Bộ Công an xây dựng Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, như sau:
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN VỀ BẢO VỆ DỮ LIỆU CÁ NHÂN
1. Thể chế hóa quy định của Hiến pháp và pháp luật về quyền bảo vệ bí mật cá nhân, quyền con người, quyền công dân, an ninh mạng
Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa các quy định của các bản Hiến pháp trước đây, khẳng định quyền riêng tư của cá nhân là bất khả xâm phạm, đồng thời phát triển mở rộng phạm vi quyền riêng tư không chỉ là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín mà còn bao gồm quyền bảo vệ bí mật cá nhân, trong đó có thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 21). Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chỉ có 01 văn bản là Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân đưa ra định nghĩa về dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân, chưa có văn bản Luật nào định nghĩa về vấn đề này. Điều này đặt ra thực trạng là phạm vi điều chỉnh của Nghị định chưa bao quát hết các lĩnh vực, quan hệ của đời sống, xã hội, chưa tương thích với các quy định về quyền bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được nêu trong Hiến pháp năm 2013, cùng các quy định liên quan tới “thông tin cá nhân”, “thông tin riêng”, “thông tin số”; “thông tin cá nhân trên môi trường mạng”; “thông tin bí mật đời tư”... được nêu trong một số văn bản Luật hiện hành.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, chỉ có văn bản luật được quyền quy định các nội dung liên quan tới hạn chế quyền con người, quyền công dân. Dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân dự kiến quy định một số trường hợp liên quan tới tiết lộ, xử lý dữ liệu cá nhân khi chưa được sự đồng ý của chủ thể dữ liệu, có khả năng ảnh hưởng tới quyền con người. Mặc dù đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân quy định một số trường hợp tại Điều 17. Tuy nhiên, về mặt pháp lý và để bảo đảm quy phạm đầy đủ các trường hợp khác trong thực tiễn, cần ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân để quy định các nội dung nêu trên.
2. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật
Dữ liệu cá nhân là vấn đề liên quan tới chặt chẽ tới quyền con người, quyền công dân, an toàn, an ninh mạng, an ninh thông tin, an ninh dữ liệu, công nghệ thông tin và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chính phủ điện tử, chính phủ số, kinh tế số. Thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo vấn đề này
[1]. Bảo vệ dữ liệu cá nhân được tiến hành song song, đồng thời với sự phát triển kinh tế, xã hội, đi liền với tất cả các khâu, quá trình nhưng phải đảm bảo không hạn chế sự phát triển, đổi mới và sáng tạo.
Theo thống kê của Bộ Công an, có tổng số 69 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến bảo vệ dữ liệu cá nhân tại Việt Nam, trong đó có: Hiến pháp; 04 Bộ luật; 39 Luật, 01 Pháp lệnh; 19 Nghị định; 04 Thông tư/Thông tư liên tịch; 01 Quyết định của Bộ trưởng. Tuy nhiên, dù có tới 69 văn bản nhưng tất cả đều chưa thống nhất về khái niệm và nội hàm dữ liệu cá nhân, bảo vệ dữ liệu cá nhân. Ngày 17/4/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân đưa ra định nghĩa về dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân. Tuy nhiên, đây mới chỉ là văn bản Nghị định, chưa phải văn bản Luật nên cần thống nhất thực hiện trong thực tiễn.
- Có hơn
10 khái niệm thuật ngữ liên quan tới thông tin cá nhân được diễn giải theo những
cách khác nhau, gồm: “dữ liệu cá nhân”, “thông tin cá nhân”, “thông tin riêng”, “thông tin riêng tư”, “thông tin số”; “thông tin cá nhân trên môi trường mạng”; “thông tin bí mật đời tư”; “thông tin về đời sống riêng tư”, “bí mật gia đình”, “quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư”; “cơ sở dữ liệu điện tử”; “thông tin của người tiêu dùng”. Riêng về khái niệm “thông tin cá nhân”, khái niệm này được coi là tương đồng và gần gũi nhất với khái niệm “dữ liệu cá nhân”. Cụm từ “thông tin cá nhân” xuất hiện ở hơn
300 văn bản quy phạm pháp luật, nhưng chỉ có
07 văn bản pháp luật có định nghĩa/diễn giải thế nào là thông tin cá nhân
[2]. Số văn bản pháp luật còn lại chỉ đề cập đến thông tin cá nhân trong nội dung các quy định, không đưa ra giải thích hay dẫn chiếu giải thích đến văn bản pháp luật khác.
Điều này đặt ra yêu cầu phải thống nhất về thuật ngữ “dữ liệu cá nhân” ở tầm văn bản Luật, bảo đảm sự đồng bộ về nội dung, phạm vi và cách thức, trường hợp áp dụng cụ thể. Phương án giải quyết là quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc tại Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, bãi bỏ các quy định tại các văn bản có liên quan nếu không đồng nhất với nguyên tắc về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
3. Hài hòa với thông lệ, quy định quốc tế về bảo vệ dữ liệu cá nhân
Bảo vệ dữ liệu cá nhân là vấn đề được các tổ chức và nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và đi trước nước ta trong thời gian khá dài, có nhiều kinh nghiệm pháp lý và thực tiễn triển khai thi hành để tiếp thu. Do hệ thống pháp luật, trình độ nhận thức, kinh tế, xã hội khác nhau nên việc tiếp thu cần bảo đảm yếu tố hài hòa, trên cơ sở phù hợp với thực tiễn của nước ta. Hầu hết các công ước, khuyến nghị và tiêu chuẩn khu vực về quyền riêng tư và bảo vệ thông tin và dữ liệu cá nhân đều tuân thủ Nguyên tắc bảo mật của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), bao gồm Công ước của Hội đồng châu Âu về bảo vệ cá nhân liên quan đến tự động xử lý thông tin và dữ liệu cá nhân (sau đây là Công ước 108), Hướng dẫn của Liên hợp quốc về các tệp thông tin và dữ liệu cá nhân được vi tính hóa, Khung bảo mật hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Các tiêu chuẩn quốc tế về quyền riêng tư và bảo vệ thông tin và dữ liệu cá nhân (Nghị quyết Madrid), Luật của Tổ chức các quốc gia Hoa Kỳ (OAS) về bảo vệ thông tin và dữ liệu cá nhân năm 2014, và gần đây là Quy định bảo vệ dữ liệu chung của EU (GDPR). Hiện nay, đã có hơn 130quốc gia ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhiều văn bản có quy định áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam. Điều này đặt ra yêu cầu đối với phải ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm hài hòa với thông lệ quốc tế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thị trường nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam.
4. Phát triển kinh tế xã hội, tạo nền tảng pháp lý cho hoạt động kinh doanh có liên quan tới dữ liệu cá nhân
Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số là xu thế của thời đại. Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình này để làm chủ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dữ liệu cá nhân là một trong những nguyên liệu chính để thực hiện chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số.
