A. CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH THỨC
I. CÁC DỰ ÁN LUẬT
1. Luật hòa giải cơ sở
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 thì dự án Luật này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012).
2. Luật hộ tịch
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 thì dự án Luật này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012).
3. Luật đầu tư công, mua sắm công
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 thì dự án Luật này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012).
4. Luật quy hoạch
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 thì dự án Luật này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012).
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật
Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 đã có những quy định phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước nên về cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra và đánh dấu bước ngoặt quan trọng về cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh, đồng thời bảo đảm nguồn động viên nhằm đáp ứng nhu cầu chi NSNN cho phát triển và bảo vệ đất nước.
Tuy nhiên, qua hơn 03 năm triển khai thực hiện, Luật thuế TNDN đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể:
Nội dung hướng dẫn trong Luật thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn chưa bao quát hết các hoạt động kinh tế, chưa lường hết các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, chưa theo kịp và phù hợp với các hoạt động kinh tế mới phát sinh, như: bán hàng đa cấp, thương mại điện tử, dịch vụ tài chính phái sinh, cơ chế thuế thích hợp cho các tập đoàn kinh tế … dẫn đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này còn lúng túng trong quá trình thực hiện. Chính sách chưa được quy định cụ thể một mặt đã không tạo điều kiện khuyến khích lĩnh vực ngành nghề này phát triển, mặt khác có thể gây thất thu cho ngân sách nhà nước bởi vì thu nhập từ các hoạt động này chưa được kiểm soát chặt chẽ do chưa có căn cứ pháp lý rõ ràng, khiến cho chính sách thuế thiếu tính ổn định, luôn phải ban hành Thông tư và công văn hướng dẫn chung cho riêng lĩnh vực thuế TNDN khiến cho doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý gặp khó khăn trong việc theo dõi chính sách cũng như tra cứu văn bản.
Bất cập trong việc quy định về điều kiện để các khoản chi phí được tính trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN chưa đủ nên dẫn tới tình trạng doanh nghiệp có thể lợi dụng để trốn thuế hoặc phản ứng từ phía doanh nghiệp như tỷ lệ khống chế chi phí được trừ đối với hoạt động quảng cáo; …
Qua rà soát và xử lý kiến nghị của địa phương và doanh nghiệp cho thấy một số quy định của Luật thuế TNDN hiện hành chưa thực sự khuyến khích doanh nghiệp tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh:
- Chưa có quy định ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư mở rộng: theo quy định hiện hành, kể từ ngày 01/01/2009 không thực hiện ưu đãi thuế đối với các dự án đầu tư mở rộng.
- Các dự án đầu tư xây dựng nhà ở cho sinh viên, công nhân làm việc trong các khu công nghiệp và người có thu nhập thấp chưa được đưa vào danh mục ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi thuế TNDN.
- Chưa có quy định về chính sách thuế đặc thù áp dụng đối với các tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận;…
- Chưa quy định phù hợp chính sách ưu đãi thuế đối với một số khoản thu nhập khác của doanh nghiệp.
Vì vậy để có đủ cơ sở pháp lý đáp ứng yêu cầu thực tế, khắc phục các bất cập của Luật thuế TNDN hiện hành, cần thiết trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Quy định sửa đổi hoặc bổ sung về người nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và ưu đãi thuế TNDN.
Các chính sách cơ bản, nội dung chính
Tiếp tục cải cách ưu đãi thuế nhằm tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích các doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thực hiện sửa đổi, bổ sung những nội dung quan trọng để giải quyết những vấn đề bức thiết nhất; sửa đổi bổ sung những nội dung nhằm nâng cao tính hiệu quả của chính sách ưu đãi thuế hiện hành.
Thực hiện sửa đổi, bổ sung quy định bảo đảm phù hợp với luật pháp và các cam kết quốc tế; bảo đảm bao trùm tối đa các hoạt động kinh tế mới phát sinh trong thực tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế.
Nội dung chính
Luật thuế TNDN sửa đổi chỉ quy định các nội dung về chính sách. Đồng thời, rà soát lại các quy định bất cập hiện hành để sửa đổi, và bổ sung thêm các quy định khác về đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, ưu đãi thuế TNDN … Theo đó dự kiến sửa đổi và bổ sung một số nội dung sau:
- Về phạm vi điều chỉnh: Quy định sửa đổi hoặc bổ sung về người nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và ưu đãi thuế TNDN.
- Về thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, thu nhập tính thuế: Sửa đổi bổ sung các quy định hiện hành về thu nhập khác, các khoản thu nhập được miễn, giảm thuế (ví dụ các tổ chức tài chính quy mô nhỏ, siêu nhỏ, các dự án đầu tư mở rộng ….)
- Về các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế: Trên cơ sở kiến nghị và đề xuất của doanh nghiệp, địa phương và các cơ quan liên quan, tiếp tục rà soát để có các quy định phù hợp với thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế, ví dụ khống chế khoản chi phí quảng cáo, tiếp thị, các khoản trích lập quỹ dự phòng tài chính, khoản chi trả lãi tiền vay vốn sản xuất, kinh doanh của đối tượng không phải là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay, chi phí trong các Tập đoàn kinh tế, ….
- Về mức thuế suất chung và thuế suất ưu đãi: Nghiên cứu về mức thuế suất chung (quy định lộ trình giảm mức thuế suất chung).
Về thuế suất ưu đãi, tiếp tục rà soát đề xuất các nhóm đối tượng mới cần khuyến khích vào nhóm được áp dụng thuế suất ưu đãi ở mức cao hơn quy định hiện hành như xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp, công nhân, học sinh, sinh viên, tổ chức tài chính quy mô nhỏ hoặc siêu nhỏ, tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận … hoặc loại bỏ bớt các đối tượng đang được hưởng ưu đãi thuế suất ở mức cao hiện hành sang nhóm áp dụng thuế suất ưu đãi khác hoặc thuế suất phổ thông.
- Về miễn giảm thuế: Bổ sung các quy định về miễn giảm thuế đối với hoạt động đầu tư mở rộng; Bổ sung quy định về miễn giảm thuế đối với DN thành lập và hoạt động trong lĩnh vực xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp, công nhân, học sinh, sinh viên hoặc chính sách ưu đãi thuế đối với các tổ chức tài chính quy mô nhỏ, siêu nhỏ hoặc tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Nguồn kinh phí: Sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước bố trí cho công tác xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và nguồn hỗ trợ từ các dự án hợp tác - hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế
- Các điều kiện bảo đảm cho công tác soạn thảo: Thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập của Bộ Tài chính với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan như Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương.
6. Luật phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 thì dự án Luật này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012).
7. Luật việc làm
Sự cần thiết ban hành
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để bảo đảm cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, bảo đảm quyền bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc gia. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, từ những năm 90 của thế kỷ 20, Việt Nam đã đưa nội dung về việc làm vào Hiến pháp, Điều 55 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) khẳng định “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.”. Bộ luật Lao động năm 1994, Luật bảo hiểm xã hội, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.... và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã điều chỉnh các quan hệ về việc làm như: trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo việc làm, chương trình quốc gia về việc làm, chính sách hỗ trợ tạo việc làm của nhà nước, cho vay vốn tạo việc làm...; Thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm; Tuyển và quản lý lao động trong các doanh nghiệp; Lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; Lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Việc làm đối với các đối tượng đặc thù: lao động nữ, lao động là người khuyết tật; Bảo hiểm thất nghiệp;.....
Các quy định pháp lý này bước đầu đã tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội về việc làm, thị trường lao động phát triển, góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,6 triệu việc làm) và giảm tỷ lệ thất nghiệp của người lao động (tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2010 là 4,43%). Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và phát triển thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, ngoài ra còn có một số vấn đề mới về quan hệ việc làm phát sinh cần được điều chỉnh. Cụ thể như:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm còn tản mạn, chưa đồng bộ, hầu hết các quy định cụ thể được thể hiện trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn thi hành...nên tính pháp lý chưa cao, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai;
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm hiện nay chỉ điều chỉnh quan hệ việc làm của những người lao động có quan hệ lao động (lao động trong khu vực chính thức) trong khi đó Việt Nam có khoảng 39,6 triệu lao động thuộc khu vực phi chính thức (theo kết quả điều tra LĐ&VL năm 2007 của Tổng cục thống kê) chiếm 85,8% tổng số lao động có việc làm của lực lượng lao động, nếu không tính lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, thì còn 16,7 triệu lao động phi chính thức (chiếm 36% tổng số lao động có việc làm). Tuy nhiên, số lao động phi chính thức này hiện nhà nước chưa quản lý, chưa có các chính sách hỗ trợ, bảo đảm việc làm và an sinh xã hội.
-Tình trạng lao động di cư từ nông thôn ra thành phố ngày càng phổ biến (Trong 6 vùng kinh tế của cả nước, năm 2009 chỉ có 2 vùng là vùng nhập cư, 4 vùng còn lại là vùng xuất cư). Lực lượng lao động này phần lớn là lao động thời vụ, làm việc trong khu vực phi chính thức. Phần lớn họ bị “bỏ quên” và không nhận được những hỗ trợ pháp lý cần thiết, cũng như được hưởng các chế độ, phúc lợi xã hội dành cho người lao động và phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như: (i) Tình trạng bị lạm dụng, lừa gạt; (ii) Khó khăn về nhà ở; (iii) Nguy cơ dễ bị tiêm nhiễm các tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, cờ bạc; (iv) Các rủi ro trong suy giảm sức khoẻ; (v) Khó khăn trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục.
- Trong Bộ luật Lao động năm 1994, chúng ta đã đề cập và thực hiện vấn đề quản lý lao động thông qua Sổ lao động. Đối tượng lao động được quản lý là lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh (lao động có quan hệ lao động). Tuy nhiên, việc quản lý bằng Sổ lao động hiện giờ đã không phát huy được tác dụng vì không theo kịp được những tiến bộ khoa học công nghệ, cũng như bị trùng lắp nội dung với Sổ Bảo hiểm xã hội và đối tượng bị hạn chế (chỉ là lao động trong khu vực chính thức) nên không có nhiều tác dụng trong vai trò quản lý nguồn nhân lực của đất nước. Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển hiện nay, đặc biệt là với tình trạng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị ngày càng tăng, lao động khu vực phi chính thức ngày càng nhiều thì vấn đề quản lý lao động (quản lý toàn bộ lực lượng lao động, không chỉ là lao động trong khu vực chính thức-có quan hệ lao động), ban hành các chính sách hỗ trợ, bảo đảm việc làm cho các đối tượng lao động khác nhau đặt ra vô cùng cấp thiết. Vì vậy cần thiết phải có các quy định quản lý toàn bộ lực lượng lao động làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách điều tiết thị trường lao động, hạn chế tình trạng mất cân đối cung – cầu lao động cục bộ.
- Một số năm gần đây xuất hiện tình trạng một số nhà thầu nước ngoài như Trung Quốc, Singapore…. đưa lao động phổ thông (chưa qua đào tạo) vào làm việc tại Việt Nam theo dự án. Tình trạng này không chỉ làm ảnh hưởng đến việc làm của lao động trong nước, không thực hiện được mục tiêu học hỏi, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài mà còn gây nhiều bất ổn về an ninh, trật tự xã hội. Do đó, vấn đề quản lý, cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài trong thời gian tới cần phải có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình, điều kiện mới đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO...
- Chính sách phát triển thị trường lao động chưa rõ, chưa hình thành một mô hình hoạt động giao dịch việc làm khoa học, đồng bộ,...Các quy định pháp luật hiện nay mới chỉ điều chỉnh một số vấn đề chưa đầy đủ của thị trường lao động như: hoạt động giới thiệu việc làm trực tiếp của các tổ chức giới thiệu việc làm, quy trình tuyển dụng lao động.... chưa điều chỉnh các vấn đề như: xây dựng, khai thác và quản lý thông tin thị trường lao động, hoạt động giao dịch việc làm trên mạng thông tin, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên trước khi giao kết hợp đồng lao động.... dẫn đến những tranh chấp không cần thiết, gây thiệt thòi cho người lao động, doanh nghiệp và xã hội.
- Chính sách việc làm chủ yếu hướng vào hỗ trợ, khuyến khích chưa quy định rõ trách nhiệm của các đối tượng điều chỉnh của chính sách. Hiện nay chúng ta mới chỉ có các quy định về chính sách việc làm cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật rải rác trong Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Người khuyết tật. Các đối tượng đặc thù khác như: lao động là người dân tộc thiểu số, thanh niên, người sau cai nghiện, mãn hạn tù.... chưa có chính sách riêng. Mặt khác những quy định về việc làm đối với các đối tượng đặc thù này mới chỉ dừng ở những quy định về chính sách hỗ trợ việc làm của nhà nước đối với các đối tượng đặc thù, chưa có quy định về việc bảo đảm việc làm, bình đẳng về việc làm đối với các đối tượng này.
- Chính sách bảo hiểm việc làm chưa thể hiện thành một chính sách riêng. Chưa có những quy định về trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động trong việc có kế hoạch, phương án dự phòng những bất trắc xảy ra trong việc làm. Chính sách bảo hiểm mới chỉ dừng ở việc giải quyết chính sách khi chấm dứt quan hệ lao động (bảo hiểm thất nghiệp) vấn đề thúc đẩy doanh nghiệp duy trì việc làm tốt, sắp xếp lại doanh nghiệp, ...chưa được đề cập đến.
Những hạn chế bất cập trên không thể khắc phục được nếu chỉ sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động (chương Việc làm) vì các quan hệ xã hội về việc làm cần được pháp luật điều chỉnh ngày càng mở rộng, nếu chỉ điều chỉnh trong 1 chương của Bộ luật Lao động thì không đủ, nếu mở rộng chương Việc làm quá nhiều sẽ làm mất cân đối trong Bộ luật Lao động.
Ngoài các hạn chế nêu trên cần phải khắc phục thì việc xây dựng và ban hành Luật về Việc làm còn xuất phát từ việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 – Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên. Đồng thời thực hiện các cam kết trong các Công ước quốc tế về việc làm mà Việt Nam đã và đang chuẩn bị tham gia như:
Công ước số 100 năm 1959 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ cho một công việc ngang nhau.
Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp, 1958.
Công ước 159 công ước về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người lao động có khuyết tật, 1959.
Công ước 122 về Chính sách việc làm.
Công ước 88 về Dịch vụ việc làm.
Công ước 181 về tổ chức việc làm tư nhân.
Như vậy, việc xây dựng Luật về Việc làm là hết sức cần thiết, phù hợp với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, khắc phục được các hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về việc làm, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, bảo đảm yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế góp phần thúc đẩy, ổn định và bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho mọi người lao động.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh của Luật việc làm bao gồm các vấn đề: Chính sách phát triển và hỗ trợ việc làm; Chính sách phát triển thị trường lao động: Thông tin thị trường lao động, Dịch vụ việc làm,…; Quản lý lực lượng lao động; Tuyển và Quản lý lao động; Phát triển kỹ năng nghề; Bảo hiểm việc làm (ổn định việc làm; bảo hiểm thất nghiệp).
Đối tượng áp dụng của Luật việc làm là Người lao động Việt Nam, Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Người sử dụng lao động.
Quan điểm chỉ đạo, chính sách cơ bản, nội dung chính
Luật việc làm được đưa vào chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh của Quốc hội trong bối cảnh đang hoàn thiện toàn bộ pháp luật ngành lao động như: Bộ luật Lao động; Luật dạy nghề, Luật bảo hiểm xã hội, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật an toàn lao động-vệ sinh lao động,...Đồng thời, với định hướng “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội- Bổ sung, phát triển năm 2011) và “Phát triển thị trường lao động, khuyến khích các hình thức giao dịch việc làm (Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020) cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào sân chơi chung của thị trường lao động quốc tế thì xây dựng Luật việc làm với quan điểm:
- Luật việc làm qui định chi tiết các vấn đề về việc làm, thị trường lao động và bảo hiểm việc làm, với các mục đích: Quản lý được lực lượng lao động; nguồn nhân lực quốc gia; tạo nhiều việc làm thông qua việc hoạch định, triển khai những chính sách của Nhà nước; tạo việc làm và bảo đảm lực lượng lao động đối với nền kinh tế bằng cách tăng cường hiệu quả của hệ thống thông tin thị trường lao động, sự cân bằng giữa cung – cầu lao động; nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế và việc làm bền vững bằng cách hỗ trợ bảo đảm việc làm cho người lao động; ngăn chặn thất nghiệp, thúc đẩy việc làm, phát triển kỹ năng làm việc. Những vấn đề thuộc về lĩnh vực việc làm, thị trường lao động được quy định trong Luật việc làm để bảo đảm sự thống nhất; phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các tiêu chuẩn, cam kết của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Nội dung chính
Chương I. Những quy định chung: Chương này quy định các vấn đề: Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng điều chỉnh; Giải thích từ ngữ người lao động, người sử dụng lao động, lực lượng lao động, thất nghiệp, việc làm phi chính thức. Các chỉ tiêu về việc làm. Quyền và nghĩa vụ của người lao động. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động. Trách nhiệm của Nhà nước. Hành vi bị nghiêm cấm quy định những việc nghiêm cấm về việc làm, thị trường lao động, bảo đảm việc làm
Chương II. Phát triển việc làm: Nội dung Chương II bao gồm các chính sách của Nhà nước để phát triển việc làm, phát triển thị trường lao động và các chương trình, chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ tạo việc làm. Nội dung chương được thiết kế theo các kênh tạo việc làm của Nhà nước thông qua phát triển kinh tế xã hội chung, phát triển kinh tế xã hội các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biên giới hải đảo; phát triển ngành sử dụng nhiều lao động có khoa học kỹ thuật tiên tiến để chuyển dần lao động tự làm, việc làm phi chính thức sang chính thức. Trách nhiệm của Nhà nước về chương trình việc làm xanh thông qua sự phát triển ngành nông nghiệp chất lượng tốt, việc làm ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển việc làm gắn với môi trường. Chương trình quốc gia về việc làm. Chương trình việc làm địa phương: Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, chương trình quốc gia về việc làm UBND các tỉnh xây dựng Chương trình việc làm địa phương để giải quyết việc làm ở trên địa bàn tỉnh. Việc làm cho các đối tượng đặc thù.
Chương III. Thông tin thị trường lao động: Thông tin thị trường lao động bao gồm các thông tin, cả về định tính lẫn định lượng, về trạng thái, quy mô và cấu phần của cung lao động (lực lượng lao động, giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, kỹ năng, nghề nghiệp năng lực xã hội, nhu cầu tìm việc), cầu lao động (nhu cầu sử dụng lao động theo : loại hình kinh tế, giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, kỹ năng, điều kiện tuyển dụng), giá cả sức lao động (tiền công, tiền lương…), thể chế (các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc làm, tuyển dụng và sử dụng lao động) cũng như các điều kiện để thực hiện sự trao đổi trên thị trường lao động, hiện tại, quá khứ và tương lai.
Chương IV. Quản lý lực lượng lao động: Quản lý lao động là vấn đề quan trọng, không chỉ giúp cơ quan quản lý nhà nước về lao động nắm chắc tình hình thị trường lao động, tình hình sử dụng lao động, dịch chuyển lao động.... mà còn làm cơ sở cho việc dự báo thông tin thị trường lao động phục vụ việc hoạch định chính sách việc làm, thị trường lao động. Mục đích: Quản lý được lực lượng lao động, việc làm của người lao động cả trong khu vực chính thức và phi chính thức. Đối tượng đăng ký lao động: Tất cả người lao động (từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc).
Chương V. Phát triển kỹ năng nghề: Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các đòi hỏi, yêu cầu đối với người lao động về trình độ chuyên môn kỹ thuật (kiến thức), kỹ năng làm việc ngày càng cao. Nội dung chương này gồm có 2 phần: Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề cho người lao động và Đào tạo phát triển kỹ năng làm việc.
Chương VI. Dịch vụ việc làm trong nước: Dịch vụ việc làm trong nước sẽ được chia ra làm: Dịch vụ việc làm công, Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.
Chương VII. Dịch vụ việc làm ngoài nước: Trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Người Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, chương VII dịch vụ việc làm ngoài nước bao gồm: Tổ chức sự nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm ngoài nước; Quyền của Tổ chức sự nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm ngoài nước; Nghĩa vụ Tổ chức sự nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm ngoài nước; Các trường hợp tổ chức sự nghiệp được đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm ngoài nước; Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm ngoài nước; Đổi giấy phép; Đình chỉ có thời hạn hoạt động dịch vụ việc làm; Chi nhánh doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm; Hợp đồng cung ứng lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Chương VIII.Tuyển và quản lý lao động làm việc trong nước: quy định về tuyển và quản lý lao động làm việc cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam; Tuyển và quản lý lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; Tuyển và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Chương IX. Tuyển và quản lý lao động làm việc ở nước ngoài: quy định điều kiện đối với lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Khu vực, ngành nghề và công việc bị cấm đi làm việc ở nước ngoài: Về cơ bản kế thừa Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Quản lý lao động đi làm việc ở nước ngoài; Quản lý lao động đi làm việc ở nước ngoài về nước.
Chương X. Bảo hiểm việc làm: Luật việc làm đã dành chương X quy định về bảo hiểm việc làm trên cơ sở kế thừa chương V- Luật bảo hiểm xã hội (Bảo hiểm thất nghiệp) và bổ sung thêm chính sách bảo đảm việc làm. Chuơng này quy định ccs nội dung sau: Bảo hiểm việc làm là bảo hiểm bắt buộc. Nguyên tắc bảo hiểm việc làm. Đối tượng tham gia bảo hiểm việc làm. Các chế độ bảo hiểm việc làm. Hỗ trợ duy trì việc làm.
Chương XI.Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước về việc làm: Luật việc làm cũng quy định cụ thể Trách nhiệm của Chính phủ, Các Bộ, cơ quan nganh Bộ, Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp về việc làm, thị trường lao động, bảo đảm việc làm.
Chương XII. Điều khoản thi hành: Quy định về hiệu lực thi hành, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Nguồn kinh phí: Sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước bố trí cho công tác xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm.
- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì soạn thảo cùng với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan..
8. Luật khoa học công nghệ (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung
Sau hơn 10 năm thực hiện, Luật khoa học và công nghệ đã bộc lộ một số hạn chế sau đây:
- Một số nội dung của Luật quá nặng về điều chỉnh các hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập nên chỉ phù hợp với giai đoạn trước, không còn phù hợp với tình hình phát triển nền KTTT, xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động KHCN và yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay.
- Một số cơ chế, chính sách, biện pháp được quy định trong Luật để thúc đẩy phát triển KHCN không đủ độ thông thoáng, không còn phù hợp với tình hình mới. Một số nội dung quan trọng chưa được quy định trong Luật.
+ Cơ chế chính sách tài chính cho hoạt động KHCN còn gò bó, chưa đổi mới và không phù hợp với cơ chế thị trường, đặc thù của hoạt động KHCN trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động KHCN, chưa tạo ra tự chủ cao đối với tổ chức KHCN công lập. Đầu tư ngân sách cho KHCN còn dàn trải, thiếu tập trung cho các lĩnh vực, công trình trọng điểm; thiếu biện pháp huy đông nguồn vốn...
+ Cơ chế hiện hành chưa bảo đảm việc xác định, tổ chức và thực hiện nhiệm vụ KHCN hoàn toàn xuất phát từ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, chưa quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc xác định nhiệm vụ KHCN.
+ Thiếu cơ chế để khắc phục sự trùng lặp nhiệm vụ KHCN giữa các ngành, các cấp, địa phương.
+ Tiêu chí lựa chọn chuyên gia tham gia HĐ tư vấn để xác định, tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ KHCN, đánh giá kết quả nghiên cứu còn bất cập.
+ Chưa xây dựng các tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của KHCN; công tác đánh giá chưa thích ứng với chuẩn mực quốc tế.
+ Cơ chế quản lý các tổ chức KHCN chưa phù hợp với đặc thù lao động sáng tạo và cơ chế thị trường. Chưa có quy hoạch xây dựng các tổ chức KHCN đáp ứng yêu cầu phát triển ngành, lĩnh vực KHCN trọng điểm.
+ Cơ chế quản lý cán bộ KHCN chưa tạo động lực để phát triển năng lực sáng tạo của cán bộ KHCN; chậm chuyển đổi từ chế độ công chức sang viên chưa hợp đồng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển và đổi mới cán bộ, Thiếu cơ chế biện pháp cụ thể nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ KHCN đầu ngành và các tập thể KHCN mạnh, Chế độ tiền lương còn bất hợp lý...
Quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật
- Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng thể hiện trong văn kiện Đại hội lần thứ XI:
+ Phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu;
+ KHCN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ TNMT, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
+ Phát triển KHCN nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới;
+ Phát triển đồng bộ các lĩnh vực KHCN gắn với phát triển văn hóa, nâng cao dân trí;
+ Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực KHCN của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu KHCN hiện đại thế giới;
+ Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng KHCN.
- Tạo cơ sở pháp lý hiệu lực cao, đầy đủ, thống nhất và đồng bộ cho việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KHCN, xem đó là khâu đột phá thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động KHCN. Phát huy vai trò, hiệu quả của các tổ chức KHCN chủ lực trong việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN trọng điểm; phát triển nhanh thị trường KHCN; đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí NN và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ KHCNtheo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp KHCN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và phương thức khoán sản phẩm KHCN; phát triển các doanh nghiệp KHCN, các quỹ trong lĩnh vực KHCN; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, đãi ngộ xứng đáng nhân tài KHCN; thực hiện dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì sự phát triển của đất nước.
- Sửa Luật KHCN thực sự thành đạo luật gốc trong lĩnh vực KHCN, quy định vấn đề có tính nguyên tắc chung, bao quát các QHXH trong lĩnh vực KHCN, làm cơ sở chung thống nhất cho các đạo luật chuyên ngành cụ thể, phù hợp với đặc thù của từng loại hình hoạt động KHCN.
- Kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật KHCN.
Nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu
- Bỏ Chương VI về “Quản lý NN về KHCN” thay bằng Chương mới “Trách nhiệm của các cơ quan NN trong hoạt động KHCN”.
- Bỏ phần “Xử lý vi phạm” trong Chương VII, giữ lại các quy định về giải thưởng KHCN và chuyển về Chương quy định các biện pháp bảo đảm phát triển KHCN, đồng thời nghiên cứu để hoàn thiện hơn.
- Lược bỏ 3 điều quy định cụ thể về Quỹ PT hoạt động KHCN quốc gia, bộ/ngành, tỉnh/thành phố, tổ chức, cá nhân vì hiện, hỗ trợ hoạt động KHCN không chỉ có Quỹ này mà còn một loạt các quỹ khác (Quỹ đổi mới KHCN quốc gia, Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ...) đề nghị giao Chính phủ quy định cụ thể.
- Chuyển các điều về phát triển công nghệ cao và thị trường công nghệ sang Chương quy định các biện pháp bảo đảm phát triển KHCN cho phù hợp với vai trò, động lực của phát triển công nghệ cao và thị trường công nghệ đối với sự phát triển KHCN.
- Bỏ điều về thống kê KHCN vì đã được quy định trong các văn bản chuyên ngành về thống kê.
- Bổ sung vào Luật những nội dung sau đây:
+ Bổ sung Điều 3 và một số điều thích hợp cụm từ “ứng phó biến đổi khí hậu”, “góp phần tăng năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa”.
+ Quy định khái quát nhiệm vụ của tổ chức nghiên cứu và phát triển, không phân biệt cấp quốc qia hay Bộ hay cơ sở, công lập hay ngoài công lập.
+ Khẳng định quyền của tổ chức KHCN chuyển đổi một phần hay toàn bộ thành doanh nghiệp KHCN; quyền của tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp KHCN.
+ Phân công, phân cấp lại thẩm quyền quyết định chiến lược phát triển KHCN, kế hoạch hoạt động KHCN của Nhà nước 5 năm và hàng năm tạo điều kiện chủ động và nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Bộ KHCN trong quản lý NN về KHCN theo hướng TTCP chủ quyết định chiến lược phát triển KHCN; căn cứ vào Chiến lược đó, Bộ KHCN xác định mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ của KHCN cụ thể của nhà nước 5 năm và hàng năm; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ căn cứ vào mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ KHCN cụ thể của NN để xác định mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực; UBND tỉnh căn cứ mục tiêu của NN và phân cấp của Chính phủ, kế hoạch phát triển KTXH của địa phương để xác định nhiệm vụ KHCN phục vụ mục tiêu phát triển KTXH của địa phương.
+ Khẳng định quan điểm áp dụng cơ chế đặt hàng đối với sản phẩm KHCN trong tất cả các lĩnh vực hoạt động KHCN, nhưng vẫn giữ hoạt động tuyển chọn, giao trực tiếp làm cơ sở cho đặt hàng.
+ Quy định rõ yêu cầu đối với cơ quan quản lý KHCN có trách nhiệm quản lý, sử dụng không chỉ có hiệu quả mà phải đúng mục đích phần NSNN đầu tư cho KHCN đồng thời phải phù hợp với đặc thù của hoạt động KHCN.
+ Quy định rõ DN đầu tư nghiên cứu những vấn đề KHCN thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của NN thì được xét tài tron không thu hồi một phần hoặc toàn bộ kinh phí nghiên cứu.
+ Quy định rõ trong lĩnh vực KHCN, NN không chỉ thành lập, khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập quỹ PTKHCN mà cả các quỹ khác để hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động KHCN.
+ Khẳng định DN thực hiện đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, DN KHCN được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật, DN thực hiện dự án ứng dụng CN cao, nghiên cứu, phát triển CN cao, ươm tạo CN cao được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế.
+ Quy định về dành kinh phí, khuyến khích đào tạo kỹ sư trưởng, tổng công trình sư; có biện pháp, chính sách để khuyến khích cá nhân, tổ chức tự đào tạo, tham gia việc đào tạo nhằm tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về KHCN, cử hoặc cấp học bổng cho công dân VN đi học tập, nâng cao trình độ chuyên môn ở trong, ngoài nước.
+ Khẳng định NN giao quyền chủ sở hữu công nghệ đối với kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ được tạo ra bằng NSNN cho tổ chức chủ trì nghiên cứu và phát triển công nghệ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
+ Các quy định khẳng định phát triển công nghệ cao và phát triển thị trường công nghệ là biện pháp đẩy mạnh, hỗ trợ ứng dụng các thành tựu KHCN nhưng cũng là biện pháp quan trọng thúc đẩy phát triển KHCN.
+ Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước các cấp đối với hoạt động KHCN.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Nguồn kinh phí: Sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước bố trí cho công tác xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm.
- Bộ Khoa học và công nghệ chủ trì soạn thảo cùng với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan..
9. Luật phòng, chống khủng bố
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 thì dự án Luật này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012).
10. Luật giáo dục quốc phòng - an ninh
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 thì dự án Luật này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2012).
11. Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
Theo Nghị quyết số 07/2011/QH13, Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 (10/2012).
12. Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam (sửa đổi)
Sự cần thiết ban hành văn bản
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999. Sau hơn 10 năm thi hành, nhận thức của hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được nâng lên một bước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã mở rộng về tổ chức và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì ngày càng có hiệu quả, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Công tác Mặt trận tham gia xây dựng, củng cố chính quyền ngày càng có nề nếp và thu được nhiều kết quả. Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc các cấp với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cùng cấp được tăng cường. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Trước yêu cầu phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức họat động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI của Đảng, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, cần được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu tiếp tục mở rộng về tổ chức và đổi mới phương thức họat động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết tòan dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản
¬Quan điểm, chính sách cơ bản
- Thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về tiếp tục phát huy và nâng cao vai cho của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo hướng mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, phát huy dân chủ, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự đồng thuận xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Sửa đổi, bổ sung một số nội dung mang tính cơ bản về vai trò, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI của Đảng và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian qua.
Những nội dung dự kiến sửa đổi:
- Về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập trung vào những vấn đề:
+ Nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như văn kiện Đại hội lần thứ X và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) đã nêu.
+ Về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia với Nhà nước trong việc phát động, tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước; trong công tác đối ngoại nhân dân, tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, xét đặc xá…
- Về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Bổ sung vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân như văn kiện Đại hội lần thứ X và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) đã nêu.
- Về những điều kiện bảo đảm: cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Quy định rõ hơn về đào tạo cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; những điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phối hợp, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện quyền và trách nhiệm của mình.
Ngoài ra còn có một số nội dung khác nhằm tiếp tục thể chế quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng thời cho đồng bộ với một số văn bản pháp luật hiện hành.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Cơ quan chủ trì soạn thảo: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Ban sọan thảo gồm: Ban Thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện một số bộ, ban, ngành hữu quan, một số chuyên gia…
13. Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi Luật
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2007 đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động phòng, chống tham nhũng. Việc triển khai Luật đã gặt hái được nhiều thành công. Bên cạnh việc tăng cường phát hiện và xử lý kịp thời nghiêm minh các hành vi tham nhũng, hoạt động phòng ngừa tham nhũng được đẩy mạnh, trở thành một giải pháp có tính chiến lược, căn bản, lâu dài để chủ động ngăn chặn ngay từ đầu nguy cơ tham nhũng, từng bước hạn chế, đẩy lùi nạn tham nhũng.
Tuy nhiên, sau 5 năm thực thi Luật phòng, chống tham nhũng, vấn đề sửa đổi toàn diện Luật đang được đặt ra vì những lý do sau:
Thứ nhất, Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ ban hành Chương trình thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành trung ương khóa X về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ thị “tăng cường phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí…..tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Theo đó, tại điểm 273 Phụ lục đính kèm của Chương trình hành động quy định sửa đổi Luật phòng chống tham nhũng nhằm đáp ứng các yêu cầu trên.
Thứ hai, các quy định của pháp luật về chống tham nhũng hiện hành chưa đáp ứng với yêu cầu của Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng (được Chủ tịch nước phê chuẩn ngày 30/6/2009). Ngày 07/04/2010 Thủ tướng Chính phủ có quyết định 445/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng trong đó một trong những nội dung chính là nội luật hóa các quy định của Công ước, góp phần hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng, theo đó Luật Phòng, chống tham nhũng cần được sửa đổi ở các nội dung: biện pháp phòng ngừa, bổ sung tội danh tham nhũng và thực thi pháp luật, thu hồi tài sản tham nhũng, ....
Thứ ba, qua tổng kết từ thực tiễn, Luật phòng chống tham nhũng còn bộc lộ những điểm bất cập sau:
Về phạm vi điều chỉnh: Luật phòng, chống tham nhũng mới chỉ đề cập đến chống tham nhũng trong khu vực nhà nước, khu vực công. Tuy nhiên trong thực tế, hành vi tham nhũng diễn ra ở cả khu vực công và khu vực tư ngăn cản sự phát triển lành mạnh của xã hội.
Về các biện pháp phòng ngừa: Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định khá cụ thể về nội dung minh bạch tài sản, thu nhập. Tuy nhiên, Luật chưa quy định rõ đối tượng thuộc diện phải kê khai và trách nhiệm giải trình tài sản, thu nhập. Luật cũng mới chỉ quy định việc xử lý đối với người kê khai không trung thực hoặc kê khai không đầy đủ, chưa có quy định về việc xử lý đối với người không kê khai tài sản. Đối với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, cần bổ sung quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài. Những quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn chưa toàn diện vì một số cơ quan, lĩnh vực vẫn chưa có các quy định về các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, ví dụ như các hoạt động không thuộc quy định giữ bí mật nhà nước trong Công an, quân đội. Ngoài ra, các biện pháp phòng ngừa cần được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Để việc triển khai thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới, thiết nghĩ, những tồn tại, bất cập nêu trên cần được các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn phù hợp hơn, cụ thể hơn nhằm tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật làm cơ sở cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Từ những lý do trên đây đã đặt ra yêu cầu cấp thiết sớm sửa đổi toàn diện Luật phòng, chống tham nhũng nhằm tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật làm cơ sở cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đồng thời thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức bộ máy, cải cách nền hành chính nhà nước; về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới. Theo đó, chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị; khuyến khích, động viên sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội; gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi.
Phải coi các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn là chủ trương chiến lược, căn bản, lâu dài trong phòng, chống tham nhũng; kết hợp giữa phòng và chống, vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng.
Tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua để kế thừa và phát huy những ưu điểm của các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành, bổ sung kịp thời các quy định mới nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong thể chế và thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Luật phòng, chống tham nhũng phải bảo đảm tính khả thi, có bước đi thích hợp, phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta; phù hợp với tinh thần và nội dung của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam đã gia nhập hoặc ký kết; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới về phòng, chống tham nhũng.
