Quốc hội thảo luận sửa đổi Luật Đất đai: Tù mù giá đất
- 19/11/2012
Ngày 19.11, QH đã thảo luận tại hội trường về dự luật Đất đai sửa đổi. Một trong những lý do để đưa Luật Đất đai đem ra sửa đổi lần này là do có những bất ổn trong luật, khiến cho tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện xảy ra khá nhiều trên toàn quốc.

Ảnh: Bình An
Tại phiên thảo luận, nhiều ý kiến cho rằng dự luật vẫn chưa tạo ra được bước đột phá nên sẽ khó có thể giải quyết được tình trạng tham nhũng, khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai.
Thế nào là “phù hợp với giá thị trường”?
Tại phiên thảo luận, hầu hết các ý kiến ĐB đều khẳng định có tới hơn 70% số vụ khiếu kiện trong thời gian qua đều có liên quan đến đất. ĐB Nguyễn Hữu Đức (Đồng Tháp) phát biểu: “Khiếu kiện gay gắt về đất đai trong thời gian qua chủ yếu là do việc thu hồi đất, định giá đất, giá trị bồi thường như hỗ trợ, bố trí nơi tái định cư không tương xứng, phù hợp hoặc chưa đảm bảo đầy đủ những điều kiện sống và sinh hoạt”.
Theo phân tích của ĐB này thì nguyên nhân là do cơ chế thu hồi, định giá đất không nhất quán, tù mù, thiếu minh bạch. Nhiều ĐB cũng cho rằng, theo luật hiện hành thì khi người dân bị thu hồi đất sẽ được Nhà nước đền bù “sát giá thị trường”, nhưng dự luật mới được sửa đổi bằng quy định “giá đất do Nhà nước quyết định bảo đảm nguyên tắc phù hợp với giá thị trường”, khái niệm mới này cũng không làm sáng tỏ hơn vấn đề giá đất. ĐB Lê Trọng Sang (TPHCM) nêu ý kiến và đặt câu hỏi: “Theo tôi, thay đổi này vẫn không sáng sủa hơn. Bởi lẽ thế nào là phù hợp với giá thị trường? Giá thị trường ở đây là giá thị trường vào thời điểm nào?”.
Ông Sang dẫn chứng: Hiện nay, giá đất do Nhà nước quy định sát với giá thị trường, nhưng trên thực tế bảng giá đất công bố tại các địa phương chỉ bằng 30-60% giá thị trường. Mức cao nhất trong bảng giá đất Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ là 81 triệu đồng/m2 cũng là mức tối đa trong khung giá đất của Chính phủ. Trong khi giá chuyển nhượng trên thị trường là vài trăm triệu đồng/m2. Sự chênh lệch ấy cho thấy ngân sách nhà nước đã thất thu và tạo ra cảm nhận cho người bị thu hồi đất là một sự thiệt thòi quá mức. “Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến hơn 70% tổng số vụ khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đất đai... Nguyên tắc mơ hồ này cũng là lý do dẫn đến quốc nạn tham nhũng” - ông Sang kết luận. Để giải quyết được sự “tù mù” trong khái niệm “phù hợp với giá thị trường”, các ĐB Dương Hoàng Hương (Phú Thọ), Lê Thị Công (Bà Rịa - Vũng Tàu) và nhiều ĐB khác đề nghị việc định giá đất muốn đảm bảo sát với giá thị trường thì cần dựa vào giá đất phổ biến trong giao dịch thực tế của người dân và nếu cần thì cần lập một cơ quan tư vấn khảo sát giá độc lập.
Dân bị thu hồi đất sống thế nào?