Nước ta là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển và ứng dụng Internet cao nhất thế giới. Số lượng người sử dụng Internet của Việt Nam đã đạt hơn 79 triệu người, tương đương gần 80% tổng dân số. Dữ liệu cá nhân của hơn 2/3 dân số nước ta đang được lưu trữ, đăng tải, chia sẻ và thu thập trên không gian mạng với nhiều hình thức và mức độ chi tiết khác nhau. Việc thu thập dữ liệu cá nhân được tích hợp sâu trong từng sản phẩm, dịch vụ và khó có thể nhận biết, xác thực đúng sai và bảo đảm mục đích sử dụng như thông báo. Yêu cầu bảo vệ được nâng cao từ góc độ cá nhân tới vấn đề chủ quyền, an ninh quốc gia.
Cơ sở hạ tầng không gian mạng phát triển nhanh và ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, nghề, dịch vụ kinh doanh có liên quan tới dữ liệu cá nhân phát triển. Nước ta đang đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số với sự tham gia ngày càng sâu rộng của các lĩnh vực hành chính, y tế, hình sự, hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, thương mại điện tử, giáo dục, tài chính, ngân hàng, thuế… Công nghệ thông tin, truyền thông, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, dữ liệu nhanh… được ứng dụng sâu rộng, tạo ra những giá trị to lớn xã hội. Dữ liệu cá nhân từ vị trí chưa thực sự quan trọng, trở thành nguyên liệu chính cho hoạt động của các ngành, nghề, dịch vụ nêu trên và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong tổng thể lĩnh vực tạo ra giá trị lợi nhuận cao trong nền kinh tế quốc dân. Điều này đặt ra cho Chính phủ bài toán phải quản lý hiệu quả, tương đồng giữa sử dụng và bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng phó, hạn chế nguy cơ, xử lý vi phạm để giữ vững sự phát triển và giá trị do dữ liệu cá nhân tạo ra.
Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp sử dụng dữ liệu cá nhân vào mục đích kinh doanh, phát triển kinh tế, tạo giá trị cho xã hội nhưng cũng xuất hiện nhiều vụ lộ, mất dữ liệu cá nhân nghiêm trọng, liên quan tới hàng chục triệu người. Do đó, việc quy định cụ thể các hoạt động kinh doanh liên quan tới dữ liệu cá nhân là vô cùng cấp bách và cần thiết.
5. Dữ liệu cá nhân đang bị mua bán, lộ, mất tràn lan, nhiều hành vi vi phạm pháp luật thiếu quy định xử lý
Tình trạng lộ dữ liệu cá nhân diễn ra phổ biến trên không gian mạng. Người sử dụng chưa có ý thức bảo vệ dữ liệu cá nhân, đăng tải công khai hoặc lộ trong quá trình chuyển giao, lưu trữ, trao đổi phục vụ hoạt động kinh doanh hoặc do biện pháp bảo vệ không tương xứng dẫn tới bị chiếm đoạt và đăng tải công khai
[3].
Tình trạng mua bán dữ liệu cá nhân hiện đang diễn ra phổ biến, công khai, với các dữ liệu thô
[4] và dữ liệu cá nhân đã qua xử lý
[5], nhiều hành vi chưa được xử lý vì thiếu quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp, công ty kinh doanh dịch vụ có thu thập dữ liệu cá nhân của khách hàng, cho phép các đối tác thứ ba tiếp cận thông tin dữ liệu cá nhân nhưng không có yêu cầu, quy định chặt chẽ, để đối tác thứ ba chuyển giao, buôn bán cho các đối tác khác. Các doanh nghiệp chủ động thu thập thông tin cá nhân của khách hàng, hình thành kho dữ liệu cá nhân, phân tích, xử lý các loại dữ liệu đó để tiến hành kinh doanh, buôn bán. Việc buôn bán dữ liệu cá nhân được tiến hành có hệ thống, có tổ chức, cam kết “bảo hành” và có khả năng cập nhật dữ liệu, trích xuất dữ liệu theo yêu cầu người mua. Nhiều dữ liệu bị rao bán công khai, trong thời gian dài, với số lượng lớn trên không gian mạng. Việc mua bán được tiến hành qua website, tài khoản, trang, nhóm trên mạng xã hội
[6], diễn đàn tin tặc
[7]. Việc thanh toán được thực hiện thông qua tài khoản ngân hàng, nhiều giao dịch ghi rõ nội dung mua bán dữ liệu.
Việc mua bán dữ liệu cá nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ, giữa cá nhân với cá nhân, mà còn có sự tham gia của các công ty, tổ chức, doanh nghiệp. Một số công ty được thành lập mới, đầu tư xây dựng, vận hành các hệ thống kỹ thuật chuyên thu thập trái phép dữ liệu cá nhân để kinh doanh thu lợi nhuận; xây dựng các phần mềm chuyên thu thập thông tin cá nhân, cài ẩn trong các trang mạng để thu thập thông tin tự động, phân tích thành tệp dữ liệu cá nhân có giá trị; tán phát mã độc có chức năng thu thập dữ liệu cá nhân trên môi trường mạng (máy tính và thiết bị di động); tổ chức tấn công, xâm nhập hệ thống máy tính của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để chiếm đoạt dữ liệu cá nhân. Thời gian gần đây, Bộ Công an phát hiện hàng trămcá nhân, tổ chức liên quan bán dữ liệu cá nhân. Một số đường dây chiếm đoạt, mua bán dữ liệu quy mô lớn tại Việt Nam đã bị phát hiện, đấu tranh, xử lý. Số lượng dữ liệu cá nhân bị thu thập, mua bán trái phép phát hiện được lên tới hàng nghìn GB dữ liệu, trong đó có nhiều dữ liệu cá nhân nội bộ, nhạy cảm
[8].
Trong năm 2023, hoạt động mua bán dữ liệu cá nhân, dữ liệu nhạy cảm tiếp tục diễn biến phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi. Bộ Công an đã chủ động phát hiện, điều tra, xác minh 16 vụ việc lộ mất, rao bán thông tin, bí mật nhà nước và dữ liệu nội bộ trên không gian mạng. Qua công tác đấu tranh, Bộ Công an phát hiện số lượng lớn dữ liệu bị lộ mất được tin tặc rao bán công khai trên các nền tảng, diễn đàn (BreachedForums, Telegram, Facebook). Các đối tượng rao bán hoạt động với độ ẩn danh cao, thủ đoạn hoạt động và phương thức thanh toán hoàn toàn bằng tiền mã hoá nên khó truy vết. Nổi lên là: nhóm Telegram “Data Pro 298” (4.685 thành viên) cung cấp dịch vụ tra cứu thông tin dữ liệu viễn thông, Facebook, điện lực, ví điện tử Momo, thông tin biển kiểm soát phương tiện giao thông; nhóm Telegram “Tra cứu thông tin toàn quốc” (2.700 thành viên) cung cấp dịch vụ tra “nóng” dữ liệu cá nhân công dân Việt Nam (dữ liệu thời gian thực); diễn đàn tin tặc “Nohide.space” (nguồn gốc Nga)rao bán số lượng lớn thông tin đăng nhập nhiều hệ thống trọng yếu của Việt Nam… Một số trường hợp còn lợi dụng các diễn đàn, hội nhóm chia sẻ phương thức tấn công mạng, cách thức phát triển, phát tán mã độc số lượng lớn, gây nguy cơ mất an toàn, an ninh mạng. Thực trạng này cho thấy hệ thống cơ sở dữ liệu của cơ quan nhà nước và khu vực doanh nghiệp vẫn có những điểm yếu, lỗ hổng bảo mật để tin tặc lợi dụng xâm nhập, đánh cắp dữ liệu.
