sau này.
Với sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, theo báo cáo của các cơ quan, tổ chức hữu quan, tính đến nay, đã có hơn 26.091.000 lượt ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Ủy ban DTSĐHP) đã tập hợp, tổng hợp đầy đủ, kịp thời, khách quan, trung thực ý kiến của nhân dân (xin xem Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp của Uỷ ban DTSĐHP – hơn 800 trang, Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan của Trung ương Đảng, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam - khoảng 1600 trang). Nhìn chung, ý kiến của nhân dân tán thành với các nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do Ủy ban DTSĐHP công bố, đồng thời nhân dân cũng góp nhiều ý kiến tâm huyết, trí tuệ và trách nhiệm vào các nội dung cụ thể của Dự thảo.
Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chức hữu quan, bám sát Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng, Ủy ban DTSĐHP đã nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp này (xin xem Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý về các nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến của nhân dân - 150 trang).
Dưới đây, Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội một số nội dung cơ bản, được nhiều ý kiến quan tâm về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau:
I. VỀ LỜI NÓI ĐẦU
Qua tổng hợp, có nhiều ý kiến nhân dân đóng góp về Lời nói đâu, trong đó có 4 loại ý kiến chính như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Lời nói đầu như Dự thảo nhưng đề nghị chỉnh sửa về mặt kỹ thuật cho khái quát, ngắn gọn, chính xác hơn và tránh trùng lặp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung vào Lời nói đầu các mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nêu khái quát về lịch sử lập hiến nước ta.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị nêu rõ các thành tựu trong công cuộc xây dựng, bảo vệ, đổi mới đất nước; đề nghị lời nói đầu phải được thể hiện mang tính chất tuyên xưng của nhân dân Việt Nam với thế giới.
- Loại ý kiến thứ tư đề nghị viết lại Lời nói đầu thật cô đọng, súc tích theo hướng ghi nhận một cách tổng quát mục tiêu sửa đổi Hiến pháp, định hướng phát triển của đất nước và vai trò của nhân dân trong việc xây dựng và thi hành Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Đúng như ý kiến nhân dân đã nêu, Lời nói đầu là một bộ phận rất quan trọng của mỗi bản Hiến pháp. Tuy nhiên, cách thể hiện, mức độ và liều lượng sự kiện lịch sử đưa vào Lời nói đầu thì cần được cân nhắc kỹ để có quy định hợp lý. Trên cơ sở kế thừa nội dung cơ bản Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Lời nói đầu trong Dự thảo đã được chỉnh lý theo yêu cầu ngắn gọn và súc tích hơn, nêu khái quát truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc, sự ra đời của Đảng và Nhà nước gắn với quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, xác định rõ mục tiêu, chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp.
II. VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ (CHƯƠNG I)
1. Về Điều 1
Qua tổng hợp, có nhiều ý kiến nhân dân đóng góp về vấn đề này. Nhìn chung các ý kiến cho rằng Điều 1 của Dự thảo đã thể hiện rõ những tiêu chí cơ bản của Nhà nước như tên nước, hình thức chính thể, chủ quyền quốc gia. Riêng về tên nước, còn có các loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến đề nghị tiếp tục quy định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tên gọi này ra đời trong bối cảnh nước ta vừa hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định rõ con đường, mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tên gọi này đã được sử dụng ổn định từ tháng 7 năm 1976 đến nay, đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Hơn nữa, việc thay đổi tên nước trong thời điểm hiện nay sẽ dẫn đến những hệ quả không có lợi, thậm chí có thể bị xuyên tạc là ta đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn kém, phức tạp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị lấy lại tên gọi Việt Nam dân chủ cộng hòa vì tên gọi này gắn liền với sự ra đời của chính thể cộng hòa đầu tiên ở nước ta, là thành quả của cuộc cách mạng giành độc lập tháng Tám năm 1945. Tên gọi này đã được chính thức ghi nhận trong Bản tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 02 tháng 9 năm 1945 và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, thể hiện rõ thể chế chính trị của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ. Ý kiến này cho rằng, việc lựa chọn tên nước là Việt Nam dân chủ cộng hòa không làm ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta vì Lời nói đầu cũng như các quy định khác của Dự thảo đều khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, cũng có ý kiến đề nghị một số tên gọi khác.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thể hiện rõ chính thể của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ. Tuy nhiên, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định mục tiêu, con đường xây dựng và phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm tính ổn định, tránh việc phải thay đổi về quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên các văn bản, giấy tờ. Hơn nữa, trải qua 37 năm, tên gọi này đã trở nên quen thuộc đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.
2. Về Điều 2
Qua tổng hợp, có nhiều ý kiến của nhân dân tham gia góp ý Điều 2 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định về bản chất nhà nước và các nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Về quy định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”, hiện có các ý kiến khác nhau trong đó có các loại ý kiến chính sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ quy định như trong Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân, khẳng định nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị khẳng định nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị chỉ quy định một cách tổng quát “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các ý kiến nói trên về cơ bản đều nhất quán với quan điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, tại Điều này của Hiến pháp cần thể hiện rõ bản chất giai cấp của Nhà nước. Do đó, Ủy ban DTS ĐHP đề nghị kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 tiếp tục quy định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” nhằm thể hiện bản chất giai cấp của Nhà nước, đồng thời khẳng định nền tảng vững chắc của chính quyền nhân dân, phù hợp với tính chất và nguyên tắc tổ chức của Nhà nước.
3. Về Điều 4
Về cơ bản, ý kiến nhân dân tán thành việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tán thành bổ sung quy định Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Qua tổng hợp, nhân dân tập trung góp nhiều ý kiến về cách thể hiện Điều 4, cụ thể như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với nội dung Điều 4 như trong Dự thảo đã công bố vì đã thể hiện một cách đầy đủ các nội dung và tinh thần của Cương lĩnh, Điều lệ Đảng về bản chất giai cấp, nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị viết lại một cách khái quát, cô đọng tránh trùng lặp; chỉ cần khẳng định vai trò của Đảng trong Hiến pháp là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, còn những nội dung quy định về bản chất, nền tảng tư tưởng của Đảng đã được khẳng định trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, không cần thiết phải quy định lại trong Hiến pháp. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị không quy định Điều 4 vì Đảng là tổ chức chính trị, được tổ chức và hoạt động theo Cương lĩnh và Điều lệ.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Trước hết, cần khẳng định rằng, việc giữ Điều 4 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng là cần thiết. Quy định này là kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Dự thảo đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng theo tinh thần mới của Cương lĩnh, đó là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên nhân dân ta mới thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng và ghi nhận vào Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ Điều 4 như Dự thảo đã công bố.
- Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cơ chế chịu trách nhiệm của Đảng và cơ chế để nhân dân giám sát Đảng. Ý kiến này đề nghị cần có Luật về Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Đảng thực thi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình đối với Nhà nước và xã hội, tạo sự minh bạch trong hoạt động của Đảng, tạo cơ sở cho nhân dân giám sát hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo thông qua Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng và chính sách, chủ trương lớn của mình... Cách thức, nội dung lãnh đạo được thể hiện linh hoạt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Bên cạnh đó, quy định mọi tổ chức Đảng, đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật hiện đã là một bảo đảm quan trọng để nhân dân có điều kiện giám sát, giúp cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Hơn nữa, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cũng là vấn đề đang được tổng kết, nghiên cứu. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không đưa vấn đề ban hành luật về Đảng vào Dự thảo Hiến pháp.
4. Về Điều 9 và Điều 10
Liên quan đến các quy định của Hiến pháp về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9) và vai trò của tổ chức Công đoàn (Điều 10), qua tổng hợp có một số loại ý kiến chính như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định về các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận để làm rõ tính gắn kết trong mối quan hệ giữa các tổ chức này, phản ánh đặc thù của hệ thống chính trị nước ta.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành quy định về Mặt trận Tổ quốc (tại Điều 9) và đề nghị sửa Điều 10 theo hướng quy định chung về các tổ chức chính trị - xã hội bởi vì nếu chỉ đề cập đến tổ chức Công đoàn như Điều 10 hiện nay sẽ không phản ánh được vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội khác, không tạo cơ sở hiến định, bảo đảm sự bình đẳng cũng như không làm rõ được mối quan hệ, sự gắn kết giữa các tổ chức này với nhau và với Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị của nước ta.
- Loại ý kiến thứ ba tán thành với cách quy định của Hiến pháp hiện hành là có điều riêng quy định về Mặt trận Tổ quốc và một điều quy định về Công đoàn.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu và bổ sung một khoản vào Điều 9 quy định chung về các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là các tổ chức đại diện cho các lực lượng xã hội đông đảo nhất trong mối quan hệ gắn bó, cùng phối hợp và thống nhất hành động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoản 2 Điều 9). Về quy định về Công đoàn Việt Nam tại Điều 10, Ủy ban xin trình Quốc hội hai phương án:
Phương án 1: không có Điều 10 vì vai trò của Công đoàn đã được thể hiện tại khoản 2 Điều 9.
Phương án 2: giữ Điều 10 quy định về Công đoàn Việt Nam như Dự thảo đã công bố để tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của tổ chức Công đoàn.
III. VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN (CHƯƠNG II)
Qua tổng hợp ý kiến của nhân dân, đa số ý kiến tán thành với việc bố cục chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thành Chương II và đánh giá cao việc ghi nhận các quyền con người trong Dự thảo đã bao quát hầu hết các quyền cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người theo các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Dự thảo đã tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, Dự thảo cũng đã bổ sung một số quyền mới. Nhiều ý kiến đề nghị sửa kỹ thuật, câu chữ. Ủy ban DTSĐHP đã rà soát các điều khoản trong Chương II để tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của nhân dân để trình Quốc hội. Theo đó, tập trung vào các loại ý kiến sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị cần làm rõ, phân biệt khái niệm quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của con người từ lúc sinh ra; còn quyền công dân trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là vị thế pháp lý của công dân trong quan hệ với Nhà nước, được Nhà nước bảo đảm đối với công dân của nước mình. Chỉ những người có quốc tịch mới được hưởng quyền công dân ở quốc gia đó, ví dụ như quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước... Để làm rõ sự khác biệt này, tham khảo các Công ước quốc tế về quyền con người và Hiến pháp các nước, Dự thảo sử dụng từ “mọi người”, “không ai” khi thể hiện quyền con người và dùng từ “công dân” khi quy định về quyền công dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị xem lại cách quy định về quyền con người và quyền công dân, tách riêng quyền con người, quyền công dân thành các mục khác nhau.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền con người, quyền công dân có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó. Vì vậy, Dự thảo không tách bạch thành các mục riêng về quyền con người và quyền công dân, mà quy định theo kết cấu của các Công ước quốc tế về quyền con người. Theo đó, các nội dung của Chương II được sắp xếp như sau: các nguyên tắc chung, các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, cuối cùng là quy định về nghĩa vụ. Nếu quy định những điều về quyền con người rồi tiếp đến là quyền công dân thì dẫn đến tình trạng lặp lại các quyền ở phần quy định về quyền công dân. Tham khảo Hiến pháp của các nước cũng được bố cục tương tự.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị phải xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước và những bảo đảm của Nhà nước để các quyền trong Hiến pháp có tính hiện thực và khả thi.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP đã dự kiến trình Quốc hội chỉnh sửa các điều khoản để rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện quyền, bảo đảm nguyên tắc vừa ghi nhận quyền con người, quyền công dân vừa thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền tại các điều 15, 18, 20, 24, 29, 31, 39 và 40....
- Loại ý kiến thứ tư cho rằng về cơ bản quyền con người là không bị hạn chế, nhưng nếu hạn chế phải chỉ rõ cơ sở để hạn chế và chỉ được hạn chế theo quy định của luật.
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, một số quyền có thể bị giới hạn vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội, quyền và tự do của người khác… Như vậy, tùy vào từng quyền mà việc giới hạn quyền được quy định cho phù hợp. Do đó, trên cơ sở ý kiến nhân dân, theo tinh thần các Công ước quốc tế, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh sửa trình Quốc hội Điều 15 khoản 2 để làm rõ hơn lý do và những trường hợp có thể giới hạn quyền, khắc phục sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền. Theo đó, “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”.
- Loại ý kiến thứ năm đề nghị xác định rõ trường hợp nào việc thực hiện quyền theo quy định của luật, trường hợp nào theo quy định của pháp luật để tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền công dân của các cơ quan công quyền; bảo đảm nguyên tắc quyền do Hiến pháp và luật quy định.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Hệ thống pháp luật của Việt Nam gồm nhiều văn bản khác nhau, do các cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban hành, từ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đến nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã. Quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những nội dung rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến con người, công dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có thể được quy định trong Hiến pháp mà không thể quy định bằng pháp luật nói chung; khi được quy định trong Hiến pháp thì đã có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, để thực hiện một số quyền thì pháp luật phải quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục cụ thể. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát từng quyền trong Chương II để thể hiện trường hợp nào thì theo quy định của luật (các điều 22, 23, 23a, 38 và 48), trường hợp nào thì “theo quy định của pháp luật” (các điều 24, 26, 31 và 32).
- Loại ý kiến thứ sáu cho rằng, Dự thảo Hiến pháp chưa làm rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong mối quan hệ với quyền.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là ý kiến hợp lý nên đã rà soát, bổ sung để trình Quốc hội quy định về nghĩa vụ vào các điều 41, 42, 46, 47, 48, 49 và 50. Mặt khác, một số điều khoản khác trong Dự thảo đã có những quy định về việc nghiêm cấm hoặc sử dụng cụm từ “không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm/vi phạm…”. Những quy định này thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân trong việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị làm rõ nội dung của quyền sống tại Điều 21 vì hiện tại Việt Nam vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP đã bổ sung nội dung này vào Điều 21 để trình Quốc hội “Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng một cách trái pháp luật”. Quy định như vậy là phù hợp với Công ước quốc tế và tình hình cụ thể của Việt Nam khi mà nước ta vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình đối với một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật hình sự.
IV. VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG (CHƯƠNG III)
1. Về Điều 53
Qua tổng hợp, có 2 loại ý kiến về Điều này như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân, theo đó, Điều 53 quy định về mục tiêu, động lực và nội hàm của nền kinh tế nước ta còn Điều 54 sẽ quy định về các thành phần kinh tế.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, quy định quan điểm và mục tiêu của phát triển kinh tế và nội hàm của kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được khẳng định trong Cương lĩnh, văn kiện của Đảng. Do đó, ý kiến này đề nghị cân nhắc gộp Điều 53 và Điều 54 thành một Điều chung. Khi đó, nội hàm khái niệm này đã bao hàm một cách đầy đủ, ngắn gọn, súc tích nội dung vì lợi ích dân tộc, vì sự phát triển Tổ quốc.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tính chất nền kinh tế đóng vai trò quan trọng và có tính quyết định đối với định hướng phát triển đất nước. Vì vậy, Hiến pháp cần có điều riêng quy định về tính chất, mục tiêu của nền kinh tế (Điều 53) cùng với quy định về các thành phần kinh tế (Điều 54). Quy định như vậy vừa thể hiện được bản chất, vừa thể hiện được động lực và mục tiêu của phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992.
2. Về các thành phần kinh tế (Điều 54)
- Về các thành phần kinh tế, qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị nêu rõ các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế như trong Cương lĩnh.
Loại ý kiến thứ hai tán thành quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế nhưng cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước vì đây là điểm cốt lõi của CNXH.
Loại ý kiến thứ ba tán thành với quy định của Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân, quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế. Quy định như vậy vừa bám sát được nội dung Cương lĩnh, vừa phù hợp với tính chất và cách thể hiện Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội như sau: Quy định về tính chất của nền kinh tế và các thành phần kinh tế là nội dung quan trọng của Hiến pháp. Cách thể hiện có thể khác nhau nhưng đều bám sát tinh thần Cương lĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP xin trình Quốc hội 3 phương án tại khoản 1 Điều 54 như sau:
Phương án 1: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Phương án 2: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Phương án 3: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
- Về tính chất của nền kinh tế, các ý kiến cơ bản tán thành như Dự thảo nhưng đề nghị có quy định để làm rõ tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò của kinh tế nhà nước hoặc bỏ cụm từ “định hướng XHCN”, chỉ quy định tính chất của nền kinh tế nước ta là kinh tế thị trường là đủ; quy định rõ thêm về “tự do sở hữu, tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh” vì đó là những điều kiện của nền kinh tế thị trường...
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Việc xác định tính chất nền kinh tế đóng vai trò quan trọng và có tính quyết định đối với định hướng phát triển Nhà nước XHCN ở nước ta. Tính chất định hướng XHCN của nền kinh tế Việt Nam bảo đảm mọi thành viên trong xã hội sẽ được hưởng thụ một cách công bằng hơn và tốt hơn các giá trị cũng như lợi ích của sự phát triển kinh tế. Định hướng XHCN của nền kinh tế sẽ tạo tiền đề cho việc khắc phục những hậu quả, khiếm khuyết của kinh tế thị trường cũng như những tác động tiêu cực trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy quy định như Dự thảo kế thừa các quy định hiện hành trong Hiến pháp năm 1992 là phù hợp vì một mặt, vừa khẳng định được bản chất, vừa thể hiện được động lực và mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; mặt khác, bảo đảm sự hài hòa và cân bằng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, tức là thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
3. Về sở hữu đất đai (Điều 57)
Qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến về sở hữu đất đai như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo. Loại ý kiến này cho rằng quy định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là phù hợp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị đa dạng hóa sở hữu đất đai, trong đó có sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân về đất ở. Ý kiến này cho rằng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là không rõ về chủ thể sở hữu.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị tách thành hai điều, một điều quy định về sở hữu toàn dân, một điều quy định về sở hữu nhà nước. Ý kiến này cho rằng, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đất đai là tài nguyên quốc gia – thuộc sở hữu toàn dân với những đất đai mà toàn dân đã giao cho Nhà nước – một chủ thể cụ thể quản lý, sở hữu.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Quy định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980 đến nay. Vấn đề sở hữu về đất đai không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội. Để làm rõ hơn nội dung này, Dự thảo đã xác định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên cách dùng khái niệm “sở hữu toàn dân” và không quy định đa sở hữu về đất đai.
4. Về thu hồi đất (Điều 58)
Qua tổng hợp, có nhiều ý kiến góp ý về quy định thu hồi đất trong Dự thảo, trong đó có 4 loại ý kiến chính như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định của Dự thảo nhưng đề nghị xác định rõ các nguyên tắc thu hồi đất.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định về thu hồi đất đối với trường hợp đã có quyền sử dụng đất mà chỉ thu hồi đối với các trường hợp lấn chiếm, sử dụng sai mục đích, kế hoạch, quy hoạch. Tất cả các trường hợp khác đều sử dụng hình thức trưng mua.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị chỉ thu hồi đất đối với 3 trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp vì lý do “các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Bởi vì, bản thân các dự án phát triển kinh tế – xã hội đã thể hiện lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; đồng thời, cũng tránh việc lạm dụng quy định này để thu hồi đất tràn lan.
- Loại ý kiến thứ tư cho rằng, việc quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản dễ dẫn đến mâu thuẫn vì đã xác định quyền sử dụng đất là quyền tài sản tức là có quyền sở hữu và các quyền liên quan, việc thu hồi đất là không hợp lý vì quyền tài sản thì Nhà nước phải trưng mua.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội như sau: Thu hồi đất là vấn đề quan trọng, vừa liên quan đến quyền sở hữu toàn dân về đất đai, vừa liên quan đến quyền của người sử dụng đất. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội quy định cơ chế thu hồi đất vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không đặt vấn đề trưng mua vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu. Tuy nhiên, để bảo đảm việc thu hồi đất không bị lạm dụng, đề nghị bổ sung quy định về nguyên tắc của việc thu hồi, bồi thường, đó là “Việc thu hồi đất phải có bồi thường, công khai, minh bạch, công bằng theo quy định của pháp luật”; nội dung cụ thể về điều kiện và thể thức thu hồi, bồi thường sẽ được xác định trong luật.
Về trường hợp thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đất đai là nguồn lực quan trọng cần được khai thác, sử dụng hiệu quả nhằm mục đích phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Vì vậy, việc thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết. Tuy nhiên, để tránh việc thu hồi đất tràn lan, Dự thảo quy định “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Các trường hợp thu hồi đất do luật định. Việc thu hồi đất phải có bồi thường, công khai, minh bạch, công bằng theo quy định của pháp luật”.
5. Ngoài ra, trên cơ sở ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý trình Quốc hội về các vấn đề như: ngân sách nhà nước, lao động, việc làm, y tế, an sinh xã hội, văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường như trong Dự thảo.
V. VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (CHƯƠNG IV)
Qua tổng hợp, cơ bản các ý kiến nhân dân tán thành với quy định về bảo vệ Tổ quốc như Dự thảo đã công bố. Về Điều 70, có các loại ý kiến sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với những sửa đổi, bổ sung của Dự thảo nhưng đề nghị đảo cụm từ “lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân” lên trước cụm từ “trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Loại ý kiến này cho rằng, lực lượng vũ trang của nước ta do Đảng thành lập và rèn luyện, do đó, để khẳng định bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, cần quy định rõ trong Hiến pháp nghĩa vụ trung thành với Đảng của lực lượng vũ trang.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ quy định này như Hiến pháp hiện hành, không quy định “lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Loại ý kiến này cho rằng cách quy định này vẫn đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện với lực lượng vũ trang, đồng thời, góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho lực lượng vũ trang Việt Nam khi tham gia thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Trên cơ sở nghiên cứu tiếp thu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội thể hiện lại Điều 70 như sau: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”
VI. VỀ QUỐC HỘI (CHƯƠNG V)
Qua tổng hợp, cơ bản ý kiến nhân dân tán thành với quy định về Quốc hội như Dự thảo đã công bố. Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các ý kiến tập trung vào các vấn đề sau đây:
1. Về vị trí, chức năng của Quốc hội (Điều 74), có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với các quy định về vị trí, chức năng của Quốc hội trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị cần giữ quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp như Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, ở nước ta Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy, quy định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp là hợp lý. Tuy nhiên, trong quy trình lập hiến, lập pháp có nhiều chủ thể cùng tham gia. Hơn nữa, khi thực hiện các quyền này, Quốc hội cũng tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân hoặc trưng cầu ý dân. Vấn đề này cũng đã được quy định trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không nên quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp.
2. Về thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước (khoản 4 Điều 75), có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành với quy định của Dự thảo về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Quy định tại khoản 4 Điều 75 của Dự thảo công bố lấy kiến nhân dân đã tách bạch được giữa ngân sách trung ương và địa phương nhằm nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương đối với vấn đề ngân sách. Tuy nhiên, quy định này lại chưa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nước ta. Nhà nước Việt Nam là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất trong quản lý, Quốc hội đại diện cho cử tri cả nước, chứ không phải chỉ ở Trung ương. Bên cạnh đó, trong việc thực hiện ngân sách hiện nay đang tiến hành việc phân công, phân cấp trong dự toán và quyết định ngân sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án như sau:
Phương án 1: Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
Phương án 2: Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước.