Việc xây dựng Luật phải căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, gắn với thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020 và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính theo nguyên tắc bộ máy tinh giản gọn nhẹ; giảm bớt các thủ tục rườm rà; phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và địa phương; đồng thời thu hút, huy động và sử dụng các nguồn lực khác.
Nội dung chính
Nội dung chủ yếu của Luật sẽ trên cơ sở kế thừa Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành, tiếp thu, nội luật hóa các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng và khắc phục các bất cập của Luật hiện hành. Trước mắt, cần quy định cụ thể các biện pháp phòng ngừa thông qua việc tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước; trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước; xây dựng và hoàn thiện chế độ công vụ; công khai, minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
Về phạm vi điều chỉnh: quy định hành vi tham nhũng ở cả khu vực công và khu vực tư.
Về các biện pháp phòng ngừa: hoàn thiện quy định về tổ chức, hoạt động của các cơ quan phòng, chống tham nhũng chuyên trách, tăng cường tính độc lập cần thiết cho các cơ quan phòng, chống tham nhũng để chủ động thực hiện tốt chức năng phòng, chống tham nhũng và sự phối hợp trong công tác này. Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá, đo lường tham nhũng và hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng; công khai kết quả đánh giá thực trạng tham nhũng và kết quả thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Về bổ sung tội danh tham nhũng và thực thi pháp luật: quy định xử lý bằng biện pháp hình sự đối với hành vi đưa và nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác có liên quan đến công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế vì mục đích vụ lợi; quy định điều kiện áp dụng, bổ sung hành vi tham nhũng trong khu vực tư về tội danh đưa, nhận hối lộ và tham ô tài sản trong khu vực tư; bổ sung quy định pháp nhân là chủ thể của hành vi tham nhũng; hành vi làm giàu bất hợp pháp của công chức nếu có tài sản tăng lên đáng kể so với thu nhập bất hợp pháp; hoàn thiện quy định về bảo vệ nhân chứng, chuyên gia và nạn nhân là người đã cung cấp lời khai, cung cấp thông tin liên quan đến tố giác tham nhũng; quy định về sự hợp tác quốc tế trong bảo vệ nhân chứng.
Về thu hồi tài sản tham nhũng: sửa đổi, bổ sung quy định về minh bạch tài sản, thu nhập. Quy định rõ hơn về công khai bản kê tài sản, thu nhập, xác minh nguồn gốc tài sản, thu nhập; xử lý tài sản, thu nhập không giải trình được nguồn gốc, tăng cường các biện pháp quản lý tài sản, thu nhập…. Quy định rõ đối tượng thuộc diện phải kê khai và trách nhiệm giải trình tài sản, thu nhập, quy định về xử lý đối với người không kê khai tài sản. Đối với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, cần bổ sung quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài; bổ sung chế tài giám sát chặt chẽ việc thực hiện kê khai, minh bạch tài sản thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai; bổ sung quy định về kiểm soát thu nhập đối với cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn; nghiên cứu, đề xuất xây dựng quy định kiểm tra, giám sát tài khảo người trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân đang hoặc đã giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Cơ quan chủ trì soạn thảo: Thanh tra Chính phủ
Dự kiến nguồn lực: Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước và các tổ chức quốc tế.
Nguồn nhân lực: Các cán bộ đầu ngành trong lĩnh vực thanh tra, phòng chống tham nhũng; các chuyên gia nước ngoài, các nhà khoa học….
14. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
- Luật thi đua, khen thưởng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Ngày 14/6/2005 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng (bổ sung 01 Điều 58a danh hiệu “Tỉnh Anh hùng”, “Thành phố Anh hùng”). Sau hơn 5 năm thực hiện Luật, nhìn chung, việc thực hiện Luật thi đua, khen thưởng đã các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện tương đối đồng bộ và có hiệu quả. Nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận đoàn thể, có những chuyển biến tích cực, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng đã có những tiến bộ quan trọng, tạo hành lang pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để quản lý Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng bằng pháp luật. Hội đồng thi đua, khen thưởng, bộ máy làm thi đua, khen thưởng các cấp tiểp tục được củng cố, kiện toàn, hoạt động ngày càng hiệu quả. Các cơ quan thông tin đại chúng có nhiều hình thức tuyên truyền, biểu dương người tốt việc tốt. Phong trào thi đua yêu nước đã được triển khai rộng khắp, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, từng bước được đổi mới, bám sát nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị. Công tác khen thưởng cơ bản bảo đảm quy định và dần đi vào nề nếp. Việc bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến bước đầu đã được các cấp, các ngành quan tâm. Những kết quả đạt được đã góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết dân tộc và đồng thuận xã hội.
- Tuy nhiên, hiện vẫn còn tồn tại một số điểm nhất định như hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng còn chưa đáp ứng được yêu cầu xuất phát từ thực tiễn tình kinh tế, xã hội, đời sống như:
a) Mặc dù Luật đã đề cập nhưng trong thực tiễn, đối tượng tham gia thi đua, khen thưởng (Luật điều chỉnh) chỉ tập trung ở khu vực Nhà nước, trong đó chủ yếu ở khu vực cơ quan hành chính nhà nước.
b) Căn cứ pháp lý để thực hiện thẩm quyền ban hành các hình thức khen thưởng, danh hiệu thi đua, các hình thức biểu dương, tôn vinh trong hệ thống tổ chức Đảng, Cơ quan dân cử, cơ quan tư pháp, cơ quan hành pháp chưa thực sự rõ ràng, cụ thể dẫn đến sự chồng chéo hoặc ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật.
c) Hệ thống tiêu chuẩn của các hình thức khen thưởng, danh hiệu thi đua còn chưa cụ thể, chưa khoa học, do vậy chưa tiếp cận được tới các đối tượng ngoài xã hội.
- Do vậy, sau hơn 5 năm thực hiện Luật thi đua, khen thưởng, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, các bộ, ngành, địa phương kiến nghị sớm sửa đổi, bổ sung Luật thi đua, khen thưởng nhằm đưa luật vào cuộc sống và thực sự là một trong những công cụ quản lý nhà nước, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội mà Đảng, Nhà nước đề ra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Luật quy định về nguyên tắc, tiêu chuẩn, hình thức và trình tự, thủ tục thi đua, khen thưởng.
Cơ quan, tổ chức, tập thể, cá nhân người Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài và cá nhân tập thể người nước ngoài.
Quan điểm chỉ đạo
Thực hiện Kết luận số 83-KL/TW ngày 30/8/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị (khoá IX) “Về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát triển, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”, trong Kết luận có nêu giao các cơ quan chức năng nghiên cứu để trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật thi đua, khen thưởng, bảo đảm Luật được sửa đổi, bổ sung có tính khả thi cao.
Nội dung chính của dự án Luật
- Bổ sung một số nội dung trong việc tổ chức thực hiện phong trào thi đua.
- Bổ sung thẩm quyền quyết định khen thưởng và đề nghị khen thưởng của một số tổ chức, cá nhân; bổ sung để quy định rõ tuyến trình khen thưởng.
- Bổ sung, sửa đổi những nội dung liên quan đến tiêu chuẩn một số danh hiệu thi đua và một số hình thức khen thưởng.
- Bổ sung, sửa đổi một số nội dung và lĩnh vực cụ thể để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
- Bổ sung một số nội dung liên quan đến quy định về tổ chức bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng.
- Bổ sung một số nội dung liên quan đến thủ tục, hồ sơ theo hướng cải cách thủ tục hành chính.
Sau khi Luật thi đua, khen thưởng được sửa đổi những vấn đề còn chưa phù hợp của Luật như một số tiêu chuẩn khen thưởng được quy định trong luật nay không còn phù hợp (hoặc chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn) có hình thức khen thưởng thấp nhưng tiêu chuẩn quy định lại quá cao và ngược lại, dẫn đến việc khó thực hiện. Luật thi đua, khen thưởng chưa mở rộng thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng. Luật chưa quy định rõ thẩm quyền khen thưởng và đề nghị khen thưởng đối với cơ quan Đảng, cơ quan dân cử, cơ quan tư pháp, lập pháp, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức đặc thù khác Luật chưa định rừ tiêu chuẩn khen thưởng đối với người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác. Vì vậy, chưa phù hợp với thực tế để tổ chức phát động phong trào thi đua rộng khắp trong cả nước và tránh tình trạng khen thưởng dồn lên cấp nhà nước chưa tạo được cơ chế khen thưởng kịp thời, khen thưởng cho các đối tượng trực tiếp lao động, sản xuất, công tác; Hệ thống các danh hiệu thi đua và các hình thức khen thưởng cần được xem xét cho phù hợp với cụng cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Tiêu chuẩn khen thưởng của từng loại Huân chương, Huy chương, danh hiệu vinh dự Nhà nước chưa bảo đảm tính khoa học và tính khả thi, một số nội dung chưa thống nhất với các quy định của các luật khác có liên quan. Do vậy, sau khi sửa đổi Luật những vấn đề này sẽ được khắc phục, phù hợp với thực tiễn.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cùng một số Bộ, ngành, cơ quan tổ chức có liên quan.
15. Luật tiếp công dân
Sự cần thiết xây dựng Luật tiếp công dân
Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: Tiếp dân là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm để xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong những năm qua, để phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp về thu hồi đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng phục vụ xây dựng các dự án, đổi đất lấy hạ tầng… Những giải pháp trên có liên quan và tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Bên cạnh nhiều thành tựu đã đạt được, trong quá trình tổ chức thực hiện còn phát sinh nhiều bất cập, mà nguyên nhân là chính sách, pháp luật về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập, việc thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức còn nhiều yếu kém, sai phạm… Do vậy, đã phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với xu hướng tăng dần qua các năm. Thực tế cho thấy, nhiều công dân đã tập trung khiếu nại, tố cáo đông người ở trụ sở cơ quan hành chính, đến nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo chính quyền các cấp, lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước để khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, gây mất an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tình trạng này đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm, chú trọng hơn đến công tác dân nguyện nói chung và công tác tiếp dân nói riêng mà trước hết là phải hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về tiếp công dân của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị nhất là ở các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp là nơi trực tiếp xử lý mối quan hệ với công dân.
Thứ hai, khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về tiếp công dân: Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005 đã quy định về công tác tiếp công dân, Nghị định số 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức tiếp công dân. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng quy định về công tác tiếp công dân, theo đó cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Tuy nhiên, công tác tiếp công dân của các cấp, các ngành và Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt, chưa gắn công tác tiếp dân với giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật; nhiều nơi tổ chức tiếp công dân còn hình thức, giao cho cán bộ không đủ thẩm quyền thực hiện, có nơi còn biểu hiện thiếu tinh thần trách nhiệm, thái độ không đúng mực đối với người đến khiếu nại, tố cáo; tình trạng né tránh trách nhiệm, hướng dẫn công dân không đúng quy định cơ bản vẫn còn nhiều; việc phối hợp giữa Trung ương và địa phương còn hạn chế; công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm về nhiệm vụ tiếp công dân chưa thực sự có hiệu quả; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ ba, việc xây dựng Luật tiếp công dân nhằm triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư về Đề án đổi mới công tác tiếp công dân, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp công dân: Như đã trình bày ở phần trên, đứng trước yêu cầu phải đổi mới toàn diện công tác tiếp công dân cho thống nhất và phù hợp với tình hình thực tiễn, ngày 14/6/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 858/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp công dân sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá X cho ý kiến về Đề án này. Để triển khai thực hiện Đề án có hiệu quả, đòi hỏi phải luật hoá các nội dung này.
Thứ tư, tiếp công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh quy định tại Chương V của dự thảo Luật khiếu nại chưa phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật. Luật Khiếu nại có quy định về việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Tuy nhiên, những quy định trong Luật Khiếu nại còn mang tính nguyên tắc, chưa đầy đủ.
Do vậy, việc xây dựng một văn bản riêng để quy định về tiếp công dân, đáp ứng yêu cầu không chỉ về khiếu nại, tố cáo, mà cả kiến nghị, phản ánh của các cơ quan, tổ chức nói chung là hết sức cần thiết.
Các quan điểm, nguyên tắc xây dựng Luật tiếp công dân
Việc soạn thảo Luật tiếp công dân phải quán triệt những quan điểm và nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, thiết lập hệ thống trụ sở tiếp công dân tập trung, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với công dân, vì mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị với nhân dân;
Thứ hai, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân, phù hợp với tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước và cải cách tư pháp hiện nay;
Thứ ba, Luật tiếp công dân được xây dựng phải tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tiếp công dân, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước;
Thứ tư, xây dựng Luật tiếp công dân phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác tiếp công dân; kế thừa, bổ sung quy định mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.
Thứ năm, bảo đảm tính hợp Hiến, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và tính khả thi; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài về vấn đề này.
Dự kiến các nội dung chủ yếu của Luật tiếp công dân
Việc xây dựng Luật tiếp công dân bảo đảm các nội dung cơ bản sau:
- Những quy định chung, trong đó quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; giải thích thuật ngữ; nguyên tắc trong công tác tiếp công dân; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác tiếp công dân;
- Những quy định về quyền, nghĩa vụ của trụ sở tiếp công dân, người phụ trách công tác tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân;
- Những quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân khi đến trụ sở tiếp công dân;
- Những quy định về mô hình tổ chức, điều kiện vật chất của trụ sở tiếp công dân;
- Những quy định về tiêu chuẩn, nghiệp vụ, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của cán bộ tiếp công dân;
- Việc tiếp công dân của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước;
- Việc tiếp công dân của Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thuộc hệ thống chính trị;
- Những quy định về trình tự, thủ tục tiếp công dân và việc xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân;
- Những quy định về mối quan hệ giữa trụ sở tiếp công dân với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;
- Những quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ tiếp công dân;
- Những quy định quản lý nhà nước về tiếp công dân;
- Những quy định khác.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Thanh tra Chính phủ chủ trì soạn thảo dự án Luật này, bên cạnh đó còn huy động sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học.
- Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và kinh phí từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
16. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật thuế giá trị gia tăng
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật
Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 đã có những quy định phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước nên đã phát huy được những tác động tích cực, như: góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu:
- Quy định bổ sung về đối tượng không chịu thuế (chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh) đã bảo đảm sự bao quát toàn diện và phù hợp với bản chất kinh tế của các hoạt động này; chuyển một số hàng hoá, dịch vụ từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng chịu thuế (vận tải quốc tế và các dịch vụ cung ứng cho vận tải quốc tế, văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao không nhằm mục đích kinh doanh,…), từ đó hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
- Sửa đổi quy định về thuế suất theo hướng thu hẹp nhóm thuế suất 5% (hoá chất cơ bản, đóng tàu, vận tải nội địa, máy xử lý dữ liệu tự động, sản phẩm cơ khí tiêu dùng, in trừ in tiền,…) đã góp phần nâng cao sự minh bạch về chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý của cả cơ quan thuế và người nộp thuế.
- Bổ sung điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào (thời gian kê khai tối đa nâng từ 03 tháng lên 6 tháng; yêu cầu thanh toán qua ngân hàng đối với giá trị mua vào từng lần từ hai mươi triệu đồng trở lên); quy định tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ thuế đầu vào để khuyến khích đầu tư, đã tạo thuận lợi hơn cho công tác hạch toán kế toán và bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp làm ăn chân chính, ngăn chặn các hành vi mua bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT, chống thất thu ngân sách, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh.
Là nguồn thu quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước: năm 2009 đạt hơn 108.000 tỷ; năm 2010 đạt hơn 154.000 tỷ.
Qua 03 năm triển khai thực hiện, trước những diễn biến phát triển của nền kinh tế, Luật thuế GTGT đã bộc lộ một số tồn tại cần sửa đổi, bổ sung cụ thể:
- Chưa đề cập cụ thể đến đối tượng không thuộc phạm vi điều chỉnh điều chỉnh, dẫn đến chưa có chính sách khuyến khích việc điều hành của cơ sở kinh doanh đóng trụ sở tại Việt Nam trong SXKD cung ứng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường quốc tế và chính sách thu phù hợp bằng các quy định về: giá tính thuế, khấu trừ thuế và có tính thuế thuế hay không;
- Diện không chịu thuế còn rộng (25 nhóm hàng hoá, dịch vụ) dẫn đến việc khấu trừ thuế bị ngắt quãng giữa các khâu sản xuất kinh doanh, tăng giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ liên quan; đồng thời tạo thêm phức tạp trong thực hiện và quản lý cho cả doanh nghiệp và cơ quan thuế, như quy định về chuyển quyền sử dụng đất không chịu thuế GTGT; một số đối tượng không chịu thuế GTGT đối với bán nợ, kinh doanh ngoại tệ, tài nguyên khoáng sản chưa qua chế biến thành sản phẩm khác xuất khẩu cần được bổ sung làm rõ;
- Giá tính thuế GTGT đối với: hàng hoá, dịch vụ biếu tặng; dịch vụ vừa thực hiện ở Việt Nam, vừa thực hiện ở nước ngoài;
- Đối tượng áp dụng thuế suất 5% chưa được quy định cụ thể hoặc vẫn còn dàn trải dẫn đến phức tạp trong quản lý và tính thuế của cả doanh nghiệp và cơ quan thuế; không ít trường hợp dẫn đến khiếu nại kéo dài, như: một số hoá chất cơ bản được sử dụng chủ yếu để sản xuất phân bón, sách các loại trừ đối tượng không chịu thuế;
- Điều kiện mức thanh toán qua ngân hàng để được khấu trừ thuế là 20 triệu đồng là ở mức cao, chưa khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt trong điều kiện hiện nay mạng lưới và khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán của hệ thống các ngân hàng nay đã tương đối đầy đủ.
- Chưa có quy định về ngưỡng chịu thuế để phân loại người nộp thuế, tạo thuận lợi cho cả cơ sở kinh doanh và cơ quan thuế tính và quản lý thu.
- Chưa quy định về cơ chế hoàn thuế đối hàng hoá không tiêu dùng tại Việt Nam của đối tượng không cư trú để khuyến khích du lịch, xuất khẩu hàng hoá.
- Khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá chịu thuế GTGT bị tổn thất, đối với số thuế GTGT đầu vào đã nộp khâu nhập khẩu nhưng bỏ sót, không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá xuất khẩu do bên mua nước ngoài bị phá sản;…
Do đó, cần thiết phải có sửa đổi, bổ sung Luật vào năm 2013 để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế và hội nhập.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh bổ sung chính sách khuyến khích cơ sở kinh doanh tại Việt Nam cung cấp hàng hoá, dịch vụ trên thị trường quốc tế không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thuế GTGT.
Quan điểm xây dựng, nội dung chính
- Quán triệt và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và trong thời gian tới.
- Phù hợp, thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp, các bộ luật và luật hiện hành; phù hợp với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên.
- Kế thừa và phát huy những ưu điểm, những quy định vẫn còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khắc phục được những hạn chế, bất cập trong những quy định của Luật thuế GTGT hiện hành; bảo đảm tính ổn định, đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tạo môi trường pháp lý, thủ tục hành chính đơn giản, thuận lợi cho đối tượng thi hành luật.
Nội dung chính
Bổ sung làm rõ về phạm vi điều chỉnh; đối tượng nộp thuế: Nghiên cứu bổ sung chính sách khuyến khích cơ sở kinh doanh tại Việt Nam cung cấp hàng hoá, dịch vụ trên thị trường quốc tế không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thuế GTGT (không tính thuế GTGT) nhưng được kê khai khấu trừ đầu vào như đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. Nghiên cứu bỏ cơ chế áp dụng thuế GTGT đối với doanh nghiệp chế xuất; Rà soát theo hướng giảm bớt đối tượng không chịu thuế: Nghiên cứu giảm bớt số lượng hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT: chuyển quyền sử dụng đất; nhà ở thuộc sở hữu nhà nước bán cho người đang thuê;…Rà soát giảm bớt đối tượng áp dụng thuế suất 5%:
Giảm bớt nhóm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 5% đối với các loại hoá chất cơ bản vừa dùng làm phân bón, vừa sử dụng vào mục đích khác, sách các loại trừ đối tượng không chịu thuế; tiến tới áp dụng một mức thuế suất 10% vào năm 2020.
Nghiên cứu sửa đổi phương pháp tính thuế: Xác định giá tính thuế đối với dịch vụ vừa thực hiện tại Việt Nam, vừa thực hiện tại nước ngoài; sửa quy định về tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố thành tỷ giá thực tế tại thời điểm tính thuế.
- Nghiên cứu giải pháp hạn chế gian lận trong kê khai, khấu trừ thuế GTGT: đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ sử dụng chủ yếu cho tiêu dùng cá nhân (ô tô, ăn uống); điều kiện khấu trừ về mức thanh toán qua ngân hàng (giảm mức tối thiểu phải thanh toán qua ngân hàng);
- Bổ sung quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với: hàng hoá bị tổn thất; hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho hoạt động SXKD ngoài Việt Nam.
- Xác định ngưỡng chịu thuế để tiến tới áp dụng một phương pháp tính thuế. Đối tượng nộp thuế có doanh thu dưới ngưỡng áp dụng mức thuế tỷ lệ % trên doanh thu hàng hoá, dịch vụ (thuế doanh thu); hoặc đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp (nếu vẫn giữ phương pháp này) đối với đơn vị sự nghiệp có hoạt động SXKD; nhà thầu nước ngoài bắt buộc áp dụng phương pháp khấu trừ.
- Giảm mức tối thiểu thanh toán qua ngân hàng để được khấu trừ thuế (hiện là 20 triệu đồng) để khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt trong điều kiện mạng lưới và khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán của hệ thống các ngân hàng nay đã tương đối đầy đủ.
Hoàn thuế: Bổ sung cơ chế hoàn thuế đối hàng hoá không tiêu dùng tại Việt Nam của đối tượng không cư trú để khuyến khích du lịch, xuất khẩu hàng hoá.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Nguồn kinh phí: từ ngân sách nhà nước cấp; hỗ trợ từ các dự án hợp tác – hỗ trợ của các nước, tổ chức trong và ngoài nước (nếu có)
- Các điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo: sử dụng nguồn lực của Bộ Tài chính.
17. Luật hải quan (sửa đổi)
Sự cần thiết phải sửa đổi Luật
Luật hải quan được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001, có hiệu lực từ ngày 010/1/2002 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006 (dưới đây gọi chung là Luật hải quan). Qua quá trình triển khai thực hiện, Luật hải quan về cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra khi ban hành Luật, các quy định trong Luật đã được phát huy hiệu quả trong thực tế; cụ thể:
- Thủ tục hải quan đã được công khai, nhanh chóng, thuận lợi hơn, đơn giản hóa quy trình thủ tục hải quan, rút ngắn thời gian thông quan, minh bạch hoá quyền, trách nhiệm của người khai hải quan và công chức hải quan;
- Việc kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu đã có nhiều cải tiến tích cực, chuyển từ kiểm tra trong thông quan sang kiểm tra trước và sau thông quan, tạo thuận lợi cho thông quan hàng hoá;
- Luật đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hiện đại hoá hoạt động quản lý hải quan thông qua ứng dụng công nghệ thông tin; chuyển đổi từ phương pháp quản lý hải quan truyền thống sang phương pháp quản lý hải quan hiện đại dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro;
- Luật hải quan đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phòng ngừa hành vi gian lận, trốn thuế, nâng cao hiệu quả của công tác thu thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, tạo điều kiện để công tác phối hợp giữa các cơ quan, lực lượng phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại được thực hiện tốt hơn.
Về cơ bản, nhiều nội dung trong Luật đã phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực hải quan mà Việt Nam là thành viên.
Những ưu điểm tiến bộ của Luật đã góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính tạo thuận lợi cho môi truờng đầu tư, kinh doanh phát triển, bảo đảm an ninh chính trị, lợi ích chủ quyền và an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, trước bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, hoạt động thương mại quốc tế tăng trưởng mạnh mẽ. Các hoạt động của hải quan gắn liền với yêu cầu của hoạt động kinh tế đối ngoại. Những yêu cầu thực hiện nghĩa vụ pháp lý trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đòi hỏi Hải quan Việt Nam phải tiếp tục đổi mới phương thức quản lý theo yêu cầu của quản lý hải quan hiện đại với quy trình thủ tục hải quan thực hiện bằng hình thức điện tử một cách toàn diện trong hầu hết các hoạt động quản lý của hải quan.
Thực hiện theo hướng này chính là tiếp tục cải cách hơn nữa về thủ tục hải quan nhằm bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ pháp Luật hải quan, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Đối chiếu với yêu cầu cải cách hành chính về hải quan nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch; đồng thời vẫn bảo đảm hiệu quả công tác quản lý hải quan; đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá hải quan và hội nhập quốc tế; Luật hải quan hiện hành chưa có những quy định cụ thể về hiện đại hoá hải quan: chưa chuẩn hoá các chế độ quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo các chuẩn mực quốc tế; thủ tục hải quan điện tử mới được đề cập chung chung, chủ yếu mới ở khâu khai hải quan, chưa quy định ở các khâu thanh khoản, quyết toán, hoàn thuế, các vấn đề về cơ sở hạ tầng, địa điểm làm thủ tục hải quan, phương thức vận hành thông quan theo phương thức điện tử tập trung, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, đối tác tham gia trong việc thực hiện quản lý hải quan theo phương thức hiện đại, thông quan tự động áp dụng phương tiện điện tử; thông quan hàng hoá trước khi hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu và giải phóng hàng hoá trước hoặc ngay sau khi hàng hoá đến cửa khẩu.., nay cần được cụ thể hoá để tạo cơ sở pháp lý cho việc hiện đại hoá hoạt động hải quan nhằm nâng cao năng lực quản lý của hải quan Việt Nam ngang bằng với trình độ của các nước trong khu vực và thế giới như quy định về thông quan trước, quyết định trước, lưu kho tạm, bên thứ ba, bảo lãnh, quy định về quản lý rủi ro, thực thi quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ....; một số quy định của Luật hải quan chưa rõ ràng, cụ thể hoặc không còn phù hợp với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong thời gian gần đây như các quy định liên quan đến quản lý thuế trong Luật quản lý thuế, quy định liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới trong Luật Sở hữu trí tuệ...; một số quy định liên quan đến hoạt động hải quan đang thực hiện theo các văn bản dưới luật sau một thời gian thực hiện có tính ổn định cần được quy định trong Luật để bảo đảm tính minh bạch và nâng cao hiệu lực pháp lý.
Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
- Quy định quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trong lãnh thổ hải quan.
- Đối tượng áp dụng của văn bản bao gồm tổ chức, cá nhân thực hiện hoặc tham gia vào quá trình thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải; cơ quan hải quan, công chức hải quan và cơ quan khác của nhà nước trong quá trình phối hợp quản lý nhà nước về hải quan.
Nội dung chính của văn bản
- Thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Cải cách hành chính, hiện đại hoá hải quan đáp ứng yêu cầu tạo thuận lợi hơn nữa cho thưong mại đầu tư du lịch đồng thời bảo đảm yêu cầu quản lý chặt chẽ.
- Nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các tiến bộ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về hải quan của các nước trên thế giới, tiếp tục hội nhập về hải quan để tạo điều kiện cho Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết của tổ chức thưong mại thế giới.
- Nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các chuẩn mực tại Công ước quốc tế về đơn giản và hài hòa thủ tục hải quan sửa đổi, bổ sung năm 1999 (gọi tắt là Công ước Kyoto) để bảo đảm vừa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia, vừa phù hợp với quá trình cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước về hải quan;
- Quy định cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc hiện đại hóa hải quan, thực hiện thủ tục hải quan điện tử và cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN;
- Sửa đổi các quy định thiếu cụ thể, bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch; thống nhất các quy định có liên quan giữa Luật hải quan đã được sửa đổi, bổ sung với Luật quản lý thuế, Luật sở hữu trí tuệ, Luật thương mại…;
- Sửa đổi, bổ sung các quy định chưa tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, chưa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước.
- Bổ sung vào Luật một số quy định hiện đang được quy định tại văn bản dưới luật nhưng có quá trình triển khai ổn định và hiệu quả.
Về hồ sơ hải quan
Sửa đổi, bổ sung quy định về hồ sơ hải quan theo hướng: hồ sơ hải quan đơn giản hơn, bỏ bớt một số giấy tờ đối với những trường hợp không cần thiết; Quy định thời hạn và cách thức nộp hồ sơ phù hợp với thực hiện thủ tục hải quan điện tử (hàng hoá thuộc luồng xanh không phải nộp hồ sơ trước khi thông quan); Quy định tờ khai rút gọn (đơn giản) áp dụng cho hàng hóa trị giá thấp.
Về khai hải quan
Bổ sung quy định trong Luật về khai thông tin trên tờ khai hải quan trước khi đăng ký tờ khai chính thức; Khi có hàng xuất khẩu/nhập khẩu thì người khai hải quan mới được chính thức đăng ký tờ khai hải quan; Sau khai chính thức, không được hủy tờ khai nếu không có sự chấp nhận của cơ quan Hải quan; Quy định cụ thể việc sử dụng tờ lược khai để thông quan đối với hàng hoá phục vụ yêu cầu khẩn cấp; Bỏ quy định về thời hạn giá trị làm thủ tục của tờ khai hải quan trong Luật hải quan; Bổ sung quy định về khai bổ sung sau khi hàng hóa đã được thông quan.
Về thông quan
Phân định rõ các trường hợp được thông quan và các trường hợp được giải phóng hàng; Bỏ quy định về cho phép đưa hàng về bảo quản khi chưa xác định mặt hàng đó có được phép nhập khẩu hay không; Quy định thông quan cho một số trường hợp đặc thù như hàng hóa phục vụ yêu cầu khẩn cấp, an ninh quốc phòng, miễn trừ ngoại giao.
Về chuẩn hóa quy trình, thủ tục hải quan
Xây dựng và thiết kế lại Chương III Luật hải quan về các loại hình quản lý đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu theo hướng gom các thủ tục và chế độ quản lý hải quan có cùng bản chất để áp dụng chung thủ tục. Theo đó, thủ tục hải quan được phân thành các loại như sau:
(1) Thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng xuất khẩu: Áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu nói chung (Xuất kinh doanh, đầu tư). Tương tự như chế độ xuất khẩu hẳn của Công ước Kyoto.
(2) Thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng nhập khẩu: Áp dụng đối với nhập tiêu dùng trong nước, nhập đầu tư (miễn thuế hoặc có thuế) bao gồm cả nhập từ khu bảo thuế vào nội địa; Tạm nhập máy móc thiết bị để thi công công trình, thực hiện dự án; Tái nhập hàng hóa xuất khẩu bị trả lại.
(3) Thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu quản lý theo chế độ tạm (tạm nhập, tạm xuất)
Áp dụng cho các loại hàng hóa tạm nhập - tái xuất, tạm xuất – tái nhập vì các mục đích đặc biệt. Cụ thể bao gồm: Hàng triển lãm, hàng trưng bày; Hàng là dụng cụ nghề nghiệp; Phương tiện chứa hàng quay vòng: Containers, pallets…; Hàng mẫu
Chính sách thuế: hàng hoá chưa phải nộp thuế trong thời hạn tạm nhập hoặc được miễn thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật.
(4) Thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đưa ra, đưa vào khu vực bảo thuế
Quy định các khu vực bảo thuế gồm: Nhà máy bảo thuế, khu chế xuất, kho ngoại quan, khu bảo thuế hải quan, khu kinh tế cửa khẩu
Cơ chế quản lý:
- Hàng hoá lưu giữ tại khu bảo thuế hoặc đưa vào nhà máy bảo thuế để gia công, sản xuất không phải nộp thuế trong thời hạn lưu giữ và sản xuất.
- Quy định thời hạn lưu giữ hàng hoá đối với mỗi loại khu vực bảo thuế.
- Quản lý hàng hoá trong khu bảo thuế theo nguyên tắc theo dõi xuất, nhập, tồn và trên cơ sở kiểm tra hệ thống sổ sách, chứng từ của chủ kho, nhà máy bảo thuế.
- Cơ chế bảo đảm (đặt cọc/bảo lãnh…) đối với hàng hoá sử dụng chế độ bảo thuế.
Thủ tục hải quan đối với hàng gia công, sản xuất xuất khẩu:
Thay đổi căn bản phương thức quản lý đối với loại hình gia công, sản xuất xuất khẩu theo hướng doanh nghiệp chịu trách nhiệm về việc khai báo, sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu đúng quy định (tự thanh khoản) và cơ quan hải quan tăng cường trách nhiệm kiểm tra, chủ yếu tập trung việc kiểm tra quá trình sản xuất của doanh nghiệp chứ không chỉ tập trung quản lý khâu khai báo và thanh khoản như hiện nay.
Dự kiến phân loại doanh nghiệp gia công, sản xuất xuất khẩu để quản lý như sau:
- Quy định điều kiện áp dụng chế độ bảo thuế.
- Doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện: thực hiện quy trình thủ tục theo quy trình xuất nhập khẩu cơ bản, không thuộc đối tượng được miễn thuế, ân hạn thuế mà phải nộp thuế ngay khi làm thủ tục nhập khẩu nguyên vật liệu và được hoàn thuế sau khi xuất khẩu sản phẩm.
- Doanh nghiệp đáp ứng điều kiện: công nhận và quản lý hàng hoá theo chế độ nhà máy bảo thuế.
(5) Thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vận chuyển bảo thuế
Quy định cụ thể về các trường hợp áp dụng vận chuyển bảo thuế, hồ sơ hải quan; địa điểm làm thủ tục vận chuyển bảo thuế; cơ chế cấp phép, giám sát; cơ chế bảo đảm để được áp dụng vận chuyển bảo thuế.
(6) Thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khác
Quy định cụ thể thủ tục hải quan để áp dụng đối với: Hàng an ninh quốc phòng, ưu đãi miễn trừ, xuất nhập khẩu khẩn cấp; Hàng trị giá thấp (khai tờ khai đơn giản); Hành lý cá nhân; Hàng bưu chính; Hàng dự trữ; Hàng cư dân biên giới….
(7) Thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh
Quy định cụ thể thủ tục hải quan đối với từng loại phương tiện.
Về kiểm tra hải quan, quản lý rủi ro
Dự kiến sửa đổi các Điều 15, 28, 29, 30, 31 Luật hải quan theo hướng như sau:
- Sửa Điều 15 để thể hiện đúng nội hàm quản lý rủi ro; bổ sung quy định giải trừ trách nhiệm của cán bộ công chức hải quan trong áp dụng quản lý rủi ro.
- Quy định rõ thẩm quyền quyết định hình thức kiểm tra phù hợp với việc áp dụng hải quan điện tử;
- Về kiểm tra thực tế hàng hóa: Bỏ quy định công khai các trường hợp được miễn kiểm tra thực tế hoặc quy định công khai các trường hợp được miễn kiểm tra thực tế nhưng có điều chỉnh, bổ sung để áp dụng quản lý rủi ro.
- Quy định về việc kiểm tra không xâm nhập qua máy soi của cơ quan Hải quan trong trường hợp vắng mặt người khai hải quan.
Về quy định giám sát hải quan đối với hàng hóa
Dự kiến sửa đổi, bổ sung Điều 26 Luật Hải quan theo hướng: Thay đổi cách thức giám sát; quy định chung về nguyên tắc, đối tượng, biện pháp giám sát và quy định cụ thể về giám sát đối với từng chế độ quản lý khác nhau để phù hợp với yêu cầu quản lý; đồng thời bổ sung quy định về trách nhiệm của các tổ chức tham gia quá trình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong việc quản lý, bảo quản nguyên trạng hàng hoá và bảo đảm hàng hoá tuân thủ các thủ tục hải quan theo quy định.
Về địa điểm làm thủ tục hải quan
Dự kiến sửa đổi quy định về địa điểm làm thủ tục hải quan theo hướng: Quy định cụ thể địa điểm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hóa; Tất cả các khu vực bảo thuế như cảng, kho bãi, CFS, ICD, kho ngoại quan, các địa điểm kiểm tra hải quan, doanh nghiệp bảo thuế… đều phải được Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cấp phép hoạt động; Bổ sung quy định trách nhiệm của UBND tỉnh, thành phố, các Bộ, Ngành (Giao thông vận tải, Cục Hàng hải, Cục Hàng không) khi quy hoạch cảng biển quốc tế, cảng hàng không quốc tế, cảng sông quốc tế, ga đường sắt liên vận quốc tế…Cơ quan chủ trì xây dựng quy hoạch phải tham khảo ý kiến các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan: hải quan, biên phòng, công an xuất nhập cảnh, kiểm dịch động thực vật, kiểm dịch y tế…để bảo đảm yêu cầu quản lý, giám sát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; Bổ sung quy định về địa điểm kiểm tra chung giữa Hải quan Việt Nam với Hải quan nước láng giềng tại khu vực cửa khẩu đường bộ.