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan: sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ dẫn tới nhiều phương thức thủ đoạn mới trong tấn công mạng, các lỗ hổng và thiếu hụt biện pháp phòng thủ mạng; dữ liệu cá nhân trở thành nguồn nguyên liệu quý giá cho các hoạt động kinh tế, có giá trị lợi nhuận cao, hấp dẫn tin tặc và các đối tượng phạm tội thực hiện hành vi đánh cắp, mua bán dữ liệu cá nhân. Về chủ quan: nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân của công dân còn hạn chế, sẵn sàng cung cấp thông tin đời tư để lấy sự tiện ích về công nghệ; việc chấp hành các quy định của pháp luật (Nghị định số 13/2023/NĐ-CP) về bảo vệ dữ liệu cá nhân còn hạn chế, việc xây dựng hồ sơ đánh giá tác động xử lý dữ liệu cá nhân, đánh giá tác động chuyển dữ liệu cá nhân ra nước ngoài, thông báo vi phạm về bảo vệ dữ liệu cá nhân vẫn còn nhiều lúng túng, chậm trễ; công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên về bảo vệ dữ liệu cá nhân chưa được tiến hành, thậm chí nhiều cán bộ, nhân viên còn chưa biết đến các quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu; việc thay đổi quy trình làm việc, chính sách hiện hành của tổ chức, doanh nghiệp phù hợp với quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã được quan tâm nhưng chưa được triển khai đúng mức; việc cung cấp các giải pháp kỹ thuật bảo vệ dữ liệu cá nhân còn hạn chế, thiếu tiêu chí đánh giá các giải pháp kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Pháp luật bảo vệ dữ liệu cá nhân nước ta đã có một số quy định về chế tài xử phạt với những hành vi vi phạm bảo vệ thông tin cá nhân,
chưa có quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Về chế tài hình sự: Chưa có chế tài hình sự về dữ liệu cá nhân. Vi phạm các quy định về thông tin cá nhân có thể bị xử phạt hình sự theo 02 tội danh tại Điều 159 và Điều 288
[9], với án tù giam cao nhất là 07 năm theo quy định của Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hầu hết các vụ việc buôn bán dữ liệu cá nhân đang được hoàn thiện theo hướng chứng minh 02 tội danh này. Tuy nhiên, do chưa quy định cụ thể về các yếu tố cấu thành trong hoạt động mua bán dữ liệu cá nhân, nhất là hoạt động có sự trung gian qua nhiều cá nhân, tổ chức nên khó chứng minh tội phạm.
Về chế tài dân sự: Chưa có chế tài dân sự về dữ liệu cá nhân. Quyền bảo vệ thông tin cá nhân là một quyền dân sự, được quy định trong Bộ luật Dân sự
[10].
Về chế tài hành chính: Chưa có chế tài hành chính về dữ liệu cá nhân. Các hành vi vi phạm, xâm hại đến thông tin cá nhân đã có nhưng nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau
[11].
Với thực trạng buôn bán, xử lý dữ liệu cá nhân tràn lan như hiện nay, việc không có chế tài xử lý hoặc chế tài xử lý không đủ mạnh, không đủ sức răn đe sẽ không giải quyết được tình hình. Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân sẽ quy phạm đầy đủ các nội dung bảo vệ dữ liệu cá nhân, các hành vi vi phạm quy định sẽ được căn cứ vào Luật để đề xuất các hình thức, biện pháp xử lý phù hợp.
6. Nâng cao nhận thức, ý thức về xử lý dữ liệu cá nhân hiện nay
Nhận thức về bảo vệ thông tin cá nhân còn hạn chế, chưa phù hợp với tình hình thực tế, là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng lộ, lọt, chiếm đoạt thông tin cá nhân, buôn bán dữ liệu cá nhân. Nhiều dữ liệu cá nhân nhạy cảm, quan trọng, như: sinh trắc học, tình trạng sức khỏe, tài chính, gia đình… được đăng tải công khai, trở thành nguồn để các phần mềm thu thập dữ liệu. Nhận thức của một số cán bộ, công chức, viên chức về cung cấp, quản lý hồ sơ cá nhân, dữ liệu cá nhân chưa đầy đủ, dẫn đến việc chỉ đạo, hướng dẫn, thực hiện nhiệm vụ lưu trữ ở một cơ quan, đơn vị chưa được quan tâm chú trọng đúng mức. Có sự mất cân bằng về tính hai mặt của công nghệ thông tin, tâm lý sẵn sàng đánh đổi thông tin đời tư, thông tin cá nhân để lấy sự tiện ích về mặt công nghệ. Nhận thức, ý thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân thấp không chỉ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của chủ thể dữ liệu, mà còn tác động trực tiếp tới an ninh, chủ quyền quốc gia. Về lâu dài, không thể dự báo trước với những dữ liệu cá nhân được công khai sẽ tác động, ảnh hưởng thế nào đến chủ thể dữ liệu khi khả năng khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu cá nhân ngày càng phát triển.
Như vậy:
(1) Việc ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền dữ liệu cá nhân; ngăn chặn các hành vi xâm phạm dữ liệu cá nhân, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
(2) Việc xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đi thận trọng, kỹ lưỡng, có quá trình và sự chuẩn bị công phu của Chính phủ, bắt đầu từ khi khảo sát xây dựng Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân (năm 2019) đến khi Nghị định có hiệu lực và triển khai trên thực tiễn.
2. Mục tiêu xây dựng chính sách
2.1. Các vấn đề tổng thể cần giải quyết
2.1.1.Cần có một văn bản xác định trách nhiệm về xử lý dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có liên quan.
2.1.2. Xác định rõ nội dung, thủ tục tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có liên quan phải tiến hành.
2.1.3. Xác định đầu mối liên hệ, thông tin cần thiết phục vụ công tác quản lý nhà nước về dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân.
2.1.5. Quy định thống nhất biểu mẫu, trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện đối với toàn bộ tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong phạm vi theo quy định của pháp luật.
