Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, tháng 10/2019
A0901_bc469-TVQH_gtrinh_dt_Luat_KTNN_sd___20191023175430-3.docx
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ, tại Hội trường về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước (KTNN).Trên cơ sở tổng hợp ý kiến thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Ủy ban Tài chính, Ngân sách, chủ trì, phối hợp với Kiểm toán Nhà nước (KTNN) và các cơ quan liên quanchỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo luật và gửi xin ý kiến các Đoàn ĐBQH. UBTVQH xin báo cáo Quốc hội, cụ thể như sau:
1. Việc thể chế hóa chủ trương của Đảng theo tinh thần Nghị quyết số 18/NQ-TW
Có ý kiến cho rằng, Dự thảo luật chưa bám sát chủ trương của Đảng, chủ yếu đề cập đến chức năng, nhiệm vụ và mở rộng quyền hạn của KTNN;chưa có các quy định để sắp xếp tổ chức, bộ máy;chưa làm rõ các quy định để xử lý chồng chéo giữa KTNN với các cơ quan thanh tra theo tinh thần Nghị quyết 18/NQ-TW.
UBTVQH nhận thấy, căn cứ Nghị quyết số 18-NQ/TW và Kế hoạch số 735-KH/ĐĐQH14, Dự thảo luật đã đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung hướng tới mục tiêu khắc phục chồng chéo giữa cơ quan thanh tra vàKTNN. Nội dung liên quan đến tổ chức, biên chế, bộ máy, KTNN đã lập, trình cấp có thẩm quyền các Đề án liên quan. Thực tế hiện nay, cơ quan thanh tra và KTNN có vị trí, chức năng, nhiệm vụ,phạm vi khác nhau được quy định tại 2 Luật khác nhau nhưng đều cần thiết để tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, trong khi chưa có sự phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và đối tượng của KTNN và thanh tra nếu không có sự phối hợp tốtgiữa KTNN và các cơ quan thanh tra sẽ chồng chéo về đối tượng , đơn vị và nội dung thanh tra, kiểm toán , ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Vì vậy,UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH,quy định rõ trách nhiệm phối hợp giữa KTNN với các cơ quan thanh tra và ngược lại trong quá trình lập, thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm toán; giao KTNN chủ trì trong công tác phối hợp để xử lý chồng chéo. Nội dung sửa đổi thể hiện ở khoản 10Điều 1 Dự thảo luật (bổ sung Điều 64a).
2. Về cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán
Có ý kiến cho rằng, quy định như Dự thảo luật là mở rộng đối tượng kiểm toán, trái với Luật KTNN và Hiến pháp. Ý kiến khác cho rằng, đối tượng kiểm toán theo Dự thảo luật là rất rộng, cần thu hẹp lại.Có ý kiến đề nghị làm rõ thế nào là “cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán”; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán.
UBTVQH nhận thấy, Dự thảo luật quy định khái niệm“cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán” chưa rõ, dẫn đến cách hiểu khác nhau, khi áp dụng dễ dẫn đến mở rộng đối tượng kiểm toán, vượt ra ngoài phạm vi là đơn vị quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Vì vậy, tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH bỏ điểm 1, điểm 2a khoản 10 Điều 1 trong Dự thảo luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 đồng thời, bổ sung vào phần giải thích thuật ngữ để làm rõ khái niệm cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán là cơ quan, tổ chức, cá nhânđược xác định trong quá trình kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán là có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Nội dung tiếp thu được thể hiện tại khoản 1 Điều 1 Dự thảo luật (bổ sung khoản 2a Điều 3). Để bảo đảm tính chặt chẽ, tránh cách hiểu, cách vận dụng khác nhau, có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Dự thảo luật bổ sung quy định trong trường hợp cần kiểm tra, đối chiếu thì phải đưa vào kế hoạch do Trưởng Đoàn kiểm toán duyệt, thể hiện cụ thể tại khoản 6 Điều 1 Dự thảo luật(sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 39). Ngoài ra, Dự thảo luật cũng bổ sung quy định KTNN chỉ được kiểm tra, đối chiếuđể làm rõ các nội dung liên quan trực tiếp đến nội dung, phạm vikiểm toán của đơn vị được kiểm toán. Nội dung tiếp thu xin được thể hiện cụ thể tạikhoản 3 Điều 1 Dự thảo luật (bổ sung khoản 2a Điều 11). Đồng thời,Dự thảo luật cũng bổ sung quyền được nhận thông báo kết luận, kiến nghị của KTNN, quyền được khiếu nại về hành vi của thành viên Đoàn kiểm toán, về kết luận, kiến nghị kiểm toán, khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng KTNN, thể hiện tại khoản 9, 11, 13, 14Điều 1 và Điều 3 Dự thảo luật để khách quan, công bằng và bảo đảm quyền lợi cho các đối tượng này.
3. Về bổ sung nhiệm vụ giám định tư pháp
Một số ý kiến tán thành việc bổ sung nội dung nàysong băn khoăn vì dễ phải thành lập thêm tổ chức bộ máy, chưa phù hợp với Nghị quyết TW.Một số ý kiến đề nghị giới hạn chỉ giám định khi cấp có thẩm quyền yêu cầu để tránh chồng chéo và phù hợp với khả năng của KTNN. Có ý kiến cho rằng, nên giao tổ chức giám định tài chính thực hiện, không giaoKTNN.Ý kiến khác cho rằng, theo quy định của Luật Giám định tư pháp, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện giám định theo trưng cầu của cơ quan tố tụng kể cả KTNN nên không cần quy định trong Luật KTNN.Có ý kiến đề nghị không nên bổ sung nội dung này vào Luật KTNN,nếu cần thiết thì bổ sung trong Luật Giám định tư pháp.
UBTVQH nhận thấy, việc đề xuất bổ sung quy định này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khi các cơ quan tố tụng đề nghị KTNN thực hiện giám định đối với một số vụ việc cụ thể phục vụ quá trình xem xét, giải quyết các vụ án tham nhũng, kinh tế. Tuy nhiên, nếu bổ sung nhiệm vụ giám định tư pháp cho KTNN thì KTNN sẽ trở thành cơ quan giám định chuyên trách, trong khi nhiệm vụ của KTNN theo Hiến pháp và Luật KTNN rất nặng nề nên khó khăn cho KTNN trong triển khai thực hiện. Đồng thời, theo chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2019 và năm 2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 và thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV. Trong quá trình sửa đổi Luật Giám định tư pháp sẽ nghiên cứu, bổ sung hợp lý nội dung này nếu cần thiết. Vì vậy, xin không bổ sung nhiệm vụ giám định tư pháp cho KTNN vào Dự thảo luật.
4. Về bổ sung thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật và xử lý vi phạm hành chính
Nhiều ý kiến đồng tình bổ sung thẩm quyền cho KTNN nhưng đề nghị cần đánh giá và xem xét kỹ để tránh xung đột với các luật chuyên ngành.Có ý kiến cho rằng, Dự thảo luật có nội dung chồng chéo với một số luật khác, có nội dung vượt thẩm quyền, có nội dung chưa phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Có ý kiến cho rằng,một số quy định không thuộc phạm vi của Luật này mà phải quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính.
UBTVQH nhận thấy, việc trao cho KTNN thẩm quyền ban hành VBQPPL, quyền xử phạt vi phạm hành chính là cần thiết, nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động của KTNN. Tuy nhiên, Luật này chỉ quy định thẩm quyền của KTNN còn quy định về hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;trình tự, thủ tục, hành vi vi phạm, mức xử phạt hành chính,... sẽ được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Xử lý vi phạm hành chính để tránh trùng lắp trong hệ thống pháp luật.
5. Về bổ sung quy định để thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng
Có ý kiến đề nghịrà soát để tránh dẫn chiếu quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN). Có ý kiến cho rằng, Dự thảo luật có nội dung mở rộng hơn Luật PCTN, có thể chồng chéo với nhiệm vụ của các cơ quan điều tra như thẩm quyền “xác minh” cho tất cả các trường hợp trong hoạt động kiểm toán, ban hành quyết định kiểm toán khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật,…; có nội dung thu hẹp phạm vi trách nhiệm của Trưởng đoàn, Đoàn kiểm toán, kiểm toán viên khi không phát hiện sai sót qua kiểm toándo bổ sung thêm cụm từ “cùng hồ sơ, tài liệu” vào nội dung Điều 64 Luật PCTN.Có ý kiến đề nghị bám sát các quy định tại Chương II, Chương III Luật PCTN để quy định việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng trong nội bộ.
UBTVQH nhận thấy, ý kiến của các vị ĐBQH là xác đáng. Vì vậy, xin tiếp thu, rà soát, lược bỏ, thể hiện lại hoặc bổ sung một số điều, khoản trong Dự thảo luật theo hướng hạn chế dẫn chiếu các nội dung đã được quy định trong Luật PCTN như: Bỏ các quy định về quyền “xác minh” tại điểm 2a khoản 3 và điểm 2 khoản 7 Điều 1 Dự thảo luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7; bỏ quy định về trách nhiệm của thành viên Đoàn kiểm toán khi đã kiểm toán nhưng không phát hiện tham nhũng do đã quy định rõ tại Điều 64 Luật PCTN và để thực hiện đúng quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Ban hành VBQPPL “không quy định lại các nội dung đã được quy định trong VBQPPL khác”; sửa quy định KTNN ban hành quyết định kiểm toán khi“có dấu hiệu vi phạm pháp luật” thành KTNN có nhiệm vụ xem xét, quyết định việc kiểm toán khi “có dấu hiệu tham nhũng” cho phù hợp với Luật PCTN và sửa khoản 3 Điều 30 Luật KTNNđể bảo đảmphù hợp, tương thích. Quy định Tổng KTNN quyết định và tổ chức các biện pháp cụ thể để phòng, chống tham nhũng trong nội bộ KTNNtheo quy định của Luật PCTN (thể hiện tại khoản 4 Điều 1 Dự thảo luật), làm căn cứ cho KTNN rà soát lại các quy định đã ban hành để đảm bảo theo yêu cầu của Luật PCTN (Quy tắc ứng xử của kiểm toán viên nhà nước; quy định, hướng dẫn chi tiết về việc định kỳ chuyển đổi các vị trí công tác; quy định về luân chuyển, điều động công chức,…). Quy định Tổng KTNN ban hành “Quy trình kiểm toán các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng” để quy định các nội dung Luật PCTN dẫn chiếu thực hiện theo pháp luật về KTNN .
6. Về bổ sung quyền truy cập dữ liệu điện tử của đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và cơ sở dữ liệu quốc gia
Có ý kiến tán thành quy định của Dự thảo luật nhưng đề nghị quy định chặt chẽ để bảo đảm bí mật của đơn vị được kiểm toán. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm và phân quyền truy cập phù hợp.Có ý kiến đề nghị không giao quyền truy cập cho KTNN vì liên quan đến an ninh, tài liệu mật, tối mật, quyền riêng tư được pháp luật bảo hộ, quy định bảo vệ bí mật nhà nước.
UBTVQH nhận thấy, việc bổ sung quyền truy cập cho KTNN là cần thiết để phục vụ hoạt động kiểm toán và phù hợp với thời đại công nghệ thông tin, xu thế của cách mạng 4.0. Tuy nhiên, đúng như ý kiến của các vị ĐBQH đã nêu,cơ sở dữ liệu quốc gia, dữ liệu điện tử của đơn vị được kiểm toán và của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán có nhiều loại thông tin khác nhau, có cả những thông tin mật, tối mật, tuyệt mật, có những thông tin là bí mật riêng tư, bí mật nhà nước,…nên cần phân cấp quyền truy cập phù hợp và phải quản lý, giám sát chặt chẽ. Vì vậy, UBTVQH xin tiếp thu,quy định rõ chỉ cho phép KTNN truy cập cơ sở dữ liệu quốc gia, dữ liệu điện tử để thu thập thông tin liên quan trực tiếp đến nội dung, phạm vi kiểm toán; chỉ Trưởng đoàn kiểm toán được phép truy cập dưới sự giám sát và thống nhất về phạm vi truy cập của đơn vị được kiểm toán hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán (Trưởng Đoàn kiểm toán có thể ủy quyền truy cập bằng văn bản theo quy định của pháp luật); đồng thời, KTNN chịu trách nhiệm bảo vệ bí mật, bảo mật, an toàn theo quy định của pháp luật. Nội dung tiếp thu thể hiện tạikhoản 3, khoản 6 Điều 1 Dự thảo luật.
7. Về kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN
Một số ý kiến cho rằng, KTNN vừa ban hành quy định về tổ chức, hoạt động kiểm soát vừa thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chất lượng chỉ là việc thực hiện kiểm soát trong nội bộ kiểm toán,cần có cơ quan, tổ chức độc lập để kiểm soát chất lượng kiểm toán, giám sát hoạt động kiểm toán. Vì vậy, đề nghị quy định giao cho một cơ quan của Quốc hội hoặc sử dụng một cơ quan kiểm toán độc lập để kiểm soát, giám sát hoạt động kiểm toán. Có ý kiến đề nghị quy định việc phối hợp giữa Ủy ban TCNS của Quốc hội và KTNN để tổ chức các phiên giải trình về báo cáo của các cuộc kiểm toán lớn, quan trọng; Có ý kiến đề nghị cân nhắc việc tổ chức kiểm soát chất lượng kiểm toán vì tăng thêm biên chế, bộ máy.
UBTVQH nhận thấy, khoản 1 Điều 63 Luật KTNN hiện hành đã quy định Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,… theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giám sát hoạt độngKTNN theo quy định của pháp luật; khoản 2 Điều 63 quy định Tổng KTNN có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác của KTNN trước Quốc hội, UBTVQH; báo cáo, giải trình, cung cấp tài liệu,… theo yêu cầu của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,… Khoản 43 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã quy định hình thức, nội dung, kế hoạch, trình tự tổ chức và thực hiện phiên giải trình của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội nên đã bảo đảm đủ căn cứ để thực hiện việc giám sát đối với hoạt động của KTNN và tổ chứcgiải trình đối với báo cáo kiểm toán khi cần thiết. Vì vậy, xin không bổ sung nội dung này vào Dự thảo luật.
Việc tổ chức kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN là hết sức cần thiết để bảo đảm kỷ cương, kỷ luật và chất lượng trong hoạt động kiểm toán, phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, KTNN đã ban hành các văn bản dưới luật để điều chỉnh, thực tế đã tổ chức bộ máy và đang triển khai kiểm soát chất lượng kiểm toán có hiệu quả. Vì vậy, UBTVQH cho rằng, việc bổ sung để Luật hóa nội dung kiểm soát chất lượng kiểm toán là phù hợp. Tuy nhiên, nội dung thể hiện trong Dự thảo luật có thể dẫn đến cách hiểu là KTNN phải thành lập thêm bộ máy để thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, UBTVQH xin tiếp thu, chỉnh sửa cho rõ hơn và thể hiện cụ thể tại khoản 8 Điều 1 Dự thảo luật (bổ sung Điều 49a).
8. Về quyền khiếu nại, khởi kiệntrong hoạt động kiểm toán
Có ý kiến đề nghị quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với báo cáo kiểm toán phải được quy định như quyền khiếu nại đối với các lĩnh vực khác. Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp không đồng ý với kết luận, kiến nghị của KTNN. Đề nghị quy định theo hướng khởi kiện ra tòa và quy định rõ cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý. Quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại. Ý kiến khácđề nghị bổ sung điều, khoản cụ thể vào Dự thảo luật để sửa đổi các điều, khoản liên quan của Luật Khiếu nại,Luật Tố tụng hành chính,đặc biệt là đảm bảo quyền khởi kiện ra tòa vì báo cáo kiểm toán không phải là quyết định hành chính. Có ý kiến cho rằng, kết luận kiểm toán có giá trị pháp lý bắt buộc phải thực hiện nếu không quy định đối tượng được kiểm toán có quyền khiếu nại, khởi kiện sẽ không bảo đảm khách quan, công bằng.
UBTVQH nhận thấy, đúng như các vị ĐBQH đã nêu, Luật KTNN đã quy định về giải quyết khiếu nại của đơn vị được kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán nhưng chưa thực sự đầy đủ, đặc biệt là chưa bảo đảm quyền khởi kiện ra tòa khi đơn vị được kiểm toán không đồng ý với đánh giá, xác nhận, kết luận, kiến nghị trong báo cáo kiểm toán. Đồng thời, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán cũng chưa có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với hành vi của thành viên Đoàn kiểm toán, kết luận, kiến nghị kiểm toán. Vì vậy,xin tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH,quy định rõ đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán được quyền khiếu nạivới Tổng KTNN về hành vi của Trưởng Đoàn kiểm toán, Tổ trưởng Tổ kiểm toán và thành viên Đoàn kiểm toán; đơn vị được kiểm toán được quyền khiếu nại với Tổng KTNN về các đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị trong báo cáo kiểm toán;cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán có quyền khiếu nại với Tổng KTNNvề kết luận, kiến nghị trong thông báo kết luận, kiến nghị kiểm toán. Dự thảo luật cũng bổ sung,quy định rõ trình tự, thủ tục, thời gian khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật hiện hành, Báo cáo kiểm toán của KTNN được lập và công bố sau mỗi cuộc kiểm toán, tức là báo cáo kiểm toán chỉ lập và công bố đối với các đơn vị được kiểm toán trong kế hoạch kiểm toán năm (đơn vị đầu mối), còn các đơn vị được kiểm toán trực thuộc đơn vị kiểm toán đầu mối thì không lập báo cáo kiểm toán mà chỉ lập biên bản kiểm toán. Thực tế hiện nay, KTNNchỉ gửi báo cáo kiểm toán cho đơn vị là đầu mối trong kế hoạch kiểm toán năm,các đơn vị được kiểm toán còn lại được nhận thông báo kết quả kiểm toán. Vì vậy, để bảo đảm đầy đủ căn cứ giải quyết khiếu nại, khởi kiện trong hoạt động kiểm toán, xin bổ sung quy định trường hợp báo cáo kiểm toán được tổng hợp từ nhiều đơn vị được kiểm toán, KTNN gửi cho từng đơn vị được kiểm toán thông báo kết quả kiểm toán về đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với đơn vị đó trong báo cáo kiểm toán (thể hiện tại khoản 7 Điều 1 Dự thảo luật).Khi đó, thông báo kết quả kiểm toán là căn cứ để đơn vị được kiểm toán khiếu nại, khởi kiện theo quy định.
Đồng thời, Dự thảo luật cũng quy định rõ nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng KTNN thì đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán có quyền khởi kiện ra tòa. Trình tự, thủ tục khởi kiện thực hiện theo Luật Tố tụng hành chính và để thực hiện được việc khởi kiện, xin sửa đổi một số điều, khoản và một số nội dung mang tính kỹ thuật của Luật Tố tụng hành chính (bổ sung cụm từ “quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán” vào sau cụm từ “quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh” tại một số điều, khoản của Luật Tố tụng hành chính). Các sửa đổi này chỉ là bổ sung thêm tố tụng trong hoạt động kiểm toán, không ảnh hưởng hay thay đổi hoạt động tố tụng hành chính hiện hành đang triển khai thực hiện và các quy định về khởi kiện có thể thực hiện được ngay khi Luật có hiệu lực thi hành, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị được kiểm toán và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Nội dung tiếp thu thể hiện cụ thể tại khoản 9, 11, 13, 14 Điều 1 và Điều 3Dự thảo luật.
9. Về một số nội dung khác
(1)Có ý kiến đề nghịquy định cụ thể hơn để đẩy mạnh công tác công khai báo cáo kiểm toán;bổ sung quy định về phạm vi, nội dung, thời hạn công khai báo cáo kiểm toán, chế tài xử phạt khi vi phạm quy định về công khai.
UBTVQH nhận thấy, Luật KTNN hiện hành đã quy định đầy đủ về công khai báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH sẽ chỉ đạo KTNN hoàn thiện các văn bản dưới Luật để chi tiết, cụ thể việc công khai báo cáo kiểm toán, đặc biệt là công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán; tổ chức thực hiện hiệu quả hơn công tác công khai để tạo sự lan tỏa các kết quả kiểm toán, góp phần chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán.
(2) Có ý kiến đề nghị rà soát, thể hiện lại cho phù hợp và bảo đảm chặt chẽ hơn về trách nhiệm của Trưởng đoàn, thành viên Đoàn kiểm toán.
UBTVQH nhận thấy, ngoài các nội dung sửa đổi về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Trưởng Đoàn kiểm toán như đã nêu trên (truy cập dữ liệu điện tử, duyệt kế hoạch kiểm tra, đối chiếu tại cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán...) Điều 39, 40, 41, 42 Luật hiện hành đã quy định tương đối chặt chẽ, đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thành viên đoàn KTNN và thực tế thực hiện không phát sinh vướng mắc. Vì vậy, xin cho giữ như Luật hiện hành.
(3) Về kỹ thuật văn bản: Một số ý kiến góp ý liên quan đến kỹ thuật văn bản, UBTVQH đã nghiêm túc tiếp thu, rà soát, chỉnh lý và thể hiện cụ thể tại các điều, khoản của Dự thảo luật. Đồng thời, rà soát, chỉnh lý để bảo đảm thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ trong Dự thảo luật.
Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN, Ủy banThường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Tổng hợp ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, tháng 10-11/2019
A0903_Tong_hop_yk_Doan_ve_dt_Luat_Kiem_toan_NN_sd___20191024141736.docx
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Tổng Thư ký Quốc hội đã gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) về Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước (KTNN, Dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo luật đã được tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến các vị ĐBQH tại kỳ họp thứ 7 và ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 36, 37.
Tính đến ngày 22/10/2019, Tổng Thư ký Quốc hội đã nhận được ý kiến góp ý của 36/63 Đoàn ĐBQH. Đa số ý kiến nhất trí với các quy định của Dự thảo luật. Một số ý kiến góp ý cụ thể vào nội dung Dự thảo luật. Tổng Thư ký Quốc hội xin báo cáo tổng hợp ý kiến của các Đoàn ĐBQH về Dự thảo luật này, cụ thể như sau:
1. Khoản 1 Điều 1 (bổ sung khoản 3a Điều 3)
Có ý kiến đề nghị:
+ Bổ sung cụm từ“kiểm toán viên” trước “xác định trong quá trình kiểm toán”.
+ Bổ sung từ “được” trước “xác định trong quá trình kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán”.
+ Thay cụm từ “được bổ sung vào kế hoạch kiểm toán của cấp có thẩm quyền” bằng “được xác định hoặc bổ sung vào trong kế hoạch kiểm toán của cấp thẩm quyền” hoặc “được bổ sung vào kế hoạch kiểm toán của cấp có thẩm quyền hàng năm” hoặc “được bổ sung vào Kế hoạch kiểm toán do cơ quan ban hành kế hoạch kiểm toán ký bổ sung” hoặc quy định “và được bổ sung vào kế hoạch chi tiết của Tổ kiểm toán”.
+ Bỏ cụm từ “tại đơn vị được kiểm toán” trước “có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”.
+ Bỏ cụm từ “mà xác định” trước “trong quá trình kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán” và bổ sung cụm từ “được xác định” trước “có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán”.
+ Bỏ cụm từ “mà xác định trong quá trình kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán”, thay từ “bổ sung” bằng từ “đưa” và bỏ cụm từ “của cấp có thẩm quyền” trong “và được bổ sung vào kế hoạch kiểm toán hàng năm của cấp có thẩm quyền”.
+ Bỏ từ “mà” và bổ sung cụm từ “cần phải kiểm tra, đối chiếu” trước “trong quá trình kiểm toán”; bổ sung từ “do” trước “ có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”.
+ Bỏ cụm từ “và được bổ sung vào kế hoạch kiểm toán của cấp có thẩm quyền”.
+ Bỏ cụm từ “mà trong quá trình kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán xác định”.
+ Bỏ cụm từ “được kiểm toán” trong“tại đơn vị được kiểm toán”.
+ Bỏ nội dung này và thực hiện theo quy định của Luật hiện hành.
+ Bổ sung quy định ràng buộc trách nhiệm của KTNN trong việc xác định phạm vi hoạt động của mỗi cuộc kiểm toán, bảo đảm xác định cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hợp lý, tránh việc mở rộng phạm vi tùy tiện, khó kiểm soát, gây phiền hà và có thể phát sinh tiêu cực trong quá trình kiểm toán.
+ Quy định rõ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán và phải được xác định trong kế hoạch kiểm toán, báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện. Nếu cần phải bổ sung cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán vào kế hoạch kiểm toán thì phải báo cáo UBTVQH trước khi thực hiện.
2. Khoản 2 Điều 1 (Bổ sung khoản 6a Điều 10)
- Một số ý kiến đề nghị không bổ sung nội dung này vì không cần thiết, chồng chéo và trùng lặp với quy định của Luật Phòng chống tham nhũng.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định dẫn chiếu các quy định của Luật phòng, chống tham nhũng; quy định cụ thể quyền xác minh, thủ tục xác minh,…; phân biệt rõ xác minh và điều tra; trách nhiệm của Trưởng đoàn, đoàn kiểm toán, kiểm toán viên khi không phát hiện sai sót qua kiểm toán khi cơ quan khác phát hiện có sai sót.
- Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Luật Phòng, chống tham nhũng” bằng từ “pháp luật về phòng, chống tham nhũng”.
3. Khoản 3 Điều 1 (Sửa đổi, bổ sung khoản 2, bổ sung khoản 2a và bổ sung khoản 6a Điều 11)
- Có ý kiến đề nghị sửa khoản 2 Điều 11:
+ Bổ sung từ “mục đích”sau “liên quan trực tiếp đến nội dung”.
+ Bổ sung cụm từ “và phạm vi kiểm toán; đơn vị kiểm toán” trước “chịu trách nhiệm bảo vệ bí mật, bảo mật, an toàn theo quy định của pháp luật”.
+ Bổ sung cụm từ “và phạm vi kiểm toán” sau“nội dung kiểm toán”.
+ Bổ sung cụm từ “trích xuất dữ liệu” sau “được truy cập vào dữ liệu điện tử”.
- Có ý kiến đề nghị sửa khoản 2a Điều 11:
+ Bỏ cụm từ “của đơn vị được kiểm toán” trước “tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”.
+ Thay cụm từ “đơn vịđược kiểm toán” bằng “các cơ quan, tổ chức, cá nhân được kiểm toán”.
+ Thay cụm từ “có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán” bằng “có liên quan đến hoạt động kiểm toán”.
+ Thay từ “thực hiện” bằng từ “được” trước từ “kiểm tra, đối chiếu các nội dung…”.
+ Bổ sung cụm từ “có dấu hiệu vi phạm”.
+ Quy định việc “giám sát của đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán”trong quá trình KTNN truy cập, khai thác thông tin, tài liệu có liên quan trực tiếp đến nội dung kiểm toán.
+ Có 1 khoản quy định riêng cho việc truy cập thông tin cơ sở dữ liệu thuộc bí mật quốc gia.
- Có ý kiến đề nghị sửa khoản 6a Điều 11:
+ Thay cụm từ “theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính” bằng “theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”.
+ Phân định rõ trường hợp KTNN trực tiếp xử lý vi phạm, trường hợp đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý theo quy định của Luật hiện hành.
+Bổ sung nội dung “và có báo cáo kết quả cụ thể số liệu đã xử lý vi phạm hành chính sau khi kiểm toán có thông báo kết luận kiểm toán” sau“theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính”.
+ Không bổ sung khoản 6a. Nếu cần thiết thì quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính.
+ Không giao thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cho KTNN, chỉ bổ sung thẩm quyền yêu cầu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán của KTNN.
- Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 3 Điều 1 vì đã được bổ sung ở khoản 6 Điều 1 đồng thời, quy định theo hướng trao quyền này cho cơ quan điều tra khi xác định các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
4. Khoản 4 Điều 1 (Sửa đổi khoản 4 và bổ sung khoản 4a Điều 13)
- Có ý kiến đề nghị sửa khoản 4 Điều 13:
+ Bổ sung cụm từ “định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với người có chức vụ, quyền hạn” trước “trong KTNN theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng”.
+ Bổ sung quy định Tổng KTNN quy định cụ thể danh mục vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi; Phương thức thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị định số 59/2019/NĐ-CP của Chính phủ.
+ Bỏ cụm từ “trong nội bộ KTNN” trong“phòng, chống tham nhũng trong nội bộ KTNN theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng”.
- Có ý kiến đề nghị sửa khoản 4a Điều 13:
+ Bổ sung cụm từ “Ban hành Quy trình kiểm toán theo kế hoạch kiểm toán hàng năm” trước “quy trình kiểm toán các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng”.
+ Sửa lại như sau: “4a. Ban hành Quy trình kiểm toán để quy định trình tự, thủ tục tiến hành kiểm toán, việc xác minh, làm rõ nội dung tham nhũng, việc công khai báo cáo kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng”.
+ Dấu hiệu tham nhũng là một phạm trù rất rộng, nếu không xác định được phạm vi của “dấu hiệu tham nhũng” sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng luật. Luật phòng, chống tham nhũng không quy định thế nào là dấu hiệu tham nhũng mà chỉ quy định thế nào là tham nhũng và các hành vi tham nhũng. Vì vậy, đề nghị nghiên cứu, điều chỉnh.
+ Không cần thiết phải bổ sung khoản 4a Điều 13 mà cần quy định việc thực hiện theo thủ tục tố tụng hình sự (thủ tục điều tra).
5. Khoản 5 Điều 1 (Bổ sung khoản 4 Điều 30)
Có ý kiến đề nghị:
+ Không bổ sung quy định “có dấu hiệu tham nhũng” hoặc sửa đổi theo hướng “có dấu hiệu tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng”.