Về thủ tục hải quan đối với phương tiện
Sửa đổi quy định về thủ tục hải quan: Phân định rõ thủ tục hải quan đối với phương tiện vận tải kinh doanh thương mại và phương tiện vận tải không kinh doanh thương mại (Ví dụ: ô tô cá nhân, du thuyền, …); Quy định chi tiết đối với loại hình phương tiện vận tải: tàu biển, máy bay…
Về doanh nghiệp ưu tiên
Bổ sung một mục trong Luật hải quan để quy định về: nội dung ưu tiên, tiêu chí doanh nghiệp ưu tiên, nghĩa vụ của doanh nghiệp ưu tiên, cơ chế thực hiện và kiểm tra doanh nghiệp ưu tiên.
Vấn đề về quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Sửa đổi để quy định thống nhất và hài hoà các quy định về chính sách thuế và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu giữa Luật hải quan với Luật quản lý thuế và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; bổ sung một số nội dung cho phù hợp với chuẩn mực Công ước Kyoto như phán quyết trước, bảo đảm, số thuế tối thiểu không thu, không hoàn….
Về kiểm tra sau thông quan
Xuất phát từ việc thay đổi cách thức quản lý, chuyển đổi mạnh mẽ phương thức thực hiện thủ tục hải quan từ phương thức thủ công sang phương thức điện tử, giảm thời gian thông quan, giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá, để bảo đảm yêu cầu quản lý cần tăng cường hoạt động kiểm tra sau thông quan; do đó, dự kiến sửa đổi, bổ sung nội dung kiểm tra sau thông quan tại Luật hải quan theo hướng:
- Hoạt động kiểm tra sau thông quan phải được kết nối với các hoạt động kiểm tra hải quan trước và trong thông quan. Đối với các trường hợp thông quan ngay hoặc có các dấu hiệu nghi ngờ nhưng tại khâu thông quan chưa có điều kiện xác minh cần chuyển sang làm rõ ở khâu sau thông quan.
- Kiểm tra sau thông quan để bảo đảm thi hành nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp và đánh giá mức độ tuân thủ đối với doanh nghiệp ưu tiên.
- Nội dung kiểm tra sau thông quan bao gồm: mục đích KTSTQ, nguyên tắc KTSTQ, căn cứ KTSTQ, phạm vi KTSTQ, thời hạn KTSTQ, quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong KTSTQ.
Về kiểm soát hải quan
Sửa đổi khái niệm "kiểm soát hải quan" tại khoản 10 Điều 4 Luật hải quan để thể hiện được nguyên tắc tất cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đều phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát hải quan và chưa phù hợp với khái niệm “kiểm soát hải quan” đã được định nghĩa trong Danh mục từ vựng thuật ngữ Hải quan của WCO; đồng thời sửa đổi, bổ sung quy định tại Chương IV Luật hải quan theo hướng:
- Quy định rõ những nhiệm vụ cụ thể mà cơ quan hải quan thực hiện để phòng chống buôn lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép qua biên giới có hiệu quả.
- Mở rộng thẩm quyền của lực lượng kiểm soát hải quan trong trường hợp cơ quan hải quan phát hiện hành vi vi phạm pháp Luật hải quan trong địa bàn hoạt động của mình thì được thực hiện việc truy đuổi liên tục không bị giới hạn bởi phạm vi địa bàn (từ trong địa bàn hoạt động ra ngoài địa bàn hoạt động).
- Bổ sung quy định về các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan đã được thực hiện tại các văn bản dưới Luật vào Luật để bảo đảm tính pháp lý.
- Quy định cụ thể hơn thẩm quyền của cơ quan hải quan trong việc áp dụng các biện pháp phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, làm rõ những nội dung cơ quan hải quan được phép làm để thực hiện nhiệm vụ.
- Bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong thực hiện nhiệm vụ phòng chống buôn lậu vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới.
Về thông tin hải quan
Bổ sung 1 chương về Thông tin bao gồm: thông tin hải quan, thông tin nghiệp vụ hải quan, trách nhiệm và quyền hạn của các tổ chức cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin hải quan.
Mục tiêu của chính sách
Luật hải quan cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để bảo đảm:
- Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hải quan để bảo đảm đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hoá hải quan, đặc biệt thực hiện thông quan điện tử đáp ứng yêu cầu tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch, phát triển kinh tế xã hội; đồng thời bảo đảm yêu cầu quản lý chặt chẽ của nhà nước trong toàn bộ hoạt động về hải quan.
- Cải cách các quy định về thủ tục hải quan nhằm đơn giản và minh bạch với phương thức thực hiện thủ tục hải quan điện tử và mô hình từng bước xử lý tập trung; tạo cơ sở pháp lý ổn định để mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện thủ tục và quản lý hải quan.
- Tiếp tục nội luật hoá các chuẩn mực quốc tế về hải quan để tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập với các tổ chức quốc tế. Nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các tiến bộ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về hải quan của các nước trên thế giới.
- Tháo gỡ các vướng mắc, bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp Luật hải quan; bảo đảm tính thống nhất, đầy đủ, đồng bộ và khả thi của pháp Luật hải quan.
Các giải pháp để thực hiện chính sách
- Về cơ sở pháp lý: Sửa Luật quản lý thuế và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để đồng bộ với nội dung sửa tại Luật hải quan. Trên cơ sở đó, thực hiện theo quy định của Luật hải quan, Luật quản lý thuế, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, như Luật thương mại, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế...; các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập như Công ước Kyoto, Hiệp định TRIPS…
- Có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành và Hiệp hội có liên quan.
- Có biện pháp tuyên truyền, tập huấn cho công chức hải quan, người khai hải quan và người nộp thuế, cũng như tổ chức, cá nhân có liên quan để nắm vững quy định của luật và triển khai thực hiện tốt trong thực tế.
Tác động tích cực, tiêu cực của chính sách
- Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, hiện đại hóa ngành Hải quan, tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh toàn diện và hiệu quả các hoạt động hải quan.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế và góp phần điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với yêu cầu quản lý của nhà nước.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Nguồn kinh phí: Sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước bố trí cho công tác xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và nguồn hỗ trợ từ các dự án hợp tác - hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế
- Các điều kiện bảo đảm cho công tác soạn thảo: Thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập của Bộ Tài chính với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan như Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và công nghệ… để nghiên cứu, đề xuất các vấn đề sửa đổi, bổ sung Luật hải quan.
18. Luật đất đai (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi Luật
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội Khóa XI, Kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thực sự đi vào cuộc sống, được nhân dân đặc biệt quan tâm và đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, thực tế trong đời sống xã hội đã phát sinh nhiều vấn đề mà pháp Luật đất đai cần phải điều chỉnh như chính sách giao đất nông nghiệp, thời hạn sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm đã giao theo Nghị định số 64/CP năm 1993; việc điều tiết lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân; việc tạo quỹ đất của Nhà nước phục vụ các mục tiêu công ích, chính sách xã hội, điều tiết thị trường đất đai và hỗ trợ, tái định cư; việc tạo quỹ đất “sạch” cho các dự án đầu tư của Nhà nước, của doanh nghiệp…
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XII tại Nghị quyết số 31/2009/QH12 ngày 17 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011). Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổng kết, đánh giá năm năm thi hành Luật đất đai 2003 (7/2004-9/2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai. Trong hơn 5 năm qua việc thi hành pháp luật về đất đai đã đạt được kết quả đáng kể trên tất cả các nội dung, nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, đặc biệt là đã thể hiện những quan điểm đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đất đai đang từng bước trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành Luật đất đai cũng đã bộc lộ một số hạn chế nội dung cần sửa đổi, bổ sung khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn với sở hữu nhà ở, công trình xây dựng; về sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Theo đó, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản (năm 2009) và Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật nhà ở và Điều 121 của Luật đất đai.
Mặt khác, để tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thi hành Luật đất đai năm 2003, theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì soạn thảo trình Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Những nội dung được sửa đổi, bổ sung trong các Luật và các Nghị định nêu trên đang được triển khai thực hiện và bước đầu đã phát huy tác dụng, khắc phục cơ bản các vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, có một số vấn đề vướng mắc có liên quan đến quy định của Luật đất đai mà không thể tháo gỡ được bằng những quy định của Chính phủ, như: thời hạn sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hằng năm (giao theo Nghị định 64/CP năm 1993, đến năm 2013 là hết thời hạn được giao 20 năm); thời hạn thông báo thu hồi đất, hạn mức sử dụng đất, cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai..v.v. Do vậy, việc sửa đổi Luật đất đai năm 2003 là rất cần thiết và cấp bách.
Luật đất đai năm 2003 được ban hành trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, tổng kết, đánh giá Luật đất đai 2003, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận thấy việc sửa đổi Luật đất đai 2003 liên quan đến một số vấn đề quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Do đó, để có cơ sở sửa đổi Luật đất đai trong thời gian tới, Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản số 249/BCS-BTNMT ngày 10 tháng 7 năm 2009, văn bản số 268/BCS-BTNMT ngày 15 tháng 10 năm 2009 trình Ban cán sự đảng Chính phủ và Ban cán sự đảng Chính phủ đã trình Bộ Chính trị cho ý kiến về một số vấn đề. Hiện Ban cán sự đảng Chính phủ đang xem xét, trình Bộ Chính trị cho ý kiến.
Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Quốc hội có Nghị quyết số 48/2010/QH12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007 - 2011); trong đó Luật đất đai sửa đổi nằm trong chương trình chuẩn bị.
Ngày 12 tháng 3 năm 2010, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 08/BTNMT-PC gửi Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đề nghị đưa dự án Luật đất đai (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật của Quốc hội năm 2012.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 23 tháng 7 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 1315/CT-TTg về việc tổng kết thi hành Luật đất đai năm 2003 và ngày 09 tháng 9 năm 2010 ban hành Quyết định số 1665/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thi hành Luật đất đai và sửa đổi Luật đất đai năm 2003.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
- Luật đất đai sửa đổi quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
- Đối tượng áp dụng của Luật đất đai sửa đổi bao gồm: cơ quan nhà nước thực hiện quyền hạn và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai; người sử dụng đất và các đối tượng khác có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất.
Quản điểm chỉ đạo, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản
Nội dung chính
Nội dung chính của Luật đất đai sửa đổi gồm:
Những vấn đề chung: Những vấn đề về quyền sở hữu đất đai của Nhà nước; Vị trí, vai trò của Nhà nước đối với quyền sở hữu đất đai; Các quyền chung của các chủ thể (quản lý, sử dụng) đối với đất đai; khái niệm người sử dụng đất (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân)
Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Vị trí, vai trò quy hoạch sử dụng đất, mối quan hệ quy hoạch sử dụng đất trong hệ thống quy hoạch (mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng; giữa quy hoạch sử dụng đất chi tiết và quy hoạch chi tiết xây dựng của khu công nghệ cao, khu kinh tế). Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hệ thống các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (các cấp quy hoạch; cấp quốc gia, cấp vùng, cấp xã, khu công nghệ cao, khu kinh tế); tạo quỹ đất của Nhà nước phục vụ các mục tiêu công ích, chính sách xã hội, điều tiết thị trường đất đai và hỗ trợ tái định cư. Kỳ quy hoạch sử dụng đất.. Tổ chức lập quy hoạch sử dụng đất; trách nhiệm của các cấp, ngành trong việc lập quy hoạch sử dụng đất; tư vấn trong lập quy hoạch sử dụng đất. Căn cứ lập quy hoạch sử dụng đất, mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất.. Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, điều chỉnh cục bộ quy hoạch sử dụng đất (Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). Tổ chức, quản lý thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Việc lập, trình duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đối với nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất: Các trường hợp thu hồi đất, thông báo thu hồi đất. Thẩm quyền thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất đối với trường hợp khu đất thực hiện dự án có cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng. Thẩm quyền cho chuyển mục đích đất trồng lúa nước, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp. Quản lý và sử dụng đất đối với công trình ngầm và không gian sử dụng của công trình ngầm. Thu hồi đất trong trường hợp tạo quỹ đất để chỉnh trang, phát triển đô thị.. Đất nghĩa trang, nghĩa địa.
Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Cơ chế, chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cơ chế để nhà đầu tư tự thỏa thuận đối với diện tích đất thuộc diện thu hồi theo quy hoạch; trường hợp thỏa thuận nhưng không đạt được toàn bộ diện tích đất. Cơ chế tạo quỹ đất (đất sạch) cho các dự án đầu tư. Cơ chế tạo quỹ đất của Nhà nước phục vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Tài chính về đất đai, giá đất: Phương pháp xây dựng khung giá đất, lập bảng giá đất.. Phương pháp xác định giá đất cụ thể. Ban hành, phê duyệt, công bố về khung giá, bảng giá và giá đất cụ thể. Cơ chế tư vấn giá đất, thẩm định giá đất. Các trường hợp áp dụng giá đất do Nhà nước quy định. Cơ chế điều tiết khoản chênh lệch do chuyển mục đích sử dụng đất. Cơ chế điều tiết giá trị tăng thêm không do đầu tư mà có. Cơ chế tài chính cho Tổ chức phát triển quỹ đất. Quỹ phát triển đất. Đất tham gia thị trường bất động sản. Điều tiết thị trường đất đai. Cổ phần hóa trong đó có quyền sử dụng đất. ấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.
Về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất): Các trường hợp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nội dung Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thẩm quyền cấp, chỉnh lý Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mô hình tổ chức, chức năng của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đăng ký quyền sử dụng đất, hồ sơ địa chính.
Về thời hạn, hạn mức sử dụng đất (hạn điền, tích tụ ruộng đất): Thời hạn sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. Thời hạn sử dụng các loại đất nông nghiệp sau khi nhận chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng đất trong nhóm đất nông nghiệp. Thời hạn sử dụng đất các loại đất. Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. Hạn mức sử dụng đất để xác định các nghĩa vụ tài chính (khi công nhận đất ở, khi bồi thường, hỗ trợ, khi xác định thuế nhà đất).
Về quyền của người sử dụng đất: Đối với đối tượng sử dụng đất là tổ chức kinh tế liên doanh với nước ngoài (được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất). Tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài nhận quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Sử dụng đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài tại Việt Nam trong trường hợp được mua nhà ở gắn liền với đất. Hộ gia đình, cá nhân cho tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế liên doanh với nước ngoài thuê đất. Quyền của tổ chức kinh tế trong nước được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất và tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê. Quyền của người sử dụng đất khi được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất lên sàn giao dịch bất động sản. uyền tự đầu tư trên đất đang sử dụng trong trường hợp đất thuộc diện Nhà nước thu hồi để đầu tư dự án có mục đích sản xuất, kinh doanh hoặc xây dựng kinh doanh nhà ở. iệc người sử dụng đất góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào các dự án đầu tư.Thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng nước ngoài. Sử dụng đất thuộc hành lang an toàn của các công trình. Quyền thông hành địa dịch.
Quy định về trình tự, thủ tục hành chính về đất đai: Nguyên tắc lập, gửi hồ sơ, đơn thư. Nguyên tắc tiếp nhận hồ sơ, đơn thư. Thẩm quyền, trình tự giải quyết. Nguyên tắc trả kết quả giải quyết.
Về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai: Thẩm quyền giải quyết của cơ quan tài nguyên và môi trường, cơ quan tòa án nhân dân. Thời hiệu giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.. Mối quan hệ giữa cơ quan tài nguyên và môi trường và cơ quan tòa án nhân dân trong trường hợp đương sự chuyển hình thức khiếu nại, tố cáo./.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Nguồn kinh phí: Sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước bố trí cho công tác xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và nguồn hỗ trợ từ các dự án hợp tác - hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế.
. Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan.
19. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm xã hội
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều
Luật bảo hiểm xã hội (BHXH) được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, riêng các quy định về BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008 và bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ 01/01/2009.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Luật BHXH, hiện tại, cả nước có gần 9,4 triệu người tham gia BHXH, chiếm khoảng 20% lực lượng lao động. Trong đó, số người tham gia BHXH bắt buộc là 9,3 triệu người, chiếm khoảng 70% so với số đối tượng thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH. Công tác quản lý và tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế như: chưa quản lý được số lượng đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc; công tác thông tin, tuyên truyền chưa thật sâu rộng (đặc biệt là chính sách BHXH tự nguyện) nên người lao động và mọi người dân biết, hiểu về quyền, nghĩa vụ, mục tiêu, lợi ích của BHXH chưa rõ ràng dẫn đến tham gia BHXH chưa đầy đủ; tình trạng nợ đóng, chậm đóng BHXH vẫn xảy ra phổ biến ở nhiều doanh nghiệp; công tác thanh tra, kiểm tra về BHXH còn ít và chưa hiệu quả, còn lồng ghép trong các cuộc thanh tra, kiểm tra về thực hiện pháp luật lao động nói chung nên tính hiệu quả không cao; chế tài xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH với mức xử phạt tuy đã được sửa đổi, bổ sung, tuy nhiên mức xử phạt vẫn còn thấp, chưa đủ mạnh để buộc doanh nghiệp tuân thủ; việc xử lý đối với các trường hợp vi phạm vẫn chưa được thực hiện một cách kiên quyết nên tính răn đe không cao; tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp còn hoạt động yếu kém, chưa bảo vệ được quyền lợi BHXH cho người lao động; số người đóng BHXH bình quân trên một người hưởng lương hưu tiếp tục theo xu hướng giảm, quỹ hưu trí và tử tuất tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.
Bên cạnh những hạn chế về công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, thì qua 4 năm thực hiện cũng đã xuất hiện nhiều nội dung còn bất cập trong chính sách, trong các quy định của Luật BHXH, như: quy định về nhận sổ BHXH khi người lao động không còn làm việc; quy định về mức hưởng chế độ ốm đau cho thời gian vượt quá 180 ngày trong năm đối với trường hợp ốm đau dài ngày; quy định điều kiện về thời gian đóng để hưởng chế độ thai sản; quy định về trợ cấp tuất còn có sự chênh lệch lớn về mức trợ cấp tuất hàng tháng và trợ cấp tuất một lần dẫn tới thiệt thòi cho thân nhân người lao động; quy định về trợ cấp thất nghiệp còn chưa phù hợp với nguyên tắc đóng, hưởng của BHXH; quy định người sử dụng lao động giữ lại 2% tiền đóng vào quỹ ốm đau và thai sản chưa phù hợp với thực tế, hiện nay đa số doanh nghiệp không thực hiện quy định này; quy định về chi quản lý của cơ quan BHXH chưa phù hợp với tính chất và công việc của đơn vị sự nghiệp, tự chủ trong quản lý tài chính, chưa khuyến khích được đội ngũ lao động ngành BHXH công tác, thực hiện tốt nhiệm vụ; quy định về hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động đối với trường hợp tai nạn giao thông phải có thêm bản sao Biên bản tai nạn giao thông, tuy nhiên hiện nay ngành công an không còn quy định lập Biên bản tai nạn giao thông nữa;...
Để giải quyết các vấn đề tồn tại nêu trên, cần sớm xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm xã hội.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHXH quy định về những nội dung sửa đổi, bổ sung trong chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội. Không áp dụng đối với bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm mang tính kinh doanh.
Đối tượng áp dụng: Là các đối tượng áp dụng BHXH quy định tại Điều 2 Luật BHXH; Là các cơ quan, tổ chức có liên quan (cơ quan quản lý nhà nước; cơ quan tổ chức thực hiện; cơ quan đại diện người lao động, người sử dụng lao động,...)
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
- Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.
- Phù hợp với yêu cầu của xã hội trong điều kiện mới.
- Bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện.
- Các điều khoản sửa đổi một số nội dung đã được quy định trong Luật bảo hiểm xã hội và bổ sung một số nội dung chính sách mới.
- Bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc đã được quy định tại Điều 5 Luật BHXH.
Nội dung chính
- Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.
- Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
- Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội.
Kinh phí xây dựng luật do Ngân sách nhà nước cấp và huy động hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế (chuyên gia tư vấn, chia sẻ kinh nghiệm, tổ chức hội thảo, toạ đàm).
20. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật
Luật phòng cháy, chữa cháy được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2001, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 04/10/2001. Qua 9 năm triển khai thực hiện, về cơ bản Luật phòng cháy, chữa cháy đã đi vào cuộc sống, phần lớn các quy định của Luật đã được các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và nhân dân thực hiện nghiêm túc. Số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra được kiềm chế, công tác phòng cháy, chữa cháy đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn có một số quy định của Luật chưa phù hợp, một số quy định chưa rõ ràng, khó triển khai thực hiện, điển hình là:
- Các quy định thôn, ấp, bản, tổ dân phố phải có quy định, nội quy về phòng cháy, chữa cháy, về sử dụng điện, sử dụng lửa và các chất dễ cháy, nổ; có giải pháp ngăn cháy; có phương án, phương tiện phòng cháy và chữa cháy; phải thành lập đội dân phòng; phải có phương án chữa cháy do trưởng thôn, trưởng ấp, trưởng bản, tổ trưởng tổ dân phố xây dựng chưa phù hợp với tình hình thực tế. Thực tế trong 9 năm thực hiện Luật phòng cháy, chữa cháy hầu như không có thôn, ấp, bản, tổ dân phố nào triển khai thực hiện được các quy định này.
- Các quy định về nhiệm vụ của lực lượng dân phòng và lực lượng phòng cháy, chữa cháy cơ sở; chế độ, chính sách cho các lực lượng này cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay...
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng cháy, chữa cháy là mang tính cần thiết. Dự án này đã được đưa vào Chương trình chuẩn bị thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2012 (Nghị quyết số 07/2011/QH13) và Chương trình chính thức thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (Nghị quyết số 20/2011/QH13).
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy sửa đổi, bổ sung một số quy định về tổ chức thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy ở thôn, ấp, bản, tổ dân phố; quy định về xây dựng, thực tập phương án chữa cháy; quy định về thành lập, quản lý, chỉ đạo đội dân phòng và đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở; về nhiệm vụ của lực lượng dân phòng và lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở; về trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy đối với thôn, ấp, bản, tổ dân phố, hộ gia đình; về chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy...
Quan điểm xây dựng Luật
Việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng cháy, chữa cháy quán triệt các quan điểm sau:
- Sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của Luật phòng cháy, chữa cháy để bảo đảm các quy định của Luật phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy.
- Phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính; bảo đảm tính khả thi cao và thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật.
Nội dung chính dự kiến sửa đổi, bổ sung
- Sửa đổi, bổ sung quy định về phòng cháy đối với nhà ở và khu dân cư;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về xây dựng, thực tập phương án chữa cháy;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về thành lập, quản lý, chỉ đạo đội dân phòng và đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về nhiệm vụ của lực lượng dân phòng và lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy đối với thôn, ấp, bản, tổ dân phố, hộ gia đình;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy.
Dự báo tác động kinh tế xã hội
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy được ban hành sẽ phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính hiện nay, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với các quy định của các luật có liên quan.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy, chữa cháy sẽ giải quyết một số vấn đề bất cập của Luật hiện hành về: phòng cháy đối với nhà ở và khu dân cư; xây dựng, thực tập phương án chữa cháy; thành lập, quản lý, chỉ đạo đội dân phòng và đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở; nhiệm vụ của lực lượng dân phòng và lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở; trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy đối với thôn, ấp, bản, tổ dân phố, hộ gia đình; sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy để bảo đảm tính khả thi cao, phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy được ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý cho lực lượng Phòng cháy, chữa cháy thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Dự kiến nguồn lực
- Bộ Công an là cơ quan chủ trì xây dựng dự án Luật với sự tham gia của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Văn phòng Chính phủ... và các bộ, ngành có liên quan
- Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy được xây dựng bằng nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
21. Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật
Sự cần thiết ban hành Luật
Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật (BV&KDTV) được Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá X thông qua ngày 25/7/2001 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2002. Sau 8 năm thi hành, Pháp lệnh đã thực sự góp phần quan trọng, tạo cơ sở pháp lý trong việc phòng trừ sâu bệnh, ngăn chặn kịp thời dịch hại, bảo vệ an toàn sản xuất nông nghiệp; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về công tác bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật và quản lý thuốc bảo vệ thực vật; góp phần ổn định và phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của nước ta.
Tuy nhiên, sau 8 năm thực thi Pháp lệnh BV&KDTV đã bộc lộ một số hạn chế là:
a) Một số quy định trong Pháp lệnh chưa phù hợp hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của công tác bảo vệ và kiểm dịch thực vật cụ thể:
- Các quy định về phòng, trừ dịch hại tại chương II của Pháp lệnh: Chưa có các quy định cụ thể về điều kiện công bố dịch hại tài nguyên thực vật, điều kiện công bố hết dịch. Chưa có các quy định cụ thể về điều kiện công bố hết dịch là căn cứ pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố hết dịch. Chưa quy định nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan, UBND các cấp và màng lưới BVTV cơ sở trong việc phòng, chống dịch hại tài nguyên thực vật.
- Các quy định về kiểm dịch thực vật tại chương III của Pháp lệnh: Các khái niệm về kiểm dịch thực vật chưa phù hợp và đúng với các khái niệm của quốc tế như khái niệm dịch hại, dịch hại kiểm dịch thực vật,…Mức độ bảo vệ thích hợp của các biện pháp kiểm dịch thực vật còn thiếu và thấp hơn so với các tiêu chuẩn quốc tế, các quy định trong các văn bản quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Như các biện pháp hành chính, biện pháp kỹ thuật.
- Các quy định về quản lý thuốc BVTV tại chương IV của Pháp lệnh: Các khái niệm về thuốc BVTV chưa phù hợp và đúng với của quốc tế, cần bổ sung thêm một số khái niệm về thuốc BVTV, thuốc hạn chế sử dụng,…Quy định chặt chẽ hơn về điều kiện đăng ký thuốc BVTV; Vấn đề tiêu hủy thuốc BVTV và bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng cũng cần quy định cụ thể và chặt chẽ hơn vì đây là một vấn đề trong thực tế những năm qua thực hiện còn gặp nhiều vướng mắc; Việc dự trữ quốc gia về thuốc BVTV cần cân nhắc bằng tiền hay bằng hiện vật cũng là vấn đề cần làm rõ trong Luật này.
b) Một số quy định của Pháp lệnh chưa đáp ứng được nghĩa vụ, quy định của các hiệp định, hiệp ước quốc tế mà Việt Nam phải thực hiện khi đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
- Các quy định về kiểm dịch thực vật chưa đáp ứng được nghĩa vụ, quy định của Hiệp định về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) và Công ước quốc tế về bảo vệ thực vật (IPPC) mà Việt Nam phải thực hiện như các quy định về phân tích nguy cơ dịch hại, vùng an toàn dịch hại, vấn đề công khai, minh bạch, …
- Các quy định về quản lý thuốc BVTV chưa cụ thể và tuân thủ với các quy định về quản lý thuốc của quốc tế cũng như của các nước trong khu vực Asean mà Việt Nam là thành viên như: điều kiện đăng ký thuốc BVTV, điều kiện đưa các loại thuốc BVTV đã được đăng ký ra khỏi danh mục thuốc, điều kiện sử dụng thuốc BVTV,…
c) Chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính; xã hội hóa cao trong công tác này.
- Quy định về điều kiện của các hoạt động xử lý vật thể, về sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV chưa có nội dung cụ thể, mới chỉ chung chung. Cần phải có những quy định cụ thể và chặt chẽ vì đây đều là những lĩnh vực cần hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
- Pháp lệnh chưa thể hiện rõ hoạt động BVTV cần được xã hội hóa cao, chưa quy định rõ dịch vụ BVTV, điều kiện làm dịch vụ BVTV, cũng như các chính sách hỗ trợ cho các dịch vụ này phát triển.
d) Do hình thức của văn bản là pháp lệnh nên về mặt giá trị pháp lý so với hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế chưa cao.
Trong quá trình thi hành Pháp lệnh BV&KDTV hiện hành, thấy rằng có nhiều quy định của Pháp lệnh cũng như các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành đến nay việc thực hiện đã tương đối ổn định, được thực tế chấp nhận, cần được thể chế hoá nâng lên thành các quy định Luật để có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Ngoài ra hiện nay nhà nước mới ban hành một loại các luật như: Luật hóa chất, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật bảo vệ môi trường, Luật tiêu chuẩn quy chuẩn, Luật an toàn thực phẩm .... do đó các quy định trong Pháp lệnh BV&KDTV cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định của các luật này.
Tóm lại, từ những phân tích nêu trên, Pháp lệnh BV&KDTV cần được nâng lên thành Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật nhằm khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh và các văn bản pháp luật có liên quan cũng như đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát triển của xã hội và hội nhập quốc tế là vô cùng cần thiết.
Những năm qua, Việt Nam đã tích cực hợp tác có trách nhiệm, có hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực BV&KDTV. Việt Nam đã tham gia kí kết và tổ chức thực hiện Hiệp định về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), Công ước quốc tế về bảo vệ thực vật (IPPC), Điều ước quốc tế về quản lý phân phối và sử dụng thuốc BVTV, các Công ước Rotterdam, Công ước Basel, Công ước Stockhom, Nghị định thư Montreal.
Nhìn chung, nội dung của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia đều nhấn mạnh đến các nghĩa vụ pháp lý hoặc khuyến nghị các quốc gia xây dựng các văn bản pháp luật về BV&KDTV. Phù hợp với tinh thần này, các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đã ban hành ra các văn bản pháp luật mới về kiểm dịch thực vật và quản lý thuốc BVTV. Việt Nam cũng đang tham gia các chương trình hài hòa các quy định về kiểm dịch thực vật và quản lý thuốc BVTV với các nước trong khu vực.
Quan điểm chỉ đạo việc soạn thảo luật
- Thể chế hoá chủ trương, đưòng lối, chính sách đổi mới của Đảng về BV&KDTV; phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Bảo đảm phát huy cao nội lực, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực, thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế.
- Kế thừa những quy định còn phù hợp của Pháp lệnh BV&KDTV năm 2001, bổ sung vào Luật những quy định tại các văn bản dưới luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm, bổ sung những quy định mới khác phù hợp với điều kiện phát triển của ngành, bảo đảm tính khả thi và nguồn lực triển khai thực hiện.
- Hoàn thiện Luật BV&KDTV bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và tính khả thi trong hệ thống pháp luật nói chung.
- Nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để vận dụng và đưa vào nội dung của Luật phù hợp với đặc điểm của ngành BV&KDTV Việt Nam. Đưa vào Luật các quy định mà Việt Nam đã cam kết thực hiện trong các hiệp định và hiệp ước quốc tế.
- Luật BV&KDTV sẽ quy định chi tiết hơn so với Pháp lệnh năm 2001, giảm các quy phạm mang tính chất chung chung.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của luật
Phạm vi điều chỉnh: Quy định về phòng, trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật; Quy định về kiểm dịch thực vật; Quy định về quản lý thuốc BVTV; Quy định quản lý nhà nước về bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
Đối tượng áp dụng: Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức cá nhân nước ngoài có hoạt động sản xuất, kinh doanh sử dụng tài nguyên thực vật và các hoạt động khác có liên quan đến bảo vệ và kiểm dịch thực vật trên lãnh thổ Việt Nam.
Quan điểm chỉ đạo và nội dung chính
- Bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực BV&KDTV và nhằm bảo vệ sản xuất nền nông nghiệp. Luật sẽ là cơ sở để bảo đảm việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và nâng cao trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân đối với công tác BV&KDTV.
- Nhà nước có chính sách huy động nguồn lực toàn xã hội để đầu tư cho công tác BV&KDTV. Đầu tư để thực hiện nhiệm vụ BV&KDTV nhằm bảo đảm phát triển sản xuất nông nghiệp hiện đại, bền vững và giữ gìn cân bằng hệ sinh thái.
- Luật quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở, quy định trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn có liên quan đối với việc thực hiện nhiệm vụ BV&KDTV, đồng thời quy định các cơ chế, chính sách cụ thể để bảo đảm hiệu lực của quá trình thực hiện luật và chính sách về đãi ngộ cán bộ làm công tác BV&KDTV.
- Tạo khuôn khổ pháp lý để từng bước hoàn thiện thể chế, hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương. Nâng cao nhận thức cộng đồng, phổ biến kinh nghiệm trong phòng, chống dịch hại tài nguyên thực vật, nhất là ở cấp cơ sở thôn, bản, làng, xã.
- Thực hiện tốt các phương châm của công tác BV&KDTV là một trong những nội dung quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ: chủ động phòng chống, phát hiện, diệt trừ phải kịp thời triệt để, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn, hiệu quả, thực hiện sự giám sát của cộng đồng trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Quy định rõ việc việc phòng chống dịch hại phải hiệu quả nhưng phải an toàn sức khỏe cho người, bảo vệ môi trường và giữ gìn cân bằng hệ sinh thái. Thực hiện việc chuyển trọng tâm sang công tác phòng chống dịch hại thông qua việc khuyến khích đầu tư đào tạo nguồn nhân lực cho công tác quản lý và dự báo; đầu tư trang thiết bị, hệ thống thông tin, cảnh báo, dự báo và tuyền truyền phổ biến pháp luật.
- Bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực BV&KDTV.
Những nội dung chính của luật
Chương 1. Những quy định chung: Quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích thuật ngữ, các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động BV&KDTV, chính sách của nhà nước trong công tác BV&KDTV, vai trò của các hiệp hội BV&KDTV, những hành vi bị cấm trong lĩnh vực này.
Chương 2. Phòng, chống dịch hại tài gnuyên thực vật: Quy định nội dung công tác phòng trừ sinh vật gây hại; quy định về điều kiện công bố dịch và công bố hết dịch, về các biện pháp phòng, chống dịch và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, Ủy ban nhân dân các cấp, tổ chức và cá nhân trong việc phòng chống dịch.
Chương 3. Kiểm dịch thực vật: Nội dung và nguyên tác của công tác kiểm dịch thực vật; Quy định về kiểm dịch thực vật nhập khẩu, xuất khẩu, chuyển khẩu, quá cảnh, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập; Quy định về công tác kiểm dịch thực vật nội địa; Quy định về xử lý vật thể kiểm dịch thực vật; Quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác này.
Chương 4. Quản lý thuốc BVTV: Quy định về đăng ký thuốc BVTV; Quy định về khảo nghiệm thuốc BVTV; Quy định về sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV; Quy định về bảo quản, vận chuyển; Quy định về sử dụng thuốc BVTV trong đó đặc biệt quan tâm đến việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; Quy định về xử lý, về tiêu huỷ thuốc BVTV; Quy định về nhãn thuốc, bao bì, đóng gói thuốc BVTV; Quy định về thông tin, quảng cáo thuốc BVTV.
Chương 5. Hành nghề dịch vụ BV&KDTV: quy định về các loại hình hành nghề BV&KDTV, điều kiện hành nghề, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chưc, cá nhân trong hoạt động hành nghề BV&KDTV.
Chương 6. Thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực BV&KDTV: Thanh tra BV&KDTV là thanh tra chuyên ngành, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật thanh tra, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra và trách nhiệm kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước về BV&KDTV
Chương 7. Quản lý nhà nước về BV&KDTV: Nội dung quản lý nhà nước, trách nhiệm của Chính phủ, của Bộ Nông nghiệp và PTNT, các bộ ngành có liên quan và UBND các cấp trong hoạt động BV&KDTV.
Chương 8. Điều khoản thi hành: Hiệu lực và hướng dẫn thi hành.
Một số nội dung mới dự kiến được quy định trong Luật
So với Pháp lệnh BV&KDTV năm 2001, dự thảo Luật đã bổ sung thêm một số nội dung mới như sau:
a) Chương quy định chung
- Bổ sung thêm một số thuật ngữ cần giải thích (vùng bị dịch uy hiếp, vùng không nhiễm dịch hại, …).
- Bổ sung các nguyên tắc như hoạt động BV&KDTV phải phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bảo đảm sự bình đẳng và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ và kiểm dịch thực vật. Nâng cao kiến thức, kỹ năng cho người sản xuất để thực hiện quản lý dịch hại có hiệu quả, an toàn, …
- Về chính sách: nhà nước bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và con người cho các cơ quan BV&KDTV, chính sách đối với cán bộ màng lưới BVTV, đầu tư xây dựng cơ sở thu gom, tiêu hủy bao bì thuốc BVTV đã qua sử dụng, hỗ trợ kinh phí tập huấn cho người sử dụng thuốc BVTV.