3. Về việc tuyên thệ khi nhậm chức, có ý kiến đề nghị đối với một số chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước, khi nhậm chức cần thực hiện việc tuyên thệ vì đây là một nghi thức nhà nước quan trọng. Quy định này nhằm tôn vinh và đề cao trách nhiệm trước nhân dân của những người giữ các chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước do Quốc hội bầu.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP đã bổ sung trình Quốc hội quy định về việc tuyên thệ khi nhậm chức của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại khoản 7 Điều 75.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc tuyên thệ là hình thức, không phù hợp với thể chế chính trị ở nước ta, vì vậy không cần quy định trong Hiến pháp.
4. Về thẩm quyền ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 2 Điều 79), có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với thẩm quyền ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội như trong Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định thẩm quyền ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp hiện hành quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền ban hành pháp lệnh xuất phát từ vị trí của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Trong điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên thì việc giữ thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh là cần thiết để đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý, điều hành đất nước. Hơn nữa, việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh là thực hiện ủy quyền lập pháp của Quốc hội, phải được Quốc hội quyết định trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ và hằng năm.
5. Về thẩm quyền quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (khoản 7 Điều 79), có ba loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo quy định thẩm quyền này thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng việc điều chỉnh địa giới hành chính các cấp là vấn đề quan trọng nên cần phải được Quốc hội quyết định.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị giữ quy định Chính phủ quyết định việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Việc tiếp tục giữ thẩm quyền của Chính phủ trong việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh là kế thừa Hiến pháp hiện hành. Tuy nhiên, việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính để triển khai thực hiện, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, việc quyết định địa giới hành chính các cấp phải được Quốc hội phê chuẩn. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên phương án giao thẩm quyền này cho Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng có những yếu tố hợp lý nhất định.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án như sau:
Phương án 1: Giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo đề nghị của Chính phủ như Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
Phương án 2: Giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, thẩm quyền này thuộc Chính phủ.
VII. VỀ CHỦ TỊCH NƯỚC (CHƯƠNG VI)
Qua tổng hợp, cơ bản ý kiến nhân dân tán thành với quy định về Chủ tịch nước như Dự thảo đã công bố và tập trung vào các vấn đề sau đây:
1. Về thẩm quyền của Chủ tịch nước đối với hoạt động lập pháp, có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp như Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung quy định trước khi công bố luật, Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề nghị của Chính phủ, đề nghị Quốc hội xem xét lại luật đã được Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, nhưng Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chủ tịch nước đã tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng và ban hành luật. Do vậy, đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định này vào Dự thảo.
2. Về thẩm quyền của Chủ tịch nước đối với hoạt động hành pháp, có ba loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định của Dự thảo, khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm.
- Loại ý kiến thứ ba không tán thành với quy định của Dự thảo mà đề nghị giữ như Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại thì trong một số trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước quan tâm để giúp Chủ tịch nước thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó, Ủy ban DTSĐHP chỉnh lý để trình Quốc hội cho ý kiến về nội dung này theo hướng: “Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”.
3. Về thẩm quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang (khoản 5 Điều 93)
- Có ý kiến đề nghị cân nhắc có nên quy định Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Quy định về vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước là kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp 1992. Mặt khác, các quy định về phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh trong các lực lượng vũ trang nhân dân hoặc giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh,... đã làm rõ hơn nội hàm thẩm quyền thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước.
4. Về thẩm quyền phong hàm cấp tướng và bổ nhiệm các chức danh trong Quân đội nhân dân Việt Nam (khoản 5 Điều 93)
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị ngoài thẩm quyền phong hàm, cần bổ sung quy định về thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân; đồng thời, ngoài việc bổ nhiệm, cần bổ sung việc miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Chủ tịch nước với tư cách thống lĩnh các lực lượng vũ trang nên cần thiết phải quy định thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ tư lệnh Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn và tương đương vì đây là các chức danh chỉ huy quân đội, chứ không phải chức danh quản lý nhà nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, căn cứ vào mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước ta và thực tiễn công tác cán bộ hiện nay, việc Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam là phù hợp. Do đó, Ủy ban DTSĐHP dự kiến chỉnh lý trình Quốc hội cho ý kiến về việc bổ sung các trường hợp về phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân và bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cho đầy đủ và phù hợp.
VIII. VỀ CHÍNH PHỦ (CHƯƠNG VII)
Qua tổng hợp, cơ bản các ý kiến nhân dân tán thành với quy định về Chính phủ như Dự thảo đã công bố. Về vị trí, tính chất của Chính phủ, hiện có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định vị trí, tính chất của Chính phủ như Dự thảo công bố lấy ý kiến nhân dân. Theo đó, “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội vì trong chức năng “hành pháp” và “hành chính” đã thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội thông qua. Về bản chất, việc Chính phủ tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật chính là hoạt động chấp hành ý chí của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật do Quốc hội ban hành, phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân. Việc không tiếp tục quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội sẽ làm rõ hơn vai trò hành pháp và sự phân công quyền lực cho Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội, bảo đảm tính độc lập tương đối, sự kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp, tạo cơ sở để Chính phủ chủ động, năng động hơn trong quản lý, điều hành.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước ở nước ta phải được xác định trên cơ sở nguyên tắc: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra. Với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội được nhân dân uỷ quyền ban hành Hiến pháp, luật, nghị quyết, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, thiết lập nên các cơ quan hiến định trong bộ máy nhà nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Do đó, Chính phủ là cơ quan hành pháp có trách nhiệm tổ chức và bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành, đồng thời chịu trách nhiệm báo cáo công tác với Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội. Vấn đề này cũng đã được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây của nước ta. Trong thực tế vừa qua, quy định này chưa thấy có gì vướng mắc, cản trở hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ.
IX. VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (CHƯƠNG VIII)
Qua tổng hợp, cơ bản các ý kiến nhân dân tán thành với quy định về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân như Dự thảo đã công bố và tập trung vào các vấn đề sau đây:
1. Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao (Điều 109)
Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền ban hành án lệ của Tòa án nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Hệ thống pháp luật nước ta theo hệ thống luật thành văn. Tòa án nhân dân tối cao đã và đang thực hiện chức năng tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Việc thực hiện chức năng này đã mang lại hiệu quả thiết thực cho các Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, việc nghiên cứu ban hành và áp dụng án lệ ở nước ta đã được nêu trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp nhưng đây là vấn đề mới và đang còn có ý kiến khác nhau nên đề nghị chưa quy định vào Dự thảo Hiến pháp. Vấn đề này sẽ được tiếp tục nghiên cứu, nếu thấy phù hợp sẽ quy định trong luật.
2. Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 112), hiện có ba loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Dự thảo về chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Quy định như vậy là phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước ta hiện nay.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị bổ sung quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính (kiểm sát chung) và thực hiện các hoạt động khác do luật định.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị quy định Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố, kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính mà không quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp vì quy định như vậy là trái với quy định về Viện kiểm sát thực hành quyền công tố (một bên tham gia tố tụng), không phù hợp với quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là bước điều chỉnh quan trọng nhằm thực hiện chủ trương tại Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và đây cũng là kết luận tại Hội nghị Trung ương 5. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân để cơ quan này tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hơn nữa, trong tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay đã có các thiết chế kiểm tra, thanh tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và việc xử lý vi phạm hành chính. Nếu quy định chức năng kiểm sát chung cho Viện kiểm sát thì sẽ gây chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũng không nên quy định “thực hiện các hoạt động khác” vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, chỉ quy định những vấn đề lớn, cơ bản còn các vấn đề khác để luật định.
3. Về nguyên tắc hoạt động độc lập của Kiểm sát viên (khoản 2 Điều 114), có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng khi hoạt động, Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng. Do vậy, đề nghị giữ như Dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị khi hoạt động Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật, quy định này nhằm tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.
Uỷ ban DTSĐHP nhận thấy, hiện nay tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương, khác với tổ chức và hoạt động của Tòa án. Do đó khi hoạt động Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, nhưng đồng thời, Kiểm sát viên vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Do vấn đề này còn có ý kiến khác nhau nên đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận, cho ý kiến.
4. Về Ủy ban kiểm sát, có ý kiến đề nghị giữ lại quy định về Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp hiện hành và cần quy định vào Hiến pháp một số nhiệm vụ khác của Viện kiểm sát.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là những vấn đề cụ thể thuộc về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho tiếp tục nghiên cứu để quy định cụ thể trong luật.
X. VỀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG (CHƯƠNG IX)
Vấn đề chính quyền địa phương được các tầng lớp nhân dân quan tâm và góp nhiều ý kiến, trong đó có 3 loại ý kiến chính sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành giữ các quy định về các đơn vị hành chính như Điều 118 của Hiến pháp hiện hành và mô hình chính quyền địa phương được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính theo nguyên tắc ở đâu có cơ quan hành chính thì ở đó phải có cơ quan đại diện để giám sát.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị Hiến pháp cần có những quy định để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới căn bản mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Theo đó, cần xác định lại đơn vị hành chính và mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở từng đơn vị hành chính. Cụ thể là: đơn vị hành chính gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tương ứng với đơn vị hành chính thì có 2 cấp chính quyền là chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và chính quyền cơ sở (chính quyền thành phố, thị xã, thị trấn, xã...).
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị giữ nguyên quy định về đơn vị hành chính như Hiến pháp hiện hành nhưng chỉ tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và xã; còn đơn vị hành chính huyện, quận, phường thì chỉ có cơ quan quản lý hành chính.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Mô hình chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay đang đứng trước thực tế cần yêu cầu đổi mới để phù hợp với tình hình mới, trình độ phát triển của đất nước. Đồng thời, nhiều đề án liên quan đến đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương hiện đang được triển khai nghiên cứu, thí điểm (Đề án thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Đề án về chính quyền đô thị...). Do chưa có kết luận từ tổng kết các đề án này nên Dự thảo chưa thiết kế được mô hình cụ thể của chính quyền địa phương. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án về mô hình chính quyền địa phương như sau:
Phương án 1: Giữ quy định về đơn vị hành chính và quy định khái quát về việc tổ chức chính quyền địa phương. Theo phương án này thì Chương IX gồm 2 điều, một điều quy định về đơn vị hành chính, một điều quy định về việc thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương do luật định.
Phương án 2: Giữ quy định về đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương như Hiến pháp hiện hành.
XI. VỀ HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP, HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA, KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC (CHƯƠNG X)
Qua tổng hợp, cơ bản các ý kiến nhân dân tán thành với việc bổ sung một chương mới về các thiết chế hiến định độc lập. Về Hội đồng Hiến pháp và Hội đồng bầu cử quốc gia, các ý kiến tập trung vào các vấn đề sau đây:
1. Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120), hiện có 2 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị không nên thành lập Hội đồng Hiến pháp mà duy trì cơ chế bảo hiến hiện hành. Bởi vì, việc bổ sung thiết chế mới này trong khi chưa rõ vị trí, tổ chức, nguyên tắc hoạt động, cơ chế phối hợp với các cơ quan khác dễ dẫn đến sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, cồng kềnh bộ máy, không đạt hiệu quả.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành với sự cần thiết thành lập Hội đồng Hiến pháp, nhưng đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ, quyền hạn đối với thiết chế này cho phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Hiến pháp hiện hành đã xác định cơ chế bảo vệ Hiến pháp thông qua các quy định về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành cơ bản phù hợp với tính chất và đặc điểm mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước ta nhưng thực tiễn thời gian qua cho thấy, cơ chế này chưa thực sự hiệu quả nên cần tiếp tục hoàn thiện.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã được thể hiện trong các nghị quyết của Đại hội X, XI và Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI cũng chỉ rõ “nghiên cứu các mô hình cơ quan bảo vệ Hiến pháp phù hợp với thể chế chính trị và điều kiện cụ thể của nước ta”. Do đó, cùng với việc tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, Dự thảo đề xuất phương án thành lập Hội đồng Hiến pháp. Quy định về Hội đồng Hiến pháp như trong Dự thảo không mâu thuẫn với quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đồng thời thể hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến nhân dân, Ủy ban DTSĐHP trình Quốc hội 2 phương án như sau:
Phương án 1: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Phương án 2: Thành lập Hội đồng Hiến pháp như trong Dự thảo.
- Có ý kiến đề nghị cần thành lập cơ quan bảo hiến độc lập (Tòa án Hiến pháp) có chức năng phán quyết về các vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ đặc điểm, mô hình tổ chức bộ máy và điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay thì việc thành lập Tòa án Hiến pháp với chức năng tài phán là chưa phù hợp.
2. Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 121), hiện có 3 loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với việc quy định Hội đồng bầu cử là một thiết chế hiến định độc lập như Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị cần cân nhắc việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia vì cho rằng bầu cử chỉ diễn ra 5 năm một lần.
- Loại ý kiến thứ ba đề nghị xác định tính chất hoạt động thường xuyên hay không thường xuyên của cơ quan này ngay trong Dự thảo.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia thực chất là việc hiến định vai trò, địa vị pháp lý Hội đồng bầu cử trung ương hiện đang được quy định trong luật bầu cử nhằm phát huy dân chủ, bảo đảm được tính khách quan trong công tác tổ chức bầu cử ở nước ta. Về tính chất hoạt động, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do Luật định. Vì vậy, đề nghị giữ quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia như trong Dự thảo.
3. Về việc thành lập thêm một số cơ quan hiến định độc lập khác
Có ý kiến đề nghị thành lập thêm một số cơ quan hiến định độc lập khác như Ủy ban chống tham nhũng quốc gia, Ngân hàng Trung ương, Hội đồng tư pháp quốc gia, Thanh tra Quốc hội, Ủy ban quốc gia về quyền con người, để tăng thêm tính pháp quyền của Nhà nước ta, đồng thời bảo đảm hiệu quả thực hiện việc kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, đây là vấn đề mới cần được nghiên cứu kỹ mà chưa quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Mặt khác, theo quy định tại Điều 75 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp thì trong trường hợp cần thiết, Quốc hội vẫn có thẩm quyền thành lập các cơ quan khác.
XII. VỀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP (CHƯƠNG XI)
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy trình sửa đổi Hiến pháp là giao Quốc hội quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp như quy định tại Điều 124 của Dự thảo.
- Loại ý kiến thứ hai đề nghị Hiến pháp phải được trưng cầu ý dân (hoặc phúc quyết) sau khi được Quốc hội thông qua. Bởi vì, Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản, thể hiện chủ quyền của nhân dân, ý chí, nguyện vọng của nhân dân nên phải do nhân dân quyết định. Việc nhân dân quyết định Hiến pháp thông qua trưng cầu ý dân nhằm khẳng định quyền cao nhất của nhân dân là chủ thể của Hiến pháp, tạo nền tảng vững chắc cho hiệu lực của Hiến pháp, nâng cao ý thức và quyền làm chủ của nhân dân trong việc tôn trọng và thi hành Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP xin báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy, nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Thực tiễn lập hiến ở Việt Nam cho thấy, nhân dân tham gia vào tất cả các công đoạn của quy trình lập hiến, từ việc tổng kết thi hành Hiến pháp đến việc xây dựng và tham gia ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội thông qua. Do đó, về thực chất, dự thảo sửa đổi Hiến pháp trước khi trình Quốc hội thông qua đã thể hiện ý chí và trí tuệ của nhân dân. Vì vậy, quy định Quốc hội thông qua Hiến pháp không trái với nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mặt khác, trưng cầu ý dân về Hiến pháp là việc hệ trọng nên cần phải được cân nhắc một cách toàn diện, phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng giai đoạn phát triển của nước ta. Do đó, để kết hợp giữa thẩm quyền của Quốc hội và quyền của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp, đề nghị quy định “Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.
Ngoài những vấn đề nêu trên, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, nghiên cứu để trình Quốc hội tiếp thu, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến trên cơ sở ý kiến góp ý của nhân dân ở tất cả các chương, điều, khoản để thể hiện trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
*
* *
Trên đây là Báo cáo về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trên cơ sở ý kiến của nhân dân, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xin trân trọng báo cáo Quốc hội.
Nơi nhận: - Như trên; - Lưu: HC, UBDTSĐHP. - Số e-PAS: 34674 | TM. ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 CHỦ TỊCH (đã ký) Nguyễn Sinh Hùng |
Từ ngày 02/01/2013 đến hết ngày 31/3/2013 có 26.090.828 lượt ý kiến; từ 01/4/2013 đến 30/4/2013 có 448 lượt ý kiến. Số liệu cụ thể xin xem Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Công văn trả lời kiến nghị của địa phương về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 20/03/2013
Số hiệu:258/UBDTSĐHP
Mô tả:
Trong thời gian qua, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhận được công văn của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp hướng dẫn cụ thể về mẫu Phiếu xin ý kiến gửi đến từng hộ gia đình, đối tượng gửi phiếu xin ý kiến và việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, thời hạn gửi báo cáo tổng hợp ý kiến của nhân dân, kinh phí tổ chức in ấn, phát hành tài liệu.
Cv_tra_loi_kien_nghi_(18.3.2013).doc
Kính gửi: Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương,
Trong thời gian qua, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhận được công văn của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp hướng dẫn cụ thể về mẫu Phiếu xin ý kiến gửi đến từng hộ gia đình, đối tượng gửi phiếu xin ý kiến và việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, thời hạn gửi báo cáo tổng hợp ý kiến của nhân dân, kinh phí tổ chức in ấn, phát hành tài liệu. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp có ý kiến như sau:
1. Về mẫu phiếu xin ý kiến nhân dân và đối tượng gửi phiếu
Tại mục 3 Công văn số 250/UBDTSĐHP ngày 06/3/2013 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã nêu cụ thể nội dung của Phiếu xin ý kiến. Trường hợp xin ý kiến đến từng hộ gia đình, phiếu xin ý kiến ghi rõ: (1) ý kiến chung về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, (2) ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung về nội dung và kỹ thuật văn bản ở từng điều, khoản của dự thảo mà người dân quan tâm. Trường hợp xin ý kiến đến từng đại biểu tham dự hội nghị, hội thảo, tọa đàm, phiếu xin ý kiến nêu rõ: (1) ý kiến chung về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, (2) những nội dung cụ thể của các chương, điều, khoản của Dự thảo để đại biểu thể hiện chính kiến tán thành, đề nghị sửa đổi, bổ sung và ý kiến khác.
Về đối tượng gửi phiếu lấy ý kiến, theo Nghị quyết của Quốc hội, đối tượng lấy ý kiến là tất cả các tầng lớp nhân dân, Công văn số 250/UBDTSĐHP ngày 06/3/2013 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đề nghị “các cơ quan, tổ chức cần triển khai tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; đối với các tổ chức đảng, đoàn thể, tổ chức lấy ý kiến ở chi bộ đảng, chi đoàn thanh niên, các chi hội cơ sở, khu công nghiệp, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp…”
Căn cứ vào nội dung trên, các cơ quan, tổ chức, địa phương cần chủ động chuẩn bị phiếu và tổ chức triển khai việc lấy ý kiến đến các tầng lớp nhân dân với những hình thức và nội dung phù hợp để việc góp ý kiến được tập trung, có chất lượng.
2. Về thời hạn gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân
Có địa phương đề nghị kéo dài thời hạn gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp thấy rằng, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Kết luận của Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Hội nghị toàn quốc triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Thông báo số 101/TB-VPQH ngày 14/01/2013 của Văn phòng Quốc hội) đã nêu rõ thời hạn gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp như sau:
- Chậm nhất đến ngày 15/3/2013, các cơ quan, tổ chức quy định tại mục 5, phần IV Kế hoạch phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp (đợt 1) và chậm nhất đến ngày 31/3/2013, phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp (đợt 2) đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để tổng hợp.
- Chậm nhất đến ngày 31/3/2013, các cơ quan, tổ chức quy định tại mục 6, phần IV Kế hoạch phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến (đợt 1) và chậm nhất đến ngày 05/4/2013 phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp (đợt 2) đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Vì vậy, để kịp thời tập hợp, tổng hợp đầy đủ và báo cáo Quốc hội, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, đề nghị các cơ quan, tổ chức, địa phương khẩn trương tập hợp, tổng hợp ý kiến của nhân dân gửi về cơ quan, tổ chức đúng tiến độ theo Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Những ý kiến nhân dân góp ý sau ngày 31/3/2013 thì tổng hợp báo cáo vào thời điểm 30/4/2013 và 30/9/2013.
3. Về kinh phí phục vụ in, phát hành phiếu lấy ý kiến nhân dân
Để bảo đảm tiến độ thời gian gửi tài liệu đến các hộ gia đình, đề nghị Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo tổ chức in ấn, phát hành tài liệu đến các hộ gia đình. Kinh phí phục vụ việc in, phát hành phiếu lấy ý kiến nhân dân được tính trong kinh phí tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 theo đúng hướng dẫn số 152/BTC –HCSN ngày 05/01/2013 của Bộ Tài chính, nếu thiếu thì báo cáo bổ sung sau.
V/v tiếp tục triển khai Nghị quyết của Quốc hội lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 07/03/2013
Số hiệu:250/UBDTSĐHP
Mô tả:
Cv_trien_khai_den_to_dan_pho_CTQH_(6-3-2013).doc.pdf
Kính gửi:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Trung ương Hội nông dân Việt Nam, Trung ương Hội cựu chiến binh Việt Nam, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh;
- Văn phòng trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ;
- Tỉnh ủy, thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Triển khai thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong các ngày từ 26/2 đến 06/3/2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức một số Đoàn kiểm tra công tác tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại một số địa phương[1]. Sau 02 tháng triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Bộ Chính trị, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, các cơ quan, tổ chức, địa phương đã tập trung triển khai khẩn trương, đồng bộ, rộng khắp, đúng tiến độ Kế hoạch lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đến toàn dân. Hầu hết các cơ quan, tổ chức, địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo, ban hành kế hoạch và các văn bản triển khai việc lấy ý kiến nhân dân, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm để thảo luận, góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Nhiều nơi có cách làm mới, sáng tạo, có hiệu quả như phát hành đĩa VCD, làm phóng sự, chuẩn bị nội dung cho báo cáo viên, in Bảng so sánh giữa Hiến pháp năm 1992 với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phát hành xuống từng Tổ dân phố, hộ gia đình,…
Đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương đã bước đầu tập hợp, tổng hợp sơ bộ ý kiến góp ý của nhân dân. Theo báo cáo của các địa phương, nhân dân tin tưởng, phấn khởi, cơ bản đồng tình với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp công bố; đồng thời, có nhiều ý kiến góp ý tâm huyết nếu được tiếp thu, “gạn đục, khơi trong” thì sẽ có một bản Hiến pháp chất lượng, thể hiện được ý chí của nhân dân. Ở một vài địa phương cũng đã phát hiện có một số cá nhân lợi dụng việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để truyền bá những quan điểm sai trái, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Trong quá trình kiểm tra, các cơ quan, tổ chức, địa phương cũng đã nêu một số khó khăn, vướng mắc trong trong việc triển khai tổ chức lấy ý kiến nhân dân, như làm thế nào để triển khai sâu, rộng việc lấy ý kiến đến hộ dân cư và từng người dân ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, khu công nghiệp, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, chi bộ, chi đoàn, tổ chức công đoàn cơ sở,...; việc tuyên truyền, phổ biến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; việc kiểm đếm số lượng ý kiến để bảo đảm tập hợp, tổng hợp đầy đủ, trung thực, chính xác ý kiến của nhân dân… Vì vậy, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đề nghị các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, địa phương tập trung làm tốt một số việc sau đây:
1. Về công tác chỉ đạo:
Tiếp tục xác định việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là nhiệm vụ trọng tâm, cần được ưu tiên thực hiện nhằm tạo sự nhất trí cao trong toàn xã hội. Với tinh thần đó, đề nghị các cấp ủy đảng, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, địa phương tiếp tục quan tâm chỉ đạo sát sao hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến, bày tỏ quan điểm của mình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Mỗi người có thể góp ý về toàn bộ nội dung Dự thảo hoặc từng chương, điều, khoản cụ thể mà mình quan tâm.