+ Bổ sung căn cứ ban hành quyết định kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán.
+ Giải thích rõ cụm từ “có dấu hiệu tham nhũng”.
+ Thay cụm từ “có dấu hiệu tham nhũng” bằng“theo đề nghị của cơ quan trung ương, tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương về phòng, chống tham nhũng”.
6. Khoản 6 Điều 1 (bổ sung điểm h khoản 2 Điều 39)
Có ý kiến đề nghị:
+ Bỏ cụm từ “truy cập, khai thác”, “truy cập, khai thác trên hệ thống” và bổ sung cụm từ “vào cơ sở” để phù hợp với khoản 2 Điều 11.
+ Bỏ cụm từ “và thống nhất về phạm vi truy cập, khai thác”; bổ sung cụm từ “ về việc truy cập, khai thác dữ liệu và” trước “bảo vệ bí mật, bảo mật,…”.
+ Bổ sung cụm từ “có sự hướng dẫn của cơ quan, đơn vị” trước cụm từ “dưới sự giám sát”.
+ Bổ sung từ “cơ quan” trước “tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán”.
+ Bổ sung cụm từ “Trưởng Đoàn kiểm toán” vào trước“được quyền truy cập, khai thác hoặc ủy quyền bằng văn bản theo quy định của pháp luật cho thành viên đoàn kiểm toán truy cập, khai thác…”.
+ Thay cụm từ “thành viên đoàn kiểm toán” bằng “tổ trưởng tổ kiểm toán”.
+ Thống nhất Trưởng đoàn kiểm toán được ủy quyền song quy định rõ Trưởng đoàn kiểm toán phải chịu trách nhiệm bảo vệ bí mật, bảo đảm an toàn hệ thống theo quy định của pháp luật.
+ Quy định phân cấp, phân quyền và có sự giám sát chặt chẽ, bảo đảm yêu cầu bảo mật thông tin phù hợp.
+ Chỉ Trưởng Đoàn kiểm toán được quyền truy cập, không ủy quyền cho thành viên đoàn kiểm toán.
+ Quy định cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm, điều kiện về trình độ và phân quyền truy cập phù hợp với từng cấp độ kiểm toán viên.
+ Trong trường hợp đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán không thống nhất về phạm vi truy cập và khai thác dữ liệu thì Trưởng đoàn kiểm toán hoặc thành viên được ủy quyền có được truy cập, khai thác dữ liệu hay không. Đề nghị nghiên cứu, điều chỉnh.
+ Đưa nội dung “chịu trách nhiệm bảo vệ bí mật, bảo mật, an toàn theo quy định của pháp luật” vào nội dung khoản 3 Điều 39.
7. Về quyền truy cập, khai thác thông tin trên hệ thống dữ liệu điện tử (khoản 3, khoản 6 Điều 1)
Có ý kiến đề nghị:
+ Chỉ áp dụng đối với cơ quan, tổ chức. Đối với dữ liệu điện tử của cá nhân chỉ được truy cập trong trường hợp đã phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật rõ ràng. Nếu quy định như Dự thảo luật sẽ dẫn đến quyền riêng tư của cá nhân bị xâm phạm.
+ Xem lạiquy định này vì một số ngành, một số đơn vị thuộc lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có các dữ liệu liên quan đến bí mật công tác thì có nên cho kiểm toán truy cập không.
+ Xem xét lại quyền được truy cập, khai thác thông tin của KTNN vì sẽ làm lộ bí mật thông tin của đơn vị được kiểm toán. Đề nghị đơn vị được kiểm toán tự cung cấp hồ sơ, tài liệu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thông tin đã cung cấp.
+ Không giao quyền cho KTNN.
+ Đối với các nội dung sửa đổi tại Điều 11 và điểm h khoản 2 Điều 39: Đề nghị rà soát lược bỏ từ “trực tiếp” trong cụm từ “liên quan trực tiếp”.
8. Khoản 7 Điều 1 (bổ sung Điều 49a)
- Có ý kiến cho rằng, quy định này chưa thể hiện rõ tính chắc chắn, hiệu quả, sự đảm bảo của kết quả kiểm soát chất lượng. Cần có thêm một cơ chế kiểm soát khách quan hơn.
- Có ý kiến đề nghị:
+ Sửa lại tên Điều 49a “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán” và bổ sung từ “hoạt động” trước từ “kiểm toán” trong nội dung Điều 49a.
+ Quy định cụ thể việc tổ chức kiểm soát chất lượng kiểm toán, thời gian kiểm soát chất lượng kiểm toán có thể theo tháng hoặc theo quý.
+ Quy định cụ thể để bảo đảm không phải thành lập thêm bộ máy để thực hiện nhiệm vụ này.
+ Giao UBTVQH quy định cụ thể về tổ chức thực hiện kiểm soát chất lượng kiểm toán, không giao Tổng KTNN quy định nội dung này.
+ Không nên quy định thêm về cơ quan kiểm soát chất lượng kiểm toán vì Luật hiện hành đã quy định cụ thể cơ quan giám sát và cơ quan yêu cầu giải trình.
+ Quy định cơ quan có chức năng kiểm soát chéo với cơ quan kiểm toán để bảo đảm quá trình giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan.
+ Bổ sung nội dung đánh giá của cơ quan được kiểm toán đối với KTNN.
+ Không bổ sung nội dung này.
+ Bỏ “trong Mục 4 Chương IV”.
- Có ý kiến cho rằng,KTNNtự kiểm soát chất lượng kiểm toán khó có thể đảm bảo khách quan. Đề nghịquy định cơ quan, đơn vị độc lập có chức năng gần giống với cơ quan kiểm toán để thực hiện việc kiểm soát hoạt động và chất lượng kiểm toán.
9. Khoản 8 Điều 1 (Sửa đổi, bổ sung khoản 4 và khoản 5 Điều 56)
Có ý kiến đề nghị sửa lại như sau: “4. Khiếu nại về hành vi của thành viên Đoàn kiểm toán …quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị được kiểm toán…”.
5. Khiếu nại về đánh giá, xác nhận, kết luận… quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị được kiểm toán…”.
10. Khoản 9 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 57)
Có ý kiến đề nghị:
+ Sửa như sau: “7. Trong thời gian giải quyết khiếu nại hoặc khởi kiện, đơn vị được kiểm toán vẫn phải thực hiện đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN, trừ trường hợptrong quá trình giải quyết khiếu nại, khởi kiện nếu xét thấy việc thi hành một phần hoặc toàn bộ kết luận, kiến nghị kiểm toán bị khiếu nại, khởi kiện sẽ gây hậu quả khó khắc phục thìTổng KTNN ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ kết luận, kiến nghị kiểm toán”.
+ Bỏ cụm từ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” để phù hợp với khoản 4 Điều 69.
+ Bổ sung: Trong thời gian cá nhân hoặc cơ quan có thẩm giải quyết khiếu nại hoặc Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ kiện, đơn vị được kiểm toán …
11. Khoản 10 Điều 1 (Bổ sung Điều 64a)
Có ý kiến đề nghị:
+ Bổ sung khoản 4 như sau: Trường hợp hai cơ quan không thống nhất được việc xử lý trùng lắp, chồng chéo thì báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
+ Làm rõ trong trường hợp 2 cơ quan không thống nhất được việc xử lý chồng chéo, trùng lắp thì cơ quan nào sẽ điều hòa hoạt động này.
+ Bổ sung quy định KTNN chủ động phối hợp với cơ quan thanh tra, kiểm tra khi lập kế hoạch kiểm toán, báo cáo Quốc hội.
+ Thay cụm từ “xử lý” bằng cụm từ “rà soát”.
+ Quy định thời gian, đơn vị, địa chỉ và nội dung chi tiết trong kế hoạch kiểm toán tại khoản 1 Điều 69a để các đơn vị chủ động triển khai thực hiện, tránh trùng lắp với hoạt động của cơ quan thanh tra.
+ Xem lại cụm từ “trùng lắp” và “chồng chéo”. Đề nghị quy định rõ, cụ thể, chính xác hơn (trùng lắp cái gì, chồng chéo cái gì, chồng chéo thế nào).
+ Tại khoản 3 giao “KTNN chủ trì, phối hợp với cơ quan thanh tra để xử lý”. Đề nghị làm rõ lý do giao KTNN chủ trì. Để phù hợp hơn, đề nghị sửa theo hướng, khi tiến hành hoạt động kiểm toán, hoạt động thanh tra, nếu cơ quan nào phát hiện ra sự bất hợp lý của hoạt động thanh tra, kiểm toán (cùng nội dung, cùng thời gian…) thì cơ quan đó chủ trì và cơ quan kia phối hợp, để xử lý.
+ Quy định cụ thể hơn trách nhiệm phối hợp giữa KTNN với cơ quan thanh tra và giữa cơ quan thanh tra với KTNN trong quá trình lập, thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm toán, nhất là trong xử lý những vấn đề trùng lắp, chồng chéo.
+ Thay cụm từ “Thanh tra Chính phủ”bằng “các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra” tại khoản 1 Điều 64a.
+ Khoản 3 Điều 64a quy định theo hướng: Khi tiến hành hoạt động thanh tra, nếu phát hiện trùng lắp, chồng chéo, cơ quan thanh tra chủ trì, phối hợp với Kiểm toán nhà nước để xử lý và khi tiến hành hoạt động kiểm toán, nếu phát hiện trùng lắp, chồng chéo, Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với cơ quan thanh tra để xử lý.
+ Trong trường hợp nội dung thanh tra và kiểm toán khác nhau và không trùng lắp, chồng chéo thì có thể thực hiện đồng thời hoạt động thanh tra và kiếm toán tại một cơ quan, đơn vị hay không. Đề nghị xem xét, quy định rõ.
+ Quy định như Dự thảo luật là phù hợp. Tuy nhiên, chưa giải quyết triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp vì chỉ mang tính chất khuyến nghị. Việc phối hợp xử lý, việc cơ quan thanh tra, kiểm toán có tiếp tục thanh tra, kiểm toán nội dung đã được cơ quan khác thanh tra, kiểm toán không chưa được làm rõ, chưa quy định không được thanh tra, kiểm toán quá 1 lần/năm/đơn vị. Đề nghị nghiên cứu, điều chỉnh.
+ Không bổ sung Điều 64a vì chức năng của KTNN, thanh tra, kiểm tra là khác nhau.
+ Trước khi sửa đổi, bổ sung quy định này cần tổng kết, đánh giá thực trạng để sửa đổi toàn diện, đầy đủ.
+ Giao Chính phủ quy định rõ trách nhiệm phối hợp giữa KTNN với các cơ quan thanh tra trong quá trình lập, thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm toán.
12. Khoản 11 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 68)
Có ý kiến đề nghị:
+ Sửa khoản 2, Điều 68 theo hướng: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toáncó trách nhiệm thực hiện “kịp thời, đầy đủ”kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, gửi báo cáo kết quả thực hiện cho Kiểm toán nhà nước”.
+ Xem lại quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán được nhận thông báo kết luận, kiến nghị kiểm toán bằng văn bản của Kiểm toán nhà nước” vì đây là quyền, không phải trách nhiệm nên quy định trong điều về trách nhiệm là chưa phù hợp.
13.Khoản 13 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 69)
- Nhất trí với quy định của Dự thảo luật. Đề nghị rà soát để bảo đảm thống nhất, tránh trùng chéo hoặc mâu thuẫn với các quy định hiện hành. Nghiên cứu, bổ sung quy định về tố cáo trong hoạt động kiểm toán.
Có ý kiến đề nghị:
+ Bổ sung các quy định về điều kiện thụ lý khiếu nại, các khiếu nại không được thụ lý giải quyết, thời hiệu khiếu nại trong trường hợp ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác, quy định về việc rút khiếu nại nếu thấy đặc thù hoặc quy định theo hướng dẫn chiếu đến Luật Khiếu nại.
+ Đề nghị thay từ “bênlàm đơn khiếu nại” bằng “người làm đơn khiếu nại”.
+ Đề nghị rà soát, thay thế các từ “bên làm đơn khiếu nại”, “bên khiếu nại” bằng từ “người khiếu nại”.
+ Quy địnhTổng KTNN phải chờ cho đến khi “hết thời hạn giải quyết khiếu nại” mới được ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là bất hợp lý, đề nghị xem xét lại.
+ Xem lại quy định về khiếu nại vì khó khăn trong thực hiện do việc chứng minh hành vi của KTNN gây thiệt hại cho đơn vị được kiểm toán là rất khó thực hiện.
+ Xem lại quy định về thời hiệu khiếu nại để thống nhất với quy định của Luật khiếu nại vì khoản 4 Điều 3 Luật khiếu nại quy định các cơ quan quy định việc thực hiện khiếu nại theo các quy định của Luật khiếu nại.
+ Xem lại quy định tại khoản 3 Điều 69 vì chưa rõ trong trường hợp hết thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thì Tổng KTNN chưa thông báo bằng văn bản cho bên khiếu nại thì khiếu nại có được giải quyết không.
+ Không bổ sung quy định tại khoản 2 và khoản 5 Điều 69. Quyền khiếu nại của đơn vị được kiểm toán và các cơ quan, tổ, chức, cá nhân có liên quan thực hiện theo quy định của Luật khiếu nại.
+ Quy định quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực KTNN thực hiện như quyền khiếu nại đối với các lĩnh vực khác; bổ sung quy định cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp không đồng ý với kết luận, kiến nghị của KTNN. Quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán thực hiện theo quy định của Luật khiếu nại.
+ Trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại thực hiện theo quy định của Luật khiếu nại, không nên quy định trong Luật này.
+ Quy định “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo thụ lý đơn khiếu nại” tại khoản 5 Điều 69.
+ Sửa lại điểm c khoản 1 Điều 69:“Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo kết luận, kiến nghị …”.
+ Sửa lại điểm d khoản 1 Điều 69:“Trong thời hạn giải quyết khiếu nại, Tổng KTNN phải ban hành quyết định giải quyết khiếu nại …”.
+ Khoản 4 Điều 69: Đề nghị xem xét, bổ sung quyết định tạm đình chỉ của cơ quan có thẩm quyền vì mới chỉ đề cập đến quyết định tạm đình chỉ của Tổng KTNN nhưng theo quy định tại khoản 9 Điều 1 thì Tổng KTNN, cơ quan nhà nước có thẩm quyền được ban hành quyết định tạm đình chỉ thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán. Đề nghị quy định về thời gian Tổng KTNN xem xét, ra quyết định thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán trong quá trình giải quyết khiếu nại.
+ Điểm a Khoản 6 Điều 69 quy định“Quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động KTNN có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ký”là trái Luật Khiếu nại năm 2011 vì đã tước quyền khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án; đồng thời quy định như trong dự thảo Luật cũng mâu thuẫn với Khoản 7 Điều 69 và Khoản14 Điều 1.
+ Quy định tại Khoản 13 Điều 1 là chưa đầy đủ, chỉ nên quy định “Khi có khiếu nại về Báo cáo nhận xét của đơn vị kiểm toán mà ý kiến nhận xét đó gây thiệt hại cho đơn vị được kiểm toán, thì được xem xét theo qui định của Luật khiếu nại”.
+ Thay từ “bên làm đơn khiếu nại” thành cụm từ “đơn vị kiểm toán và cơ quan, đơn vị có liên quan” tại khoản 2, khoản 6 Điều 69.
+ Thay cụm từ “kéo dài” thành cụm từ “gia hạn” tại điểm c khoản 5 Điều 69.
+ Gộp nội dung điểm b, điểm c khoản 1 Điều 69 thành 01 điểm vì có nội dung gần giống nhau.
+ Xem lạiquy định “Trong thời hạn 30 ngày” để bảo đảm thống nhất với quy định tại Điều 9 Luật Khiếu nại “Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày”.
+ Ban hành trình tự giải quyết đặc thù riêng, khác biệt so với quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật.
+ Dự thảo luật chưa quy định báo cáo kiểm toán có được sử dụng trong hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát không nên cần nghiên cứu, sửa đổi nội dung này.
+ Trong báo cáo kiểm toán chưa phân tách được nội dung kiến nghị là phát hiện truy thu, thu nộp bổ sung về tài chính và kiến nghị chỉ mang tính khuyến nghị, không làm phát sinh nghĩa vụ tài chính, dẫn đến tình trạng số kiến nghị xử lý tài chính của KTNN chưa phản ánh đúng bản chất số phát sinh thêm nghĩa vụ về tài chính đơn vị phải thực hiện. Đề nghị nghiên cứu, quy định cụ thể về nội dung kiến nghị truy thu và khuyến nghị của báo cáo kiểm toán để bảo đảm tính chính xác, phù hợp của các kiến nghị về xử lý tài chính trong báo cáo kiểm toán.
+ Sửa “trong thời hạn 30 ngày làm việc” tại điểm b khoản 1 Điều 69.
14.Khoản 14 Điều 1 (Bổ sung Điều 69a)
- Nhất trí với Dự thảo luật. Đề nghị bổ sung trình tự, thủ tục khởi kiện thực hiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính để thực hiện được ngay khi Luật này có hiệu lực thi hành.
Có ý kiến đề nghị:
+ Chuyển nội dung “Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng KTNN, được quyền khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính” sang nội dung về giải quyết khiếu nại.
+ Nội dung quy định tại khoản 1 Điều 69a liên quan đến Luật xử lý vi phạm hành chính nên đề nghị đối chiếu và bổ sung thẩm quyền của KTNN trong Luật xử lý vi phạm hành chính.
+ Xem lại Khoản 1 Điều 69a vì trái Luật Tố tụng hành chính (thời hiệu khởi kiện trong tố tụng hành chính là 01 năm kế từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính).
+ Bỏ “trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động KTNN”.
+ Bỏ quy định “Trường hợp Tòa án thụ lý đơn khởi kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều này, KTNN có trách nhiệm chuyển hồ sơ vụ việc đến Tòa án trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án” tại Khoản 2 Điều 69a vì khi vụ việc đã được Tòa án thụ lý, Tòa án sẽ có văn bản yêu cầu cơ quan kiểm toán cung cấp hồ sơ vụ việc.
15.Điều 3 Luật hiện hành
Có ý kiến đề nghị:
+ Bổ sung giải thích từ ngữ đối với khái niệm “có dấu hiệu tham nhũng”.
+ Khoản 5 Điều 3: Đề nghị thay cụm từ “hoạt động kiểm toán của KTNN” bằng cụm từ “hoạt động kiểm toán” và chỉnh lý, sử dụng cụm từ này trong nội dung các điều, khoản của Luật.
+ Sửa lại khoản 5 Điều 3 theo hướng bỏ cụm từ “của Kiểm toán nhà nước”trước cụm từ “là việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của các thông tin tài chính công” và bổ sung cụm từ “tại một đơn vị được kiểm toán” ở cuối khoản 5 Điều 3.
16.Điều 39 Luật hiện hành
Có ý kiến đề nghị sửa điểm b khoản 1 Điều 39 theo hướng bổ sung nội dung “tổ chức thông báo bằng văn bản về ý kiến giải trình của đơn vị được kiểm toán đối với những kiến nghị xử lý mà đơn vị không thực hiện được” sau cụm từ “ký vào báo cáo kiểm toán”.
17.Điều 47 Luật hiện hành
Có ý kiến đề nghị:
+ Sửa quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật hiện hành từ “trong thời hạn 10 ngày” thành “trong thời hạn 10 ngày làm việc”.
+ Điều chỉnh theo hướng mở rộng thời gian phản hồi của đơn vị được kiểm toán.
+ Bổ sung nội dung “trong thời hạn 20 ngày kể từ khi nhận được ý kiến bằng văn bản của đơn vị được kiểm toán, KTNN có trách nhiệm thông báo cho đơn vị về việc đồng ý hoặc không đồng ý với ý kiến của đơn vị được kiểm toán” vào cuối khoản 2 Điều 47 Luật hiện hành.
18.Điều 49 Luật hiện hành
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định hướng dẫn cách giải quyết đối với các trường hợp khó thực hiện hoặc không thực hiện được kết luận, kiến nghị kiểm toán.
19.Điều 56 Luật hiện hành
Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “giải trình các vấn đề do Đoàn kiểm toán, kiểm toán viên yêu cầu” sau cụm từ “từ chối cung cấp thông tin, tài liệu” tại khoản 2 Điều 56.
20.Điều 57 Luật hiện hành
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 6 Điều 57 (Nghĩa vụ của đơn vị kiểm toán) như sau: “Thực hiện đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán …báo cáo bằng văn bản về việc thực hiện kết luận, kiến nghị đó cho KTNN đồng gửi cơ quan tài chính cùng cấp để phối hợp thực hiện”.
21.Về tính khả thi của Dự thảo luật
Có ý kiến đề nghị làm rõ với hiện trạng tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực như hiện nay thì KTNN có thể đảm nhận thêm một số chức năng, nhiệm vụ mới theo quy định của Dự thảo luật (phòng, chống tham nhũng, giám định tư pháp,…). Việc bổ sung các nhiệm vụ này có làm tăng thêm tổ chức bộ máy, biên chế trong cơ quan KTNN không.
22.Về tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật
Có ý kiến băn khoăn về việc Dự thảo luật quy định bổ sung các quyền cho KTNN như thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, truy cập dữ liệu điện tử, kiểm soát chất lượng kiểm toán, ban hành VBQPPL,… có thể chồng chéo với các luật khác. Đề nghị rà soát lại để bảo đảm tính đồng bộ.
Có ý kiến cho rằng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nướckhông nêndẫn chiếu đến nhiều mối quan hệ với các Luật khác như Luật Tố tụng hành chính, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật phòng chống tham nhũng, Luật Khiếu nại…sửa đổi theo hướng “theo quy định của pháp luật”.
23.Về tên gọi và căn cứ pháp lý ban hành luật
- Điều 2 Dự thảo luật có sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tố tụng hành chính. Đề nghị nghiên cứu, chỉnh sửa tên gọi của dự thảo Luật đảm bảo phù hợp, thống nhất với phạm vi các nội dung của Dự thảo luật. có thể cân nhắc theo hướng “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN và các luật có liên quan” hoặc “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN và Luật Tố tụng hành chính”.
- Đề nghị bổ sung căn cứ pháp lý là Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 để bảo đảm tính đầy đủ.
24.Nội dung khác
Có ý kiến đề nghị:
+ Bổ sung quy định về việc kiểm tra, đối chiếu trong thực hiện kiểm toán đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động kiểm toán; sửa đổi quy định vể trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động kiểm toán và tách quy định về trách nhiệm của các cơ quan khác.
+ Bổ sung vào Dự thảo luật điều, khoản riêng về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán.
+ Bổ sung nhiệm vụ giám định tư pháp cho KTNN song đề nghị quy định rõ phạm vi chỉ thực hiện giám định khi cấp có thẩm quyền yêu cầu.
+ Làm rõ trách nhiệm của cơ quan thuế khi ra quyết định xử phạt bị doanh nghiệp khởi kiện về kết quả kiểm toán.
+ Bổ sung cụm từ “và các đơn vị liên quan đến đơn vị được kiểm toán” vào sau tiêu đề của Chương V, Điều 55, Điều 56, Điều 57, Điều 58.
+ Bổ sung quy định liên quan đến việc đẩy mạnh công tác công khai báo cáo kiểm toán; phạm vi, nội dung, thời hạn công khai báo cáo kiểm toán; chế tài xử phạt khi vi phạm; quy định cụ thể các giải pháp để tổ chức hiệu quả hơn công tác công khai báo cáo kiểm toán.
+ Bổ sung quy định kiểm soát quyền lực của cơ quan kiểm toán; xem xét thêm đối tượng điều chỉnh, phạm vi áp dụng của Luật phòng, chống tham nhũng vào các thành viên Đoàn kiểm toán.
+ Xem xét, quy định thời gian để đơn vị được kiểm toán giải trình đối với dự thảo báo cáo kiểm toán là 10-15 ngày làm việc; bổ sung quy định KTNN giám sát đối với các báo cáo kiểm toán độc lập; bổ sung quy định về cách thức phối hợp trong thực hiện Quy chế phối hợp giữa KTNN với các bộ, ngành, địa phương; bổ sung quy định về sự phối hợp của KTNN khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
+ Làm rõ hơn nội dung về trách nhiệm chủ trì, phối hợp của cơ quan kiểm toán và cơ quan thanh tra trong hoạt động thanh tra, kiểm toán tại khoản 3 Điều 1.
+ Bổ sung quy định về việc ban hành trình tự giải quyết khiếu nại tại khoản 12 Điều 1 theo đặc thù riêng của lĩnh vực kiểm toán (cần có quy định khác biệt so với quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật).
+ Thay từ “lại” tại khoản 12 Điều 1 bằng từ “đổi”.
- Có ý kiến đề nghị rà soát, bổ sung từ ngữ một số điều khoản như:
+ Bổ sung từ “Luật” vào trước từ “thực hành” tại khoản 4 Điều 1 (bổ sung khoản 4 Điều 13).
+ Bổ sung từ “lãng phí” vào cuối khoản 5 Điều 1 (bổ sung khoản 4 Điều 30).
+ Thay từ “trùng lắp” bằng từ “trùng lặp” tại khoản 10 Điều 1 (bổ sung Điều 64a) cho thống nhất với quy định của Luật Thanh tra.
+ Sử dụng thống nhất cụm từ “Tổng Kiểm toán nhà nước” (vì có chỗ ghi “Tổng Kiểm toán Nhà nước”.
+ Sửa tên gọi trong tiêu đề khoản 1 Điều 69 và Điểm c khoản 1 Điều 69 thành “Kiểm toán nhà nước”.
+ Bổ sung từ “làm việc” vào sau cụm từ “30 ngày” tại Điểm b khoản 1 Điều 69.
- Nghiên cứu, bổ sung quy định về hình thức, thủ tục tiến hành khảo sát, thu thập thông tin tại khoản 1 Điều 45 Luật KTNN theo hướng đơn giản, dễ thực hiện.
- Nghiên cứu, bổ sung quy định về cơ chế giám sát, phân công cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan KTNN (hiện chưa có cơ quan nào có quyền thực hiện kiểm toán cơ quan KTNN).
- Bổ sung quy định cụ thể, chi tiết hơn về việc công khai trong hoạt động kiểm toán.
- Cân nhắc, bổ sung nội dung để xác định phạm vi điều chỉnh của Dự thảo luật nhằm xác định sửa đổi, bổ sung những nội dung, điều khoản nào của Luật KTNN và Luật tố tụng hành chính.
- Đề nghị bổ sung trách nhiệm của KTNN trong việc tham gia với Ủy ban TCNS và các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra baoscaos về dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW.
25.Luật Tố tụng hành chính
- Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “buộc” vào trước “Tổng KTNN giải quyết lại quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán theo qui định của pháp luật có liên quan” (điểm đ, khoản 1 Điều 296 Luật tố tụng hành chính).
- Khoản 1 Điều 2: Một số ý kiến đề nghị bỏ đoạn “Tổng Kiểm toán Nhà nước giải quyết lại quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán theo quy định của pháp luật có liên quan” (sửa đổi, bổ sung điểm đ khoản 2 Điều 193) vì Luật Khiếu nại không quy định cơ quan thụ lý giải quyết khiếu nại sẽ tiếp tục giải quyết lại quyết định khiếu nại của mình; chỉ có giải quyết khiếu nại lần một, giải quyết khiếu nại lần hai (do cơ quan cấp trên của cơ quan giải quyết khiếu nại lần một giải quyết).
Trên đây là Báo cáo tổng hợp ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội về Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước, Tổng Thư ký Quốc hội xin trân trọng báo cáo.
Báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về các nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 21/08/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 36 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV
1_bc1650-TCNS_ve_noi_dung_con_khac_nhau_cua_Luat_KTNN___20190812080147_(1).doc
Tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận tại Tổ và Hội trường về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 21/08/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 36 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV
5_Tong_hop_thluan_To_HT_ve_DA_Luat_KTNN_sd___20190812145642.doc
Báo cáo Tiếp thu, giải trình ý kiến của Chính phủ về Dự án Luật
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 22/05/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV
A17.01_TTr510-KTNN_ve_DA_Luat_KTNN_(sd).doc
Báo cáo Tiếp thu và giải trình ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 22/05/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV
A17.03a_bc408-KTNN_gtrinh_yk_TVQH_ve_DA_Luat_KTNN_(sd).doc
Tờ trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 22/05/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV
A17.01_TTr510-KTNN_ve_DA_Luat_KTNN_(sd).doc
Báo cáo thẩm tra Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 22/05/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV
A1710_bc1529-TCNS_tham_tra_DA_Luat_KTNN_sd___20190517174757.doc
Báo cáo Thẩm tra sơ bộ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
10_bc-TCNS_thtra_DA_Luat_KTNN_sd___20190311143441.docx
Các quy định về KTNN trong Hiến pháp 2013
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
9._Cac_quy_dinh_ve_KTNN_trong_Hien_phap_2013.doc
Tuyên bố Mexico
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
7.2.Tuyen_bo_Mexico.doc
Tuyên bố Lima
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
7.1.Tuyen_bo_Lima.doc
Báo cáo tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý về Dự án Luật
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
3._Tong_hop_gtrinh_yk_gop_y_DA_Luat_KTNN_(sd).doc
Báo cáo tóm lược một số quy định pháp lý về kiểm toán một số nước trên thế giới
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
7._Qdinh_phap_ly_ve_KTNN_tren_the_gioi.doc
Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
5._bc237-KTNN_danh_gia_tac_dong_Luat_KTNN.doc
Báo cáo tổng kết 3 năm thi hành và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
4._bc_tong_ket_thi_hanh_Luat_KTNN.doc
Tờ trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 13/03/2019
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
1._TTr238-KTNN_ve_DA_Luat_KTNN_(sd).doc
Báo cáo tổng hợp và giải trình, tiếp thu ý kiến hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sđ, bs một số điều của Luật KTNN
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 07/08/2018
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015, tài liệu phục vụ xin ý kiến Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
5.Tong_hop_y_kien__Ho_so_de_nghi_xd_luat_(1)_(2).doc
TT NỘI DUNG Ý KIẾN ĐƠN VỊ TIẾP THU, GIẢI TRÌNH
I Ý kiến nhất trí hoàn toàn 11 UBND các tỉnh, gồm:
Quảng Trị, Đồng Tháp, Bắc Kạn, Hà Giang, Bến Tre, Tiền Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Đồng Nai, Ninh Bình
II Ý kiến về các đánh giá kết quả thi hành Luật
1 Nhất trí hoàn toàn với các đánh giá về kết quả tổ chức thực hiện Luật KTNN năm 2015 UBND tỉnh Lào Cai, Quảng Bình, Hưng Yên, Bình Dương, Cà Mau, TP Hà Nội; Bộ Quốc phòng.