“Dân bị thu hồi hết đất sẽ sống ra sao?” - đó là câu hỏi lớn đã được các vị đại diện cho dân đem ra thảo luận trong phiên họp. ĐB Trần Ngọc Vinh (TP.Hải Phòng) phân tích: Điều quan trọng mà người có đất bị thu hồi quan tâm nhất là cuộc sống của họ ra sao khi đất, nhà bị thu hồi, nhưng dự thảo luật lại chưa tính đến. Ông Vinh dẫn chứng: “Một gia đình có 4 nhân khẩu chung sống trong một căn hộ gắn liền với mảnh đất có diện tích khoảng 50m2, khi Nhà nước thu hồi đất họ được bồi thường khoảng 400 triệu đồng và được cấp một mảnh đất định cư gần 100m2 với hạ tầng kỹ thuật tốt, nhưng phải nộp thêm 300 triệu đồng, vậy họ sẽ lấy đâu tiền để xây nhà. Lúc này phương án họ lựa chọn hoặc là phải vay tiền để xây nhà hoặc là phải “bán lúa non” để mua một mảnh đất khác phù hợp với túi tiền và thu nhập của họ, vô hình trung lại đẩy họ vào cuộc sống khó khăn hơn trước gấp nhiều lần”. “Đừng biến người nông dân thành bần cùng hóa, đang có nhà thành không có nhà sau khi bị thu hồi đất” - ông Vinh phát biểu.
Cũng chung quan điểm dự luật vẫn chưa giải quyết triệt để các vấn đề dẫn đến khiếu kiện, ĐB Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) cho rằng, quy định về chế độ sở hữu đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu “chưa thực sự cụ thể, chưa có bước đột phá về việc gắn quyền lợi và trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng đất, đặc biệt là đất ở”. Ông Vẻ cho rằng, nếu về đất ở, trên thực tế người sử dụng đất ở đã có đầy đủ các quyền và chế độ sở hữu của mình nhưng chưa được pháp luật công nhận. Vì vậy, cần quy định đất ở là thuộc sở hữu tư nhân, các loại đất khác thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Đối với vấn đề thời hạn sử dụng đất nông nghiệp, hầu hết các ĐB bày tỏ sự đồng tình là thời hạn 50 năm để người dân yên tâm sản xuất. Cũng có nhiều ĐB bày tỏ quan điểm trẻ em sinh ra từ năm 1993 đến nay phải được chia đất nông nghiệp. Tuy nhiên, nhiều ĐB cho rằng thực tế quỹ đất nông nghiệp hiện nay ngày càng giảm đi do phải sử dụng một phần vào mục đích phi nông nghiệp. Trong khi đó, dân số ngày càng tăng thêm nên để người lao động có việc làm, có thu nhập, bảo đảm cuộc sống là trách nhiệm của gia đình và xã hội để giúp cho người sinh ra từ năm 1993 đến nay không có ruộng, việc làm bảo đảm cuộc sống. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho những người này có nghề, có việc làm, hỗ trợ kinh phí mua máy móc, thiết bị để làm dịch vụ bảo đảm đời sống cho bản thân và gia đình.
Thế nào là “phù hợp với giá thị trường”?
Tại phiên thảo luận, hầu hết các ý kiến ĐB đều khẳng định có tới hơn 70% số vụ khiếu kiện trong thời gian qua đều có liên quan đến đất. ĐB Nguyễn Hữu Đức (Đồng Tháp) phát biểu: “Khiếu kiện gay gắt về đất đai trong thời gian qua chủ yếu là do việc thu hồi đất, định giá đất, giá trị bồi thường như hỗ trợ, bố trí nơi tái định cư không tương xứng, phù hợp hoặc chưa đảm bảo đầy đủ những điều kiện sống và sinh hoạt”.
Theo phân tích của ĐB này thì nguyên nhân là do cơ chế thu hồi, định giá đất không nhất quán, tù mù, thiếu minh bạch. Nhiều ĐB cũng cho rằng, theo luật hiện hành thì khi người dân bị thu hồi đất sẽ được Nhà nước đền bù “sát giá thị trường”, nhưng dự luật mới được sửa đổi bằng quy định “giá đất do Nhà nước quyết định bảo đảm nguyên tắc phù hợp với giá thị trường”, khái niệm mới này cũng không làm sáng tỏ hơn vấn đề giá đất. ĐB Lê Trọng Sang (TPHCM) nêu ý kiến và đặt câu hỏi: “Theo tôi, thay đổi này vẫn không sáng sủa hơn. Bởi lẽ thế nào là phù hợp với giá thị trường? Giá thị trường ở đây là giá thị trường vào thời điểm nào?”.