2. Về công tác thông tin, tuyên truyền:
Cần có nhiều tin, bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng phân tích, làm rõ những nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp với lập luận khoa học, thuyết phục, chặt chẽ; làm cho người dân nắm vững, hiểu đúng nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, từ đó bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình. Đồng thời, cần kịp thời đấu tranh, ngăn chặn việc lợi dụng góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để truyền bá những quan điểm sai trái, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
3. Về công tác tổ chức lấy ý kiến:
Tiếp tục có nhiều hình thức phong phú, thích hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến.
Ở các địa phương, trong tháng 3/2013 cần in, gửi Bảng so sánh giữa Hiến pháp năm 1992 với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 kèm theo Bản thuyết minh và Phiếu xin ý kiến đến từng hộ gia đình để từng người dân có điều kiện tham gia đóng góp ý kiến. Trong phiếu xin ý kiến ghi rõ: (1) ý kiến chung về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, (2) ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung về nội dung và kỹ thuật văn bản ở từng điều, khoản của dự thảo mà người dân quan tâm. Tổ chức tập hợp đầy đủ những ý kiến này.
Ở các cơ quan, tổ chức cần triển khai tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; đối với các tổ chức đảng, đoàn thể, tổ chức lấy ý kiến ở chi bộ đảng, chi đoàn thanh niên, các chi hội cơ sở, khu công nghiệp, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,... Cần mở rộng quy mô, thành phần tham dự các hội nghị này; lựa chọn nội dung cụ thể, phù hợp với từng nhóm đối tượng lấy ý kiến để việc góp ý được tập trung, có chất lượng. Đồng thời, cần gửi Phiếu xin ý kiến để từng đại biểu tham dự thể hiện chính kiến của mình. Phiếu xin ý kiến nêu rõ: (1) ý kiến chung về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, (2) những nội dung cụ thể của các chương, điều, khoản của Dự thảo để đại biểu thể hiện chính kiến tán thành, đề nghị sửa đổi, bổ sung và ý kiến khác. Từng đại biểu tham dự hội thảo, hội nghị, tọa đàm cần thể hiện chính kiến của mình đối với các nội dung của Dự thảo. Việc xác định số lượng ý kiến góp ý tại các hội nghị, hội thảo, tọa đàm không chỉ tính theo số lượng người phát biểu ý kiến mà phải tính theo số lượng người dự họp.
Việc tập hợp, tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phải đầy đủ, trung thực, khách quan cả ý kiến tán thành, ý kiến không tán thành, ý kiến khác theo Hướng dẫn số 239/HD-UBDTSĐHP ngày 23/02/2013 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và nhận định chung ý kiến của đa số đại biểu.
4. Về thời gian lấy ý kiến nhân dân:
Trong quá trình kiểm tra công tác tổ chức lấy ý kiến ở các địa phương và tổng hợp sơ bộ bước đầu ý kiến đóng góp của nhân dân, có một số ý kiến đề nghị nên kéo dài thời gian lấy ý kiến nhân dân.
Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhận thấy, thời gian tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội quyết định tại Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 là bắt đầu từ ngày 02/01/2013 đến hết ngày 31/3/2013. Kết quả việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân theo thời hạn này sẽ được tập hợp, tổng hợp đầy đủ và kịp thời tiếp thu, chỉnh lý để trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013) và sẽ được tiếp tục chỉnh lý để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2013).
Kể từ sau ngày 31/3/2013 cho đến thời điểm 30/4/2013 và cho đến 30/9/2013 trước khi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được trình Quốc hội thông qua, nhân dân vẫn tiếp tục đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các cơ quan, tổ chức, địa phương có trách nhiệm tiếp nhận, tập hợp, tổng hợp đầy đủ các ý kiến góp ý của nhân dân và gửi về Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Các ý kiến góp ý của nhân dân sẽ được nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Như trên; - Thành viên UBDTSĐHP; - Thành viên Ban Biên tập; - Các cơ quan thông tấn, báo chí (để đưa tin); - Lưu: HC, UBDTSĐHP. - Số e-PAS: 14665 | TM. ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 CHỦ TỊCH Nguyễn Sinh Hùng |
[1] Tại tỉnh Lào Cai (26/2), tỉnh Yên Bái (27/2), thành phố Hà Nội (ngày 27/2), tỉnh Phú Thọ (28/2), tỉnh Tiền Giang (01/3), thành phố Hồ Chí Minh (2/3), thành phố Cần Thơ (4/3), thành phố Hải Phòng (4/3), tỉnh Hải Dương (4/3), tỉnh Quảng Bình (4/3), tỉnh Nghệ An (5/3), tỉnh Hà Tĩnh (5/3), tỉnh Bắc Ninh (5/3), tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước (dự kiến sẽ kiểm tra từ ngày 11/3 đến 13/3/2013).
Hướng dẫn tập hợp, tổng hợp ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 01/03/2013
Số hiệu:239/HD-UBDTSĐHP
Mô tả:
Căn cứ Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23 /11/2012 của Quốc hội, Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, để bảo đảm việc tập hợp, tổng hợp ý kiến nhân dân được đầy đủ, chính xác, khách quan, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 hướng dẫn việc tập hợp, tổng hợp và xây dựng Báo cáo tổng hợp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau:
Huong_dan_tong_hop_(21-2).doc
Kết luận của Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 15/01/2013
Số hiệu:101/TB-VPQH
Mô tả:
Ngày 08/01/2013 Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Chủ trì Hội nghị có đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban tuyên giáo trung ương, đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
ketluancuaChutich.pdf
THÔNG BÁO
Kết luận của Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Hội nghị toàn quốc triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Ngày 08/01/2013 Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Chủ trì Hội nghị có đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban tuyên giáo trung ương, đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Hội nghị đã nghe đồng chí Nguyễn Sinh Hùng Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phát biểu chỉ đạo triển khai việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; đồng thời, Hội nghị đã được phổ biến, quát triệt nội dung Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, báo cáo về những nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào báo cáo về công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền trong việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Các đại biểu tham dự Hội nghị đã phát biểu hoan nghênh việc tổ chức Hội nghị, nêu tình hình triển khai sơ bộ ở một số địa phương, kiến nghị hướng dẫn một số vấn đề cụ thể để bảo đảm tổ chức tốt việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Văn phòng Quốc hội trân trọng thông báo Kết luận của đồng chí Nguyễn Sinh Hùng Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Hội nghị như sau:
1- Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 hoan nghênh tinh thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm và rất khẩn trương của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương trong việc triển khai, quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội và Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
2- Về thành phần, Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội đã quy định thành phần tham gia đóng góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Vì vậy, đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương (Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chủ động quyết định hình thức, cách thức lấy ý kiến, địa bàn, địa điểm, thời điểm và thành phần lấy ý kiến, tạo điều kiện để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến một cách thuận lợi, dân chủ, công khai, bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả và không trùng lắp.
3- Về trách nhiệm báo cáo, Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội đã quy định rõ trách nhiệm báo cáo tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức và người đứng đầu. Báo cáo tổng hợp ý kiến của các cơ quan nhà nước ở trung ương đóng tại địa phương, của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở địa phương bên cạnh việc gửi đến các cơ quan, tổ chức theo Nghị quyết của Quốc hội và Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được đồng thời gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để tập hợp và phản ánh đầy đủ ý kiến đóng góp của địa phương.
4- Về thời hạn gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến: Để bảo đảm tổng hợp kịp thời và đầy đủ ý kiến của nhân dân, thời hạn gửi báo cáo tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức quy định tại phần IV Kế hoạch số 216/KH-UBDTSĐHP ngày 28/12/2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được chia làm 2 đợt như sau:
- Chậm nhất đến ngày 15/3/2013, các cơ quan, tổ chức quy định tại mục 5, phần IV Kế hoạch phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp (đợt 1) và chậm nhất đến ngày 31/3/2013, phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp (đợt 2) đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để tổng hợp.
- Chậm nhất đến ngày 31/3/2013, các cơ quan, tổ chức quy định tại mục 6, phần IV Kế hoạch phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến (đợt 1) và chậm nhất đến ngày 05/4/2013 phải gửi Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp (đợt 2) đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
5- Lấy ý kiến nhân dân về Hiến pháp là một sự kiện trọng đại của quốc gia, đặc biệt là ở nước ta, nơi mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xuất phát từ nhân dân. Để Hiến pháp thực sự phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 mong rằng, mỗi người dân Việt Nam, bằng trí tuệ và tâm huyết của mình, tích cực hưởng ứng, tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nhân dân có thể gửi ý kiến đóng góp về Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, theo địa chỉ: số 37 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội. Bì thư ghi rõ: “Góp ý về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, không phải dán tem hoặc trả cước phí bưu điện.
Ngay sau Hội nghị này, đề nghị các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương căn cứ vào tình hình thực tế và nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, địa phương mình, khẩn trương tổ chức triển khai việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để đợt lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đạt mục đích, yêu cầu và tiến độ đề ra, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, thiết thực và tiết kiệm. Trong quá trình thực hiện có khó khăn, vướng mắc, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương báo cáo Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để kịp thời giải quyết, hướng dẫn.
Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 08/01/2013
Số hiệu:216/KH-UBDTSĐHP
Mô tả:
Căn cứ vào Nghị quyết số 38/2013/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây gọi chung là Dự thảo sửa đổi Hiến pháp), Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây gọi chung là Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp) ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
Kế_hoạch_tổ_chức_lấy_ý_kiến_nhân_dân_về_Dự_thảo_sửa_đổi_Hiến_pháp_năm_1992.pdf
Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 08/01/2013
Số hiệu:Số 22-CT/TW
Mô tả:
Để việc lấy ý kiến nhân dân bảo đảm chất lượng, hiệu quả, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân các cấp thực hiện tốt những nhiệm vụ...
Chi_thi_TW_ve_to_chuc_lay_y_kien_nhan_dan.pdf
Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 08/01/2013
Số hiệu:
Mô tả:
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã thảo luận, cho ý kiến bước đầu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/ 2012 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây gọi là Dự thảo).
Bao_cao_thuyet_minh_HP.pdf
Bảng so sánh giữa Hiến pháp năm 1992 với dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 08/01/2013
Số hiệu:
Mô tả:
Bảng so sánh giữa Hiến pháp năm 1992 với dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 - Tháng 12, 2012
Ban_so_sanh_HP_92_va_Du_thao.pdf
Nghị quyết tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 02/01/2013
Số hiệu:38/2012/QH13
Mô tả:
Nghị quyết của Quốc hội số 38/2012/QH13 tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thời gian lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2-1-2013 đến 31-3-2013.
38-NQ_lay_y_kien_ND_HP.doc
NGHỊ QUYẾT
TỔ CHỨC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN
VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ Nghị quyết số 06/2011/QH13 ngày 06 tháng 8 năm 2011 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992;
Sau khi xem xét Tờ trình số 195/TTr-UBDTSĐHP ngày 19 tháng 10 năm 2012 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố.
Điều 2. Mục đích của việc tổ chức lấy kiến nhân dân
1. Phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, tạo sự đồng thuận của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
2. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc sửa đổi Hiến pháp và thi hành Hiến pháp.
Điều 3. Yêu cầu của việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân
1. Tổ chức thảo luận, lấy ý kiến nhân dân với các hình thức thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân phải được tiến hành rộng rãi, dân chủ, khoa học, công khai; bảo đảm tiến độ, chất lượng, thiết thực và tiết kiệm.
2. Ý kiến đóng góp của nhân dân phải được tập hợp, tổng hợp đầy đủ, chính xác và nghiên cứu tiếp thu, giải trình nghiêm túc để hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
3. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thông tấn, báo chí trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến và phản ánh trung thực, kịp thời ý kiến của nhân dân; không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng chống phá, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
4. Bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp chính quyền, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Điều 4. Nội dung và hình thức lấy ý kiến nhân dân
1. Lấy ý kiến nhân dân về toàn bộ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, bao gồm: Lời nói đầu; chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường; bảo vệ Tổ quốc; bộ máy nhà nước; hiệu lực của Hiến pháp và quy trình sửa đổi Hiến pháp; kỹ thuật trình bày các quy định của Hiến pháp.
2. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến vào toàn bộ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tập trung đóng góp ý kiến sâu về những nội dung liên quan trực tiếp đến phạm vi lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức mình và những vấn đề mà cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm.
3. Các hình thức lấy ý kiến nhân dân bao gồm:
a) Góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản gửi đến các cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 6 của Nghị quyết này;
b) Thảo luận tại các hội nghị, hội thảo, tọa đàm;
c) Thông qua Trang thông tin điện tử của Quốc hội htttp://duthaoonline.quochoi.vn và các phương tiện thông tin đại chúng;
d) Các hình thức phù hợp khác.
Điều 5. Đối tượng lấy ý kiến
1. Các tầng lớp nhân dân.
2. Các cơ quan nhà nước, tổ chức ở trung ương: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Tòa án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm toán Nhà nước; các Ban của Đảng; Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước.
3. Các cơ quan nhà nước ở địa phương: Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác.
5. Các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu.
6. Các cơ quan thông tấn, báo chí.
Điều 6. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và người đứng đầu
1. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 căn cứ vào Nghị quyết này có trách nhiệm ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân; chủ trì tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân; tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhân dân, bảo đảm nội dung, tài liệu, tập huấn cán bộ; tổng hợp và trình Quốc hội Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân; nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến đóng góp của nhân dân để chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội xem xét, quyết định.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức thảo luận, lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến, xây dựng Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan của Ủy ban thường vụ Quốc hội gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
3. Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức thảo luận, lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến, xây dựng Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
4. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, các Ban của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức thảo luận, lấy ý kiến, xây dựng Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của ngành, cơ quan mình gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
5. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức họp chuyên đề thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ trì phối hợp với Uỷ ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp tổ chức thảo luận, lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến, xây dựng Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của địa phương mình gửi đến Chính phủ và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
6. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm vận động nhân dân tham gia góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phối hợp với cơ quan trung ương của các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ chức thảo luận, lấy ý kiến của các thành viên tổ chức mình, ý kiến của các tổ chức xã hội khác, ý kiến của các đại diện tiêu biểu trong giới nhân sĩ, trí thức, luật gia, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổng hợp ý kiến, xây dựng Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
7. Các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức thảo luận, lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến, xây dựng Báo cáo kết quả đóng góp ý kiến của tổ chức mình gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
8. Các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thu thập, nghiên cứu ý kiến đóng góp của cử tri để chuẩn bị cho việc thảo luận, thông qua Hiến pháp tại kỳ họp Quốc hội.
9. Các cơ quan thông tấn, báo chí có trách nhiệm tuyên truyền và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến; mở chuyên trang, chuyên mục về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và đưa tin, đăng tin đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan ý kiến đóng góp của nhân dân.
10. Các cơ quan, tổ chức khác và cá nhân gửi văn bản đóng góp ý kiến đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
11. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức quy định tại Điều này có trách nhiệm tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, thành viên tổ chức mình và các tầng lớp nhân dân tham gia ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Điều 7. Thời gian lấy ý kiến nhân dân
Thời gian lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 bắt đầu từ ngày 02 tháng 01 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2013.
Điều 8. Tổ chức thực hiện
1. Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các cơ quan, tổ chức căn cứ vào Nghị quyết này, Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và tình hình cụ thể của cơ quan, tổ chức, địa phương mình triển khai tổ chức việc lấy ý kiến nhằm bảo đảm yêu cầu và tiến độ.