2 Ý kiến khác
Dự thảo bổ sung nhiều nội dung trong đó có nội dung sửa đổi hoặc mở rộng so với luật chuyên ngành như Luật ban hành văn bản QPPL, Luật KNTC, Luật PCTN. Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, Dự thảo cần đề xuất phương án xử lý đối với các quy định hiện hành trong trường hợp sửa đổi hoặc bổ sung các quy định của các đạo luật này. Văn phòng Quốc hội Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kiểm toán của KTNN và đảm bảo đồng bộ trong hệ thống pháp luật, KTNN đề nghị giữ như dự thảo.
Một số tồn tại, hạn chế trong báo cáo tổng kết nhưng chưa có đề xuất sửa đổi cụ thể như việc phân cấp, tăng cường trách nhiệm của Tổng KTNN trong thiết lập hệ thống tổ chức. Văn phòng Quốc hội KTNN tiếp thu bổ sung các đề xuất phù hợp với các tồn tại, hạn chế.
Đề nghị làm rõ nội dung “qua 3 năm thực hiện Luật cho thấy các kỳ thi cấp chứng chỉ kiểm toán viên nhà nước và kỳ thi ngạch kiểm toán viên được tổ chức theo quy định của Luật KTNN năm 2015 đã gây áp lực lớn đối với công chức dự thi, công tác tổ chức thực hiện còn gặp nhiều úng túng, thiếu thống nhất ” Bộ Nội vụ KTNN tiếp thu
Bổ sung Báo cáo đánh giá tác động, đánh giá tác động của từng chính sách, những quy định chưa rõ, chưa thống nhất với pháp luật chuyên ngành khác có liên quan đảm bảo rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan kiểm toán tránh chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan kiểm tra của Đảng, đặc biệt với lĩnh vực phòng, chống tham nhũng, lĩnh vực tài chính ngân sách. Bộ Nội vụ KTNN tiếp thu, bổ sung trong báo cáo đánh giá tác động.
Báo cáo cần tách bạch các hạn chế, vướng mắc xuất phát từ nội hàm các quy định của Luật (để đề xuất sđ, bs các quy đinh liên quan) và các hạn chế do triển khai thực hiện (trong trường hợp này có thể không cần sửa đổi Luật mà cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong thực thi Luật). Văn phòng Quốc hội KTNN tiếp thu
Đề nghị tách dự thảo Báo cáo thành 02 văn bản độc lập là: Báo cáo tổng kết 03 năm thi hành Luật KTNN và Tờ trình đề nghị xây dựng Luật sđ, bs Luật KTNN; đồng thời, bổ sung Báo cáo đánh giá tác động của chính sách và đề cương dự thảo Luật. Tòa án nhân dân tối cáo KTNN tiếp thu
III Ý kiến về các đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật KTNN năm 2015
1 Nhất trí với Sự cần thiết sửa đổi Luật KTNN Hầu hết các cơ quan nhất trí với sự cần thiết sửa đổi Luật, trong đó một số cơ quan nhất trí cao như: Bộ Nội vụ, Học viện Tài chính, UBND tỉnh Lao Cai, Bình Dương, Cà Mau,…
2 Đối với đề nghị sửa đổi khoản 3 Điều 3 về đơn vị được kiểm toán
Lựa chọn Phương án 1 để thể hiện đầy đủ hơn về đơn vị được kiểm toán Học viện Tài chính, UBND tỉnh Lào Cai, Gia Lai KTNN tiếp thu
Đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 3 như sau: Đơn vị được kiểm toán là cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các bên trong hợp đồng PPP. UBND tỉnh Lạng Sơn KTNN đề nghị giữ như phương án 1, vì sửa đổi như vậy sẽ không bao quát được hết hoạt đông quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
Lựa chọn phương án 2 “Đơn vị được kiểm toán là cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công” cho phù hợp với Hiến pháp và đối tượng được kiểm toán tại Điều 4 Luật KTNN Bộ Quốc phòng, UBND tỉnh Tuyên Quang, Quảng Bình KTNN đề nghị chọn phương án 1, để kiểm toán bao quát hết được việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công ngoài các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công cần kiểm toán cả các tổ chức liên quan đến quản lý sử dụng tài chính công tài sản công
Đề nghị cân nhắc không nên mở rộng đối tượng theo Phương án 1 “… Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công” do quá rộng và khó xác định Tập đoàn Dầu khí Việt Nam KTNN đề nghị giữ như phương án 1, vì sửa đổi như phương án 1 mới bao quát được hết hoạt đông quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
Đề nghị quy định cụ thể về đối chiếu số liệu đối với các đơn vị không phải là đơn vị được kiểm toán để tránh việc đối chiếu quá nhiều. UBND TP. Đà Nẵng KTNN tiếp thu
3 Về bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho KTNN
Nhất trí bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN UBND tỉnh Quảng Bình KTNN tiếp thu
Nhất trí bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho KTNN Tòa án nhân dân tối cao KTNN tiếp thu
4 Về bổ sung nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, giám định tài chính
Luật PCTN đã quy định rõ vai trò, trách nhiệm của KTNN thông qua việc thực hiện chức năng kiểm toán. Do đó, có thể cân nhắc việc cụ thể hóa các quy định này nhằm thể hiện rõ hơn các nội dung công việc KTNN phải thực hiện trong PCTN song cần lưu ý để tránh việc quy định lặp lại các nội dung đã được quy định trong Luật PCTN. Văn phòng Quốc hội Kiểm toán nhà nước tiếp thu, trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật sẽ rà soát, đối chiếu với Luật PCTN.
Nhất trí bổ sung quy định Kiểm toán nhà nước thực hiện giám định tài chính theo yêu cầu của cơ quan điều tra, cơ quan tư pháp. UBND tỉnh Gia Lai KTNN tiếp thu
Đề nghị bổ sung nội dung “Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về …” vào Điều 10 Luật KTNN mà không vào Điều 11 Luật KTNN Tập đoàn Dầu khí Việt Nam KTNN tiếp thu
5 Về xây dựng kế hoạch KTNN năm và biện pháp tránh chồng chéo trong hoạt động kiểm toán và thanh tra, kiểm tra
Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật KTNN để tránh trùng lắp giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra với hoạt động Kiểm toán nhà nước; tránh chồng chéo, trùng lắp kế hoạch kiểm toán hàng năm giữa Kiểm toán nhà nước và kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra của các bộ ngành, kế hoạch thanh tra của Ủy ban nhân dân các địa phương, các Sở, ngành nhằm tránh trường hợp chồng chéo về nội dung kiểm tra, kiểm toán và các đoàn thanh tra, kiểm toán cùng thực hiện tại một đơn vị trong năm. UBND tỉnh Gia Lai Nội dung này đã được thể hiện trong dự thảo Đề cương đề xuất sửa đổi Luật.
Đề nghị sửa thành kế hoạch kiểm toán hàng năm có sự tham gia của Thanh tra Chính phủ để tránh sự chồng chéo trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. UBND tỉnh Lào Cai Để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động KTNN, KTNN tự quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện. Tuy nhiên, để hạn chế chồng chéo giữa hoạt động thanh tra, kiểm toán, giữa KTNN và Thanh tra Chính phủ đã ký quy chế phối hợp công tác hạn chế được chồng chéo với Thanh tra chính phủ. Chủ yếu còn tồn tại sự chồng chéo giữa hoạt động kiểm toán và hoạt động thanh tra của các bộ ngành và thanh tra địa phương.
Đề nghị quy định rõ thời gian xây dựng, ban hành và gửi kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN để có thời gian, làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra cho phù hợp, tránh chồng chéo. UBND tỉnh Hưng Yên Vấn đề này, KTNN sẽ bổ sung trong Quy trình lập và ban hành kế hoạch kiểm toán năm của KTNN do vậy, không quy định nội dung này trong Luật.
Việc xây dựng kế hoạch thanh tra hàng năm của ngành thanh tra được thực hiện theo Thông tư số 01/2014/TT-TTCP của Tổng Thanh tra Chính phủ. Bên cạnh đó, Kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ, thanh tra bộ , ngành và thanh tra các tỉnh, thành phố được phê duyệt, ban hành trước kế hoạch kiểm toán năm của KTNN. Do đó, đề nghị tăng cường sự phối hợp giữa Thanh tra chính phủ và KTNN trước khi xây dựng kế hoạch Thanh tra, kiểm tra, kiểm toán hàng năm. UBND tỉnh Quảng Bình KTNN tiếp thu
Việc bổ sung quy định nhằm góp phần khắc phục tình trạng chồng chéo, trung lắp chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ giữa các cơ quan là cần thiết. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành kế hoạch thanh tra được ban hành sớm hơn kế hoạch kiểm toán; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị là khác nhau và được quy định rõ trong các luật chuyên ngành. Do đó, các quy định sửa đổi cần được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa quy định chức năng, nhiệm vụ các cơ quan liên quan hướng tới mục tiêu khắc phục hạn chế hiện hành song cũng phải tuân thủ các quy định về chức năng, nhiệm vụ của tứng cơ quan. Vì vậy, cân nhắc thêm đối với quy định thể hiện trong dự thảo báo cáo. Có thể nghiên cứu theo hướng quy định cụ thể hơn về cơ chế phối hợp, tăng cường sự phối hợp trong quá trình hoạt động trong đó đề xuất xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm nhằm tránh chồng chéo, trung lắp giữa thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Văn phòng Quốc hội Đề nghị giữ như dự thảo. Việc quy định sửa đỏi, bổ sung khoản 1 Điều 10 Luật KTNN năm 2015 trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 98/TB-VPCP ngày 22/2/2017 thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc làm việc với Kiểm toán nhà nước.
Theo Luật KTNN, KTNN được độc lập xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm, quá trình xây dựng vẫn lấy ý kiến cơ quan thanh tra bộ, ngành, các ủy ban của Quốc hội…. Tuy nhiên, để hạn chế mức thấp nhất tình trạng trùng lắp, chồng chéo giữa hoạt động kiểm toán và hoạt động thanh tra, kiểm tra, đề nghị cân nhắc bổ sung quy định việc lấy ý kiến HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để tham khảo đối với kế hoạch kiểm toán có liên quan đến địa phương trước khi tổng hợp, báo cáo Quốc hội. UBND thành phố Hà Nội KTNN đề nghị giữ như dự thảo, để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động KTNN. Tuy nhiên, để hạn chế chồng chéo giữa hoạt động kiểm toán và hoạt động thanh tra, kiểm tra, thời gian tới KTNN sẽ chỉ đạo các KTNN khu vực lưu ý khi xây dựng kế hoạch của đơn vị mình trước khi trình Tổng KTNN để ban hành kế hoạch chung của KTNN.
Kế hoạch kiểm toán trong năm cần lồng ghép các đợt khảo sát số liệu kiểm toán, các cuộc kiểm tra việc thực hiện kết luận kiến nghị kiểm toán với các đợt thực hiện kiểm toán hàng năm (kiểm toán chuyên đề) để tránh việc 01 năm các cơ quan, đơn vị phải bố trí thời gian và nhân sự phục vụ rất nhiều đoàn kiểm toán, thanh tra ảnh hưởng đến việc xử lý nhiệm vụ chuyên môn hàng ngày được giao. UBND tỉnh Đăk Nông KTNN tiếp thu
6 Về bổ sung khoản 12b Điều 55 giải thích cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công
Nhất trí bổ sung 1 khoản giải thích về cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Đối với việc kiểm toán thuế cần cụ thể hóa bằng một văn bản QPPL tạo cơ sở pháp lý cho KTNN thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, biên tập lại như sau cho chuẩn xác “Trên cơ sở quy định của luật, ban hành quy trình, xác định nội dung và phương pháp kiểm toán phù hợp tại cơ quan thuế và người nộp thuế”. Học viện Tài chính KTNN tiếp thu
Không bổ sung quy định này UBND tỉnh Quảng Bình KTNN đề nghị chọn phương án 2, bổ sung quy định giải thích rõ cơ quan, tổ chức có liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, để thống nhất cách hiểu về đơn vị được kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm toán nhất là kiểm toán thuế và chủ đầu tư các dự án sử dụng tài chính công, tài sản công không phải cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội.
7 Về nhiệm vụ trình ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW, chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trong quốc gia
Không cần thiết bổ sung quy định nội dung này vì trong quá trình xây dựng dự toán ngân sách nhà nước, KTNN được mời tham dự các cuộc họp do Bộ tài chính, Bộ KHĐT chủ trì đã được quy định tại khoản 5 Điều 10 Luật KTNN. Bộ Quốc phòng Đề nghị được giữ nguyên vì nhiệm vụ trình ý kiến tại khoản 4 Điều 10 độc lập với nhiệm vụ tham gia với các cơ quan khi được mời tại khoản 5 Điều 10
Nhất trí bổ sung quy định cụ thể về nội dung, thời hạn và trình tự thực hiện nhiệm vụ xem xét trình Quốc hội ý kiến của KTNN về dự toán NSNN, phân bổ NSTW…nhằm đảm bảo sự tham gia của KTNN thực chất và hiệu quả hơn.
UBND tỉnh Lạng Sơn,
HĐND thành phố Hà Nội KTNN tiếp thu
Đề nghị bổ sung quy định trường hợp HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW lấy ý kiến tư vấn của KTNN (KTNN khu vực) về dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách địa phương hằng năm, kế hoạch tài chính ngân sách 3 năm, kế hoạch đầu tư công trung hạn… và một số cơ chế chính sách, mức chi đặc thù của địa phương thuộc thẩm quyền quyết định hoặc cho ý kiến của HNDN (nếu cần thiết) HĐND thành phố Hà Nội KTNN cho rằng, Luật chỉ nên quy định nhiệm vụ trình ý kiến của KTNN đối với dự toán NSNN, quyết định phân bổ NSTW, chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu, dự án quan trọng quốc gia. Đối với dự toán ngân sách địa phương và các nội dung thuộc thẩm quyền của HĐND, UBND cấp tỉnh đã được KTNN các khu vực thực hiện qua Quy chế phối hợp với HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trên địa bàn. Thời gian tới KTNN sẽ chỉ đạo KTNN các khu vực tiếp tục tăng cường phối hợp với HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trên địa bàn.
Cần có quy định khẳng định KTNN phải tham gia và có ý kiến về việc xây dựng, phân bổ dự toán NSNN và tất cả các dự án quốc gia có sử dụng tài sản công và tài chính công để KTNN có phát huy vai trò kiểm tra, kiểm soát TSC, TCC. Học viện Tài chính Do điều kiện nhân lực hạn chế, KTNN không thể tham gia ý kiến với tất cả các dự án có sử dụng tài chỉnh công, tài sản công. KTNN chỉ thực hiện nhiệm vụ trình QH ý kiến đối với các chủ trương đầu tư chương trình mực tiêu quốc gia, dự án quan trong quốc gia thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội như khoản 4 Điều 10.
Dự thảo báo cáo chưa làm rõ những khó khăn của KTNN khi thực hiện nhiệm vụ này do nội hàm các quy định của Luật hay do khâu tổ chức thực hiện. Thực tiễn cho thấy vướng mắc hiện nay chủ yếu do khâu triển khai thực hiện và phối hợp giữa các cơ quan không xuất phát từ căn cứ pháp lý vì Khoản 4 Điều 10 Luật hiện hành đã quy định nhiệm vụ này; đồng thời, Nghị quyết 343/2017/UBTVQH14 của UBTVQH đã quy định chi tiết, cụ thể nhiệm vụ của KTNN trong việc phối hợp, tham gia ý kiến về quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ NSTW… bảo đảm xác lập đầy đủ căn cứ pháp lý để KTNN thực hiện nhiệm vụ được giao. Do đó, đề nghị bổ sung vào Báo cáo các nhận định, đánh giá kỹ hơn về nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc, tạo căn cứ cho việc đề xuất giải pháp khắc phục. Văn phòng Quốc hội KTNN tiếp thu, bổ sung trong Báo cáo tổng kết. Tuy nhiên,
Nghị quyết 343/2017/UBTVQH14 của UBTVQH mới quy định nhiệm vụ của KTNN trong việc phối hợp, tham gia ý kiến về quyết định dự toán NSNN và phương án phẩn bổ NSTW được quy định tại khoản 5 Điều 10. Tuy nhiên chưa có quy định cụ thể về nội dung, thời hạn, trách nhiệm của các cơ quan liên quan để KTNN trình Quốc hội ý kiến về vấn đề trên và chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia.
Đề nghị xem xét lại việc bổ sung nội dung “Trong quá trình xây dựng dự toán NSNN, KTNN được mời tham dự các cuộc họp do Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì”; “Trong quá trình xây dựng chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia, KTNN được mời tham dự các cuộc họp do các cơ quan hữu quan chủ trì” vì không rõ vai trò, chức năng của KTNN khi tham dự các cuộc họp này, đồng thời có thể dẫn đến việc “không độc lập” trong hoạt động kiểm toán của KTNN theo quy định của Hiến pháp Tập đoàn Dầu khí Việt Nam KTNN đề nghị giữ nguyên nội dung dự kiến bổ sung vì để có đủ thông tin và thời gian để KTNN trình ý kiến của mình về những vấn đề quan trọng nêu trên, trong quá trình xây dựng dự toán NSNN, chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia, KTNN phải được tham gia ngay từ đầu khi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan hữu quan khác chủ trì các cuộc họp triển khai.
8 Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng KTNN
Khoản 8, Điều 4 Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015 nêu rõ: “Quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước” là văn bản Quy phạm pháp luật. Vì vậy, nếu bổ sung thêm thẩm quyền ký Thông tư liên tịch của Tổng Kiểm toán nhà nước thì phải đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật năm 2015. UBND tỉnh Gia Lai Cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN vẫn tiếp tục cần được hoàn thiện và cũng cố. Tuy vậy, việc sửa đổi, bổ sung các Luật liên quan phải tiến hành theo lộ trình, quy trình thực hiện mất nhiều thời gian nên không bảo đảm tính kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành pháp luật về KTNN, KTNN kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 14 Luật KTNN theo hướng ngoài ban hành Quyết định như hiện nay, bổ sung quy định thẩm quyền ký thông tư liên tịch của Tổng KTNN nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và đồng bộ để KTNN hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao.
Mặt khác, KTNN tiếp thu kiến nghị khi sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm sự thống nhất giữa các luật liên quan.
Tòa án nhân dân tối cao đề nghị tăng thêm luận giải để đề nghị bổ sung thẩm quyền ban hành thông tư liên tịch của Tổng KTNN Tòa án NDTC KTNN tiếp thu
Đề nghị không nên bổ sung nội dung: KTNN ban hành các thông tư liên tịch với các cơ quan khác như VKS, TANDTC ... Tập đoàn Dầu khí Việt Nam KTNN giữ nguyên nội dụng dự kiến sửa đổi, bổ sung vì việc sđ, bs các Luật liên quan phải tiến hành theo lộ trình, quy trình mất nhiều thời gian nên không đảm bảo tính kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành pháp luật về KTNN.
9 Về tiêu chuẩn Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng
Nhất trí với đề xuất và đề nghị bổ sung thời hạn để đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn như quy định hiện hành. Bộ Quốc phòng KTNN tiếp thu
Giữ nguyên tiêu chuẩn Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng như hiện hành. Vì theo quy định của Đảng, việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý phải đảm bảo đúng, đủ tiêu chuẩn, điều kiện; mặt khác vì lĩnh vực kiểm toán là lĩnh vực chuyên môn có quy định và điều kiện nghiêm ngặt nên cần quy định điều kiện, tiêu chuẩn chặt chẽ, thậm chí khắt khe hơn. Bộ Nội vụ; Học viện Tài chính KTNN đề nghị chọn phương án 2 nhằm tạo cơ chế thu hút những người có năng lực, kinh nghiệm thực tiễn về công tác tại KTNN nhưng vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện chung của KTNN.
10 Tiêu chuẩn các ngạch KTVNN
Đề nghị bỏ quy định tiêu chuẩn ngạch KTVNN trong Luật, chỉ nên quy định nội dung này trong các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật KTNN để thống nhất thực hiện theo quy định Luật cán bộ, công chức. Bộ Nội vụ KTNN đề nghị vẫn giữ quy định này trong Luật và sửa những nội dung chưa phù hợp thực tế. Vì kiểm toán là lĩnh vực chuyên sâu cần quy định điều kiện, tiêu chuẩn chặt chẽ trong Luật để nâng cao giá trị pháp lý.
11 Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN
Đề nghị bổ sung đánh giá tác động về thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cho phù hợp với Luật xử lý vi phạm hành chính. Bộ Quốc phòng, TP Hà Nội KTNN tiếp thu, bổ sung trong báo cáo đánh giá tác động.
Đề nghị bỏ khoản 3, vì khoản 2 đã quy định giao Chính phủ ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN thì sẽ có quy định cụ thể về thẩm quyền, mức phạt, … UBND tỉnh Lào Cai KTNN đề nghị giữ như Dự thảo. Do Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định thẩm quyền, mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực KTNN nên chưa có cở sở để Chính phủ ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
Nhất trí bổ sung quy định về thẩm quyền, mức phạt tiền trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước. UBND tỉnh Quảng Bình, Gia Lai KTNN tiếp thu
Cân nhắc việc mở quá rộng phạm vi chủ thể có quyền xử phạt, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính Văn phòng Quốc hội KTNN tiếp thu và xem xét trong quá trình xây dựng dự thảo Luật cho phù hợp.
Đề nghị xem lại thẩm quyền xử phạt dự kiến bổ sung tại Điều 71 vì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN chỉ là Tổng KTNN, Kiểm toán trưởng, thủ trưởng đơn vị trực thuộc KTNN có liên quan. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam KTNN không tiếp thu vì để đảm bảo tính kịp thời của việc xử phạt, đồng thời Tổ trưởng Tổ kiểm toán là người trực tiếp chỉ đạo hoạt động kiểm toán.
12 Về hoạt động kiểm toán
Không nên sử dụng báo cáo của tổ kiểm toán, vì một cuộc kiểm toán có thể có nhiều tổ kiểm toán. Quy định như vậy dẫn tới một cuộc kiểm toán có nhiều báo cáo kiểm toán, mâu thuẩn quy định mỗi cuộc kiểm toán có một báo cáo kiểm toán. Học viện Tài chính KTNN tiếp thu
Đề nghị tăng thời hạn gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán về dự thảo báo cáo kiểm toán quy định tại khoản 2 Điều 47 (từ 10 ngày làm việc) đối với một số loai báo cáo thuộc trường hợp đặc biệt kéo dài đến 60 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 47. Quy định này là cần thiết bảo đảm cho phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán, tạo điều kiện cho đơn vị được kiểm toán có điều kiện nghiên cứu. UBND thành phố HCM KTNN tiếp thu, nội dung này đã được thể hiện trong dự thảo Đề cương đề xuất sửa đổi Luật.
13 Về nhiệm vụ cung cấp thông tin tài liệu của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan
Các nội dung này đã được quy định tại Luật KTNN hiện hành và Luật kế toán bảo đảm đủ căn cứ pháp lý để KTNN thực hiện nhiệm vụ nên cần cân nhắc thêm về sự cần thiết của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định này. Trường hợp cần thiết bổ sung các quy định liên quan cần lưu ý loại trừ một số lĩnh vực không được phép cung cấp thông tin đã được quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Văn phòng Quốc hội KTNN đề nghị giữ như Dự thảo để xác định rõ thông tin, tài liệu đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp là dữ liệu điện tử bao gồm cả báo cáo do đơn vị lập và các tài liệu khác ngoài chứng từ điện tử.
14 Ý kiến khác
Bổ sung quyền được bảo lưu ý kiến tại Biên bản kiểm toán của đơn vị được kiểm toán Bộ Quốc phòng Trong mẫu biểu biên bản kiểm toán được Tổng KTNN ban hành đã có phần ý kiến của đơn vị được kiểm toán do đó đơn vị được kiểm toán có thể bày tỏ ý kiến, kể cả ý kiến bảo lưu. Vì vậy, KTNN đề nghị không bổ sung nội dung này trong Luật.
Bổ sung một điều quy định KTNN chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quy định kiểm toán theo quy trình riêng đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh nhằm phối hợp thực hiện Luật KTNN và Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước Bộ Quốc phòng Luật KTNN năm 2015 không quy định kiểm toán riêng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hoạt động KTNN thực hiện theo quy trình, chuẩn mực kiểm toán. Trong đó mỗi lĩnh vực kiểm toán có quy trình riêng, đảm bảo hoạt động kiểm toán hiệu quả. Mặt khác, theo quy định hiện hành các tài liệu như biên bản kiểm toán, dự thảo báo cáo kiểm toán, các báo cáo kiểm toán trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là tài liệu mật. Do vậy, với quy định hiện hành đã đảm bảo phù hợp với quy định về bảo vệ bí mật nhà nước.
Để thực hiện các kết luận của KTNN đạt kết quả, các kiến nghị của KTNN cần có sự thống nhất với các đơn vị, tránh tình trạng kiến nghị bị khiếu nại kéo dài do không đồng ý với kết luận của KTNN. Đặc biệt trước khi KTNN thông qua kết luận kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán ngoài các đơn vị được kiểm toán nên mời thêm các cá nhân, đơn vị có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhất là đối với các kiến nghị về thu hồi, nộp ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực việc thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN. UBND tỉnh Bình Dương
KTNN đề nghị không bổ sung quy định này trong Luật. Nội dung này sẽ được quy định trong Quy trình kiểm toán do Tổng KTNN ban hành.
Đề nghị bổ sung vào Luật KTNN quy định: Ngoài báo cáo kiểm toán, KTNN cần phát hành thư quản lý để góp ý với lãnh đạo đơn vị được kiểm toán về những vấn đề cần quan tâm, những gợi ý về thủ tục, chính sách và mô hình quản trị liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công để đơn vị được kiểm toán chấn chỉnh và hoạn thiện công tác quản lý .... Thư quản lý chỉ nhằm gợi ý cho lãnh đạo đơn vị về công tác quản lý, điều hành do đó không sử dụng vào mục đích xem xét, xử lý trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán và đơn vị có liên quan. UBND tỉnh Cà Mau Thực tế trong mỗi cuộc kiểm toán đặc biệt là cuộc kiểm toán hoạt động ngoài các kiến nghị về xử lý tài chính, xử lý trách nhiệm… Báo cáo kiểm toán cũng đã kiến nghị đơn vị được kiểm toán và các cơ quan có thẩm quyền ban hành, sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp; kiến nghị biện pháp để tăng cường biện pháp quản lý, sử dụng tài chính công tài sản công cho hiệu quả. Vì vậy, đề nghị không bổ sung nội dung này trong Luật.
Đề nghị quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của KTNN, đặc biệt nhiệm vụ để thực hiện chức năng đánh giá, xác nhận đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. UBND tỉnh Lạng Sơn KTNN đề nghị không bổ sung nội dung này, vì chức năng của KTNN đã được quy định tại Điều 9 Luật KTNN là đầy đủ theo thông lệ quốc tế. Việc đánh giá, xác nhận của KTNN được thể hiện trong báo cáo kiểm toán trong đó xác nhận nội dung trong báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán và đưa ra đánh giá về tình hình quản lý, sử dụng tài chính công tài sản công của đơn vị. Nội dung này quy định cụ thể trong văn bản quy định chi tiết thi hành Luật.
Đề nghị bổ sung vào điểm b khoản 1 Điều 39 trách nhiệm của Trưởng đoàn kiểm toán “… tổ chức thông báo ý kiến bằng văn bản về ý kiến giải trình của đơn vị được kiểm toán đối với những kiến nghị xử lý mà đơn vị không thực hiện được” UBND tỉnh Lạng Sơn Nội dung này thuộc giai đoạn kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán, không phải trách nhiệm của Trưởng đoàn kiểm toán (Đoàn kiểm toán đã giải thể). Vì vậy đề nghị không bổ sung nội dung này.
Đề nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 47 quy định về lập báo cáo kiểm toán như sau: “… Trong thời hạn 20 ngày, kể từ khi nhận được ý kiến bằng văn bản của đơn vị được kiểm toán, KTNN có trách nhiệm thông báo cho đơn vị được kiểm toán về việc đồng ý hoặc không đồng ý với ý kiến của đơn vị” UBND tỉnh Lạng Sơn Ý kiến của đơn vị được kiểm toán về dự thảo báo cáo kiểm toán có được KTNN đồng ý hay không đã được thể hiện trong Báo cáo kiểm toán khi phát hành gửi cho đơn vị. Vì vậy, đề nghị không bổ sung nội dung này.