2.1.6. Xác định căn cứ pháp lý để phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân hiện nay (buôn bán dữ liệu cá nhân; thu thập, xử lý, phân tích trái phép dữ liệu cá nhân; công khai, đăng tải dữ liệu cá nhân trái phép; sử dụng dữ liệu cá nhân vào mục đích phạm tội...).
2.1.7. Xác định trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân khi để xảy ra vi phạm hoặc áp dụng các biện pháp hành chính cần thiết, tương xứng với các loại dữ liệu cá nhân.
2.2. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân và trách nhiệm bảo vệ dữ liệu cá nhân của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
2.3. Mục tiêu cụ thể
- Thống nhất thuật ngữ và xây dựng một số khái niệm quan trọng về dữ liệu cá nhân, bảo vệ dữ liệu cá nhân, chủ thể dữ liệu, phân loại dữ liệu cá nhân, Xử lý dữ liệu cá nhân, Sự đồng ý của chủ thể dữ liệu, chuyển dữ liệu cá nhân ra nước ngoài.
- Xây dựng các nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân
- Quy định về xử lý vi phạm quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân
- Quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu
- Quy định sự đồng ý của chủ thể dữ liệu
- Quy định xử lý dữ liệu cá nhân trong trường hợp không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu
- Quy định về điều kiện bảo vệ dữ liệu cá nhân đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ xử lý dữ liệu cá nhân; dịch vụ cung cấp tổ chức, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân (DPO)
- Đánh giá tác động xử lý dữ liệu cá nhân và Chuyển dữ liệu cá nhân ra nước ngoài
- Biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân, điều kiện bảo đảm hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân
- Hoàn thiện quy định bảo đảm các điều kiện, biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân, cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân và Cổng thông tin quốc gia về bảo vệ dữ liệu cá nhân; lực lượng bảo vệ dữ liệu cá nhân, gồm: lực lượng chuyên trách, lực lượng tham gia bảo vệ dữ liệu cá nhân (bộ phận bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân).
III. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG THỦ TỤC CỦA CHÍNH SÁCH
1. Chính sách 1: Thống nhất quy định pháp luật về các thuật ngữ pháp lý liên quan tới dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân
1.1. Xác định vấn đề bất cập
Nước ta chưa có văn bản Luật quy định đầy đủ về dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân nhưng lại có 69 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến bảo vệ dữ liệu cá nhân tại Việt Nam, trong đó có: Hiến pháp; 04 Bộ luật; 39 Luật, 01 Pháp lệnh; 19 Nghị định; 04 Thông tư/Thông tư liên tịch; 01 Quyết định của Bộ trưởng; có hơn 10 khái niệm thuật ngữ liên quan tới dữ liệu cá nhân; cụm từ “thông tin cá nhân” xuất hiện ở hơn 300 văn bản quy phạm pháp luật, nhưng chỉ có 07 văn bản pháp luật có định nghĩa/diễn giải thế nào là thông tin cá nhân. Điều này đặt ra yêu cầu phải thống nhất về thuật ngữ “dữ liệu cá nhân” ở tầm văn bản Luật, có sự phân biệt rõ ràng với “thông tin cá nhân” để bảo đảm sự đồng bộ về nội dung, phạm vi và cách thức, trường hợp áp dụng cụ thể. Phương án giải quyết là quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc tại Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, bãi bỏ các quy định tại các văn bản có liên quan nếu không đồng nhất với nguyên tắc về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
1.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Xây dựng, áp dụng thống nhất thuật ngữ, quy định, nội hàm, phạm vi, nội dung, trách nhiệm về dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
1.3. Giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề
- Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
- Phương án 2: xây dựng, áp dụng thống nhất quy định pháp luật về các thuật ngữ pháp lý liên quan tới dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân.
1.4. Đánh giá tác động của các giải pháp
1.4.1. Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực: Nhà nước không phát sinh chi phí sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản để điều chỉnh chính sách.
- Về mặt tiêu cực: không tạo điều kiện để sử dụng dữ liệu cá nhân làm nguyên liệu phát triển kinh tế, xã hội; tiếp tục để tồn tại tình trạng trùng dẫm, chồng chéo, có khả năng gây vướng mắc trong thi hành pháp luật sau khi Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân được ban hành.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi chính sách hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Khó khăn, vướng mắc trong quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân; khó khăn trong áp dụng đồng bộ, thống nhất hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp; khó khăn trong bảo vệ các quyền chính đáng của chủ thể dữ liệu.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi quy định về thủ tục hành chính hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Không áp dụng được đồng bộ, thống nhất, hiệu lực hiệu quả các thủ tục hành chính mới được ban hành trong Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi hệ thống pháp luật có liên quan.
- Về mặt tiêu cực: Không khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; không khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; không hài hòa với thông lệ quốc tế và không góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân; không tạo điều kiện để sử dụng dữ liệu cá nhân làm nguyên liệu phát triển kinh tế, xã hội.
1.4.2. Phương án 2: xây dựng, áp dụng thống nhất quy định pháp luật về các thuật ngữ pháp lý liên quan tới dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân, theo hướng:
- Dữ liệu cá nhân là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể, bao gồm: dữ liệu cá nhân cơ bản và dữ liệu cá nhân nhạy cảm. Bảo vệ dữ liệu cá nhân là hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, bảo đảm, quản lý, vận hành, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Chủ thể dữ liệu là cá nhân được dữ liệu cá nhân phản ánh.
+ Làm rõ khái niệm và nội hàm của dữ liệu cá nhân cơ bản, dữ liệu cá nhân nhạy cảm. Theo đó, Dữ liệu cá nhân cơ bản là thông tin cơ bản của công dân hoặc các thông tin khác không phải dữ liệu cá nhân nhạy cảm, gắn liền với danh tính của công dân; Dữ liệu cá nhân nhạy cảm là thông tin khi bị xâm phạm sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, gắn liền với quyền riêng tư của cá nhân. Việc xây dựng các quy định này phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước, như: Luật Căn cước công dân, Bộ luật Dân sự, Luật Khám bệnh, chữa bệnh… và tính chất quan trọng của từng loại dữ liệu cá nhân. Để phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ, Dự thảo Luật coi dữ liệu cá nhân như một nguồn tài nguyên có thể kinh doanh phục vụ phát triển kinh tế, xã hội nhưng phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và bảo đảm nguyên tắc luôn có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu.
- Xác định chính xác, đầy đủ những hoạt động xử lý dữ liệu cá nhân. Theo đó, Xử lý dữ liệu cá nhân là một hoặc nhiều hoạt động tác động tới dữ liệu cá nhân, như: thu thập, ghi, phân tích, xác nhận, lưu trữ, chỉnh sửa, công khai, tiết lộ, kết hợp, truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, cung cấp, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu cá nhân hoặc các hành động khác có liên quan.