- Quy định trách nhiệm của các hiệp hội tham gia công tác BV&KDTV.
b) Chương phòng, trừ dịch hại tài nguyên thực vật: Quy định về điều kiện công bố dịch một cách cụ thể hơn, có trình tự thực hiện công bố dịch và chống dịch. Quy định về vùng bị dịch uy hiếp. Quy định điều kiện công bố hết dịch. Kinh phí hỗ trợ chống dịch.
c) Chương kiểm dịch thực vật: Cụ thể hơn điều kiện KDTV đối với vật thể nhập khẩu, xuất khẩu như: nhập khẩu phải có giấy phép KDTV, xuất khẩu đều phải kiểm dịch. Quy định về phân tích nguy cơ dịch hại. Kiểm dịch thực vật nội địa. Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu. Vấn đề công bố dịch trong lĩnh vực KDTV.
d) Về quản lý thuốc BVTV: Quy định các nội dung về quản lý thuốc BVTV đầy đủ các khâu từ đăng ký đến sử dụng, tiêu hủy. Quy định căn cứ đăng ký thuốc, thời hạn đăng ký, gia hạn đăng ký. Quy định về khảo nghiệm thuốc BVTV trong đó quy định rõ chỉ được khảo nghiệm thuốc BVTV khi có Giấy phép khảo nghiệm do cơ quan có thẩm quyền cấp. Quy định chặt chẽ hơn về việc sử dụng thuốc, trong đó quy định người sử dụng thuốc BVTV hạn chế sử dụng phải được tập huấn và cấp giấy chứng nhận. Quy định cụ thể hơn việc vận chuyển thuốc BVTV. Mục đích, hình thức, sử dụng dự trữ quốc gia về thuốc BVTV.
đ) Về hành nghề BV&KDTV: Quy định rõ các loại hình hành nghề BV&KDTV (gồm 6 loại), đây có các loại hình hành nghề có điều kiện, trong đó có một số nghề còn phải hạn chế kinh doanh. Quy định rõ việc quản lý hành nghề BV&KDTV.
đ) Về quản lý nhà nước: Quy định Chính phủ sẽ quy định hệ thống các cơ quan BV&KDTV ở trung ương và địa phương, trong đó các các quy định cụ thể về màng lưới BVTV cơ sở. Trách nhiệm của UBND: Quy định cụ thể trách nhiệm của UBND tỉnh, huyện xã và trách nhiệm của màng lưới BVTV cơ sở.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Cơ quan phối hợp soạn thảo: Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Tư pháp, Tài Nguyên và Môi trường, Y tế, Công thương, Tài chính và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình soạn thảo Dự án Luật.
Sử dụng nguồn nhân lực của Bộ Nông nghiệp &PTNT (chủ yếu là cán bộ của Cục Bảo vệ thực vật).
Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp theo các quy định hiện hành. Kết hợp sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ của FAO và các tổ chức nước ngoài khác (nếu có).
22. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật
Luật công chứng đã được kỳ họp thứ X Quốc họp khóa XI thông qua ngày 22/11/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007. Sau hơn ba năm thi hành, Luật công chứng đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đã khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là đúng đắn, tạo điều kiện cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của hoạt động công chứng khu vực và thế giới, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài. Việc tách bạch công chứng và chứng thực đã tạo điều kiện cho các công chứng viên tập trung thực hiện tốt việc công chứng hợp đồng, giao dịch, nâng cao giá trị và tính chuyên nghiệp của hoạt động công chứng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Luật công chứng cũng còn một số khó khăn, hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, sự phát triển tổ chức hành nghề công chứng chưa có quy hoạch tổng thể, hợp lý trên cả nước và trên từng địa phương. Sau hơn ba năm triển khai Luật công chứng, chủ trương xã hội hoá công chứng được triển khai chưa đồng bộ và hợp lý tại các địa phương trong cả nước. Mới chỉ có trên ½ địa phương trên cả nước có Văn phòng công chứng theo mô hình xã hội hóa. Hiện có tình trạng trái ngược trong phát triển các tổ chức hành nghề công chứng, có địa phương cho phép thành lập các Văn phòng công chứng một cách tràn lan, phân bố không hợp lý. Có địa phương lại không phát triển Văn phòng công chứng. Nhiều địa phương chưa xây dựng Đề án quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng, chất lượng một số Đề án đã phê duyệt còn thấp. Nhìn chung, nhận thức về xã hội hóa công chứng gắn với quản lý việc thành lập, phát triển tổ chức hành nghề công chứng theo quy hoạch ở nhiều địa phương còn nhiều bất cập. Việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng một cách tràn lan tại một số địa phương trong thời gian qua thực sự chưa hợp lý và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Văn phòng công chứng thành lập theo Luật công chứng là một loại hình mới ở nước ta nên có rất nhiều khó khăn nhưng chưa có chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế để khuyến khích các Văn phòng công chứng có điều kiện phục vụ người dân tốt hơn, chưa khuyến khích được việc phát triển các Văn phòng công chứng ở các địa bàn khó khăn.
Thứ hai, chất lượng và số lượng đội ngũ công chứng viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Việc đào tạo, bổ nhiệm công chứng viên còn thiếu tính quy hoạch. Chất lượng đội ngũ công chứng viên còn hạn chế. Do đội ngũ công chứng viên còn mỏng trước yêu cầu xã hội hóa công chứng, nên Luật công chứng năm 2006 quy định đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn thời gian tập sự hành nghề công chứng có phần dễ dãi, do đó, chất lượng một bộ phận công chứng viên tại các Văn phòng công chứng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là những người không qua đào tạo, tập sự nghề công chứng dẫn đến sự non kém hoặc tắc trách về chuyên môn nghiệp vụ mà sự việc vừa xảy ra tại Văn phòng công chứng Việt Tín ở Hà Nội đang được điều tra làm rõ là một ví dụ. Việc tạo nguồn để bổ nhiệm công chứng viên còn rất hạn chế, đặc biệt là các Phòng công chứng; đào tạo công chứng viên còn chưa đạt quy mô cần thiết; bồi dưỡng đối với công chứng viên đã được bổ nhiệm cũng chưa được thực hiện thường xuyên.
Thứ ba, hoạt động quản lý Nhà nước về công chứng còn nhiều hạn chế. Thời gian đầu khi Luật công chứng có hiệu lực thi hành, các địa phương còn thụ động, lúng túng trong công tác triển khai thực hiện Luật công chứng. Hoạt động quản lý Nhà nước đối với công tác này ở nhiều địa phương còn thiếu sâu sát. Sự phát triển tổ chức hành nghề công chứng nhất là Văn phòng công chứng chưa đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, hướng dẫn hoạt động đã dẫn đến việc phát sinh những hiện tượng tiêu cực, cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng không được chỉnh đốn kịp thời; cơ sở dữ liệu thông tin chung về công chứng, nhất là các thông tin ngăn chặn các giao dịch về bất động sản chưa được triển khai xây dựng ở hầu hết các địa phương nên hoạt động công chứng còn tiềm ẩn rủi ro đối với xã hội, đối với công chứng viên.
Nhận thức về chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; về bản chất của hoạt động công chứng; về chủ trương tách bạch giữa công chứng và chứng thực của một bộ phận cơ quan, cán bộ quản lý Nhà nước về công chứng còn chưa đầy đủ, ví dụ: một số Ngân hàng không chấp nhận các văn bản đã công chứng tại Văn phòng công chứng hoặc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất từ chối đăng ký hợp đồng đã công chứng tại Văn phòng công chứng hoặc từ chối cung cấp thông tin địa chính mà Văn phòng công chứng cần cung cấp; hoặc UBND cấp xã không phối hợp với Văn phòng công chứng trong việc niêm yết văn bản liên quan đến việc công chứng các giao dịch về thừa kế; cá biệt có địa phương cho việc “ từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng...” là trái với Luật đất đai, Luật nhà ở hoặc không cần thiết quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng khi tiến hành xã hội hóa hoạt động công chứng... Công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt pháp luật về công chứng ở nhiều nơi còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu.
Thứ tư, hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng còn bất cập, chưa đồng bộ dẫn đến những khó khăn trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ công chứng: các quy định liên quan đến công chứng trong Luật đất đai, Luật nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành có điểm chưa đồng bộ với Luật công chứng như chưa được sửa đổi, bổ sung như các quy định liên quan đến cụm từ “công chứng nhà nước”; thẩm quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã; thẩm quyền xác nhận hợp đồng, giao dịch của Ban Quản lý khu công nghiệp, chưa tạo được cơ chế liên thông giữa tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan thuế, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm khi thực hiện các thủ tục hành chính đối với các giao dịch về bất động sản.
Bên cạnh đó, một số quy định của Luật công chứng vẫn còn chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện kịp thời hoặc Luật công chứng còn chưa dự liệu hết một số vấn đề hiện đang phát sinh trong thực tiễn thi hành như việc chuyển đổi Văn phòng công chứng một công chứng viên sang loại hình Văn phòng công chứng từ hai công chứng viên trở lên hoặc ngược lại... tiếng nói và chữ viết trong công chứng nếu người yêu cầu công chứng là người nước ngoài; về khiếu nại, tố cáo trong hoạt động công chứng; thiếu các quy định về thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch như công chứng các giao dịch về ủy quyền, thừa kế, thế chấp tài sản hình thành trong tương lai; quy định về nơi hành nghề công chứng và bảo hiểm trách nhiệm nghề công chứng còn chung chung; quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên trong Luật công chứng còn đơn giản, dễ dãi…
Thực hiện Công văn số 6551/VPCP-PL ngày 16/9/2010 của Văn phòng Chính phủ về việc sơ kết 2 năm thực hiện Luật công chứng và Nghị định số 79/2010/NĐ-CP, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến việc sửa đổi Luật công chứng cần quán triệt các quy định tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 2/6/2010 của Chính phủ về đơn giản hóa 258 thủ tục hành chính thuộc phạm vi, chức năng quản lý nhà nước của bộ, ngành. Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc triển khai xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật công chứng là hết sức cần thiết nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trên, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề công chứng ở Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời góp phần hoàn thiện một bước pháp luật về tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và những năm tiếp theo.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng quy định về tiêu chuẩn công chứng viên, đào tạo nghề, miễn tập sự hành nghề và quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng cần phải quán triệt những quan điểm chỉ đạo và đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm về cải cách tư pháp đã được xác định trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
Bảo đảm tính hợp pháp, hợp hiến; tính thống nhất của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật công chứng với hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật công chứng;
Kế thừa, trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của Luật công chứng hiện hành, các văn bản pháp luật có liên quan và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế;
Nội dung chính
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật công chứng được soạn thảo theo hướng dự kiến tập trung vào sửa đổi, bổ sung một số vấn đề sau đây:
Về công chứng viên: sửa đổi quy định về tiêu chuẩn công chứng viên (độ tuổi hành nghề công chứng…); người được miễn đào tạo nghề công chứng; người được miễn tập sự hành nghề công chứng; thủ tục bổ nhiệm công chứng viên; vấn đề công chứng viên đang hành nghề công chứng phải tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; quyền và nghĩa vụ của công chứng viên…;
Về tổ chức hành nghề công chứng: quy định loại hình hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng, số lượng công chứng viên tối thiểu cho việc thành lập một Văn phòng công chứng, việc chuyển đổi, sáp nhập, hợp nhất Văn phòng công chứng, thủ tục chấm dứt hoạt động Văn phòng công chứng khi công chứng viên bị chết, vấn đề thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng khi Văn phòng công chứng vi phạm pháp luật; trình tự thủ tục thành lập và đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng phải tuân theo Quy hoạch tổng thể phát triển các tổ chức hành nghề công chứng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; vấn đề công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng cho các Văn phòng công chứng…;
Thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động công chứng quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về công chứng; vấn đề xây dựng cơ sở dữ liệu và cung cấp thông tin về hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản đã được công chứng; vấn đề liên quan đến khen thưởng, xử lý vi phạm, giải quyết, khiếu nại tố cáo trong hoạt động công chứng…;
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Kinh phí xây dựng và triển khai Dự án Luật được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước.
23. Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
Sự cần thiết ban hành văn bản
Ngày 28/4/2000, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, việc ban hành Pháp lệnh trên đã góp phần từng bước hoàn thiện pháp luật về công tác quản lý xuất, nhập cảnh, đáp ứng yêu cầu đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, với việc Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), việc đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam để hợp tác, đầu tư, buôn bán, du lịch là yêu cầu mang tính cấp thiết.
Do nội dung một số điều của Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 không còn phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước và nhất là không còn phù hợp với một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định đó và đưa vào hình thức văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn là luật. Quốc hội đã đưa dự án Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007-2011) (Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc hội); tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII, dự án Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam tiếp tục được đưa vào Chương trình chính thức thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII (Nghị quyết số 20/2011/QH13)
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của văn bản
- Phạm vi điều chỉnh: Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam điều chỉnh những hành vi nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
- Đối tượng điều chỉnh là người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam.
Quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản
Quan điểm chỉ đạo
- Thể chế hoá đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
- Tổng kết về việc thực hiện công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài ở nước ta trong những năm qua, kế thừa những kinh nghiệm của thực tiễn công tác này, bổ sung những quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
- Bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các bộ luật, luật và pháp lệnh khác có liên quan.
- Đơn giản hoá thủ tục nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam để đầu tư, du lịch…; đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài của các cơ quan chức năng.
Nội dung chính
- Quy định rõ điều kiện được nhập cảnh, xuất cảnh, điều kiện chưa được nhập cảnh và bị tạm hoãn xuất cảnh Việt Nam đối với người nước ngoài.
- Quy định điều kiện được cư trú tại Việt Nam của người nước ngoài, trong đó quy định rõ đối với từng loại tạm trú, thuờng trú, đồng thời quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ đối với từng loại.
- Quy định quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc mời, đón, làm việc với người nước ngoài.
- Quy định quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh, nội dung quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, như: Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông vận tải, Văn phòng Chính phủ...
- Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
24. Luật xây dựng (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi
Luật xây dựng được ban hành năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2004. Sau khi Luật được ban hành, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, các Bộ liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn; đồng thời Bộ Xây dựng và các địa phương đã tuyên truyền, phổ biến, tập huấn thực hiện các quy định của Luật xây dựng. Nhìn chung những năm qua các quy định của pháp luật về xây dựng đã đi vào cuộc sống; đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân kể cả trong nước và nước ngoài đầu tư xây dựng cũng như hoạt động xây dựng tại Việt Nam. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng đã được tăng cường, bước đầu tư đã đi vào nề nếp; ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể đã được nâng cao; tốc độ đầu tư đã được đẩy mạnh; trật tự xây dựng đã được chấn chỉnh. Tuy nhiên, thực tế cũng còn những bất cập dẫn đến vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án, làm chậm tiến độ, bỏ lỡ cơ hội đầu tư; việc quy định trách nhiệm của các chủ thể chưa rõ ràng, chưa có các chế tài đủ mạnh, nên tình trạng vi phạm xây dựng vẫn còn diễn ra, nhưng chưa có đủ các căn cứ để xử lý. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tồn tại này là hệ thống pháp luật điều chỉnh những vấn đề về đầu tư xây dựng chưa được thống nhất, chưa được điều chỉnh kịp thời.
Mặt khác, sau khi Luật xây dựng có hiệu lực, nhiều Luật khác cũng được ban hành như: Luật đầu tư 2005, Luật đấu thầu 2005, Luật nhà ở năm 2005; Luật kinh doanh bất động sản năm 2006; Luật quy hoạch đô thị năm 2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009. Một số nội dung đã được quy định tại Luật xây dựng nhưng vẫn đề cập ở các Luật nêu trên, có quy định thì thống nhất, nhưng cũng có một số quy định còn chưa thống nhất với nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau, hoặc cũng có những nội dung cần bãi bỏ, cụ thể:
Về vấn đề quy hoạch xây dựng: được quy định tại Luật xây dựng, bao gồm ba loại quy hoạch: quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn. Luật quy hoạch đô thị ban hành năm 2009 đề cập đến những nội dung quy hoạch trong đô thị, quy định cụ thể và chi tiết hơn đối với công tác lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý các đồ án quy hoạch đô thị. Như vậy, những nội dung liên quan đến quy hoạch đô thị đã được đề cập trong Chương II Luật xây dựng cần phải bãi bỏ. Mặt khác, những quy định về quy hoạch xây dựng vùng và quy hoạch xây dựng các điểm dân cư nông thôn cũng cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cụ thể và chi tiết hơn cho thống nhất với những quy định của quy hoạch đô thị được quy định trong Luật quy hoạch đô thị nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện.
Về dự án đầu tư xây dựng công trình: Theo quy định tại Chương III Luật xây dựng, đối với công trình quy mô lớn yêu cầu phải lập Báo cáo đầu tư xây dựng công trình để trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư; Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia không phân biệt nguồn vốn. Tuy nhiên, theo Nghị quyết 49/2009/NQ-QH12 quy định cụ thể đối với dự án quan trọng quốc gia mới phải trình Quốc hội thông qua chủ trương; đồng thời Thủ tướng Chính phủ chỉ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia có sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên. Do vậy, để đảm bảo thống nhất giữa các văn bản cần phải sửa đổi, bổ sung lại các quy định này.
- Về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình: vấn đề quản lý chi phí đầu tư xây dựng các dự án sử dụng vốn nhà nước quy định trong Luật xây dựng đã được điều chỉnh tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, cần đưa vào Luật sửa đổi, bổ sung lần này để áp dụng thống nhất; đồng thời cần nghiên cứu bổ sung một số nội dung chi tiết hơn về vấn đề này.
- Về các trường hợp điều chỉnh dự án đã được quy định tại Luật xây dựng và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2009. Các quy định này mới chỉ đề cập đến thẩm quyền của người quyết định đầu tư; tuy nhiên có những nội dung khi điều chỉnh dự án liên quan đến phạm vi quản lý nhà nước của nhiều lĩnh vực thì cần phải có ý kiến chấp thuận của các cơ quan quản lý nhà nước về những lĩnh vực này; song chưa được đề cập trong Luật. Mặt khác, việc quy định khi điều chỉnh dự án không làm thay đổi hoặc vượt qúa các chỉ tiêu trong quyết định đầu tư thì chủ đầu tư được quyền tự điều chỉnh là chưa đi vào thực tế, quy định này chỉ đúng với dự án không sử dụng vốn nhà nước, khi người quyết định đầu tư và chủ đầu tư là một. Song, thực tế cho thấy, đối với dự án sử dụng vốn nhà nước thì quy định này không thực thi, vì bất kể nội dung nào đã được phê duyệt thì chỉ được điều chỉnh khi người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép; hơn nữa các nội dung điều chỉnh phải thể hiện bằng quyết định phê duyệt điều chỉnh. Do vậy, vấn đề này cũng phải được quy định rõ hơn, tránh tình trạng mỗi nơi thực hiện một khác, không rõ trách nhiệm, mất thời gian trong quá trình xử lý vấn đề này.
Về vấn đề khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng (quy định tại Chương III: Việc quy định thiết kế có 3 bước, phụ thuộc vào cấp công trình là chưa đầy đủ và không phù hợp với thông lệ quốc tế, cho nên trong quá trình thực hiện chưa thống nhất; đặc biệt là các dự án sử dụng vốn đầu tư nước ngoài và dự án do nhà thầu nước ngoài thiết kế đã gặp vướng mắc trong công tác thẩm định và quản lý nhà nước.
- Việc bãi bỏ yêu cầu thẩm định chuyển sang tham gia ý kiến về thiết kế cơ sở của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng khi cần thiết tại Luật số 38/2009/QH12 là đã buông lỏng công tác tiền kiểm của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng trong giai đoạn hình thành dự án. Mặc dù đã có quy định việc quản lý nhà nước được thông qua công tác cấp phép xây dựng, nhưng nếu không được góp ý, định hướng cho dự án từ giai đoạn đầu sẽ dẫn tới dự án được phê duyệt không đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, khi đó chủ đầu tư phải chỉnh sửa lại dự án sẽ ảnh hưởng tới tiến độ và tốn kém thêm chi phí. Do vậy, cần quy định cụ thể thiết kế cơ sở phải được cơ quan quản lý nhà nước thẩm định hoặc bãi bỏ, không nên quy định cần thiết thì lấy ý kiến, pháp luật quy định như vậy không chặt chẽ và khi thực hiện sẽ tùy tiện, không thống nhất.
- Về thi tuyển thiết kế kiến trúc: mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật số 38/2009/QH12, theo đó việc thi tuyển hay tuyển chọn thiết kế kiến trúc do người quyết định đầu tư quyết định, dẫn tới thực hiện không thống nhất, khó kiểm soát. Do vậy, cần quy định một số loại công trình bắt buộc phải tổ chức thi tuyển thiết kế kiến trúc, còn những công trình còn lại là do người quyết định đầu tư quyết định.
- Việc quy định nhà thầu thiết kế xây dựng không được chỉ định nhà sản xuất vật liệu, vật tư và thiết bị xây dựng công trình (điều 58) cần phải xem xét lại cho phù hợp, theo phản ánh của các nhà đầu tư, quy định này đã gây khó khăn cho việc xác định tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng; đặc biệt đối với dự án không sử dụng vốn nhà nước thì quy định này càng không phù hợp. Do đó, cần nghiên cứu điều chỉnh lại quy định này cho phù hợp với quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng theo cơ chế thị trường đã được quy định tại Luật số 38/2009/QH12.
- Việc quy định về thẩm định thiết kế cơ sở, sự tuân thủ của thiết kế bước sau so với thiết kế bước trước (điều 59, điều 60) là cứng nhắc, gây vướng mắc cho chủ đầu tư khi triển khai thiết kế bước sau, vì nội dung của thiết kế bước sau có thể điều chỉnh khác so với thiết kế bước trước nhưng không làm ảnh hưởng tới các nội dung thuộc phạm vi quản lý của nhà nước thì vẫn có thể chấp nhận được. Do vậy, nội dung này cần xem xét để điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.
Về Xây dựng công trình (quy định tại Chương IV): Các đối tượng được miễn giấy phép xây dựng được quy định tại Luật xây dựng (điều 62) chiếm phạm vi rộng, vì theo quy định của Luật xây dựng, các dự án chỉ được phê duyệt khi thiết kế cơ sở đã được cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng thẩm định. Tuy nhiên, theo quy định của Luật 38/2009/QH12, cơ quan quản lý nhà nước không thẩm định thiết kế cơ sở nữa, nên việc quản lý xây dựng ở các địa phương gặp nhiều khó khăn, tình trạng xây dựng không tuân thủ quy hoạch xây dựng, việc đấu nối hạ tầng kỹ thuật đối với các công trình được miễn giấy phép xây dựng không kiểm soát được.
- Điều kiện để được cấp giấy phép xây dựng quy định tại Luật xây dựng (điều 65) quy định rất chặt chẽ. Tuy nhiên, hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng lại rất đơn giản, không đủ tài liệu để xem xét việc đáp ứng các điều kiện của công trình xây dựng theo yêu cầu, nên trong thực tế cơ quan cấp phép đã yêu cầu chủ đầu tư cung cấp thêm các bản vẽ, tài liệu để xem xét hoặc nếu không yêu cầu cung cấp thêm thì việc xem xét hồ sơ không đảm bảo chất lượng, không đáp ứng các điều kiện theo quy định. Vì thế việc thực hiện không thống nhất, gây vướng mắc cho chủ đầu tư, khó khăn cho cơ quan cấp phép xây dựng và quản lý xây dựng.
- Những vấn đề khác liên quan đến công tác cấp giấy phép xây dựng, như nội dung giấy phép xây dựng, thẩm quyền cấp giấy phép, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân cấp giấy phép, những quy định về quản lý xây dựng theo giấy phép xây dựng và đối với công trình được miễn giấy phép xây dựng, việc xử lý đối với công trình chưa có trong quy hoạch xây dựng khi thực hiện cấp phép,... cần được xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế và thống nhất với các Luật Quy hoạch đô thị, Luật Nhà ở, những nội dung khi Luật xây dựng được sửa đổi, bổ sung và một số Luật khác có liên quan.
- Về vấn đề an toàn lao động, vệ sinh môi trường mặc dù đã được quy định trong Luật xây dựng (điều 78,79), tuy nhiên mới chỉ nêu ra các nguyên tắc chung, chưa cụ thể. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong thi công xây dựng có những đặc thù khác với mối quan hệ giữa các chủ thể trong các cơ sở sản xuất, là ngoài mối quan hệ giữa người sử dụng lao động với người lao động còn có mối quan hệ với chủ đầu tư, tư vấn giám sát; đồng thời do tính đặc thù của công trường xây dựng thay đổi thường xuyên, mỗi công trình xây dựng có tính chất khác nhau, công nghệ thay đổi,...do vậy việc hướng dẫn và quản lý về an toàn có những nội dung khác với các quy định của pháp luật về lao động. Do đó, cần có những quy định cụ thể hơn, đặc biệt là trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong thi công xây dựng, để làm cơ sở cho việc hướng dẫn thực hiện khi ban hành Nghị định.
- Về quản lý chất lượng công trình xây dựng cần phải quy định chặt chẽ hơn, không những chỉ đối với công trình sử dụng vốn nhà nước mà cả đối với những công trình sử dụng các nguồn vốn khác. Thực tế cho thấy, thời gian qua nhiều công trình tư nhân xây dựng, đặc biệt là nhà ở riêng lẻ chưa được quản lý chặt chẽ dẫn đến chất lượng không đảm bảo gây ra sự cố, không những cho công trình đó mà còn ảnh hưởng đến các công trình lân cận, đến cộng đồng, nhưng cũng chưa có những quy định về trách nhiệm, về chế tài,...nên khó khăn trong công tác quản lý và xử lý khi xảy ra sự cố.
- Về điều kiện năng lực hoạt động xây dựng mặc dù đã được quy định trong Luật xây dựng, nhưng mới chỉ đưa ra các quy định chung. Mặt khác, sau khi Luật xây dựng ban hành, Việt Nam đã ký các Hiệp định tại WTO (năm 2007), Hiệp định công nhận lẫn nhau về dịch vụ tư vấn kỹ thuật (năm 2005) và dịch vụ kiến trúc (năm 2008) trong ASEAN. Theo quy định của các Hiệp định này có nhiều nội dung của Luật xây dựng cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, như các tiêu chuẩn để được cấp chứng chỉ hành nghề, thời gian có hiệu lực của chứng chỉ hành nghề, các quy định về phát triển nghề nghiệp liên tục; việc đăng ký và đánh giá năng lực nhà thầu (hiện nay JICA đang giúp Bộ Xây dựng nghiên cứu vấn đề này), việc quản lý nhà thầu nước ngoài hoạt động xây dựng tại Việt Nam và một số nội dung khác về vấn đề này cần được nghiên cứu để chỉnh sửa cho phù hợp với các Hiệp định đã ký kết, với thông lệ quốc tế và yêu cầu của thực tiễn.
Vấn đề về lựa chọn nhà thầu và hợp đồng trong hoạt động xây dựng (quy định tại Chương VI): Những nội dung về lựa chọn nhà thầu và hợp đồng trong hoạt động xây dựng đã được đề cập trong Luật xây dựng. Tuy nhiên, khi ban hành Luật đấu thầu, kể cả Luật sửa đổi, bổ sung số 38/2009/QH12 đã quy định nhiều nội dung mà Luật xây dựng đã quy định, trong đó có những nội dung không thống nhất giữa các Luật, chồng chéo, mâu thuẫn. Do đó, cần rà soát để loại bỏ những nội dung đã được quy định trong Luật đấu thầu; đồng thời sửa đổi, bổ sung những nội dung có tính đặc thù của hoạt động xây dựng trong Luật xây dựng.
Ngoài những vấn đề chủ yếu nêu trên, còn những vấn đề liên quan đến các Luật khác, như Luật phòng cháy chữa cháy, Luật bảo vệ môi trường, Luật đất đai, các Luật quy định về hành lang an toàn lưới điện, giao thông, độ tĩnh không,... Đặc biệt là những vấn đề liên quan đến Chương trình cải cách hành hành chính của Đảng và Nhà nước cần phải được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung trong Luật xây dựng.
Với những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật xây dựng là hết sức cần thiết để quy định các vấn đề về đầu tư xây dựng cơ bản thống nhất giữa các Luật; phù hợp với thông lệ quốc tế, với các Hiệp định mà Việt Nam đã ký kết; thực hiện chương trình cải cách hành chính nhằm tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhõn đầu tư xây dựng, hoạt động xây dựng; đồng thời tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng và hoạt động xây dựng.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh: quy định về hoạt động xây dựng; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng công trình và hoạt động xây dựng.
Đối tượng áp dụng: các tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng và hoạt động xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với Luật Này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
- Đảm bảo tính thống nhất những vấn đề đầu tư xây dựng và hoạt động xây dựng trong hệ thống pháp luật;
- Phù hợp với thông lệ quốc tế và các Hiệp định mà Việt Nam đã ký kết;
- Đẩy mạnh phân cấp đi đôi với quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, của các chủ thể tham gia đầu tư và hoạt động xây dựng;
- Tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng;
- Việc xây dựng Luật phải được đặt trong Chương trình cải cách hành chính của Nhà nước.
Nội dung chính
- Điều chỉnh lại toàn bộ Chương II - Quy hoạch xây dựng;
- Sửa đổi, bổ sung các nội dung tại Chương III - Dự án đầu tư xây dựng công trình, bao gồm: điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, quản lý chi phí đầu tư xây dựng, hình thức quản lý dự án, thi tuyển thiết kế kiến trúc, thẩm định thiết kế cơ sở, các bước thiết kế; Giấy phép xây dựng: đối tượng được miễn giấy phép xây dựng, hồ sơ xin giấy phép xây dựng, nội dung giấy phép xây dựng, thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng. Quản lý chất lượng công trình xây dựng; an toàn lao động, vệ sinh môi trường;
- Sửa đổi, bổ sung toàn bộ Chương VI - Lựa chọn nhà thầu và hợp đồng trong hoạt động xây dựng.
- Sửa đổi, bổ sung những nội dung khác, như giải phóng mặt bằng xây dựng, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm,...
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Bộ Xây dựng là cơ quan chủ trì soạn thảo.
Cơ quan phối hợp: Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và một số Bộ, ngành có liên quan.
Kinh phí thực hiện: Kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí hỗ trợ từ nguồn sự nghiệp kinh tế của Bộ Xây dựng.
25. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giao thông đường thủy nội địa
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Luật giao thông đường thuỷ nội địa được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005. Luật Giao thông ĐTNĐ ra đời đã tạo lập khuôn khổ pháp lý cao nhất trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ nội địa và trở thành cương lĩnh, chuẩn mực để các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, chính quyền địa phương tổ chức sắp xếp bộ máy quản lý, tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đường thuỷ nội địa, đưa hoạt động giao thông đường thuỷ nội địa đi vào an toàn, ổn định và phát triển bền vững; là cẩm nang để các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên đường thuỷ nội địa nghiên cứu, đối chiếu áp dụng trong định hướng đầu tư, sản xuất kinh doanh theo đúng quy định của Luật nhằm bảo đảm an toàn, hiệu quả và đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đất nước. Sau 5 năm triển khai thực hiện Luật giao thông ĐTNĐ, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý và hoạt động giao thông đường thuỷ nội địa đang có nhiều diễn biến phức tạp, có nhiều yếu tố mới phát sinh, trong quá trình triển khai thực hiện còn bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, tồn tại, hạn chế, cụ thể là:
- Các vấn đề phát sinh trong thực tế chưa được Luật giao thông ĐTNĐ điều chỉnh, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động giao thông ĐTNĐ và gây khó khăn cho việc quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như “quy định cứu hộ, cứu nạn; quy định phòng chống bão, lũ; trục vớt tài sản chìm đắm; hợp đồng bảo hiểm ĐTNĐ; hợp đồng thuê tàu; hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hành khách; điều tra tai nạn; an ninh ĐTNĐ; phòng ngừa ô nhiễm môi trường trên ĐTNĐ; giải quyết khiếu nại, tranh chấp trong hoạt động ĐTNĐ”.
Một số các quy định của Luật giao thông ĐTNĐ chưa phù hợp với thực tiễn quản lý và hoạt động gây khó khăn, vướng mắc, bất cập trong việc triển khai thi hành Luật như: Luật giao thông ĐTNĐ chưa làm rõ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị quản lý về tuyến luồng đường thuỷ nội địa.
- Quy định về luồng đường thuỷ nội địa như hiện nay đang gây ra một số bất cập vì luồng ĐTNĐ là kết cấu mềm, không phải kết cấu cứng như đường bộ, đường sắt nên sẽ bị tác động ảnh hưởng của dòng chảy, phù sa, lưu lượng nước làm thay đổi dẫn đến hành lang luồng ĐTNĐ cũng thay đổi theo. Điều này gây khó khăn cho công tác giữ gìn, bảo đảm trật tự an toàn giao thông của luồng và hành lang luồng. Mặt khác, đối với luồng đường thuỷ nội địa chạy ven biển hoặc từ bờ ra đảo theo quy định hiện nay rất khó triển khai thực hiện cho phương tiện hoạt động an toàn.
- Quy định về phương tiện: điều chỉnh lại điều kiện an toàn hoạt động từng loại phương tiện cho phù hợp diễn biến thực tiễn, vì hiện nay công tác đăng ký phương tiện mới đạt 28% so với tổng số phương tiện hiện có trên toàn quốc. Ngoài ra, để tăng cường công tác bảo đảm hoạt động của phương tiện cần bổ sung thêm quy định đối với tiêu chuẩn kỹ thuật phương tiện, cơ sở đóng mới phương tiện, phương tiện nhập khẩu, thời gian lưu hành hoạt động phương tiện kể từ khi đóng mới.
- Quy định về thuyền viên: đổi tên bằng Thuyền trưởng, Máy trưởng thành Giấy phép hoặc Giấy chứng nhận; điều chỉnh việc đảm nhiệm chức danh thuyền, máy trưởng đối với từng loại phương tiện (tấn trọng tải, công suất máy, số lượng hành khách) cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Đặc biệt là chức danh Thuyền trưởng Hạng 3 hạn chế và tiêu chuẩn về độ tuổi đối với Thuyền trưởng phương tiện chở khách.
- Quy tắc giao thông và tín hiệu của phương tiện: quy định nguyên tắc chung và đưa các quy định cụ thể tại văn bản hướng dẫn Luật.
- Cảng vụ ĐTNĐ: bổ sung thêm phạm vi quản lý và chức năng, nhiệm vụ của Cảng vụ ĐTNĐ.
- Thanh tra giao thông ĐTNĐ: sửa đổi cho phù hợp với quy định của Luật thanh tra.
Với những phát sinh mới trong thực tiễn quản lý hoạt động giao thông ĐTNĐ và những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện các quy định của Luật. Trong thời gian tới, Luật giao thông ĐTNĐ cần được sửa đổi, bổ sung nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao thông ĐTNĐ, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đề ra và đi vào ổn định, phát triển bền vững; tăng cường quản lý, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền bảo đảm giao thông ĐTNĐ hoạt động có tổ chức, an toàn hiệu quả, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia hoạt động trên ĐTNĐ.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn bao gồm lĩnh vực: luồng đường thuỷ nội địa; cứu hộ, cứu nạn; hợp đồng thuê tàu, hợp đồng bảo hiểm; phòng chống bão lũ, trục vớt tài sản chìm đắm, phòng ngừa ô nhiễm môi trường và giải quyết tranh chấp trên ĐTNĐ.
Đối tượng áp dụng: bổ sung vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ quản lý đường thuỷ nội địa, bổ sung chức năng nhiệm vụ cho Cảng vụ ĐTNĐ, bổ sung các điều kiện bảo đảm an toàn hoạt động và trách nhiệm của chủ tàu, thuyền viên, người lái phương tiện, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động vận tải trên ĐTNĐ.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
- Luật sửa đổi, bổ sung Luật giao thông ĐTNĐ tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực hiện Luật, đưa công tác quản lý nhà nước và hoạt động giao thông ĐTNĐ đáp ứng nhu cầu thực tiễn trước mắt và lâu dài.
- Luật sửa đổi, bổ sung Luật giao thông ĐTNĐ bảo đảm phù hợp với các quy định pháp luật liên quan và các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia ký kết.
- Tạo ra nhiều cơ chế chính sách, hành lang pháp lý rộng hơn, rõ ràng và minh bạch hơn để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, kinh doanh sản xuất trên ĐTNĐ.
- Giải quyết vấn đề còn chồng chéo, xung đột pháp luật trong trách nhiệm, phạm vi quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước và hoạt động của các tổ chức, cá nhân trên ĐTNĐ.