Đề nghị bổ sung vào khoản 10 Điều 55 quy định về đơn vị được kiểm toán là: “các bên tham gia hợp đồng theo hình thức PPP” UBND tỉnh Lạng Sơn Việc bổ sung đơn vị được kiểm toán theo khoản 12b Điều 55 đã bao gồm đối tượng này. Vì vậy, đề nghị giữ như dự thảo.
Đề nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 56 quyền của đơn vị được kiểm toán “ Từ chối … giải trình các vấn đề do Đoàn kiểm toán, kiểm toán viên yêu cầu không liên quan đến nội dung kiểm toán…” UBND tỉnh Lạng Sơn Đề nghị không bổ sung nội dung này vì tại khoản 4 Điều 57 đã quy định về nghĩa vụ đơn vị được kiểm toán “Trả lời, giải trình đầy đủ, kịp thời các vấn đề do Đoàn kiểm toán, kiểm toán viên yêu câu liên quan đến nội dung kiểm toán” là đầy đủ.
Các ý kiến về lỗi chính tả, biên tập, cách diễn đạt… Học viện tài chính, UBND tỉnh Lào Cai KTNN tiếp thu
Báo cáo đánh giá tác động đề nghị xây dựng dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 07/08/2018
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015, tài liệu phục vụ xin ý kiến Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
4.Bßo_cßo_=ßnh_giß_tßc_=_ng_(sau_cu_c_h_p_ngay_24.7.___ki_n_s_p_ph)_(4).doc
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN
1. Bối cảnh xây dựng chính sách
Luật Kiểm toán nhà nước (KTNN) được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 24/6/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Đây là văn bản pháp luật quan trọng quy định về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Với mục đích cụ thể Hiến pháp, Luật KTNN năm 2015 có nhiều điểm mới: Mở rộng phạm vi đối tượng kiểm toán của KTNN, quy định về giá trị của báo cáo kiểm toán, quy định về tiêu chuẩn của Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng; bổ sung đơn vị được kiểm toán là cơ quan quản lý sử dụng nợ công....
Sau gần 03 năm thực hiện hoạt động KTNN đã có bước chuyển biến tích cực, đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp và cách thức thực hiện nên hiệu lực, hiệu quả, chất lượng kiểm toán không ngừng được nâng cao, góp phần quan trọng trong việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, sử dụng hiệu quả nguồn lực quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Luật KTNN đã phát sinh nhiều vấn đề mới cần phải giải quyết, một số quy định của Luật KTNN bộc lộ những bất hợp lý cần được nghiên cứu, đánh giá và đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của KTNN, cụ thể như sau:
1.1. Về đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán
Quy định về đơn vị được kiểm toán tại Điều 55 của Luật chưa bao quát hết các tổ chức có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công thuộc đối tượng, phạm vi kiểm toán của KTNN theo quy định của Hiến pháp (Điều 118) và Luật KTNN (Điều 4). Do vậy, cần quy định đầy đủ để làm cơ sở tiến hành kiểm toán đối với tất cả các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công (bao gồm cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán).
Trong thực tiễn hoạt động KTNN, một số chủ thể như cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản,… do không phải là đơn vị được kiểm toán nên khi tiến hành hoạt động kiểm tra, đối chiếu các đơn vị này, KTNN đã gặp không ít khó khăn như: không cung cấp hồ sơ, tài liệu cho KTNN; từ chối làm việc với KTNN; không hợp tác khi Kiểm toán viên nhà nước đến làm việc; không bố trí kế toán, người liên quan làm việc với KTNN... Tuy nhiên, kết quả thực hiện việc kiểm tra, đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản lại đạt kết quả rất khả quan như: việc kiểm toán các dự án BOT thu về cho Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng, rút ngắn thời gian thu phí và kiến nghị những bất cập về cơ chế, chính sách. Kiểm toán hoạt động quản lý thu NSNN đã đánh giá các tồn tại đối với công tác quản lý của các cơ quản lý thu và thu về cho NSNN hàng nghìn tỷ đồng. Kiểm toán quản lý, sử dụng đất khu đô thị, KTNN đã đánh giá việc tuân thủ pháp luật trong việc giao đất, cho thuê đất khu đô thị, thu tiền sử dụng đất, tiền cho thuê đất khu đô thị; triển khai thực hiện dự án, khu đô thị; bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản hình thành từ dự án khu đô thị; việc sử dụng hiệu quả đất đô thị; đánh giá tính hiệu quả của việc thực hiện dự án khu đô thị, tác động của dự án tới kinh tế, xã hội, giao thông, môi trường. Kiểm toán tài nguyên khoáng sản, KTNN tập trung đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý, cấp phép, khai thác tài nguyên, đánh giá công tác chủ trì, phối hợp trong việc thẩm định, trình Thủ tướng phê duyệt các dự án thăm dò, khai thác thực hiện bằng vốn từ NSNN…
1.2. Về quyền khiếu nại Báo cáo kiểm toán
Về quyền khiếu nại Báo cáo kiểm toán: Luật mới chỉ quy định “Báo cáo kiểm toán là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại” mà chưa quy định cho các tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, tài sản công có quyền khiếu nại, kiến nghị.
1.3. Về nhiệm vụ thực hiện phòng, chống tham nhũng theo quy định pháp luật phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ giám định tài chính, tài sản theo yêu cầu của cơ quan tố tụng
Hệ thống pháp luật hiện hành còn những vấn đề chưa thống nhất, đồng bộ hoặc chưa có quy định làm cơ sở để KTNN thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình cụ thể như:
Về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng: Luật Phòng, chống tham nhũng đề cao vai trò và trách nhiệm của KTNN trong phòng chống, tham nhũng. Vì vậy, Luật KTNN cũng cần có quy định để đảm bảo sự tương thích đồng bộ.
Về nhiệm vụ giám định tư pháp: Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định nhiệm vụ của KTNN thực hiện việc giám định tư pháp. Trong khi đó, thực tế cơ quan tư pháp, điều tra đề nghị KTNN thực hiện việc giám định đối với một số vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, KTNN không có cơ sở pháp lý để thực hiện các đề nghị trên.
1.4. Quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng KTNN còn hạn chế gây khó khăn cho hoạt động của KTNN
Theo quy định tại Điều 14 Luật KTNN thì Tổng KTNN có quyền “ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật”. Theo quy định tại Điều 26 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì “Tổng KTNN ban hành quyết định để quy định chuẩn mực KTNN, quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán”. Như vậy, theo quy định trên, Tổng KTNN chỉ được ban hành duy nhất một loại văn bản quy phạm pháp luật là Quyết định. Tuy nhiên, Luật Tố tụng hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng xác định KTNN là một trong 05 cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng; KTNN có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan chức năng (Viện KSND, cơ quan điều tra và các cơ quan khác) trong việc phát hiện và xử lý tội phạm, trong việc phòng chống tham nhũng.
Do hạn chế trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (không được ban hành Thông tư liên tịch) nên việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng gặp nhiều khó khăn, nhất là việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong xử lý những vụ việc có dấu hiệu phạm tội tham nhũng.
1.5. Về kiểm soát chất lượng kiểm toán
Hoạt động kiểm toán mang tính chuyên môn cao và liên quan tới nhiều đối tượng cần phải được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng kiểm toán cũng như trách nhiệm của người thực thi công vụ. Trong thực tiễn công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán đang được Kiểm toán nhà nước thực hiện thường xuyên, xuyên suốt quá trình kiểm toán: từ khâu lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán đến lập, phát hành báo cáo kiểm toán; với nhiều chủ thể thực hiện kiểm soát như: Tổ trưởng tổ kiểm toán, Trưởng đoàn kiểm toán, Kiểm toán trưởng và lãnh đạo Kiểm toán nhà nước đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng kiểm toán, hạn chế sai sót trong công tác kiểm toán. Tuy nhiên, nội dung này cần được quy định cụ thể hơn trong Luật KTNN.
1.6. Quy định về việc cung cấp thông tin, tài liệu điện tử để thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước
KTNN, Kiểm toán viên nhà nước có trách nhiệm đảm bảo tính bảo mật của tài khoản và thông tin được cung cấp theo quy định. KTNN hoạt động theo nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, đối với KTNN và mỗi Kiểm toán viên nhà nước thì yêu cầu về bảo mật là một nguyên tắc tối thượng, đã được Luật hóa thành các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại điểm e và điểm g khoản 1 Điều 8 Luật KTNN năm 2015. Bên cạnh đó, các quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều 42 Luật KTNN năm 2015 cho phép Kiểm toán viên nhà nước có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp các loại thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán và quyền được xem xét tài liệu liên quan đến hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Các loại tài liệu quy định trong Luật KTNN là tài liệu nói chung, không loại trừ các tài liệu thông tin tồn tại ở dạng phần mềm hay dữ liệu điện tử.
Trong thực tế, nhiều thông tin tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán được lưu trữ dưới dạng số hóa, dữ liệu điện tử. Các tài liệu này cần được khai thác phục vụ cho hoạt động kiểm toán của KTNN, nhất là trong điều kiện kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin. Mặt khác, qua việc cung cấp báo cáo tài chính, dự toán kinh phí và các tài liệu khác của đơn vị được kiểm toán dưới dạng dữ liệu điện tử giúp KTNN xây dựng được cơ sở dữ liệu về đơn vị được kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng kế hoạch và thực hiện kiểm toán được chất lượng, hiệu quả; tiến tới khi có đủ cơ sở dữ liệu điện tử và trong điều kiện đảm bảo hệ thống an ninh mạng, KTNN có thể thực hiện kiểm toán trực tuyến.
1.7. Về thời hạn của cuộc kiểm toán
Khoản 2 Điều 34 quy định “Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng KTNN quyết định giá hạn một lần, thời gian gia hạn không quá 30 ngày”, tuy nhiên trên thực tế (nếu trừ ngày nghỉ lễ, thứ bảy, chủ nhật...), thời hạn cuộc kiểm toán theo quy định còn ngắn (chỉ còn khoảng 40 ngày), nhiều cuộc kiểm toán một đơn vị trực thuộc đơn vị được kiểm toán chỉ có thời gian 05 ngày làm việc để thực hiện.
1.8. Về thời gian lập và gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán
Theo quy định tại Điều 47 thì thời hạn lập và gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán là 45 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán. đơn vị được kiểm toán phải có ý kiến bằng văn bản về dự thảo báo cáo kiểm toán là 10 ngày. Quy định về thời hạn này còn ngắn, gây khó khăn cho Đoàn kiểm toán và đơn vị được kiểm toán, nhất là các đơn vị tổng hợp, đầu mối.
1.9. Về quy định trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra
Trong những năm qua, trong quá trình xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm, KTNN đã chủ động phối hợp với Thanh tra Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương để tránh thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chồng chéo, trùng lắp. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động thanh tra, kiểm tra và hoạt động kiểm toán vẫn còn trùng lắp, chồng chéo, một doanh nghiệp có năm phải vừa làm việc với thanh tra, vừa làm việc với kiểm toán.
1.10. Chưa có chế tài về xử phạt VPHC trong lĩnh vực KTNN
Trong thực tế hoạt động KTNN, các đơn vị được kiểm toán, các tổ chức, cá nhân có liên quan thường xuyên có các hành vi vi phạm về nghĩa vụ của mình theo quy định trong Luật KTNN. Luật KTNN năm 2015 chỉ quy định việc xử phạt vi phạm hành chính mang tính nguyên tắc, nên chưa đủ cơ sở pháp lý cho KTNN có thể xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN. Đồng thời, Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng chưa có quy định về thẩm quyền xử phạt, mức xử phạt... trong lĩnh vực KTNN.
2. Mục tiêu xây dựng chính sách
Thực tiễn quá trình thi hành Luật KTNN nêu trên cho thấy yêu cầu cấp bách phải sửa đổi Luật KTNN năm 2015. Việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN, góp phần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của KTNN, của Tổng KTNN; làm rõ và đầy đủ phạm vi, đơn vị được kiểm toán phù hợp với đối tượng kiểm toán theo quy định của Hiến pháp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Để việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN đạt hiệu quả cần phải đạt được các mục tiêu sau:
- Phù hợp và tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KTNN theo hướng: Phát triển KTNN trở thành công cụ trọng yếu, hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công, hỗ trợ, phục vụ đắc lực cho hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức năng lập pháp, giám sát, quản lý, điều hành và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của các địa phương.
- Phù hợp với thực tiễn hoạt động của KTNN. Trong đó, quy định cụ thể trách nhiệm; nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, đặc biệt là dữ liệu điện tử liên quan đến nội dung kiểm toán theo yêu cầu của KTNN; quy định kiểm toán các tổ chức có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán tại Điều 4, Điều 55 của Luật KTNN; định hướng biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về KTNN.
- Phân định rõ vị trí, chức năng của KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra của Nhà nước, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý ngân sách, tiền và tài sản công và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
- Kế thừa và phát huy những mặt tích cực của Luật KTNN hiện hành; bổ sung những nội dung chưa được điều chỉnh hay quy định chưa rõ hoặc thiếu thống nhất, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tế hoạt động của KTNN.
- Mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm toán và nhiệm vụ của KTNN bảo đảm bao quát hết nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công theo quy định của Hiến pháp.
- Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của KTNN phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
1. Vấn đề 1: Về đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán
a) Xác định vấn đề bất cập
Về nguyên tắc, ở đâu có tài chính công và tài sản công là ở đó có hoạt động kiểm toán (đối tượng kiểm toán của KTNN phải là hoạt động quản lý và sử dụng tài chính công và tài sản công của mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức) dù là quản lý, sử dụng dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp.
Luật KTNN quy định đơn vị được kiểm toán là cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công (tại Điều 3), tuy nhiên hiện nay một số tổ chức (các doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp NSNN, chủ đầu tư sử dụng khai thác đất đai, tài nguyên, khoáng sản…) không được coi là đơn vị được kiểm toán đã gây khó khăn rất lớn cho hoạt động kiểm toán của KTNN.
Về nhiệm vụ kiểm toán thuế của KTNN: Luật KTNN 2015 quy định: Hoạt động kiểm toán của KTNN là việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Như vậy, nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước của các tổ chức, doanh nghiệp phải được kiểm toán. Do chưa có quy định cụ thể về vấn đề này (lĩnh vực kiểm toán thuế) nên chưa bao quát hết đối tượng kiểm toán theo nguyên tắc ở đâu có tài chính công và tài sản công là ở đó phải được kiểm toán.
Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán thu ngân sách nhà nước các cấp chủ yếu thực hiện hậu kiểm, trong khi đó cơ quan thuế chỉ thực kiểm tra, thanh tra được khoảng 18% trong tổng số các doanh nghiệp nộp thuế (có nghĩa khoảng 82% đang là khoảng trống chưa được cơ quan nào kiểm tra, xác nhận). Mặt khác, việc trốn thuế, chuyển giá đang trở lên nhức nhối hiện nay làm thất thu NSNN. Vì vậy, KTNN kiểm toán thuế sẽ chống thất thu NS làm minh bạch, bình đẳng đối với người nộp thuế.
- Năm 2017, KTNN đối chiếu thuế phát hiện 2.322/2.487 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại 47 tỉnh, thành phố với kết quả tăng thu cho ngân sách 1.351 tỷ đồng. Qua công tác kiểm toán thu, KTNN phát hiện có nhiều hạn chế, tồn tại như: miễn giảm sai, áp dụng sai thuế suất, hoàn thuế sai, tính tiền chậm nộp không đúng, thanh tra kiểm tra kéo dài,… Qua kiểm toán, việc quản lý, sử dụng đất đai đã phát hiện nhiều sai phạm của cơ quan quản lý và chủ đầu tư, truy thu hàng nghìn tỷ đồng về NSNN, tuy nhiên việc kiểm toán phải thông qua các cơ quan Nhà nước có liên quan nên rất khó khăn trong công tác kiểm toán.
- Để bảo đảm đúng pháp luật, thời gian qua khi tiến hành kiểm tra, đối chiếu đối với các đơn vị, tổ chức có liên quan (bên thứ 3), KTNN phải tác nghiệp thông qua cơ quan thuế, cơ quan quản lý nhà nước (Sở Tài chính, Sở Tài nguyên môi trường). Song, do nhận thức và áp dụng pháp luật của một bộ phận (bao gồm cả chủ quan và khách quan) chưa thống nhất nên quan niệm khi không là đơn vị được kiểm toán thì không chịu sự kiểm toán của KTNN. KTNN đã gặp không ít các trường hợp đơn vị có hành vi chống đối, không hợp tác, không chấp hành cung cấp tài liệu, gây khó khăn cho hoạt động của KTNN.
- Để có cơ sở thực hiện kiểm toán đối với một số hoạt động và đối tượng có liên quan, Tổng KTNN đã ban hành một số văn bản mang tính chuyên môn sâu để hướng dẫn thực hiện đối với một số lĩnh vực, như: Kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp thuế khi kiểm toán tại cơ quan thuế, hải quan trong cuộc kiểm toán ngân sách, tiền và tài sản nhà nước tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; hướng dẫn kiểm toán việc quản lý và sử dụng đất khu đô thị; kiểm toán chuyên đề công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản giai đoạn 2014-2016,…Tuy vậy, do Luật chưa quy định rõ ràng đơn vị được kiểm toán nên các văn bản trên mới chỉ thể hiện có tính chất hướng dẫn trong nội bộ ngành KTNN.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo cơ sở pháp lý cho KTNN tiến hành kiểm toán các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán đặc biệt là các tổ chức, đơn vị có nghĩa vụ nộp thuế, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản và các tổ chức, đơn vị khác có sử dụng tài chính công, tài sản công; đảm bảo tính nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật về KTNN.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như quy định hiện hành (không quy định cụ thể đơn vị được kiểm toán bao gồm: các tổ chức, đơn vị có nghĩa vụ nộp thuế, chủ đầu tư sử dụng khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản.
Đánh giá tác động: Không giải quyết được các tồn tại nêu trên.
* Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng bổ sung đơn vị kiểm toán của KTNN gồm: “Tổ chức có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản; tổ chức khác có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tổng KTNN quy định cụ thể mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán đối với các đối tượng quy định tại Khoản này.
- Tác động tích cực:
Bổ sung cơ sở pháp lý cho KTNN khi thực hiện kiểm toán hoặc kiểm tra, đối chiếu đối với các tổ chức, đơn vị có nghĩa vụ nộp thuế, sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản và các tổ chức, đơn vị khác có sử dụng tài chính công, tài sản công. Qua đó hạn chế được các vi phạm, tồn tại đã nêu tại phần xác định vấn đề và thực trạng.
Không bỏ sót các đối tượng được kiểm toán. Từ đó có thể chống thất thu cho Ngân sách nhà nước.
Phù hợp với khuyến cáo của INTOSAI và thông lệ của một số nước trên thế giới.
- Tác động tiêu cực:
Tăng kinh phí tuyên truyền đến các tổ chức, đơn vị mới bổ sung trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN.
Do đối tượng được kiểm toán rộng hơn nên khối lượng công việc của KTNN cũng nhiều hơn, có thể phải bổ sung kinh phí cho KTNN.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
KTNN đề nghị lựa chọn phương án 2 theo hướng bổ sung một khoản tại Điều 55 về đơn vị được kiểm toán như sau: “Tổ chức có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản; tổ chức khác có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tổng KTNN quy định cụ thể mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán đối với các đối tượng quy định tại Khoản này.”
2. Vấn đề 2: Về quyền khiếu nại Báo cáo kiểm toán
a) Xác định vấn đề bất cập
Về quyền khiếu nại báo cáo kiểm toán: Luật mới chỉ quy định “Báo cáo kiểm toán là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại” mà chưa quy định đơn vị, tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, tài sản công (bên thứ 3). Trên thực tế, các đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán có tác động đến đơn vị được kiểm toán và cả đơn vị, tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, tài sản công nhưng chỉ đơn vị được kiểm toán mới có quyền khiếu nại (điểm d khoản 2 Điều 7). Theo quy định của pháp luật khiếu nại, nếu kết luận, kiến nghị kiểm toán trái pháp luật mà gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức thì tổ chức đó có quyền được khiếu nại. Có thể ví dụ trường hợp cơ quan thuế ra quyết định truy thu đối với doanh nghiệp theo kết luận, kiến nghị kiểm toán mà trong trường hợp này kết quả kiểm toán lại có căn cứ trái pháp luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp thì theo quy định của pháp luật về khiếu nại doanh nghiệp này cũng có quyền được khiếu nại đối với kết luận, kiến nghị kiểm toán trên.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo cơ sở pháp lý cho tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân (là đơn vị được kiểm toán hoặc tổ chức có liên quan) đều có quyền khiếu nại, kiến nghị về kết quả kiểm toán.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như quy định hiện hành.
Đánh giá tác động: Không giải quyết được khó khăn, bất cập như đã nêu tại phần xác định vấn đề.
* Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng bổ sung quyền khiếu nại cho tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Tác động tích cực: Tạo ra được sự đồng thuận, giảm bức xúc cho cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện kết luận của KTNN (do có quyền khiếu nại).
- Tác động tiêu cực: Số kiến nghị, khiếu nại đối với Báo cáo kiểm toán của KTNN nhiều hơn, công việc của KTNN nhiều hơn, có thể phải bổ sung kinh phí cho KTNN.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
Kiến nghị lựa chọn phương án 2 theo hướng: Sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm d khoản 2 Điều 7 như sau: Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
3. Vấn đề 3. Quy định về nhiệm vụ phòng chống tham nhũng, nhiệm vụ giám định tư pháp về tài chính công, tài sản công
a) Xác định vấn đề bất cập
Về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng: Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành có nhiều quy định về vai trò và trách nhiệm của KTNN trong phòng chống, tham nhũng; xác định KTNN là một trong 05 cơ quan có trách nhiệm trực tiếp phát hiện hành vi tham nhũng và trách nhiệm phối hợp trong xử lý hành vi tham nhũng. Tuy nhiên Luật KTNN chưa có quy định về nhiệm vụ này. Vì vậy, Luật KTNN cũng cần có quy định để đảm bảo sự tương thích đồng bộ.
Về nhiệm vụ giám định tư pháp: Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định nhiệm vụ của KTNN thực hiện việc giám định tư pháp. Trong khi đó, trên thực tế KTNN nhận được rất nhiều các đề nghị thực hiện việc giám định của cơ quan tố tụng. Tuy nhiên, do Luật KTNN không có quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của KTNN không có cơ sở thực hiện các công việc trên mà chỉ chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa Luật KTNN và các luật có liên quan trong hệ thống pháp luật của Nhà nước như: Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Giám định tư pháp.
Tạo cơ sở pháp lý để KTNN thực hiện nhiệm vụ phòng chống tham nhũng, giám định tư pháp về tài chính công, tài sản công.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như hiện trạng.
- Đánh giá tác động: Không giải quyết được khó khăn, bất cập nêu trên.
* Phương án 2: Bổ sung nhiệm vụ phòng chống tham nhũng, nhiệm vụ giám định tư pháp.
- Tác động tích cực: Tạo cơ sở pháp lý để phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao, phù hợp với Luật Phòng, chống tham nhũng.
- Tác động tiêu cực: Có thể tăng biên chế và kinh phí cho việc thực hiện các nhiệm vụ trên.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
Lựa chọn phương án 2 và hướng sửa đổi, bổ sung 01 khoản tại Điều 11 như sau:
“6a.Thực hiện giám định tài chính, tài sản đối với những vấn đề liên quan theo đề nghị của cơ quan tố tụng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng”.
4. Vấn đề thứ 4: Quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng KTNN
a) Xác định vấn đề bất cập
Do Luật Ban hành văn bản QPPL, Luật KTNN và các quy định của pháp luật hiện hành chưa quy định thẩm quyền ban hành thông tư liên tịch của Tổng KTNN nên việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng để thực hiện những nhiệm vụ có liên quan gặp nhiều khó khăn, nhất là việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong xử lý những vụ việc có dấu hiệu phạm tội tham nhũng do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý. Điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN với vai trò là một trong những cơ quan có trách nhiệm về phòng, chống tham nhũng.
Việc đề xuất Tổng KTNN được tham gia ký Thông tư liên tịch quy định về phối hợp giữa KTNN với các cơ quan liên quan trong việc thực hiện những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình dựa trên các cơ sở sau đây:
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Đây là căn cứ quan trọng để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho KTNN cùng phối hợp thực hiện và phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả hoạt động của mình.
- Điều 118 Hiến pháp năm 2013 quy định“KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”. Các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật KTNN và Luật Phòng, chống tham nhũng xác định KTNN là một trong những cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng, cụ thể:
+ Tại khoản 5, Điều 5 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan thanh tra, KTNN có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu, đồ vật có liên quan và kiến nghị CQĐT, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự”. Đây là quy định mới về trách nhiệm của KTNN so với Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003.
+ Tại khoản 12, Điều 10 Luật KTNN quy định về trách nhiệm của KTNN: “Chuyển hồ sơ cho CQĐT, VKSND và cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán”; Điều 65 quy định trách nhiệm của CQĐT, VKSND: “CQĐT, VKSND có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền các vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, do KTNN phát hiện và kiến nghị”.
+ Luật Phòng, chống tham nhũng quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng tại Điều 7, Điều 77, Điều 80, Điều 81 và Điều 82 (trong dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi cho thấy vai trò của KTNN ngày càng được tăng cường).
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo cơ sở pháp lý cho Tổng KTNN được tham gia ký Thông tư liên tịch với các cơ quan liên quan về phối hợp trong việc thực hiện những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như quy định hiện hành.
- Đánh giá tác động: Không giải quyết được những khó khăn, bất cập nêu trên.
* Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN.
- Tác động tích cực:
Bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa Luật KTNN với các luật khác có liên quan.
Quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự thủ tục, trách nhiệm của KTNN, các cơ quan chức năng trong việc xử lý những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Tác động tiêu cực: Mất thời gian, kinh phí cho việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (các thông tư liên tịch).
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
KTNN kiến nghị lựa chọn phương án 2, theo đó sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 14 theo hướng như sau: “Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là quyết định để quy định chuẩn mực KTNN, quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán, phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán áp dụng trong tổ chức và hoạt động KTNN; ban hành thông tư liên tịch với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để quy định việc phối hợp thực hiện những vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của mình”.
5. Vấn đề thứ 5: Về kiểm soát chất lượng kiểm toán
a) Xác định vấn đề bất cập
Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Với chức năng “đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công”. Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mính trong hơn 20 năm qua, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính 147.580 tỷ đồng, trong đó tăng thu ngân sách nhà nước (NSNN) 29.148 tỷ đồng, giảm chi NSNN 22.365 tỷ đồng. Tính riêng trong 5 năm gần đây, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 91.168 tỷ đồng, chiếm 62% tổng số kiến nghị xử lý tài chính, trong đó tăng thu NSNN 14.290 tỷ đồng, giảm chi NSNN 14.527 tỷ đồng. Như vậy, hoạt động kiểm toán của KTNN hàng năm đã bao phủ gần 80% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hơn 60% bộ, ngành, cơ quan Trung ương, thể hiện sự lớn mạnh về chuyên môn nghiệp vụ của KTNN. Có thể nói, trong những năm qua, KTNN đã có nhiều đóng góp đối với quản lý NSNN nói chung và minh bạch NSNN nói riêng,
Với vai trò và trọng trách to lo lớn, việc kiểm tra và giám sát chất lượng kiểm toán là yếu cầu rất cần thiết. Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên mà còn là mục tiêu trọng tâm trong Chiến lược phát triển của Kiểm toán nhà nước. Nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cơ quan KTNN, đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội - hướng tới một nền tài chính minh bạch, công khai, hiệu quả và phát triển bền vững. Trong hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán, KTNN đã xây dựng được hệ thống các quy định, chính sách trong quản lý, kiểm soát chất lượng kiểm toán, cũng như các đơn vị kiểm soát chuyên trách. Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện thường xuyên, xuyên suốt quá trình kiểm toán: từ khâu lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán đến lập, phát hành báo cáo kiểm toán; với nhiều chủ thể thực hiện kiểm soát như: Tổ trưởng tổ kiểm toán, Trưởng đoàn kiểm toán, kiểm toán trưởng và lãnh đạo Kiểm toán nhà nước đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng kiểm toán, hạn chế sai sót trong công tác kiểm toán. Tuy nhiên, nội dung này chưa được quy định cụ thể trong Luật KTNN.
Luật Kiểm toán độc lập cũng có 01 mục (01 điều) quy định về Kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán (Mục 4 Điều 52).
Vì vậy, việc bổ sung 01 điều hoặc 01 mục với 4 điều quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật KTNN là rất cần thiết.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Đưa công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán vào nền nếp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán của KTNN.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Không bổ sung nội dung này trong Luật Kiểm toán nhà nước.
- Đánh giá tác động: Không giải quyết được những khó khăn, bất cập nêu trên.
* Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng bổ sung quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán. Luật chỉ quy định chung về mục đích, yêu cầu của công tác kiểm soát, nội dung, phạm vi, trình tự, thủ tục kiểm soát sẽ do Tổng KTNN quy định.
- Tác động tích cực: Tạo cơ sở pháp lý cho công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán; đưa công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán vào nề nếp, nâng cao chất lượng công tác này; kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán và người thực thi công vụ, từ đó nâng cao chất lượng công tác kiểm toán.
- Tác động tiêu cực: Để triển khai thi hành Luật, KTNN cần ban hành văn bản thay thế văn bản hiện hành về kiểm soát chất lượng kiểm toán.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
Kiến nghị lựa chọn phương án 2, bổ sung vào Luật KTNN một điều quy định về công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán (tại Chương IV hoạt động kiểm toán nhà nước):
- Phương án 1: Bổ sung Điều 43a. Kiếm soát chất lượng kiểm toán
“Điều 49a. Kiểm soát chất lượng kiểm toán
1. Kiểm toán nhà nước tổ chức kiểm tra, soát xét nhằm đảm bảo mọi hoạt động kiểm toán đều được kiểm tra, soát xét về chất lượng.