- Làm rõ khái niệm để thống nhất thực hiện trong toàn bộ Dự thảo Luật: Sự đồng ý của chủ thể dữ liệu là thông tin được thể hiện rõ ràng, tự nguyện, khẳng định về việc cho phép xử lý dữ liệu cá nhân của chủ thể dữ liệu
- Phân loại các thành phần có liên quan tới xử lý dữ liệu cá nhân phù hợp với thực tế của nước ta và quy định của một số quốc gia trên thế giới, gồm: Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân là tổ chức, cá nhân quyết định mục đích và phương tiện xử lý dữ liệu cá nhân; Bên Xử lý dữ liệu cá nhân là tổ chức, cá nhân thực hiện việc xử lý dữ liệu thay mặt cho Bên Kiểm soát dữ liệu, thông qua một hợp đồng hoặc thỏa thuận với Bên Kiểm soát dữ liệu; Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân là tổ chức, cá nhân đồng thời quyết định mục đích, phương tiện và trực tiếp xử lý dữ liệu cá nhân; Bên thứ ba là tổ chức, cá nhân ngoài Chủ thể dữ liệu, Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân, Bên Xử lý dữ liệu cá nhân, Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân được phép xử lý dữ liệu cá nhân.
- Làm rõ hoạt động, phạm vi chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới. Chuyển dữ liệu cá nhân ra nước ngoài là hoạt động sử dụng không gian mạng, thiết bị, phương tiện điện tử hoặc các hình thức khác chuyển dữ liệu cá nhân của công dân Việt Nam tới một địa điểm nằm ngoài lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc sử dụng một địa điểm nằm ngoài lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xử lý dữ liệu cá nhân.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực: Góp phần tạo hành lang pháp lý cho việc sử dụng dữ liệu cá nhân như nguyên liệu để phát triển kinh tế trong thời đại cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, phù hợp với xu thế thời đại.
- Về mặt tiêu cực: Phát sinh chi phí phục vụ việc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực: tạo hành lang pháp lý phục vụ công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: phát sinh yêu cầu rà soát, đánh giá quy trình, chính sách và các biện pháp tuân thủ.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: làm cơ sở xây dựng các quy định về thủ tục hành chính liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: Không.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật; khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; góp phần khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; hài hòa với thông lệ quốc tế và góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân; tạo điều kiện để sử dụng dữ liệu cá nhân làm nguyên liệu phát triển kinh tế, xã hội.
- Về mặt tiêu cực: phát sinh yêu cầu rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
1.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Từ sự phân tích về tác động tích cực, tiêu cực của mỗi phương án, có thể thấy rằng, tác động tích cực của phương án thống nhất quy định pháp luật về các thuật ngữ pháp lý liên quan tới dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân là lớn hơn, lâu dài hơn, cần thiết hơn, có tác động tiêu cực nhưng không lớn, ít hơn so với lợi ích và có thể khắc phục.
2. Chính sách 2: Quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu
2.1. Xác định vấn đề bất cập
Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa các quy định của các bản Hiến pháp trước đây, khẳng định quyền riêng tư của cá nhân là bất khả xâm phạm, đồng thời phát triển mở rộng phạm vi quyền riêng tư không chỉ là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín mà còn bao gồm quyền bảo vệ bí mật cá nhân, trong đó có thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 21). Tại một số văn bản Luật và dưới Luật đã quy định về việc cá nhân được làm và không được làm một số hành vi. Tuy nhiên, việc quy định này chưa khẳng định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu phải thực hiện. Điều này đặt ra yêu cầu phải quy định rõ các quyền và nghĩa vụ phải thực hiện
2.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Giúp chủ thể dữ liệu nhận biết được mình có quyền và nghĩa vụ gì trong bảo vệ dữ liệu cá nhân, từ đó có trách nhiệm bảo vệ dữ liệu cá nhân hoặc phản ứng trước dữ liệu cá nhân của mình bị xâm phạm, gắn trách nhiệm tự bảo vệ dữ liệu cá nhân của mình trước khi đề nghị cơ quan chức năng, tổ chức, cá nhân bảo vệ.
2.3. Giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề
- Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
- Phương án 2: Quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu.
2.4. Đánh giá tác động của các giải pháp
2.4.1. Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực: Nhà nước không phát sinh chi phí sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản để điều chỉnh chính sách.
- Về mặt tiêu cực: chưa thể chế cụ thể quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân; khiến cá nhân chưa xác định được các quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động kinh tế, xã hội, dễ bị xâm phạm.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi chính sách hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Khó khăn, vướng mắc trong quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân; khó khăn trong áp dụng đồng bộ, thống nhất hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp; khó khăn trong bảo vệ các quyền chính đáng của chủ thể dữ liệu.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi quy định về thủ tục hành chính hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Không áp dụng được đồng bộ, thống nhất, hiệu lực hiệu quả các thủ tục hành chính mới được ban hành trong Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi hệ thống pháp luật có liên quan.
- Về mặt tiêu cực: Không khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; không khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; không hài hòa với thông lệ quốc tế và không góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
2.4.2. Phương án 2: Quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu
- Quy định cụ thể các quyền của chủ thể dữ liệu, gồm: Quyền được biết; Quyền đồng ý; Quyền truy cập; Quyền rút lại sự đồng ý; Quyền xóa dữ liệu; Quyền hạn chế xử lý dữ liệu; Quyền cung cấp dữ liệu; Quyền phản đối xử lý dữ liệu; Quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện; Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; Quyền tự bảo vệ.
- Quy định cụ thể nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu: Tự bảo vệ dữ liệu cá nhân của mình; yêu cầu các tổ chức, cá nhân khác có liên quan bảo vệ dữ liệu cá nhân của mình; Tôn trọng, bảo vệ dữ liệu cá nhân của người khác; Cung cấp đầy đủ, chính xác dữ liệu cá nhân khi đồng ý cho phép xử lý dữ liệu cá nhân; Tham gia tuyên truyền, phổ biến kỹ năng bảo vệ dữ liệu cá nhân; Thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân và tham gia phòng, chống các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực: Góp phần tạo hành lang pháp lý cho việc sử dụng dữ liệu cá nhân như nguyên liệu để phát triển kinh tế trong thời đại cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, phù hợp với xu thế thời đại; giúp chủ thể dữ liệu bảo vệ được quyền và lợi ích hợp chính đáng của mình, hạn chế các hành vi xâm phạm.
- Về mặt tiêu cực: Phát sinh chi phí tuân thủ các quy định bảo vệ quyền của chủ thể dữ liệu.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực: nâng cao vị thế quốc gia trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân; góp phần xây dựng xã hội lành mạnh,
tạo hành lang pháp lý phục vụ công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: phát sinh yêu cầu rà soát, đánh giá quy trình, chính sách và các biện pháp tuân thủ.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: làm cơ sở xây dựng các quy định về thủ tục hành chính liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: Không.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật; khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; góp phần khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; hài hòa với thông lệ quốc tế và góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân; tạo điều kiện để sử dụng dữ liệu cá nhân làm nguyên liệu phát triển kinh tế, xã hội.