Nội dung chính
Bổ sung một số nội dung mới sau: Cứu hộ, cứu nạn, nghĩa vụ của người cứu hộ, chủ tàu và thuyền trưởng, quyền hưởng thù lao cứu hộ… Trục vớt tài sản chìm đắm, nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản chìm đắm, thẩm quyền xử lý tài sản chìm đắm… Phòng, chống bão, lũ. Hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm (tàu, hàng hoá, hành khách), quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm, giá trị bảo hiểm. Hợp đồng thuê tàu, hình thức thuê tàu, nguyên tắc áp dụng quy định trong thuê tàu. Hợp đồng vận tải đa phương thức, trách nhiệm của người vận tải đa phương thức, quy định chi tiết vận tải đa phương thức trên ĐTNĐ. Giải quyết tranh chấp ĐTNĐ, nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
- Tổ chức bộ máy: cần được xác định, làm rõ vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của đơn vị quản lý tuyến luồng đường thuỷ nội địa nhằm đáp ứng được yêu cầu diễn biến thực tiễn công tác quản lý trong tình hình mới, mở rộng phạm vi quản lý của Cảng vụ ĐTNĐ.
- Luồng ĐTNĐ: là vùng nước giới hạn bằng hệ thống báo hiệu ĐTNĐ hoặc hệ thống công nghệ thông tin hàng hải để dẫn đường, bảo đảm cho phương tiện đi lại thông suốt, an toàn.
- Hành lang ĐTNĐ: là vùng nước trên ĐTNĐ (ngoại trừ vùng nước luồng ĐTNĐ và vùng nước thuộc phạm vi quản lý của các cơ quan có thẩm quyền khác).
- Quy định về phương tiện: Điều kiện hoạt động phương tiện: phương tiện phải đăng ký, đăng kiểm là các loại phương tiện không động cơ có trọng tải toàn phần trên 15 tấn, có động cơ tổng công suất máy trên 15CV, có sức chở trên 12 người, các loại phương tiện khác giao cho UBND tỉnh, thành phố tổ chức quản lý như quy định trước đây tại Nghị định số 40/CP của Chính phủ (tiền thân của Luật giao thông ĐTNĐ);
+ Thời hạn hoạt động của phương tiện: đưa thời gian lưu hành hoạt động phương tiện khoảng 25 năm kể từ khi đóng mới (phù hợp quy định đối với tàu biển hiện nay);
+ Phương tiện nhập khẩu: phải quy định kiểu dáng, chủng loại, thời gian đã lưu hành và thông số kỹ thuật phù hợp với cấp kỹ thuật ĐTNĐ;
+ Cơ sở đóng mới phương tiện: giao Bộ Giao thông vận tải ban hành quy định chi tiết (hiện nay chưa có quy định).
- Quy định về thuyền viên, người lái phương tiện: Đối với Bằng, chứng chỉ chuyên môn: đổi tên Bằng Thuyền, Máy trưởng thành Giấy chứng nhận (như quy định của Luật Hàng hải);
+ Phân hạng Bằng Thuyền, Máy trưởng: điều chỉnh việc giữ chức danh Thuyền trưởng, Máy trưởng đối với loại phương tiện theo tấn trọng tải, công suất máy, số lượng hành khách;
+ Tiêu chuẩn giữ chức danh: nâng tiêu chuẩn chức danh Thuyền trưởng đối với phương tiện chở khách.
- Cảng vụ ĐTNĐ: bổ sung thêm phạm vi quản lý và chức năng, nhiệm vụ của Cảng vụ ĐTNĐ.
- Thanh tra ĐTNĐ: sửa đổi phù hợp với Luật thanh tra.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Nhân sự cho việc nghiên cứu xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật giao thông ĐTNĐ được bảo đảm từ Bộ Giao thông vận tải, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam, các hiệp hội và các Bộ, ngành liên quan khác như Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ;
Về Tài chính: kinh phí phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật giao thông ĐTNĐ và trang thiết bị phục vụ Dự án luật sẽ được bảo đảm từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp thông qua Bộ Giao thông vận tải và các nguồn hỗ trợ khác (nếu có).
26. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật
Việc sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được xuất phát từ những căn cứ sau:
- Thứ nhất, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập quốc tế đã phát sinh nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến gia đình và các quan hệ trong gia đình mà chưa được pháp Luật hôn nhân và gia đình quy định hoặc quy định chưa cụ thể như vấn đề kết hôn giữa những người cùng giới tính, tình trạng chung sống như vợ, chồng không đăng ký kết hôn, tình trạng ly thân, thỏa thuận tiền hôn nhân về tài sản...
- Thứ hai, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có rất nhiều bất cập, vướng mắc trong quy định của luật và trong thực tiễn thi hành cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời như các quy định về tuổi kết hôn, vấn đề mang thai hộ, quyền sở hữu giữa vợ và chồng, xác định cha, mẹ, con, ly hôn...
- Thứ ba, hệ thống pháp luật Việt Nam từ năm 2000 đến nay đã có những bước phát triển, hoàn thiện, trong đó có nhiều quy định liên quan đến các quan hệ hôn nhân và gia đình và gia đình (Luật bình đẳng giới năm 2006, Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật nuôi con nuôi năm 2010, Luật người cao tuổi năm 2009, Luật đất đai năm 2003, Luật nhà ở năm 2005…). Bộ luật dân sự năm 2005 với tư cách là đạo luật “gốc” của Luật hôn nhân và gia đình cũng đang trong giai đoạn thực hiện các hoạt động chuẩn bị sửa đổi cơ bản với những định hướng cải cách quan trọng về chủ thể, quyền nhân thân, đại diện, giao dịch, tài sản, sở hữu, thừa kế và hợp đồng…Việc ban hành Luật hộ tịch cũng đang thực hiện các hoạt động chuẩn bị để đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII. Trước thực tiễn xây dựng pháp luật như vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình là cần thiết để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong công nhận và bảo hộ các quyền nhân thân và tài sản của các chủ thể hôn nhân và gia đình, trong điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản giữa các thành viên trong gia đình và giữa các thành viên trong gia đình với người thứ ba;
- Thứ tư, hiện tại Việt Nam đã là thành viên của rất nhiều điều ước quốc tế có liên quan đến việc công nhận và bảo hộ các quyền về nhân thân và tài sản của cá nhân cần được rà soát để thực hiện các cam kết quốc tế có liên quan đến quyền hôn nhân gia đình của cá nhân trong việc sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi sửa đổi: (1) sửa đổi các quy định trong Luật hôn nhân và gia đình còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn thi hành; (2) bổ sung các quy định để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình hoặc những vấn đề còn vướng mắc mà chưa được pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Nội dung chính
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định về kết hôn và thủ tục đăng ký kết hôn: tuổi kết hôn, giới tính trong kết hôn, nguyên tắc giải quyết và hậu quả pháp lý của kết hôn trái pháp luật.
- Thứ hai, bổ sung chế định chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn, bao gồm điều kiện công nhận hôn nhân, hậu quả pháp lý của việc công nhận hay không công nhận các bên chung sống như vợ chồng có hôn nhân hợp pháp, quyền nhân thân và tài sản của các bên trong quan hệ chung sống…;
- Thứ ba, nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung chế định về khế ước hôn nhân - thỏa thuận tiền hôn nhân về tài sản.
- Thứ tư, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung theo hướng minh bạch hóa, công khai trong công nhận quyền, trong giao dịch và trong quan hệ với người thứ ba;
- Thứ năm, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng theo hướng minh bạch hóa, công khai trong công nhận quyền, trong giao dịch và trong quan hệ với người thứ ba;
- Thứ sáu, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về xác định cha, mẹ, con, đặc biệt vấn đề mang thai hộ, đẻ thuê, sinh con theo phương pháp khoa học...;
- Thứ bảy, nghiên cứu bổ sung chế định ly thân: căn cứ ly thân, thủ tục giải quyết ly thân và hậu quả pháp lý của ly thân, chấm dứt ly thân;
- Thứ tám,, sửa đổi, bổ sung các quy định về căn cứ ly hôn, thủ tục giải quyết ly hôn, điều kiện hạn chế ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn.
- Thứ chín, sửa đổi, bổ sung các quy định tại chương Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài về các nội dung xung đột pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
- Thứ mười, rà soát lại các quy định của Luật hôn nhân và gia đình loại bỏ các quy định trùng lắp với Bộ luật dân sự, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật nuôi con nuôi ...
Căn cứ vào phạm vi, nội dung sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình, trên cơ sở kế thừa Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986 và 2000 và học tập kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, Luật hôn nhân và gia đình sửa đổi dự kiến được xây dựng thành 11 Chương. Cụ thể như sau: Những quy định chung; Kết hôn; Chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn; Quan hệ giữa vợ và chồng; Xác định cha, mẹ, con; Quan hệ giữa cha mẹ và con; Quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình; Cấp dưỡng; Ly thân; Ly hôn; Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan.
27. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dạy nghề
Sự cần thiết sửa đổi Luật dạy nghề
Luật dạy nghề được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực từ 1/6/2007. Qua hơn 3 năm triển khai thực hiện cho thấy Luật dạy nghề thực sự là cơ sở pháp lý quan trọng cho dạy nghề phát triển. Lần đầu tiên hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ dạy nghề (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề) được hình thành và bắt đầu phát triển ở Việt Nam và bước đầu đã đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp phục vụ các ngành sản xuất, kinh doanh với nhiều cấp trình độ, góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Về cơ bản các quy định của Luật dạy nghề đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu có tính cấp bách của cuộc sống.
Tuy nhiên, do hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ lần đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam nên có nhiều vấn đề mới mẻ như kiểm định chất lượng dạy nghề, vấn đề đánh giá kỹ năng nghề và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động..., chúng ta chưa có kinh nghiệm thực tiễn lẫn cơ sở lý luận nên phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Hoặc có những vấn đề từ lâu đã thành thói quen thành ý thức, nay đổi mới trong Luật dạy nghề rất khó khăn triển khai thực hiện như việc chuyển hướng đào tạo nghề từ hướng cung như lâu nay vẫn làm sang đào tạo nghề theo hướng cầu của thị trường lao động...
Qua thực tế hơn 3 năm triển khai thực hiện cho thấy có nhiều quy định của Luật dạy nghề chưa phù hợp với nhu cầu cuộc sống, vì vậy cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật dạy nghề.
Những quan điểm sửa đổi, bổ sung Luật dạy nghề
- Nhà nước ban hành pháp luật, quy định các chuẩn mực pháp lý, hành lang pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động dạy nghề; hạn chế sự tối đa sự can thiệp hành chính vào các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực dạy nghề; đồng thời hướng dẫn các bên tham gia hoạt đông dạy nghề xây dựng mối quan hệ hài hoà, ổn định và vì sự phát triển giáo dục - đào tạo - dạy nghề.
- Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn áp dụng Luật dạy nghề để thấy được, mặt hạn chế trong việc thực thi pháp Luật dạy nghề. Từ đó, kế thừa và phát triển các quy định phù hợp, sửa đổi các quy định chưa phù hợp; bổ sung những quy định mới cần thiết theo nhu cầu của thị trường lao động, cơ chế thị trường, đồng thời tránh phải ban hành nhiều văn bản hướng dẫn.
- Tham khảo kinh nghiệm và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng các mô hình đào tạo nghề, quản lý dạy nghề và pháp luật về dạy nghề của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có trình độ tiên tiến về khoa học kỹ thuật trong đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, phù hợp với điều kiện, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Những nội dung chính
Luật dạy nghề sửa đổi giữ 11 chương như hiện hành, giữ nguyên tên các Chương, nhưng một số chương có thể tách thành nhiều mục.
Để Luật dạy nghề phù hợp với các văn bản pháp luật khác cũng như đáp ứng với sự phát triển kinh tế của đất nước, có nhiều nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật dạy nghề một cách hệ thống, toàn diện. Cụ thể như sau:
- Về chương Những quy định chung
Về phạm vi điều chỉnh bổ sung nội dung đánh giá cấp chứng chỉ Kỹ năng nghề quốc gia tại Chương IX.
Giải thích từ ngữ: giải thích rõ hơn các khái niệm “chương trình khung” và khái niệm “mô đun” vì quy định theo Luật dạy nghề hiện hành chưa chính xác cần phải định nghĩa lại.
Bổ sung khái niệm cơ sở dạy nghề: Luật dạy nghề có chương 4 quy định về Cơ sở dạy nghề nhưng không có quy định khái niệm cơ sở dạy nghề gồm những đối tượng nào nên đang lẫn lộn giữa: cơ sở dạy nghề (TTDN,TCN, CĐN) với các cơ sở khác có dạy nghề sơ cấp, trung cấp và cao đẳng trường Cao đẳng,trung cấp chuyên nghiệp.
Về các trình độ đào tạo trong dạy nghề: Luật dạy nghề quy định 3 cấp trình độ dạy nghề (sơ, trung cấp, cao đẳng). Để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật có trình độ tay nghề cao. Hệ thống giáo dục chia 2 nhánh hàn lâm và thực hành đến bậc kỹ sư. Tránh tình trạng người học cao đẳng nghề nhưng không làm nghề mà chạy sang hàn lâm, không thể xây dựng đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định 4 cấp trình độ đào tạo nghề: có đại học nghề (kỹ sư thực hành).
- Về chương II Các trình độ đào tạo trong dạy nghề
Về thời gian học nghề trình độ sơ cấp: Dạy nghề trình độ sơ cấp được thực hiện từ ba tháng đến dưới một năm...Hiện nay, Luật dạy nghề chưa quy định và công nhận những nghề sơ cấp đào tạo dưới 3 tháng. Nhưng trên thực tế các lớp đào tạo ngắn hạn được tổ chức rất nhiều tại các chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn. Để bảo đảm quyền lợi cho người học nghề dưới 3 tháng cần quy định trong Luật dạy nghề.
Bổ sung điều khoản mới về tổ chức các lớp dạy nghề độc lập: Luật dạy nghề mới quy định các lớp dạy nghề gắn với các doanh nghiệp, và cơ sở giáo dục, cơ sở sản xuất kinh doanh...Hiện nay nhóm đối tượng này chưa được điều chỉnh trong Luật dạy nghề nhưng thực tế vẫn có. Luật Giáo dục đã có quy định về các lớp học độc lập do đó cần quy định trong Luật dạy nghề (sửa đổi).
Về văn bằng chứng chỉ: Điều 16 Luật dạy nghề quy định là chứng chỉ Sơ cấp nghề; trong khi đó Điều 33 quy định chứng chỉ cấp cho người học chương trình dạy nghề thường xuyên. Để tránh gây hiểu lầm giữa chứng chỉ sơ cấp nghề và chứng chỉ thường xuyên cần có sự thống nhất việc quy định chứng chỉ trình độ sơ cấp nghề. Vì thực tế giá trị của văn bằng chứng chỉ của trình độ sơ cấp không cao khó thu hút người học.
Về trình độ trung cấp nghề: Luật dạy nghề quy định thời gian học 3-4 năm đối với học sinh tốt nghiệp THCS. Thực tế có rất nhiều đối tượng tuy học xong chương trình đào tạo trung học phổ thông nhưng không đỗ tốt nghiệp. Theo Luật dạy nghề thì nhóm đối tượng này vào học trung cấp nghề vẫn phải học từ ba đến bốn năm, tức là phải học lại chương trình văn hóa. Như vậy, một mặt sẽ thiệt thòi cho những học sinh phải học lại, mặt khác đây là vấn đề tâm lý xã hội khá bức xúc.
Về dạy nghề thường xuyên: Luật dạy nghề chỉ quy định dạy thường xuyên theo hình thức tự học và vừa làm vừa học, chưa quy định học từ xa. Thực tế đang có hình thức học từ xa và hệ thống chuyên nghiệp đã có từ lâu. Để có cơ sở pháp lý ban hành văn bản hướng dẫn bổ sung vào điểm d khoản1 Điều 33 hình thức học từ xa và giao cho BLĐTBXH hướng dẫn thi hành. Bổ sung các quy định về tổ chức các chương trình dạy nghề dưới ba tháng trong dạy nghề thường xuyên. Bỏ chương trình dạy nghề thường xuyên là chương trình dạy nghề bồi dưỡng, nâng cao, cập nhật kiến thức.
- Về chương III - Cơ sở dạy nghề
Về các loại hình sở hữu các cơ sở dạy nghề: Hiện nay, phần lớn cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp (tổng công ty, tập đoàn) do nhà nước đầu tư xây dựng nhưng không cấp kinh phí thường xuyên, hoặc những doanh nghiệp đã cổ phần hoá ... do vậy, không xác định được cơ sở dạy nghề này là công lập hay tư thục. Sửa đổi theo hướng phân định rõ đâu là CSDN công và tư giống như Luật giáo dục 2005. Hoặc cơ sở dạy nghề của các tổ chức kinh tế bao gồm cả của doanh nghiệp đều là cơ sở tư thục.
Về Hội đồng trường, hội đồng quản trị quy định thành lập Hội đồng quản trị đối với trường do một công ty tư nhân (công ty TNHH)..Bên cạnh đó, cần làm rõ hơn về nhiệm vụ của hội đồng trường trong các cơ sở dạy nghề công lập và bổ sung HĐQT đối với trường có vốn đầu tư nước ngoài.
Về việc thành lập các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài: sửa đổi theo hướng làm rõ thẩm quyền trình tự thủ tục thành lập cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài.
Về chuyển đổi loại hình CSDN: thực tế hiện nay có nhiều cơ sở dạy nghề chưa biết được xếp vào loại hình trường công lập hay tư thục khi doanh nghiệp, tập đoàn trực thuộc đã cổ phần hoá. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp thì đã có nhiều văn bản quy định, nhưng cổ phần hoá cơ sở dạy nghề chưa có văn bản nào quy định. Nói cách khác, cơ sở dạy nghề chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện cổ phần hoá. Do đó, cần sửa quy định này.
Về quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề: Luật quy định về trách nhiệm Dạy nghề còn chung chung. Chưa có quy định cụ thể nên doanh nghiệp vẫn đứng ngoài cuộc. Cần quy định nghĩa vụ bắt buộc đào tạo nghề cho người lao động, nếu ko thực hiện đóng tiền vào quỹ chung của doanh nghiệp, do đại diện doanh nghiệp quản lý để phục vụ đào tạo nghề cho lao động của doanh nghiệp.
- Về chương VI Giáo viên dạy nghề, người học nghề
Tên chương: Đổi thành Giảng viên, giáo viên dạy nghề, người học nghề
Về giảng viên, giáo viên dạy nghề: Để có cơ sở xây dựng tiêu chuẩn giảng viên/giáo viên nghề, Luật cần bổ sung điều kiện về trình độ kỹ năng nghề của giảng viên/giáo viên dạy thực hành, điều kiện về kỹ năng sư phạm, bỏ việc quy định giáo viên dạy nghề dạy tích hợp thành 2 loại riêng. Qua đó, làm căn cứ xây dựng bảng lương phù hợp cho những từng đối tượng giảng viên, giáo viên. Bổ sung một khoản vào Điều 60 về giao Bộ Lao động TBXH quy định về việc ban hành chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề ( tương tự Điều 79 Luật giáo dục giao cho Bộ GD ĐT quy định về việc ban hành chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho khối chuyên nghiệp).
Về chính sách đối với người học nghề: Hiện nay, Luật mới chỉ quy định chế độ cho học sinh dân tộc nội trú bảo đảm bình đẳng giữa các học sinh người dân tộc thiểu số, tránh thiệt thòi cho học sinh không nội trú Luật cần có chính sách chế độ cho học sinh dân tộc nói chung để khuyến khích thu hút học sinh vào học nghề nâng cao trình độ.
Bổ sung chế độ trả lương cho người tốt nghiệp các trình độ nghề: Luật dạy nghề chưa có quy định việc áp dụng chế độ trả lương và chế độ cho người tốt nghiệp các trình độ nghề. Hiện nay một số doanh nghiệp vẫn áp dụng các hình thức trả lương theo bậc thợ vì vậy cần có quy định cụ thể về trả lương cho người học theo cấp độ đào tạo nghề hiện nay.
- Về chương VIII Kiểm định chất lượng dạy nghề
Bổ sung hình thức kiểm định chất lượng dạy nghề độc lập của các tổ chức tư nhân: qua hơn 3 năm triển khai thực hiện, cơ chế hệ thống kiểm định trung ương đã không khuyến khích được xã hội hóa hoạt động dạy nghề. Theo kinh nghiệm của các nước thì cần mở rộng cho khu vực tư nhân tham gia kiểm định chất lượng dạy nghề để bảo đảm tính độc lập, khách quan và nâng cao trách nhiệm của các bên trong quá trính kiểm định chất lượng dạy nghề.
- Về chương X Quản lý Nhà nước về dạy nghề
Về quỹ hỗ trợ dạy nghề: Đối với người học đều đã có các chính sách hỗ trợ từng đối tượng nên không thể có 1 quỹ khác từ ngân sách nhà nước. Nếu không từ ngân sách mà do tự nguyện thì khó thực hiện. Cần phải có 1 quỹ của chính cơ sở dạy nghề đóng, do hội cơ sở dạy nghề quản lý và hỗ trợ cơ sở dạy nghề
- Về chương XI Điều khoản thi hành:
Về giao quyền hướng dẫn Luật dạy nghề: Bổ sung quy định giao Chính phủ hoặc Bộ hướng dẫn Luật dạy nghề về: Dạy nghề thường xuyên, liên kết dạy nghề, hướng dẫn xây dựng chương trình SCN, về chế độ tiền lương cho người học sau khi tốt nghiệp 3 cấp trình độ; quy định chuẩn nghề nghiệp đối với Giáo viên dạy nghề, hướng dẫn về chương trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm dạy nghề...
28. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế
Sự cần thiết sửa đổi bổ sung Luật
Luật bảo hiểm y tế được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2009. Luật bảo hiểm y tế (BHYT) ra đời đã khẳng định tính đúng đắn và phù hợp trong lựa chọn chính sách tài chính y tế thông qua BHYT và đã có tác động tích cực đến chính sách BHYT tại Việt Nam. Sau khi Luật có hiệu lực, đối tượng tham gia BHYT từng bước được mở rộng, số người tham gia BHYT năm 2010 chiểm khoảng 60% dân số. Quyền lợi của người có thẻ BHYT được mở rộng. Người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội đã được Nhà nước cấp thẻ BHYT miễn phí nên sự tiếp cận dịch vụ y tế của các đối tượng này đã được cải thiện rõ rệt. Người dân ngày càng hiểu và quan tâm hơn đến chính sách BHYT. Một số quy định của Luật trong việc thanh toán đối với việc sử dụng các dịch vụ xã hội hóa trong các trường hợp tự chọn cơ sở khám chữa bệnh không theo tuyến điều trị đã tạo điều kiện cho người tham gia BHYT có nhiều lựa chọn hơn. Quy định trong việc đăng ký khám chữa bệnh ban đầu và khám chữa bệnh theo tuyến điều trị đã giúp hạn chế quá tải ở tuyến trên, tạo thuận lợi cho người bệnh tiếp cận được với các dịch vụ y tế có chất lượng ngay từ tuyến y tế cơ sở.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật BHYT đã bộc lộ một số vướng mắc và nẩy sinh một số vấn đề cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Luật BHYT đã được phát hiện trong quá trình kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Luật của Bộ Y tế, Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, Thanh tra Chính phủ…., cụ thể là:
Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng: Luật BHYT chưa quy định áp dụng đối với tổ chức, cá nhân là người Việt Nam làm việc ở nước ngoài, do đó không có cơ sở hướng dẫn thực hiện trong mọt số trường hợp đưa lao động sang làm việc tại Lào, Cămpuchia… . Hiện nay cũng có nhiều lao động người nước ngoài sang làm việc tại các Doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân tại Việt Nam nhưng không tham gia BHYT vì chưa có quy định trong Luật.
Về đối tượng tham gia BHYT. Với quy định 25 nhóm đối tượng như hiện nay, dẫn đến tình trạng một người có thể được cấp 2 – 3 thẻ BHYT mà không kiểm soát được. Ngược lại, một số đối tượng có trách nhiệm tham gia BHYT từ ngày 01/7/2009 theo quy định của Luật nhưng đến nay chưa tham gia hoặc tham gia chưa đầy đủ (Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân; người cận nghèo; học sinh sinh viên…). Việc chia thành quá nhiều đối tượng dẫn đến tình trạng bỏ sót đối tượng hay có “khoảng trống” BHYT (ví dụ: trẻ em đủ 6 tuổi hết hạn sử dụng thẻ BHYT cho trẻ dưới 6 tuổi nhưng chưa đủ tuổi vào lớp một nên chưa tham gia BHYT theo nhóm học sinh; người đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng; người trong tuổi học sinh nhưng bỏ học nên không tham gia BHYT học sinh…).
Về phạm vi quyền lợi và mức hưởng BHYT: Phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT theo quy định của Luật là tương đối toàn diện, bao gồm dịch vụ khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng và khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh. Tuy nhiên, trong số các dịch vụ không thuộc phạm vi thanh toán BHYT quy định tại Điều 23 còn có sự bất hợp lý. Một số trường hợp là bệnh lý thực sự cần được BHYT thanh toán như các trường hợp bị cận thị nặng cần can thiệp điều trị hoặc khuyến khích thanh toán như khám bệnh, kiểm tra sức khỏe định kỳ. Một số quy định rất khó thực hiện trong thực tế như quy định về thanh toán BHYT đối với tai nạn giao thông cần phải có xác định có vi phạm pháp luật hay không.
Vướng mắc này ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia BHYT.
Về mức hưởng BHYT: Quy định cùng chi trả (theo các mức 5% hoặc 20% tùy theo nhóm đối tượng) và phần chi phí mà người bệnh phải thanh toán đối với các dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn nếu vượt mức 40 tháng lương tối thiểu đã có tác động đáng kể đến người bệnh, nhất là những người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội, người mắc các bệnh mạn tính hay các trường hợp bệnh nặng, chi phí lớn. Nhiều ý kiến phản ánh đề nghị bỏ quy định này vì người bệnh không có khả năng chi trả cũng như tính phức tạp trong thực hiện. Việc quy định cùng chi trả chi phí khám chữa bệnh không có giới hạn cũng đã hạn chế việc tiếp cận dịch vụ của các trường hợp có chi phí KCB lớn (ung thư, ghép tạng, chạy thận nhân tạo…).
Về thanh, quyết toán chi phí KCB: Các quy định về thời gian, thời điểm trong việc tạm ứng, thanh quyết toán chi phí KCB giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội với cơ sở KCB hiện chưa hợp lý dẫn đến chậm trễ, gây khó khăn cho cơ sở KCB trong phục vụ người bệnh. Vấn đề này đã được cơ quan Kiểm toán đề nghị sửa đổi quy định của Luật cho phù hợp.
Viêc quy định quỹ BHYT thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT trực tiếp cho người có thẻ BHYT trong các trường hợp khám chữa bệnh trái tuyến đã gây khó khăn cho cơ quan Bảo hiểm xã hội, bệnh viện và cả người bệnh. Thực tế triển khai, nhiều Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố đã hợp đồng với bệnh viện để thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người bệnh thông qua bệnh viện.
Về Tổ chức thực hiện BHYT: Quy định về Tổ chức/cơ quan thực hiện chính sách BHYT trong Luật chưa cụ thể. Đến nay Chính phủ chưa có quy định về Tổ chức này. Vì vậy, cần xem xét để có quy định trong Luật cho phù hợp.
Một số nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung
Để khắc phục những khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện, Bộ Y tế dự kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật BHYT gồm:
Phạm vi áp dụng: Quy định việc áp dụng đối với tổ chức, cá nhân là người Việt Nam làm việc ở nước ngoài và người nước ngoài lao động, làm việc tại Việt Nam.
Về đối tượng tham gia BHYT: Quy định trách nhiệm tham gia BHYT theo hộ gia đình, trách nhiệm đóng, hỗ trợ đóng BHYT của Nhà nước đối với một số nhóm đối tượng.
Về phạm vi quyền lợi BHYT: Rà soát, sửa đổi, bổ sung một số quyền lợi của người tham gia BHYT và quy định về những trường hợp không thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT. Sửa đổi, bổ sung quy định cùng chi trả chi phí khám chữa bệnh đối với một số nhóm đối tượng theo hướng giảm nhẹ và có trần cho phù hợp.
Về quy định liên quan đến tạm ứng, thanh toán chi phí khám chữa bệnh: Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn tạm ứng, thanh quyết toán theo hướng rút ngắn thời hạn thanh toán, quyết toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT giữa cơ sở khám chữa bệnh và quỹ BHYT.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thanh toán chi phí khám chữa bệnh trong trường hợp khám chữa bệnh trái tuyến.
Về Tổ chức thực hiện BHYT: Rà soát quy định về mô hình tổ chức thực hiện chính sách BHYT theo hướng cụ thể, rõ ràng hơn, bao gồm cả quy định về tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHYT.
Làm rõ, quy định cụ thể hơn về trách nhiệm và tổ chức chuyên môn của địa phương để tham mưu cho UBND tỉnh, thành phố trong việc thực hiện chính sách BHYT tại địa phương.
29. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dược
Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều
Ngày 14/6/2005, Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật dược. Sau 5 năm triển khai thực hiện, Luật dược đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về dược, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các cơ sở kinh doanh thuốc, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trong sử dụng thuốc có chất lượng, hợp lý và an toàn.
Việc ban hành Luật dược đã tạo hành lang pháp lý đối với hoạt động về dược cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Dược Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt được nêu trên, trước những biến đổi của tình hình phát triển kinh tế xã hội, việc thực hiện các cam kết quốc tế cũng như tình hình hoạt động kinh doanh, cung ứng thuốc, Luật dược đã bộc lộ một số bất cập nhất định đòi hỏi phải nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp, đó là:
- Khó khăn trong quy định và thực hiện quy định về quản lý giá thuốc: một số quy định tại Luật dược về quản lý giá thuốc rất khó triển khai thực hiện, như quy định giá thuốc kê khai, kê khai lại không cao hơn giá thuốc tại các nước trong khu vực có điều kiện y tế, thương mại tương tự như Việt Nam (điểm a khoản 2 Điều 5) hay quy định về công bố giá thuốc tối đa (điểm d khoản 2 Điều 5).
- Có quy định làm hạn chế khả năng tiếp cận của người dân đối với những thuốc mới và thuốc quan trọng mang tính sinh mệnh. Khoản 2 Điều 55 Luật dược quy định “Thuốc nước ngoài chưa được cấp số đăng ký tại Việt Nam nhưng đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 5 năm tại nước đó...”. Như vậy, trên thực tế có thuốc đã được lưu hành trên 100 nước trên thế giới nhưng chưa đủ 5 năm nên chưa được phép lưu hành tại Việt Nam do phải thử lâm sàng theo quy định tại khoản này.
- Cần bổ sung các quy định phù hợp các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO về quyền xuất nhập khẩu, doanh nghiệp nước ngoài có quyền nhập khẩu thuốc từ 1/1/2009. Luật dược năm 2005 chưa quy định về vấn đề này. Vì vậy, cần nghiên cứu bổ sung vào Luật. Khi Việt Nam tham gia vào tiến trình hòa hợp trong khối ASEAN về đăng ký thuốc, việc báo cáo số liệu nghiên cứu sinh khả dụng/tương đương sinh học trong đăng ký thuốc được yêu cầu. Việc nghiên cứu sinh khả dụng/tương đương sinh học phải được tiến hành tại các đơn vị thử nghiệm đã được cơ quan có thẩm quyền đánh giá và công nhận. Trong khi đó, dịch vụ thử tương đương sinh học là hình thức kinh doanh thuốc nhưng chưa được quy định tại Luật dược. Vì vậy, cần nghiên cứu, bổ sung hình thức kinh doanh này trong Luật dược.
- Cần quy định các loại hình hành nghề đối với người có trình độ cao đẳng dược (dược sĩ cao đẳng). Năm 2008, một số cơ sở đào tạo được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp mã ngạch mở loại hình đào tạo dược sĩ cao đẳng. Luật dược năm 2005 chưa quy định hình thức kinh doanh phù hợp với loại bằng cấp chuyên môn này. Vì vậy, cần nghiên cứu bổ sung vào Luật dược.
- Cần nghiên cứu sửa đổi phạm vi kinh doanh của cơ sở bán lẻ thuốc theo hướng quy định phạm vi hoạt động khác nhau giữa cơ sở bán lẻ thuốc đạt nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành tốt nhà thuốc” (GPP) và cơ sở chưa đạt GPP để khuyến khích các cơ sở bán lẻ triển khai thực hiện GPP, bảo đảm việc sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, có hiệu quả.
- Cần nghiên cứu, bổ sung hình thức kinh doanh thuốc qua mạng vì trên thực tế hiện nay đã có một số cơ sở bán buôn thuốc đăng ký bán buôn thuốc qua mạng (Internet).
Một số nội dung khác cần nghiên cứu, bổ sung quy định như: đăng ký công ty nước ngoài hoạt động về thuốc tại Việt Nam; các hồ sơ, thủ tục hành chính theo đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ; tăng cường quản lý dược liệu và thuốc từ dược liệu; bổ sung, sửa đổi việc giải thích một số thuật ngữ; các quy định nghiêm cấm và một số các quy định khác về sử dụng thuốc, cung ứng thuốc, thông tin, quảng cáo thuốc.
Sau hơn một thập kỷ đàm phán và chuẩn bị, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào ngày 11/1/2007. Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO về quyền xuất nhập khẩu, doanh nghiệp nước ngoài có quyền nhập khẩu thuốc từ 1/1/2009 mà không cần có hiện diện thương mại tại Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam chưa ban hành văn bản nào quy định về vấn đề quyền nhập khẩu thuốc của doanh nghiệp nước ngoài.
Việc thực hiện các yêu cầu chung của khối ASEAN về đăng ký thuốc theo lộ trình thực hiện cũng buộc phải sửa đổi, bổ sung Luật dược đối với các vấn đề chưa phù hợp với các cam kết liên quan đến đăng ký thuốc lưu hành tại Việt Nam.
Từ cơ sở thực tiễn và pháp lý nêu trên, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật dược năm 2005 góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh trong lĩnh vực dược, sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy định không còn phù hợp với thực tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dược là hết sức cần thiết nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về dược, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trong sử dụng thuốc có chất lượng, hợp lý và an toàn trong giai đoạn mới.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dược năm 2005 quy định về quản lý giá thuốc; thử thuốc trên lâm sàng; các hình thức kinh doanh thuốc; phạm vi hoạt động của cơ sở bán lẻ thuốc; đăng ký, lưu hành thuốc; sử dụng thuốc; cung ứng thuốc, thông tin, quảng cáo thuốc...
Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt Nam.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Luật sửa đổi, bổ sung phải thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam,.
Hoạt động dược là hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của con người, do đó, các quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung phải bảo đảm sự quản lý của Nhà nước một cách chặt chẽ từ sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, buôn bán, cung ứng thuốc, thông tin, quảng cáo đến sử dụng thuốc.
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của Việt Nam, bảo đảm tính khả thi và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội, Luật sửa đổi, bổ sung phải được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn thực hiện Luật dược 2005 và rút ra kinh nghiệm về tổ chức, quản lý hoạt động dược trong những năm qua; đồng thời bổ sung các quy định phù hợp với tình hình mới.
Các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực dược phát triển và từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới, bảo đảm thực hiện các Điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập.
Nội dung chính
Bố cục của Dự án Luật sửa đổi, bổ sung gồm 2 điều, cụ thể như sau:
Điều 1: sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dược, bao gồm những vấn đề chính: Quản lý giá thuốc; Thử thuốc trên lâm sàng; Bổ sung hình thức và các hoạt động kinh doanh thuốc: dịch vụ thử tương đương sinh học; kinh doanh thuốc qua mạng; quyền nhập khẩu thuốc của doanh nghiệp dược nước ngoài; các loại hình hành nghề đối với người có trình độ cao đẳng dược. Phạm vi hoạt động của cơ sở bán lẻ thuốc; Đăng ký, lưu hành thuốc; Một số nội dung khác cần nghiên cứu, bổ sung và sửa đổi để phù hợp với tinh hình phát triển kinh tế xã hội, tiến trình hội nhập của Việt Nam với thế giới và khu vực ASEAN cũng như khắc phục những tồn tại trong thời gian qua và phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật khác có liên quan như: đăng ký công ty nước ngoài hoạt động về thuốc tại Việt Nam; các hồ sơ, thủ tục hành chính theo đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ; tăng cường quản lý dược liệu và thuốc từ dược liệu; bổ sung, sửa đổi đối với việc giải thích các thuật ngữ; các quy định nghiêm cấm và một số các quy định khác về sử dụng thuốc, cung ứng thuốc, thông tin, quảng cáo thuốc.
Điều 2: Hiệu lực thi hành
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Bộ Y tế là cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Luật này.
30. Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi Luật
Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được ban hành là bước đột phá quan trọng, đánh dấu sự nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề môi trường trước những tác động không tránh khỏi của cơ chế thị trường. Qua 5 năm áp dụng, Luật đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chất lượng môi trường sống tại Việt Nam nói riêng, trong khu vực và thế giới nói chung. Vai trò của Luật bảo vệ môi trường đã góp phần hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường từ các hoạt động phát triển; nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong dân chúng; nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với vấn đề môi trường; tạo ra những định hướng ban đầu cho việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững.
Tuy nhiên, so với những yêu cầu mới, Luật bảo vệ môi trường hiện hành còn khá nhiều điểm bất cập. Ở mức độ khái quát nhất, có thể thấy công tác bảo vệ môi trường trong thời gian tới chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, đòi hỏi Luật bảo vệ môi trường phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp hơn với tình hình thực tế. Các tác động đó là: quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xu thế hội nhập kinh tế quốc tế; chủ trương cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực kinh tế; sự thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường; hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh thực tế của hệ thống pháp Luật bảo vệ môi trường hiện hành trong thời gian qua.
Các quy phạm về bảo vệ môi trường được quy định tại Luật bảo vệ môi trường 2005 còn một số bất cập:
- Một số quy phạm không còn phù hợp với hiện thực khách quan hiện nay làm mất hiệu lực hoặc giảm hiệu lực thi hành của Luật;
- Còn thiếu một số quy phạm cần được bổ sung như quy định về đầu tư bảo vệ môi trường, sử dụng các công cụ kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức quần chúng, đáp ứng các yêu cầu môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế v.v.
- Một số quy định chưa được rõ ràng, khó hiểu hoặc thiếu cụ thể cần thiết hoặc quá cụ thể gây khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn;
- Việc phân công, phân nhiệm, phân cấp quản lý môi trường chưa phù hợp và chưa rõ đã gây khó khăn trong việc thực hiện và phối hợp thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường;
- Một số thuật ngữ chưa được quy định cách hiểu đúng, hoặc chưa được quy định cách hiểu nên gây khó khăn hoặc hiểu sai khi vận dụng trong thực tiễn công tác bảo vệ môi trường;
- Một số quy phạm còn trùng lắp, đặt không đúng vị trí hoặc không có sự kết nối gây khó khăn trong việc hướng dẫn thực hiện;
- Một số quy phạm sử dụng thuật ngữ chung chung, thiếu cương quyết, không rõ ràng, dễ hiểu sai lệch;
- Nhiều chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, cơ cấu tổ chức mới chưa được luật hoá hoặc cập nhật trong Luật bảo vệ môi trường.
Kinh nghiệm của các nước cũng như ý kiến của các chuyên gia môi trường cho thấy, ở một nước đang phát triển như Việt Nam, nếu không có các giải pháp bảo vệ môi trường hợp lý kịp thời thì với tốc độ tăng trưởng kinh tế gấp hơn 2 lần trong giai đoạn vừa qua, mức độ ô nhiễm, suy thoái môi trường có thể đã tăng khoảng 4 - 5 lần. Điều đó có nghĩa là chúng ta đi lặp lại vết chân của các nước công nghiệp phát triển vào những năm 50 - 60 của Thế kỷ trước và họ đang phải trả giá rất đắt cho những sai lầm vì chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà không có các giải pháp bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, với tầm nhìn chiến lược, Đảng và Nhà nước ta đã dự báo tình hình và hoạch định những chủ trương, chính sách phù hợp, kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường nên quá trình phát triển ở nước ta trong giai đoạn tới theo chiều hướng thuận lợi cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.
Từ kết quả nghiên cứu đánh giá tác động của Luật bảo vệ môi trường năm 2005, nghiên cứu đề xuất sửa đổi Luật bảo vệ môi trường dựa trên những nội dung cơ bản của Luật bảo vệ môi trường năm 2005 theo hướng mở rộng hơn; bổ sung vào Luật những điều khoản liên quan đến quản lý môi trường các lưu vực sông, làng nghề, khu công nghiệp, môi trường nông thôn, môi trường miền núi,…; xem xét việc luật hóa các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu; sắp xếp các nội dung theo hướng hệ thống, toàn diện và logic hơn trong Luật mới.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh: Quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; phòng ngừa các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra đối với môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường.
Đối tượng áp dụng: cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung chính
Phương pháp điều chỉnh của Luật bảo vệ môi trường là những cách thức tác động của luật đến các quan hệ xã hội nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Căn cứ vào các quy định của Luật bảo vệ môi trường hiện hành, ta thấy các phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp “mệnh lệnh - kiểm tra” kết hợp với giáo dục và thuyết phục. Việc chỉ sử dụng các phương pháp trên có một số bất cập, khiến cho hoạt động bảo vệ môi trường bị thụ động và đôi khi biểu hiện sự cứng nhắc.
Khi đối tượng điều chỉnh của Luật được đề xuất sửa đổi, bổ sung thì phương pháp điều chỉnh của Luật cũng cần được sửa đổi cho phù hợp với nội dung và tính chất của đối tượng điều chỉnh, đặc biệt là việc khắc phục các yếu điểm và nâng cao hiệu lực thực tế của Luật.
Bên cạnh các biện pháp “mệnh lệnh - kiểm tra” kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, một số biện pháp khác như sử dụng công cụ kinh tế, tăng cường vai trò của cộng đồng trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Luật.
Với những nhận xét trên, đề nghị sửa đổi, bổ sung một số quy phạm như sau:
a) Bỏ một số quy phạm không còn phù hợp hoặc thiếu hiệu lực (quy định về đánh giá tác động môi trường đối với các cơ sở đang hoạt động; v.v…)
b) Bổ sung thêm một số ý, chuẩn lại các nội dung, câu chữ của một số điều;
c) Bổ sung các điều mới nhằm luật hoá các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về môi trường và phát triển bền vững. Cụ thể cần có điều về phát triển bền vững, xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, lồng ghép môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá môi trường, đạo đức môi trường, môi trường với hội nhập kinh tế quốc tế, an ninh sinh thái, v.v..;
d) Bổ sung các quy phạm về phân công, phân nhiệm, phân cấp quản lý Nhà nước về môi trường; quy định về nội dung và tổ chức quản lý môi trường cấp huyện, xã;
đ) Bổ sung thêm các quy định về đầu tư bảo vệ môi trường, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường;
e) Bổ sung quy định về tiêu chuẩn môi trường, chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường;
f) Bổ sung quy định về sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường (thuế, phí, quỹ, quota ô nhiễm, nhãn sinh thái, v.v.);
g) Bổ sung quy định về tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường;
h) Bổ sung thêm các quy định về:
- Quy hoạch môi trường, đánh giá tác động môi trường đối với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quy định về giám sát, kiểm tra sau phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường; giao Chính phủ quy định chi tiết về phân loại đánh giá tác động môi trường, phân công, phân cấp về thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường, về xã hội hóa;
- Quy định về phế liệu, nhập khẩu phế liệu, tái sử dụng chất thải, tái chế chất thải; chôn lấp và tiêu huỷ chất thải; quản lý chất thải nguy hại;
- Quy định về giữ gìn cảnh quan môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái gắn với quản lý tài nguyên; quản lý các sản phẩm biến đổi gen, bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học, quản lý các vùng đất ngập nước; v.v.;
- Quy định về tự giám sát, quan trắc môi trường, định kỳ báo cáo về công tác bảo vệ môi trường cho các cơ quan chức năng, cung cấp thông tin môi trường, công khai thông tin môi trường v.v; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Quy định về nội luật hoá các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, quy định về tranh chấp môi trường có yếu tố nước ngoài v.v.
i) Bổ sung thêm quy định về chế tài, đặc biệt là chế tài hình sự đối với các hành vi được xem là tội phạm môi trường;
k) Quy định rõ hơn về trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, bổ sung một số nội dung về thu phí bảo vệ môi trường, v.v,
l) Quy định về quản lý môi trường đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở; quản lý môi trường trong các doanh nghiệp v.v.
Đặc biệt đề nghị cần nghiên cứu đưa vào luật các quy phạm về kinh tế hóa ngành môi trường theo tinh thần Nghị quyết số 27 của Ban Cán sự Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan.
II. CÁC DỰ ÁN PHÁP LỆNH
1. Pháp lệnh công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương
Sự cần thiết ban hành
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; trong phần Tăng cường quốc phòng và an ninh trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, đã xác định: “…Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước theo hướng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với an ninh nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng các khu vực tỉnh, thành phố. Tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng, an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo. Xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý, điều hành trực tiếp của Chính phủ…”; đồng thời, trong Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc Khóa XI đã định hướng rõ mục tiêu của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong nhiệm kỳ 2011-2015, là: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”.
Sau 10 năm thực hiện Nghị định số 19/CP ngày 12/3/1994 và 6 năm thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ-CP ngày 11/5/2004 về công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương việc thực hiện công tác quốc phòng đã đạt được nhiều kết quả tốt, bước đầu đã có sự chuyển biến tích cực.
Nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành và các địa phương về công tác quốc phòng - an ninh được nâng lên, đặc biệt là đối với các địa phương, công tác giáo dục quốc phòng - an ninh và công tác quốc phòng được triển khai thực hiện có nền nếp và đạt nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế, chưa phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đặc biệt là sự thay đổi mới nhất cơ chế quản lý, tổ chức hoạt động của các loại hình doanh nghiệp hiện nay và trong những năm tới. Năm 2009, Bộ Quốc phòng tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện chỉ đạo các cấp, các ngành và các địa phương. Hoàn thành tốt việc tổng kết ở 3 cấp: xã, huyện và tỉnh và các cơ quan, tổ chức thuộc cấp tỉnh, cấp huyện; đối với bộ, ngành Trung ương đã tiến hành tổng kết ở đơn vị thành viên và các bộ, ngành; có 8/8 quân khu, BTL Thủ đô Hà Nội đã báo cáo đánh giá kết quả tổng kết của toàn quân khu để tổng hợp báo cáo Bộ Quốc phòng, Chính phủ. Qua tổng kết đã rút ra được những bài học kinh nghiệm, phát hiện những khó khăn, vướng mắc đề xuất chủ trương, biện pháp để tiếp tục chỉ đạo, thực hiện công tác quốc phòng trong những năm tới đạt chất lượng, hiệu quả, thiết thực hơn. Do đó, cần phải xây dựng Pháp lệnh về công tác quốc phòng ở các Bộ, ngành, các địa phương để để điều chỉnh, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về công tác quốc phòng cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong giai đoạn cách mạng mới.
Trong những năm vừa qua Đảng, Nhà nước và các bộ, ban, ngành Trung ương đã ban hành nhiều văn bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, Chỉ thị liên quan đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh nhưng chưa có văn bản quy định tổng thể để điều chỉnh những vấn đề cơ bản về cơ chế, nhiệm vụ, biện pháp, chính sách cụ thể để chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ban Đảng ở Trung ương, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Kiểm toán Nhà nước, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Toà án nhân dân Tối cao, cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, các tập đoàn kinh tế và tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và các địa phương. Do đó, việc xây dựng Pháp lệnh về công tác quốc phòng ở các bộ, ban, ngành và các địa phương là hết sức cần thiết; nhằm cụ thể hóa việc tăng cường lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước và tổ chức thực hiện đi vào nền nếp và đạt được chất lượng, hiệu quả thiết thực.
Một số bất cập trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ-CP ngày 11/5/2004 về công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương:
Nghị định chưa đủ tính pháp lý và chưa điều chỉnh hết đối với các tổ chức, cá nhân trong chỉ đạo thực hiện công tác quốc phòng. Nhất là công tác quốc phòng ở các bộ, ngành TW; của loại hình doanh nghiệp trong các tổ chức, các thành phần kinh tế.
Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của một số bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm túc chế tài áp dụng chưa cao mới dừng lại ở Nghị định của Chính phủ. Mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng về công tác quốc phòng giữa các bộ, ngành Trung ương và các địa phương chưa chặt chẽ và chưa đồng bộ. Bộ Quốc phòng chưa có cơ quan chuyên trách giúp Bộ thống nhất quản lý, bố trí, sử dụng và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đối với sĩ quan quân đội làm công tác quốc phòng ở các bộ, ngành Trung ương.
Trách nhiệm xây dựng nâng cao chất lượng, sức mạnh chiến đấu của lực lượng tự vệ, dự bị động viên ở một số bộ, ngành, cơ quan Nhà nước chưa phân định rõ ràng. Từ đó, việc huy động dân quân tự vệ và dự bị động viên khi xử trí các tình huống xảy ra ở một số nơi còn lúng túng, huy động lực lư¬ợng còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả ch¬ưa cao; một số nơi sử dụng lực lư¬ợng dân quân tự vệ ch¬ưa đúng với chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Chỉ đạo triển khai thực hiện xây dựng khu vực phòng thủ còn chậm, phối hợp của các bộ, ngành, cơ quan Nhà nước chưa tương xứng với mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, nhất là cơ sở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa thật sự vững chắc.
Tổ chức cơ quan và cán bộ làm công tác quốc phòng, quân sự của nhiều bộ, ngành, cơ quan, tổ chức ở Trung ương chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí có cơ quan chưa bố trí cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác quốc phòng; một số bộ, ngành có Vụ Quốc phòng-an ninh, song việc phát huy chức năng làm tham mưu theo dõi, chỉ đạo công tác quốc phòng còn rất hạn chế; hoạt động của một số Ban Chỉ huy quân sự bộ, ngành và cơ quan, tổ chức ở cơ sở chưa đi vào nền nếp hiệu quả thấp.
Trách nhiệm quản lý Nhà nước và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác quốc phòng ở các bộ, ban, ngành chưa cao. Chất lư¬ợng và hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra về công tác quốc phòng của một số bộ, ngành, địa phương còn hạn chế. Cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và trách nhiệm thực hiện công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, nhất là các công ty trách nhiệm hữu hạn với chủ sở hữu khác nhau còn nhiều mặt hạn chế cần sớm được khắc phục.
Kinh phí, ngân sách bảo đảm cho thực hiện công tác quốc phòng, nhất là ở các bộ, ngành Trung ương không đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, nhiều bộ, ngành chưa bố trí kinh phí và chưa xác định rõ được danh mục, nội dung kinh phí cho công tác quốc phòng, quân sự nên việc chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện còn khó khăn, lúng túng; có bộ, ngành chưa thực hiện việc chi trả phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ Ban Chỉ huy quân sự (Nghị định số 119/2004/NĐ-CP có nhiệm vụ chi nhưng chưa có mục chi nên gặp khó khăn trong lập, chấp hành và quyết toán ngân sách).
Xuất phát từ quan điểm, đường lối của Đảng, từ thực tiễn và những vấn đề cần phải điều chỉnh. Việc ban hành Pháp lệnh về công tác quốc phòng ở các Bộ, ngành Trung ương, các địa phương là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
Phạm vi điều chỉnh đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh: Pháp lệnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ và ngân sách đối với công tác quốc phòng ở các bộ, ngành Trung ương, các Ban của Đảng và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn trong phạm vi toàn quốc.
Đối tượng áp dụng: công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam (gọi tắt là công dân Việt Nam); cơ quan, tổ chức của Việt Nam; Tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam liên quan đến công tác quốc phòng.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Bảo đảm lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối với công tác quốc phòng ở các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương; giữ vững các định hướng quan điểm của Đảng về tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN đã được xác định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Quan điểm thống nhất, đồng bộ giữa các Luật và Pháp lệnh đã được ban hành, và Luật quốc phòng năm 2005.
Tranh thủ và tiếp thu ý kiến, phát huy được trách nhiệm của các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương, kết tinh được những ý kiến trí tuệ của các cấp, các bộ, ban, ngành, địa phương để đưa vào Pháp lệnh đạt được sự đồng bộ, thống nhất cao.
Trên cơ sở tổng kết Nghị định số 19/CP ngày 12/3/1994 vào năm 2000 và năm 2009 tổng kết Nghị định số 119/2004/NĐ-CP từ cấp cơ sở đến cấp huyện, cấp tỉnh, bộ, ngành Trung ương rút ra những kết luận đánh giá các ưu, khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm; có nhiều giải pháp kiến nghị, đề xuất, bổ sung xây dựng Pháp lệnh hoàn chỉnh và phù hợp với điều kiện hội nhập, đổi mới của đất nước. Kế thừa các nội dung được triển khai thực hiện tốt của Nghị định số 119/2004/NĐ-CP, điều chỉnh sửa đổi, bổ sung những nội dung không còn phù hợp; tiếp thu, cụ thể hóa nội dung của một số Luật, Pháp lệnh, Nghị định có liên quan đến công tác quốc phòng ở các bộ, ban, ngành, các địa phương đã được ban hành từ năm 2005 đến nay; đồng thời, thông qua thực tiễn của việc thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ, những vấn đề đã đi vào cuộc sống và có tính khả thi cao cần được nâng lên thành Pháp lệnh để hạn chế các văn bản dưới Luật.
Quan điểm quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong thực hiện công tác quốc phòng. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và bảo vệ tiềm lực quốc phòng, đấu tranh quốc phòng, xây dựng công nghiệp quốc phòng; quản lý, bảo vệ các công trình quốc phòng; xây dựng cơ sở vững mạnh về quốc phòng, an ninh góp phần xây dựng lực lượng, thế trận của khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc; thực hiện công tác phòng thủ dân sự trong cả thời bình và thời chiến.
Kết hợp thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh. Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, chú trọng xây dựng lực lượng Bộ đội địa phương, Biên phòng, Công an, Dân quân tự vệ, Dự bị động viên vững mạnh toàn diện; thực hiện công tác động viên, tuyển quân, tuyển sinh quân sự; xây dựng và sẵn sàng động viên nên kinh tế quốc dân cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Nội dung chính
Quy định chung quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; vị trí, nội dung công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, các địa phương; nguyên tắc tổ chức và hoạt động.
Nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành và các địa phương đối với công tác quốc phòng quy định tổ chức bộ máy , mối quan hệ của cơ quan, cán bộ công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, các địa phương quy định về tổ chức Ban Chỉ huy quân sự bộ, ngành và Ban Chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở; kiện toàn các vụ, phòng, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác quốc phòng - an ninh; kiện toàn Cơ quan thường trực công tác quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng; quan hệ giữa Bộ Quốc phòng với các bộ, ngành, địa phương; quan hệ giữa các bộ, ngành với các địa phương; quan hệ giữa Bộ Tư lệnh Quân khu và cơ quan quân sự địa phương với Uỷ ban nhân dân các cấp.
Quản lý nhà nước về công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, các địa phương quy định nội dung quản lý nhà nước về công tác quốc phòng; trách nhiệm của Bộ Quốc phòng; trách nhiệm của các bộ, ngành; trách nhiệm của các địa phương; thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác quốc phòng; sơ kết, tổng kết công tác quốc phòng.
Bảo đảm ngân sách, thực hiện chế độ, chính sách đối với công tác quốc phòng ở các bộ, ngạnh và các địa phương quy định về dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách; Chế độ, chính sách thực hiện công tác quốc phòng
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Nguồn kinh phí xây dựng do ngân sách nhà nước cấp. Cục Dân quân tự vệ lập dự toán báo cáo để được duyệt chi theo Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hiện hành về những nội dung chi cho công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
2. Pháp lệnh cảnh sát cơ động
Sự cần thiết ban hành văn bản
Nghị quyết số 40-NQ/TW ngày 08/11/2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác công an trong tình hình mới đã chỉ rõ mục tiêu công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân là “Huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong đó lực lượng Công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt, xung kích, tiếp tục xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, ngăn chặn các loại tội phạm”. Tại phiên họp ngày 09/02/2006, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 211-TB/TW ngày 20/02/2006 đồng ý chủ trương xây dựng lực lượng Cảnh sát cơ động thành lực lượng vũ trang mạnh, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng cơ động tác chiến làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Cảnh sát cơ động là các đơn vị vũ trang chiến đấu tập trung; có chức năng, nhiệm vụ: tổ chức tuần tra giữ gìn an ninh, trật tự, cơ động chiến đấu, trấn áp kịp thời mọi hoạt động gây phương hại đến an ninh, trật tự; tham gia cứu nạn, cứu hộ, phòng chống thiên tai, khắc phục hậu quả bão, lũ luật, hỏa hoạn; nghiên cứu âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm có tổ chức vũ trang, các hoạt động khủng bố, không tặc, bắt cóc con tin, phá hoại có vũ trang, tội phạm hình sự đặc biệt nguy hiểm; chiến đấu chống mọi hoạt động phá hoại an ninh, gây rối trật tự, vũ trang trấn áp kịp thời các vụ gây rối, biểu tình bất hợp pháp, bạo loạn chính trị, khủng bố, không tặc, bắt cóc con tin...
Hiện nay, Cảnh sát cơ động đang gặp khó khăn, vướng mắc về cơ chế chỉ huy, điều hành, phối hợp với các lực lượng trong và ngoài ngành Công an; về sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ đã được trang bị; về phân công, phân cấp; chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ...
Để xây dựng Cảnh sát cơ động thành lực lượng chính quy, tinh nhuệ và hiện đại; nâng cao hiệu quả chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay thì việc xây dựng dự án Pháp lệnh Cảnh sát cơ động là cần thiết và cấp bách. Dự án Pháp lệnh Cảnh sát cơ động đã được đưa vào Chương trình chuẩn bị thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 của Quốc hội (Nghị quyết số 07/2011/QH13).
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Pháp lệnh được áp dụng cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị thuộc lực lượng Cảnh sát cơ động, Cảnh sát đặc nhiệm từ trung ương đến Công an các địa phương; các cơ quan, tổ chức đơn vị, cá nhân có liên quan khi thực hiện nhiệm vụ phòng, chống gây rối, bạo loạn, khủng bố, giải cứu con tin, cứu hộ, cứu nạn…
Pháp lệnh quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động, chế độ chính sách, các biện pháp được áp dụng để giải quyết các vụ bạo loạn, phá rối an ninh, bắt giữ con tin... của lực lượng Cảnh sát cơ động và trách nhiệm của các đơn vị, cơ quan, tổ chức, chính quyền, công dân trong công tác của Cảnh sát cơ động, Cảnh sát đặc nhiệm...
Những quan điểm chỉ đạo và nội dung chính
- Thể chế hóa những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh chống bạo loạn, phá rối an ninh, tội phạm có tổ chức, có vũ trang, không tặc, bắt cóc con tin, phá hoại, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
- Quy định những cơ sở, nguyên tắc pháp lý, trách nhiệm trong đấu tranh với tội phạm nêu trên không chỉ đối với lực lượng Cảnh sát cơ động mà còn đối với các lực lượng vũ trang và chính quyền các cấp, các tổ chức, cá nhân.
- Kế thừa được những kinh nghiệm quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong tổ chức và hoạt động của Cảnh sát cơ động đấu tranh trấn áp tội phạm từ trước đến nay, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhất là kinh nghiệm lập pháp và thi hành pháp luật trong lĩnh vực này.
- Pháp lệnh Cảnh sát cơ động được xây dựng dựa trên các quy định của Hiến pháp và phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, bảo đảm các nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Bộ Công an chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng…
3. Pháp lệnh xử lý hành chính các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
B. CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN BỊ
1. Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi)
Thuộc Chương trình chuẩn bị năm 2012.
2. Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi luật
Luật tổ chức Chính phủ ra đời năm 2001 thay thế Luật tổ chức Chính phủ năm 1992 trên cở sở căn cứ Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2010/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10. Qua 10 thực hiện, Luật tổ chức Chính phủ là cơ sở pháp lý quan trọng với các quy định về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, đã giúp cho các cơ quan thực thi nhiệm vụ, quyền hạn được thống nhất thông suốt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Theo tiến trình phát triển chung trong nước và quốc tế từ khi Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 ban hành đến nay đã có nhiều thay đổi, Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã có sự đánh giá nghiêm túc, toàn diện trên các mặt về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trong giai đoạn 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX và nhìn lại 20 năm đổi mới, phát triển của đất nước, đề ra các định hướng phát triển của đất nước cho phù hợp với tình hình mới. Đối với tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Nghị quyết Đại hội X đã chỉ rõ: Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng: Xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiện đại. Luật hóa cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực. Theo đó, điều chỉnh chức năng của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển. Chính phủ tập trung vào việc hoạch định chính sách, xây dựng giải pháp, cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, thanh tra thực hiện thể chế; xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội của cơ quan công quyền các cấp. Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm hợp lý đầu mối, phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh; tổ chức Chính phủ tinh gọn và hợp lý; tăng cường dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh; xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương giải pháp phù hợp cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cấp chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao. Đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Từ định hướng nêu trên của Đảng, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ, việc xem xét và điều chỉnh sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Chính phủ trong giai đoạn hiện nay là cần thiết và thuận lợi trong điều kiện nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Đánh giá hoạt động của Chính phủ theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 trước yêu cầu của Nghị quyết Đại hội X và XI của Đảng và so với thực tế tình hình phát triển chung của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế đã bộc lộ những vấn đề vướng mắc, bất cập chưa giải quyết được và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý đất nước trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
- Các quy định của Luật tổ chức Chính phủ có một số nội dung quy định về chức năng nhiệm vụ đã có nhiều điểm chưa theo kịp với tiến trình phát triển của đất nước chưa có quy phạm điều chỉnh phù hợp, gây khó khăn trong công tác điều hành của Chính phủ.
- Luật tổ chức Chính phủ hiện hành chưa có quy định có tính chất nguyên tắc về tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực theo Nghị quyết của Trung ương Đảng. Nội dung phân cấp chưa được cụ thể hóa trong quy định văn bản luật.
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên là các Bộ trưởng chưa rõ; vai trò trách nhiệm của thành viên Chính phủ với vai trò trách nhiệm của Bộ trưởng chưa được phân định rành mạch, còn nhiều điểm chung chung, chưa phát huy được hiệu quả hoạt động của thành viên Chính phủ.
- Một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đang có nhiều bất cập, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội và xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay; thực tiễn đang đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với một số vấn đề rất cấp thiết như: Công tác quản lý đất đai, khoáng sản, tài nguyên quốc gia, tài sản công, vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp, quản lý năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng; bảo vệ và cải thiện môi trường; ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và các diễn biến phức tạp của thiên tai; quản lý đô thị, kiến trúc, nhà ở; cải cách hành chính; phòng chống tham nhũng; quản lý nhà nước về các hội, các tổ chức phi chính phủ.
- Một số nội dung nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Nghị quyết Đại hội X và XI của Đảng chưa được cụ thể hóa trong Luật nên chưa có tính khả thi trước yêu cầu thực tế đòi hỏi.
- Các vấn đề nêu trên cần được xem xét, bổ sung hoàn chỉnh hơn trong một văn bản luật thống nhất, nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cao hơn để phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước cao nhất trong giai đoạn hiện nay và có tính ổn định lâu dài trong tương lai.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Dự án Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi) quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thành viên Chính phủ, mối quan hệ giữa các thành viên của Chính phủ.
Đối tượng áp dụng: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Những quan điểm chỉ đạo, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm định hướng sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ
Thể chế hóa được những vấn đề chủ yếu cải cách tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Kế thừa những quy định còn phù hợp trong Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung phải bảo đảm hoàn thiện tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Chính phủ hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Bảo đảm tính khả thi của Dự án Luật để khi ban hành sẽ trở thành căn cứ pháp lý tháo gỡ những vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ hiện nay.
Luật hóa cơ cấu tổ chức Chính phủ, tiếp tục tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển trong tình hình mới của đất nước.
Điều chỉnh mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ là Bộ trưởng; mối quan hệ giữa cơ quan thực hiện chức năng hành pháp với lập pháp và tư pháp; mối quan hệ giữa Chính phủ với chính quyền địa phương. Dự án Luật phải bảo đảm ổn định lâu dài, điều chỉnh hiệu quả hoạt động đối với tổ chức bộ máy Chính phủ khóa tới và các khóa tiếp theo.
Bảo đảm sự nhất quán giữa các quy định của Luật tổ chức Chính phủ với các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và các luật pháp khác trong nước và quốc tế có liên quan; việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Chính phủ phải gắn với các nội dung, yêu cầu sửa đổi Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và đặt trong tổng thể đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nội dung các quy định của Luật rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ, dễ hiểu, dễ thực hiện; giảm thiểu tối đa các nội dung cần hướng dẫn thực hiện sau khi ban hành Luật.
Nội dung chính
Dự kiến đề xuất theo hai phương án:
Trình Chính phủ dự thảo Luật tổ chức Chính phủ mới, thay thế Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.
- Tác động tích cực: Luật tổ chức Chính phủ mới được bổ sung cơ bản các nội dung phù hợp, cụ thể hóa được Nghị quyết của Đảng sẽ điều chỉnh hoạt động của Chính phủ đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, bảo đảm được thống nhất, thông suốt; tránh được tình trạng quy định không đầy đủ, không cụ thể, không rõ ràng, chồng chéo, bảo đảm việc quản lý hoạt động của Chính phủ, các thành viên Chính phủ sẽ được thống nhất và chặt chẽ; góp phần cải cách mạnh về phương thức hoạt động và lãnh đạo điều hành của Chính phủ; giảm tối đa các loại văn bản hướng dẫn của Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan;
+ Luật tổ chức Chính phủ là công cụ pháp lý quan trọng để theo dõi, đánh giá, kiểm tra kịp thời, chặt chẽ hoạt động của Chính phủ và các thành viên Chính phủ, bảo đảm hoạt động của Chính phủ có hiệu quả cao; khắc phục những vấn đề thiếu hụt, bất cập trong quản lý, điều hành của Chính phủ hiện nay; góp phần nâng cao vai trò của Chính phủ, tạo tiền đề cho các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung; góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.
+ Các nội dung sửa đổi của Luật tổ chức Chính phủ là cơ sở pháp lý để sửa đổi các văn bản luật khác và văn bản dưới luật có liên quan có nội dung bất cập, mà chưa được xem xét điều chỉnh bổ sung để hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ.
+ Luật tổ chức Chính phủ có liên quan phù hợp tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho tổ chức, hoạt động của Chính phủ; mối quan hệ của Chính phủ với Quốc hội, Tòa án tối cao, Viện kiểm sát tối cao và các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội cũng như các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội có liên quan.
- Tác động tiêu cực: Luật tổ chức Chính phủ có liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp và luật khác, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là một nhiệm vụ lớn đòi hỏi phải nghiên cứu và đánh giá toàn diện để nội dung quy định trong Dự án Luật được đầy đủ, thống nhất bảo đảm tính ổn định lâu dài để hạn chế việc xáo trộn, không ổn định làm ảnh hưởng hoạt động Chính phủ và các cơ quan tổ chức có liên quan.
+ Đòi hỏi chi phí về tài chính từ ngân sách nhà nước, nguồn nhân lực bảo đảm cho công tác xây dựng cao đến mức cần thiết trong quá trình soạn thảo Dự án Luật, soạn thảo văn bản hướng dẫn thi hành và triển khai việc tuyên truyền, phổ biến để pháp luật được vào cuộc sống.
Từ phân tích trên, để thực sự đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại thì việc xây dựng hoàn thiện văn bản Luật tổ chức Chính phủ theo hướng thay thế Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 là cần thiết và có nhiều ưu điểm, trên cơ sở kế thừa Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 và hoàn thiện, bổ sung các nội dung mới phù hợp và mang tính ổn định lâu dài.
Dự kiến nguồn nhân lực và các điều kiện bảo đảm
Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì soạn thảo.
Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và một số Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan.
2. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi Luật
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội thông qua năm 2003 đã góp phần quan trọng vào việc kiện toàn và củng cố một bước tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp những năm qua và yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới cho thấy Luật hiện hành đã bộc lộ những hạn chế:
- Cơ cấu, tổ chức và nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp quy định trong luật chưa thể hiện rõ vai trò của mỗi cấp hành chính. Trách nhiệm, thẩm quyền giữa cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã chưa được phân định rõ, ràch mạch. Mô hình tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được áp dụng chung cho tất cả các cấp hành chính, không phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của đơn vị hành chính ở mỗi cấp; chưa phân biệt rõ mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
- Luật hiện hành chưa cụ thể hoá được chủ trương, quan điểm trong các Nghị quyết của Đảng về phân cấp mạnh và rõ hơn giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương theo hướng ''việc nào do cấp nào quản lý và giải quyết sát thực tiễn hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó''.
- Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể chưa rõ, do đó chưa đề cao được trách nhiệm của tập thể Uỷ ban nhân dân trong việc quyết định các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền; chưa có cơ chế nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên Uỷ ban nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền được giao. Tính tự quản của Hội đồng nhân dân cấp xã là xu hướng chung cần từng bước có cơ chế thực hiện, song chưa được quy định trong luật nên hạn chế trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền cơ sở.
- Luật hiện hành chưa phân định rõ về thẩm quyền, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân các cấp nên trong thực tế có tình trạng cùng một vấn đề cả ba cấp Hội đồng nhân dân đều bàn bạc và ra nghị quyết thông qua; một văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành chỉ được chính quyền địa phương triển khai thực hiện khi có văn bản hướng dẫn của cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp; một số nhiệm vụ Luật quy định Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã không có khả năng thực thi; vai trò đại diện cho quyền lực Nhà nước ở địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp chưa được thể hiện rõ.
- Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường; thí điểm nhất thể hoá chức danh Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở một số đơn vị hành chính cũng đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hiện hành cho phù hợp.
Từ những căn cứ nêu trên, việc xây dựng Dự án Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) nhằm khắc khục những hạn chế, tồn tại trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, tạo khung pháp lý hoàn chỉnh đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp trong nhiệm kỳ mới là cần thiết.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Quy định mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo hướng đổi mới, xác định và phân định rõ mô hình tổ chức, chức năng, thẩm quyền của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp, quy định việc phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương.
Đối tượng áp dụng: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Quan điểm chỉ đạo, chính sách cơ bản, nội dung chính
Thể chế hoá được tinh thần đổi mới của Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả;
Trong quá trình xây dựng Dự án Luật, cần bám sát quan điểm, định hướng của Đảng trong Văn kiện Đại hội X và Văn kiện đại hội XI của Đảng, gắn với các định hướng sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 về chính quyền địa phương.
Xây dựng Dự án Luật trên tinh thần sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 hiện hành; cải cách mạnh đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mỗi cấp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
Xác định rõ vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong mô hình tổng thể chính quyền địa phương trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất của bộ máy hành chính từ Trung ương đến cơ sở; nghiên cứu mô hình tổ chức, nhiệm vụ, thẩm quyền của chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo; phân biệt mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền và cơ chế hoạt động giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.
Tiến hành phân cấp hợp lý nhiệm vụ, thẩm quyền giữa cấp Trung ương với chính quyền cấp tỉnh; đẩy mạnh phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương (cấp tỉnh,cấp huyện và cấp xã) đi đôi với nâng cao chất lượng quy hoạch, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương và chính quyền cấp trên, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền giữa các cấp chính quyền địa phương.
Nội dung chính
Về tên gọi: đề xuất tên gọi của Dự án Luật là Luật tổ chức chính quyền địa phương. Dự án Luật được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung điều, khoản, trong đó có xây dựng cơ quan hành chính địa phương các cấp theo mô hình mới, không còn là Ủy ban nhân dân các cấp.
Về tổ chức chính quyền địa phương:
Dự án Luật nghiên cứu xây dựng mô hình mới về tổ chức chính quyền địa phương theo các phương án như sau:
Phương án I: Phương án tổ chức theo mô hình chính quyền hai cấp là cấp tỉnh và cấp dưới tỉnh, cụ thể: Phân định rõ chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn; Chỉ tổ chức Hội đồng nhân dân ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Không tổ chức Hội đồng nhân dân ở cấp dưới tỉnh; Cơ quan hành chính ở cấp tỉnh và cấp dưới tỉnh gọi chung là Uỷ ban hành chính; Người đứng đầu cơ quan hành chính ở đô thị là Thị trưởng; Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc do Hội đồng nhân dân thành phố bầu ra và Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu cử; Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới; Người đứng đầu cơ quan hành chính ở nông thôn là Chủ tịch Uỷ ban hành chính. Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc do Hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra và Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả bầu cử. Người đứng đầu cơ quan hành chính dưới cấp tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh bổ nhiệm.
Phương án II: Phương án tổ chức chính quyền địa phương theo ba cấp, song có phân biệt rõ mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Đối với chính quyền đô thị (thành phố trực thuộc Trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, phường). Chính quyền thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã: gồm có cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính là Tòa thị chính, đứng đầu là Thị trưởng, là một hình thức của chính quyền địa phương, thuộc hệ thống tổ chức của Chính phủ (hệ thống hành pháp). Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã do nhân dân bầu. Cơ quan hành chính đứng đầu là Thị trưởng do Hội đồng nhân dân bầu, kết quả bầu Thị trưởng vẫn do cấp trên phê chuẩn. Chỉ có một đến hai phó Thị trưởng, do Thị trưởng đề nghị Hội đồng nhân dân phê chuẩn.