2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện thường xuyên liên tục đối với toàn bộ hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
3. Tổng Kiểm toán nhà nước quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán.”
6. Vấn đề thứ 6: Về thời hạn của cuộc kiểm toán
a) Xác định vấn đề bất cập
Luật KTNN năm 2015 quy định thời hạn kiểm toán tối đa là 60 ngày, trong trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định gia hạn không quá 30 ngày. Tuy nhiên, trong thực tế một số cuộc kiểm toán có tính chất phức tạp, quy mô lớn với thời hạn quy định như Luật đã gây khó khăn rất lớn cho KTNN. Nếu trừ ngày nghỉ lễ, thứ bảy, chủ nhật... thì thời gian kiểm toán thực tế chỉ còn khoảng 40 ngày. Với đơn vị được kiểm toán có nhiều đầu mối, thời gian làm việc thực tế tại mỗi đơn vị đầu mối chỉ 3-4 ngày. Để tránh rủi ro trong hoạt động kiểm toán, các Tổ kiểm toán phải giới hạn nội dung kiểm toán để đảm bảo đúng thời hạn quy định theo Luật.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Bảo đảm có đủ thời gian thực hiện của cuộc kiểm toán, qua đó nâng cao chất lượng của kiểm toán.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như hiện trạng.
- Đánh giá tác động: Không giải quyết được những vướng mắc, bất cập nêu trên.
* Phương án 2: Sửa đổi bổ sung Luật kiểm toán theo đó hoặc là kéo dài thời hạn kiểm toán (từ 60 ngày như hiện nay thành 60 ngày làm việc thực tế).
- Tác động tích cực: Đảm bảo được thời gian cho các cuộc kiểm toán có tính chất phức tạp, quy mô lớn. Qua đó, sẽ nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán.
- Tác động tiêu cực:
+ Đối với đơn vị được kiểm toán: Tạo tâm lý không thoải mái do phải làm việc với Tổ kiểm toán, Đoàn kiểm toán trong thời gian dài.
+ Đối với NSNN: Tăng kinh phí cho NSNN do phải tăng chi phí cho các đoàn kiểm toán, Tổ kiểm toán.
d) Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Sửa đổi, bổ sung Điều 34 về thời hạn kiểm toán theo phương án sau:
“2. Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày làm việc, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định gia hạn một lần, thời gian gia hạn không quá 30 ngày làm việc.”
7. Vấn đề thứ 7: Về thời gian lập và gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán
a) Xác định vấn đề bất cập
Điều 47 Luật KTNN quy định gian gửi (phát hành) báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán là 45 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán, trong đó quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 về thời hạn hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán và gửi lấy ý kiến của đơn vị được kiểm toán còn ngắn, gây khó khăn cho hoạt động kiểm toán, cụ thể:
- Để bảo đảm chất lượng báo cáo kiểm toán, trong thời hạn quy định 30 ngày như hiện nay KTNN phải thực hiện theo quy trình rất chặt chẽ từ: lập dự thảo báo cáo kiểm toán; thủ trưởng đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán tổ chức xét duyệt dự thảo báo cáo kiểm toán; Tổng KTNN tổ chức xét duyệt dự thảo báo cáo kiểm toán; hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán, gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán.
- Ở giai đoạn hoàn thiện dự thảo gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán, với thời hạn 10 ngày theo quy định không bảo đảm tính khả thi tạo điều kiện cho đơn vị được kiểm toán được triển khai và tham gia ý kiến, nhất là các đơn vị tổng hợp, đầu mối, các địa phương. Quá trình thi hành Luật cho thấy do không đủ thời gian thực hiện dẫn đến việc kiến nghị, khiếu nại kéo dài, nhiều trường hợp chưa thống nhất về nội dung và kết quả kiểm toán.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Đảm bảo được thời gian lập và gửi báo cáo kiểm toán từ góp phần nâng cao chất lượng, tính khả thi của kết luận, kiến nghị trong Báo cáo kiểm toán.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như Luật hiện hành.
- Đánh giá tác động: Không giải quyết được khó khăn, vướng mắc như đã nêu tại phần thực trạng.
* Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng tăng thời gian lập và gửi báo cáo kiểm toán thành 45 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày làm việc.
- Tác động tích cực: Kéo dài thời gian lập và hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán và lấy ý kiến về dự thảo Báo cáo kiểm toán, sẽ nâng cao chất lượng của dự thảo báo cáo kiểm toán, đồng thời đơn vị được kiểm toán có nhiều thời gian triển khai nghiên cứu kỹ hơn, qua đó các ý kiến tham gia sẽ chất lượng hơn. Hạn chế được tình trạng gửi ý kiến chậm theo thời gian quy định như hiện nay.
- Tác động tiêu cực: Do thời hạn phát hành báo cáo kiểm toán là dài hơn (trong đó có thời gian gửi lấy ý kiến đơn vị), có thể ảnh hưởng đến các đoàn kiểm toán khác trong năm do KTV vừa phải thực hiện nhiệm vụ kiểm toán vừa phải thực hiện nhiệm vụ phát hành báo cáo kiểm toán.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
Kiến nghị lựa chọn phương án 2, sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng:
Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 47 như sau:
“1. Chậm nhất là 30 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán, Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán và gửi lấy ý kiến của đơn vị được kiểm toán.
2. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được dự thảo báo cáo kiểm toán, đơn vị được kiểm toán phải có ý kiến bằng văn bản gửi Kiểm toán nhà nước; quá thời hạn trên, đơn vị được kiểm toán không có ý kiến thì được coi là đã nhất trí với dự thảo báo cáo kiểm toán.
3. Báo cáo kiểm toán được Kiểm toán nhà nước gửi cho đơn vị được kiểm toán và cơ quan có liên quan theo quy định của Tổng Kiểm toán nhà nước chậm nhất là 45 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán.”
8. Vấn đề thứ 8: Quy định về việc cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, Đoàn kiểm toán, thành viên đoàn kiểm toán là Kiểm toán viên nhà nước
a) Xác định vấn đề bất cập
Mặc dù Luật KTNN đã quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán theo yêu cầu của KTNN và Kiểm toán viên nhà nước; nhưng chưa quy định rõ thông tin, tài liệu do đơn vị được kiểm toán cung cấp bao gồm cả dữ liệu điện tử, ảnh hưởng tới tiến độ, chất lượng công tác kiểm toán của KTNN.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo cơ sở pháp lý cho Kiểm toán viên và KTNN có quyền truy cập thông tin, tài liệu của đơn vị bao gồm cả dữ liệu điện tử.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như hiện hành và tăng cường các biện pháp thúc đẩy thi hành Luật KTNN thuộc thẩm quyền của KTNN.
- Đánh giá tác động: Không giải quyết được khó khăn, vướng mắc, bất cập nêu trên.
* Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng quy định về nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu bao gồm cả bản in ra giấy và dữ liệu điện tử để thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, Đoàn kiểm toán, thành viên đoàn kiểm toán Kiểm toán viên nhà nước.
- Tác động tích cực:
Tạo cơ sở pháp lý cho KTNN và Kiểm toán viên nhà nước có thể khai thác các tài liệu là các dữ liệu điện tử. Qua đó, nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán.
Qua việc cung cấp các báo cáo tài chính, dự toán kinh phí và các tài liệu khác của đơn vị được kiểm toán dưới dạng dữ liệu điện tử giúp KTNN xây dựng được cơ sở dữ liệu về đơn vị được kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xây dựng kế hoạch kiểm toán nhanh chóng, chất lượng; tiến tới khi có đủ cơ sở dữ liệu điện tử và trong điều kiện đảm bảo hệ thống an ninh mạng KTNN có thể thực hiện kiểm toán trực tuyến.
Việc cung cấp các dữ liệu điện tử liên quan đến nội dung kiểm toán tạo điều kiện cho Kiểm toán viên nhà nước đưa ứng dụng tin học, điện tử vào hoạt động kiểm toán được nhiều hơn giúp cho việc kiểm toán được nhanh chóng, chính xác.
Tiết kiệm thời gian, nhân lực, chi phí cho KTNN từ khâu khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán đến việc thực hiện kiểm toán; đồng thời, cũng giảm thời gian, nhân lực của đơn vị được kiểm toán.
- Tác động tiêu cực: Tạo tâm lý e ngại sợ lộ bí mật đối với đơn vị được kiểm toán.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
KTNN đề nghị lựa chọn phương án 2: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN theo hướng:
- Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 Điều 42 như sau:
“b) Yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán. Khi thực hiện kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước có quyền truy cập và yêu cầu đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cùng truy cập phần mềm ứng dụng của đơn vị để khai thác, thu thập thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán.”
- Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 57 như sau:
“3. Cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu bao gồm cả bản in ra giấy và dữ liệu điện tử để thực hiện việc kiểm toán theo yêu cầu của Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán viên nhà nước; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin, tài liệu đã cung cấp”.
9. Vấn đề thứ 9. Quy định về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra
a) Xác định vấn đề bất cập
Khoản 1 Điều 10 Luật KTNN quy định, trách nhiệm của KTNN: “Quyết định kế hoạch kiểm toán hằng năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện”. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, hằng năm KTNN xây dựng kế hoạch kiểm toán năm và báo cáo Quốc hội theo quy định.
Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán với cơ quan thanh tra hiện còn tình trạng trùng lắp, chồng chéo. Một số trường hợp có sự chồng chéo, trùng lắp giữa kế hoạch kiểm toán và kế hoạch thanh tra, kiểm tra của các bộ, ngành, gây ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức liên quan. Theo Luật KTNN, KTNN được độc lập làm kế hoạch nhưng trong quá trình xây dựng vẫn gửi lấy ý kiến của cơ quan thanh tra, các bộ, ngành, các Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các tổ chức, đơn vị liên quan khác. Sau khi trình Quốc hội, xin ý kiến từng đại biểu Quốc hội, KTNN mới ký ban hành và tổ chức thực hiện kiểm toán. Tuy đã hạn chế được trùng lắp, chồng chéo nhưng cần có sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật để khắc phục triệt để tình trạng này.
Chính vì vậy, tại Thông báo số 98/TB-VPCP thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc làm việc với KTNN, trong đó nêu rõ: “Thanh tra Chính phủ và các cơ quan thanh tra, kiểm tra thuộc các bộ, ngành căn cứ kế hoạch kiểm toán hằng năm của KTNN rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra có liên quan nhằm hạn chế sự trùng lắp, chồng chéo gây khó khăn cho địa phương, doanh nghiệp và đảm bảo tính độc lập của KTNN theo quy định của pháp luật”.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Hạn chế tình trạng chồng chéo, trùng lắp trong công tác kiểm toán và thanh tra, kiểm tra từ đó giảm thiểu sự ảnh hưởng tới các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp do phải bố trí thời gian, nhân lực làm việc với đoàn thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên quy định hiện hành tại khoản 1 Điều 10 Luật KTNN năm 2015.
- Đánh giá tác động: Không đáp ứng kịp thời yêu cầu giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động KTNN hiện nay, nhất là việc chồng chéo giữa nhiệm vụ của KTNN và các cơ quan thanh tra.
* Phương án 2: Sửa đối, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước theo đó bổ sung một điều quy định về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra
- Tác động tích cực:
Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN được ban hành sẽ cơ bản khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lắp trong công tác kiểm toán và thanh tra, kiểm tra do đó giảm thiểu sự ảnh hưởng tới các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp do phải bố trí thời gian, nhân lực làm việc với đoàn thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Tác động về kinh tế: Giảm chi thường xuyên do không phải thực hiện kế hoạch kiểm tra hoặc kế hoạch kiểm toán do loại trừ được sự trùng lắp đơn vị kiểm tra, kiểm toán đã có trong kế hoạch kiểm tra, kiểm toán (chi công tác phí - ăn, ở, đi lại cho thành viên của các đoàn kiểm tra, kiểm toán).
Tác động về xã hội: Tránh được sự bức xúc đối với đơn vị được kiểm toán do vừa phải làm việc với cơ quan KTNN và cơ quan thanh tra. Qua đó, đơn vị được kiểm toán sẽ hợp tác, tạo điều kiện cho quá trình kiểm toán được thực hiện tốt nhất. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định pháp luật về KTNN.
- Tác động tiêu cực:
KTNN phải chủ động xây dựng và sớm ban hành Kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN. Do vậy, cần đầu tư tăng cường năng lực cho bộ phận xây dựng Kế hoạch kiểm toán của KTNN.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
KTNN đề nghị chọn phương án 2 theo đó bổ sung một điều quy định về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra như sau:
“Điều 64a. Trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra
1. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Kiểm toán nhà nước xử lý trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
2. Trước khi báo cáo Quốc hội, Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm để tránh chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động kiểm toán, thanh tra”.
10. Vấn đề 10: Về xử lý vi phạm trong hoạt động kiểm toán
a) Xác định vấn đề bất cập
Hệ thống pháp luật về KTNN ở nước ta hiện nay chưa đầy đủ và đồng bộ, còn thiếu các quy định về chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân liên quan.
Từ thực tế thực hiện pháp luật về KTNN những năm qua cho thấy đã phát sinh những vi phạm về nghĩa vụ, trách nhiệm hoặc vi phạm quy định về điều cấm của đơn vị đ¬ược kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan nh¬ư: không cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu; không thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán; cản trở việc kiểm toán; che giấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, ngân sách,... Chỉ tính riêng năm 2017 có 121 trường hợp không cung cấp tài liệu dẫn tới các Đoàn kiểm toán không thể thực hiện kiểm toán được nội dung theo kế hoạch; nhiều trường hợp chậm cung cấp tài liệu theo yêu cầu của Kiểm toán nhà nước, đặc biệt có trường hợp đơn vị được kiểm toán cố tình cung cấp tài liệu sai sự thật như một số tờ khai hải quan có hiện tượng tẩy xóa giá trị lô hàng nên khi sử dụng tài liệu này KTNN không thể so sánh, đánh giá chính xác giá trị của lô hàng giữa giá nhập và giá bán nên đã làm ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán. Trong thực tế theo dõi tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán cho thấy số kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước không được các đơn vị thực hiện còn cao (năm 2015 có 35.7% kiến nghị về tài chính tương ứng số tiền 8.179 tỷ đồng; năm 2016 có 24,4% kiến nghị về tài chính tương ứng số tiền 5.097 tỷ đồng chưa được các đơn vị thực hiện). Do chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN nên chưa có cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi phạm pháp luật về KTNN của đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan mà chủ yếu áp dụng biện pháp nhắc nhở đã làm giảm hiệu lực của hoạt động KTNN nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.
b) Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo cơ sở pháp lý cho KTNN được quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực KTNN. Từ đó góp phần hạn chế vi phạm pháp luật về KTNN, bảo đảm hiệu lực và tính nghiêm minh của pháp luật, tạo điều kiện cho hoạt động kiểm toán nhà nước hiệu quả hơn.
c) Các giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề và đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
* Phương án 1: Giữ nguyên như các quy định hiện hành
- Đánh giá tác động: Không giải quyết được những khó khăn, vướng mắc, bất cập nêu trên.
*Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo đó quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực KTNN, quy định về mức phạt tiền tối đa, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và giao cho Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
- Tác động tích cực:
+ Bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa Luật KTNN với các luật khác có liên quan; bổ sung mức phạt tiền tối đa và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN chưa được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính cho thống nhất với các cơ quan nhà nước khác.
+ Hạn chế được các hành vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán (như: không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ hồ sơ, tài liệu...) từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm toán.
- Tác động tiêu cực:
+ Đối với KTNN: Phải tổ chức hệ thống thu, giữ kinh phí từ việc xử phạt vi phạm hành chính.
+ Đối với đơn vị được kiểm toán: Tạo tâm lý không thoải mái cho đơn vị được kiểm toán; tạo ra gánh nặng về kinh phí đối với các đối tượng bị xử phạt.
+ Tính khả thi cho việc xử phạt không cao do đối tượng bị xử phạt chủ yếu là các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước.
d) Kiến nghị phương án lựa chọn
KTNN đề nghị chọn phương án 2: Theo đó, Luật cần sửa đổi, bổ sung khoản 4, khoản 6 và khoản 6a Điều 11 về quyền hạn của KTNN trong việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN; sửa đổi, bổ sung Điều 71 quy định nguyên tắc chung về xử lý vi phạm trong lĩnh vực KTNN, quy định về mức phạt tiền tối đa, thẩm quyền xử phạt và giao cho Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN. Theo đó, sửa đổi theo hướng như sau:
Sửa đổi, bổ sung khoản 4, khoản 6 Điều 11 và bổ sung khoản 6a Điều 11 như sau:
“4. Kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán về sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc chấp hành pháp luật; xử lý hoặc đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
6. Đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý hoặc xử lý theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước hoặc cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật cho Kiểm toán nhà nước và Kiểm toán viên nhà nước.
6a.Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước”.
- Bổ sung khoản 4 Điều 14: “Kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ...; xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước”.
Sửa đổi, bổ sung Điều 71 như sau: “Điều 71. Quy định xử lý vi phạm pháp luật về KTNN tại Điều 71 của Luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi pháp pháp luật về kiểm toán nhà nước thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt viphạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
3. Mức phạt tiền tối đa và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước được quy định như sau:
a) Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức.
b) Tổng Kiểm toán nhà nước, thủ trưởng đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước có liên quan có quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước;
c) Tổng Kiểm toán nhà nước, thủ trưởng đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước có liên quan có quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.”
III. KẾT LUẬN CHUNG
Việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN sẽ khắc phục được những hạn chế, bất cập của Luật KTNN năm 2015, đồng thời bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về KTNN phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế.
Trên đây Báo cáo đánh giá tác động đề nghị xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN./.
Báo cáo tổng kết 3 năm thi hành và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 07/08/2018
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015, tài liệu phục vụ xin ý kiến Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 9, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Luật KTNN năm 2015 đã thể chế hóa quy định Điều 118 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, là văn bản pháp lý quan trọng cho tổ chức, hoạt động của KTNN, bảo đảm thiết chế KTNN có đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ việc kiểm tra, giám sát Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; nâng cao tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế đòi hỏi cần phải nâng cao hơn nữa năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KTNN. Quá trình thi hành Luật KTNN cho thấy một số quy định bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định, như: Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN chưa tương xứng với vị trí, chức năng, nhiệm vụ được giao; phạm vi, đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán chưa đồng bộ, thống nhất; quy định về đơn vị được kiểm toán chưa bao quát hết các cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; thiếu chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN; một số quy định của Luật cần phải được quy định chi tiết cụ thể hơn; nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN, thành viên Đoàn kiểm toán,... Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa đảm bảo sự tương thích giữa Luật Kiểm toán nhà nước với các luật có liên quan như: Luật Luật phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Giám định tư pháp, Luật Tố cáo,… Ở phương diện tổ chức thực hiện pháp luật, còn tình trạng nhận thức và áp dụng chưa thống nhất nên không tránh khỏi khó khăn khi tiến hành các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nói chung, của KTNN nói riêng.
Thực hiện Kế hoạch 07-KH/TW ngày 27/11/2017 của Bộ Chính trị về triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và căn cứ Kế hoạch 735-KH/ĐĐQH ngày 18/01/2018 của Đảng Đoàn Quốc hội, KTNN tiến hành tổng kết 3 năm thực hiện Luật KTNN và đề xuất định hướng sửa đổi, bổ sung Luật KTNN như sau:
Phần thứ nhất:
NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ MỘT SỐ TỒN TẠI CƠ BẢN SAU GẦN 3 NĂM THỰC HIỆN LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
I. TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
1. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán nhà nước
Để thực hiện Luật KTNN, ngày 15/7/2015 KTNN đã ban hành Kế hoạch số 837/KH-KTNN triển khai thi hành Luật KTNN, trong đó yêu cầu rà soát xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật KTNN năm 2015 và tuyên truyền, phổ biến Luật KTNN đến cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong ngành; tuyên truyền rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời, ngày 24/8/2015 Tổng KTNN ban hành Quyết định số 1291/QĐ-KTNN thành lập Ban chỉ đạo triển khai thi hành Luật KTNN. Đến nay, việc triển khai Luật KTNN năm 2015 đã đạt được một số kết quả sau:
- Trong phạm vi thẩm quyền, KTNN đã xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền và ban hành 29 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó 01 nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; 01 Nghị định của Chính phủ và 27 Quyết định của Tổng KTNN, cơ bản hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật KTNN, tạo cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm hiệu lực thi hành và tính khả thi của Luật, trong đó có một số văn bản quan trọng như:
+ Ban hành Hệ thống Chuẩn mực KTNN gồm 39 chuẩn mực, nhằm quy định, hướng dẫn kiểm toán viên nhà nước về nguyên tắc, yêu cầu, đạo đức nghề nghiệp, thủ tục kiểm toán và xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động kiểm toán, đảm phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và tình hình thực tiễn hoạt động của KTNN.
+ Sửa đổi các quy trình kiểm toán, Hồ sơ kiểm toán cho phù hợp với Luật KTNN năm 2015. Đây là những văn bản quy định về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng kiểm toán theo quy định của Luật KTNN, tăng cường sự giám sát đối với hoạt động kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên nhà nước.
- Cùng với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật KTNN, KTNN đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng, tổ chức thực hiện nhiều quy chế phối hợp và thoả thuận hợp tác trong công tác, tạo điều kiện phối hợp tốt cho KTNN trong hoạt động kiểm toán, nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán; khắc phục chồng chéo giữa hoạt động kiểm toán thanh tra, kiểm tra...
Việc chủ động và khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật KTNN đã bảo đảm hiệu lực thi hành và tính khả thi của Luật KTNN. Về cơ bản, các lĩnh vực hoạt động kiểm toán chuyên sâu đều đã được Tổng KTNN chỉ đạo xây dựng và ban hành đầy đủ các quy trình, quy chế, đề cương hướng dẫn kiểm toán. Các văn bản quan trọng này đã theo kịp định hướng đổi mới hoạt động kiểm toán và yêu cầu thực tiễn, tạo nên sự minh bạch, chính quy, thống nhất trong toàn ngành, nâng cao năng lực KTNN, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán trong toàn ngành. Ngoài ra, KTNN rất tích cực tham gia xây dựng, thẩm tra nhiều dự án luật và văn bản quan trọng theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ.
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Kiểm toán nhà nước
Thực hiện kế hoạch triển khai thi hành Luật KTNN, KTNN đã phối hợp với Bộ Tư pháp soạn thảo, đăng tải đề cương tuyên truyền Luật trên trang thông tin điện tử về phổ biến pháp luật của Bộ Tư pháp, làm tư liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức trong nghiên cứu, tuyên truyền Luật KTNN; tập huấn Luật KTNN năm 2015 cho toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong ngành. Bên cạnh đó, KTNN tích cực tuyên truyền Luật KTNN năm 2015 trên Trang thông tin điện tử KTNN và các phương tiện thông tin đại chúng với việc đăng tải nhiều tin, bài giới thiệu Luật KTNN và phân tích chuyên sâu nội dung các quy định mới của Luật KTNN năm 2015.
3. Công tác kiểm tra việc thực hiện pháp luật về KTNN
Để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán, thời gian qua, KTNN luôn coi trọng công tác thanh tra, kiểm soát và theo dõi thi hành pháp luật KTNN. Hàng năm, KTNN tổ chức thanh tra việc chấp hành Luật KTNN; Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn KTNN, Quy tắc ứng xử của Kiểm toán viên nhà nước, Quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán; ban hành và kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị của Tổng KTNN về tăng cường quản lý hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán. Năm 2016, công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán, thanh tra công vụ được quan tâm, tăng cường cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó: 100% cuộc kiểm toán được các vụ chức năng giám sát, soát xét qua hồ sơ; số lượng các cuộc kiểm soát trực tiếp, thanh tra đột xuất tại các đoàn, tổ kiểm toán được đẩy mạnh ; kết quả và chất lượng công việc hàng ngày của kiểm toán viên được kiểm soát chặt chẽ, kịp thời thông qua Phần mềm quản lý thông tin Nhật ký kiểm toán trực tuyến. Năm 2017, KTNN đã hoàn thành 18 cuộc thanh tra (trong đó 04 cuộc thanh tra đột xuất), góp phần chấn chỉnh kịp thời, tăng cường quản lý đối với các đoàn, tổ kiểm toán, nâng cao công tác kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán; răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh, uy tín của KTNN. Công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán (KSCLKT) tiếp tục được chú trọng với phương châm lấy tổ kiểm toán làm hạt nhân để kiểm soát. KTNN đã kiểm soát trực tiếp đối với 12 cuộc kiểm toán, kiểm soát việc tổ chức KSCLKT của 05 kiểm toán trưởng, kiểm soát đột xuất 07 cuộc, kiểm tra hồ sơ sau khi phát hành BCKT 04 cuộc kiểm toán. Tại các KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực, các đơn vị này cũng tăng cường công tác tự kiểm tra, kiểm soát theo quy định. Bên cạnh đó, KTNN đã ban hành kế hoạch và tổ chức kiểm tra theo dõi thi hành pháp luật về KTNN trong phạm vi toàn ngành (kiểm tra trực tiếp tại 04 đơn vị trực thuộc, các đơn vị còn lại tổ chức tự kiểm tra theo đề cương).
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm toán, Tổng KTNN đã ban hành và thường xuyên quán triệt, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các văn bản chỉ đạo, điều hành . Một số văn bản quan trọng cũng đã được Tổng KTNN chỉ đạo tổng kết, đánh giá kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để từ đó rút kinh nghiệm, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện tốt hơn trong thời gian tới, như: Chỉ thị số 769/CT-KTNN ngày 29/4/2016 về việc nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng thông qua hoạt động kiểm toán của KTNN và Chỉ thị số 873/CT-KTNN ngày 27/5/2016 của Tổng KTNN về việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện nhiệm vụ kiểm toán; qua đó kỷ luật, kỷ cương công vụ được siết chặt, ý thức, trách nhiệm của công chức ở trên từng vị trí công tác tiếp tục được nâng lên, nhất là Trưởng đoàn và thành viên các Đoàn kiểm toán.
Qua công tác thanh tra, kiểm soát và theo dõi thi hành pháp luật tại KTNN cho thấy, tất cả các cuộc kiểm toán đều được KTNN kiểm soát liên tục bắt đầu từ khi khảo sát, xây dựng kế hoạch kiểm toán đến khi phát hành báo cáo kiểm toán với nhiều cấp độ kiểm soát từ thấp đến cao; các cuộc kiểm toán nhìn chung bảo đảm đúng quy trình, chuẩn mực KTNN, hoạt động chấp hành pháp luật và các quy định của KTNN đáp ứng ngày càng tốt hơn.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về KTNN, Điều 9 Luật KTNN quy định: KTNN có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Để thực hiện chức năng trên, KTNN có các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 10, Điều 11 của Luật. Qua 3 năm thi hành, KTNN đã thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao trong luật; làm tốt chức năng đánh giá, xác nhận, chức năng kết luận, kiến nghị trong đó đã kiến nghị xử lý sai phạm về tài chính hàng trăm nghìn tỷ đồng; kiến nghị sửa đổi hàng trăm văn bản; cung cấp cho Quốc hội, các cơ quan nhà nước nhiều thông tin quan trọng về tình hình quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, đặc biệt các vấn đề như hợp đồng theo đối tác công tư BT, BOT, chuyền đề biên chế, tiền lương, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa,… nhiều vấn đề được dư luận đồng tình, đánh giá cao. Những kiến nghị của KTNN ngày càng đa dạng, phong phú và có chất lượng hơn, được Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện chính sách pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài chính - ngân sách; các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ.
Tuy nhiên, pháp luật còn thiếu những quy định về chức năng, nhiệm vụ của KTNN, trong đó một số nhiệm vụ phát sinh KTNN đã và đang phải thực hiện hoặc về lâu dài đây là nhiệm vụ của KTNN nhưng chưa được quy định trong Luật KTNN, như: vai trò của KTNN trong phòng, chống tham nhũng; trưng cầu giám định tư pháp; thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng Kiểm toán nhà nước hiện còn hạn chế gây khó khăn cho hoạt động KTNN; quy định về trách nhiệm phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để hạn chế tình trạng trùng lắp, chồng chéo giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra với hoạt động KTNN;…
2. Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước
Thực hiện Luật KTNN năm 2015, Tổ chức bộ máy của KTNN tiếp tục được củng cố và quản lý theo mô hình tập trung thống nhất, gồm 32 đơn vị: Văn phòng KTNN, 06 đơn vị thuộc bộ máy điều hành, 08 KTNN chuyên ngành, 13 KTNN khu vực, 03 đơn vị sự nghiệp công lập và Văn phòng Đảng- đoàn thể. Thực tiễn hoạt động trong những năm qua khẳng định mô hình tổ chức và cơ cấu tổ chức của KTNN cơ bản phù hợp, phát huy được hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đến 31/12/2017 tổng biên chế công chức, viên chức, người lao động của KTNN là 2.303 người, trong đó có 1.974 công chức, 135 viên chức và 194 hợp đồng lao động theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP. Số công chức giữ các ngạch kiểm toán viên nhà nước chiếm 84% và đều có trình độ đào tạo từ đại học trở lên. Công chức được đào tạo chuyên ngành khối kinh tế chiếm 61%, khối kỹ thuật chiếm 22%, các ngành khác chiếm 17%.