- Về mặt tiêu cực: phát sinh yêu cầu rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm quyền của chủ thể dữ liệu.
2.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Từ sự phân tích về tác động tích cực, tiêu cực của mỗi phương án, có thể thấy rằng, tác động tích cực của phương án Quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu là lớn hơn, lâu dài hơn, cần thiết hơn, có tác động tiêu cực nhưng không lớn, ít hơn so với lợi ích và có thể khắc phục.
3. Chính sách 3: Hoàn thiện quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu
3.1. Xác định vấn đề bất cập
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, chỉ có văn bản luật được quyền quy định các nội dung liên quan tới hạn chế quyền con người, quyền công dân. Dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân dự kiến quy định một số trường hợp liên quan tới tiết lộ, xử lý dữ liệu cá nhân khi chưa được sự đồng ý của chủ thể dữ liệu, có khả năng ảnh hưởng tới quyền con người. Mặc dù đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân quy định một số trường hợp tại Điều 17. Tuy nhiên, về mặt pháp lý và để bảo đảm quy phạm đầy đủ các trường hợp khác trong thực tiễn, cần ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân để quy định các nội dung nêu trên.
Theo thống kê của Bộ Công an, có tổng số 69 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến bảo vệ dữ liệu cá nhân tại Việt Nam, trong đó có: Hiến pháp; 04 Bộ luật; 39 Luật, 01 Pháp lệnh; 19 Nghị định; 04 Thông tư/Thông tư liên tịch; 01 Quyết định của Bộ trưởng. Tuy nhiên, dù có tới 69 văn bản nhưng tất cả đều chưa thống nhất về quy trình, quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân. Ngày 17/4/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân đưa ra định nghĩa về dữ liệu cá nhân và bảo vệ dữ liệu cá nhân. Tuy nhiên, đây mới chỉ là văn bản Nghị định, chưa phải văn bản Luật nên cần thống nhất thực hiện trong thực tiễn.
Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số là xu thế của thời đại. Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình này để làm chủ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dữ liệu cá nhân là một trong những nguyên liệu chính để thực hiện chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp sử dụng dữ liệu cá nhân vào mục đích kinh doanh, phát triển kinh tế, tạo giá trị cho xã hội nhưng cũng xuất hiện nhiều vụ lộ, mất dữ liệu cá nhân nghiêm trọng, liên quan tới hàng chục triệu người. Do đó, việc quy định cụ thể các hoạt động kinh doanh liên quan tới dữ liệu cá nhân là vô cùng cấp bách và cần thiết.
Điều này đặt ra yêu cầu phải thống nhất quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân ở tầm văn bản Luật, bảo đảm sự đồng bộ về nội dung, phạm vi và cách thức, trường hợp áp dụng cụ thể.
3.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Quy định cụ thể những nội dung, chính sách, biện pháp cần áp dụng để bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu nhằm kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể dữ liệu trong hoạt động kinh tế, xã hội. Đồng thời, xác định đầy đủ trách nhiệm cần thực hiện cho các tổ chức, cá nhân bao gồm các điều kiện tuân thủ và thực hiện thủ tục hành chính.
3.3. Giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề
- Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
- Phương án 2: Hoàn thiện quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu.
3.4. Đánh giá tác động của các giải pháp
3.4.1. Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực: Nhà nước không phát sinh chi phí sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản để điều chỉnh chính sách.
- Về mặt tiêu cực: chưa thể chế cụ thể quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân trong từng khâu đoạn của quá trình xử lý dữ liệu; tiếp tục xảy ra tình trạng xử lý dữ liệu một cách âm thầm, trái phép như hiện nay.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi chính sách hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Gây khó khăn, vướng mắc trong quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân; khó khăn trong áp dụng đồng bộ, thống nhất hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp; khó khăn trong bảo vệ các quyền chính đáng của chủ thể dữ liệu.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi quy định về thủ tục hành chính hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Không áp dụng được đồng bộ, thống nhất, hiệu lực hiệu quả các thủ tục hành chính mới được ban hành trong Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi hệ thống pháp luật có liên quan.
- Về mặt tiêu cực: Không khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; không quy trình hóa các hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân trong từng khâu đoạn; không khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; không hài hòa với thông lệ quốc tế và không góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
3.4.2. Phương án 2: Hoàn thiện quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu
- Quy định cụ thể về sự đồng ý của chủ thể dữ liệu; rút lại sự đồng ý; thông báo xử lý dữ liệu cá nhân; Cung cấp dữ liệu cá nhân; Chỉnh sửa dữ liệu cá nhân; Lưu trữ, xóa, hủy dữ liệu cá nhân.
- Quy định cụ thể về Xử lý dữ liệu cá nhân trong trường hợp không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu; Xử lý dữ liệu cá nhân thu được từ hoạt động ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng; Xử lý dữ liệu cá nhân của người bị tuyên bố mất tích, đã chết; Xử lý dữ liệu cá nhân của trẻ em.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực:
+ Giải pháp này sẽ giúp các tổ chức, cá nhân xác định rõ trường hợp, nội dung, quy trình, quy định, các biện pháp, thủ tục cần áp dụng để bảo vệ dữ liệu cá nhân; bảo vệ và nâng cao hơn quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể dữ liệu trước tình trạng mua bán dữ liệu cá nhân tràn lan như hiện nay; bảo đảm điều kiện giúp các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ xử lý dữ liệu cá nhân, hạn chế nguy cơ bị tấn công mạng, lộ, mất dữ liệu cá nhân; cụ thể hóa cam kết quốc tế của Việt Nam trong hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
+ Góp phần tạo hành lang pháp lý cho việc sử dụng dữ liệu cá nhân như nguyên liệu để phát triển kinh tế trong thời đại cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, phù hợp với xu thế thời đại; giúp chủ thể dữ liệu bảo vệ được quyền và lợi ích hợp chính đáng của mình, hạn chế các hành vi xâm phạm; giúp các công ty biết và tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: Phát sinh chi phí tuân thủ quy trình xử lý dữ liệu cá nhân theo quy định.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực: tạo ra sự đồng bộ, góp phần nâng cao niềm tin, thương hiệu trong kinh doanh, góp phần xây dựng xã hội lành mạnh, tạo hành lang pháp lý phục vụ công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: phát sinh yêu cầu rà soát, đánh giá quy trình, chính sách và các biện pháp tuân thủ trong quá trình xử lý dữ liệu cá nhân.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: làm cơ sở xây dựng các quy định về thủ tục hành chính liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: Không.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu, sát với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật; khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; góp phần khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; hài hòa với thông lệ quốc tế và góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân; tạo điều kiện để sử dụng dữ liệu cá nhân làm nguyên liệu phát triển kinh tế, xã hội.