2. Kinh phí phục vụ cho việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do ngân sách nhà nước bảo đảm.
3. Quốc hội kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hưởng ứng và tích cực tham gia đóng góp ý kiến để Hiến pháp thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2012.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Sinh Hùng
Bảng tham chiếu so sánh và giải trình các nội dung sửa đổi, bổ sung với Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 16/11/2012
Số hiệu:
Mô tả:
Bảng tham chiếu so sánh và giải trình các nội dung sửa đổi, bổ sung với Hiến pháp năm 1992
bang_so_sanh_tham_chieu_Hien_phap.doc
LỜI NÓI ĐẦU
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến đấu, với sự giúp đỡ quý báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước, kiên cường bảo vệ Tổ quốc đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế. Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. | Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Với khát vọng độc lập, tự do, bằng tinh thần tự lực, tự cường, cùng với sự giúp đỡ quý báu của bạn bè và nhân dân thế giới, nhân dân ta đã chiến thắng các cuộc chiến tranh xâm lược; thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và tiến hành công cuộc đổi mới, giành được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Mỗi bản hiến pháp đều ghi nhận những thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân ta đã đạt được, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định mạnh mẽ ý chí của nhân dân Việt Nam; chủ quyền nhân dân và chủ quyền quốc gia; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện công bằng xã hội; gìn giữ và phát huy văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc; phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Thực hiện Hiến pháp này, nhân dân Việt Nam nguyện phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, cùng nhau xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. | Kế thừa Lời nói đầu của 4 bản Hiến pháp nước ta, Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992, Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi lần này được xây dựng theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử của đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta, nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới, mục tiêu xây dựng đất nước của nhân dân ta và ý nguyện của nhân dân trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. |
CHƯƠNG I
CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Chương I NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ Chương XI QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC CA, THỦ ĐÔ, NGÀY QUỐC KHÁNH | Chương I CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ | Nội dung của Chương I thực chất là quy định những nguyên tắc chung nhất về chế độ chính trị của Nhà nước ta, bao gồm nguồn gốc của quyền lực nhà nước, chủ quyền quốc gia và chính thể, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các thành tố cấu thành hệ thống chính trị, nguyên tắc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì thế, tên gọi của Chương I được sửa thành “Chế độ chính trị”. |
Điều 1 Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. | Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 1) Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. | Dự thảo giữ các nội dung của Điều 1 Hiến pháp năm 1992, đồng thời bổ sung “dân chủ” để làm rõ hơn bản chất của Nhà nước ta, chế độ ta. |
Điều 2 Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. | Điều 2 (sửa đổi, bổ sung Điều 2) Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. | Về cơ bản giữ như Điều 2 hiện hành. Đồng thời, thay từ “tầng lớp trí thức” bằng từ “đội ngũ trí thức” và bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực để phù hợp với Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây gọi là Cương lĩnh), thể hiện rõ bản chất công – nông – trí của Nhà nước ta. Bên cạnh đó, một số ý kiến đề nghị sửa đề nghị sửa quy định này thành: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc…” để thể chế hóa quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc với vai trò là động lực của phát triển xã hội. |
Điều 3 Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. | Điều 3 (sửa đổi, bổ sung Điều 3) Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. | Dự thảo chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng” theo tinh thần Văn kiện Đại hội XI. Đồng thời, đưa nội dung “nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân” vào ở Điều 11 (mới) cho phù hợp. |
Điều 4 Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. | Điều 4 (sửa đổi, bổ sung Điều 4) Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. | Dự thảo cơ bản giữ các nội dung tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 và bổ sung một số nội dung theo Cương lĩnh như sau: Một là, thể hiện đầy đủ hơn bản chất của Đảng theo Cương lĩnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”; hai là, Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; ba là, không chỉ các tổ chức của Đảng, mà các đảng viên hoạt động phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. |
Điều 5 Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. | Điều 5 (sửa đổi, bổ sung Điều 5) 1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc; các dân tộc tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước. | Về cơ bản giữ các nội dung được quy định tại Điều 5 của Hiến pháp năm 1992, chuyển nội dung tại các Điều 36, 39 vào Điều 5 để phù hợp với tinh thần Cương lĩnh và bổ sung quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt”. |
Điều 6 Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. | Điều 6 (sửa đổi, bổ sung Điều 6) Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua các cơ quan đại biểu, các cơ quan khác của Nhà nước. | Điều 6 được sửa lại theo hướng nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng 2 hình thức là dân chủ trực tiếp và thông qua các cơ quan nhà nước để khắc phục nhược điểm của Điều 6 Hiến pháp năm 1992. Quy định về nguyên tắc tập trung dân chủ từ Điều 6 được chuyển sang Điều 8 như trong Dự thảo để bảo đảm tính logic. |
Điều 7 Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. | Điều 7 (giữ nguyên Điều 7) 1. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. 2. Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. | Giữ nguyên như Hiến pháp năm 1992 vì vẫn thể hiện được các nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử ở nước ta. |
Điều 8 Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Điều 12 Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. | Điều 8 (sửa đổi, bổ sung Điều 8) 1. Nhà nước tổ chức và hoạt động theo pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. 2. Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. 3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật. | Biên tập lại Điều 8 và Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 để thể hiện rõ hơn tính chất pháp quyền của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, đó là tổ chức và hoạt động theo pháp luật,quản lý xã hội theo pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, khẳng định nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ phục vụ nhân dân và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. |
Điều 9 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả. | Điều 9 (sửa đổi, bổ sung Điều 9) 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. 2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức. 3. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động có hiệu quả. | Cơ bản giữ quy định tại Điều 9 của Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung theo tinh thần Cương lĩnh. Theo đó, thay cụm từ “truyền thống đoàn kết toàn dân” bằng cụm từ “truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc”; thay cụm từ “cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân” bằng cụm từ “cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”; bổ sung cụm từ “và phản biện xã hội” vào chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. |
Điều 10 Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. | Điều 10 (sửa đổi, bổ sung Điều 10) Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. | Dự thảo Hiến pháp tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm của Công đoàn cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Đồng thời, có sự chỉnh lý quy định này cho phù hợp với yêu cầu mới. |
Điều 13 Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật. | Điều 11 (sửa đổi, bổ sung Điều 13) 1. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. 2. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân đều bị nghiêm trị theo pháp luật. | Giữ như quy định tại Điều 13 của Hiến pháp năm 1992, đồng thời thay từ “âm mưu” và từ “hành động” bằng từ “hành vi” cho phù hợp. |
Điều 14 Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. | Điều 12 (sửa đổi, bổ sung Điều 14) Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. | Dự thảo biên tập lại Điều 14 Hiến pháp năm 1992 để phù hợp với nội dung về chính sách đối ngoại được thể hiện trong Cương lĩnh. |
Điều 141 Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Điều 142 Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 143 Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài "Tiến quân ca". Điều 145 Ngày tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945 là ngày Quốc khánh. | Điều 13 (ghép và giữ nguyên các điều 141, 142, 143 và 145) 1. Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. 2. Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3. Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài “Tiến quân ca”. 4. Ngày Quốc khánh là ngày tuyên ngôn độc lập 02 tháng 9 năm 1945. | Dự thảo đưa các điều 141, 142, 143 và 145 của Chương XI vào một điều vì các nội dung này đều quy định về các biểu tượng quốc gia. |
Điều 144 Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội. | Điều 14 (giữ nguyên Điều 144) Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội. | Giữ nguyên như quy định của Hiến pháp hiện hành. |
CHƯƠNG II
QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
HIẾN PHÁP 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Chương V QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN | CHƯƠNG II QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN | Chương II được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) của Hiến pháp 1992, chuyển các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác về Chương này, làm rõ nội dung của quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung một số quyền mới là kết quả của quá trình đổi mới 25 năm qua ở nước ta, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà CHXHCN Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó sắp xếp lại các điều theo các nhóm quyền, nghĩa vụ để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân. |
Điều 50 Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật. | Điều 15 (sửa đổi, bổ sung Điều 50) Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. | Điều 15 cơ bản giữ nội dung của Điều 50 Hiến pháp 1992 như là một quy định mang tính nguyên tắc. Đồng thời, sửa đổi Điều 50 Hiến pháp 1992 để phân biệt quyền con người với quyền công dân. Điều 15 cũng nhấn mạnh vai trò của Hiến pháp trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. |
| Điều 16 (mới) 1. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 2. Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. | Điều 16 được bổ sung mới để khẳng định nguyên tắc quan trọng của quyền con người trong mối quan hệ với người khác và các quy định được thể hiện trong các Công ước quốc tế. |
Điều 52 Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. | Điều 17 (sửa đổi, bổ sung Điều 52) 1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vì bất kỳ lý do nào. 3. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn bằng luật trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng. | Điều 17 hiến định nguyên tắc cơ bản của quyền con người, làm rõ nội hàm của quyền bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, xác định rõ các trường hợp hạn chế quyền con người, quyền công dân nhằm ngăn ngừa việc hạn chế quyền con người, quyền công dân bằng văn bản dưới luật. Điều này được cụ thể hóa để phù hợp với Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (Điều 1,2), Công ước về các quyền dân sự, chính trị (Điều 1) mà Việt Nam là thành viên. |
Điều 49 Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. | Điều 18 (sửa đổi, bổ sung Điều 49) 1. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. 2. Việc công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch của nước khác không làm ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ của công dân xuất phát từ quốc tịch Việt Nam, nếu không có quy định khác của luật hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 3. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và giao nộp cho Nhà nước khác. 4. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài. | Điều 18 sửa đổi Điều 49 của Hiến pháp 1992, làm rõ hơn về chế độ quốc tịch Việt nam, tạo cơ sở hiến định để công dân Việt Nam có thể có quốc tịch khác ngoài quốc tịch Việt Nam phù hợp với thực tiễn hội nhập quốc tế. Đồng thời khẳng định trách nhiệm và cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ công dân Việt Nam trong các quan hệ quốc tế. |
Điều 75 Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. | Điều 19 (sửa đổi, bổ sung Điều 75) 1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. 2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. | Điều 19 về cơ bản giữ quy định về quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài quy định của Điều 75 Hiến pháp 1992. Nhấn mạnh và bổ sung người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam để khẳng định mối quan hệ máu thịt của cộng đồng Việt Nam bất luận là ở trong hay ở ngoài nước. Đồng thời, biên tập lại để đảm bảo tính logic, gắn bó với quy định về quốc tịch ở Điều 18. |
Điều 51 Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định. | Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 51) 1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. | Điều 20 kế thừa quy định của Điều 51 Hiến pháp 1992 và cơ cấu lại cho mạch lạc hơn, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và luật để phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. |
| Điều 21 (mới) 1. Mọi người đều có quyền sống. 2. Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với một số ít tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong luật. | Dự thảo bổ sung điều này cho phù hợp với quyền sống trong Công ước về các quyền dân sự, chính trị (Điều 3) mà Việt Nam là thành viên. Quyền sống cũng đã được ghi nhận trong nhiều bộ luật (BLHS, BLDS) của nước ta, vì vậy, cần nâng lên thành quyền hiến định sẽ góp phần bảo đảm thực thi và nâng cao uy tín của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Quyền sống đã được quy định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia (43% tổng số Hiến pháp các nước trên thế giới). |
Điều 71 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. | Điều 22 (sửa đổi, bổ sung Điều 71) 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. 2. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người. 3. Không ai phải chịu thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm khác nếu không được người đó đồng ý. | - Trên cơ sở của Điều 71 Hiến pháp 1992, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người được sửa lại và để phù hợp hơn với các quy định về quyền tự do và an ninh cá nhân trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (các điều 5-14). Chủ thể của quyền bất khả xâm phạm về thân thể là mọi người. - Quy định về cấm tra tấn, đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm vì quy định như Điều 71 Hiến pháp 1992 chưa đủ rõ, trong khi đây là một quy định được nhấn mạnh trong Công ước về các quyền dân sự, chính trị (Điều 7), đồng thời là một quy tắc quốc tế, ràng buộc mọi quốc gia. Quy định về vấn đề này đã được đề cập trong hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hiến pháp 1946 của nước ta (Điều 68). - Điều 22 cũng bổ sung nội dung không được tiến hành bất kỳ hình thức thử nghiệm trên người khác nếu không có sự đồng ý của người đó. |
Điều 73 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. | Điều 23 (sửa đổi, bổ sung Điều 73) 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật gia đình và bí mật cá nhân; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Không được phép thu thập, lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật gia đình và bí mật cá nhân của người khác nếu không được người đó đồng ý. 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của công dân do luật định. | Điều 23 quy định về quyền về đời sống riêng tư; sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Hiến pháp 1992 để tương thích hơn với Điều 17 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. Từ đó, đặt ra yêu cầu cần có điều riêng về quyền bất khả xâm phạm về đời tư và điều riêng về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Sửa đổi, bổ sung cũng nhằm phù hợp với sự phát triển của các hình thức lưu trữ, trao đổi thông tin (“các hình thức trao đổi thông tin” hàm ý cả thông tin qua Internet). Quyền này có thể bị hạn chế nhưng sự hạn chế phải do luật định. |
Điều 24 (sửa đổi, bổ sung Điều 73) 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. 2. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định. | Điều 24 tách một phần từ Điều 73 Hiến pháp 1992 thành một điều riêng quy định về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở theo yêu cầu của Điều 17 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. Điều này khẳng định rõ: Việc khám xét chỗ ở do luật quy định. |
Điều 68 Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. | Điều 25 (sửa đổi, bổ sung Điều 68) Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. | Điều 25 quy định về quyền tự do đi lại và cư trú; sửa đổi, bổ sung Điều 68 Hiến pháp 1992 cho phù hợp với quy định có liên quan trong luật nhân quyền quốc tế, đặc biệt là Điều 12 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966. Theo đó, quyền tự do đi lại và quyền tự do cư trú trên lãnh thố Việt Nam, ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước là quyền của mọi công dân Việt Nam theo quy định của pháp luật. |
Điều 70 Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. | Điều 26 (sửa đổi, bổ sung Điều 70) 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm Hiến pháp và pháp luật. | Điều 26 sửa đổi, bổ sung điều 70 của Hiến pháp 1992 để phù hợp với Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự, đồng thời cụ thể hóa một số khía cạnh chưa được nêu rõ trong Điều 70, tạo cơ sở bảo đảm thực hiện tốt hơn, đồng thời phòng ngừa những hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế. |
Điều 69 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. | Điều 27 (giữ nguyên Điều 69) Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. | Điều 27 giữ nguyên các quy định của Điều 69 Hiến pháp 1992 vì các quy định này còn phù hợp với thực tiễn. |
Điều 63 Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ. | Điều 28 (sửa đổi, bổ sung Điều 63) 1. Công dân nữ và nam bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. 2. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, phát huy vai trò của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới. | Điều 28 được viết lại cho ngắn gọn để khắc phục nhược điểm của Điều 63 Hiến pháp 1992 là quá cụ thể, tính khả thi thấp. Để phù hợp với thực tiễn, Điều 28 quy định một số nội dung khái quát hơn trên cơ sở quy định về bình đẳng giới và quy định trong Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) mà Việt Nam là thành viên (bao gồm: bình đẳng trong mọi lĩnh vực, mọi cấp độ, bình đẳng thực chất, với cả hai giới, những biện pháp ưu tiên đặc biệt tạm thời dành cho phụ nữ…) |
Điều 54 Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật. | Điều 29 (sửa đổi, bổ sung Điều 54) Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. | Điều 29 về cơ bản giữ nguyên nội dung quy định tại Điều 54 của Hiến pháp 1992, thể hiện một cách ngắn gọn, khái quát hơn về quyền bầu cử, ứng cử của công dân. |
Điều 53 Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. | Điều 30 (sửa đổi, bổ sung Điều 53) 1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. | Điều 30 sửa đổi Điều 53 Hiến pháp 1992 để quy định rõ hơn quyền dân chủ của công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Đồng thời, bổ sung quy định trách nhiệm của Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Tách nội dung về quyền biểu quyết của công dân thành Điều riêng để khẳng định vai trò quan trọng của trưng cầu dân ý. |
Điều 31 (sửa đổi, bổ sung Điều 53) Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. | Điều 31 sửa đổi Điều 53 của Hiến pháp 1992 để khái quát hơn. |
Điều 74 Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. | Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 74) 1. Mọi người có quyền khiếu nại quyết định và hành vi của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức. 2. Mọi người có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, tổ chức, cá nhân khác. 3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và danh dự theo quy định của pháp luật. 4. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. | Điều 32 về cơ bản giữ nguyên các nội dung quy định tại Điều 74 Hiến pháp 1992. Đồng thời, tách quyền khiếu nại và quyền tố cáo thành các quyền riêng, được quy định trong các khoản khác nhau để phù hợp với thực tiễn hiện nay. |
Điều 72 Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh. | Điều 33 (sửa đổi, bổ sung Điều 72) 1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 2. Người bị điều tra, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật. 3. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. 4. Người bị điều tra, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị buộc tội có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa. | Điều 33 sửa đổi, bổ sung Điều 72 của Hiến pháp 1992, quy định một số quyền trong lĩnh vực tư pháp; cơ bản giữ nội dung về quyền suy đoán vô tội như quy định tại Điều 72 của Hiến pháp 1992; đồng thời chuyển nội dung về quyền của người bị buộc tội được xét xử bởi Tòa án trong chương quy định về Tòa án lên Điều này cho phù hợp với tính chất của quyền con người. Bổ sung nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc pháp chế: Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Quy định về quyền được trợ giúp pháp lý: Khẳng định người bị điều tra, bị bắt, tạm giữ, tam giam, người bị buộc tội có quyền được sử dụng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa. |
Điều 58 Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. | Điều 34 (sửa đổi, bổ sung Điều 58) Mọi người có quyền sở hữu, quyền thừa kế đối với thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu, quyền thừa kế của cá nhân được pháp luật bảo hộ. | Điều 34 về cơ bản giữ nguyên các quy định của Điều 58 Hiến pháp 1992; thay cụm từ “công dân” bằng “mọi người” cho phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. |
Điều 57 Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. | Điều 35 (sửa đổi, bổ sung Điều 57) 1. Mọi người có quyền tự do kinh doanh. 2. Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh. | Điều 35 bổ sung Điều 57 của Hiến pháp 1992 một khoản quan trọng: Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh; thay thuật ngữ “công dân” bằng thuật ngữ “mọi người” vì chủ thể của quyền kinh doanh không chỉ giới hạn ở công dân. |
Điều 67 Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. | Điều 36 (sửa đổi, bổ sung Điều 67) 1. Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội. 2. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm giúp đỡ người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người nghèo. 3. Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ để bảo đảm đời sống cho người có công với nước và gia đình họ. | Điều 36 ghi nhận quyền hưởng an sinh xã hội của công dân để phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Khẳng định người già, người khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. Khẳng định những người có công với nước được hỗ trợ, được hưởng ưu đãi. Đây là những điều thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. |
Điều 62 Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật. | Điều 37 (sửa đổi, bổ sung Điều 62) 1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. 2. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để công dân có nơi ở. | Điều 37 sửa đổi, bổ sung Điều 62 của Hiến pháp 1992 để phù hợp với quyền có nơi ở quy định của luật nhân quyền quốc tế và phù hợp thực tiễn Việt Nam, quy định tương tự có trong Hiến pháp một số nước trên thế giới. Điều 37 khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để công dân có nơi ở. |
Điều 55 Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Điều 56 Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động. | Điều 38 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56) 1. Mọi người có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc. 2. Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật. | Điều 38 được xây dựng trên cơ sở kế thừa nội dung của điều 55, 56, khẳng định quyền làm việc của mọi người và nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử để phù hợp với các Công ước mà Việt Nam là thành viên. |
Điều 64 Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con. | Điều 39 (sửa đổi, bổ sung Điều 64) 1. Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. | Điều 39 quy định về quyền kết hôn, ly hôn và hôn nhân; sửa đổi, bổ sung Điều 64 của Hiến pháp 1992 để làm rõ hơn một số khía cạnh và để phù hợp hơn với quy định trong Điều 10 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. |
Điều 65 Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. | Điều 40 (sửa đổi, bổ sung Điều 65) 1. Trẻ em có quyền được gia đình, nhà trường, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. 2. Nhà nước có chính sách, pháp luật bảo đảm quyền trẻ em. 3. Nghiêm cấm hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em. | Điều 40 quy định về quyền trẻ em; sửa đổi, bổ sung Điều 65 của Hiến pháp 1992 để cụ thể hóa một số nội dung và để phù hợp với quy định trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên. Các sửa đổi, bổ sung cũng nhằm làm cho quy định này mang tính thực chất, pháp lý, khắc phục tính chất tuyên ngôn về chính sách chung chung. |
Điều 66 Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc. | (Bỏ Điều 66 Hiến pháp 1992) | Dự thảo bỏ điều này vì các quyền của thanh niên được quy định chung trong các quy định về quyền con người, quyền công dân. Nếu quy định riêng về thanh niên sẽ không phù hợp so với các nhóm đối tượng khác trong xã hội. |
Điều 39 Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số. Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân. Điều 61 Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí. Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng. Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm. | Điều 41 (sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 61) 1. Mọi người có quyền được bảo vệ sức khỏe; bình đẳng trong việc tiếp cận sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. 2. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa đến cuộc sống và sức khỏe của cộng đồng. | Điều 41 quy định về quyền được bảo vệ sức khỏe; sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 61 của Hiến pháp 1992 cho phù hợp hơn với quy định của Điều 12 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966. Điều 41 bỏ quy định mang tính chất liệt kê vì Hiến pháp chỉ quy định khái quát, quy định cấm chung, các quy định cụ thể để cho các Luật chuyên ngành quy định. |
Điều 59 Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp. | Điều 42 (sửa đổi, bổ sung Điều 59) 1. Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập, học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. 2. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Trẻ em khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học văn hoá và học nghề phù hợp. | Điều 42 quy định về quyền được học tập; sửa đổi, bổ sung Điều 59 của Hiến pháp 1992 cho phù hợp hơn với các Điều 13, 14 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966. Dự thảo thay quy định “Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” bằng “Nhà nước quy định phổ cập giáo dục” nhằm để mở khả năng Nhà nước có thể quy định các cấp học khác. |
Điều 60 Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. | Điều 43 (sửa đổi, bổ sung Điều 60) 1. Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học, công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật. 2. Quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước bảo hộ. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và được hưởng thụ lợi ích từ các hoạt động khoa học, công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật. | Điều 43 quy định về quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; sửa lại Điều 60 của Hiến pháp 1992 cho phù hợp hơn với quy định của Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966. Sửa cụm từ “Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp” thành cụm từ “Quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước bảo hộ” cho khái quát và đầy đủ. Bổ sung quy định “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho công dân tham gia và được hưởng thụ lợi ích từ các hoạt động khoa học, công nghệ, nghệ thuật”. |
| Điều 44 (mới) 1. Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa. 2. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người thực hiện các quyền về văn hóa. | Điều này khẳng định quyền văn hóa của con người như quy định trong Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966. |
| Điều 45 (mới) Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp. | Để phù hợp với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, xuất phát từ thực tế ở Việt Nam với 54 dân tộc khác nhau sinh sống, Dự thảo bổ sung một điều ghi nhận về quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ và tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, phù hợp với chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. |
Điều 29 Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường. | Điều 46 (mới) 1. Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và được thông tin về chất lượng môi trường sống. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của con người. 2. Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường, nghiêm cấm mọi hành vi hủy hoại môi trường. | - Ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường đe dọa đến quyền sống, quyền bảo vệ sức khỏe và quyền phát triển của con người, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của các quốc gia. Vì vậy, Dự thảo Hiến pháp đã bổ sung quy định về quyền sống trong môi trường trong lành để phù hợp với thực tiễn hiện nay với đòi hỏi ngày càng lớn hơn trong tương lai về vấn đề môi trường. - Quy định nghĩa vụ bảo vệ môi trường một cách khái quát hơn để bao quát được mọi hành vi bị cấm. Nghĩa vụ bảo vệ môi trường của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân tại Điều 29 Hiến pháp 1992 đã được chuyển sang Điều 69 cho phù hợp. |
Điều 79 Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. | Điều 47 (giữ nguyên Điều 79) Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. | Quy định tại Điều 79 của Hiến pháp năm 1992 là phù hợp, cho nên giữ nguyên. |
Điều 76 Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. | Điều 48 (sửa đổi, bổ sung Điều 76) Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. | Quy định tại Điều 76 của Hiến pháp năm 1992 là phù hợp, cho nên giữ nguyên. |
Điều 77 Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân. | Điều 49 (sửa đổi, bổ sung Điều 77) Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự hoặc nghĩa vụ thay thế theo luật định và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân. | Điều 49 được xây dựng trên cơ sở Điều 77 của Hiến pháp năm 1992 và bổ sung nghĩa vụ thay thế để làm rõ nghĩa vụ công dân cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. |
Điều 78 Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng. | Điều 50 (mới) 1. Công dân có nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 2. Mọi người có nghĩa vụ đối với cộng đồng, quan tâm đến lợi ích chung theo quy định của pháp luật. | Điều 50 quy định về nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ khối đại đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam cho phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; làm rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi người đối với cộng đồng. |