Thực hiện các quy định về công tác cán bộ, KTNN đẩy mạnh việc rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động theo cơ cấu phù hợp với chức năng nhiệm vụ, vị trí việc làm và chuyên ngành đào tạo. Thực hiện có nền nếp, thường xuyên công tác luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công tác và biệt phái. Năm 2017, KTNN đã tổ chức thi, cấp chứng chỉ kiểm toán viên nhà nước và kỳ thi ngạch kiểm toán viên qua đó Tổng KTNN đã bổ nhiệm 160 công chức giữ ngạch kiểm toán viên; phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức thi nâng ngạch Kiểm toán viên chính cho hơn 100 công chức đảm bảo theo quy định của Luật KTNN, góp phần hoàn thiện cơ cấu đội ngũ công chức, kiểm toán viên nhà nước đáp ứng kịp thời nhu cầu, cơ cấu các ngạch kiểm toán viên nhà nước.
Tuy nhiên, qua 3 năm thực hiện Luật cho thấy định điều kiện bổ nhiệm ngạch kiểm toán viên chính và kiểm toán viên cao cấp chưa phù hợp đối với những trường hợp chuyển từ ngạch chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp sang ngạch kiểm toán viên tương đương dẫn tới khó khăn, lúng túng trong thực hiện; ảnh hưởng tới chính sách thu hút, khuyến khích những cá nhân có năng lực, kinh nghiệm công tác về làm việc tại KTNN.
3. Kết quả hoạt động kiểm toán của KTNN
3.1. Về quy mô kiểm toán
Thực tế hoạt động kiểm toán từ khi áp dụng Luật KTNN 2015 cho thấy, quy mô và đối tượng kiểm toán của KTNN từng bước được mở rộng hơn; mỗi năm KTNN thực hiện trên 200 cuộc kiểm toán (năm 2016: 205 cuộc, năm 2017: 283 cuộc, năm 2018 dự kiến kiểm toán 205 cuộc).
- Về đối tượng kiểm toán: Ngoài kiểm toán việc quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước tại các bộ, cơ quan trung ương, các địa phương, kiểm toán hoạt động xây dựng và việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư các dự án, hoạt động quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty như những năm trước đây. Trong 2 năm qua, KTNN đã tập trung tiến hành nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề liên quan đến quản lý, sử dụng tài sản công như: công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, khoáng sản giai đoạn 2014-2016 tại Bộ Tài nguyên-Môi trường, Bộ Công thương và 10 tỉnh thành phố; việc quản lý và sử dụng đất đai ; việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đối với các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công-tư; thực hiện một số cuộc kiểm toán liên quan đến lĩnh vực môi trường .
- Về nội dung kiểm toán: Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các nội dung kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, trong những năm gần đây KTNN đã chú trọng hơn vào các nội dung kiểm toán hoạt động, đi sâu vào đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công trong các cuộc kiểm toán chuyên đề, chương trình và dự án. Bên cạnh đó KTNN đã lựa chọn một số chương trình, dự án hoặc hoạt động được dư luận xã hội quan tâm để từng bước tổ chức thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động theo các quy trình và thông lệ quốc tế.
- Về đơn vị được kiểm toán: Thực hiện Điều 55 Luật KTNN năm 2015, KTNN đã thực hiện kiểm toán tại 25 doanh nghiệp mà phần vốn nhà nước chiếm dưới 50% vốn điều lệ. Nội dung và phương pháp kiểm toán đối với các đơn vị trên được Tổng KTNN phê duyệt tập trung vào: Kiểm toán việc thực hiện nghĩa vụ NSNN; kiểm toán việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện vốn nhà nước; kiểm toán đánh giá tính hiệu quả hoạt động đầu tư vốn của Công ty mẹ; kiểm toán việc chấp hành pháp luật trong hoạt động kinh doanh theo quy định của Nhà nước.
3.2. Về loại hình, phương thức kiểm toán
Thực hiện quy định tại Điều 32 Luật KTNN 2015, KTNN thực hiện đầy đủ cả 03 nội dung kiểm toán: Kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Đặc biệt đối với nội dung kiểm toán hoạt động đã được KTNN chú trọng đẩy mạnh nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Số lượng các nhiệm vụ, chủ đề kiểm toán hoạt động được tổ chức thành các cuộc kiểm toán riêng liên tục tăng (năm 2016-2018 bình quân mỗi năm thực hiên 08 nhiệm vụ, chủ đề kiểm toán.
Về phương thức kiểm toán cũng ngày càng được mở rộng, ngoài phương thức kiểm toán quyết toán (hậu kiểm), KTNN đang đẩy mạnh kiểm toán hoạt động, nhằm đánh giá tính tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Phương thức kiểm toán chuyên đề cũng ngày càng được mở rộng nhằm đi sâu kiểm toán, giải đáp các vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước đang được dư luận xã hội quan tâm và đề xuất nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ quản lý, như: Chuyên đề quản lý đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đối với các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư của Bộ Giao thông vận tải; Chuyên đề việc giao đất có thu tiền sử dụng đất khu đô thị tại một số địa phương; Chuyên đề công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản giai đoạn 2014-2016; Chuyên đề công tác quản lý và sử dụng công chức, viên chức, lao động hợp đồng và quỹ lương năm 2016;... Kế hoạch năm 2018: chuyên đề “công tác quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng”; chuyên đề “Việc quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm y tế tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”; chuyên đề “Việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA giai đoạn 2015-2017”; chuyên đề “Đánh giá hiệu quả của các chính sách ưu đãi đầu tư tại các khu kinh tế” ...)
3.3. Về kết quả kiểm toán
- Kết quả kiến nghị về xử lý tài chính: Trong 2 năm thực hiện Luật KTNN, KTNN đã kiến nghị xử lý 129.683 tỷ đồng, chiếm 40,5% so với tổng số kiến nghị từ khi thành lập ngành đến nay, số kiến nghị năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể như sau:
Đơn vị tính: tỷ đồng
Nội dung 1994-2015 Năm 2016 Năm 2017 Tổng cộng
Tăng thu 42.383 11.364,8 19.110,4 72.858,2
Giảm chi 35.388 16.173,6 17.787,7 69.348,9
Tăng giá trị DN, vốn NN tại các CTCP 5.134,6 9.619,1 14.753,6
Kiến nghị khác 112.776 6.102,9 44.390,1 163.269,4
Tổng cộng 190.547 38.775,9 90.907,2 320.230,1
- Kết quả hoạt động KTNN không chỉ thể hiện, ghi nhận bằng những số liệu kiến nghị xử lý tài chính hàng nghìn tỷ đồng mà còn thể hiện ở những kiến nghị kiểm toán sửa chữa, uốn nắn; bịt chỗ hổng làm thất thoát, xử lý sai phạm,... đã giúp các đơn vị được kiểm toán, các cơ quan quản lý nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý tài chính - ngân sách, kế toán, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, tham ô, lãng phí, thất thoát tiền, tài sản nhà nước; giúp các đơn vị hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý của mình, đảm bảo quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công đúng pháp luật và có hiệu quả. Ngoài ra, KTNN đã phối hợp, cung cấp những thông tin xác thực về tình hình quản lý điều hành ngân sách, tiền và tài sản nhà nước và có nhiều kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ,... góp phần sửa đổi, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Kiến nghị xử lý 309 văn bản quy phạm pháp luật sai quy định hoặc không phù hợp thực tế ... Đây là những đóng góp thiết thực của KTNN với chức năng tư vấn của cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền chỉ đạo, tổ chức kiểm điểm trách nhiệm nhiều tập thể, cá nhân sai phạm theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã phát hiện và chuyển hồ sơ sang Cơ quan Cảnh sát điều tra 6 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự để điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.
3.4. Về công khai kết quả kiểm toán và cung cấp kết quả kiểm toán
Thực hiện quy định tại Điều 50 Luật KTNN năm 2015, Tổng KTNN đã ban hành Quyết định số 1562/QĐ-KTNN ngày 08/9/2016 quy định về công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN. Theo đó, hàng năm KTNN tổ chức họp báo công bố công khai Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN và đăng tải Báo cáo này trên trang thông tin điện tử của KTNN. Ngoài ra, đối với các báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán, đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với đơn vị được kiểm toán tổ chức niêm yết kết quả kiểm toán tại trụ sở đơn vị được kiểm toán trong thời hạn 05 ngày làm việc liên tục, kể từ ngày niêm yết; đồng thời một số Báo cáo kiểm toán được tóm tắt công bố công khai trên Tạp chí kiểm toán, Báo kiểm toán của KTNN.
Ngoài việc công khai kết quả kiểm toán, KTNN cũng đã thực hiện nghiêm túc quy định tại Điều 53 Luật KTNN 2015 về việc cung cấp kết qủa kiểm toán theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Năm 2016 và năm 2017, KTNN đã cung cấp 25 bộ hồ sơ, tài liệu kiểm toán cho Quốc hội, các Đại biểu Quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, thanh tra, Ủy ban Kiểm tra và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và thực hiện tố tụng.
Việc công khai kết quả kiểm toán cũng như cung cấp kết quả kiểm toán luôn đảm bảo kịp thời, đúng pháp luật, có tính định hướng, được dư luận đồng tình và đánh giá cao, là nguồn thông tin quan trọng giúp cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội cũng như toàn thể nhân dân có thể khai thác phục vụ đắc lực cho công tác điều tra, kiểm tra, giám sát, phòng chống tội phạm, tham nhũng.
4. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan
Các đơn vị được kiểm toán cơ bản thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ được quy định trong Luật, nhất là việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của KTNN đối với các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện các biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do KTNN phát hiện và kiến nghị. Lãnh đạo các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng quan tâm và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN. Hàng năm, các đơn vị được kiểm toán đều có báo cáo thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán gửi về KTNN. Tổng hợp kết quả kiểm tra tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán về xử lý tài chính từ năm 2006 đến năm 2017 đã được thực hiện 142.201/201.722 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 70,5% tổng số kiến nghị; trong đó tính riêng 02 năm từ khi có Luật KTNN (2016, 2017) là 45.876/59.344 tỷ đồng, đạt 77,3%, tỷ lệ thực hiện năm sau cao hơn năm trước.
Tuy nhiên, vẫn còn trường hợp đơn vị được kiểm toán chưa thực hiện tốt nghĩa vụ được quy định trong Luật như: cố tình trì hoãn, chậm cung cấp tài liệu cho KTNN gây ảnh hưởng tới tiến độ, chất lượng công tác kiểm toán. Tỷ lệ kiến nghị xử lý tài chính được thực hiện tuy có tăng nhưng số kiến nghị chưa được thực hiện vẫn cao. Trong 2 năm là 22,7% số kiến nghị chưa được thực hiện bằng 13.468 tỷ đồng. Việc gửi báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách, dự toán kinh phí của đơn vị được kiểm toán theo Điều 58 Luật KTNN chưa được các đơn vị thực hiện.
5. Việc xử lý vi phạm pháp luật về KTNN
Từ thực tế thực hiện pháp luật về KTNN những năm qua cho thấy đã phát sinh những vi phạm về nghĩa vụ, trách nhiệm hoặc vi phạm quy định về điều cấm của đơn vị đ¬ược kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan nh¬ư: cung cấp không đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu; không thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán; cản trở việc kiểm toán; che giấu các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công... Tuy nhiên, Điều 71 Luật KTNN mới chỉ quy định chung chung “xử lý theo quy định của pháp luật” nhưng thực tế chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN nên chưa có cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN của đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan. Việc xử lý vi phạm của đơn vị được kiểm toán và cơ quan tổ chức có liên quan chủ yếu áp dụng biện pháp nhắc nhở. Mặc dù có nhiều hành vi vi phạm Luật KTNN nhưng trong gần 3 năm thực hiện Luật KTNN năm 2015 không có trường hợp đơn vị được kiểm toán hoặc tổ chức, cá nhân liên quan bị xử lý theo quy định tại Điều 71 Luật KTNN. Chính điều này đã làm giảm hiệu lực hoạt động KTNN nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.
Với những kết quả đã đạt được sau gần 3 năm thực hiện Luật KTNN, KTNN đã góp phần tăng cường tính minh bạch, tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Kết quả hoạt động KTNN đã đóng góp tích cực vào thành tựu công cuộc đổi mới, đặc biệt là cải cách tài chính công, khẳng định vị trí, vai trò của KTNN trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Hoạt động KTNN và công khai kết quả kiểm toán không chỉ góp phần tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước mà còn tạo lòng tin với nhân dân, công chúng và toàn xã hội.
III. NHỮNG TỒN TẠI, BẤT CẬP CHỦ YẾU CỦA LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
1. Về đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán
Quy định về đơn vị được kiểm toán tại Điều 55 của Luật chưa bao quát hết các tổ chức có hoạt động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công thuộc đối tượng, phạm) vi kiểm toán của KTNN theo quy định của Hiến pháp (Điều 118) và Luật KTNN (Điều 4). Do vậy, cần quy định đầy đủ để làm cơ sở tiến hành kiểm toán đối với tất cả các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Điều này xuất phát từ các cơ sở pháp lý và thực tiễn sau đây:
1.1. Về cơ sở pháp lý
- Cơ sở từ Hiến định địa vị pháp lý và vai trò của KTNN trong hệ thống chính trị
KTNN là cơ quan Hiến định độc lập. Địa vị pháp lý, vai trò của KTNN đã được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Theo đó, “KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” (khoản 1 Điều 118 của Hiến pháp năm 2013). Hiến pháp đã xác lập nguyên tắc: Ở đâu có tài chính công, tài sản công là ở đó phải được kiểm toán, không phân biệt đối tượng và hình thức quản lý, sử dụng nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; góp phần phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, nâng cao tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
- Cơ sở từ các quy định hiện hành về đối tượng kiểm toán của KTNN
Điều 118 Hiến pháp và Điều 4 Luật KTNN đã quy định rõ: KTNN thực hiện việc kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Về nội hàm tài chính công và tài sản công tại khoản 10, khoản 11 Điều 3 của Luật cũng được quy định phù hợp Điều 53, Điều 55 của Hiến pháp.
- Cơ sở từ các quy định hiện hành về đơn vị được kiểm toán và cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động kiểm toán
Luật KTNN quy định đơn vị được kiểm toán là cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công (tại Điều 3); Điều 55 Luật KTNN chỉ rõ 12 nhóm cơ quan, đơn vị thuộc đơn vị được kiểm toán của KTNN; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động KTNN có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin, tài liệu đã cung cấp (khoản 1 Điều 68). Trong quá trình thực hiện kiểm toán, thành viên Đoàn kiểm toán áp dụng phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán để thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán; kiểm tra, đối chiếu, xác nhận; điều tra đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán làm cơ sở cho ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán về nội dung đã kiểm toán (khoản 2 Điều 46). KTNN có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán (khoản 2 Điều 11).
Về nhiệm vụ kiểm toán thuế: Luật KTNN 2015 quy định hoạt động kiểm toán của KTNN là việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Như vậy, tuy chưa cụ thể nhưng kiểm toán thuế đã được luật định về thẩm quyền kiểm toán nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước của các tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng thiếu quy định về đơn vị được kiểm toán trong lĩnh vực kiểm toán thuế nên chưa bao quát hết đối tượng kiểm toán theo nguyên tắc ở đâu có tài chính công và tài sản công là ở đó phải được kiểm toán.
Trong thực tiễn hoạt động kiểm toán, KTNN đã gặp không ít khó khăn, như: đơn vị không cung cấp hồ sơ, tài liệu cho KTNN, Kiểm toán viên nhà nước; từ chối làm việc với KTNN; không hợp tác khi Kiểm toán viên nhà nước đến làm việc; không bố trí kế toán, người liên quan làm việc với KTNN,... Khi quyết định kiểm toán, KTNN không đưa vào danh mục các đơn vị được kiểm toán nên không thể áp dụng các quyền (Điều 56) và nghĩa vụ (Điều 58) của đơn vị được kiểm toán đối với các cơ quan, tổ chức này (chỉ áp dụng các trách nhiệm theo Điều 68 của Luật). Khi thực hiện kiểm toán, KTNN chỉ được tiến hành đối chiếu, kiểm tra, xác minh; để bảo đảm đúng Luật, việc mời các đơn vị này làm việc KTNN phải thực hiện thông qua cơ quan thuế và cơ quan khác. Nguyên nhân của tình trạng trên là do Luật hiện hành quy định một số chủ thể như cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản,… không phải là đơn vị được kiểm toán (các chủ thể này có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của chủ thể có nghĩa vụ thu ngân sách nhà nước, cơ quan có chức năng quản lý tài sản quốc gia).
1.2. Về cơ sở thực tiễn
Trong thực tiễn hoạt động KTNN, một số chủ thể như cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản,… do không phải là đơn vị được kiểm toán nên khi tiến hành hoạt động kiểm tra, đối chiếu các đơn vị này, KTNN đã gặp không ít khó khăn như: không cung cấp hồ sơ, tài liệu cho KTNN; từ chối làm việc với KTNN; không hợp tác khi Kiểm toán viên nhà nước đến làm việc; không bố trí kế toán, người liên quan làm việc với KTNN...
- Hiện nay, công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thu ngân sách nhà nước các cấp chủ yếu thực hiện hậu kiểm, trong khi đó cơ quan thuế chỉ thực kiểm tra, thanh tra được khoảng 18% trong tổng số các doanh nghiệp nộp thuế (có nghĩa khoảng 82% đang là khoảng trống chưa được cơ quan nào kiểm tra, xác nhận).
- Năm 2017, KTNN đối chiếu phát hiện 2.322/2.487 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại 47 tỉnh, thành phố với kết quả tăng thu cho ngân sách 1.351 tỷ đồng. Qua công tác kiểm toán thu, KTNN phát hiện có nhiều hạn chế, tồn tại như: miễn giảm sai, áp dụng sai thuế suất, hoàn thuế sai, tính tiền chậm nộp không đúng, thanh tra kiểm tra kéo dài,…Việc kiểm toán các dự án BOT đã giảm 222 năm thời gian thu phí của 61 dự án, kiến nghị những bất cập về cơ chế, chính sách. Kiểm toán 30 dự án BT giảm 4.500 tỷ đồng. Kiểm toán các khu đô thị, truy thu hàng chục tỷ đồng về cho NSNN.
- Để bảo đảm đúng pháp luật, thời gian qua khi tiến hành kiểm tra, đối chiếu đối với các đơn vị, tổ chức có liên quan (bên thứ 3), KTNN phải tác nghiệp thông qua cơ quan thuế, cơ quan quản lý nhà nước (Sở Tài chính, Sở Tài nguyên môi trường). Song, do nhận thức và áp dụng pháp luật của một bộ phận (bao gồm cả chủ quan và khách quan) chưa thống nhất nên quan niệm khi không là đơn vị được kiểm toán thì không chịu sự kiểm toán của KTNN. KTNN đã gặp không ít các trường hợp đơn vị có hành vi chống đối, không hợp tác, không chấp hành cung cấp tài liệu, gây khó khăn cho hoạt động của KTNN.
- Để có cơ sở thực hiện kiểm toán đối với một số hoạt động và đối tượng có liên quan, Tổng KTNN đã ban hành một số văn bản mang tính chuyên môn sâu để hướng dẫn thực hiện đối với một số lĩnh vực, như: Kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp thuế khi kiểm toán tại cơ quan thuế, hải quan trong cuộc kiểm toán ngân sách, tiền và tài sản nhà nước tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; hướng dẫn kiểm toán việc quản lý và sử dụng đất khu đô thị; kiểm toán chuyên đề công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản giai đoạn 2014-2016,…Do Luật KTNN chưa quy định rõ ràng đơn vị được kiểm toán nên các văn bản trên mới chỉ thể hiện có tính chất hướng dẫn trong nội bộ ngành KTNN.
2. Về quyền khiếu nại báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán của KTNN là văn bản do KTNN lập và công bố sau mỗi cuộc kiểm toán để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của KTNN sau khi phát hành và công khai có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về sai phạm trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tại điểm d khoản 2 Điều 7 Luật KTNN quy định báo cáo kiểm toán là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại.
Trên thực tế, các đánh giá, xác nhận, kết luận, kiến nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán có tác động đến đơn vị được kiểm toán và cả đơn vị, tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, tài sản công nhưng Luật mới chỉ quy định “Báo cáo kiểm toán là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại” mà chưa cho phép đơn vị, tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, tài sản công (bên thứ 3) thực hiện. Theo quy định của pháp luật về khiếu nại, nếu kết luận, kiến nghị kiểm toán trái pháp luật mà gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức thì tổ chức đó có quyền được khiếu nại. Có thể ví dụ trường hợp cơ quan thuế ra quyết định truy thu đối với doanh nghiệp dựa trên kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN mà trong trường hợp này kết quả kiểm toán lại có căn cứ trái pháp luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp thì theo quy định của pháp luật về khiếu nại doanh nghiệp này cũng có quyền được khiếu nại đối với kết luận, kiến nghị kiểm toán trên.
Do vậy, cần sửa đổi lại Điều 7 theo hướng bổ sung quyền kiến nghị, khiếu nại đối với báo cáo kiểm toán cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến việc sử dụng, quản lý tài chính công, tài sản công theo hướng “Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại.”
3. Chưa quy định nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; nhiệm vụ giám định tài chính, tài sản đối với những vấn đề liên quan theo đề nghị của cơ quan tố tụng
KTNN là lĩnh vực mới; có tính đặc thù, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN vẫn tiếp tục cần được hoàn thiện. Thời gian qua, một số nhiệm vụ phát sinh KTNN đã và đang phải thực hiện hoặc về lâu dài đây là nhiệm vụ của KTNN nhưng chưa được quy định trong Luật KTNN, như: vai trò của KTNN trong phòng, chống tham nhũng; trưng cầu giám định tư pháp; xác minh các đơn thư tố cáo về quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công,… Để bảo đảm nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan, KTNN phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp, cần sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN sau đây:
3.1. Về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng: Luật Phòng, chống tham nhũng đề cao vai trò và quy định rõ trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng thông qua việc thực hiện chức năng kiểm toán. Luật cũng quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật KTNN và Luật Phòng chống tham nhũng, KTNN được xác định là một trong những cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng. Qua kiểm toán, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân hàng trăm vụ việc; riêng năm 2017, KTNN đã kiến nghị chuyển cơ quan cảnh sát điều tra 6 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cung cấp 12 bộ hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phục vụ công tác giám sát, kiểm tra, tố tụng và gửi một số báo cáo chuyên đề cung cấp thông tin phục vụ kịp thời các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các đoàn giám sát của Quốc hội...
3.2. Về nhiệm vụ giám định tư pháp: Chưa có một văn bản pháp luật nào quy định nhiệm vụ KTNN thực hiện việc giám định tư pháp. Theo Hiến pháp, KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Thời gian qua, KTNN đã chuyển nhiều vụ việc có dấu hiệu tội phạm cho cơ quan điều tra,…Trong nhiều trường hợp các cơ quan tư pháp, cơ quan điều tra đề nghị KTNN thực hiện giám định đối với một số vụ việc cụ thể nhưng do pháp luật chưa quy định nên KTNN không có cơ sở pháp lý để thực hiện các đề nghị trên.
4. Quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng Kiểm toán nhà nước còn hạn chế gây khó khăn cho hoạt động KTNN
Sau 3 năm thực hiện Luật KTNN 2015, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân hàng trăm vụ việc. Riêng năm 2017, KTNN đã kiến nghị chuyển cơ quan điều tra 6 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cung cấp 12 bộ hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phục vụ công tác giám sát, kiểm tra, tố tụng và gửi một số báo cáo chuyên đề cung cấp thông tin phục vụ kịp thời các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, các đoàn giám sát của Quốc hội...
Do Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật KTNN và các quy định của pháp luật hiện hành chưa quy định thẩm quyền ban Thông tư liên tịch của Tổng KTNN nên việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng gặp nhiều khó khăn, nhất là việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong xử lý những vụ việc có dấu hiệu phạm tội tham nhũng do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý. Điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN với vai trò là một trong những cơ quan có trách nhiệm về phòng, chống tham nhũng.
Việc đề xuất Tổng KTNN được tham gia ký Thông tư liên tịch quy định về phối hợp giữa KTNN với các cơ quan liên quan trong việc thực hiện những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình dựa trên các cơ sở sau đây:
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhấn mạnh: " Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí". Đây là căn cứ quan trọng để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho KTNN cùng phối hợp thực hiện và phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả hoạt động của mình.
- Điều 118 Hiến pháp năm 2013 quy định: “KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”; Các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật KTNN và Luật Phòng, chống tham nhũng xác định KTNN là một trong những cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng, cụ thể:
(1) Tại khoản 5, Điều 5 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan thanh tra, KTNN có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu, đồ vật có liên quan và kiến nghị cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự”.
(2) Tại khoản 12, Điều 10 Luật KTNN quy định về trách nhiệm của KTNN: “Chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân xem xét và cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán”; Điều 65 quy định trách nhiệm của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân: “cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân xem xét có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền các vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, do KTNN phát hiện và kiến nghị”.
(3) Luật Phòng, chống tham nhũng quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng tại Điều 7, Điều 77, Điều 80, Điều 81 và Điều 82 (trong dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi cho thấy vai trò của KTNN ngày càng được tăng cường).
Trên thực tế, để thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, KTNN, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 2462/2007/TTLT-TTCP-VKSNDTC-TANDTC-KTNN-BQP-BCA-BTC, ngày 19/11/2007 quy định việc trao đổi, quản lý và sử dụng thông tin, dữ liệu về phòng, chống tham nhũng. Từ đó đến nay, Thông tư liên tịch này đã phát huy và mang lại hiệu quả thiết thực.
5. Quy định về thời hạn của cuộc kiểm toán
Tại Điều 34 Luật KTNN quy định “Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng KTNN quyết định gia hạn một lần, thời gian gia hạn không quá 30 ngày”. Trên thực tế, thời hạn tính đủ cho một cuộc kiểm toán là rất quan trọng để tiến hành các nhiệm vụ kiểm toán theo kế hoạch. Chất lượng kiểm toán có được nâng cao hay không phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động ở giai đoạn thực hiện kiểm toán. Quy định về thời hạn kiểm toán qua thực tiễn thi hành pháp luật thời gian qua cho thấy chưa phù hợp, nếu trừ ngày lễ, thứ bảy, chủ nhật thì thời gian kiểm toán thực tế chỉ còn 40 ngày, có trường hợp thời gian làm việc tại một đơn vị trực thuộc đơn vị được kiểm toán chỉ có 3-4 ngày để thực hiện.
6. Về lập và gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán
Điều 47 Luật KTNN quy định gian lập và gửi (phát hành) báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán là 45 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán. Tuy vậy, quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 về thời hạn hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán và gửi lấy ý kiến của đơn vị được kiểm toán còn ngắn, gây khó khăn cho hoạt động kiểm toán, cụ thể:
- Trong thời hạn quy định chỉ với 30 ngày như hiện nay, KTNN phải thực hiện theo quy trình rất chặt chẽ từ: lập dự thảo báo cáo kiểm toán; thủ trưởng đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán tổ chức xét duyệt dự thảo báo cáo kiểm toán; Tổng KTNN tổ chức xét duyệt dự thảo báo cáo kiểm toán; hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán, gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán.
- Với thời hạn 10 ngày như hiện nay, việc gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán không đủ bảo đảm cho đơn vị được kiểm toán có thời gian triển khai và tham gia ý kiến, nhất là các đơn vị tổng hợp, đầu mối và các địa phương. Do không đủ thời gian có ý kiến vào dự thảo báo cáo kiểm toán dẫn đến nhiều trường hợp chưa thống nhất về nội dung và kết quả kiểm toán nên đơn vị được kiểm toán khiếu nại, kiến nghị, nhiều trường hợp dẫn đến kéo dài thời gian để thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán.
Đề nghị tăng thời hạn hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán, thời hạn gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán về dự thảo báo cáo kiểm toán là cần thiết bảo đảm cho phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán, tạo điều kiện cho đơn vị được kiểm toán có điều kiện nghiên cứu, thông qua đó bảo đảm sự đồng thuận và chấp hành tốt hơn khi thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán.
7. Quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán
Với nhiều biện pháp tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, chất lượng kiểm toán ngày càng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Những kiến nghị của KTNN ngày càng đa dạng, phong phú và có chất lượng hơn, được Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện chính sách pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài chính - ngân sách; các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Hàng năm, KTNN đều tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn KTNN, Quy tắc ứng xử của Kiểm toán viên nhà nước cũng như hồ sơ kiểm toán trong khi thực hiện hoặc kết thúc kiểm toán đã đưa vào lưu trữ; ban hành và kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị của Tổng KTNN về tăng cường quản lý hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán. Kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chất lượng được công khai, có tác dụng tốt kịp thời chấn chỉnh các sai phạm và biểu dương khen thưởng những nhân tố tích cực để nâng cao chất lượng kiểm toán, rút ngắn thời gian kiểm toán và tránh được các sai phạm, khuyết điểm của Kiểm toán viên nhà nước.
Vai trò và trọng trách của KTNN cang to lớn thì yêu cầu kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán càng cần thiết. Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên mà còn là mục tiêu trọng tâm trong Chiến lược phát triển của Kiểm toán nhà nước. Nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cơ quan KTNN, đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội - hướng tới một nền tài chính minh bạch, công khai, hiệu quả và phát triển bền vững. Trong hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán, KTNN đã xây dựng được hệ thống các quy định, chính sách trong quản lý, kiểm soát chất lượng kiểm toán, cũng như các đơn vị kiểm soát chuyên trách. Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện thường xuyên, xuyên suốt quá trình kiểm toán: từ khâu lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán đến lập, phát hành báo cáo kiểm toán; với nhiều chủ thể thực hiện kiểm soát như: Tổ trưởng tổ kiểm toán, Trưởng đoàn kiểm toán, kiểm toán trưởng và lãnh đạo Kiểm toán nhà nước đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng kiểm toán, hạn chế sai sót trong công tác kiểm toán.