- Về mặt tiêu cực: phát sinh yêu cầu rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm quyền của chủ thể dữ liệu.
3.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Từ sự phân tích về tác động tích cực, tiêu cực của mỗi phương án, có thể thấy rằng, tác động tích cực của phương án hoàn thiện quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu là lớn hơn, lâu dài hơn, cần thiết hơn, có tác động tiêu cực nhưng không lớn, ít hơn so với lợi ích và có thể khắc phục.
4. Chính sách 4: Hoàn thiện quy định bảo đảm các điều kiện, biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân
4.1. Xác định vấn đề bất cập
Hiện có nhiều tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dữ liệu cá nhân vào mục đích kinh doanh nhưng chưa có văn bản quy định về điều kiện kinh doanh hoạt động này. Trong khi đó, dữ liệu cá nhân đang bị mua bán, lộ, mất tràn lan, nhiều hành vi vi phạm pháp luật thiếu quy định xử lý.
- Hiện nay, mặc dù đã có Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định về cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân nhưng chưa được quy định ở văn bản thuộc tầm Luật. Lực lượng bảo vệ dữ liệu cá nhân, gồm: lực lượng chuyên trách, lực lượng tham gia bảo vệ dữ liệu cá nhân (bộ phận bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân) chưa được quy định cụ thể.
- Hiện nay chưa có văn bản luật quy định về các thủ tục hành chính cần chấp hành quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
4.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
- Quy định cụ thể về biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân; bảo vệ dữ liệu cá nhân cơ bản; bảo vệ dữ liệu cá nhân nhạy cảm; tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Quy định về cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân và Cổng thông tin quốc gia về bảo vệ dữ liệu cá nhân; lực lượng bảo vệ dữ liệu cá nhân, gồm: lực lượng chuyên trách, lực lượng tham gia bảo vệ dữ liệu cá nhân (bộ phận bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân).
- Quy định về điều kiện bảo vệ dữ liệu cá nhân đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ xử lý dữ liệu cá nhân; dịch vụ cung cấp tổ chức, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân (DPO).
- Quy định về thực hiện thủ tục hành chính liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân, gồm: Thông báo vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; Đánh giá tác động xử lý dữ liệu cá nhân; Chuyển dữ liệu cá nhân ra nước ngoài.
- Quy định các điều kiện bảo đảm hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân, như nguồn lực, kinh phí, trang thiết bị.
4.3. Giải pháp đề xuất giải quyết vấn đề
- Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
- Phương án 2: Hoàn thiện quy định bảo đảm các điều kiện, biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân.
4.4. Đánh giá tác động của các giải pháp
4.4.1. Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện nay.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực: Nhà nước không phát sinh chi phí sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản để điều chỉnh chính sách.
- Về mặt tiêu cực: chưa thể chế cụ thể quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân trong từng khâu đoạn của quá trình xử lý dữ liệu; tiếp tục xảy ra tình trạng xử lý dữ liệu một cách âm thầm, trái phép như hiện nay.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi chính sách hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Gây khó khăn, vướng mắc trong quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân; khó khăn trong áp dụng đồng bộ, thống nhất hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp; khó khăn trong bảo vệ các quyền chính đáng của chủ thể dữ liệu.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi quy định về thủ tục hành chính hiện hành.
- Về mặt tiêu cực: Không áp dụng được đồng bộ, thống nhất, hiệu lực hiệu quả các thủ tục hành chính mới được ban hành trong Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: Không làm thay đổi hệ thống pháp luật có liên quan.
- Về mặt tiêu cực: Không khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; không quy trình hóa các hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân trong từng khâu đoạn; không khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; không hài hòa với thông lệ quốc tế và không góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
4.4.2. Phương án 2: Hoàn thiện quy định bảo đảm các điều kiện, biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân
- Quy định cụ thể về biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân; bảo vệ dữ liệu cá nhân cơ bản; bảo vệ dữ liệu cá nhân nhạy cảm; tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Quy định về cơ quan chuyên trách bảo vệ dữ liệu cá nhân và Cổng thông tin quốc gia về bảo vệ dữ liệu cá nhân; lực lượng bảo vệ dữ liệu cá nhân, gồm: lực lượng chuyên trách, lực lượng tham gia bảo vệ dữ liệu cá nhân (bộ phận bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân).
- Quy định về điều kiện bảo vệ dữ liệu cá nhân đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ xử lý dữ liệu cá nhân; dịch vụ cung cấp tổ chức, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân (DPO).
- Quy định về thực hiện thủ tục hành chính liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân, gồm: Thông báo vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; Đánh giá tác động xử lý dữ liệu cá nhân; Chuyển dữ liệu cá nhân ra nước ngoài.
- Quy định các điều kiện bảo đảm hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân, như nguồn lực, kinh phí, trang thiết bị.
(1) Tác động về kinh tế
- Về mặt tích cực:
+ Quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sẽ được nâng cao và bảo vệ tốt hơn. Đồng thời, giúp cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tăng cường nhận thức, ý thức hơn được tầm quan trọng của công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân.
+ Khi quy định về quy định về điều kiện bảo vệ dữ liệu cá nhân đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ xử lý dữ liệu cá nhân; dịch vụ cung cấp tổ chức, nhân sự bảo vệ dữ liệu cá nhân (DPO), Hồ sơ đánh giá tác động xử lý dữ liệu cá nhân được thực hiện, đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn quốc, môi trường đầu tư kinh doanh sẽ trở nên minh bạch hơn, tạo được sự tin tưởng cho các doanh nghiệp đầu tư trong và ngoài nước, tăng mức độ an tâm của người sử dụng.
- Về mặt tiêu cực: (a) Làm phát sinh chi phí từ lập hồ sơ, gồm chi phí in ấn, photocopy, nhân sự thực hiện. Đây là những chi phí một lần, việc cập nhật bổ sung hồ sơ không phát sinh chi phí đáng kể. (b) Chi phí cho công tác tuyên truyền, phổ biến, thực thi quy định về lập hồ sơ. Đây là chi phí giảm dần theo từng năm, chủ yếu là chi phí thời gian, công sức của cán bộ cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao hướng dẫn.
(2) Tác động về xã hội
- Về mặt tích cực:
+ Tạo ra sự đồng bộ, góp phần nâng cao niềm tin, thương hiệu trong kinh doanh, góp phần xây dựng xã hội lành mạnh, tạo hành lang pháp lý phục vụ công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
+ Tăng thêm mức độ giá trị của ngành nghề hướng dẫn, thực thi pháp luật, cơ hội việc làm mới có các công ty, tổ chức, cá nhân hoạt động về luật pháp, tăng cường giá trị thượng tôn pháp luật, gắn kết cộng đồng, xã hội và các vấn đề khác có liên quan đến xã hội.