Điều 80 Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật. | Điều 51 (sửa đổi, bổ sung Điều 80) Công dân có nghĩa vụ nộp thuế. | Điều 51 giữ nguyên quy định về nghĩa vụ nộp thuế như Hiến pháp 1992 và bỏ quy định về lao động công ích như là nghĩa vụ của mọi công dân cho phù hợp với thực tiễn. |
Điều 81 Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. | Điều 52 (giữ nguyên Điều 81) Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. | Quy định như Điều 81 hiện hành là phù hợp, vì vậy giữ nguyên. |
Điều 82 Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú. | Điều 53 (giữ nguyên Điều 82) Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú. | Quy định như Điều 82 hiện hành là phù hợp, vì vậy giữ nguyên. |
CHƯƠNG III
KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Chương II CHẾ ĐỘ KINH TẾ Chương III VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ | CHƯƠNG III KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG | Chương II. Chế độ kinh tế và Chương III. Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ (gồm 29 điều) được gộp thành Chương III (mới): “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường” (gồm 17 điều, bỏ một số điều). Trong đó, có 1 điều mới, 16 điều sửa đổi, bổ sung. So với Hiến pháp 1992 đã có sự thu gọn một số điều khoản của Chương II (từ 15 Điều xuống còn 9 Điều) và Chương III (từ 14 Điều xuống còn 8 Điều). Quán triệt Nghị quyết TW2, Kết luận TW 5 và xuất phát từ yêu cầu của Cương lĩnh, các quy định của Hiến pháp cần thể chế hóa hiện mối quan hệ gắn kết chặt chẽ, mật thiết giữa các nội dung về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Vì kinh tế, văn hoá giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường là những vấn đề động. Do vậy, Hiến pháp không quy định những chính sách cụ thể mà tập trung vào chính sách lớn, bảo đảm cho sự ổn định và tầm vĩ mô của Hiến pháp. |
Điều 15 Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Điều 43 Nhà nước mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực văn hoá, thông tin, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao. | Điều 54 (sửa đổi, bổ sung Điều 15, Điều 43) Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. | Điều 54 được xây dựng trên cơ sở Điều 15 và Điều 43 của Hiến pháp năm 1992 theo hướng khái quát hơn nhằm khẳng định đường lối phát triển kinh tế gắn bó chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, phát triển kinh tế nhưng vẫn đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Các nội dung cụ thể hơn của Điều 15 về thành phần kinh tế được nghiên cứu, tiếp thu những điểm phù hợp vào Điều 55 cho phù hợp logic. |
Điều 15 Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Điều 16 Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều 19 Kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Điều 20 Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Điều 21 Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển. | Điều 55 (sửa đổi, bổ sung các điều 15, 16, 19, 20, 21 và 25) 1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Mục đích phát triển kinh tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. 2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác được củng cố và phát triển. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. | Điều 55 được xây dựng trên cơ sở lồng ghép nội dung của các điều 15, 16, 19, 20, 21 của Hiến pháp 1992, thể chế hóa quan điểm của Cương lĩnh về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khoản 1 Điều 55 xác định rõ tính chất của nền kinh tế, mục tiêu phát triển nền kinh tế theo đúng quan điểm, đường lối thể hiện trong Cương lĩnh, Kết luận TW 5. Các văn kiện này xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, bảo đảm công bằng, an sinh xã hội, vì lợi ích của nhân dân. Khoản 2 Điều 55 thống nhất quy định về các thành phần kinh tế, quy định cụ thể về kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân theo tinh thần của Cương lĩnh và Kết luận TW5. |
Điều 24 Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước. Điều 26 Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước. | Điều 56 (sửa đổi, bổ sung Điều 24, Điều 26) 1. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân. 2. Nhà nước thống nhất quản lý, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức hợp tác kinh tế với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và cùng có lợi, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. | Điều 56 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 24 và Điều 26 của Hiến pháp năm 1992. Nhằm mục đích thể chế hóa Cương lĩnh, Kết luận TW 5 về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, bảo đảm công bằng, an sinh xã hội, vì lợi ích của nhân dân. Khoản 1 Điều 56 hiến định vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc quản lý, điều hành nền kinh tế quốc dân theo hướng tôn trọng quy luật thị trường, kết hợp với việc giữ vững định hướng XHCN, thực hiện sự phân cấp, phân quyền giữa TW và địa phương, đồng thời tạo cơ chế liên kết kinh tế thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Khoản 2 Điều 56 về cơ bản giữ nguyên các nội dung lớn quy định tại Điều 24 của Hiến pháp 1992, chỉ thay đổi một số từ ngữ cho logic và phù hợp hơn. |
Điều 22 Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Điều 23 Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định. Điều 25 Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. | Điều 57 (sửa đổi, bổ sung các điều 22, 23 và 25) 1. Tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ khác đối với Nhà nước do luật định. 2. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. 3. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định. | Điều 57 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các điều 22, 23, 25 của Hiến pháp 1992 Điều 60 về cơ bản kế thừa các nội dung quy định các điều 22, 23, 25 của Hiến pháp 1992 về quyền tự do kinh doanh của tổ chức, cá nhân; bổ sung nội dung khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức. |
Điều 17 Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân. Điều 18 Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật. | Điều 58 (sửa đổi, bổ sung Điều 17, Điều 18) Đất đai, nguồn nước, khoáng sản, vùng trời, vùng biển và tài nguyên thiên nhiên khác, các công trình và các tài sản Nhà nước đầu tư, quản lý đều thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật. | Điều 58 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 17 và Điều 18 của Hiến pháp 1992. Theo đó: - Khoản 1 Điều 58 về cơ bản giữ nguyên quy định về sở hữu toàn dân tại Điều 17 Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 61 quy định khái quát, không liệt kê quá nhiều các loại tài nguyên mà chỉ quy định “đất đai, nguồn nước, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên”, trong đó bao gồm rừng tự nhiên và các nguồn lợi thiên nhiên khác để tránh trùng lắp. - Khoản 2 Điều 58 thể chế hóa Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Kết luận TW 5. Tiếp tục khẳng định khẳng định vai trò, chức năng của Nhà nước trong việc đại diện chủ sở hữu toàn dân và thống nhất quản lý đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. |
Điều 18 Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật. | Điều 59 (sửa đổi, bổ sung Điều 18) 1. Đất đai là tài nguyên quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được thống nhất quản lý theo pháp luật và quy hoạch. 2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc được giao đất, cho thuê đất có thời hạn có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích; được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các nghĩa vụ liên quan theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được Nhà nước bảo hộ. 3. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có đền bù theo quy định của pháp luật. | Điều 59 sửa đổi, bổ sung Điều 18 của Hiến pháp 1992. Theo đó: - Khoản 1 Điều 62 thể chế hóa Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Kết luận TW 5; hiến định hai tính chất quan trọng của đất đâi, đó là: đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá và đất đai là là tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân. - Khoản 2 Điều 59 khẳng định chủ trương nhất quán của Nhà nước về giao đất, cho thuê đất, đa dạng hóa các hình thức giao đất và cho thuê đất nhằm góp phần tạo sự yên tâm cho người được giao đất yên tâm sử dụng và tạo căn cứ cho Luật đất đai quy định linh hoạt đối với từng loại đất; đồng thời, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng đất. |
| Điều 60 (mới) 1. Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác phải được Nhà nước thống nhất quản lý, sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật, phù hợp với chính sách tài chính tiền tệ quốc gia từng thời kỳ. 2. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Các khoản thu và các khoản chi ngân sách nhà nước được phân chia và dự toán giữa trung ương và địa phương theo quy định của luật. | Đây là Điều mới quy định về chính sách tài chính công. Bởi lẽ: - Tài chính công có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Do đó, cần xác định rõ cơ cấu, nguyên tắc xác lập, quản lý, sử dụng để đảm bảo an toàn của sức mạnh kinh tế Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí. - Hiến pháp 1992 không có điều riêng quy định về vấn đề này. - Hiến pháp nhiều nước có chương, mục hoặc một số điều quy định về tài chính công. Do đó, Dự thảo Hiến pháp bổ sung điều về tài chính công như trong dự thảo. |
Điều 27 Mọi hoạt động kinh tế, xã hội và quản lý Nhà nước phải thực hành chính sách tiết kiệm. | Điều 61 (sửa đổi, bổ sung Điều 27) Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí, tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước. | Điều 61 của Dự thảo bổ sung Điều 27 của Hiến pháp 1992 về việc chống lãng phí và chống tham nhũng. Đây là vấn đề bức xúc trong thực tiễn nhưng chưa được quy định trong Hiến pháp 1992, do vậy cần được bổ sung để thể hiện quyết tâm và nâng cao trách nhiệm phòng chống tham nhũng, lãng phí của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân. |
Điều 55 Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Điều 56 Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động. | Điều 62 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56) 1. Tổ chức, cá nhân được khuyến khích, tạo điều kiện để tạo ra nhiều việc làm, có thu nhập thỏa đáng cho người lao động. 2. Nhà nước ban hành chính sách, chế độ, tiêu chuẩn lao động, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định. | Điều 61 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 55 và Điều 56 của Hiến pháp 1992. Theo đó, quy định về “quyền lao động” quyền làm việc” và chuyển lên Điều 38 Chương II. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. - Khoản 1 Điều 61 khẳng định tạo việc làm là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không của riêng Nhà nước. Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước đúng vai trò là người định hướng chính sách. Nhà nước có các cơ chế, quy định, điều kiện để khuyến khích các thành phần xã hội tạo ra việc làm cho người lao động. Do đó, quy định tổ chức, cá nhân được khuyến khích, tạo điều kiện để tạo ra nhiều việc làm bền vững, có thu nhập thỏa đáng cho người lao động là phù hợp. - Khoản 2 Điều 61 xác định rõ vai trò của Nhà nước trong việc điều chỉnh quan hệ lao động thể chế hóa quan điểm “tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn”, “hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để tăng cường sự gắn bó giữa người sử dụng lao động và người lao động” trong Cương lĩnh của Đảng. |
Điều 39 Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số. Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân. Điều 40 Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em; thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình. | Điều 63 (sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 40) 1. Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân; huy động các nguồn lực để xây dựng nền y tế công bằng, hiệu quả và phát triển, trong đó y tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; phát triển nền y học Việt Nam theo hướng kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền, phòng bệnh và chữa bệnh; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân và tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe. 2. Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, bảo đảm quy mô, cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số. 3. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi, hải đảo, dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác. | Điều 63 gộp quy định tại Điều 39 và Điều 40 của Hiến pháp 1992 thành 3 khoản riêng biệt. Cương lĩnh nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và bảo đảm quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số là những mục tiêu phát triển quan trọng về chính sách xã hội của Nhà nước ta. Để thể chế hóa Cương lĩnh, phải xây dựng một điều mới về định hướng chính sách y tế - dân số thay thế cho các quy định tại Điều 39 và Điều 40 Hiến pháp hiện hành. Theo đó: Khoản 1 Điều 66 xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc đầu tư, phát triển và quản lý công tác chăm sóc sức khỏe; Khoản 2 xác định nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe những đối tượng có công với nước, đối tượng yếu thế và chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Khoản 3 giữ nguyên quy định hiện hành về việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi, hải đảo. |
Điều 67 Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. | Điều 64 (sửa đổi, bổ sung Điều 67) 1. Nhà nước phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ, công bằng, bền vững, trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. 2. Nhà nước và xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện các chính sách ưu đãi đối với người có công với nước. | Điều 64 sửa đổi, bổ sung Điều 67 của Hiến pháp 1992. Theo đó: - Khoản 1 Điều 64 quy định về chính sách xã hội, trong đó lấy an sinh xã hội là trụ cột. Quy định này nhằm: + Thể hiện tập trung định hướng chính sách xã hội của Nhà nước ta theo tinh thần Cương lĩnh và Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020; + Tạo cơ sở để thực hiện quyền được bảo đảm an sinh xã hội của công dân theo quy định tại Điều 36 của Hiến pháp. - Khoản 2 Điều 63 về cơ bản giữ nguyên như quy định hiện hành, tiếp tục khẳng định chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với người có công với nước. Tuy nhiên, viết cô đọng hơn các đối tượng hưởng chế độ ưu đãi mà không liệt kê chi tiết để đảm bảo tính khái quát, đẩy đủ. |
Điều 30 Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục. Điều 31 Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc trên thế giới. Điều 32 Văn học, nghệ thuật góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam. Nhà nước đầu tư phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật, tạo điều kiện để nhân dân được thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật. Nhà nước phát triển các hình thức đa dạng của hoạt động văn học, nghệ thuật, khuyến khích các hoạt động văn học, nghệ thuật quần chúng. Điều 33 Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam. Điều 34 Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hoá dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hoá, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh. Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh. | Điều 65 (sửa đổi, bổ sung các điều 30, 31, 32, 33 và 34) 1. Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực phát triển đất nước. Nhà nước và xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, nhân văn, dân chủ, tiến bộ, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. 2. Phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân, góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam. 3. Các phương tiện thông tin đại chúng được phát triển đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. 4. Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, là tế bào lành mạnh của xã hội. 5. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, có văn hóa, có tinh thần quốc tế chân chính. 6. Nghiêm cấm hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam; truyền bá tư tưởng, xuất bản phẩm và các hình thức khác có nội dung phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín dị đoan. | Điều 65 được xây dựng trên cơ sở gộp các điều 30, 31, 32, 33, 34 của Hiến pháp 1992 theo nguyên tắc giữ nguyên những nội dung lớn, chỉnh sửa một số nội dung cho phù hợp với quan điểm mới của Đảng và chỉnh sửa mang tính chất kỹ thuật lập hiến. - Chương III Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), có 8 điều quy định về nền văn hóa, giáo dục công dân (trong đó có xây dựng gia đình có văn hóa); văn học, nghệ thuật, thông tin, báo chí, xuất bản, điện ảnh, thư viện; thể dục, thể thao và du lịch; trong đó, một số nội dung quy định quá cụ thể, trùng lắp, thiếu tính khái quát. - Các nội dung lớn cần được đề cập trong Hiến pháp về vấn đề văn hóa theo nghĩa rộng gồm có: (1) Đặc trưng, tính chất cơ bản của văn hóa cũng chính là mục tiêu xây dựng văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (2) Văn hóa với nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam; (3) Phát triển các lĩnh vực: văn học, nghệ thuật, các phương tiện truyền thông đại chúng, xây dựng gia đình Việt Nam. Xuyên suốt trong các nội dung này, cần nêu cao vai trò và trách nhiệm của nhà nước và xã hội đối với văn hóa. - Không quy định các nội dung cụ thể của các điều 30, 31, 32, 33, 34 của Hiến pháp năm 1992 mà để do các luật chuyên ngành điều chỉnh. |
Điều 35 Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 37 Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học, nghiên cứu, tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. | Điều 66 (sửa đổi, bổ sung Điều 35, Điều 37) Phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. | Điều 66 gộp quy định tại Điều 35 và Điều 37 thành 1 nội dung khẳng định ưu tiên phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ còn các nội dung cụ thể về phát triển giáo dục và khoa học công nghệ được quy định tại 2 Điều riêng biệt là Điều 67 và Điều 68. Quy định như Dự thảo đảm bảo tính thống nhất và chặt chẽ, không lặp lại “quốc sách hàng đầu” trong nhiều Điều khác nhau. |
Điều 35 Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 36 Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học; thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác. Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn. Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. | Điều 67 (sửa đổi, bổ sung Điều 35, Điều 36) 1. Phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đào tạo người lao động có nghề, năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. 2. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân, ưu tiên đầu tư và khuyến khích các nguồn đầu tư không vì lợi nhuận, tạo điều kiện thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; quy định phổ cập giáo dục; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý; ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn khác. Nghiêm cấm hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi. | Điều 67 sửa đổi, bổ sung Điều 35 và Điều 36 của Hiến pháp 1992. Theo đó: Khoản 1 Điều 67 khẳng định mục tiêu của giáo dục; Khoản 2 Điều 67 quy định về quan lý hệ thống giáo dục quốc dân. Việc quy định chi tiết các nội dung như trong Hiến pháp 1992 vừa không phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn khi xây dựng luật chuyên ngành. Theo Luật giáo dục đại học vừa được Quốc hội thông qua, khái niệm giáo dục đại học bao gồm đào tạo từ cao đẳng, đại học đến thạc sĩ, tiến sĩ và như vậy đã bao hàm cả sau đại học. Vấn đề phổ cập giáo dục cũng đã không ít lần thay đổi, từ phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay là trung học cơ sở và có thể sẽ còn thay đổi theo yêu cầu của sự phát triển. Để phù hợp với quan điểm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đã được khẳng định trong Cương lĩnh, Điều 67 quy định về giáo dục một cách khái quát, tạo điều kiện cho những thay đổi mang tính đột phá trên cơ sở kế thừa các quy định hiện hành và có sửa đổi, bổ sung mới; trong đó: khẳng định Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục nhằm thể hiện bản chất, trách nhiệm của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; đồng thời khẳng định chủ trương Nhà nước khuyến khích các nguồn đầu tư không vì lợi nhuận cho giáo dục bằng các chính sách cụ thể, còn các nguồn đầu tư vì mục đích lợi nhuận cho giáo dục không thuộc phạm vi chính sách khuyến khích của Nhà nước. |
Điều 37 Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học, nghiên cứu, tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Điều 38 Nhà nước đầu tư và khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên cho những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công nhân lành nghề và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến; phát triển nhiều hình thức tổ chức, hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh. | Điều 68 (sửa đổi, bổ sung Điều 37, Điều 38) 1. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt, là lực lượng vật chất thúc đẩy phát triển đất nước. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm nâng cao trình độ quản lý, tốc độ phát triển kinh tế, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; phát triển văn hóa, kinh tế tri thức, thúc đẩy tiến bộ xã hội; bảo vệ môi trường và sức khỏe của nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh. 2. Nhà nước thúc đẩy phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học, công nghệ; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ; bảo đảm quyền tự do nghiên cứu và sáng tạo khoa học, công nghệ. | Điều 68 xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 37 và Điều 38 của Hiến pháp 1992 và thể chế hóa các quan điểm của Đảng về khoa học và công nghệ, khẳng định vai trò của khoa học công nghệ trong nền kinh tế trí thức được xác định trong Cương lĩnh nhấn mạnh hai nội dung sau: + Nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. + Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ. Điều 68 tiếp tục khẳng định tư tưởng phát triển giáo dục cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu tại Điều 69; khẳng định quan điểm tự do sáng tạo trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, khẳng định Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. |
Điều 41 Nhà nước và xã hội phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao; quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học; khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao. Điều 42 Nhà nước và xã hội phát triển du lịch, mở rộng hoạt động du lịch trong nước và du lịch quốc tế. | Bỏ Điều 41 và Điều 42 của Hiến pháp năm 1992 | Bỏ vì nội dung quy định quá cụ thể, nên để các luật chuyên ngành quy định. |
Điều 29 Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường. | Điều 69 (mới) 1. Bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm phát triển bền vững là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân. 2. Nhà nước hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn đa dạng sinh học; phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Mọi hoạt động bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân được Nhà nước khuyến khích. 3. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại. | Điều 69 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 29 của Hiến pháp 1992 nhằm quán triệt Cương lĩnh quy định rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ môi trường để phát triển bền vững. |
CHƯƠNG IV
BẢO VỆ TỔ QUỐC
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
CHƯƠNG IV BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA | CHƯƠNG IV BẢO VỆ TỔ QUỐC | |
Điều 44 Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định. | Điều 70 (sửa đổi, bổ sung Điều 44) Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định. | Điều 70 cơ bản giữ nguyên Điều 44 Hiến pháp 1992, bổ sung quy định “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới” để nâng cao vai trò của Việt Nam trên thế giới và tạo cơ sở hiến định để thực hiện các cam kết và trách nhiệm quốc tế của Việt Nam trong trường hợp cần thiết. Đồng thời, Điều 70 và chỉnh sửa một số nội dung mang tính kỹ thuật như sau: Cụm từ “cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân” cần được sửa thành“cơ quan, tổ chức và công dân”, thay từ “làm” bằng cụm từ “thực hiện”. |
Điều 45 Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. | Điều 71 (sửa đổi, bổ sung Điều 45) Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. | Điều 71 bổ sung nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước (đã được Cương lĩnh xác định); bổ sung quy định nhiệm vụ “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” cho phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập quốc tế. Đồng thời, Điều 71 sửa đổi, bổ sung Điều 45 Hiến pháp 1992 một số nội dung về kỹ thuật như sau: - Bỏ từ “các” trước cụm từ “lực lượng vũ trang nhân dân” vì khi nói đến lực lượng vũ trang nhân dân là nói đến Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ. Bỏ cụm từ “Bảo vệ thành quả cách mạng” vì cụm từ này và đã được thể hiện qua các khách thể khác. |
Điều 46 Nhà nước xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. | Điều 72 (sửa đổi, bổ sung Điều 46) Quân đội nhân dân cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. | Điều 75 sửa đổi, bổ sung Điều 46 Hiến pháp 1992 như sau: Viết gọn lại theo tình thần Cương lĩnh và bảo đảm tính khái quát cao. |
Điều 47 Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm. | Điều 73 (sửa đổi, bổ sung Điều 47) Công an nhân dân cách mạng được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. | Điều 76 sửa đổi, bổ sung Điều 47 Hiến pháp 1992 như sau: Viết gọn lại theo tình thần Cương lĩnh và bảo đảm tính khái quát cao. |
Điều 48 Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. | Điều 74 (giữ nguyên Điều 48) Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội; xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sỹ, công nhân, nhân viên quốc phòng; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. | Nội dung Điều này về cơ bản giữ như Điều 48 Hiến pháp hiện hành, đồng thời chỉnh sửa một số nội dung mang tính kỹ thuật từ ngữ để bảo đảm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước hiện nay. Theo đó, bổ sung “thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc” cho phù hợp với quy định về nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; chỉnh sửa nội dung “bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng” thành “bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho lực lượng vũ trang nhân dân”. |
CHƯƠNG V
QUỐC HỘI
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Điều 83 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. | Điều 75 (sửa đổi, bổ sung Điều 83) Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. | Điều 75 dự thảo Hiến pháp quy định về vị trí, chức năng của Quốc hội trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau đây: - Khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp để thể chế hóa nội dung Cương lĩnh về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; - Quy định khái quát những nguyên tắc chung về chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát của Quốc hội để tránh trùng lặp với các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Quốc hội tại Điều 76 dự thảo Hiến pháp. |
Điều 84 Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; 2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 3- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; 4- Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; 5- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; 6- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương; 7- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; 8- Quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; 9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; 10- Quyết định đại xá; 11- Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 12- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; 13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước; 14- Quyết định việc trưng cầu ý dân. | Điều 76 (sửa đổi, bổ sung Điều 84) Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; 2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước; 3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; 4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước; 5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; 6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và chính quyền địa phương; 7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; 8. Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; 9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật. 10. Bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; 11. Quyết định đại xá; 12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 13. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh và phê chuẩn việc ký kết hiệp ước hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; 14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế về chiến tranh và hòa bình, các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực, thương mại quốc tế và các nội dung được quy định trong luật. 15. Quyết định việc trưng cầu ý dân. | Điều 76 của dự thảo Hiến pháp quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội theo hướng: - Kế thừa những quy định còn phù hợp của Điều 84 Hiến pháp năm 1992; - Về mặt kỹ thuật, để bảo đảm tương ứng với các chức năng cơ bản của Quốc hội quy định tại Điều 75 dự thảo Hiến pháp, Điều 76 được bố cục lại theo hướng gom các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội theo các nhóm nội dung về lập hiến, lập pháp; giám sát tối cao; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; quyết định về tổ chức bộ máy, nhân sự; các thẩm quyền khác liên quan đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại để bảo đảm tính lô gic và hợp lý. - Sửa đổi, bổ sung một số quy định để các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội thực chất và khả thi hơn, cụ thể là: + Về thẩm quyền quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: dự thảo Hiến pháp sửa đổi quy định về thẩm quyền này của Quốc hội thành “quyết định mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (khoản 3 Điều 76). Việc sửa đổi, bổ sung thẩm quyền này nhằm xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong việc phát triển kinh tế - xã hội, theo đó Quốc hội quyết định các mục tiêu định hướng chung của quá trình phát triển của đất nước, làm cơ sở cho hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ. + Trong hoạt động phê chuẩn điều ước quốc tế: dự thảo Hiến pháp quy định các điều ước quốc tế có liên quan đến thẩm quyền lập pháp của Quốc hội, về chiến tranh và hòa bình, về chủ quyền quốc gia, về quyền và nghĩa vụ của công dân, về tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực, về thương mại quốc tế, về việc làm phát sinh các nghĩa vụ tài chính quan trọng của Nhà nước đều phải được Quốc hội phê chuẩn. Điều này xuất phát từ lý do là việc phê chuẩn điều ước quốc tế có liên quan chặt chẽ đến thẩm quyền lập pháp của Quốc hội, nên cần phải được xác định cụ thể trong Hiến pháp. + Bổ sung quy định về hoạt động giám sát, quyết định nhân sự, tổ chức bộ máy đối với một số thiết chế hiến định độc lập (nếu được thành lập) của Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước. |
Điều 85 Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm. Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình. | Điều 77 (sửa đổi, bổ sung Điều 85) 1. Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là năm năm. 2. Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Quốc hội khoá mới phải được bầu xong. 3. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá 12 tháng, trừ trường hợp chiến tranh. | Điều 77 dự thảo Hiến pháp quy định về nhiệm kỳ Quốc hội. Điều này cơ bản kế thừa các nội dung của Điều 85 Hiến pháp năm 1992, có một số vấn đề cụ thể được sửa đổi, bổ sung như sau: - Sửa cụm từ “hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ” thành “sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ” cho chính xác; - Đoạn cuối của Điều 85 Hiến pháp năm 1992 về việc rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, bổ sung chủ thể đề nghị là Ủy ban thường vụ Quốc hội. - Đối với trường hợp kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, Dự thảo Hiến pháp đã bổ sung quy định việc kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội không được quá 12 tháng, trừ trường hợp chiến tranh nhằm bảo đảm tính chặt chẽ của quy phạm Hiến pháp. - Về kỹ thuật, bố cục lại Điều này thành ba khoản cho rành mạch. |