Vì công tác kiểm toán là hoạt động mang tính chuyên môn cao và liên quan tới nhiều đối tượng cần phải được kiểm soát chặt chẽ về quy trình, chất lượng kiểm toán cũng như trách nhiệm của người thực thi công vụ. Thực tế, thời gian qua KTNN đã triển khai công tác này và đem lại hiệu quả tốt, Tuy vậy, để đưa công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán vào nền nếp, coi việc kiểm soát chất lượng kiểm toán là nhiệm vụ bắt buộc trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước nhằm tiếp tục không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm toán của KTNN cần thiết bổ sung quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán vào trong Luật KTNN.
8. Quy định việc cung cấp thông tin, tài liệu dưới dạng dữ liệu điện tử để thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước
Luật KTNN hiện hành không hạn chế phạm vi tiếp cận thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán của KTNN (bao gồm cả thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước). KTNN, Kiểm toán viên nhà nước có trách nhiệm đảm bảo tính bảo mật của tài khoản và thông tin được cung cấp theo quy định. KTNN hoạt động theo nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, đối với KTNN và mỗi Kiểm toán viên nhà nước thì yêu cầu về bảo mật là một nguyên tắc tối thượng, đã được Luật hóa thành các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại điểm e và điểm g khoản 1 Điều 8 Luật KTNN năm 2015. Bên cạnh đó, các quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều 42 Luật KTNN năm 2015 cho phép Kiểm toán viên nhà nước có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp các loại thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán và quyền được xem xét tài liệu liên quan đến hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Các loại tài liệu quy định trong Luật KTNN là tài liệu nói chung, không loại trừ các tài liệu thông tin tồn tại ở dạng phần mềm hay dữ liệu điện tử.
Trong thực tế, nhiều thông tin tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán được lưu trữ dưới dạng số hóa, dữ liệu điện tử. Các tài liệu này cần được khai thác phục vụ cho hoạt động kiểm toán của KTNN, nhất là trong điều kiện kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin. Mặt khác, qua việc cung cấp báo cáo tài chính, dự toán kinh phí và các tài liệu khác của đơn vị được kiểm toán dưới dạng dữ liệu điện tử giúp KTNN xây dựng được cơ sở dữ liệu về đơn vị được kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng kế hoạch và thực hiện kiểm toán được chất lượng, hiệu quả; tiến tới khi có đủ cơ sở dữ liệu điện tử và trong điều kiện đảm bảo hệ thống an ninh mạng, KTNN có thể thực hiện kiểm toán trực tuyến.
Tuy nhiên, do chưa thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật nên cần thiết bổ sung thêm quy định: Thông tin, tài liệu đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có nghĩa vụ cung cấp theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước phục vụ nội dung cuộc kiểm toán của KTNN bao gồm cả bản in ra giấy và dữ liệu điện tử. Đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cùng với Kiểm toán viên nhà nước truy cập các phần mềm ứng dụng của đơn vị để Kiểm toán viên nhà nước khai thác, thu thập thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước có trách nhiệm bảo mật thông tin được cung cấp theo quy định. Đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan và đầy đủ của tài liệu, thông tin, dữ liệu điện tử cung cấp cho KTNN, Kiểm toán viên nhà nước.
9. Chưa có các quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước của đơn vị được kiểm toán và của tổ chức, cá nhân có liên quan.
Từ thực tế thực hiện pháp luật về KTNN những năm qua cho thấy đã phát sinh những vi phạm về nghĩa vụ, trách nhiệm hoặc vi phạm quy định về điều cấm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan như: trì hoãn, không cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện việc kiểm toán; báo cáo sai lệch, không trung thực, không đầy đủ và thiếu khách quan thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán của KTNN; sửa đổi, cất giấu, hủy hoại tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán; không giải trình đầy đủ, kịp thời các vấn đề do Đoàn kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước yêu cầu; người đứng đầu đơn vị được kiểm toán trì hoãn ký biên bản kiểm toán; che giấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, ngân sách; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị của KTNN; không thực hiện công khai kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật; công khai kết quả kiểm toán không đầy đủ về nội dung, hình thức, thời hạn quy định; can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán của KTNN,...
Mặc dù có những sai phạm nêu trên nhưng việc xử lý hiện nay còn nhiều bất cập, chủ yếu mới chỉ nhắc nhở, rút kinh nghiệm, vì chưa có các chế tài để áp dụng đối với hành vi vi phạm trên. Luật KTNN và các văn bản khác hầu như chưa có các quy định về chế tài, trừ một số quy định rất chung như: “chịu trách nhiệm trước pháp luật” (Điều 17, Điều 22, Điều 39, Điều 41); đề nghị/kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (Điều 11, Điều 39),... Vì vậy, hiệu lực của hoạt động kiểm toán và tính nghiêm minh của pháp luật chưa đạt được như mong muốn, phần nào đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu lực hoạt động kiểm toán của KTNN. Chỉ tính riêng năm 2017, có 121 trường hợp không cung cấp tài liệu dẫn tới các Đoàn kiểm toán không thể thực hiện kiểm toán được nội dung theo kế hoạch; nhiều trường hợp chậm cung cấp tài liệu theo yêu cầu của KTNN, đặc biệt có trường hợp đơn vị được kiểm toán cố tình cung cấp tài liệu sai sự thật, có hiện tượng tẩy xóa tài liệu nên KTNN không thể so sánh, đánh giá chính xác, khách quan đã làm ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán. Trong thực tế theo dõi tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán cho thấy số kiến nghị kiểm toán của KTNN không được các đơn vị thực hiện còn cao (năm 2015 có 35,7% kiến nghị về tài chính tương ứng số tiền 8.179 tỷ đồng; năm 2016 có 24,4% kiến nghị về tài chính tương ứng số tiền 5.097 tỷ đồng chưa được các đơn vị thực hiện)…làm thất thu ngân sách nhà nước, giảm hiệu quả hoạt động kiểm toán và tính nghiêm minh của pháp luật. Nguyên nhân của tình trạng trên là do hệ thống pháp luật về KTNN hiện nay chưa đầy đủ và đồng bộ, còn thiếu các quy định về chế tài, trong đó chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về xử phạt VPHC trong lĩnh vực KTNN nên không có cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi vi phạm trên của đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân có liên quan mà chủ yếu áp dụng biện pháp nhắc nhở đã làm giảm hiệu lực hoạt động KTNN nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.
KTNN là lĩnh vực mới, đặc thù, hiện chưa quy định tại Luật xử lý VPHC năm 2012. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của luật pháp và thực tiễn cần có quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực KTNN để xóa bỏ “khoảng trống pháp luật” nói trên.
10. Hiện còn tình trạng trùng lắp, chồng chéo giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra với hoạt động KTNN
Hoạt động kiểm toán của KTNN có đối tượng và phạm vi rất rộng bao gồm mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý và sử dụng tài chính công và tài sản công. Do vậy, sự phối hợp của các cấp, các ngành, địa phương và đơn vị được kiểm toán giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện để KTNN ngày càng nâng cao chất lượng kiểm toán, phục vụ và đáp ứng tốt yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan quản lý và địa phương, đơn vị được kiểm toán.
Về mối quan hệ giữa kiểm toán với cơ quan thanh tra, hiện còn tình trạng trùng lắp, chồng chéo. Để đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay cần có giải pháp để tháo gỡ tình trạng này, trong đó tránh trùng lắp về niên độ và nội dung thanh tra, kiểm toán trước mắt cần đặt ra. Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật KTNN năm 2015 thì KTNN quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc hội trước khi thực hiện. Đây là quy định phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của nước ta. Kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN được thực hiện trên nguyên tắc chọn mẫu theo yêu cầu quản lý Nhà nước và phù hợp với năng lực của KTNN trong từng thời kỳ. Việc hình thành ra kế hoạch kiểm toán hiện nay mang tính pháp lý rất cao. Theo Luật, KTNN được độc lập làm kế hoạch nhưng qúa trình xây dựng KTNN vẫn gửi xin ý kiến cơ quan Thanh tra, các bộ ngành, các Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các tổ chức, đơn vị liên quan khác. Sau khi KTNN trình Quốc hội, xin ý kiến từng Đại biểu Quốc hội, KTNN mới ký ban hành và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán. Tuy đã hạn chế được trùng lắp, chồng chéo nhưng cần có sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật để khắc phục triệt để tình trạng này. Việc thể chế hoá quy định này nhằm hạn chế sự trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra và KTNN; đồng thời, đảm bảo tính độc lập của hoạt động KTNN theo quy định của pháp luật.
Phần thứ hai
ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
1. Thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển KTNN; phát triển KTNN thành công cụ trọng yếu và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công; hỗ trợ, phục vụ đắc lực cho hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong thực hiện chức năng lập pháp, giám sát, quản lý điều hành và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của các địa phương.
2. Bảo đảm tính độc lập cao đối với hoạt động KTNN; hoàn thiện địa vị pháp lý của KTNN bảo đảm tương xứng vị trí, vai trò của KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính, tài sản công cao nhất của Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
3. Phân định rõ vị trí, chức năng của KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát khác của Nhà nước, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý tài chính công, tài sản công và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
4. Kế thừa và phát huy những mặt tích cực của Luật KTNN hiện hành; bổ sung những nội dung chưa được điều chỉnh hay quy định chưa rõ hoặc thiếu thống nhất, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tế hoạt động của KTNN; bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa Luật KTNN các luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta như Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tố cáo, Luật Giám định tư pháp,... Phù hợp với thực tiễn hoạt động của KTNN.
5. Làm rõ phạm vi, đối tượng kiểm toán; quy định đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của KTNN; quy định đầy đủ đơn vị được kiểm toán bảo đảm mọi nguồn lực tài chính công và tài sản công theo quy định của Hiến pháp đều được KTNN thực hiện kiểm toán.
6. Tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của KTNN phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
II. ĐỊNH HƯỚNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Để hạn chế các vướng mắc, tồn tại nêu trên, quán triệt các quan điểm chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN được thực hiện tập trung vào các nội dung lớn như sau:
1. Về đơn vị được kiểm toán
Đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán là hai phạm trù có quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau nên phải quy định phù hợp và lô gíc với nhau. Xuất phát từ những cơ sở như đã phân tích tại phần I, nhằm tháo gỡ những khó khan, vướng mắc hiện nay cần sửa đổi, bổ sung lại Luật KTNN theo hướng quy định đầy đủ về đơn vị được kiểm toán để làm cơ sở tiến hành kiểm toán đối với tất cả các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công như sau:
Bổ sung khoản 13 vào Điều 55 cho đầy đủ; mặt khác, để tránh việc kiểm toán tràn lan, tùy tiện, bảo đảm tính khả thi cao, hiệu lực và hiệu quả, cần quy định rõ nội hàm tổ chức có liên quan đến hoạt động KTNN, đồng thời giao cho Tổng KTNN quy định cụ thể mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán phù hợp với các tổ chức có liên quan đến hoạt động KTNN theo hướng như sau:
“Tổ chức có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; tổ chức sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản; tổ chức khác có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tổng Kiểm toán nhà nước quy định cụ thể mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán đối với các đối tượng quy định tại Khoản này.”
Từ việc ghi nhận Tuyên bố Lima về hướng dẫn các nguyên tắc kiểm toán; Kết luận của Hội nghị chuyên đề lần thứ 22 của Liên hiệp quốc và Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cũng như xuất phát từ thực tiễn của KTNN Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung của Luật KTNN theo hướng gồm các nội dung: xác định rõ đơn vị được kiểm toán gồm: các cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế; nội dung kiểm toán thuế: chi tiết theo từng đối tượng; quyền hạn và trách nhiệm Kiểm toán viên trong kiểm toán thuế; nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan quản lý thuế, người nộp thuế, bên thứ ba trong kiểm toán thuế…Trên cơ sở quy định của Luật, ban hành quy trình kiểm toán thuế để chuẩn hóa nội dung, phương pháp kiểm toán thuế tại cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế.
2. Về quyền khiếu nại đối với báo cáo kiểm toán
Theo quy định của pháp luật về khiếu nại, nếu kết luận, kiến nghị kiểm toán trái pháp luật mà gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức thì tổ chức đó có quyền được khiếu nại. Tính chất bắt buộc thực hiện báo cáo kiểm toán phải gắn liền với quyền được kiến nghị, khiếu nại đối của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan. Do vậy, cần sửa lại Điều 7 theo hướng bổ sung quyền kiến nghị, khiếu nại đối với báo cáo kiểm toán cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến việc sử dụng, quản lý tài chính công, tài sản công.
3. Quy định hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hiện giám định tài chính, tài sản đối với những vấn đề liên quan theo đề nghị của cơ quan tố tụng.
Một số nhiệm vụ phát sinh trong thời gian qua trên thực tế KTNN đã và đang phải thực hiện hoặc về lâu dài đây là nhiệm vụ của KTNN nhưng chưa được quy định trong Luật KTNN. Để bảo đảm nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan, KTNN phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN sau đây:
- Để thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng thành các quy định của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý để phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao, đề nghị quy định bổ sung KTNN có nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
- Cần bổ sung quy định về trách nhiệm của KTNN trong việc thực hiện các đề nghị giám định đối với những vấn đề liên quan theo yêu cầu của cơ quan tư pháp, cơ quan điều tra,…
Hướng sửa đổi bổ sung 01 khoản tại Điều 11 như sau:
“Thực hiện giám định tài chính, tài sản đối với những vấn đề liên quan theo đề nghị của cơ quan tố tụng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.”
4. Quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng KTNN tại khoản 3 Điều 14 Luật KTNN
KTNN là lĩnh vực mới, có tính đặc thù, hệ thống pháp luật hiện hành còn những khoảng trống pháp lý, thiếu đồng bộ, thiếu những quy định làm cơ sở nền tảng để KTNN thực hiện các chức năng của mình. Do đó, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN vẫn tiếp tục cần được hoàn thiện và cũng cố. Tuy vậy, việc sửa đổi, bổ sung các Luật liên quan phải tiến hành theo lộ trình, quy trình thực hiện mất nhiều thời gian nên không bảo đảm tính kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành pháp luật về KTNN, KTNN kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 14 Luật KTNN theo hướng ngoài ban hành Quyết định như hiện nay, bổ sung quy định thẩm quyền ký thông tư liên tịch của Tổng KTNN nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và đồng bộ để KTNN hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao, theo hướng như sau:
“Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là quyết định để quy định chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán, phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ áp dụng trong tổ chức và hoạt động kiểm toán; ban hành thông tư liên tịch với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để quy định phối hợp thực hiện những vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”
5. Quy định về thời hạn của cuộc kiểm toán
Cần sửa đổi, bổ sung Luật theo hướng tăng thời hạn cho cuộc kiểm toán theo phương án như sau:
“Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày làm việc, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định gia hạn một lần, thời gian gia hạn không quá 30 ngày làm việc.”
6. Về lập và gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán
Đề nghị tăng thời hạn hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán, thời hạn gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán về dự thảo báo cáo kiểm toán là cần thiết bảo đảm cho phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán, tạo điều kiện cho đơn vị được kiểm toán có điều kiện nghiên cứu, thông qua đó bảo đảm sự đồng thuận và chấp hành tốt hơn khi thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán theo phương án sau:
“1. Chậm nhất là 30 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán, Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán và gửi lấy ý kiến của đơn vị được kiểm toán.
2. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được dự thảo báo cáo kiểm toán, đơn vị được kiểm toán phải có ý kiến bằng văn bản gửi Kiểm toán nhà nước; quá thời hạn trên, đơn vị được kiểm toán không có ý kiến thì được coi là đã nhất trí với dự thảo báo cáo kiểm toán.
3. Báo cáo kiểm toán được Kiểm toán nhà nước gửi cho đơn vị được kiểm toán và cơ quan có liên quan theo quy định của Tổng Kiểm toán nhà nước chậm nhất là 45 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán.”
7. Quy định về việc cung cấp thông tin, tài liệu dưới dạng dữ liệu điện tử để thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước
Luật KTNN hiện hành không hạn chế phạm vi tiếp cận thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán của KTNN (bao gồm cả thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước). Tuy vậy, cần quy định rõ thông tin, tài liệu đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan có nghĩa vụ cung cấp theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước bao gồm cả dữ liệu điện tử theo hướng như sau:
- Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 Điều 42 theo hướng: Thành viên Đoàn kiểm toán là Kiểm toán viên nhà nước có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán. Khi thực hiện kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước có quyền truy cập và yêu cầu đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan cùng truy cập phần mềm ứng dụng của đơn vị để khai thác, thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán.
- Đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 57 theo hướng: Đơn vị được kiểm toán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết bao gồm cả bản in ra giấy và dữ liệu điện tử để thực hiện việc kiểm toán theo yêu cầu của Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán viên nhà nước; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin, tài liệu đã cung cấp.
8. Quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán
Quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán trong Luật KTNN theo hướng bổ sung 01 điều quy định về nội dung kiểm soát chất lượng kiểm toán và trách nhiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán của các chủ thể có liên quan trong hoạt động kiểm toán của KTNN như sau:
“Điều 49a. Kiểm soát chất lượng kiểm toán
1. Kiểm toán nhà nước tổ chức kiểm soát nhằm đảm bảo mọi hoạt động kiểm toán đều được kiểm tra, soát xét về chất lượng.
2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện thường xuyên liên tục đối với toàn bộ hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
3. Tổng Kiểm toán nhà nước quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán.”
9. Quy định về trách nhiệm phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để hạn chế tình trạng trùng lắp, chồng chéo giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra với hoạt động KTNN
Để góp phần hạn chế tình trạng chồng chéo, trùng lắp hiện nay, cần bổ sung một điều về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra trong Chương VII “Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiểm toán nhà nước” theo hướng như sau:
“Điều 64a. Trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra
1. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Kiểm toán nhà nước xử lý trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
2. Trước khi báo cáo Quốc hội, Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm để tránh chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động kiểm toán, thanh tra.”
10. Quy định chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về KTNN
Tại khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính cho thấy: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Theo đó, vi phạm hành chính không chỉ giới hạn trong phạm vi quản lý hành chính nhà nước, mà trong bất kỳ cơ quan, tổ chức nhà nước nào có yêu cầu về quản lý nhà nước cũng có thể xảy ra vi phạm tương tự. Tại Điều 48 quy định thẩm quyền xử phạt của cơ quan Tòa án trong lĩnh vực tư pháp, điều này cho thấy đây cũng là cơ quan Hiến định độc lập như KTNN, không có chức năng, quyền hạn của cơ quan hành pháp và cũng phát sinh yêu cầu phải xử phạt để bảo đảm thượng tôn pháp luật.
Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định xác lập thẩm quyền xử phạt của KTNN vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN tại điều luật về quyền hạn của KTNN (Điều 11), Tổng KTNN (Điều 17) và 01 điều quy định mang tính nguyên tắc, trong đó tối thiểu gồm các quy định về mức phạt tiền tối đa, thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt trong lĩnh vực KTNN và giao Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN (tại Điều 71) theo hướng như sau:
“Điều 71. Quy định xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước tại Điều 71 của Luật Kiểm toán nhà nước
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi pháp pháp luật về kiểm toán nhà nước thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
3. Mức phạt tiền tối đa và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước được quy định như sau:
a) Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức.
b) Tổng Kiểm toán nhà nước, thủ trưởng đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước có liên quan có quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước;
c) Tổng Kiểm toán nhà nước, thủ trưởng đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước có liên quan có quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.”
Theo đó, để bảo đảm tránh mâu thuẫn, xung đột pháp luật xảy ra, dự thảo bổ sung khoản 6a Điều 11 “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước”; theo đó sửa lại khoản 4, khoản 6 Điều 11 về quyền hạn của KTNN và sửa lại khoản 4 Điều 14 về quyền hạn của Tổng KTNN.
Trên đây là Báo cáo tổng kết 3 năm thực hiện Luật KTNN và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung Luật KTNN. Kết quả tổng kết đặt ra yêu cầu khách quan cần phải khẩn trương xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN để hoàn thiện và đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay./.
Tờ trình về đề nghị xây dựng Dự án Luật sđ, bs một số điều của Luật KTNN vào Chương trình xây dựng Luật,pháp lệnh năm 2019
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 07/08/2018
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2015, tài liệu phục vụ xin ý kiến Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
1._TO_TRINH_DANG_KY.doc
Kính gửi: Ủy ban thường vụ Quốc hội
Căn cứ Hiến pháp, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Kế hoạch 735-KH/ĐĐQH ngày 18/01/2018 của Đảng Đoàn Quốc hội về triển khai Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) kính trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội đưa nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2019 của Quốc hội với những nội dung như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC NĂM 2015
1. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 9, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Luật KTNN năm 2015 đã thể chế hóa quy định Điều 118 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, là văn bản pháp lý quan trọng cho tổ chức, hoạt động của KTNN, bảo đảm thiết chế KTNN có đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ việc kiểm tra, giám sát Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; nâng cao tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật.
Qua quá trình tổng kết thi hành, KTNN đã đánh giá những bất cập, hạn chế xuất phát từ thực tiễn 3 năm thực hiện Luật KTNN, nhiều vấn đề mới phát sinh cần phải giải quyết, một số quy định của Luật bộc lộ những bất hợp lý cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của KTNN, như: Nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN chưa tương xứng với vị trí, chức năng, nhiệm vụ được giao; phạm vi, đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán chưa đồng bộ, thống nhất; quy định về đơn vị được kiểm toán chưa bao quát hết các cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; thiếu chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN; một số quy định của Luật cần phải được quy định chi tiết cụ thể hơn; nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN, thành viên Đoàn kiểm toán,... Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa đảm bảo sự tương thích giữa Luật Kiểm toán nhà nước với các luật có liên quan như: Luật Luật phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Giám định tư pháp, Luật Tố cáo,…
Ở phương diện tổ chức thực hiện pháp luật, còn tình trạng nhận thức và áp dụng chưa thống nhất nên không tránh khỏi khó khăn khi tiến hành các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nói chung, của KTNN nói riêng.
2. Ngày 27/11/2017, Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch 07-KH/TW về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Theo đó, nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Luật KTNN năm 2015 được giao cho Đảng Đoàn Quốc hội lãnh đạo thực hiện từ năm 2018 và hoàn thành trong năm 2019. Để thực hiện Kế hoạch trên, ngày 18/01/2018 Đảng Đoàn Quốc hội ban hành Kế hoạch 735-KH/ĐĐQH14, trong đó giao KTNN nhiệm vụ chuẩn bị đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật KTNN trình Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018/2019.
Trong thời gian qua, KTNN đã phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, các bộ, ngành, địa phương tiến hành tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật và nghiên cứu rà soát các quy định của Luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định về KTNN trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật và phù hợp với thực tiễn hoạt động của KTNN, phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Để đánh giá khách quan, chính xác, toàn diện kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và xác định nguyên nhân từ thực tiễn thi hành Luật KTNN năm 2015, qua đó kiến nghị giải pháp cần thiết nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kiểm toán nhà nước, KTNN đã tổ chức điều tra, khảo sát tình hình thực hiện Luật KTNN tại một số UBND cấp tỉnh. Tổ chức Tọa đàm về Luật KTNN và 04 Hội thảo trên phạm vi toàn quốc (tại Hà Nội, Nghệ An, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh) với sự tham dự của các đại diện Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các bộ, ngành trung ương, sở tài chính các tỉnh, thành phố, các trường đại học, viện nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học và các cán bộ chủ chốt của KTNN. KTNN đã xây dựng dự thảo báo cáo tổng kết 3 năm thi hành Luật KTNN và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật KTNN gửi xin ý kiến các cơ quan, bộ, ngành, địa phương.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC NĂM 2015
1. Mục đích
Luật KTNN được sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của KTNN, của Tổng KTNN; làm rõ và đầy đủ phạm vi, đơn vị được kiểm toán phù hợp với đối tượng kiểm toán theo quy định của Hiến pháp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN, bảo đảm sự đồng bộ với các luật khác có liên quan; đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý tài chính công, tài sản công, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.
2. Quan điểm
2.1. Thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển KTNN; phát triển KTNN thành công cụ trọng yếu và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công; hỗ trợ, phục vụ đắc lực cho hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong thực hiện chức năng lập pháp, giám sát, quản lý điều hành và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của các địa phương.
2.2. Bảo đảm tính độc lập cao đối với hoạt động KTNN; hoàn thiện địa vị pháp lý của KTNN bảo đảm tương xứng vị trí, vai trò của KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính, tài sản công cao nhất của Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
2.3. Phân định rõ vị trí, chức năng của KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát khác của Nhà nước, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý tài chính công, tài sản công và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2.4. Kế thừa và phát huy những mặt tích cực của Luật KTNN hiện hành; bổ sung những nội dung chưa được điều chỉnh hay quy định chưa rõ hoặc thiếu thống nhất, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tế hoạt động của KTNN; bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa Luật KTNN các luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta như Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tố cáo, Luật Giám định tư pháp,... Phù hợp với thực tiễn hoạt động của KTNN.
2.5. Làm rõ phạm vi, đối tượng kiểm toán; quy định đầy đủ đơn vị được kiểm toán bảo đảm mọi nguồn lực tài chính công và tài sản công theo quy định của Hiến pháp đều được KTNN thực hiện kiểm toán.
2.6. Tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của KTNN phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH; MỤC TIÊU, NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH TRONG ĐỀ NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT VÀ LÝ DO CỦA VIỆC LỰA CHỌN
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN năm 2015 được thực hiện theo các nội dung định hướng như sau:
1. Về đối tượng kiểm toán và đơn vị được kiểm toán
Quy định về đơn vị được kiểm toán tại Điều 55 của Luật chưa bao quát hết các tổ chức có hoạt động quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công thuộc đối tượng, phạm vi kiểm toán của KTNN theo quy định của Hiến pháp (Điều 118) và Luật KTNN (Điều 4). Do vậy, cần quy định đầy đủ để làm cơ sở tiến hành kiểm toán đối với tất cả các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Điều này xuất phát từ các cơ sở pháp lý và thực tiễn sau đây:
1.1. Về cơ sở pháp lý
- Cơ sở từ Hiến định địa vị pháp lý và vai trò của KTNN trong hệ thống chính trị
KTNN là cơ quan Hiến định độc lập. Địa vị pháp lý, vai trò của KTNN đã được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Theo đó, “KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” (khoản 1 Điều 118 của Hiến pháp năm 2013). Hiến pháp đã xác lập nguyên tắc: Ở đâu có tài chính công, tài sản công là ở đó phải được kiểm toán, không phân biệt đối tượng và hình thức quản lý, sử dụng nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; góp phần phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, nâng cao tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
- Cơ sở từ các quy định hiện hành về đối tượng kiểm toán của KTNN
Điều 118 Hiến pháp và Điều 4 Luật KTNN đã quy định rõ: KTNN thực hiện việc kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Về nội hàm tài chính công và tài sản công tại khoản 10, khoản 11 Điều 3 của Luật cũng được quy định phù hợp Điều 53, Điều 55 của Hiến pháp.
- Cơ sở từ các quy định hiện hành về đơn vị được kiểm toán và cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động kiểm toán
Luật KTNN quy định đơn vị được kiểm toán là cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công (tại Điều 3); Điều 55 Luật KTNN chỉ rõ 12 nhóm cơ quan, đơn vị thuộc đơn vị được kiểm toán của KTNN; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động KTNN có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin, tài liệu đã cung cấp (khoản 1 Điều 68). Trong quá trình thực hiện kiểm toán, thành viên Đoàn kiểm toán áp dụng phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán để thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán; kiểm tra, đối chiếu, xác nhận; điều tra đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán làm cơ sở cho ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán về nội dung đã kiểm toán (khoản 2 Điều 46). KTNN có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán (khoản 2 Điều 11).
Về nhiệm vụ kiểm toán thuế, Luật KTNN 2015 quy định hoạt động kiểm toán của KTNN là việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Như vậy, nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải được kiểm toán. Do chưa có quy định cụ thể về vấn đề này (kiểm toán trong lĩnh vực kiểm toán thuế) nên chưa bao quát hết đối tượng kiểm toán theo nguyên tắc ở đâu có tài chính công và tài sản công là ở đó phải được kiểm toán.
Do Luật KTNN quy định một số chủ thể như cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; các đơn vị, tổ chức, chủ đầu tư sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản,… không phải là đơn vị được kiểm toán (là các đơn vị có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của chủ thể có nghĩa vụ thu ngân sách nhà nước, cơ quan có chức năng quản lý tài sản quốc gia) nên trong thực tiễn KTNN đã gặp không ít khó khăn, như: đơn vị không cung cấp hồ sơ, tài liệu cho KTNN, Kiểm toán viên nhà nước; từ chối làm việc với KTNN; không hợp tác khi Kiểm toán viên nhà nước đến làm việc; không bố trí kế toán, người liên quan làm việc với KTNN,... Khi quyết định kiểm toán, KTNN không đưa vào danh mục các đơn vị được kiểm toán nên không thể áp dụng các quyền (Điều 56) và nghĩa vụ (Điều 58) của đơn vị được kiểm toán đối với các cơ quan, tổ chức này (chỉ áp dụng các trách nhiệm theo Điều 68 của Luật). Khi thực hiện kiểm toán, để bảo đảm đúng quy định của Luật, KTNN chỉ được tiến hành đối chiếu, kiểm tra, xác minh và việc mời các đơn vị này làm việc với KTNN phải thực hiện thông qua cơ quan thuế và cơ quan chức năng khác.