- Về mặt tiêu cực: Không.
(3) Tác động về giới: Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
(4) Tác động về thủ tục hành chính
- Về mặt tích cực: làm cơ sở xây dựng các quy định về thủ tục hành chính liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: Có thể trong thời gian đầu thực hiện, việc lập, gửi, nhận, lưu trữ hồ sơ còn vướng mắc về nội dung, trình tự thực hiện, trong đó có một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, khi hồ sơ được hướng dẫn đồng bộ, thực hiện qua Cổng thông tin bảo vệ dữ liệu cá nhân hoặc gửi qua đường văn bản đối với nội dung nhạy cảm, mật, cần giữ kính, hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh của nước ta sẽ trở nên minh bạch, an toàn, thượng tôn pháp luật hơn.
(5) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về mặt tích cực: góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu, sát với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật; khắc phục được những khó khăn, bất cập hiện nay về tính đồng bộ với Hiến pháp, các văn bản pháp luật; góp phần khắc phục được tình trạng mua bán, chuyển giao trái phép dữ liệu cá nhân; hài hòa với thông lệ quốc tế và góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ dữ liệu cá nhân; tạo điều kiện để sử dụng dữ liệu cá nhân làm nguyên liệu phát triển kinh tế, xã hội.
- Về mặt tiêu cực: phát sinh yêu cầu rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm quyền của chủ thể dữ liệu.
4.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Từ sự phân tích về tác động tích cực, tiêu cực của mỗi phương án, có thể thấy rằng, tác động tích cực của phương án hoàn thiện quy định bảo đảm các điều kiện, biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân là lớn hơn, lâu dài hơn, cần thiết hơn, có tác động tiêu cực nhưng không lớn, ít hơn so với lợi ích và có thể khắc phục.
IV. QUÁ TRÌNH LẤY Ý KIẾN
1. Tham vấn: Việc đánh giá tác động được tiến hành trước và trong quá trình soạn thảo Nghị định số 13/2023/NĐ-CP và tiếp tục được lấy ý kiến rộng rãi của quần chúng nhân dân, các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong thời gian xây dựng dự thảo Luật. Đồng thời, tổ chức khảo sát tới tổ chức, doanh nghiệp trong nước về công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân để có cơ sở xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
2. Lấy ý kiến: Hồ sơ xây dựng Luật sẽ được xin ý kiến tham gia của tất cả các đối tượng chịu sự tác động của Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Thẩm định: Hồ sơ dự thảo Luật được tiến hành thẩm định theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
V. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
1. Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chính sách
Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chính sách bao gồm tất cả các đối tượng được đề xuất là đối tượng áp dụng của Luật.
2. Cơ quan giám sát đánh giá việc thực hiện chính sách
- Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chính sách: Bộ Công an tổ chức triển khai Luật.
- Cơ quan giám sát thực hiện chính sách: Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan.
Trên đây là báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Bộ Công an kính báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định./.
[1] Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; Nghị quyết 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược An ninh mạng quốc gia và Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 18/10/2019 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW.
[2] Luật an toàn thông tin mạng năm 2015; Luật Tố cáo năm 2013, Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế; Nghị định số 85/2016/NĐ-CP về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động cơ quan của Chính phủ
[3] Một số vụ việc điển hình như: việc Công ty VNG để lộ hơn 163 triệu tài khoản khách hàng; Công ty Thế giới di động và Điện máy xanh để lộ hơn 5 triệu email và hàng chục nghìn thông tin thẻ thanh toán như Visa, thẻ tín dụng của khách hàng; tin tặc đã tấn công vào hệ thống máy chủ của Việt Nam Airline, đăng tải lên Internet 411.000 tài khoản khách hàng thành viên của chương trình Bông Sen Vàng; tình trạng để lộ thông tin khách hàng để các công ty môi giới dịch vụ taxi của Việt Nam sử dụng để mời chào khách hàng qua tin nhắn SMS; dữ liệu khách hàng của Công ty FPT bị đăng tải công khai trên mạng
[4] Danh sách cán bộ, danh bạ nội bộ của các Bộ, tập đoàn kinh tế (Công thương, Tài chính, Giao thông Vận tải, Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thương mại, Tổng cục Thuế, Tập đoàn Than…); khách hàng điện lực trên toàn quốc; thông tin chủ thuê bao điện thoại, internet của các nhà mạng; thông tin khách hàng vay, gửi tiết kiệm ngân hàng; chứng khoán; bảo hiểm; hồ sơ đăng ký kinh doanh; trường học; thông tin hộ khẩu; thông tin khách hàng thuộc các lĩnh vực bất động sản, siêu thị, mua ô tô, xe máy…
[5] Thông tin chi tiết về các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, như: họ tên, ngày sinh, số CMND, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản ngân hàng (bao gồm cả số dư), thân nhân, chức vụ, vị trí công tác…
[6] Facebook, Zalo, Telegram
[8] thông tin về các cá nhân, tổ chức trên toàn quốc đã sử dụng dịch vụ điện lực của EVN; thông tin phụ huynh, học sinh tại các trường trên cả nước; thông tin khách hàng của các ngân hàng BIDV, Techcombank, VPBank, AgriBank...; thông tin đăng ký kinh doanh, nhân sự cơ quan nhà nước, bảo hiểm, hộ khẩu; dữ liệu viễn thông, thuê bao điện thoại của các nhà mạng Viettel, Mobiphone, Vinaphone; thông tin khách hàng tại các dự án bất động sản trên toàn quốc; khách hàng điện máy tại 63 tỉnh, thành toàn quốc; thông tin của khách hàng VIP, khách hàng đầu tư tài chính, chứng khoán, khách hàng các ngành SPA, Nha khoa, thời trang, thẩm mỹ viện
[9] Điều 159 quy định, việc “xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác” có thể bị phạt từ tới 03 năm; Điều 288 quy định về “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông” với mức hình phạt cao nhất là 07 năm tù giam.
[10] Khoản 1 Điều 9 Bộ luật Dân sự năm 2015 khẳng định: “Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. Tại Khoản 2 điều này đã ghi nhận 5 hình thức chế tài dân sự: Khi quyền dân sự của một chủ thề bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: Công nhận quyền dân sự của mình; Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc xin lỗi, cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; Buộc bồi thường thiệt hại
[11] Nghị định số 159/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản (điểm d khoản 2 Điều 8, điểm a khoản 1 Điều 20…); Nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo (điểm b khoản 1 Điều 4, điểm b khoản 3 Điều 51…); Nghị định số 176/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế (điểm c khoản 3 Điều 17, điểm b khoản 4 Điều 17, điểm a khoản 2 Điều 46…); Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 3/2/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử (Điều 83, 84 85, 100, 101, 102,…); Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/ 8/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (khoản 5 Điều 63, khoản 3 Điều 64, Điều 65 và khoản 4 Điều 66);