Điều 92 Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch. | Điều 78 (sửa đổi, bổ sung Điều 92) Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch. | Điều 78 dự thảo Hiến pháp cơ bản kế thừa các nội dung của Điều 92 Hiến pháp năm 1992, chỉ bổ sung quy định Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực Hiến pháp. |
Điều 90 Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có: - Chủ tịch Quốc hội; - Các Phó Chủ tịch Quốc hội; - Các Ủy viên. Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới. | Điều 79 (sửa đổi, bổ sung Điều 90) 1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. 2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên. 3. Số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. 4. Uỷ ban thường vụ Quốc hội của mỗi khoá Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới. | - Điều này cơ bản giữ các nội dung của Điều 90 Hiến pháp năm 1992, chỉ bố cục lại thành 4 khoản cho rành mạch. |
Điều 91 Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; 2- Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội; 3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 4- Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; 5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân; 7- Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội; 8- Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội; 9- Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 10- Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; 11- Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. | Điều 80 (sửa đổi, bổ sung Điều 91) Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội; 2. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 3. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước; 4. Đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 5. Hướng dẫn và giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân; 6. Lãnh đạo công tác của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội; 7. Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội; 8. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 9. Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 10. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; 11. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. | Điều 80 dự thảo Hiến pháp quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 91 Hiến pháp năm 1992, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau đây: - Chuyển thẩm quyền Công bố, chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội cho Hội đồng bầu cử Quốc gia. Cơ quan này sẽ đảm nhận một số trách nhiệm về công tác tổ chức bầu cử, trong đó có bầu cử đại biểu Quốc hội. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ quan này cũng như các thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với công tác bầu cử sẽ do luật định. - Bổ sung thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chính phủ có quyền điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh. Dự thảo quy định việc điều chỉnh địa giới hành chính lãnh thổ dưới cấp tỉnh phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội quyết định (khoản 9 Điều 80). Bởi đây là vấn đề lãnh thổ, là vấn đề quan trọng cần phải do cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân xem xét, quyết định. Trong điều kiện Quốc hội chưa hoạt động thường xuyên thì việc này giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định là phù hợp. |
Điều 94 Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc. Hội đồng dân tộc còn có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Uỷ ban của Quốc hội quy định tại Điều 95. Hội đồng dân tộc có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách. | Điều 81 (sửa đổi, bổ sung Điều 94) 1. Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch Hội đồng dân tộc do Quốc hội bầu; các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng dân tộc do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. 2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. 3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc. 4. Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Uỷ ban của Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 82. | - Điểm mới cơ bản của Điều 81 dự thảo Hiến pháp so với Điều 94 Hiến pháp năm 1992 là thẩm quyền bầu các thành viên Hội đồng dân tộc của Quốc hội được sửa lại theo hướng: “... các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn”. Việc sửa đổi này xuất phát từ các lý do sau đây: + Thực tế, việc Quốc hội bầu tất cả các chức danh như quy định hiện nay là quá nặng. Do đó, lần này có sự phân cấp; bảo đảm tính linh hoạt trong công tác điều động, bố trí, luân chuyển cán bộ; + Bảo đảm quyền được tham gia Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội của các đại biểu Quốc hội. - Về kỹ thuật, Điều này được bố cục lại thành bốn khoản cho rành mạch. - Trình tự, thủ tục phê chuẩn Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban, Ủy viên Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội do luật định. |
Điều 95 Quốc hội bầu các Uỷ ban của Quốc hội. Các Uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vị hoạt động của Uỷ ban. Mỗi Uỷ ban có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách. | Điều 82 (sửa đổi, bổ sung Điều 95) 1. Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên. Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu; các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. 2. Ủy ban của Quốc hội thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật và dự án khác, báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban. 3. Số lượng các Ủy ban do Quốc hội quyết định. | Điều 82 dự thảo Hiến pháp quy định về Ủy ban của Quốc hội. Điều này cơ bản kế thừa các nội dung của Điều 94 Hiến pháp năm 1992, có sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau đây: - Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền bầu, phê chuẩn Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội theo hướng: “... các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn” với lý do tương tự như đã nêu tại Điều 81. - Bổ sung nội dung: “Số lượng Ủy ban do Quốc hội quyết định” để bảo đảm cơ sở hiến định cho việc cụ thể hóa các nội dung này ở Luật tổ chức Quốc hội. - Không quy định nội dung “Mỗi Uỷ ban có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.” mà để quy định trong Luật tổ chức Quốc hội để bảo đảm tính linh hoạt trong hoạt động của các Ủy ban theo hướng tăng dần số đại biểu hoạt động chuyên trách hoặc tiến tới có những Ủy ban bao gồm toàn bộ các đại biểu chuyên trách. - Về kỹ thuật, bố cục lại Điều này thành ba khoản cho rành mạch. |
Điều 96 Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức Nhà nước hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. | Điều 83 (sửa đổi, bổ sung Điều 96) Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức và tổ chức, cá nhân khác cung cấp thông tin hoặc giải trình. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời kiến nghị của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, báo cáo hoặc giải trình về các vấn đề mà Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội yêu cầu. | Trên cơ sở kế thừa các quy định của Điều 96 Hiến pháp năm 1992, Điều 83 dự thảo Hiến pháp quy định rõ hơn về quyền yêu cầu cung cấp thông tin hoặc giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Nội dung mới này xuất phát từ các lý do sau đây: - Tiếp tục thể chế hóa yêu cầu của Đảng về “cải tiến, nâng cao hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội”; - Bảo đảm quyền được thông tin đầy đủ của đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội làm cơ sở cho việc thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của mình; - Hiến định hoạt động giải trình hiện đang được các cơ quan của Quốc hội thực hiện khá hiệu quả; tăng cường tính hiệu quả và hiệu lực của hoạt động giám sát. |
| Điều 84 (mới) Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. | Đây là một điều mới được bổ sung, nhằm hiến định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. Việc bổ sung Điều này xuất phát từ các lý do sau đây: - Bảo đảm quyền chủ động của Quốc hội trong việc thiết lập các tổ chức bộ máy nhằm phục vụ việc cung cấp thông tin độc lập, khách quan cho Quốc hội; - Tạo ra phương thức hoạt động linh hoạt cho Quốc hội để thích ứng với các yêu cầu, nhiệm vụ trong các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước; - Hiện tại ở nước ta, hình thức này đã được quy định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (ủy ban điều tra) và Luật tổ chức Quốc hội. Do đây là một hình thức hoạt động cơ bản của Quốc hội nên cần phải được quy định vào Hiến pháp để có cơ sở triển khai thực hiện. Hơn nữa, đây cũng là một hình thức tổ chức rất phổ biến và cần thiết trong phương thức hoạt động theo chế độ tập thể của Quốc hội các nước trên thế giới. |
Điều 97 Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. | Điều 85 (sửa đổi, bổ sung Điều 97) 1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước và của nhân dân ở đơn vị bầu đại biểu. 2. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó. 3. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật. | Điều 85 quy định về các thẩm quyền của đại biểu Quốc hội trong việc đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước và của nhân dân ở đơn vị bầu đại biểu, cơ bản kế thừa các nội dung của Điều 97 Hiến pháp năm 1992, chỉ bố cục lại thành bốn khoản cho rành mạch. |
Điều 98 Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản. Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. | Điều 86 (sửa đổi, bổ sung Điều 98) 1. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước. 2. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội, trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản. 3. Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cung cấp thông tin, tài liệu và trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm. Người phụ trách của cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định. | Điều 86 quy định về việc chất vấn của đại biểu Quốc hội, cơ bản kế thừa các nội dung của Điều 98 Hiến pháp năm 1992. Đồng thời bổ sung một chủ thể chịu sự chất vấn của đại biểu Quốc hội là Tổng Kiểm toán Nhà nước, tương ứng với việc bổ sung cơ quan Kiểm toán Nhà nước vào Hiến pháp. |
Điều 99 Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định. | Điều 87 (sửa đổi, bổ sung Điều 99) Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội; nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. | Nội dung Điều này cơ bản kế thừa quy định của Điều 99 Hiến pháp năm 1992. |
Điều 100 Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội. | Điều 88 (sửa đổi, bổ sung Điều 100) Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu; có quyền đề nghị làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội. | Điều này quy định về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội trên cơ sở kế thừa các nội dung của Điều 100 Hiến pháp năm 1992. Điểm mới của Điều này là đã bổ sung quy định về quyền của đại biểu Quốc hội trong việc đề nghị làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc một Ủy ban của Quốc hội. Đây là một quy định mới nhằm khẳng định quyền chủ động của đại biểu Quốc hội trong việc đề xuất tham gia một cơ quan chuyên môn của Quốc hội, bảo đảm để đại biểu phát huy đúng sở trường và năng lực, kinh nghiệm công tác của họ trong cơ quan mà mình tham gia làm thành viên. |
Điều 86 Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập. Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là hai tháng kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới. | Điều 89 (sửa đổi, bổ sung Điều 86) 1. Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín. 2. Quốc hội họp mỗi năm ít nhất hai kỳ. Trường hợp Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu thì Quốc hội họp bất thường. Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp Quốc hội. 3. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là sáu mươi ngày kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới. | Điều 89 quy định về kỳ họp Quốc hội. bao gồm các kỳ họp định kỳ, đột xuất, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới, cơ bản kế thừa các nội dung của Điều 86 Hiến pháp năm 1992, chỉ bố cục lại thành ba khoản và chỉnh sửa một số cụm từ về kỹ thuật cho phù hợp và chính xác. |
Điều 87 Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội. Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định. | Điều 90 (sửa đổi, bổ sung Điều 87) 1. Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. 2. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật trước Quốc hội. | Điều này kế thừa các quy định còn phù hợp của Điều 87 Hiến pháp năm 1992, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau đây: - Bổ sung chủ thể có thẩm quyền trình dự án luật là Kiểm toán nhà nước, phù hợp với việc bổ sung chế định Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp. - Bổ sung một khoản mới quy định rõ vai trò của Chính phủ đối với các dự án luật có ảnh hưởng đến ngân sách quốc gia. Điều này xuất phát từ lý do sau đây: + Ngân sách là công cụ thực hiện các chính sách quốc gia, mà Chính phủ là cơ quan có quyền hoạch định chính sách quốc gia nên phải được ưu tiên trong việc xây dựng chi tiết các dự án liên quan đến ngân sách; + Chính phủ là cơ quan có năng lực hiểu biết chính xác những nhu cầu của các tổ chức, các chương trình quốc gia về ngân sách cũng như nguồn thu của các hoạt động đó, nên các dự án luật làm thay đổi nghĩa vụ tài chính của Nhà nước, làm phát sinh các khoản chi từ ngân sách nhà nước cần phải có ý kiến tham gia của Chính phủ để bảo đảm tính khả thi. |
Điều 88 Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 7, rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội quy định tại Điều 85 và sửa đổi Hiến pháp quy định tại Điều 147, thì phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. Điều 93 Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua, trừ trường hợp Chủ tịch nước trình Quốc hội xem xét lại. | Điều 91 (sửa đổi, bổ sung Điều 88, Điều 93) 1. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp Hiến pháp quy định phải có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. 2. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày được thông qua. 3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. | Điều 91 cơ bản kế thừa quy định của Điều 88 Hiến pháp năm 1992 về tỷ lệ biểu quyết thông qua các quyết định quan trọng của Quốc hội. Đồng thời chuyển nội dung về tỷ lệ biểu quyết thông qua pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội từ Điều 93 của Hiến pháp năm 1992 về Điều này cho chặt chẽ, lô gic và không quy định ở nhiều nơi. |
Điều 89 Quốc hội bầu Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội và căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban mà quyết định xác nhận tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội. | Bỏ Điều này | Chuyển thẩm quyền này sang Hội đồng bầu cử quốc gia. |
CHƯƠNG VI
CHỦ TỊCH NƯỚC
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Điều 101 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. | Điều 92 (giữ nguyên Điều 101) Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. | Điều 92 giữ nguyên nội dung Điều 101 của Hiến pháp năm 1992, kế thừa và phát huy các giá trị đã được ghi nhận trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của chế định Chủ tịch nước được quy định trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1992. |
Điều 102 Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới. | Điều 93 (giữ nguyên Điều 102) Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới. | Điều 93 giữ nguyên nội dung Điều 102 của Hiến pháp năm 1992 về tiêu chuẩn hiến định đối với người được bầu là Chủ tịch nước, trách nhiệm, chế độ báo cáo công tác và nhiệm kỳ của Chủ tịch nước. |
Điều 103 Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; 2- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; 3- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 4- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; 5- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá; 6- Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 7- Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; 8- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; 9- Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp đại sứ, những hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh hiệu vinh dự nhà nước; 10- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định; 11- Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam; 12- Quyết định đặc xá. | Điều 94 (sửa đổi, bổ sung Điều 103) Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; 2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ trái với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; 3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá; 4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam; 5. Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân; bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh. Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 6. Cử, triệu hội đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 76; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền do Quốc hội quy định và khi cần thiết đề nghị Quốc hội giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế này. | - Điều 94 tiếp tục kế thừa quy định còn phù hợp của Điều 103 Hiến pháp năm 1992 về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. - Bố cục lại Điều này theo hướng gom các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước theo các nhóm nội dung liên quan đến lập pháp, hành pháp, tư pháp, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. - Sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau đây: + Trong mối quan hệ với hành pháp: Bổ sung thẩm quyền của Chủ tịch nước bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ trái với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (khoản 2) để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện rõ hơn mối quan hệ của Chủ tịch nước với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong hoạt động lập pháp; đồng thời phát huy tốt hơn cơ chế kiểm tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. + Trong mối quan hệ với tư pháp: Bổ sung thẩm quyền của Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (khoản 3). Việc bổ sung quy định này nhằm nâng cao vai trò, vị thế của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, phù hợp với tinh thần, định hướng đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần phải được Quốc hội, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Chủ tịch nước sẽ căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức danh này. Bổ sung thẩm quyền của Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp (khoản 3) để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp, bám sát tinh thần Kết luận Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Khoá XI, bảo đảm tính nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xét xử, tăng cường tính độc lập trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao vai trò, vị thế thẩm phán toà án nhân dân. Chuyển quyền quyết định đặc xá từ khoản 12 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 lên khoản 3 Điều 94 dự thảo Hiến pháp, đặt trong nhóm quyền thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm bảo đảm tính logic, hợp lý. + Về việc thực hiện vai trò Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân: Bổ sung vào khoản 5 thẩm quyền quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân; bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc bổ sung thẩm quyền này cho Chủ tịch nước vừa phân định rõ ràng, cụ thể thẩm quyền phong hàm, cấp sĩ quan của Chủ tịch nước với các chủ thể có thẩm quyền khác, tạo cơ sở thống nhất cho việc cụ thể hóa trong các đạo luật và áp dụng trên thực tế; đồng thời phù hợp với vị trí, vai trò thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh của Chủ tịch nước. + Về đối ngoại: Bổ sung quyền phong hàm, cấp đại sứ của Chủ tịch nước. Sửa quy định “tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế” thành “quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế” vì trên thực tế, Chủ tịch nước chưa khi nào tiến hành đàm phán ký kết điều ước quốc tế, mà thường quyết định ủy quyền cho các cơ quan tiến hành đàm phán; đồng thời để thể hiện đúng vị trí của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại. |
Điều 104 Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, các ủy viên. Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội phê chuẩn. Thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh không nhất thiết là đại biểu Quốc hội. Hội đồng quốc phòng và an ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc. Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. | Điều 95 (sửa đổi, bổ sung Điều 104) 1. Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. 2. Hội đồng quốc phòng và an ninh thảo luận việc trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh; việc động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; việc giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt trong trường hợp có chiến tranh. | Điều 95 cơ bản kế thừa các nội dung của Điều 104 Hiến pháp năm 1992, chỉ biên tập lại về kỹ thuật thể hiện và bố cục thành hai khoản cho rành mạch. |
Điều 105 Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. | Điều 96 (sửa đổi, bổ sung Điều 105) Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. | Điểm mới của Điều này so với Điều 105 Hiến pháp năm 1992 là bổ sung quy định Chủ tịch nước được quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề thuộc nhiệm vụ của Chủ tịch nước. Việc bổ sung quy định này xuất phát từ các lý do sau đây: - Thực hiện nguyên tắc “kiểm soát” quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo tinh thần Cương lĩnh; - Phù hợp với vị trí, vai trò và thẩm quyền của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước; người đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, và căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác. |
Điều 106 Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. | Điều 97 (giữ nguyên Điều 106) Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. | Điều 97 giữ nguyên Điều 106 Hiến pháp năm 1992 về thẩm quyền ban hành văn bản của Chủ tịch nước. |
Điều 107 Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ. | Điều 98 (giữ nguyên Điều 107) Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch uỷ nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ. | Điều 98 giữ nguyên Điều 107 Hiến pháp năm 1992 quy định về Phó Chủ tịch nước. |
Điều 108 Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới. | Điều 99 (giữ nguyên Điều 108) Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới. | Điều 99 giữ nguyên Điều 108 Hiến pháp năm 1992 về trường hợp Chủ tịch nước không làm việc được trong một thời gian dài hoặc khuyết Chủ tịch nước. |
CHƯƠNG VII
CHÍNH PHỦ
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Chương VIII CHÍNH PHỦ | CHƯƠNG VII CHÍNH PHỦ | |
Điều 109 Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. | Điều 100 (sửa đổi, bổ sung Điều 109) Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. | - Kế thừa quy định Điều 109 của Hiến pháp năm 1992, tiếp tục khẳng định vị trí, tính chất của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. - Bổ sung quy định Chính phủ “thực hiện quyền hành pháp” để phù hợp với quan điểm và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thể hiện phân công rành mạch quyền lực của Quốc hội và của Chính phủ. |
Điều 110 Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ. | Điều 101 (sửa đổi, bổ sung Điều 110) Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định. Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ. Thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ, Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ. | - Tiếp tục kế thừa quy định về cơ cấu thành phần của Chính phủ tại Điều 110 của Hiến pháp năm 1992; thay cụm từ “các thành viên khác” bằng “Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ”. - Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội quyết định cơ cấu, số lượng thành viên chính phủ. - Chuyển quy định “Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số” tại đoạn 2 Điều 115 của Hiến pháp năm 1992 về Điều 101 của dự thảo Hiến pháp và thể hiện lại thành nguyên tắc hoạt động của Chính phủ “làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số”. - Bổ sung quy định về cơ chế chịu trách nhiệm của các thành viên Chính phủ. - Bỏ quy định về mối quan hệ làm việc giữa Thủ tướng với các Phó Thủ tướng vì đây là phương thức, cách thức làm việc của Chính phủ, nên để luật quy định. |
Điều 112 Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức nhà nước; 2- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân; 3- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 4- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước; 5- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường; 6- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; 7- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; 8- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 103; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài; 9- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; 10- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 11- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. | Điều 102 (sửa đổi, bổ sung Điều 112) Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 2. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia, xây dựng và tổ chức thực hiện chế độ công vụ; quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức; phân công, phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính lãnh thổ; tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước và giải quyết khiếu nại, tố cáo; 3. Bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; bảo vệ môi trường; 4. Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước; 5. Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; 6. Thống nhất quản lý nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; 7. Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; theo ủy quyền của Chủ tịch nước đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 94; đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài; 8. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. | - Sắp xếp lại các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ tại Điều 112 của Hiến pháp năm 1992 theo 8 nhóm vấn đề. - Điều chỉnh thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ sang Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đồng thời, bổ sung quy định Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc điều chỉnh địa giới, thành lập, tổ chức lại các đơn vị hành chính lãnh thổ. - Sửa đổi, bổ sung thẩm quyền về đàm phán, ký điều ước quốc tế của Chính phủ cho phù hợp với sửa đổi, bổ sung tại Điều 94 của dự thảo Hiến pháp về thẩm quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực này và chuyển thẩm quyền của Chính phủ trong việc chỉ đạo thực hiện điều ước quốc tế sang cho Thủ tướng Chính phủ. |
Điều 113 Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. | Điều 103 (giữ nguyên Điều 113) Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. | Tiếp tục giữ quy định về nhiệm kỳ Chính phủ tại Điều 113 của Hiến pháp năm 1992 theo nhiệm kỳ của Quốc hội. |
Điều 114 Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ; 2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ; 3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên; 5- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ; 6- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. | Điều 104 (sửa đổi, bổ sung Điều 114) Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, là người đứng đầu Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban dân dân các cấp; định hướng chính sách và điều hành hoạt động của Chính phủ; 2. Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương trong bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 3. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ; 4. Chỉ đạo việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; 5. Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. | Về cơ bản giữ như quy định tại Điều 114 của Hiến pháp năm 1992 và sắp xếp lại các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân Thủ tướng trong việc lãnh đạo Chính phủ; tạo cơ sở đẩy mạnh phân công, phân cấp; tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng và người đứng đầu chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước theo pháp luật. Cụ thể như sau: - Bổ sung khẳng định Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, là người đứng đầu Chính phủ. - Giữ quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 114 Hiến pháp năm 1992. - Gộp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 114 Hiến pháp năm 1992 thành một khoản - Gộp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Hiến pháp năm 1992. Không quy định cụ thể loại văn bản đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ bảo đảm tính ổn định, lâu dài trong các quy định của Hiến pháp. Thay cụm từ “các thành viên khác của Chính phủ” bằng “Thủ trưởng cơ quan ngang bộ” để xác định rõ thành viên của Chính phủ. - Bổ sung khoản 4 về thẩm quyền của Thủ tướng trong việc chỉ đạo việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế, đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế. Đây là thẩm quyền được điều chỉnh từ Chính phủ sang cho Thủ tướng để bảo đảm tính kịp thời, linh hoạt và tranh thủ thời cơ trong công tác đối ngoại. Trên thực tế, thẩm quyền này lâu nay Chính phủ không trực tiếp thực hiện mà thường uỷ quyền cho Thủ tướng thực hiện. |
Điều 115 Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. | Điều 105 (sửa đổi, bổ sung Điều 115) Chính phủ ban hành nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. | Sửa đổi ngắn gọn Điều 115 Hiến pháp năm 1992 chỉ giữ quy định về thẩm quyền ban hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chuyển quy định “Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số” về Điều 111 dự thảo Hiến pháp thành nguyên tắc hoạt động của Chính phủ. |
Điều 116 Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Điều 117 Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách. | Điều 106 (sửa đổi, bổ sung Điều 116, Điều 117) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của luật. | Điều 106 được xây dựng trên cơ sơ Điều 116 và Điều 117 của Hiến pháp năm 1992 theo hướng: - Khẳng định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu, lãnh đạo bộ, cơ quan ngang bộ để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt của trong quản lý nhà nước, tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Thay cụm từ “Thành viên khác của Chính phủ” bằng cụm từ “Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”. - Quy định khái quát về thẩm quyền ban hành văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Còn việc các chủ thể này có thẩm quyền ban hành những văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào để luật định cho phù hợp với cách thể hiện ở Điều 105 của dự thảo Hiến pháp, bảo đảm tính ổn định, lâu dài của quy định trong Hiến pháp. |
Điều 111 Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan. | Điều 107 (sửa đổi, bổ sung Điều 111) Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan. | Về cơ bản giữ quy định của Điều 111 Hiến pháp năm 1992, chỉ thay cụm từ “Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân” bằng cụm từ “người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội” cho thống nhất với các điều khác của Hiến pháp. |
CHƯƠNG VIII
TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Chương X TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | CHƯƠNG VIII TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | |
Điều 126 Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. | (Bỏ Điều 126 Hiến pháp năm 1992 và đưa một số nội dung Điều này vào Điều 108 và Điều 113 dự thảo) | Điều 126 của Hiến pháp năm 1992 quy định về những nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, các cơ quan này có chức năng khác nhau, nên có nhiệm vụ riêng mang tính đặc thù của từng cơ quan; vì thế cho nên nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cần được quy định riêng, cụ thể là đưa những nội dung tại Điều này về Điều 108 và Điều 113 của dự thảo Hiến pháp. |
TOÀ ÁN NHÂN DÂN | | |