- Đối với quận. Quận là cấp chính quyền không hoàn chỉnh. Không thiết lập Hội đồng nhân dân, chỉ tổ chức cơ quan hành chính quận. Người đứng đầu cơ quan hành chính quận là Quận trưởng do Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm; trực thuộc Quận trưởng là một hoặc một số Phó Quận trưởng do Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm theo đề nghị của Quận trưởng. Tổ chức bộ máy hành chính quận theo hướng cơ quan hành chính quận là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính thành phố.
- Đối với Phường: Phường là một cấp chính quyền không hoàn chỉnh, không thiết lập Hội đồng nhân dân, có cơ quan hành chính phường. Người đứng đầu cơ quan hành chính phường có Phường trưởng do Quận trưởng, Thị trưởng thành phố, thị xã thuộc tỉnh bổ nhiệm. Phường có một hoặc hai Phó Trưởng phường, do Phường trưởng đề nghị Quận trưởng, Thị trưởng thành phố, thị xã thuộc tỉnh bổ nhiệm. Tổ chức bộ máy hành chính phường theo hướng cơ quan hành chính phường là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Đối với chính quyền nông thôn: Chính quyền tỉnh: Gồm có cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính. Đứng đầu cơ quan hành chính tỉnh là tỉnh trưởng do Hội đồng nhân dân bầu, kết quả bầu tỉnh trưởng do Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Có một đến ba Phó Tỉnh trưởng do Tỉnh trưởng đề nghị Hội đồng nhân dân phê chuẩn.
+ Đối với chính quyền huyện: Huyện tổ chức theo mô hình chính quyền nông thôn. Xác định huyện là cấp hành chính trung gian, không phải là cấp chính quyền hoàn chỉnh, do đó không tổ chức Hội đồng nhân dân mà chỉ có cơ quan hành chính. Người đứng đầu cơ quan hành chính huyện là huyện trưởng do tỉnh trưởng hoặc Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm; trực thuộc huyện trưởng là một hoặc một số Phó Huyện trưởng do Tỉnh trưởng hoặc Thị trưởng thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm theo đề nghị của Huyện trưởng. Tổ chức bộ máy hành chính huyện theo hướng cơ quan hành chính huyện là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
+ Đối với chính quyền xã, thị trấn. Xã, thị trấn được tổ chức là một cấp chính quyền hoàn chỉnh, bao gồm Hội đồng nhân dân do người dân trực tiếp bầu ra. Thiết lập cơ chế xã trưởng do cấp trên bổ nhiệm. Mô hình tổ chức xã, thị trấn về cơ bản như Hiến pháp và luật hiện hành.
Phương án III: Phương án cải cách một bước mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo hướng không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Tổ chức chính quyền địa phương vẫn theo ba cấp như Hiến pháp và Luật hiện hành. Không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Tổ chức lại bộ máy hành chính địa phương theo hướng cơ quan hành chính (Uỷ ban hành chính) huyện, quận, phường là cơ quan đại diện của cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp. Thực hiện chế độ bổ nhiệm trong bộ máy hành chính tại nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, cụ thể: Tăng số lượng thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân; thay chức danh Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân thành chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Tăng số Ban của Hội đồng nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó đối với thành phố trực thuộc Trung ương cần có Ban về quản lý đô thị, xây dựng, giao thông, môi trường. Nghiên cứu thành lập Ban Hội đồng nhân dân xã, thị trấn nếu vẫn tổ chức Hội đồng nhân dân ở các đơn vị hành chính này. Tăng cường hoạt động Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân (đặt tại huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã) để thực hiện hiệu quả quyền đại diện của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tại địa bàn. Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ bảo đảm hiệu quả hoạt động của các đại biểu của Tổ, nhất là hoạt động giám sát đối với các cơ quan nhà nước trên địa bàn; đồng thời là nơi tiếp thu các ý kiến, kiến nghị của nhân dân trên địa bàn cho Hội đồng nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tăng số lượng đại biểu và đại biểu chuyên trách của Hội đồng nhân dân: Mỗi Ban có ít nhất 02 đại biểu chuyên trách. Trong đó Trưởng các Ban nhất thiết phải là đại biểu chuyên trách. Mỗi Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân (đặt tại huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã) có 01 đại biểu chuyên trách theo dõi địa bàn.
Về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ chế hoạt động của chính quyền địa phương.
Đối với Hội đồng nhân dân các cấp. Xác định Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương; quyết nghị các vấn đề thuộc thẩm quyền của địa phương và thực hiện các chức năng mang tính tự quản địa phương.
- Phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế hoạt động của Hội đồng nhân dân thuộc chính quyền đô thị (thành phố trực thuộc Trung ương, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và chính quyền nông thôn (tỉnh, xã, thị trấn).
- Nghiên cứu theo hướng không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường nên trong Dự án Luật sẽ không quy định nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
- Nghiên cứu tăng thẩm quyền đối với Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương và tỉnh trong điều kiện tổ chức chính quyền đô thị (không tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số đơn vị hành chính); tăng thẩm quyền đối với Hội đồng nhân dân thành phố, thị xã khi không có Hội đồng nhân dân phường.
Đối với cơ quan hành chính (Toà thị chính hoặc Uỷ ban hành chính) các cấp
- Xác định rõ, cụ thể hơn vị trí, vai trò của cơ quan hành chính các địa phương theo hướng tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.
- Cơ quan hành chính cấp dưới là đại diện của cơ quan hành chính cấp trên đặt tại địa bàn để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của chính quyền cấp trên.
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính các cấp trên các lĩnh vực quản lý. Phân biệt nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan hành chính khu vực đô thị (thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường) khác với cơ quan hành chính nông thôn (tỉnh, huyện, xã, thị trấn).
- Phân định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp với tập thể theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương.
- Nghiên cứu xác định mô hình cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động đặc thù đối với một số đô thị (thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại I, loại II) và các huyện đảo. Luật Chính quyền địa phương (mới) quy định khung áp dụng, trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành Nghị định quy định cụ thể nội dung này của Luật.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
Dự án Luật nghiên cứu quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính theo một trong hai phương án sau:
Phương án 1: Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính trong Dự án Luật: Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính trên các lĩnh vực quản lý. Phân biệt nhiệm vụ, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính khu vực đô thị (thành phố trực thuộc Trung ưoơg, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường) khác với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính khu vực nông thôn (tỉnh, huyện, xã, thị trấn). Phân định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của nguời đứng đầu Uỷ ban hành chính và tập thể Uỷ ban hành chính theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
Phương án 2: Không quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính trong Dự án Luật mà sẽ do các luật khác và văn bản dưới luật chuyên ngành quy định. Hiện nay, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân các cấp đã được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Do đó, nếu quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính trong Luật Chính quyền địa phương (mới) vừa không đầy đủ vừa dễ trùng lặp với các văn bản pháp luật chuyên ngành. Vì vậy, theo Phương án trên, sẽ nghiên cứu quy định theo hướng: Luật tổ chức Chính quyền địa phương chỉ quy định về tổ chức và cơ chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính thực hiện theo các quy định của Luật chuyên ngành như: Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật giáo dục.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Cơ quan phối hợp gồm: Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Ban Công tác đại biểu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cùng một số Bộ, ngành có liên quan.
3. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi)
Thuộc Chương trình chuẩn bị năm 2012.
4. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi)
Thuộc Chương trình chuẩn bị năm 2012.
5. Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Thuộc Chương trình chuẩn bị năm 2012.
6. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (sửa đổi)
Thuộc Chương trình chuẩn bị năm 2012.
7. Luật hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
8. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
9. Luật trưng cầu ý dân
10. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (hợp nhất)
Sự cần thiết ban hành
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002, Luật đã quy định rõ chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản, nội dung, hình thức, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật… Qua 3 năm thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần đưa công tác xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật vào nề nếp hơn, như quy trình lập chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh hành năm và của từng khoá Quốc hội, hình thức văn bản quy phạm pháp luật cũng được đơn giản hoá… Mặc dù Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới được sửa đổi nhưng qua 3 năm thực hiện cũng đã bộc lộ một số nội dung cần được làm rõ hơn như khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy trình một luật sửa nhiều luật, theo dõi thi hành pháp luật,…
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, hiện đang là cơ sở pháp lý cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp. Qua 7 năm thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý, đưa hoạt động ban hành văn bản của chính quyền địa phương đi vào nề nếp. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 đã bộc lộ nhiều nội dung hạn chế, bất cập như thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hình thức, nội dung văn bản bản quy phạm pháp luật, quy trình ban hành văn bản, đánh giá tác động văn bản, hợp nhất văn bản, pháp điển quy phạm pháp luật...Trong thời gian tới Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 phải được nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với lý luận và thực tiễn ban hành văn bản QPPL ở địa phương.
Hiện nay, pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đang phân tách thành hai cấp: cấp Trung ương và cấp địa phương, tương ứng là 02 Luật khác nhau. Theo đó, việc ban hành văn bản QPPL thuộc thẩm quyền của các cơ quan Trung ương chịu sự điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Ban hành văn bản QPPL thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 3 cấp: tỉnh, huyện, xã) chịu sự điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 2004. Về cơ bản, phạm vi và đối tượng điều chỉnh của 02 Luật này gần giống nhau: quy định về trình tự thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, từ giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến tham gia, thẩm định và ban hành đến các giai đoạn sau khi ban hành như kiểm tra, rà soát hệ thống hoá văn bản. Việc tồn tại hai Luật song song cùng điều chỉnh một hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật sớm bộc lộ những hạn chế, bất cập và mâu thuẫn làm ảnh hưởng đến tính khả thi và hiệu lực thực tế trong quá trình áp dụng.
Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua thang 3/2012, sắp tới Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ thông qua Pháp lệnh Pháp điển hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Sự ra đời của 02 pháp lệnh này cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành 02 pháp lệnh về quy trình và kỹ thuật hợp nhất văn bản và pháp điển hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo ra những thay đổi cơ bản trong quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Từ những lý do nêu trên, việc hợp nhất 02 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp là cần thiết, nhằm khắc phục được những bất cập đồng thời nâng cao được tính hiệu lực thực tế, tính khả thi trong quá trình áp dụng.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Luật mới sẽ thay thế Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 quy định về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật,… của các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ các cơ quan Trung ương đến địa phương.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm xây dựng văn bản
Thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; chiến lược cải cách tư pháp trong đó có định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện thể chế trong đó hướng đến xây dựng một quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất ở Trung ương và địa phương.
- Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động pháp điển.
- Kế thừa và phát huy các quy định hợp lý trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004.
- Nghiên cứu, học tập và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số nước, đặc biệt là các nước đã thực có hệ thống văn bản luật hoàn chỉnh.
Nội dung chính
Hợp nhất Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004, trên cơ sở đó cần tập trung làm rõ các nội dung sau:
- Quy định rõ hơn khái niệm “văn bản quy phạm pháp luật”. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng pháp luật ở địa phương, vì nếu là văn bản quy phạm pháp luật thì việc soạn thảo, thẩm định, thông qua, công bố…phải tuân theo trình tự, thủ tục được Luật quy định.
- Quy định cụ thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo hướng đơn giản hoá các hình thức văn bản quy phạm pháp luật (bỏ bớt một số hình thức văn bản quy phạm pháp luật cũng như chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Thu gọn hình thức văn bản QPPL của chính quyền địa phương, đặc biệt là UBND theo hướng mỗi cơ quan chỉ ban hành một hình thức văn bản, cụ thể là: HĐND ban hành Nghị quyết; UBND ban hành Quyết định. Quy định theo hướng này cũng phù hợp với quy định của Luật 2008, theo đó, mỗi cơ quan có thẩm quyền từ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ chỉ ban hành một hình thức văn bản QPPL.
Quy định rõ các biện pháp để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản do chính quyền địa phương ban hành. Cần có những quy định về tính khoa học trong việc lập chương trình, về tính khả thi của văn bản, sự tham gia của cán bộ tư pháp ngay từ khi soạn thảo, vai trò của cán bộ pháp chế của các Sở, ban, ngành ở địa phương, vai trò của Sở Tư pháp trong công tác thẩm định…
Nghiên cứu rút bớt cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật: có thể chỉ giữ lại cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, còn cấp huyện và cấp xã chỉ là cấp thi hành, không ban hành văn bản QPPL. Vấn đề này có liên quan đến việc sửa đổi Luật tổ chức HĐND và UBND, xử lý vấn đề phân cấp, phân quyền giữa các cấp chính quyền địa phương.
- Quy định cụ thể, phân định rõ ràng nội dung của từng hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
- Quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tương ứng với mỗi laọi hình văn bản. Xác định rõ cơ chế tham gia ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp của các tổ chức, cá nhân, sự tiếp thu ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền.
- Quy định quy trình xây dựng văn bản theo thủ tục rút gọn, một văn bản sửa nhiều văn bản…quy định cụ thể về đánh giá tác động văn bản, hiệu quả thi hành văn bản.
- Nội dung hợp nhất văn bản, pháp điển hệ thống văn bản quy phạm pháp luật kể cả đối với văn bản của địa phương.
- Quy định thẩm quyền ban hành văn bản của địa phương, nội dung văn bản của địa phương, cơ chế giám sát, kiểm tra văn bản của đại phương,…
- Quy định các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản và thi hành pháp luật của các bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của UBND.
- Quy định rõ hơn về quy trình rút gon, quy trình một văn bản sửa nhiều văn bản.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Kinh phí xây dựng: ngân sách nhà nước, các nguồn tài trợ khác.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan tổ chức soạn thảo văn bản này.
11. Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự
Sự cần thiết ban hành văn bản
Thực tế cho thấy, kể từ khi được ban hành lần đầu tiên vào năm 1989, tiếp đó được sửa đổi, xây dựng mới vào năm 2004, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự đã phát huy được tác dụng to lớn trong lĩnh vực điều tra tội phạm. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, hoạt động điều tra tội phạm của các cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã thu được những kết quả rất quan trọng, góp phần giữ vững an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế, tình hình an ninh, trật tự của đất nước ta vẫn đang có những diễn biến phức tạp, các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, các tội phạm về ma tuý, kinh tế và tham nhũng... có xu hướng ngày càng gia tăng. Nhiều hành vi phạm tội mới xuất hiện như tội phạm lợi dụng công nghệ cao, tội phạm về tin học, rửa tiền... Thực tế này đã gây nhiều khó khăn, vướng mắc cho hoạt động điều tra tội phạm, nhất là trong tình hình Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 21/6/2005 của Bộ Chính trị; vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng dự án Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự là cần thiết, dự án Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được đưa vào Chương trình chuẩn bị của Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2012 (Nghị quyết số 07/2011/QH13).
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng liên quan đến hoạt động tổ chức điều tra hình sự như những quy định chung về tổ chức bộ máy, thẩm quyền điều tra cụ thể của cơ quan điều tra, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong hoạt động điều tra của các cơ quan nhà nước khác theo lĩnh vực hoạt động của mình; mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan, tổ chức khác.v.v..
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự áp dụng đối với tất cả cơ quan, tổ chức cá nhân trong nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Quan điểm chỉ đạo, nội dung chính của văn bản
Quan điểm xây dựng văn bản
- Thể chế hoá đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về cải cách tư pháp trong đó có hệ thống Cơ quan điều tra; bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra tuân thủ các quy định của Hiến pháp, pháp luật; phù hợp với nguyên tắc và thực tiễn tổ chức bộ máy của Nhà nước ta hiện nay và tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
- Việc xây dựng dự án Luật được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; đáp ứng yêu cầu của công tác điều tra tội phạm trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
- Tạo cơ sở pháp lý mới đầy đủ hơn và tương xứng hơn cho tổ chức hoạt động điều tra hình sự ở Việt Nam và hợp tác quốc tế trong tổ chức hoạt động điều tra hình sự.
- Tham khảo có chọn lọc pháp luật về tổ chức và hoạt động điều tra hình sự của một số nước phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, pháp luật, thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nội dung chính
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự gồm những nội dung cơ bản sau: Những quy định chung. Tổ chức và thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra. Quyền hạn điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra. Kiểm sát, kiểm tra và giám sát hoạt động điều tra.
- Tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên. Bảo đảm hoạt động của Cơ quan điều tra. Hợp tác quốc tế trong tổ chức điều tra hình sự. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động điều tra. Điều khoản thi hành.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, như: Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ...
Việc xây dựng Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
12. Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi Luật
Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ 01/01/2004. Trên cơ sở đánh giá 2 năm thực hiện Luật ngân sách nhà nước (năm 2002) của các Bộ, các địa phương và ngành Tài chính; kết quả giám sát của Uỷ ban kinh tế và ngân sách Quốc hội về kết quả 2 năm thực hiện Luật ngân sách nhà nước; đă đặt ra các yêu cầu cần tiếp tục sửa đổi Luật NSNN trong thời gian tới.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 đã xác định: Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện các công việc được ngân sách cấp kinh phí. Xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn để tạo cơ sở nâng cao chất lượng dự toán ngân sách. Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách, bảo đảm tính thống nhất về thể chế của ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương. Phát huy vai trò của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết định và giám sát ngân sách. Nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong quản lý ngân sách nhà nước. Xây dựng thể chế giám sát tài chính đồng bộ; hiện đại hoá công nghệ giám sát. Chuẩn mực hoá hệ thống kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các cấp ngân sách, đơn vị sử dụng vốn, tài sản và ngân sách nhà nước.
Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi) dự kiến những kiến nghị sửa đổi, bổ sung sẽ tập trung vào nội dung chính liên quan tới hệ thống NSNN; tính thống nhất của NSNN; tăng cường phân cấp ngân sách; quy định bội chi và phương pháp tính bội chi ngân sách nhà nước, xác định nghĩa vụ nợ của Chính phủ; thực hiện xây dựng khuôn khổ tài khoá trung hạn và khuôn khổ chiến lược tài chính - ngân sách trung, dài hạn; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Chính phủ và chính quyền địa phương trong việc lập, tổng hợp dự toán NSNN; lập, bố trí dự toán ngân sách theo chương trình, nhiệm vụ, dự án, từng bước bố trí theo kết quả đầu ra đối với những ngành, lĩnh vực, đơn vị có điều kiện thực hiện; thẩm định của cơ quan tài chính đối với báo cáo quyết toán của ngân sách cấp dưới khi tổng hợp, lập báo cáo quyết toán ngân sách; đổi mới quản lý tài chính và ngân sách xã.
Sửa đổi quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi đối với từng cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) thống nhất trong phạm vi toàn quốc; tăng quyền hạn của Quốc hội, HĐND các cấp trong việc quyết định và giám sát ngân sách; tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ngân sách các cấp, nghiên cứu bỏ phương thức lồng ghép giữa các cấp ngân sách như hiện nay; ban hành chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu trong việc quản lý sử dụng ngân sách; đồng thời ban hành đồng bộ những quy định pháp luật về tiêu chuẩn, định mức kinh tế – kỹ thuật các dịch vụ công quan trọng trên địa bàn làm cơ sở để địa phương thực hiện phân bổ ngân sách đúng những ưu tiên của quốc gia trong điều kiện phân cấp ngân sách, giao quyền quyết định ngân sách địa phương cho Hội đồng nhân dân các cấp; phân định rõ ràng về phạm vi ngân sách (các khoản thu ngân sách, các nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp công; phạm vi, đối tượng chi ngân sách) để có phương thức quản lý phù hợp, chặt chẽ, hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện xã hội hoá phát triển các lĩnh vực xã hội; thay đổi phương pháp xác định bội chi NSNN đầy đủ, phù hợp với thông lệ quốc tế (bao gồm cả các khoản Chính phủ vay về cho vay lại; các khoản Chính phủ bảo lãnh vay,...); cho phép ngân sách cấp tỉnh được vay trong nước bù đắp bội chi và quản lý, giám sát chặt chẽ trong phạm vi tổng mức bội chi của NSNN; xây dựng và thực hiện kế hoạch tài chính trung hạn gắn với thực hiện chiến lược tài chính – ngân sách của các ngành quan trọng: giao thông, nông nghiệp, giáo dục, y tế,...; nghiên cứu ban hành quy định pháp luật về việc thực hiện mở rộng phương thức phân bổ, quản lý NSNN theo chương trình mục tiêu, nhiệm vụ, dự án đầu tư; xây dựng hệ thống định mức, tiêu chí phân bổ ngân sách đầu tư, phương thức hỗ trợ ngân sách ưu tiên đối với địa phương nghèo khó khăn, đồng thời có cơ chế khuyến khích phát triển đối với vùng kinh tế động lực; cải cách hành chính trong quản lý NSNN, thực hiện nguyên tắc một đầu mối, một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về NSNN; thực hiện theo nguyên tắc thống nhất chế độ kế toán ngân sách, kế toán kho bạc, kế toán các đơn vị dự toán, kế toán các dự án đầu tư; đổi mới chế độ kế toán nhằm xác định đầy đủ những tác động có liên quan đến NSNN (các khoản phải thu của NSNN như: thuế nợ đọng, các khoản ngân sách cho vay, tạm ứng,... ; các nghĩa vụ nợ trực tiếp, gián tiếp của NSNN như: công nợ, kết quả tài chính của DNNN, của các quỹ tài chính nhà nước, công nợ XDCB của các dự án thuộc đối tượng đầu tư của NSNN; công nợ của các đơn vị sự nghiệp công;...); từng bước thực hiện chế độ kiểm toán nhà nước bắt buộc đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách trên cơ sở tăng cường hệ thống cơ quan kiểm toán nhà nước, đồng thời xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý mở rộng thực hiện kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập; đổi mới công tác thống kê tài chính Chính phủ, phân ngành ngân sách phù hợp với đổi mới về phân ngành kinh tế quốc dân;...
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi) điều chỉnh các quy định về lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán NSNN và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực NSNN.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm định hướng sửa đổi Luật NSNN
Bảo đảm tính thống nhất của NSNN, vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương; tăng cường phân cấp, tăng nguồn thu theo các nguyên tắc phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường cho ngân sách địa phương nhất là cấp xã, tăng số tỉnh, thành phố tự cân đối được ngân sách và có đóng góp với NSNN.
Nội dung chính
Về hệ thống NSNN: sửa đổi các quy định của Luật ngân sách nhà nước nhằm hạn chế và tiến tới xoá bỏ tính lồng ghép của hệ thống NSNN, bảo đảm tính chủ động và tăng cường quyền hạn đối với chính quyền địa phương trong việc lập, quyết định, giao dự toán ngân sách, sử dụng ngân sách và quyết toán ngân sách, tăng tính công khai, minh bạch của ngân sách nhà nước. Sửa đổi theo hướng Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSTW và phân bổ NSTW, phê chuẩn quyết toán NSTW; HĐND các cấp xem xét, quyết định dự toán NSĐP và phân bổ NSĐP cấp mình, phê chuẩn quyết toán NSĐP cấp mình; trong dự toán ngân sách cấp trên bố trí bổ sung hỗ trợ cho cấp dưới theo những nguyên tắc xác định để bảo đảm sự phát triển đồng đều và bảo đảm tính công bằng trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Về tính thống nhất của NSNN: sửa đổi nhằm quy định cụ thể các nguồn thu và nhiệm vụ chi đối với từng cấp chính quyền địa phương (tỉnh – huyện – xã). Trong đó nghiên cứu quy định lại tỷ lệ điều tiết 5 khoản thu về đất phân chia cho ngân sách xã, thị trấn cho phù hợp thực tế và sửa đổi, bổ sung về các luật thuế liên quan đến nhà, đất. Nghiên cứu quy định nhiệm vụ thu, chi ngân sách huyện sao cho phù hợp cơ chế thị trường thực hiện vai trò hỗ trợ các xã thực hiện dịch vụ công mà quy mô ngân sách xã thực hiện không hiệu quả nhất là khu vực miền núi, vùng khó khăn.
Về tăng cường phân cấp ngân sách: đề xuất sửa đổi nhằm phân cấp nguồn thu ổn định trên cơ sở quy định rõ trong Luật NSNN tỷ lệ phân chia một số nguồn thu giữa các cấp ngân sách và thực hiện ổn định theo luật tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các nguồn này giữa các cấp ngân sách; chỉ thực hiện xem xét thay đổi khi có những biến động lớn về kinh tế – xã hội của đất nước và của địa phương và do Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
Về quy định bội chi và phương pháp tính bội chi ngân sách nhà nước, xác định nghĩa vụ nợ của Chính phủ: sửa đổi theo hướng Ngân sách địa phương cấp tỉnh được phép bội chi trong trường hợp có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh; bội chi ngân sách cấp tỉnh được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Để quản lý bội chi NSĐP bảo đảm lành mạnh tài chính quốc gia, nghiên cứu một số phương án quản lý khống chế mức bội chi này:
Về thực hiện xây dựng khuôn khổ tài khoá trung hạn và khuôn khổ chiến lược tài chính-ngân sách trung, dài hạn:bổ sung quy định về nhiệm vụ của các Bộ, địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện khuôn khổ tài chính trung hạn 3 năm và chiến lược trung hạn, dài hạn (kế hoạch chiến lược 5 năm, 10 năm) phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước, của từng ngành, lĩnh vực, của từng Bộ, địa phương.
Về lập, bố trí dự toán ngân sách theo chương trình, nhiệm vụ, dự án, từng bước bố trí theo kết quả đầu ra đối với những ngành, lĩnh vực, đơn vị có điều kiện thực hiện bổ sung quy định về việc từng bước lập, bố trí ngân sách theo chương trình, nhiệm vụ, dự án, bố trí ngân sách căn cứ kết quả đầu ra; giao trách nhiệm của các Bộ, ngành xây dựng hệ thống các chỉ tiêu, phương pháp xác định và đánh giá kết quả thực hiện đầu ra về số lượng và chất lượng làm căn cứ cho việc lập, bố trí ngân sách đối với các chương trình, nhiệm vụ, dự án này, đồng thời làm cơ sở đánh giá kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ và quản lý, sử dụng nguồn lực ngân sách đầu tư thực hiện các nhiệm vụ này.
Về việc thẩm định của cơ quan tài chính đối với báo cáo quyết toán của ngân sách cấp dưới khi tổng hợp, lập báo cáo quyết toán ngân sách: cơ quan tài chính thực hiện thẩm tra báo cáo chi NSNN của Kho bạc nhà nước, quyết toán ngân sách của cơ quan cùng cấp để đánh giá tình hình quản lý thu, chi ngân sách theo quy định của Luật NSNN; trong quá trình thẩm tra nếu phát hiện sai sót, cơ quan tài chính có quyền yêu cầu cơ quan cùng cấp, kho bạc nhà nước điều chỉnh lại cho đúng, đồng thời xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Đối với ngân sách cấp dưới thực hiện kiểm tra, nếu phát hiện sai sót yêu cầu UBND điều chỉnh lại cho đúng, đồng thời xử lý hoặc đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Cơ quan tài chính tổng hợp, lập quyết toán thu ngân sách trên cơ sở số thu đã được Kho bạc nhà nước hạch toán thu trong niên độ ngân sách; quyết toán chi ngân sách trên cơ sở số chi ngân sách đã được kho bạc nhà nước kiểm soát chi theo điều kiện chi Luật NSNN quy định và hạch toán chi ngân sách trong niên độ.
Về đổi mới quản lý tài chính và ngân sách xã: bổ sung quy định của Luật quy định rõ ngân sách xã và ngân sách phường; ngân sách phường theo hướng là đơn vị dự toán; ngân sách xã là một cấp ngân sách đầy đủ. Đối với ngân sách xã quy định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi thống nhất trong toàn quốc. Phân định rõ tài chính xã và ngân sách xã để quản lý tổ chức thực hiện thống nhất trong cả nước. Hoàn thiện chế độ kế toán ngân sách xã: bảo đảm các khoản thu, chi ngân sách xã đều được hạch toán vào ngân sách nhà nước kịp thời, đầy đủ và theo đúng chế độ chính sách nhà nước quy định. Nghiên cứu xây dựng quy chế quy định trách nhiệm cơ quan Kho bạc cấp huyện trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kế toán ngân sách xã.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Nguồn kinh phí: Ngân sách nhà nước bố trí cho xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm; hỗ trợ từ các dự án hợp tác - hỗ trợ của các nước, tổ chức quốc tế/
Các điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo: Thành lập Ban/Tổ thuộc Bộ Tài chính có sự tham gia của các cơ quan liên quan để nghiên cứu, đề xuất các vấn đề cần bổ sung, sửa đổi Luật NSNN.
13. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi)
Sự cần thiết ban hành
Sau gần 6 năm thực hiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, về cơ bản đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra khi ban hành Luật, cụ thể là:
- Bảo đảm chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng được yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia. Thể hiện qua việc:
- Điều chỉnh hàng năm các mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) theo đúng lộ trình cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) kể từ khi gia nhập.
- Điều chỉnh kịp thời các mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo sát với tình hình sản xuất trong nước, tình hình xuất, nhập khẩu và sự biến động của giá cả hàng hoá trên thế giới và trong nước.
Trước bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bên cạnh một số ưu điểm, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế cần nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện, cụ thể là:
- Một số quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không còn phù hợp với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật mới được Quốc hội ban hành trong thời gian gần đây như các quy định liên quan đến quản lý thuế trong Luật Quản lý thuế;
- Một số quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần phải được sửa đổi, bổ sung để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế thất thu cho ngân sách nhà nước;
- Một số quy định liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đang thực hiện theo các văn bản dưới luật, sau một thời gian thực hiện có tính ổn định cần được quy định trong Luật để bảo đảm tính minh bạch và nâng cao tính pháp lý.
Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Mục tiêu, yêu cầu của việc sửa đổi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
(i). Phải xuất phát từ những đòi hỏi khách quan và tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn trước mắt và lâu dài; chỉ sửa đổi, bổ sung những nội dung quan trọng, bức thiết, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động quản lý thu, nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; đề cao được vai trò quản lý của Nhà nước trong chống gian lận thương mại, chống thất thu thuế; kế thừa những quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn.
(ii). Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tạo môi trường pháp lý, thủ tục hành chính đơn giản, thuận lợi cho đối tượng thi hành luật và góp phần thực hiện tốt công tác quản lý thuế của ngành Hải quan theo Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020.
(iii). Phù hợp, thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành; phù hợp với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên.
(iv). Phù hợp với nội dung cải cách về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giai đoạn 2011 – 2020 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tại Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 về việc phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020: “Sửa đổi, bổ sung Biểu thuế xuất khẩu nhằm khuyến khích sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế xuất khẩu khoáng sản tài nguyên chưa qua chế biến, giảm hàng hóa gia công giá trị gia tăng thấp; sửa đổi, bổ sung thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ hợp lý, có thời hạn, phù hợp với thông lệ quốc tế đối với một số hàng hóa sản xuất trong nước; thu gọn số lượng mức thuế suất, từng bước đơn giản biểu thuế, mã số hàng hóa; sửa đổi quy định về phương pháp tính thuế (bao gồm cả phương pháp tính thuế hỗn hợp, kết hợp thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và thuế tuyệt đối); thực hiện lộ trình điều chỉnh các mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên tham gia”.
(v). Bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp quy phạm pháp luật. Các quy định liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đang thực hiện theo các văn bản dưới luật sau một thời gian thực hiện có tính ổn định nhưng chưa được luật hóa cần được quy định trong Luật để bảo đảm tính minh bạch và nâng cao tính pháp lý. Ngoài ra, việc sửa đổi Luật cũng nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng tiêu dùng và đầu tư cho phù hợp với định hướng phát triển kinh tế đất nước, ưu đãi đúng ngành nghề, khu vực. Đồng thời, sửa đổi những nội dung chưa thống nhất giữa các văn bản pháp quy cũng giúp cơ quan quản lý và thực thi tiết kiệm nguồn nhân lực, giảm chi phí và thời gian thông quan hàng hoá, giảm các khiếu kiện và tranh cãi giữa cơ quan Hải quan và doanh nghiệp.
(vi). Đề cao vai trò quản lý Nhà nước trong chống gian lận thương mại, chống thất thu thuế, phát huy hiệu lực, hiệu quả của Luật.
(vii). Trao quyền chủ động cho doanh nghiệp trong việc tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp thuế, khuyến khích sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, nâng cao ý thức trách nhiệm của người nộp thuế để góp phần vào việc thu đúng, thu đủ thuế cho Ngân sách.
(viii). Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực có giá trị kinh tế cao và vào các địa bàn cần ưu tiên phát triển kinh tế.
Nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
- Để phù hợp với quy định của pháp luật về hải quan, về phạm vi điều chỉnh của Dự án luật sẽ bổ sung một số hình thức của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu phát sinh trong thực tế và đã được quy định trong pháp luật về hải quan như “quá cảnh; phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, chuyển khẩu qua cửa khẩu Việt Nam”.
Về đối tượng không chịu thuế (Điều 3)
a) Khoản 1 Điều 3 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành quy định: “Hàng hoá trong các trường hợp sau đây là đối tượng không chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Hàng hoá vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, hàng hoá chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên, pháp Luật hải quan không còn khái niệm “mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam” vì vậy để phù hợp với quy định của pháp luật về hải quan, dự kiến bỏ nội dung này trong dự thảo Luật.
b) Bổ sung quy định không thu thuế xuất khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu được chế biến từ toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu vào đối tượng không chịu thuế.
c) Quy định không thu thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng là vật liệu xây dựng đưa từ thị trường nội địa vào xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu, khu phi thuế quan do khu kinh tế cửa khẩu là khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt Nam, có ranh giới địa lý xác định, có dân cư sinh sống ở trong khu; quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu. Trong thực tế, có các hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng trong khu phải đưa vật liệu xây dựng từ nội địa vào trong khu (như đá, cát, sỏi, nhựa đường...) sẽ bị thu thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu thu thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng vật liệu đưa vào để xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu là không phù hợp.
Về đối tượng nộp thuế (Điều 4)
a) Sửa lại tên gọi của Điều 4 “Đối tượng nộp thuế” thành “Người nộp thuế” cho thống nhất với Luật Quản lý thuế. .
b) Bổ sung quy định cho phép tổ chức, cá nhân được uỷ quyền và bảo lãnh nộp thay thuế cho phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về thuế.
Về giải thích từ ngữ (Điều 5)
a) Bổ sung và giải thích rõ hơn thuật ngữ khu phi thuế quan; bổ sung thuật ngữ “Cửa khẩu nhập đầu tiên” để tránh vướng mắc trong thực hiện xác định giá tính thuế.
Về căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và đồng tiền nộp thuế (Điều 8)
a) Khoản 1, Điều 8 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành quy định: “Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan, giá tính thuế, thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%);”. Quy định này chưa bao quát được trường hợp có sự thay đổi mục đích đã được miễn thuế, xét miễn thuế. Trên thực tế hiện nay đã có hướng dẫn căn cứ tính thuế đối với trường hợp này là số lượng, giá tính thuế và thuế suất tại thời điểm có sự thay đổi mục đích của mặt hàng được miễn thuế, xét miễn thuế. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung nội dung này vào Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
b) Khoản 3, Điều 8 sửa cho phù hợp với quy định của 43 Luật Quản lý thuế quy định về đồng tiền nộp thuế: “Đồng tiền nộp thuế là Đồng Việt Nam, trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại tệ theo quy định của Chính phủ”. Đồng thời, dự kiến xem xét bổ sung thêm quy định về “thuế hỗn hợp” - áp dụng cả thuế tương đối và thuế tuyệt đối như quy định
Về giá tính thuế và tỷ giá tính thuế (Điều 9)
a) Thực tế hiện nay, giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá nhập khẩu được thực hiện thống nhất theo quy định về pháp luật trị giá hải quan do vậy, để bảo đảm phù hợp với thực tế xử lý phát sinh vướng mắc trong xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và phù hợp với thông lệ quốc tế. Dự kiến sửa lại là: “Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu được xác định theo quy định của pháp luật về trị giá hải quan”.
b) Về tỷ giá tính thuế: Khoản 3 Điều 9 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành quy định: “Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng nước ngoài dùng để xác định giá tính thuế tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính thuế.” Dự kiến sửa đổi lấy mức trần do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố để làm cơ sở tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hoặc “thực hiện như quy định hiện hành”.
Về miễn thuế (Điều 16)
a) Về cơ bản, dự kiến giữ nguyên như hiện hành và chỉ bổ sung cụm từ “trong nước chưa sản xuất được” để phù hợp với Luật Đầu tư.