1.2. Về cơ sở thực tiễn
- Hiện nay, công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thu ngân sách nhà nước các cấp chủ yếu thực hiện hậu kiểm, trong khi đó cơ quan thuế chỉ thực kiểm tra, thanh tra được khoảng 18% trong tổng số các doanh nghiệp nộp thuế (có nghĩa khoảng 82% đang là khoảng trống chưa được cơ quan nào kiểm tra, xác nhận). Mặt khác, việc trốn thuế, chuyển giá đang trở nên nhức nhối, hiện làm thất thu ngân sách nhà nước. Vì vậy, KTNN thực hiện kiểm toán thuế sẽ chống thất thu ngân sách, làm minh bạch, bình đẳng đối với người nộp thuế.
- Năm 2017, KTNN đối chiếu thuế phát hiện 2.322/2.487 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại 47 tỉnh, thành phố với kết quả tăng thu cho ngân sách 1.351 tỷ đồng. Qua công tác kiểm toán thu, KTNN phát hiện có nhiều hạn chế, tồn tại như: miễn giảm sai, áp dụng sai thuế suất, hoàn thuế sai, tính tiền chậm nộp không đúng, thanh tra kiểm tra kéo dài,…
Qua kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai đã phát hiện nhiều sai phạm của cơ quan quản lý và chủ đầu tư, truy thu hàng nghìn tỷ đồng về cho ngân sách nhà nước. Đây là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, trách nhiệm của chủ đầu tư nhưng việc kiểm toán lại phải thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước nên rất khó khăn trong công tác kiểm toán.
- Để bảo đảm đúng pháp luật, thời gian qua khi tiến hành kiểm tra, đối chiếu đối với các đơn vị, tổ chức có liên quan (bên thứ 3), KTNN phải tác nghiệp thông qua cơ quan thuế, cơ quan quản lý nhà nước (Sở Tài chính, Sở Tài nguyên môi trường). Song, do nhận thức và áp dụng pháp luật của một bộ phận (bao gồm cả chủ quan và khách quan) chưa thống nhất nên quan niệm khi không là đơn vị được kiểm toán thì không chịu sự kiểm toán của KTNN. KTNN đã gặp không ít các trường hợp đơn vị có hành vi chống đối, không hợp tác, không chấp hành cung cấp tài liệu, gây khó khăn cho hoạt động của KTNN.
- Để có cơ sở thực hiện kiểm toán đối với một số hoạt động và đối tượng có liên quan, Tổng KTNN đã ban hành một số văn bản mang tính chuyên môn sâu để hướng dẫn thực hiện đối với một số lĩnh vực, như: Kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp thuế khi kiểm toán tại cơ quan thuế, hải quan trong cuộc kiểm toán ngân sách, tiền và tài sản nhà nước tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; hướng dẫn kiểm toán việc quản lý và sử dụng đất khu đô thị; kiểm toán chuyên đề công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản giai đoạn 2014-2016,… Do Luật chưa quy định rõ ràng đơn vị được kiểm toán nên các văn bản trên mới chỉ thể hiện có tính chất hướng dẫn trong nội bộ ngành KTNN.
Như vậy, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay cần sửa đổi, bổ sung Luật KTNN theo hướng quy định bổ sung Điều 55 cho đầy đủ; mặt khác, để tránh việc kiểm toán tràn lan, tùy tiện, bảo đảm tính khả thi cao, hiệu lực và hiệu quả, cần quy định rõ nội hàm tổ chức có liên quan đến hoạt động KTNN, đồng thời giao cho Tổng KTNN quy định cụ thể mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán phù hợp với các tổ chức có liên quan đến hoạt động KTNN theo hướng như sau:
“Tổ chức có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước; tổ chức sử dụng, khai thác đất đai, tài nguyên khoáng sản; tổ chức khác có hoạt động liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tổng Kiểm toán nhà nước quy định cụ thể mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán đối với các đối tượng quy định tại Khoản này.”
2. Về quyền khiếu nại báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán của KTNN là văn bản do KTNN lập và công bố sau mỗi cuộc kiểm toán để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của KTNN sau khi phát hành và công khai có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về sai phạm trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Tại điểm d khoản 2 Điều 7 Luật KTNN quy định báo cáo kiểm toán là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại.
Trên thực tế, các đánh giá, xác nhận, kết luận, kiến nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán có tác động đến đơn vị được kiểm toán và cả đơn vị, tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, tài sản công nhưng Luật mới chỉ quy định “Báo cáo kiểm toán là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại” mà chưa cho phép đơn vị, tổ chức có liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, tài sản công (bên thứ 3) thực hiện. Theo quy định của pháp luật về khiếu nại, nếu kết luận, kiến nghị kiểm toán trái pháp luật mà gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức thì tổ chức đó có quyền được khiếu nại. Có thể ví dụ trường hợp cơ quan thuế ra quyết định truy thu đối với doanh nghiệp dựa trên kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN mà trong trường hợp này kết quả kiểm toán lại có căn cứ trái pháp luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp thì theo quy định của pháp luật về khiếu nại doanh nghiệp này cũng có quyền được khiếu nại đối với kết luận, kiến nghị kiểm toán trên.
Do vậy, cần sửa đổi lại Điều 7 theo hướng bổ sung quyền kiến nghị, khiếu nại đối với báo cáo kiểm toán cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến việc sử dụng, quản lý tài chính công, tài sản công theo hướng “Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại.”
3. Bổ sung quy định thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hiện giám định tài chính, tài sản đối với những vấn đề liên quan theo đề nghị của cơ quan tố tụng
KTNN là lĩnh vực mới; có tính đặc thù, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN vẫn tiếp tục cần được hoàn thiện. Thời gian qua, một số nhiệm vụ phát sinh KTNN đã và đang phải thực hiện hoặc về lâu dài đây là nhiệm vụ của KTNN nhưng chưa được quy định trong Luật KTNN, như: vai trò của KTNN trong phòng, chống tham nhũng; trưng cầu giám định tư pháp; xác minh các đơn thư tố cáo về quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công,…Để bảo đảm nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan, KTNN phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp, cần sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN sau đây:
3.1. Về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng
Luật Phòng, chống tham nhũng đề cao vai trò và quy định rõ trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng thông qua việc thực hiện chức năng kiểm toán. Luật cũng quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của KTNN trong phòng, chống tham nhũng. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật KTNN và Luật Phòng chống tham nhũng, KTNN được xác định là một trong những cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng. Qua kiểm toán, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân hàng trăm vụ việc; riêng năm 2017, KTNN đã kiến nghị chuyển cơ quan cảnh sát điều tra 6 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cung cấp 12 bộ hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phục vụ công tác giám sát, kiểm tra, tố tụng và gửi một số báo cáo chuyên đề cung cấp thông tin phục vụ kịp thời các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các đoàn giám sát của Quốc hội...
3.2. Về nhiệm vụ giám định tư pháp
Theo Hiến pháp, KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Thời gian qua, KTNN đã chuyển nhiều vụ việc có dấu hiệu tội phạm cho cơ quan điều tra,…Trong nhiều trường hợp các cơ quan tư pháp, cơ quan điều tra đề nghị KTNN thực hiện giám định đối với một số vụ việc cụ thể nhưng do Chưa có một văn bản pháp luật nào quy định nhiệm vụ KTNN thực hiện việc giám định tư pháp nên KTNN không có cơ sở pháp lý để thực hiện các đề nghị trên.
Do vậy, Luật KTNN cần có quy định tương thích và đồng bộ, cần quy định nhiệm vụ trên đây vào Luật KTNN. Để giải quyết những vấn đề trên, đề nghị bổ sung 01 khoản vào Điều 11 như sau:
“Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hiện giám định tài chính, tài sản đối với những vấn đề liên quan theo đề nghị của cơ quan tố tụng.”
4. Quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tổng Kiểm toán nhà nước hiện còn hạn chế gây khó khăn cho hoạt động KTNN
Sau 3 năm thực hiện Luật KTNN 2015, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân hàng trăm vụ việc. Riêng năm 2017, KTNN đã kiến nghị chuyển cơ quan điều tra 6 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cung cấp 12 bộ hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phục vụ công tác giám sát, kiểm tra, tố tụng và gửi một số báo cáo chuyên đề cung cấp thông tin phục vụ kịp thời các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, các đoàn giám sát của Quốc hội...
Do Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật KTNN và các quy định của pháp luật hiện hành chưa quy định thẩm quyền ban Thông tư liên tịch của Tổng KTNN nên việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng gặp nhiều khó khăn, nhất là việc phối hợp giữa KTNN với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong xử lý những vụ việc có dấu hiệu phạm tội tham nhũng do KTNN phát hiện và kiến nghị xử lý. Điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN với vai trò là một trong những cơ quan có trách nhiệm về phòng, chống tham nhũng.
Việc đề xuất Tổng KTNN được tham gia ký Thông tư liên tịch quy định về phối hợp giữa KTNN với các cơ quan liên quan trong việc thực hiện những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình dựa trên các cơ sở sau đây:
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhấn mạnh: " Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí". Đây là căn cứ quan trọng để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho KTNN cùng phối hợp thực hiện và phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả hoạt động của mình.
- Điều 118 Hiến pháp năm 2013 quy định: “KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”; Các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật KTNN và Luật Phòng, chống tham nhũng xác định KTNN là một trong những cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phát hiện và phối hợp xử lý tham nhũng, cụ thể:
(1) Tại khoản 5, Điều 5 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan thanh tra, KTNN có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu, đồ vật có liên quan và kiến nghị cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự”.
(2) Tại khoản 12, Điều 10 Luật KTNN quy định về trách nhiệm của KTNN: “Chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân xem xét và cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán”; Điều 65 quy định trách nhiệm của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân: “cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân xem xét có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền các vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, do KTNN phát hiện và kiến nghị”.
(3) Luật Phòng, chống tham nhũng quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp giữa KTNN với các cơ quan chức năng trong phòng, chống tham nhũng tại Điều 7, Điều 77, Điều 80, Điều 81 và Điều 82 (trong dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi cho thấy vai trò của KTNN ngày càng được tăng cường).
Trên thực tế, để thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, KTNN, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 2462/2007/TTLT-TTCP-VKSNDTC-TANDTC-KTNN-BQP-BCA-BTC, ngày 19/11/2007 quy định việc trao đổi, quản lý và sử dụng thông tin, dữ liệu về phòng, chống tham nhũng. Từ đó đến nay, Thông tư liên tịch này đã phát huy và mang lại hiệu quả thiết thực.
KTNN là lĩnh vực mới, có tính đặc thù, hệ thống pháp luật hiện hành còn những khoảng trống pháp lý, thiếu những quy định để KTNN thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó, KTNN kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 14 Luật KTNN theo hướng bổ sung quy định thẩm quyền ký thông tư liên tịch của Tổng KTNN như sau:
“3. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là quyết định để quy định chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán, phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ áp dụng trong tổ chức và hoạt động kiểm toán; ban hành thông tư liên tịch với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để quy định phối hợp thực hiện những vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”
5. Quy định về thời hạn của cuộc kiểm toán
Tại Điều 34 Luật KTNN quy định “Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng KTNN quyết định gia hạn một lần, thời gian gia hạn không quá 30 ngày”. Trên thực tế, thời hạn tính đủ cho một cuộc kiểm toán là rất quan trọng để tiến hành các nhiệm vụ kiểm toán theo kế hoạch. Chất lượng kiểm toán có được nâng cao hay không phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động ở giai đoạn thực hiện kiểm toán. Quy định về thời hạn kiểm toán qua thực tiễn thi hành pháp luật thời gian qua cho thấy chưa phù hợp, nếu trừ ngày lễ, thứ bảy, chủ nhật thì thời gian kiểm toán thực tế chỉ còn 40 ngày, có trường hợp thời gian làm việc tại một đơn vị trực thuộc đơn vị được kiểm toán chỉ có 3-4 ngày để thực hiện. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi, nhất là các cuộc kiểm toán có quy mô lớn, phức tạp, cần sửa đổi, bổ sung Luật theo hướng tăng thời hạn cho cuộc kiểm toán theo phương án như sau:
“2. Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá 60 ngày làm việc, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định gia hạn một lần, thời gian gia hạn không quá 30 ngày làm việc.”
6. Quy định về thời gian lập và gửi báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán
Điều 47 Luật KTNN quy định gian lập và gửi (phát hành) báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán là 45 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán. Tuy vậy, quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 về thời hạn hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán và gửi lấy ý kiến của đơn vị được kiểm toán còn ngắn, gây khó khăn cho hoạt động kiểm toán, cụ thể:
- Trong thời hạn quy định chỉ với 30 ngày như hiện nay, KTNN phải thực hiện theo quy trình rất chặt chẽ từ: lập dự thảo báo cáo kiểm toán; thủ trưởng đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán tổ chức xét duyệt dự thảo báo cáo kiểm toán; Tổng KTNN tổ chức xét duyệt dự thảo báo cáo kiểm toán; hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán, gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán.
- Với thời hạn 10 ngày như hiện nay, việc gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán không đủ bảo đảm cho đơn vị được kiểm toán có thời gian triển khai và tham gia ý kiến, nhất là các đơn vị tổng hợp, đầu mối và các địa phương. Do không đủ thời gian có ý kiến vào dự thảo báo cáo kiểm toán dẫn đến nhiều trường hợp chưa thống nhất về nội dung và kết quả kiểm toán nên đơn vị được kiểm toán khiếu nại, kiến nghị, nhiều trường hợp dẫn đến kéo dài thời gian để thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán.
Đề nghị tăng thời hạn hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán, thời hạn gửi lấy ý kiến đơn vị được kiểm toán về dự thảo báo cáo kiểm toán là cần thiết bảo đảm cho phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán, tạo điều kiện cho đơn vị được kiểm toán có điều kiện nghiên cứu, thông qua đó bảo đảm sự đồng thuận và chấp hành tốt hơn khi thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán. Cụ thể như sau:
“1. Chậm nhất là 30 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán, Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm hoàn thiện dự thảo báo cáo kiểm toán và gửi lấy ý kiến của đơn vị được kiểm toán.
2. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được dự thảo báo cáo kiểm toán, đơn vị được kiểm toán phải có ý kiến bằng văn bản gửi Kiểm toán nhà nước; quá thời hạn trên, đơn vị được kiểm toán không có ý kiến thì được coi là đã nhất trí với dự thảo báo cáo kiểm toán.
3. Báo cáo kiểm toán được Kiểm toán nhà nước gửi cho đơn vị được kiểm toán và cơ quan có liên quan theo quy định của Tổng Kiểm toán nhà nước chậm nhất là 45 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán; trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán.”
7. Quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán
Với nhiều biện pháp tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, chất lượng kiểm toán ngày càng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Những kiến nghị của KTNN ngày càng đa dạng, phong phú và có chất lượng hơn, được Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện chính sách pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài chính - ngân sách; các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Hàng năm, KTNN đều tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn KTNN, Quy tắc ứng xử của Kiểm toán viên nhà nước cũng như hồ sơ kiểm toán trong khi thực hiện hoặc kết thúc kiểm toán đã đưa vào lưu trữ; ban hành và kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị của Tổng KTNN về tăng cường quản lý hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán. Kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chất lượng được công khai, có tác dụng tốt kịp thời chấn chỉnh các sai phạm và biểu dương khen thưởng những nhân tố tích cực để nâng cao chất lượng kiểm toán, rút ngắn thời gian kiểm toán và tránh được các sai phạm, khuyết điểm của Kiểm toán viên nhà nước.
Vai trò và trọng trách của KTNN cang to lớn thì yêu cầu kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán càng cần thiết. Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên mà còn là mục tiêu trọng tâm trong Chiến lược phát triển của Kiểm toán nhà nước. Nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cơ quan KTNN, đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội - hướng tới một nền tài chính minh bạch, công khai, hiệu quả và phát triển bền vững. Trong hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán, KTNN đã xây dựng được hệ thống các quy định, chính sách trong quản lý, kiểm soát chất lượng kiểm toán, cũng như các đơn vị kiểm soát chuyên trách. Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện thường xuyên, xuyên suốt quá trình kiểm toán: từ khâu lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán đến lập, phát hành báo cáo kiểm toán; với nhiều chủ thể thực hiện kiểm soát như: Tổ trưởng tổ kiểm toán, Trưởng đoàn kiểm toán, kiểm toán trưởng và lãnh đạo Kiểm toán nhà nước đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng kiểm toán, hạn chế sai sót trong công tác kiểm toán.
Công tác kiểm toán là hoạt động mang tính chuyên môn cao, để đưa công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán vào nền nếp, coi việc kiểm soát chất lượng kiểm toán là nhiệm vụ bắt buộc trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước nhằm tiếp tục không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm toán của KTNN cần quy định về kiểm soát chất lượng kiểm toán trong Luật KTNN theo hướng bổ sung 01 điều quy định về nội dung kiểm soát chất lượng kiểm toán và trách nhiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán của các chủ thể có liên quan trong hoạt động kiểm toán của KTNN như sau:
“Điều 49a. Kiểm soát chất lượng kiểm toán
1. Kiểm toán nhà nước tổ chức kiểm soát nhằm đảm bảo mọi hoạt động kiểm toán đều được kiểm tra, soát xét về chất lượng.
2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện thường xuyên liên tục đối với toàn bộ hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
3. Tổng Kiểm toán nhà nước quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán.”
8. Quy định việc cung cấp thông tin, tài liệu dưới dạng dữ liệu điện tử để thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước
Luật KTNN hiện hành không hạn chế phạm vi tiếp cận thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán của KTNN (bao gồm cả thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước). KTNN, Kiểm toán viên nhà nước có trách nhiệm đảm bảo tính bảo mật của tài khoản và thông tin được cung cấp theo quy định. KTNN hoạt động theo nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, đối với KTNN và mỗi Kiểm toán viên nhà nước thì yêu cầu về bảo mật là một nguyên tắc tối thượng, đã được Luật hóa thành các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại điểm e và điểm g khoản 1 Điều 8 Luật KTNN năm 2015. Bên cạnh đó, các quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều 42 Luật KTNN năm 2015 cho phép Kiểm toán viên nhà nước có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp các loại thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán và quyền được xem xét tài liệu liên quan đến hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Các loại tài liệu quy định trong Luật KTNN là tài liệu nói chung, không loại trừ các tài liệu thông tin tồn tại ở dạng phần mềm hay dữ liệu điện tử.
Trong thực tế, nhiều thông tin tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán được lưu trữ dưới dạng số hóa, dữ liệu điện tử. Các tài liệu này cần được khai thác phục vụ cho hoạt động kiểm toán của KTNN, nhất là trong điều kiện kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin. Mặt khác, qua việc cung cấp báo cáo tài chính, dự toán kinh phí và các tài liệu khác của đơn vị được kiểm toán dưới dạng dữ liệu điện tử giúp KTNN xây dựng được cơ sở dữ liệu về đơn vị được kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng kế hoạch và thực hiện kiểm toán được chất lượng, hiệu quả; tiến tới khi có đủ cơ sở dữ liệu điện tử và trong điều kiện đảm bảo hệ thống an ninh mạng, KTNN có thể thực hiện kiểm toán trực tuyến.
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm thế giới (Luật KTNN Trung Quốc tại Điều 31), vận dụng vào điều kiện thực tiễn tại Việt Nam nhất là trong thời đại công nghệ 4.0 thì thông tin, tài liệu mà đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan có nghĩa vụ cung cấp theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước cần được quy định theo hướng như sau:
- Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 Điều 42 theo hướng: Thành viên Đoàn kiểm toán là Kiểm toán viên nhà nước có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán. Khi thực hiện kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước có quyền truy cập và yêu cầu đơn vị được kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan cùng truy cập phần mềm ứng dụng của đơn vị để khai thác, thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm toán.
- Đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 57 theo hướng: Đơn vị được kiểm toán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết bao gồm cả bản in ra giấy và dữ liệu điện tử để thực hiện việc kiểm toán theo yêu cầu của Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán viên nhà nước; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin, tài liệu đã cung cấp.
9. Bổ sung quy định về trách nhiệm phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để hạn chế tình trạng trùng lắp, chồng chéo giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra với hoạt động KTNN
Mối quan hệ giữa KTNN và các cơ quan thanh tra, kiểm tra là một vấn đề được các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp và xã hội quan tâm. Trên thực tế, hoạt động của các cơ quan này có xảy ra sự chồng chéo, trùng lắp về niên độ, nội dung, phạm vi và đối tượng, chính điều này phần nào làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị là đối tượng thanh tra và đơn vị được kiểm toán. Để hạn chế sự chồng chéo, trùng lắp nói trên, cần phải đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và đề xuất biện pháp khắc phục, trong đó giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành là biện pháp quan trọng; đồng thời, quan tâm xây dựng cơ chế phối hợp, nhất là trong xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm toán hàng năm, việc phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin về kết quả hoạt động KTNN và cơ quan điều tra, việc kế thừa và sử dụng kết quả của nhau để có cơ sở xử lý chồng chéo, trùng lắp.
Theo Hiến pháp, hoạt động kiểm toán của KTNN có đối tượng và phạm vi rất rộng bao gồm mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý và sử dụng tài chính công và tài sản công. Do vậy, sự phối hợp của các cấp, các ngành, địa phương và đơn vị được kiểm toán giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện để KTNN ngày càng nâng cao chất lượng kiểm toán, phục vụ và đáp ứng tốt yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan quản lý, địa phương và đơn vị được kiểm toán.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật KTNN năm 2015 thì KTNN quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc hội trước khi thực hiện. Đây là quy định phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của nước ta. Kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN được thực hiện trên nguyên tắc chọn mẫu theo yêu cầu quản lý Nhà nước và phù hợp với năng lực của KTNN trong từng thời kỳ. Việc hình thành ra kế hoạch kiểm toán hiện nay mang tính pháp lý rất cao. Theo Luật, KTNN được độc lập xây dựng và ban hành kế hoạch nhưng qúa trình xây dựng KTNN vẫn gửi xin ý kiến cơ quan Thanh tra, các bộ ngành, các Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các tổ chức, đơn vị liên quan khác. Sau khi KTNN trình Quốc hội, xin ý kiến Đại biểu Quốc hội, KTNN mới ký ban hành và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán. Tuy đã hạn chế được trùng lắp, chồng chéo nhưng cần có sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật để khắc phục triệt để tình trạng này. Việc thể chế hoá quy định này nhằm hạn chế sự trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra và KTNN; đồng thời, đảm bảo tính độc lập của hoạt động KTNN theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở khoản 1 Điều 10 của Luật KTNN năm 2015 và ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có ý kiến chỉ đạo tại Thông báo số 98/TB-VPCP ngày 22/02/2017 của Văn phòng Chính phủ: “Thanh tra Chính phủ và các cơ quan thanh tra, kiểm tra thuộc các bộ, ngành căn cứ kế hoạch kiểm toán hàng năm của Kiểm toán nhà nước rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra có liên quan nhằm hạn chế sự trùng lắp, chồng chéo gây khó khăn cho địa phương, doanh nghiệp và đảm bảo tính độc lập của Kiểm toán nhà nước theo quy định của pháp luật”; để góp phần hạn chế tình trạng chồng chéo, trùng lắp hiện nay, KTNN đề xuất bổ sung một điều về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra trong Chương VII “Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiểm toán nhà nước” theo hướng như sau:
“Điều 64a. Trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kiểm tra
1. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Kiểm toán nhà nước xử lý trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
2. Trước khi báo cáo Quốc hội, Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm để tránh chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động kiểm toán, thanh tra.”
10. Bổ sung quy định chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước của đơn vị được kiểm toán và của tổ chức, cá nhân có liên quan
Từ thực tế thực hiện pháp luật về KTNN những năm qua cho thấy đã phát sinh những vi phạm về nghĩa vụ, trách nhiệm hoặc vi phạm quy định về điều cấm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan như: trì hoãn, không cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện việc kiểm toán; báo cáo sai lệch, không trung thực, không đầy đủ và thiếu khách quan thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán của KTNN; sửa đổi, cất giấu, hủy hoại tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm toán; không giải trình đầy đủ, kịp thời các vấn đề do Đoàn kiểm toán, Kiểm toán viên nhà nước yêu cầu; người đứng đầu đơn vị được kiểm toán trì hoãn ký biên bản kiểm toán; che giấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, ngân sách; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị của KTNN; không thực hiện công khai kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật; công khai kết quả kiểm toán không đầy đủ về nội dung, hình thức, thời hạn quy định; can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán của KTNN,...
Mặc dù có những sai phạm nêu trên nhưng việc xử lý hiện nay còn nhiều bất cập, chủ yếu mới chỉ nhắc nhở, rút kinh nghiệm vì chưa có các chế tài để áp dụng đối với hành vi vi phạm trên. Luật KTNN và các văn bản khác hầu như chưa có các quy định về chế tài, trừ một số quy định rất chung, như: “chịu trách nhiệm trước pháp luật” (Điều 17, Điều 22, Điều 39, Điều 41); đề nghị/kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (Điều 11, Điều 39),... Vì vậy, hiệu lực của hoạt động kiểm toán và tính nghiêm minh của pháp luật chưa đạt được như mong muốn, điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu lực hoạt động kiểm toán của KTNN. Chỉ tính riêng năm 2017, có 121 trường hợp không cung cấp tài liệu dẫn tới các Đoàn kiểm toán không thể thực hiện kiểm toán được nội dung theo kế hoạch; nhiều trường hợp chậm cung cấp tài liệu theo yêu cầu của KTNN, đặc biệt có trường hợp đơn vị được kiểm toán cố tình cung cấp tài liệu sai sự thật, có hiện tượng tẩy xóa tài liệu nên KTNN không thể so sánh, đánh giá chính xác, khách quan đã làm ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán. Trong thực tế theo dõi tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán cho thấy số kiến nghị kiểm toán của KTNN không được các đơn vị thực hiện còn cao (năm 2015 có 35,7% kiến nghị về tài chính tương ứng số tiền 8.179 tỷ đồng; năm 2016 có 24,4% kiến nghị về tài chính tương ứng số tiền 5.097 tỷ đồng chưa được các đơn vị thực hiện)…làm thất thu ngân sách nhà nước. Nguyên nhân của tình trạng trên là do hệ thống pháp luật về KTNN hiện nay chưa đầy đủ và đồng bộ, còn thiếu các quy định về chế tài, chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN nên không có cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi vi phạm trên của đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân có liên quan mà chủ yếu áp dụng biện pháp nhắc nhở đã làm giảm hiệu lực hoạt động KTNN nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.
Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng như sau:
Quy định xác lập thẩm quyền xử phạt của KTNN vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN tại điều luật về quyền hạn của KTNN (Điều 11), Tổng KTNN (Điều 17) và 01 điều quy định mang tính nguyên tắc, trong đó tối thiểu gồm các quy định về mức phạt tiền tối đa, thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt trong lĩnh vực KTNN và giao Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN (tại Điều 71) theo hướng như sau:
“Điều 71. Quy định xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước tại Điều 71 của Luật Kiểm toán nhà nước
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi pháp pháp luật về kiểm toán nhà nước thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
3. Mức phạt tiền tối đa và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước được quy định như sau:
a) Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức.
b) Tổng Kiểm toán nhà nước, thủ trưởng đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước có liên quan có quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước;
c) Tổng Kiểm toán nhà nước, thủ trưởng đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước có liên quan có quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.”
Theo đó, để bảo đảm tránh mâu thuẫn, xung đột pháp luật xảy ra, dự thảo bổ sung khoản 6a Điều 11 “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước”; theo đó sửa lại khoản 4, khoản 6 Điều 11 về quyền hạn của KTNN và sửa lại khoản 4 Điều 14 về quyền hạn của Tổng KTNN.
IV. DỰ KIẾN NGUỒN LỰC VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC SOẠN THẢO DỰ ÁN
1. Về kinh phí
Kinh phí bảo đảm cho việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN năm 2015 được ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định của pháp luật; tranh thủ sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, các cơ quan KTNN các nước trên thế giới.
2. Về nhân sự
Do các chuyên gia của KTNN và các chuyên gia trong các cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện. Hiện tại, KTNN đã thành lập Ban Chỉ đạo sửa đổi, bộ sung Luật KTNN để tham mưu giúp Tổng KTNN chỉ đạo việc sơ kết thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật KTNN năm 2015, soạn thảo và trình Dự án Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi, bổ sung. Ban Chỉ đạo do Tổng KTNN làm Trưởng Ban, thành viên gồm một số Phó Tổng KTNN, thủ trưởng và một số cá nhân từ đơn vị tham mưu, sự nghiệp, chuyên ngành và khu vực của KTNN.
V. CƠ QUAN CHỦ TRÌ VÀ DỰ KIẾN THỜI GIAN TRÌNH QUỐC HỘI, ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
1. Cơ quan chủ trì soạn thảo
Luật KTNN do KTNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan soạn thảo.
2. Thời gian trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
Để bảo đảm chất lượng và tiến độ theo yêu cầu, KTNN kính trình Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo quy định tại Điều 51 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Dự kiến hoàn thiện Hồ sơ trình Quốc hội xem xét cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2019) và thông qua vào kỳ họp thứ 8 (tháng 10 năm 2019).
Kiểm toán nhà nước kính trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội đưa Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 Quốc hội khóa XIV./.