Ông Sang dẫn chứng: Hiện nay, giá đất do Nhà nước quy định sát với giá thị trường, nhưng trên thực tế bảng giá đất công bố tại các địa phương chỉ bằng 30-60% giá thị trường. Mức cao nhất trong bảng giá đất Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ là 81 triệu đồng/m2 cũng là mức tối đa trong khung giá đất của Chính phủ. Trong khi giá chuyển nhượng trên thị trường là vài trăm triệu đồng/m2. Sự chênh lệch ấy cho thấy ngân sách nhà nước đã thất thu và tạo ra cảm nhận cho người bị thu hồi đất là một sự thiệt thòi quá mức. “Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến hơn 70% tổng số vụ khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đất đai... Nguyên tắc mơ hồ này cũng là lý do dẫn đến quốc nạn tham nhũng” - ông Sang kết luận. Để giải quyết được sự “tù mù” trong khái niệm “phù hợp với giá thị trường”, các ĐB Dương Hoàng Hương (Phú Thọ), Lê Thị Công (Bà Rịa - Vũng Tàu) và nhiều ĐB khác đề nghị việc định giá đất muốn đảm bảo sát với giá thị trường thì cần dựa vào giá đất phổ biến trong giao dịch thực tế của người dân và nếu cần thì cần lập một cơ quan tư vấn khảo sát giá độc lập.
Dân bị thu hồi đất sống thế nào?
“Dân bị thu hồi hết đất sẽ sống ra sao?” - đó là câu hỏi lớn đã được các vị đại diện cho dân đem ra thảo luận trong phiên họp. ĐB Trần Ngọc Vinh (TP.Hải Phòng) phân tích: Điều quan trọng mà người có đất bị thu hồi quan tâm nhất là cuộc sống của họ ra sao khi đất, nhà bị thu hồi, nhưng dự thảo luật lại chưa tính đến. Ông Vinh dẫn chứng: “Một gia đình có 4 nhân khẩu chung sống trong một căn hộ gắn liền với mảnh đất có diện tích khoảng 50m2, khi Nhà nước thu hồi đất họ được bồi thường khoảng 400 triệu đồng và được cấp một mảnh đất định cư gần 100m2 với hạ tầng kỹ thuật tốt, nhưng phải nộp thêm 300 triệu đồng, vậy họ sẽ lấy đâu tiền để xây nhà. Lúc này phương án họ lựa chọn hoặc là phải vay tiền để xây nhà hoặc là phải “bán lúa non” để mua một mảnh đất khác phù hợp với túi tiền và thu nhập của họ, vô hình trung lại đẩy họ vào cuộc sống khó khăn hơn trước gấp nhiều lần”. “Đừng biến người nông dân thành bần cùng hóa, đang có nhà thành không có nhà sau khi bị thu hồi đất” - ông Vinh phát biểu.
Cũng chung quan điểm dự luật vẫn chưa giải quyết triệt để các vấn đề dẫn đến khiếu kiện, ĐB Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) cho rằng, quy định về chế độ sở hữu đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu “chưa thực sự cụ thể, chưa có bước đột phá về việc gắn quyền lợi và trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng đất, đặc biệt là đất ở”. Ông Vẻ cho rằng, nếu về đất ở, trên thực tế người sử dụng đất ở đã có đầy đủ các quyền và chế độ sở hữu của mình nhưng chưa được pháp luật công nhận. Vì vậy, cần quy định đất ở là thuộc sở hữu tư nhân, các loại đất khác thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Đối với vấn đề thời hạn sử dụng đất nông nghiệp, hầu hết các ĐB bày tỏ sự đồng tình là thời hạn 50 năm để người dân yên tâm sản xuất. Cũng có nhiều ĐB bày tỏ quan điểm trẻ em sinh ra từ năm 1993 đến nay phải được chia đất nông nghiệp. Tuy nhiên, nhiều ĐB cho rằng thực tế quỹ đất nông nghiệp hiện nay ngày càng giảm đi do phải sử dụng một phần vào mục đích phi nông nghiệp. Trong khi đó, dân số ngày càng tăng thêm nên để người lao động có việc làm, có thu nhập, bảo đảm cuộc sống là trách nhiệm của gia đình và xã hội để giúp cho người sinh ra từ năm 1993 đến nay không có ruộng, việc làm bảo đảm cuộc sống. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho những người này có nghề, có việc làm, hỗ trợ kinh phí mua máy móc, thiết bị để làm dịch vụ bảo đảm đời sống cho bản thân và gia đình.