Điều 127 Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt. Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật. | Điều 108 (sửa đổi, bổ sung Điều 126, Điều 127) 1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. 2. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 3. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt. | Trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 126 và Điều 127 Hiến pháp năm 1992, xác định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp để thể chế hóa quan điểm về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực. - Không liệt kê tên các Tòa án cụ thể để phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp về việc thành lập các Tòa án không theo đơn vị hành chính, tạo sự linh hoạt trong việc tổ chức hệ thống tòa án. - Xác định và nhấn mạnh hơn nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, làm nổi bât tôn chỉ, mục tích của Tòa án. |
Điều 129 Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Điều 130 Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điều 131 Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Điều 132 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều 133 Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án. | Điều 109 (sửa đổi, bổ sung các điều 129, 130, 131, 132 và 133) 1. Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp do luật định. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. 3. Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. 4. Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp do luật định. 5. Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa được bảo đảm. 6. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; đương sự có thể tự mình, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp. | Điều này trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các điều 129, 130, 131, 132 và 133 Hiến pháp năm 1992 để quy định thành một điều về nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân trên cơ sở giữ nguyên một số nguyên tắc đã quy định, sửa đổi một số nguyên tắc cho chính xác, bổ sung một số nguyên tắc mới. - Không quy định “Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” trong Hiến pháp mà sẽ quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân và các luật tố tụng tư pháp. - Bổ sung nguyên tắc “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” để thể hiện đầy đủ hơn nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. - Tiếp tục xác định nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, bổ sung quy định mở để có thể áp dụng thủ tục xét xử bằng một Thẩm phán đối với một số vụ án, đảm bảo hiệu quả, nhanh chóng, phù hợp với xu thế mở rộng việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. - Bổ sung, nâng lên tầm hiến định nguyên tắc quan trọng có tính đặc thù của hoạt động xét xử, đó là “tranh tụng tại phiên tòa” nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét xử, phù hợp với quan điểm cải cách tư pháp. - Chuyển nội dung quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình tại Điều 133 Hiến pháp năm 1992 vào quy định tại khoản 3 Điều 5 dự thảo Hiến pháp. |
Điều 134 Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự. Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó. | Điều 110 (sửa đổi, bổ sung Điều 134) 1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án và các Thẩm phán. Chánh án Tòa án nhân tối cao do Quốc hội bầu, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm sau khi được Quốc hội phê chuẩn. 3. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác. 4. Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. | - Trên cơ sở sửa đổi Điều 134 Hiến pháp năm 1992, xác định rõ thẩm quyền bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. - Bổ sung thẩm quyền tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử để phù hợp với thực tiễn và nâng cao vai trò của Tòa án nhân dân tối cao trong công tác xét xử. |
Điều 128 Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Thẩm phán, chế độ bầu cử và nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân các cấp do luật định. Điều 135 Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. | Điều 111 (sửa đổi, bổ sung Điều 128, Điều 135) 1. Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. 2. Nhiệm kỳ của Thẩm phán, việc bầu và nhiệm kỳ của Hội thẩm Toà án nhân dân do luật định. 3. Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chánh án các Tòa án khác, trừ các Tòa án quân sự, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. | - Điều này được xây dựng trên cơ sở ghép Điều 128 và Điều 135 Hiến pháp năm 1992, quy định gọn lại cho rõ hơn về nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội; nhiệm kỳ của Thẩm phán, việc bầu và nhiệm kỳ của Hội thẩm Tòa án nhân dân sẽ do luật định. |
Điều 136 Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. | Điều 112 (sửa đổi, bổ sung Điều 136) Bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. | - Điều này được xây dựng trên cơ sở kế thừa Điều 136 Hiến pháp năm 1992, giữ nguyên quy định về việc tôn trọng các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, chỉ chỉnh sửa kỹ thuật thể hiện, diễn đạt khái quát và phù hợp hơn. |
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | | |
Điều 126 Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Điều 137 Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định. | Điều 113 (sửa đổi, bổ sung Điều 126, Điều 137) 1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. 2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định. 3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. | - Trên cơ sở ghép Điều 126 và Điều 137 Hiến pháp năm 1992, tiếp tục khẳng định hai chức năng cơ bản của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đồng thời làm rõ hơn vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trên cơ sở bổ sung nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. - Không xác định cụ thể các Viện kiểm sát mà chỉ quy định về Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác, bỏ quy định về Ủy ban kiểm sát để phù hợp với yêu cầu đổi mới hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và mô hình tổ chức Tòa án. |
Điều 138 Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. | Điều 114 (sửa đổi, bổ sung Điều 138) 1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. 2. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. 3. Chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Kiểm sát viên do luật định, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 94. | - Điều này được xây dựng trên cơ sở sửa đổi Điều 138 Hiến pháp năm 1992, giữ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân như Hiến pháp hiện hành nhưng có sửa đổi bổ sung để phù hợp với quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát theo yêu cầu về đổi mới hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo quan điểm cải cách tư pháp. - Quy định rõ về thẩm quyền bầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. |
Điều 139 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Điều 140 Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân. | Điều 115 (sửa đổi, bổ sung Điều 139, Điều 140) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng các Viện kiểm sát khác, trừ các Viện kiểm sát quân sự, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. | Điều này được xây dựng trên cơ sở giữ nguyên Điều 139 và ghép với Điều 140 Hiến pháp năm 1992, chỉnh sửa về kỹ thuật cho phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 113 dự thảo Hiến pháp về trách nhiệm báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp. - Bỏ quy định “trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân” vì trách nhiệm báo cáo công tác đã bao hàm nội dung trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân |
CHƯƠNG IX
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Chương IX HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN | CHƯƠNG IX CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG | Dự thảo đổi tên Chương từ “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” thành “Chính quyền địa phương” để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương. Mặt khác, Chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận và các đoàn thể xã hội ở địa phương. |
Điều 118 Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định. | Điều 116 (sửa đổi, bổ sung Điều 118) 1. Các đơn vị hành chính lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường, xã; quận chia thành phường. 2. Tổ chức chính quyền ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định. | Dự thảo tiếp tục giữ quy định về phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ như Hiến pháp năm 1992, còn về tổ chức chính quyền, Dự thảo quy định khái quát theo hướng tổ chức chính quyền ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định. Điều này nhằm tạo điều kiện linh hoạt cho việc tiếp tục nghiên cứu đổi mới chính quyền địa phương sau khi có kết quả tổng kết thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. |
Điều 119 Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Điều 120 Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước. Điều 123 Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Điều 124 Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân. Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó. | Điều 117 (sửa đổi, bổ sung các điều 119, 120, 123 và 124) 1. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Phương án 1: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Phương án 2: Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. 2. Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Ủy ban nhân dân và chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ được giao trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. | - Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Dự thảo Hiến pháp làm rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong tình hình mới. - Về tính chất của HĐND, Dự thảo đưa ra 2 phương án tại khoản 1. Cụ thể là: Phương án 1: giữ quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương như Hiến pháp năm 1992 vì cho rằng, quy định này tạo sự gắn kết giữa cơ quan đại diện và cơ quan hành chính ở địa phương là Ủy ban nhân dân và thực tế cho thấy quy định này không ảnh hưởng lớn đến quá trình tổ chức thực hiện ở địa phương. Phương án 2: quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân ở địa phương mà không quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương để bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không có sự phân tán quyền lực nhà nước ở trung ương và quyền lực nhà nước địa phương. Quy định như vậy nhằm đề cao tính tự chủ của Hội đồng nhân dân khi quyết định các vấn đề thuộc phân cấp. |
Điều 121 Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước. | Điều 118 (sửa đổi, bổ sung Điều 121) Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước. | Dự thảo cơ bản giữ quy định về đại biểu Hội đồng nhân dân như Hiến pháp năm 1992, chỉ chỉnh sửa về kỹ thuật, câu chữ cho phù hợp hơn. |
Điều 122 Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Người phụ trách cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu. | Điều 119 (sửa đổi, bổ sung Điều 122) Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân hoặc trả lời bằng văn bản. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước ở địa phương. Người phụ trách cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu. | Giữ như Hiến pháp năm 1992 vì nội dung này còn phù hợp. |
Điều 125 Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. | Điều 120 (sửa đổi, bổ sung Điều 125) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương. | Dự thảo cơ bản giữ quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ quan nhà nước ở địa phương với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như Hiến pháp năm 1992, chỉ chỉnh sửa về kỹ thuật, câu chữ cho phù hợp hơn. |
CHƯƠNG X
HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA, KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Hiến pháp năm 1992 không có Chương này | | Dự thảo bổ sung Chương X quy định về một số thiết chế hiến định độc lập để làm rõ hơn quyền làm chủ của nhân dân, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN. |
| Điều 121 (mới) 1. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. 2. Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; b) Chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. 3. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định. Điều 122 (mới) 1. Thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. 2. Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia là người đứng đầu Hội đồng, lãnh đạo hoạt động của Hội đồng, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về tổ chức và hoạt động của Hội đồng. | - Dự thảo bổ sung chế định Hội đồng bầu cử quốc gia vì bầu cử là sự kiện chính trị quan trọng, thể hiện sự phát triển của nền dân chủ và trình độ của người dân. Vì vậy, Hiến pháp không chỉ quy định về quyền bầu cử, ứng cử và các nguyên tắc bầu cử mà còn phải quy định về cơ quan phụ trách việc bầu cử để đề cao vai trò của cơ quan này. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đều quy định về cơ quan bầu cử trong Hiến pháp. - Về mô hình cơ quan bầu cử, Dự thảo đề xuất mô hình Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập trên cơ sở hiến định địa vị pháp lý của Hội đồng bầu cử trung ương quy định trong Luật bầu cử hiện hành. - Do đây là thiết chế hiến định mới, Dự thảo chỉ quy định một cách tổng quát, còn các vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này do luật định. |
| Điều 123 (mới) 1. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có nhiệm vụ kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. 2. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do luật định. Điều 124 (mới) 1. Tổng Kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. 2. Tổng Kiểm toán Nhà nước báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. 3. Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. | - Kiểm toán Nhà nước là cơ quan có vai trò quan trọng trong quản trị quốc gia, thông qua các hoạt động nghiệp vụ để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Hiện nay, đa số các nước trên thế giới đều có quy định trong Hiến pháp về cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Vì vậy, Dự thảo Hiến pháp bổ sung quy định về Kiểm toán nhà nước để bảo đảm vị thế và cơ sở pháp lý cho cơ quan này. - Do đây là thiết chế hiến định mới, Dự thảo chỉ quy định một cách tổng quát, còn các vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này do luật định. |
CHƯƠNG XI
HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001)2001) | DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 | GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG |
Chương XII HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP | CHƯƠNG XI HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP | Giữ tên Chương như Hiến pháp năm 1992 |
Điều 146 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. | Điều 125 (giữ nguyên Điều 146) Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. | Giữ quy định về hiệu lực của Hiến pháp như Hiến pháp năm 1992 vì vẫn còn phù hợp. |
Điều 147 Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. | Điều 126 (sửa đổi, bổ sung Điều 147) Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp được quy định như sau: 1. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội; 2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm những thành viên là đại biểu Quốc hội, đại diện của các cơ quan, tổ chức hữu quan theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định; 3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp và trình Quốc hội xem xét, thông qua; 4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. | Điều 147 của Hiến pháp năm 1992 chưa quy dịnh cụ thể về cách thức, trình tự đề xuất sửa đổi Hiến pháp, soạn thảo dự thảo Hiến pháp và quy trình thông qua Hiến pháp. Quy định tại Điều 147 còn đơn giản, chưa phù hợp với tính chất quan trọng của việc sửa đổi Hiến pháp, đòi hỏi phải chặt chẽ, khoa học. Vì vậy, Dự thảo bổ sung quy định về quy trình làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp theo hướng cụ thể hóa các quy định về thẩm quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp, thủ tục soạn thảo Hiến pháp, quy trình thông qua Hiến pháp. |
Tờ trình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 22/10/2012
Số hiệu:194/TTr-UBDTSĐHP
Mô tả:
To_trinh_Quoc_hoi_ve_HP_(trinh_ky)(19.10.2012).doc
Kính gửi các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong gần một năm qua, trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong hệ thống chính trị, ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân và kế thừa kết quả tổng kết 25 năm đổi mới đất nước, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Ủy ban) đã khẩn trương xây dựng Báo cáo kết quả tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong quá trình triển khai, Ủy ban đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo để xin ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở trung ương, tham vấn ý kiến của các vị nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của các chuyên gia, các nhà khoa học và đã tiếp thu chỉnh lý, hoàn thiện một bước Dự thảo. Ủy ban xin trình Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
1. Sự cần thiết và mục đích, yêu cầu
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây gọi chung là Cương lĩnh) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
Để đạt được mục tiêu này, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có tính bản chất của chế độ ta đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ hai, thể chế hóa kịp thời những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng.
Thứ ba, hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản, có tính ổn định, lâu dài.
2. Quan điểm sửa đổi
Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên các quan điểm cơ bản sau đây:
2.1. Phải dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng; kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.
2.2. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
2.3. Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2.4. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.5. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.6. Sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ, khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
II. PHẠM VI VÀ NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
Căn cứ vào Cương lĩnh, các văn kiện khác của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 và Nghị quyết của Quốc hội, trên cơ sở quán triệt mục đích, yêu cầu và các quan điểm nêu trên, Ủy ban đã xác định 9 nội dung cơ bản sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đó là:
Thứ nhất, sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục thể chế hóa và làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thứ hai, sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ ba, sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thứ năm, sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ tám, sửa đổi Hiến pháp để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới.
Thứ chín, sửa đổi kỹ thuật lập hiến và quy trình sửa đổi Hiến pháp để bảo đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp.
Cụ thể hóa 9 nội dung cơ bản nêu trên, Dự thảo Hiến pháp sau khi sửa đổi, bổ sung có 11 chương, 126 điều. So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo Hiến pháp giảm 1 chương, 21 điều, 18 điều giữ nguyên, 95 điều sửa đổi và bổ sung 13 điều mới. Cụ thể như sau:
1. Về Lời nói đầu
Trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, dự thảo Lời nói đầu được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới, mục tiêu xây dựng đất nước và ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp.
2. Về chế độ chính trị (Chương I)
Dự thảo Chương I được sửa đổi trên cơ sở đổi tên Chương I - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị và gộp với Chương XI - Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh vì đây là những nội dung gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia thành “Chế độ chính trị”. Về cơ bản, Dự thảo vẫn giữ các nội dung Chương I của Hiến pháp năm 1992, đồng thời làm rõ hơn, đầy đủ hơn vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, quan điểm về chủ quyền nhân dân theo hướng nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua các cơ quan đại biểu, các cơ quan khác của Nhà nước theo tinh thần của Cương lĩnh.
3. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Dự thảo Chương II được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp năm 1992, chuyển các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác về Chương này, làm rõ nội dung quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung một số quyền mới là kết quả của quá trình đổi mới 25 năm qua ở nước ta, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó, sắp xếp lại các điều theo các nhóm quyền để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân.
4. Về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III)
Dự thảo Chương III được xây dựng trên cơ sở gộp Chương II - Chế độ kinh tế và Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Nội dung của Chương này thể chế hóa các quan điểm của Đảng được xác định trong Cương lĩnh về các lĩnh vực nói trên; lồng ghép các điều khoản theo hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản và khái quát hơn.
- Về chế độ kinh tế: Làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế (Điều 55), vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (Điều 56), chế độ sở hữu và quyền tự do kinh doanh (Điều 57), tài sản thuộc sở hữu toàn dân (Điều 58), việc quản lý và sử dụng đất đai (Điều 59) và bổ sung một điều mới (Điều 60) về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác.
- Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường: Cơ bản kế thừa những nội dung về từng lĩnh vực trong Hiến pháp năm 1992, nhưng được thể hiện lại một cách tổng quát, chỉ nêu những định hướng lớn đã được xác định trong Cương lĩnh; còn những vấn đề cụ thể sẽ do luật định.
5. Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)
Trên cơ sở giữ nội dung và bố cục của Chương IV của Hiến pháp năm 1992, Dự thảo khẳng định và làm sâu sắc hơn vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sự gắn kết giữa nhiệm vụ đối ngoại với quốc phòng, an ninh trong việc xây dựng đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
6. Về bộ máy nhà nước
Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, Dự thảo Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung 2 thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước:
6.1. Về Quốc hội (Chương V)
Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cơ bản giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, có sửa đổi, bổ sung để phù hợp với chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cụ thể như sau:
- Quy định rõ, khả thi và phù hợp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN quyền quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được chuyển thành quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội (khoản 3 Điều 76) để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ;
- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân nhằm làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp;
- Giao thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Ủy ban thường vụ Quốc hội theo đề nghị của Chính phủ; làm rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
6.2. Về Chủ tịch nước (Chương VI)
Dự thảo Chương VI tiếp tục giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về thiết chế Chủ tịch nước và làm rõ hơn một số thẩm quyền của Chủ tịch nước trong một số lĩnh vực, sắp xếp lại nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Cụ thể như sau:
- Trong mối quan hệ với lập pháp: Giữ quy định về thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh và đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh như quy định của Hiến pháp năm 1992;
- Trong mối quan hệ với hành pháp: Làm rõ hơn thẩm quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ; quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ; yêu cầu Chính phủ bàn về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước khi cần thiết…;
- Trong mối quan hệ với tư pháp: Làm rõ hơn thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác để phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp…;
- Trong hoạt động đối nội: Giữ quy định của Hiến pháp năm 1992 về khen thưởng, quốc tịch,...;
- Trong hoạt động đối ngoại: làm rõ hơn thẩm quyền quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế hoặc quyết định phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền do Quốc hội quy định và khi cần thiết đề nghị Quốc hội giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế này…;
- Trong việc thống lĩnh lực lưỡng vũ trang: làm rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân; công bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp,…
6.3. Về Chính phủ (Chương VII)
Dự thảo Chương VII tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Dự thảo đã sắp xếp, cơ cấu lại để phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ. Cụ thể là:
Với tính chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội: Chính phủ có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội,...
Với tính chất là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất: Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia, xây dựng và tổ chức thực hiện chế độ công vụ; quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện việc phân công, phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp,...
Trong việc thực hiện quyền hành pháp: Chính phủ có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường; thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, quốc phòng toàn dân, công tác đối ngoại,…
Đồng thời, Dự thảo làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ. Nhằm tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Dự thảo quy định các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ, Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ (Điều 101 và Điều 106).
6.4. Về Tòa án nhân dân (Chương VIII)
Trên cơ sở tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Tòa án cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp theo hướng không xác định cấp Tòa án cụ thể trong Hiến pháp mà để luật định.
6.5. Về Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)
Tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp.
6.6. Về chính quyền địa phương (Chương IX)
Theo Dự thảo, tên Chương IX được đổi từ “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” thành “Chính quyền địa phương” và quy định một cách tổng quát về phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ, còn những vấn đề về tổ chức, thẩm quyền của từng cấp chính quyền địa phương sẽ do luật định. Điều này nhằm thực hiện các quan điểm của Đảng về đổi mới chính quyền địa phương, đặc biệt là trong bối cảnh chúng ta chưa tổng kết thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Cụ thể như sau:
- Về đơn vị hành chính lãnh thổ: giữ như Điều 118 của Hiến pháp năm 1992: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Tổ chức chính quyền ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định.
- Về địa vị pháp lý và chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương: Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Dự thảo Hiến pháp làm rõ hơn tính chất, trách nhiệm, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước thống nhất và mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong tình hình mới.
6.7. Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước (Chương X)
Để làm rõ hơn quyền làm chủ của nhân dân, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, Dự thảo Hiến pháp bổ sung 2 thiết chế hiến định độc lập vào Chương X gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.
- Hội đồng bầu cử quốc gia: Thực hiện Kết luận của Hội nghị trung ương 5 về việc “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”, Ủy ban đề nghị thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm hiến định địa vị pháp lý của Hội đồng bầu cử trung ương quy định trong Luật bầu cử hiện hành. Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm góp phần thể hiện tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Kiểm toán Nhà nước: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hiến định địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp để tăng cường vị thế và trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia.
Do 2 cơ quan này là những thiết chế hiến định mới, Ủy ban đề nghị chỉ quy định một cách tổng quát, còn các vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này do luật định.
7. Về quy trình sửa đổi Hiến pháp (Chương XI)
Việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này được thực hiện theo quy định tại Điều 147 của Hiến pháp hiện hành. Theo đó, Quốc hội quyết định việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp để xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến và trình xin ý kiến nhân dân. Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo, trình Quốc hội xem xét, thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Về việc sửa đổi Hiến pháp các lần sau này, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cụ thể hóa các quy định về thẩm quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp, thủ tục soạn thảo Hiến pháp, quy trình thông qua Hiến pháp. Cụ thể như sau:
- Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội;
- Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm những thành viên là đại biểu Quốc hội, đại diện của các cơ quan, tổ chức hữu quan theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định;
- Ủy ban dự thảo Hiến pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Hiến pháp và trình Quốc hội xem xét, thông qua;
- Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
1. Về Điều 2
Hiến pháp năm 1992 xác định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức…”. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị tiếp tục giữ nội dung quy định tại Điều 2, chỉ thay từ “tầng lớp” bằng từ “đội ngũ” để khẳng định bản chất công – nông – trí của Nhà nước ta.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị sửa quy định này thành: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc…” để thể chế hóa quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc với vai trò là động lực của phát triển xã hội.
Ủy ban tán thành loại ý kiến thứ nhất và đã thể hiện tại Điều 2 của Dự thảo.
2. Về Điều 9
Hiến pháp năm 1992 thể hiện các nội dung liên quan đến các tổ chức chính trị - xã hội một cách tổng quát. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ quy định này như Hiến pháp năm 1992, không liệt kê cụ thể các tổ chức chính trị - xã hội vì bản thân cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên” đã bao gồm các tổ chức này. Quy định như vậy bảo đảm tính ổn định cao của Hiến pháp, đáp ứng sự phát triển của các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời thể hiện sự bình đẳng giữa các tổ chức đó với các tổ chức xã hội khác.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị nêu tên gọi của các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay để thể hiện rõ hơn vị thế của các tổ chức chính trị - xã hội trong Hiến pháp. Tuy nhiên, về lâu dài có thể sẽ không phù hợp với sự phát triển của các tổ chức này vì có thể có sự thay đổi về tên gọi hoặc có tổ chức chính trị - xã hội mới.
Ủy ban tán thành loại ý kiến thứ nhất và đã thể hiện tại Điều 9 của Dự thảo.
3. Về cách thể hiện các thành phần kinh tế trong Hiến pháp (Điều 55)
Về vấn đề này, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị nêu thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và xác định vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế tại Điều 55. Quy định như vậy để làm rõ hơn tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không nêu cụ thể tên các thành phần kinh tế mà chỉ xác định các thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế để bảo đảm tính khái quát, ổn định cao của Hiến pháp khi cơ cấu của nền kinh tế có thể thay đổi, đồng thời, thể hiện sự bình đẳng và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Ủy ban tán thành loại ý kiến thứ nhất và đã thể hiện tại Điều 55 của Dự thảo.
4. Về thẩm quyền điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh (khoản 9 Điều 80, khoản 2 Điều 102)
Về vấn đề này, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh vẫn thuộc thẩm quyền của Chính phủ như Hiến pháp năm 1992.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chính phủ. Bởi vì, việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng của quốc gia, thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, nhưng do Quốc hội hoạt động không thường xuyên nên giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và báo cáo với Quốc hội.
Ủy ban tán thành với loại ý kiến thứ hai và đã thể hiện tại khoản 9 Điều 80 và khoản 2 Điều 102 của Dự thảo.
5. Việc bầu thành viên Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội (Điều 81, 82)
Về vấn đề này, có hai loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, đồng thời với việc bầu Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội; còn chức danh Phó Chủ tịch, Phó Chủ nhiệm và Ủy viên Hội đồng, Ủy ban nên để Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ quy định hiện hành Quốc hội bầu Hội đồng dân tộc (gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên), bầu Ủy ban của Quốc hội (gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên) để bảo đảm địa vị pháp lý của thành viên Hội đồng dân tộc, thành viên Ủy ban của Quốc hội.
Đa số thành viên Ủy ban tán thành loại ý kiến thứ nhất và đã thể hiện tại khoản 1 Điều 81 và khoản 1 Điều 82 của Dự thảo.
6. Về thẩm quyền phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao của Chủ tịch nước (Điều 94)
Về vấn đề này, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị làm rõ thẩm quyền phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong lực lượng vũ trang nhân dân theo hướng “Chủ tịch nước quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân; bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam”.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, để phù hợp với thực tiễn phân cấp quản lý cán bộ, gắn kết giữa việc phong hàm và bổ nhiệm chức vụ, đề nghị Hiến pháp chỉ quy định Chủ tịch nước có thẩm quyền quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp thượng tướng, đại tướng và đô đốc hải quân.
Ủy ban tán thành loại ý kiến thứ nhất và đã thể hiện tại khoản 5 Điều 94 của Dự thảo.
7. Về phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ (Điều 116)
Về phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ như Hiến pháp hiện hành, đồng thời quy định khái quát về tổ chức chính quyền ở các đơn vị hành chính lãnh thổ theo hướng giao luật định. Ý kiến này cho rằng, quy định như vậy không gây xáo trộn trong tổ chức chính quyền địa phương.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới mạnh mẽ tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp chỉ quy định khái quát về các đơn vị hành chính, bao gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh và dưới cấp tỉnh do luật định. Quy định như vậy nhằm tạo điều kiện cho việc điều hành nhanh chóng, thông suốt hơn; giảm biên chế, tiết kiệm chi phí cho bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, cần có sự chuẩn bị trong tổ chức thực hiện việc sắp xếp đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền địa phương, trong đó có nhân sự.
Loại ý kiến thứ ba đề nghị giữ các đơn vị hành chính như Hiến pháp hiện hành. Đồng thời, trên cơ sở kết quả tổng kết thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, Hiến pháp quy định ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn, xã có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; ở huyện, quận, phường chỉ có cơ quan hành chính. Việc tổ chức chính quyền địa phương theo loại ý kiến này tuy không gây xáo trộn về cách phân chia đơn vị hành chính, nhưng việc không có Hội đồng nhân dân mà chỉ tổ chức cơ quan hành chính ở huyện, quận, phường khó bảo đảm yêu cầu đại diện ý chí, nguyện vọng của nhân dân của cơ quan đại diện cho dân.
Đa số ý kiến trong Ủy ban tán thành loại ý kiến thứ nhất và đã thể hiện tại Điều 116 của Dự thảo.
8. Về địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân (khoản 1 Điều 117)
Về vấn đề này, nhiều ý kiến tán thành quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương như Hiến pháp năm 1992. Ý kiến khác đề nghị không quy định tính chất quyền lực của Hội đồng nhân dân, vì dẫn đến cách hiểu về sự phân tán của quyền lực nhà nước, không phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta. Ủy ban đề xuất hai phương án thể hiện tại khoản 1 Điều 117 như sau:
Phương án 1: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương.
Phương án 2: Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương.
9. Về cơ quan bảo vệ Hiến pháp
Qua nghiên cứu, thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị cần tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành của Hiến pháp năm 1992. Theo đó, cần tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu quả, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban pháp luật của Quốc hội trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; đồng thời, tiếp tục giao Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành hoặc thuộc phạm vi kiểm tra, giám sát, quản lý của mình. Không thành lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị đồng thời với việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành cần thành lập Hội đồng Hiến pháp với vai trò là cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập để giúp Quốc hội kiểm tra, kết luận về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan ở trung ương và địa phương ban hành; trường hợp phát hiện có vi phạm Hiến pháp thì yêu cầu cơ quan ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ văn bản. Ý kiến này cho rằng, đây là việc làm cần thiết nhằm thực hiện chủ trương của Đại hội IX và X về việc xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành.
Ủy ban tán thành với loại ý kiến thứ nhất và thể hiện vấn đề này như trong Dự thảo.
10. Về việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 126)
Về việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp sau khi đã được Quốc hội thông qua, có hai loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong điều kiện của hệ thống chính trị nước ta thì trưng cầu ý dân về Hiến pháp là sự kiện hệ trọng, nên giao cho Quốc hội quyền cân nhắc và quyết định để phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi giai đoạn.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, để thể hiện chủ quyền nhân dân, cần kết hợp quyền của nhân dân và thẩm quyền của Quốc hội trong việc làm và sửa đổi Hiến pháp. Vì vậy, đề nghị quy định theo hướng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua với đa số tuyệt đối thì phải được trưng cầu ý dân trước khi có hiệu lực. Quy định như vậy nhằm xác lập chủ quyền nhân dân đối với quyền lực nhà nước và việc thông qua Hiến pháp.
Ủy ban tán thành với loại ý kiến thứ nhất và thể hiện tại Điều 126 của Dự thảo.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thảo luận, cho ý kiến lần đầu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thông qua Nghị quyết về việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở ý kiến thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban sẽ chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chữu hữu quan tổ chức lấy ý kiến nhân dân theo Nghị quyết của Quốc hội.
Trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban sẽ tập hợp, tổng hợp và dự kiến tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2013); sau đó tiếp tục hoàn thiện trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2013).
*
* *
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là Tờ trình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ủy ban xin trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Như trên; - Lưu: UBDTSĐHP1992, HC. | | TM. ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 CHỦ TỊCH Nguyễn Sinh Hùng |
Tờ trình về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 02/02/1753
Số hiệu:
Mô tả:
Tờ trình số 11/TTr-UBTVQH13 ngày 02/08/2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
TotrinhsuadoiHienphap1992.doc
TỜ TRÌNH QUỐC HỘI
Về việc triển khai thực hiện chủ trương
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng “Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) phù hợp với tình hình mới” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc hội về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 như sau:
1. Sự cần thiết và mục đích, yêu cầu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
1.1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới đất nước. Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến to lớn, phức tạp và sâu sắc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng, trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, đã xác định rõ mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 cho phù hợp với tình hình mới là rất cần thiết.
1.2. Mục đích và yêu cầu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phải đạt được mục đích và yêu cầu chính sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa kịp thời đường lối, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, về bảo vệ Tổ quốc, về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải bám sát vào các nội dung của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và các văn kiện khác của Đảng.
Thứ hai, để ghi nhận những thành quả cách mạng và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau 25 năm đổi mới đất nước của nhân dân ta, do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, thể hiện lại một số nội dung và kỹ thuật trình bày, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản, có tính ổn định lâu dài. Nói chung Hiến pháp chỉ quy định các vấn đề lớn, còn các vấn đề cụ thể nên để luật quy định.
2. Quan điểm sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 được tiến hành dựa trên các quan điểm sau đây:
2.1. Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; phải căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đảng; tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, phù hợp với tình hình mới với những nội dung đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.
2.2. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 1992. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2.3. Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2.4. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.5. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.6. Sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ, khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
3. Một số định hướng lớn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Căn cứ vào các văn kiện của Đảng và tình hình thực tiễn của đất nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị một số định hướng lớn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 như sau:
3.1. Về chế độ chính trị
- Khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội đã được nhân dân ta, mà đại diện cao nhất là Quốc hội thừa nhận và ghi vào Hiến pháp.
- Khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo đó, phải làm rõ cách thức sử dụng quyền lực nhà nước của nhân dân thông qua cơ chế dân chủ đại diện (cơ quan quyền lực nhà nước) và cơ chế dân chủ trực tiếp.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để mỗi cơ quan thực thi có hiệu lực chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật, với sự phối hợp chặt chẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Theo đó, phải phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong Hiến pháp.
3.2. Về chế độ kinh tế
Sửa đổi, bổ sung các quy định bảo đảm mục tiêu, định hướng chính sách lớn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng hợp thành của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Không quy định cụ thể các biện pháp, chính sách kinh tế trong Hiến pháp mà để quy định trong các luật.
3.3. Về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ
Sửa đổi theo hướng Hiến pháp chỉ quy định những chủ trương, chính sách lớn mang tính định hướng, ổn định lâu dài, thể hiện rõ đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, những chính sách lớn về giáo dục, khoa học và công nghệ, khẳng định phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là phương tiện để phát triển đất nước, còn những vấn đề về biện pháp, các chính sách cụ thể để quy định trong các luật.
3.4. Về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Sửa đổi Hiến pháp để tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
3.5. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân
Khẳng định Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp, xác định rõ hơn phạm vi quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải có tính khả thi và ở tầm hiến định để phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
3.6. Về tổ chức bộ máy nhà nước
- Về Quốc hội: khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; thực hiện quyền giám sát tối cao; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; xác định rõ hơn nội dung những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội quyết định, trong đó có thẩm quyền quyết định về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước.
- Về Chủ tịch nước: xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thực hiện vị trí, vai trò là nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Về Chính phủ: xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong việc xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả; quy định rõ hơn ở tầm hiến định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, với các cơ quan tư pháp.
- Về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân: thực hiện phương hướng lấy Toà án làm trung tâm, tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; làm rõ vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân; nghiên cứu để quy định trong Hiến pháp một số nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
- Về cơ chế bảo vệ Hiến pháp: xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế tăng cường kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phù hợp với thể chế chính trị và thực tiễn Việt Nam.
- Về chính quyền địa phương: sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng nghiên cứu xác định rõ hơn địa vị pháp lý của chính quyền địa phương, mô hình tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, cơ chế phân cấp, phân quyền giữa trung ương với địa phương.
3.7. Về kỹ thuật trình bày các quy định của Hiến pháp
Sau gần 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đến nay nước ta đã có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đầy đủ, đồng bộ, đồng thời khoa học pháp lý cũng có bước phát triển mới nên cần nghiên cứu, rà soát lại những vấn đề về kỹ thuật văn bản, câu chữ trong các điều của Hiến pháp năm 1992; đồng thời nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập hiến của một số nước trên thế giới về quy trình, cách thể hiện, kỹ thuật trình bày Hiến pháp để các quy định của Hiến pháp được thể hiện rõ ràng, được hiểu một cách thống nhất; bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính ổn định lâu dài.
4. Tổ chức thực hiện
Để tổ chức, chỉ đạo việc tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội, tại kỳ họp thứ nhất ban hành Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do đồng chí Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch với thành phần gồm đại diện lãnh đạo các cơ quan, tổ chức ở trung ương (xin xem Tờ trình số 12/TTr-UBTVQH13 ngày 02/8/2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội).
Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp có nhiệm vụ tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992, xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tổ chức lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các cơ quan, tổ chức hữu quan và nhân dân để trình Quốc hội xem xét, thông qua. Trong quá trình thực hiện, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp bảo đảm đúng mục đích, yêu cầu, quan điểm và các định hướng cơ bản đã nói ở phần trên. Phấn đấu trình Quốc hội dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần thứ nhất vào kỳ họp cuối năm 2012, sau đó sẽ tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân khoảng 2 tháng, từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2013. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp sẽ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến hoàn chỉnh dự thảo và trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến vào giữa năm 2013. Tiếp đó, dự thảo sửa đổi Hiến pháp sẽ được tiếp thu, chỉnh lý trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu để trình Quốc hội xem xét, thông qua (xin xem dự kiến Kế hoạch sơ bộ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 kèm theo).
*
* *
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là những vấn đề cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Uỷ ban thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Các vị ĐBQH; - Lưu: HC, PL. | | TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH (đã ký) Uông Chu Lưu |
KẾ HOẠCH SƠ BỘ
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HIẾN PHÁP NĂM 1992
(Kèm theo Tờ trình số 11/TTr-UBTVQH13 ngày 02 tháng 8 năm 2011)
STT | NỘI DUNG CÔNG VIỆC | CƠ QUAN THỰC HIỆN | THỜI GIAN |
1. | Báo cáo Bộ Chính trị về kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 | Đảng đoàn Quốc hội | Tháng 5/2011 |
2. | Trình Ban chấp hành Trung ương về chủ trương và những định hướng cơ bản của việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 | Bộ Chính trị | Tháng 7/2011 |
3. | - Quyết định chủ trương sửa đổi Hiến pháp năm 1992 - Thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 | Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ nhất) | Tháng 7, tháng 8/2011 |
4. | Tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 | Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Từ tháng 8/2011 đến tháng 3/2012 |
5. | Báo cáo Bộ Chính trị lần thứ nhất về nội dung sửa đổi Hiến pháp | Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Tháng 4/2012 |
6. | Trình Ban chấp hành Trung ương về nội dung sửa đổi Hiến pháp | Bộ Chính trị | Tháng 6/2012 |
7. | Trình Quốc hội Dự thảo lần thứ nhất (dự thảo được xây dựng trên cơ sở ý kiến của Bộ Chính trị, BCH TW) | Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Tháng 10/2012 |
8. | Chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo lần thứ 2 theo ý kiến của đại biểu Quốc hội, báo cáo Bộ Chính trị, BCH TW | Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Từ tháng 11 đến 12/2012 |
9. | Công bố lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp (Dự thảo lần thứ 2) | Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Từ tháng 3 đến 4/2013 |
10. | Tổng hợp, tập hợp và chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo trên cơ sở ý kiến của Quốc hội, nhân dân, các ngành, các cấp và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương, đồng thời trình Quốc hội cho ý kiến (Dự thảo lần thứ 3) | Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Từ tháng 4 đến tháng 6/2013 |
11. | Tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp | Từ tháng 7 đến tháng 10/2013 |
12. | Trình Quốc hội thông qua Dự thảo Hiến pháp | Quốc hội khóa XIII | Tháng 10 năm 2013 |
Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 02/02/1753
Số hiệu:
Mô tả:
Báo cáo số 16/BC-UBTVQH13 ngày 06/08/2011 giải trình, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
bc16-TVQH.doc
BÁO CÁO
Giải trình, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
_______________
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Ngày 04 tháng 8 năm 2011, các vị đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về Tờ trình số 11/TTr-UBTVQH13 ngày 02/8/2011 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và việc thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Về cơ bản, ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội đều tán thành với nội dung Tờ trình và cho rằng, Tờ trình đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc; diễn đạt ngắn gọn, súc tích; xác định rõ mục đích, yêu cầu, quan điểm và những định hướng lớn của việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đóng góp vào một số nội dung cụ thể trong Tờ trình.
Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ngay sau phiên họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban pháp luật và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Uỷ ban thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội như sau:
1. Về sự cần thiết và mục đích, yêu cầu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Nhìn chung, ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội đều tán thành với sự cần thiết và mục đích, yêu cầu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 được nêu trong Tờ trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị bổ sung mục đích sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế và bổ sung yêu cầu của việc sửa đổi, bổ sung là phải tiến hành thận trọng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, những vấn đề mà đại biểu Quốc hội nêu, đã được thể hiện trong Tờ trình tại các mục 1.1, 2.1, 2.5, 2.6,… Vì vậy, xin Quốc hội cho giữ như Tờ trình về sự cần thiết và mục đích, yêu cầu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
2. Về quan điểm sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992
Về cơ bản, ý kiến các vị đại biểu Quốc hội đều tán thành với quan điểm chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã nêu trong Tờ trình. Có ý kiến đề nghị việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên cơ sở tổng kết, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây để có sự kế thừa, phát triển.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, vấn mà đại biểu nêu là cần thiết và hợp lý nhưng đã được thể hiện tại mục 2.1 của Tờ trình.
3. Về một số định hướng lớn sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
- Có ý kiến đề nghị làm rõ phạm vi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này là sửa đổi, bổ sung một số điều hay sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện để định hướng cho Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, khi chưa tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan, cũng như khi chưa nghiên cứu xây dựng dự thảo thì việc xác định ngay phạm vi sửa đổi, bổ sung một số điều hay sửa đổi toàn diện lúc này là chưa hợp lý. Vấn đề này sẽ được Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội khi xem xét, cho ý kiến về Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp (Dự thảo 1).
- Có ý kiến đề nghị phạm vi sửa đổi Hiến pháp lần này chủ yếu tập trung vào vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương. Ngược lại, nhiều ý kiến khác lại đề nghị cần nghiên cứu một cách toàn diện tất cả các chế định trong Hiến pháp để có sự đề xuất, kiến nghị phù hợp.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, như đã nêu ở Tờ trình việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là để thể chế hóa kịp thời đường lối, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh chính trị và các văn kiện khác của Đại hội Đảng lần thứ XI chứ không chỉ tập trung chủ yếu vào vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước.
- Về một số chế định trong Hiến pháp được đề cập tại Tờ trình, các vị đại biểu Quốc hội đã đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin ghi nhận và chuyển đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp để nghiên cứu tiếp thu nghiêm túc, đầy đủ khi xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
4. Về tổ chức thực hiện
Nhìn chung, các ý kiến đều tán thành với việc tổ chức thực hiện việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp như trong Tờ trình. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc thời gian để tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và thời gian trình Quốc hội dự thảo lần thứ nhất, vì cho rằng thời gian như vậy là quá ngắn.
Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, theo kế hoạch sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 thì các cơ quan, tổ chức hữu quan có 8 tháng (từ tháng 8/2011 đến tháng 3/2012) để tiến hành việc tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 và hơn một năm (từ tháng 8/2011 đến tháng 10/2012) để chuẩn bị dự thảo lần thứ nhất trình Quốc hôi. Với sự chuẩn bị nghiêm túc, tích cực và khẩn trương của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và các cơ quan hữu quan, sự tham gia của nhân dân cả nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng có thể bảo đảm tiến độ như đã dự kiến.
5. Về Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với thành phần, số lượng Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp như Tờ trình. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung đại diện một số cơ quan, tổ chức tham gia vào Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp như Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Liên đoàn luật sư Việt Nam, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học và công nghệ Việt Nam và một số đại biểu Quốc hội tiêu biểu thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã bổ sung đại diện Uỷ ban tư pháp, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học và công nghệ Việt Nam vào thành phần Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nâng tổng số thành viên Uỷ ban này lên 30 người. Số lượng này cũng phù hợp với những lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp trước đây (thường khoảng từ 15 đến 30 người, có trường hợp chỉ gồm 7 người như Uỷ ban dự thảo Hiến pháp năm 1946). Với cơ cấu này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thấy rằng về cơ bản đã bảo đảm sự cân đối nhất định giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội cũng như giữa các nhà quản lý và các chuyên gia, các nhà khoa học. Đồng thời, Uỷ ban dự thảo Hiến pháp sẽ thành lập Ban biên tập sửa đổi Hiến pháp giúp việc cho Uỷ ban với sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học đại diện cho các giới, ngành, nghề khác nhau vào quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
6. Về dự thảo Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Đa số ý kiến phát biểu đều tán thành với dự thảo Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Bên cạnh đó, có một số đại biểu Quốc hội có ý kiến về một số nội dung cụ thể, đó là:
- Có ý kiến đề nghị sắp xếp tên các vị tham gia Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong dự thảo Nghị quyết theo đúng thứ tự trong Tờ trình Quốc hội và gồm cả chức danh của từng vị.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho chỉnh lý lại tên, chức danh, chức vụ của các vị tham gia Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp như trong dự thảo Nghị quyết.
- Có ý kiến đề nghị dự thảo Nghị quyết cần thể hiện rõ quan điểm, định hướng lớn của việc nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp 1992 để có cơ sở pháp lý khi thực hiện.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho chỉnh lý lại như trong dự thảo Nghị quyết.
Ngoài những nội dung được giải trình, tiếp thu trên đây, các vị đại biểu Quốc hội còn đóng góp ý kiến về một số vấn đề thuộc nội dung và kỹ thuật cụ thể khác, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin ghi nhận và chuyển đến Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp.
*
* *
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Uỷ ban thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: - Các vị ĐBQH; - Lưu: HC, PL. | | TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH (đã ký) Uông Chu Lưu |
Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 02/02/1753
Số hiệu:
Mô tả:
Nghị quyết của Quốc hội số 06/2011/QH13 ngày 06/08/2011 về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
NQ6.doc
NGHỊ QUYẾT
VỀ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HIẾN PHÁP NĂM 1992
VÀ THÀNH LẬP ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Sau khi xem xét Tờ trình số 11/TTr-UBTVQH13 ngày 02 tháng 8 năm 2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Tờ trình số 12/TTr-UBTVQH13 ngày 02 tháng 8 năm 2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1
Quyết định việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) phù hợp với tình hình mới với mục đích, yêu cầu, quan điểm và định hướng sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 được nêu trong Tờ trình số 11/TTr-UBTVQH13 ngày 02 tháng 8 năm 2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Điều 2
Thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (gọi tắt là Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp) gồm các vị sau đây:
1. Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban.
2. Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban.
3. Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Ủy viên.
4. Nguyễn Thị Doan, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Ủy viên.
5. Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên.
6. Tòng Thị Phóng, Ủy viên Bộ chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên.
7. Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban tổ chức trung ương, Ủy viên.
8. Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban tuyên giáo trung ương, Ủy viên.
9. Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên.
10. Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an, Ủy viên.
11. Hà Thị Khiết, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban dân vận trung ương, Ủy viên.
12. Trương Hoà Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Ủy viên.
13. Nguyễn Hoà Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy viên.
14. K’sor Phước, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Ủy viên.
15. Nguyễn Văn Hiện, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Ủy viên.
16. Phan Trung Lý, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Ủy viên.
17. Nguyễn Văn Giàu, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội, Ủy viên.
18. Nguyễn Thái Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Ủy viên.
19. Hà Hùng Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Ủy viên.
20. Bùi Quang Vinh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy viên.
21. Nguyễn Hạnh Phúc, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Ủy viên.
22. Huỳnh Đảm, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên.
23. Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Ủy viên.
24. Nguyễn Thị Thanh Hoà, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Ủy viên.
25. Nguyễn Đắc Vinh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy viên.
26. Trần Hanh, Chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam, Ủy viên.
27. Nguyễn Quốc Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội nông dân Việt Nam, Ủy viên.
28. Lê Minh Tâm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội luật gia Việt Nam, Ủy viên.
29. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Viện khoa học xã hội Việt Nam, Ủy viên.
30. Châu Văn Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Viện khoa học và công nghệ Việt Nam, Ủy viên.
Điều 3
1. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp có nhiệm vụ tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp để trình Quốc hội xem xét, thông qua.
2. Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp ban hành Quy chế hoạt động của mình, thành lập Ban biên tập giúp việc cho Ủy ban.
3. Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm bảo đảm kinh phí và các điều kiện cần thiết khác, tổ chức phục vụ các hoạt động của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Ban biên tập.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 06 tháng 8 năm 2011.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
(đã ký)
Nguyễn Sinh Hùng