- Bỏ quy định “Hàng hóa là trang thiết bị nhập khẩu lần đầu theo danh mục do Chính phủ quy định của dự án đầu tư về khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, nhà ở, trung tâm thương mại, dịch vụ kỹ thuật, siêu thị, sân golf, khu du lịch, khu thể thao, khu vui chơi giải trí, cơ sở khám chữa bệnh, đào tạo, văn hoá, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, dịch vụ tư vấn”, do theo quy định hiện hành, danh mục hàng hoá được miễn thuế lần đầu đang được thu hẹp lại.
b) Điểm b khoản 6 Điều 16 quy định miễn thuế đối với “Phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ và phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân”. Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định “Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm ban hành Danh mục hoặc tiêu chuẩn xác định phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ”. Tuy nhiên, đến nay Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn chưa ban hành được danh mục hoặc tiêu chuẩn về vấn đề này nên dự kiến bỏ quy định này (bao gồm cả phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân), trường hợp cần thiết ưu đãi về thuế nhập khẩu thì xử lý bằng thuế suất của Biểu thuế nhập khẩu.
c) Điểm c khoản 6 Điều 16 quy định miễn thuế đối với “Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng quy định tại điểm a và điểm b khoản này”. Theo quy tắc phân loại hàng hoá thì các hàng hoá này được phân loại chung với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng được miễn thuế. Do đó, dự kiến bỏ quy định này để tránh hiểu khác nhau, phức tạp trong thực hiện.
d) Khoản 11 Điều 12 Nghị định số 87/2010/NĐ-CP có quy định “Đối với cơ sở đóng tàu được miễn thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm tàu biển xuất khẩu và miễn thuế nhập khẩu đối với các loại máy móc, trang thiết bị để tạo tài sản cố định; phương tiện vận tải nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm phục vụ cho việc đóng tàu mà trong nước chưa sản xuất được”. Theo đó, dự kiến bổ sung quy định này vào Điều 16 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để bảo đảm cơ sở pháp lý cho thực hiện.
Về giảm thuế (Điều 18)
Bổ sung cụm từ “quản lý” vào tiếp sau cụm từ “giám sát” cho phù hợp với thực tế và sửa lại tên Điều “Giảm thuế” thành “Xét giảm thuế” để phù hợp với nội dung của điều.
Các vấn đề khác
Các nội dung khác cũng dự kiến rà soát và sửa đổi để thống nhất với việc triển khai hệ thống thông quan điện tử NACCS của Nhật Bản.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản
- Nguồn kinh phí: Sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước bố trí cho công tác xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và nguồn hỗ trợ từ các dự án hợp tác - hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế
- Các điều kiện bảo đảm cho công tác soạn thảo: Thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập của Bộ Tài chính với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan.
Dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo và thời gian trình Quốc hội
Bộ Tài chính là cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì soạn thảo
14. Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Sự cần thiết ban hành
Qua 5 năm thi hành, Bộ luật dân sự năm 2005 với tư cách là đạo luật “gốc” cho hệ thống các văn bản luật tư (thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình, nhà ở, kinh doanh bất động sản…) đã có những đóng góp đáng kể trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, để văn bản này thực sự là “luật của nền kinh tế thị trường” thì cần phải có sự cải cách mạnh mẽ trong tư duy xây dựng pháp luật. Nhiều nguyên lý cơ bản của thể chế kinh tế thị trường chưa được đề cập một cách đầy đủ hoặc không rõ nét trong Bộ luật này, cần được nghiên cứu toàn diện để định hướng sửa đổi cơ bản.
- Thứ nhất, trong 5 năm thi hành Bộ luật dân sự năm 2005, Nhà nước Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh chính sách xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được khởi xướng từ năm 1986. Sau gần ba thập kỷ chuyển đổi, Việt Nam đã hình thành những điều kiện cần thiết để tiến tới một nền kinh tế thị trường đầy đủ hơn. Việc thừa nhận sở hữu tư nhân và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển; việc cải thiện quyền tự do giao dịch, lao động; tự do tiền tệ; tự do đầu tư; việc giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và được phép chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi, cho hoặc tặng, góp vốn để kinh doanh; việc nỗ lực hình thành đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế (thị trường lao động, thị trường đất đai – bất động sản, thị trường vật tư – hàng hoá, thị trường tài chính – tiền tệ; thị trường khoa học – công nghệ)…, cũng như việc nỗ lực cải cách thể chế kinh tế, làm cho thể chế kinh tế của chúng ta ngày càng phù hợp hơn với thế giới. Do đó, việc sửa đổi Bộ luật dân sự được đặt ra để bảo đảm bộ luật này là đạo luật gốc trong xây dựng thể chế pháp lý đồng bộ, thống nhất cho các loại thị trường trong nền kinh tế hàng hóa đa thành phần.
- Thứ hai, Việt Nam đã và đang không ngừng mở rộng quan hệ ra thế giới và đã đạt được nhiều thành quả trong trong lĩnh vực thương mại quốc tế và các lĩnh vực luật tư khác. Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, tham gia ngày càng sâu rộng vào Diễn đàn APEC, các tổ chức khu vực… tham gia các hiệp định thương mại song phương, đa phương AFTA, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ… với những cam kết quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và sở hữu theo cơ chế kinh tế thị trường. Việc sửa đổi Bộ luật dân sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng hệ thống văn bản pháp luật dân sự, thương mại phù hợp với các cam kết của Việt Nam và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thứ ba, theo nguyên lý của thể chế kinh tế thị trường, Bộ luật dân sự phải thể hiện quan điểm chiến lược, nhất quán của Nhà nước trong tôn trọng và bảo đảm tính tuyệt đối của quyền sở hữu, việc thụ hưởng nguyên tắc này giữa các chủ thể luật tư là bình đẳng như nhau, không phụ thuộc chủ thể là cá nhân hay tổ chức. Bộ luật dân sự năm 2005 dường như đã đi ngược với nguyên lý trên, khi qui định hình thức sở hữu với nhiều dấu ấn của sở hữu chính trị nhiều hơn là sở hữu của nền kinh tế thị trường (sở hữu được qui định để phục vụ cho giao lưu dân sự, thương mại). Dựa trên yếu tố chủ thể, sở hữu của Việt Nam được phân loại theo 6 hình thức (sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân, sở hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, và sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp). Sự phân loại trên thực tế không có ý nghĩa về mặt pháp lý (xét dưới góc độ luật tư) khi không chỉ ra được sự khác biệt cơ bản giữa các hình thức sở hữu này. Xuất phát từ yêu cầu khách quan trên, sở hữu được phân loại theo hai hình thức: sở hữu một chủ và sở hữu nhiều chủ (sở hữu chung) là một định hướng hợp lý trong Bộ luật dân sự sửa đổi;
- Thứ tư, tài sản (dưới góc độ vật) trong nền kinh tế thị trường là hàng hóa và tất yếu nó không thể thuộc sự chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của riêng chủ sở hữu mà còn có thể thuộc sự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của nhiều chủ thể luật tư khác nhau và ngoài chủ sở hữu, chủ thể luật tư khác có thể có quyền chi phối trực tiếp vật. Bộ luật dân sự của Việt Nam đã có qui định về vấn đề này, nhưng chưa có được tư duy “mạch lạc” về tài sản, phân loại tài sản, quyền của các chủ thể không phải là chủ sở hữu đối với vật. Hạn chế này là rào cản rất lớn trong việc bảo đảm xây dựng chế độ sở hữu của nền kinh tế thị trường, cũng như trong việc bảo đảm chu trình tài sản tham gia vào các giao dịch và lợi ích của các chủ thể luật tư trong chu trình đó.
Để khắc phục hạn chế trên, việc quy định vật quyền (quyền chi phối trực tiếp đối với vật) trong Bộ luật dân sự là rất cần thiết, theo nguyên tắc, “vật” là trung tâm lợi ích kinh tế của các chủ thể luật tư. Trong đó, Bộ luật dân sự phải quy định rõ chế độ pháp lý khi vật thuộc sự chiếm hữu của chủ sở hữu, khi thuộc sự chiếm giữ của chủ thể khác, khi được người khác sử dụng và khi bị thất lạc. Đồng thời, trái quyền (quyền yêu cầu một chủ thể luật tư thực hiện một hành vi nhất định nhằm làm phát sinh, thực hiện, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự) cũng cần được cơ cấu trong Bộ luật dân sự để bảo đảm sự thông thoáng trong hành lang pháp lý về sở hữu, giao dịch dân sự, thương mại và trong việc bảo vệ quyền của các chủ thể luật tư.
- Thứ năm, thể chế kinh tế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải bảo đảm có đủ cơ sở pháp lý để bảo vệ vệ quyền của chủ thể luật tư. Việc xác định tiền lệ, tập quán, học thuyết pháp lý và lẽ công bằng là nguồn của luật tư là một yêu cầu khách quan. Trong đó, nguyên tắc Tòa án không được từ chối thụ lý đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là một nguyên tắc cơ bản. Khi chủ thể luật tư khởi kiện hoặc có yêu cầu, Tòa án phải thụ lý, xét xử hoặc giải quyết mà không giới hạn về thời hiệu khởi kiện. Pháp luật chỉ quy định các thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu mất quyền hay miễn trừ nghĩa vụ, trên cơ sở đó, Tòa án công nhận hay bác yêu cầu của chủ thể có khởi kiện vụ án dân sự hoặc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Bộ luật dân sự và pháp luật về tố tụng hiện hành của Việt Nam chưa ghi nhận nguyên lý cơ bản này, khi quy định hết thời hạn cho phép khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết việc dân sự mà chủ thể không khởi kiện hoặc yêu cầu thì chủ thể mất quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Việc Bộ luật dân sự Việt Nam được sửa đổi theo hướng bãi bỏ thời hiệu khởi kiện và thừa nhận nguyên tắc áp dụng án lệ nó sẽ bảo đảm “lẽ công bằng” trong dân sự và cũng để thực hiện nhiệm vụ được nêu ngay tại Điều 1 của Bộ luật dân sự năm 2005 “Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức…; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự…”.
- Thứ sáu, ngoài các vấn đề nêu trên, nhiều quy định khác của Bộ luật dân sự cũng đã không đáp ứng được yêu cầu khách quan của đời sống kinh tế - xã hội, có thể trở thành “vật cản” trong việc công nhận và thực thi quyền của chủ thể dân sự, tôn trọng và bảo vệ lợi ích của Nhà nước và cộng đồng, như: chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chưa quy định nguyên tắc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cộng đồng (gây thiệt hại cho công đồng được xem như là hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường); quy định chủ thể quan hệ pháp luật dân sự ngoài hai thành tố cơ bản là thể nhân và pháp nhân việc quy định hộ gia đình và tổ hợp tác đã gây rất nhiều vướng mắc trong cả lý luận và thực tiễn; các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu không bao quát hết thực tiễn giao dịch và tình trạng vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch; Hình thức, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm chuyển quyền sở hữu không được quy định thống nhất, chưa gắn chặt với nguyên tắc tự do ý chí và tự do thỏa thuận trong xác lập, thực hiện và chấm dứt hợp đồng…
Do vậy, việc xây dựng và ban hành Bộ luật dân sự sửa đổi là hoàn toàn cần thiết để (1) góp phần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam, (2) xây dựng bộ luật dân sự thực sự ổn định, là đạo luật gốc của các văn bản pháp luật thuộc hệ thống luật tư, (3) Hệ thống pháp luật về tài sản, sở hữu, quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu, giao dịch được xây dựng trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể luật tư, Nhà nước không áp đặt quyền lực để can thiệp vào quan hệ giữa các chủ thể, họ có quyền tự quyết, (4) Chủ thể luật tư được tự do thể hiện ý chí trong giao dịch và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi tham gia giao dịch (không phụ thuộc chủ thể là nhà nước, tổ chức, cá nhân), (5) Các cơ chế, phương pháp, thủ tục bảo đảm thực thi quyền của chủ thể luật tư phải dựa trên nguyên tắc tính tuyệt đối của quyền sở hữu, tự do về tư cách chủ thể, tự do thỏa thuận và lý lẽ công bằng, (6) Sự hiện diện và thể hiện vai trò của Nhà nước trong đời sống xã hội dân sự, trong thị trường, mức độ tự do hóa mà Nhà nước cho phép và hiệu quả hoạt động của thị trường; cam kết tôn trọng và bảo đảm của Nhà nước về sở hữu và quyền tự do giao dịch…
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi sửa đổi: (1) sửa đổi toàn diện các quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 đã và đang còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn thi hành; (2) bổ sung các quy định theo yêu cầu xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Nội dung sửa đổi: cấu trúc lại Bộ luật dân sự; sửa đổi các quy định chung của Bộ luật dân sự theo hướng bảo đảm nguyên lý cơ bản của các quan hệ luật tư và điều chỉnh quan hệ luật tư; sửa đổi, bổ sung các quy định về tài sản và sở hữu thành chế định vật quyền, trong đó, chú trọng bổ sung quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu; sửa đổi, bổ sung các quy định về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng thành chế định trái quyền; sửa đổi, bổ sung các quy định về thừa kế; rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ tránh trùng lắp về nội dung trong các quy định của Bộ luật dân sự và với các luật chuyên ngành có liên quan.
Dự kiến, trên cơ sở kế thừa Bộ luật dân sự năm 2005, dự án Bộ luật dân sự sửa đổi được xây dựng gồm 5 phần và 28 Chương. Cụ thể như sau:
Phần thứ nhất: Qui định chung; Hiệu lực của Bộ luật dân sự; Những nguyên tắc cơ bản; Cá nhân; Tổ chức; Tài sản; Giao dịch; Đại diện; Thời hạn và thời hiệu.
Phần thứ hai: Vật quyền: Quyền sở hữu; Quyền hưởng dụng; Quyền bề mặt; Vật quyền bảo đảm; Quyền ưu tiên; Địa dịch; Chiếm hữu; Bảo vệ vật quyền.
Phần thứ ba: trái quyền Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; Hợp đồng; Hứa thưởng và thi có giải; Thực hiện công việc không có ủy quyền; Nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Phần thứ tư: Thừa kế; Thừa kế theo di chúc; Thừa kế theo pháp luật; Thanh toán và phân chia di sản.
Phần thứ năm: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Kinh phí: sử dụng nguồi tài chính từ ngân sách nhà nước theo các quy định hiện hành. Kết hợp sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ của các dự án, tổ chức quốc tế (nếu có).
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan.
15. Bộ luật hình sự (sửa đổi)
Sự cần thiết ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000. Kể từ năm 2000, Bộ luật hình sự dã góp phần quan trong vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Bộ luật hình sự 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và để khắc phục một bước những bất cập, hạn chế này, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999 đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
Trong lần sửa đổi, bổ sung này, Bộ luật hình sự mới chỉ được sửa đổi, bổ sung trong phạm vi hẹp, tập trung vào một số loại tội phạm cụ thể nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách nhất của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà chưa có điều kiện để sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện nội dung của Bộ luật. Vì thế, nhiều bất cập, hạn chế của Bộ luật hình sự vẫn còn hiện hữu, chưa được khắc phục, như một số bất cập trong các quy định tại phần chung Bộ luật hình sự về chế định tội phạm, chế định hình phạt…, các quy định tại phần các tội phạm cụ thể về cấu thành tội phạm, các yếu tố định tội, định khung, khung hình phạt,…cũng như những hạn chế trong các quy định về chính sách hình sự, nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và đối với những tội phạm xâm hại người chưa thành niên, v.v....Điều này gây không ít khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự là hết sức cần thiết nhằm góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Quốc hội khóa XII nêu tại Nghị quyết số: 33/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự là giao cho "Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ... phối hợp với các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu các điều khoản của Bộ luật hình sự có vướng mắc, bất cập trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà chưa có điều kiện sửa đổi, bổ sung để chuẩn bị phương án cho việc sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự". Việc sửa đổi, bổ sung toàn diện Bộ luật hình sự nhằm:
Thứ nhất, góp phần thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp, khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng tăng cường tính nhân đạo, góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, bảo đảm tính công bằng, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ ba, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường sống lành mạnh cho mọi người dân.
Thứ tư, góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực, thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên (như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trên lĩnh vực con nuôi nước ngoài, Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tôi tệ nhất, Công ước quốc tế về phòng, chống tham nhũng…), đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện những yêu cầu trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đang có kế hoạch trở thành thành viên (như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các nghị định thư kèm theo…).
Các vấn đề cần nghiên cứu, sửa đổi
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định hiện có của BLHS, cụ thể: một số quy định liên quan đến các chế định về tội phạm và hình phạt tại Phần chung BLHS chưa thực sự rõ ràng, hợp lý. Một số quy định còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều lúng túng, không thống nhất,…Nhiều quy định về các tội phạm cụ thể còn quá chung, quy định về khung hình phạt của nhiều tội tại Phần các tội phạm còn quá rộng gây khó khăn cho việc xác định tội danh cũng như áp dụng thống nhất pháp luật. Đặc biệt, một số quy định về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đã gây khó khăn trong việc định tội và định khung hình phạt ...Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như người chưa thành niên là đối tượng bị tội phạm xâm hại chưa thực sự phù hợp với yêu cầu về bảo vệ người chưa thành niên trong điều kiện hiện nay, cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và những đòi hỏi của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, cần nghiên cứu một số vấn đề mới để có phương án bổ sung vào BLHS, ví dụ như vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Đây là vấn đề đã được đặt ra nhiều lần trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS (năm 1999 và năm 2009) và là một trong những yêu cầu của các Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF). Vấn đề tha tù trước thời hạn. Đây là một chế định mang tính nhân đạo đã được ghi nhận trong luật pháp của một số nước và vấn đề này đã được triển khai nghiên cứu trong năm 2009 khi tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS nhưng do chưa có nhiều thời gian nghiên cứu kỹ nên vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu để có phương án bổ sung vào BLHS. Vấn đề "tổ chức tội phạm". Đây là một vấn đề mang tính quốc tế được ghi nhận trong Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các Nghị định thư kèm theo Công ước và cũng đã được đặt ra trong năm 2009 khi khi tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS. Hiện nay, nước ta đang chuẩn bị phê chuẩn Công ước này. Do vậy, vấn đề "tổ chức tội phạm" cần được tiếp tục nghiên cứu để có phương án bổ sung vào BLHS.
Hiện nay, Bộ luật hình sự chưa có quy định về các khái niệm “phạm nhiều tội” và “phạm tội nhiều lần” nên trong thực tiễn chưa có cách hiểu thống nhất về các khái niệm này, vẫn còn có nhầm lẫn giữa “phạm tội nhiều lần” với “phạm nhiều tội” dẫn đến tình trạng có trường hợp hai hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị xét xử về một tội hoặc một hành vi nguy hiểm cho xã hội lại bị xét xử về hai tội. Thêm vào đó, một số quy định của Bộ luật hình sự, đặc biệt là những quy định mới chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn kịp thời và đầy đủ trong khi tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nên các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong quá trình áp dụng.
Một số quy định tại phần chung Bộ luật hình sự về chế định tội phạm có thể liệt kê như: quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự (Điều 2) chưa xác định rõ thế nào là trách nhiệm hình sự, thời điểm phát sinh và kết thúc trách nhiệm hình sự; quy định về khái niệm tội phạm (Điều 8) chưa thật khái quát; chế định đồng phạm (Điều 20) chưa rõ ràng về người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 46 và 48) chưa rõ ràng dẫn đến khó áp dụng thống nhất,...
Một số quy định tại Phần chung BLHS về chế định hình phạt có thể liệt kê như: quy định về hình phạt cảnh cáo (Điều 29) không có tác dụng giáo dục, răn đe người phạm tội trong thực tiễn. Các quy định của BLHS hiện hành dẫn đến một bất hợp lý là các biện pháp tư pháp, hình phạt không tước tự do như cải tạo không giam giữ không được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Quy định về hình phạt bổ sung tước một số quyền công dân còn mâu thuẫn với các quy định tại các điều luật cụ thể của Phần các tội phạm...;
Một số quy định về các tội phạm cụ thể có thể kể ra như: một số điều luật không mô tả hành vi khách quan nên khó xác định chính xác tội danh và áp dụng thống nhất (Điều 119, 120, 134, 136, 137, 138…); nội dung quy định trong cấu thành của một số tội phạm còn có những bất cập, khó thực hiện, khó chứng minh trên thực tế (Điều 80, 84, 104, 105, 119 …); nhiều tội danh quy định ghép các hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau vào cùng một điều luật, gây khó khăn trong việc định tội và định khung hình phạt (điều 120, 180, 181, 194...)...;
Những quy định về các khung hình phạt tại Phần các tội phạm có thể liệt kê như: mức khởi đầu và mức cuối của khung hình phạt tù có thời hạn quá dài (khoản 3 Điều 104, khoản 1 Điều 133,...); khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tiền còn quá rộng (Điều 271, 133...).. dẫn đến khả năng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện;
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như người chưa thành niên là đối tượng bị tội phạm xâm hại (nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên, hệ thống hình phạt đối với người chưa thành niên…) chưa thực sự phù hợp với thực tiễn hiện nay và chưa đáp ứng yêu cầu của các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Bộ luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung của Bộ luật hình sự dự kiến bao gồm: sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chế định tội phạm (cơ sở của trách nhiệm hình sự, khái niệm tội phạm, nguyên tắc xử lý; các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; chế định đồng phạm, phạm tội có tổ chức; vấn đề miễn trách nhiệm hình sự). Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chế định hình phạt (hệ thống các hình phạt và nguyên tắc áp dụng; hệ thống các biện pháp tư pháp và nguyên tắc áp dụng; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nguyên tắc quyết định hình phạt; vấn đề miễn, giảm hình phạt; đình chỉ, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt; vấn đề xóa án tích). Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội (nguyên tắc xử lý; các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội; các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội; một số ưu đãi đối với người chưa thành niên phạm tội liên quan đến các vấn đề về quyết định hình phạt, miễn, giảm hình phạt, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, xóa án tích). Sửa đổi, bổ sung các quy định về cấu thành của các tội phạm cụ thể. Quy định hiện hành còn nhiều bất cập trong yếu tố cấu thành tội phạm, các tình tiết định khung cũng như mức hình phạt làm giảm hiệu quả phòng ngừa và gây khó khăn khi áp dụng các quy định nói trên. Cụ thể là, với các tội phạm kinh tế thì nên nghiên cứu tăng cường chế tài vật chất để nâng cao tính răn đe đối với loại tội phạm này; các tội phạm môi trường với các yếu tố cấu thành quá chặt chẽ như hiện nay không thể áp dụng được trong thực tiễn; các tội phạm mua bán phụ nữ, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em cũng do yếu tố cấu thành chưa rõ ràng nên gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật... Việc hoàn thiện các quy định về các tội phạm này bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền con người, ... Vì vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi các quy định này là vấn đề cần thiết.
Nghiên cứu, bổ sung một số vấn đề mới như vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một vấn đề lớn liên quan đến nhiều chế định tại Phần chung của BLHS. Việc bổ sung chế định này vào BLHS sẽ làm thay đổi hoàn toàn các quan niệm từ trước đến nay về cơ sở trách nhiệm hình sự, năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi, hình phạt, ... Do vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng để chuẩn bị cho việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự. Về chế định trả tự do trước hạn có điều kiện. Về vấn đề "tổ chức tội phạm": Đây là một khái niệm mang tính quốc tế và đã có trong pháp luật của các nước. Tuy nhiên, ở nước ta thì đây là một vấn đề "mới", chưa được pháp luật hình sự ghi nhận, mặc dù trên thực tế cũng đã có một số băng nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu "xã hội đen". Vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung chế định này vào BLHS là góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong nước và hội nhập quốc tế.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Kinh phí: sử dụng nguồi tài chính từ ngân sách nhà nước theo các quy định hiện hành. Kết hợp sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ của các dự án, tổ chức quốc tế (nếu có).
Các cơ quan phối hợp soạn thảo: Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng và các bộ khác có liên quan. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp soạn thảo, nghiên cứu; các trường, viện nghiên cứu về pháp luật; các chuyên gia, các nhà khoa học.
16. Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)
Thuộc Chương trình chuẩn bị năm 2012.
17. Luật quân đội nhân dân Việt Nam
Sự cần thiết ban hành
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nhưng cũng phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức mới. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” gây bạo loạn, tạo cớ nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, chống phá cách mạng Việt Nam một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực ngày càng quyết liệt, thâm độc, tinh vi và xảo quyệt. Đặc biệt, chúng tập trung kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm gây mất ổn định về chính trị, vô hiệu hoá chính quyền địa phương các cấp; tình hình quốc phòng, an ninh trên biển tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Trước tình hình đó, cùng với việc xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại thực sự là lực lượng chiến lược chủ yếu làm nòng cốt bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là yêu cầu tất yếu khách quan.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống đó, vừa là đội quân chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trong mọi hoàn cảnh, vừa là đội quân công tác, thực sự xứng đáng với vị trí chiến lược chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Quân đội nhân dân là một nội dung chiến lược cực kỳ quan trọng trong đường lối quân sự của Đảng, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương.
Quân đội nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương. Cương lĩnh Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”. Xuất phát từ quan điểm trên, Nhà nước chủ trương thể chế hoá cơ bản, hệ thống và thống nhất việc xây dựng Quân đội nhân dân thành Luật quân đội nhân dân, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong điều kiện cách mạng mới.
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Luật nghĩa vụ quân sự, Luật quốc phòng, Luật sỹ quan Quân đội nhân dân; Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Pháp lệnh biên phòng, Pháp lệnh cảnh sát biển, Pháp lệnh công nghiệp quốc phòng. Qua quá trình thực hiện các luật, pháp lệnh này đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức xây dựng, huấn luyện, hoạt động, xác định được trách nhiệm của sỹ quan, hạ sỹ quan, binh sỹ phục vụ tại ngũ, cũng như lực lượng dự bị và phương tiện kỹ thuật khi huy động theo lệnh của cấp có thẩm quyền; bảo đảm chế độ chính sách cho Quân đội nhân dân, bảo hiểm xã hội cho quân nhân và gia đình quân nhân có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện các đạo luật, pháp lệnh cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, cụ thể như sau:
Thứ nhất: về mặt pháp lý, tuy đã có các luật, pháp lệnh, nhưng các văn bản này chưa quy định đầy đủ, toàn diện để điều chỉnh các đối tượng, các mối quan hệ liên quan đến việc xây dựng Quân đội nhân dân. Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều luật khác chi phối và ảnh hưởng sâu sắc đến xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân như Luật an ninh quốc gia năm 2004, Luật biên giới quốc gia, Luật công an nhân dân năm 2007, Luật ngân sách nhà nước, Luật đầu tư, Luật cán bộ công chức, Luật viên chức, Bộ luật lao động, Luật đất đai và một số đạo luật khác.
Thứ hai: quyền và nghĩa vụ công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tuy đã được cụ thể hoá trong Luật nhưng quy định thời hạn thực hiện nghĩa vụ chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ, binh sỹ đang tại ngũ và lực lượng dự bị động viên. Mặt khác, Luật nghĩa vụ quân sự ban hành năm 1981 nhưng đến nay đã 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1994, 2005 với tổng số 35/75 điều so với Luật gốc (năm 1981) và nhiều điều cũng cần sửa đổi trong điều kiện mới, việc xây dựng một đạo luật mới là hết sức cần thiết; đối với Luật sỹ quan Quân đội nhân dân ban hành năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2008 với 15/51 điều, nếu rà soát lại cơ bản cần sửa đổi, bổ sung hầu hết các điều trong luật.
Thứ ba: việc đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên còn gặp nhiều khó khăn, số lao động là quân nhân dự bị đi làm ăn xa gia đình chiếm một tỷ lệ không nhỏ, ảnh hưởng lớn đến việc đăng ký, quản lý và huy động khi cần thiết.
Thứ tư: chế độ, chính sách đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ, công nhân viên quốc phòng và lực lượng dự bị động viên đang nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, chế độ chưa phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt chế độ tiền lương, phụ cấp quân hàm, nhà ở và một số chính sách ưu đãi khác còn có bất cập, vướng mắc hoặc chưa có khả năng thực hiện. Vì vậy, cần phải có cơ sở luật pháp phù hợp hơn quy định vào trong Luật quân đội nhân dân thể hiện sự hợp lý và thống nhất.
Thứ năm: cùng là đối tượng quân nhân nhưng phải chịu sự điều chỉnh ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; chưa được đồng bộ, tập trung thống nhất và khoa học về tổ chức, về lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và quản lý, về bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức và năng lực công tác, về chế độ, chính sách, về khen thưởng, kỷ luật trong quân đội.
Thứ sáu: hệ thống pháp luật về Quân đội nhân dân chưa quy định rõ mối quan hệ hoạt động giữa Quân đội nhân dân với Dân quân tự vệ, Công an nhân dân và các lực lượng khác; đồng thời trong điều kiện mới về hội nhập quốc tế, có một số hoạt động của Quân đội nhân dân có thể vượt ra ngoài biên giới với tinh thần hợp tác quốc tế cũng chưa được đề cập trong hệ thống pháp luật về Quân đội nhân dân.
Thứ bảy: thực tế công tác quản lý nhà nước về Quân đội nhân dân chưa theo kịp với sự đổi mới và phát triển toàn diện của đất nước. Xây dựng và quản lý lực lượng Quân đội nhân dân còn chịu ảnh hưởng của tư duy thời kỳ bao cấp.
Từ những vấn đề nêu trên, việc ban hành Luật quân đội nhân dân trong tình hình hiện nay là hết sức cần thiết nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về Quân đội nhân dân, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới của đất nước là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; bảo đảm chế độ, chính sách đối với Quân đội nhân dân phù hợp với thời kỳ đổi mới và khả năng của nền kinh tế đất nước; luật hoá một số hoạt động của Quân đội nhân dân trong hợp tác quốc tế phù hợp với điều kiện mới của đất nước.
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Luật quân đội nhân dân Việt Nam quy định về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, chỉ huy, hoạt động, bảo đảm hoạt động của Quân đội nhân dân Việt Nam; chế độ phục vụ của quân nhân và công dân phục vụ trong quân đội, chế độ, chính sách đối với quân nhân và công dân phục vụ Quân đội nhân dân Việt Nam; các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc quyền chỉ huy của Bộ Quốc phòng
Đối tượng áp dụng là cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam; Tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có liên quan đến Quân đội nhân dân Việt nam.
Những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính
Quan điểm xây dựng Dự án Luật quân đội nhân dân
Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đội, trực tiếp về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân. Luật quân đội nhân dân phải quán triệt và cụ thể hóa đường lối, quan điểm Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc; Nghị quyết số 29-NQ/TW của Bộ Chính trị về tổ chức lực lượng quân đội; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị (khoá X) về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, nhất là các quan điểm, phương châm chỉ đạo các nhiệm vụ cơ bản và các giải pháp chủ yếu, chiến lược bảo vệ Tổ quốc phải được thể hiện trong Luật.
Bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, những quy định trong Luật phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và phù hợp với các các luật đã được ban hành. Luật quân đội nhân dân phải cụ thể hoá các quy định có liên quan đến Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2000 và Luật Quốc phòng.
Bảo đảm tính kế thừa và đổi mới những quy định của Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sỹ quan Quân đội nhân dân, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Pháp lệnh biên phòng, Pháp lệnh cảnh sát biển, Pháp lệnh công nghiệp quốc phòng và nội dung các văn bản quy phạm pháp luật kèm theo đã được thực tiễn kiểm nghiệm và có tính khả thi. Những quy định không còn phù hợp thì phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung vào nội dung của Luật, hạn chế ban hành các văn bản dưới Luật.
Bảo đảm tính thực tiễn trong xây dựng Dự án Luật, trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật nghĩa vụ quân sự, Luật quốc phòng, Luật sỹ quan Quân đội nhân dân; Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Pháp lệnh biên phòng, Pháp lệnh cảnh sát biển, Pháp lệnh công nghiệp quốc phòng từ cấp trung đoàn và tương đương đến cấp quân đoàn, quân khu, binh chủng, quân chủng, các nhà trường trong Quân đội. Thông qua tổng kết, tổng hợp và nghiên cứu các nhóm giải pháp, bài học kinh nghiệm, những đề xuất, kiến nghị của các quân khu, quân chủng, binh chủng, các cơ quan, đơn vị tiến hành tổng kết, nhằm nâng cao chất lượng Quân đội nhân dân phù hợp với thực tiễn, dễ đi vào cuộc sống, có sức thuyết phục và tính khả thi cao.
Bảo đảm tính dân chủ, tập trung và tiếp thu những ý kiến trí tuệ nhất đưa vào Luật thông qua việc tham gia ý kiến của các cơ quan, đơn vị trong Quân đội và các địa phương, bộ, ngành Trung ương.
Xây dựng Quân đội nhân dân thực sự là Quân đội của dân, do dân và vì dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị từ Trung ương cho đến địa phương trong việc xây dựng Quân đội nhân dân.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển của Đảng trong xây dựng dự án Luật, các quy định hoạt động của Quân đội nhân dân phải bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc và bảo đảm nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc tế.
Nội dung chính
Quy định chung quy định về vị trí, chức năng của Quân đội nhân dân Việt Nam; Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc; Thành phần của quân đội nhân dân (Bộ đội chủ lực: Lục quân, Phòng không - Không quân, Hải quân; Bộ đội địa phương; Bộ đội Biên phòng; Cảnh sát biển); Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Quân đội nhân dân Việt Nam; Chế độ phục vụ của công dân trong Quân đội nhân dân Việt Nam (bao gồm cả phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị); chế độ phục vụ của công dân trong Quân đội nhân dân Việt Nam (bao gồm cả phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị); ngày truyền thống của Quân đội nhân dânMối quan hệ giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với Dân quân tự vệ và Công an nhân dân; những hành vi bị nghiêm cấm. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hệ thống chỉ huy trong quân đội nhân dân việt nam quy định Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các tổng cục, các Quân khu. Hệ thống chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam (Hệ thống chỉ huy bộ đội chủ lực; hệ thống chỉ huy bộ đội địa phương). Hệ thống tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam. Công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân việt nam. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ của bộ đội binh chủng hợp thành. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ của đoàn kinh tế quốc phòng. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ của công nghiệp quốc phòng. Học viện, nhà trường quân đội. Lực lượng dự bị động viên quân đội. Cơ quan tư pháp quân đội. Quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu và quân phục của quân đội nhân dân việt nam. Bảo đảm hoạt động đối với quân đội nhân dân. Chế độ, chính sách đối với quân đội. Trách nhiệm xây dựng và quản lý nhà nước đối với quân đội
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
- Cơ quan chủ trì soạn thảo: Bộ quốc phòng.
18. Luật công an nhân dân (sửa đổi)
Sự cần thiết sửa đổi Luật
Luật công an nhân dân được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2006. Việc tổng kết 3 năm thi hành Luật và đề xuất sửa đổi, bổ sung là cần thiết, phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong thời kỳ mới, với thực tiễn tổ chức, hoạt động của Công an nhân dân hiện nay (đặc biệt sau khi Chính phủ ký Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an); đồng thời, bảo đảm tương quan trong việc thực hiện chế độ, chính sách của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân nói chung (gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân); bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Theo hướng đó, việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật công an nhân dân là cần thiết.
Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của văn bản
Luật công an nhân dân (sửa đổi) sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Công an nhân dân; về sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân; về bảo đảm hoạt động và chế độ, chính sách đối với Công an nhân dân.
Luật công an nhân dân (sửa đổi) áp dụng đối với Công an nhân dân, cơ quan, tổ chức khác có liên quan.
Quan điểm xây dựng, nội dung chính của văn bản
Quan điểm xây dựng văn bản
- Sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của Luật công an nhân dân để Công an nhân dân thực sự là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, phù hợp với thực tiễn tổ chức, hoạt động của Công an nhân dân hiện nay.
- Thể chế hoá đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân (gồm Quân đội nhân dân và Công an nhân dân); theo đó, sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật công an nhân dân nhằm bảo đảm tương quan chung trong việc thực hiện chế độ, chính sách của Nhà nước đối với Công an nhân dân tương ứng với chế độ, chính sách của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Quán triệt quan điểm cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta; tổng kết 3 năm thi hành Luật công an nhân dân, kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật công an nhân dân năm 2005 nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong thời kỳ mới.
Những nội dung chính của văn bản dự kiến sẽ sửa đổi, bổ sung
- Sửa đổi, bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Công an nhân dân.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức của Công an nhân dân.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về bảo đảm hoạt động và chế độ, chính sách đối với Công an nhân dân.
Dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo
Việc xây dựng Luật công an nhân dân (sửa đổi) được xây dựng bằng nguồn ngân sách do Nhà nước cấp theo quy định hiện hành.
Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo, với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, như: Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ…