Skip Ribbon Commands
Skip to main content

DỰ THẢO ONLINE

Nơi cử tri tham gia vào hoạt động lập pháp của quốc hội
Thứ năm, 21/11/2024

  • Chủ thể đề nghị: Chính phủ
  • Loại văn bản: Đề nghị xây dựng luật
  • Dự kiến trình Quốc hội: Khóa XV
  • Trạng thái: Đang lấy ý kiến
Không có tài liệu nào
Không có tài liệu nào
Không có mục thảo luận

Báo cáo Tổng kết thi hành văn bản quy phạm pháp luật có quy định về dữ liệu

Tác giả : Bộ Công An
Mô tả :

Tài liệu đăng tải lấy ý kiến Nhân dân trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ.

Ngày 22/5/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 714/QĐ-TTg ban hành danh mục cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử. Đến nay từ các CSDL quốc gia, các CSDL chuyên ngành đã dần được hoàn thiện, tạo nền tảng triển khai, cung cấp dữ liệu cho các dịch vụ công trực tuyến, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa các cơ quan nhà nước, cung cấp các bộ dữ liệu mở có chất lượng và giá trị khai thác cao để phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Các văn bản pháp luật quy định về dữ liệu cũng đã được ban hành để kịp thời điều chỉnh, phù hợp với sự phát triển của dữ liệu, ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu. Tuy nhiên, đến nay bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, thực tiễn cũng cho thấy một số quy định của pháp luật liên quan đến dữ liệu vẫn còn vướng mắc, bất cập dẫn đến việc tổ chức thực hiện chức năng quản lý về dữ liệu tại nhiều bộ, ngành, địa phương thiếu thống nhất, hiệu quả đạt được còn hạn chế, chưa thu hút nhân lực công nghệ cao và chưa phát huy hết hiệu quả của dữ liệu trong phục vụ người dân, doanh nghiệp, xây dựng Chính phủ số.
Để đánh giá những kết quả đã đạt được, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và đề ra phương hướng xây dựng, phát triển dữ liệu trong thời gian tới, Bộ Công an đã có Công văn số 310/BCA-C06 ngày 24/01/2024 đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, UBND các tỉnh/TP trực thuộc trung ương tổ chức tổng kết đánh giá tình hình, kết quả triển khai thi hành các văn bản quy định pháp luật về dữ liệu từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2023, kết quả như sau:
I. CÔNG TÁC TRIỂN KHAI, TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ DỮ LIỆU, CÔNG TÁC CHUYỂN ĐỔI SỐ
1. Công tác triển khai thi hành các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về dữ liệu
Để triển khai thi hành các luật liên quan đến dữ liệu, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức rà soát, tham mưu xây dựng văn bản triển khai, quy định trách nhiệm của các đơn vị có liên quan trong tổ chức thi hành pháp luật về dữ liệu, tổ chức rà soát, bố trí nhân lực, hạ tầng công nghệ thông tin… để phát triển ứng dụng dữ liệu trong phát triển kinh tế-xã hội, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số tại nước ta.
Để cụ thể hóa Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược dữ liệu quốc gia; Đề án 06/CP về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030..., các bộ, ngành, UBND các tỉnh/TP ban hành hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật, Chỉ thị, nghị quyết, quy chế quản trị, quản lý, vận hành, khai thác hệ thống hạ tầng, ứng dụng, CSDL dùng chung tại Trung tâm tích hợp dữ liệu tỉnh… Một số địa phương đã đạt được những mục tiêu đáng ghi nhận như:
- Trên 50% sở, ngành, địa phương cung cấp dịch vụ chia sẻ dữ liệu trên nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của tỉnh (LGSP).
- Trên 80% sở, ngành, địa phương triển khai chức năng kho dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh để người dân, doanh nghiệp chỉ phải cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến.
- 100% các trang, cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, thương mại điện tử, cung cấp dịch vụ số phổ biến trên mạng có thu thập dữ liệu cá nhân được đánh giá an toàn thông tin và gán nhãn tín nhiệm mạng.
- Trên 30% sở, ngành, địa phương ban hành kế hoạch về dữ liệu mở, bao gồm danh mục dữ liệu mở, kế hoạch công bố dữ liệu mở của cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý và mức độ tối thiểu cần đạt được trong từng giai đoạn của kế hoạch; cung cấp lần đầu dữ liệu mở theo kế hoạch. Dự kiến năm 2024 đạt 100% sở, ngành, địa phương ban hành kế hoạch dữ liệu mở và cung cấp dữ liệu mở theo đúng mục tiêu của Ban Chỉ đạo chuyển đổi số tỉnh.
Triển khai các hệ thống thông tin đảm bảo an toàn, an ninh thông tin khi dữ liệu được quản lý, lưu trữ, xử lý, truyền tải; Các cơ quan khai thác dữ liệu đảm bảo an toàn, an ninh thông tin khi kết nối, tiếp nhận dữ liệu chia sẻ theo quy định của cơ quan cung cấp dữ liệu và các quy định tại Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về dữ liệu
Các bộ, ngành, địa phương thường xuyên tổ chức triển khai tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, trong đó lĩnh vực về dữ liệu được xác định là nội dung quan trọng. Công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về dữ liệu được thể hiện đa dạng, linh hoạt, đa chiều, dưới nhiều hình thức khác nhau như trên các phương tiện thông tin đại chúng và nền tảng số, tập huấn, hội thảo, hội nghị, ứng dụng, phần mềm trên internet như Cổng/trang thông tin điện tử, zalo, facebook[1]….; tờ rơi, áp phích, băng rôn, khẩu hiệu tại các trụ sở cơ quan, bệnh viện, trường học, nơi công cộng; triển lãm tranh, ảnh; hội thi tìm hiểu pháp luật... Bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau để các quy định pháp luật đến với các tầng lớp nhân dân.[2] Các hoạt động này đã giúp cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, nhân dân hiểu rõ hơn chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về dữ liệu, từng bước nâng cao nhận thức và thực hiện nghiêm các quy định về khai thác và sử dụng dữ liệu trong cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin lưu trữ dữ liệu.
Công tác tuyên truyền được tập trung vào việc phản ánh kết quả triển khai xây dựng CSDL; những ứng dụng, hiệu quả thiết thực của việc dữ liệu, xây dựng CSDL, kết nối, chia sẻ dữ liệu vào thực tiễn; kinh nghiệm phát triển, bảo đảm an ninh, an toàn của dữ liệu, CSDL và trung tâm dữ liệu trên thế giới. Kịp thời phát hiện, lan tỏa gương tập thể, cá nhân điển hình, mô hình hay, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các CSDL nhằm tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong nhận thức và hành động của các tầng lớp Nhân dân.
Nhiều cuộc thi tìm hiểu về dữ liệu đã được tổ chức như: Dữ liệu số với cuộc sống - Data for life (C06-Bộ Công an), Cuộc thi khoa học dữ liệu – UIT Data Science Challenge 2023 (Trường Đại học Công nghệ thông tin); Cuộc thi Phân tích dữ liệu DAZONE 2023, Cuộc thi Tìm kiếm Tài năng Khoa học dữ liệu (Trường Đại học Ngoại thương), Data Got Talent 2023 (Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng), Vietnam Datathon 2023 với chủ đề "Cách mạng hóa tương lai của ngành bán lẻ dựa trên dữ liệu"… nhằm thúc đẩy việc tìm hiểu, ứng dụng dữ liệu vào cuộc sống, phát triển kinh tế, xã hội, nhất là trong giới trẻ.
Việt Nam cũng đã đạt được thành tích ấn tượng tại các cuộc thi quốc tế về an toàn thông tin ở cấp độ chuyên gia và cả cấp độ trẻ, cụ thể: đội chuyên gia của Viettel vô địch cuộc thi uy tín nhất thế giới trong giới chuyên gia Pwn2Own; đội sinh viên của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh vô địch cuộc thi ASEAN Cyber Shield, vượt qua 37 đội đến từ 10 nước ASEAN; đội sinh viên của Đại học Bách Khoa Hà Nội vô địch cuộc thi Sinh viên với an toàn thông tin, vượt qua 233 đội đến từ 10 nước ASEAN.
II. KẾT QUẢ THI HÀNH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CÓ QUY ĐỊNH VỀ DỮ LIỆU
1. Về ban hành văn bản quy phạm pháp luật có quy định về dữ liệu
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã thể hiện quyết tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế nhằm tạo lập hành lang pháp lý giúp kiến tạo sự phát triển trên không gian số, giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn chuyển đổi số thời gian vừa qua, giải quyết các “điểm nghẽn” nhằm thúc đẩy phát triển dữ liệu, chuyển đổi số nhanh tại Việt Nam. Về CSDL, có 69 Luật quy định, như: Luật Cư trú, Luật Căn cước, Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, Luật Hộ tịch, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Đất đai, Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ….
Đặc biệt, ngay trong năm 2023, Quốc hội đã thông qua Luật Giao dịch điện tử, Luật Viễn thông và Luật Căn cước, là cơ sở pháp lý quan trọng để đẩy mạnh phát triển dữ liệu.
- Luật Giao dịch điện tử tạo hành lang pháp lý hoàn thiện, đầy đủ, thuận lợi cho việc chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực, nhằm chủ động, ưu tiên, khuyến khích thực hiện giao dịch điện tử; phát triển giao dịch điện tử toàn diện bằng các chính sách giúp tối ưu hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý giao dịch điện tử thuận tiện, an toàn và tin cậy hơn..
- Luật Viễn thông nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển hạ tầng viễn thông tạo nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số; bổ sung quy định về các dịch vụ viễn thông mới, bao gồm dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet, dịch vụ điện toán đám mây, dịch vụ trung tâm dữ liệu; xây dựng hành lang pháp lý phù hợp với xu thế chuyển đổi số, chuyển đổi hạ tầng viễn thông thành hạ tầng số; kịp thời khắc phục các vướng mắc trong công tác thực thi, quản lý nhà nước thời gian qua và bảo đảm phù hợp với các luật hiện hành, các cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
- Luật Căn cước được thông qua là bước đột phá trong đổi mới quản lý dân cư, đảm bảo tốt hơn quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường ứng dụng khoa học-công nghệ, nâng cao hiệu quả, giá trị sử dụng của CSDL quốc gia về dân cư, thẻ căn cước vào công tác quản lý Nhà nước, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ công dân số,… phù hợp với xu hướng quản lý xã hội số.
Một số điển hình:
- Cách tiếp cận “Một văn bản điều chỉnh nhiều văn bản”. Từ kết quả xây dựng Luật Giao dịch điện tử năm 2023, Nghị định số 104/2022/NĐ-CP ngày 21/12/2022 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công, có thể rút ra bài học kinh nghiệm về việc xây dựng hoàn thiện thể chế để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số: “Thể chế số phải đi trước một bước để giúp chuyển đổi số quốc gia nhanh hơn, bền vững hơn”; cách tiếp cận “Một văn bản điều chỉnh nhiều văn bản”, “phát hiện ra sự bất cập, lạc hậu thì sửa ngay, sửa từng điểm thì sẽ sửa đúng và nhanh hơn, từ đó sẽ phản ánh được hơi thở của cuộc sống”.
- Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 63/2023/TT-BTC ngày 16/10/2023 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của một số Thông tư quy định về phí, lệ phí của Bộ trưởng Bộ Tài chính nhằm khuyến khích sử dụng dịch vụ công trực tuyến, (có hiệu lực từ 01/12/2023) với mức giảm phí, lệ phí từ 10% đến 50% cho 08 khoản phí khi tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ công trực tuyến. Dự kiến chính sách này sẽ hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khoảng 100 tỷ đồng/năm.
- Quảng Ngãi ban hành chính sách giảm 50% phí, lệ phí sử dụng dịch vụ công trực tuyến; rút ngắn 20% thời gian xử lý cho 973 dịch vụ công trực tuyến; thực hiện thí điểm tiếp nhận và trả kết quả hoàn toàn trực tuyến với 97 dịch vụ công trực tuyến; ban hành Kế hoạch nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến; sử dụng giải pháp nộp hồ sơ trực tuyến thông qua ứng dụng được xây dựng trên thiết bị di động (smartphone) đạt hiệu quả, thiết thực, có tính khả thi cao.
- Lào Cai ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về chính sách ưu đãi đối với công chức, viên chức chuyên trách về công nghệ thông tin, chuyển đổi số, áp dụng đối với công chức, viên chức làm việc tại cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện với mức hỗ trợ lên đến 150 triệu đồng/người/lần; hỗ trợ đào tạo và đãi ngộ với mức hỗ trợ lên đến 5,4 triệu đồng/người/tháng.
- Thành phố Hà Nội là địa phương đầu tiên ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố về chính sách áp dụng mức thu phí, lệ phí bằng 0 khi tổ chức, cá nhân thực hiện nộp hồ sơ theo hình thức trực tuyến đối với 82 thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của Hội đồng Nhân dân thành phố.
2. Các cơ sở dữ liệu
2.1. Thực trạng về cơ sở dữ liệu
Năm 2023, Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam tăng 10 bậc về dữ liệu mở so với năm 2020. Năm 2022, tổ chức quốc tế Open Data Watch đánh giá, xếp hạng dữ liệu mở của Việt Nam đứng thứ 80 trên thế giới, tăng 11 bậc so với năm 2020 (xếp hạng 91 thế giới). Đặc biệt, chỉ số thành phần về độ phủ dữ liệu mở tăng vượt bậc với thứ hạng 81 trên thế giới, tăng 41 bậc (từ vị trí 122) và thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á, tăng 3 bậc (từ vị trí 9).
Cơ quan nhà nước đã đưa vào vận hành, khai thác 07 CSDL quốc gia. Tỷ lệ các bộ, tỉnh đã xác định danh mục CSDL đạt 64%. Số CSDL chuyên ngành tại các bộ, ngành, địa phương được thiết lập năm 2023 tăng trưởng 38,5% so với năm 2022, từ 1.280 CSDL lên 2.087 CSDL. Việc công bố kế hoạch và danh mục dữ liệu mở tăng mạnh lên 52% trong năm 2023.
 (1) CSDL quốc gia về dân cư:
Lưu thông tin của khoảng 99 triệu nhân khẩu, đạt trên 99% dân số Việt Nam; kết nối với 15 bộ, ngành; 63/63 địa phương. Bộ Công an cũng đã phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ rà soát, cập nhật trên 92 nghìn trường hợp thôi quốc tịch, gần 5 triệu trường hợp thay đổi thông tin trong hộ tịch để phục vụ việc làm sạch dữ liệu.
(2) CSDL quốc gia về đăng ký doanh nghiệp: Kết nối với 13 bộ, ngành và 63/63 địa phương với khoảng 41 triệu giao dịch; lưu trữ dữ liệu của hơn 1,6 triệu doanh nghiệp (khoảng 900 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động) và hơn 200 nghìn đơn vị trực thuộc doanh nghiệp; lưu trữ thông tin đăng ký của khoảng 2,4 triệu hộ kinh doanh, trong đó: hơn 260 nghìn hộ kinh doanh được chuẩn hóa dữ liệu, lưu trữ khoảng 30 nghìn hợp tác xã và đơn vị trực thuộc. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử đạt 92,58%. Từ năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai kết nối, chia sẻ dữ liệu về đăng ký doanh nghiệp với các bộ, ngành, địa phương.
(3) CSDL quốc gia về bảo hiểm: Kết nối, chia sẻ dữ liệu với 09 bộ, ngành và một số kết nối, chia sẻ dữ liệu có phạm vi quốc gia; quản lý khoảng 32 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm; khoảng 17,1 triệu người tham gia BHXH; khoảng 88,9 triệu người tham gia BHYT; đã xác thực hơn 93,7 triệu thông tin nhân khẩu trong CSDL quốc gia về bảo hiểm với CSDL quốc gia về dân cư, trong đó: khoảng 84,7 triệu người đang tham gia BHXH, BHYT, BHTN, chiếm 96% tổng số người tham gia (không bao gồm lực lượng vũ trang, thân nhân quân đội). Đồng thời, hệ thống BHXH Việt Nam đã đồng bộ hơn 132 triệu lượt bản ghi thông tin BHXH, BHYT với CSDL quốc gia về dân cư.
(4) CSDL hộ tịch điện tử toàn quốc: Hoàn thành triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với hơn 50 nghìn người dùng, cụ thể: khoảng 18 nghìn tài khoản của công chức tư pháp - hộ tịch, khoảng 32 nghìn tài khoản của lãnh đạo và văn thư UBND cấp xã. Tính đến tháng 11/2023, hệ thống đã có khoảng 48 triệu dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó: khoảng 9,6 triệu trẻ em được cấp số định danh cá nhân theo quy định (khoảng 5,3 triệu trường hợp đăng ký khai sinh được chuyển sang các cơ quan bảo hiểm xã hội để cấp thẻ bảo hiểm y tế), khoảng 12,3 triệu dữ liệu kết hôn, khoảng 10,5 triệu dữ liệu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, khoảng 8,2 triệu dữ liệu khai tử, khoảng 293 nghìn trường hợp nhận cha mẹ con, khoảng 20,5 nghìn trường hợp đăng ký giám hộ, khoảng 16,6 nghìn trường hợp đăng ký nhận nuôi con nuôi, khoảng 889,4 nghìn dữ liệu cải chính, thay đổi, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc.
(5) CSDL đất đai quốc gia:
- Tại Trung ương đã xây dựng, đưa vào quản lý, vận hành và khai thác sử dụng 04 khối dữ liệu đất đai do Trung ương quản lý gồm: (1) CSDL về thống kê, kiểm kê đất đai; (2) CSDL về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; (3) CSDL về giá đất; (4) CSDL về điều tra, đánh giá đất đai.
- Tại địa phương: 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang xây dựng, hoàn thiện CSDL đất đai. Cụ thể: 455/705 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành CSDL địa chính với hơn 46 triệu thửa đất và đưa vào vận hành; 705/705 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành CSDL thống kê, kiểm kê đất đai (từ kỳ kiểm kê năm 2019); 325/705 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng CSDL quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; 300/705 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành xây dựng CSDL giá đất.
(6) CSDL quốc gia về tài chính: Bộ Tài chính đã xây dựng, hoàn thiện 13 CSDL chuyên ngành phục vụ Đề án xây dựng CSDL quốc gia về tài chính, kết quả cụ thể:
- 11/13 CSDL thành phần như sau: CSDL Thu - chi NSNN (Kho dữ liệu NSNN); CSDL chuyên ngành quản lý Thuế; CSDL chuyên ngành quản lý Kho bạc; CSDL chuyên ngành quản lý Hải quan; CSDL chuyên ngành quản lý Chứng khoán; CSDL chuyên ngành quản lý Giá; CSDL chuyên ngành quản lý Nợ công; CSDL chuyên ngành quản lý Tài sản công; CSDL chuyên ngành Bảo hiểm; CSDL chuyên ngành quản lý, giám sát vốn nhà nước tại doanh nghiệp; CSDL danh mục điện tử dùng chung ngành Tài chính.
- 02/13 CSDL đang thực hiện ở giai đoạn đầu tư: Một là, CSDL tổng hợp về Tài chính đang trong giai đoạn xây dựng phần mềm; Hai là, CSDL chuyên ngành quản lý dự trữ nhà nước đang làm thủ tục trình chủ trương đầu tư dự án.
 (7) CSDL quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức: Kết nối, đồng bộ dữ liệu với 96 bộ, ngành, cơ quan Trung ương, địa phương (33 bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 63 tỉnh, thành phố), trong đó: 70 bộ, ngành, địa phương đã đồng bộ dữ liệu (đạt 100%) (gồm 13 bộ, ngành và 57 địa phương), các đơn vị còn lại đang tiếp tục đồng bộ dữ liệu về bảo đảm đủ số liệu của giai đoạn 1. Tổng số dữ liệu được đồng bộ tự động về CSDL quốc gia đến thời điểm này là gần 2,3 triệu hồ sơ, trong đó: bộ, ngành là gần 218 nghìn hồ sơ (đạt 80,3%), địa phương là hơn 2 triệu hồ sơ (đạt 99%).
2.2. Thực trạng triển khai hạ tầng kỹ thuật
Quá trình triển khai Chính phủ điện tử, Chính phủ số tại Việt Nam đã diễn ra nhiều năm nay, tuy nhiên sự phát triển về hạ tầng công nghệ thông tin giữa các đơn vị không đồng đều. Một số bộ, ngành, địa phương đã triển khai hạ tầng trang thiết bị công nghệ thông tin hiện đại (gồm hạ tầng công nghệ thông tin tại trung tâm dữ liệu chính và trung tâm dữ liệu dự phòng) và triển khai rất nhiều hệ thống ứng dụng nghiệp vụ lớn, quan trọng ở mức quốc gia như: Hệ thống CSDL quốc gia về dân cư của Bộ Công an; Hệ thống quản lý thuế tích hợp hóa đơn điện tử của Cơ quan thuế; Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc của Kho bạc Nhà nước; Hệ thống thông quan hải quan của Tổng cục Hải quan; Hệ thống quản lý thu, hệ thống quản lý chi trả chính sách của Bảo hiểm xã hội...
Số bộ, ngành, địa phương đã triển khai Trung tâm dữ liệu phục vụ chuyển đổi số theo hướng sử dụng công nghệ điện toán đám mây đạt 71,43%. Năm 2022, 2023 chứng kiến sự đầu tư ngày càng tăng vào các trung tâm dữ liệu của cả những doanh nghiệp trong và ngoài nước. Việt Nam có 9 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, 43 trung tâm dữ liệu trên toàn quốc, với tổng số 571 nghìn máy chủ, 54,7 triệu lõi vật lý. Về hạ tầng trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây, Việt Nam có 13 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, 45 trung tâm dữ liệu với tổng số gần 28.000 racks. Năm 2023, có thêm 2 trung tâm dữ liệu quy mô lớn của VNPT và CMC. Dự kiến mỗi năm, Việt Nam sẽ cần thêm 10.000 – 12.000 racks và dự kiến sẽ đạt quy mô thị trường trung tâm dữ liệu khoảng 1,5 tỷ USD vào năm 2026.
2.3. Bảo đảm an toàn, an ninh dữ liệu
Công tác bảo đảm an ninh, an toàn các hệ thống thông tin, CSDL được quan tâm hơn, khắc phục được nhiều hở, thiếu sót. Mạng lưới đơn vị chuyên trách, chuyên gia an toàn, an ninh mạng đã được hình thành. Mạng lưới có sự tham gia của gần 200 cơ quan, tổ chức tại Việt Nam, trong đó có 22 bộ, cơ quan ngang bộ, 08 cơ quan thuộc Chính phủ, 63 Sở TT&TT các tỉnh, thành phố, 17 tập đoàn, tổng công ty nhà nước, 45 ngân hàng và các tổ chức tài chính, 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISPs) và 08 doanh nghiệp, tổ chức khác trong xã hội. Liên minh xử lý mã độc và phòng, chống tấn công mạng với nòng cốt là Cục An toàn thông tin, Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam và 05 doanh nghiệp lớn (Viettel, VNPT, FPT, BKAV, CMC) được hình thành nhằm đẩy mạnh hợp tác toàn diện giữa cơ quan nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp. Hệ thống kỹ thuật quy mô quốc gia đã được triển khai tại Cục ATTT, Bộ Thông tin và Truyền thông để phục vụ công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Tiêu biểu là Hệ thống theo dõi, phát hiện xu hướng thông tin trên không gian mạng, Hệ thống điều phối, xử lý nguồn phát tán thông tin vi phạm pháp luật, Hệ thống theo dõi, thống kê tình hình lây nhiễm mã độc, Hệ thống chia sẻ và giám sát an toàn thông tin phục vụ chính phủ điện tử, Hệ thống Chia sẻ và Giám sát an toàn thông tin phục vụ chính phủ điện tử. Trong bảng xếp hạng quốc tế về an toàn, an ninh mạng toàn cầu do ITU đánh giá, Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, từ thứ hạng 100 năm 2017 lên thứ hạng 50 năm 2019. Trong bảng xếp hạng do Kaspersky công bố, Việt Nam cũng được đánh giá là có số lượng mã độc di động thấp thứ 2 Đông Nam Á, chỉ sau Singapore.
Tuy nhiên, một số bộ, ngành chưa bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống cổng dịch vụ công hoặc chưa hoàn thành hệ thống, gồm: Công thương; Giáo dục và Đào tạo; Kế hoạch và Đầu tư; Khoa học và Công nghệ; Tài nguyên và Môi trường; Lao động, Thương binh và Xã hội; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Y tế; Thanh tra Chính phủ; Ủy ban Dân tộc, Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Qua đó, dẫn tới nguy cơtồn tại lỗ hổng bảo mật, hệ thống không đảm bảo an ninh an toàn để kết nối khai thác dữ liệu, cắt giảm giấy tờ cho người dân, không phục vụ công tác quản lý của Bộ chủ quản và làm ảnh hưởng đến các Bộ khác có sử dụng thông tin, giấy tờ đó cũng không được cắt giảm, dẫn đến hệ quả dây truyền, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao.
Trong quá trình quản trị vận hành và đảm bảo an ninh, an toàn, các đơn vị còn tồn tại một số nội dung như: (1) Chưa phối hợp với Bộ Công an kiểm tra, đánh giá lại hệ thống khi có sự thay đổi dẫn đến nguy cơ phát sinh lỗ hổng, điểm yếu bảo mật; (2) Chỉ đánh giá hệ thống Dịch vụ công, chưa đánh giá các hệ thống lõi và các hệ thống khác có kết nối đến hệ thống Dịch vụ công; (3) Chưa thực hiện đầy đủ các công tác bảo đảm an ninh, an toàn, xây dựng ban hành các quy trình, quy chế theo quy định. Do đó đã xảy ra nhiều vụ việc mất dữ liệu thời gian qua. Qua công tác thanh tra, các bộ, ngành, địa phương đã xử lý, chấn chỉnh các sai phạm: kết nối, chia sẻ, bảo đảm an ninh an toàn, v.v.
3. Về công tác quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác và sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu
Việc tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia đã có những chuyển biến rõ rệt, tạo ra những giá trị cụ thể thực tế, qua đó người dân, doanh nghiệp và chính cơ quan nhà nước đã nhận thấy rõ nét về giá trị của dữ liệu, giải quyết được các bài toán liên ngành mà trước đây rất khó giải quyết triệt để, góp phần tiết kiệm thời gian của xã hội, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công, người dân, doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, thực thi công vụ dựa trên dữ liệu đầy đủ, chính xác, kịp thời.
Đến hết năm 2023, 100% bộ, ngành, địa phương đã rà soát và ban hành danh mục thủ tục hành chính đủ điều kiện trong phạm vi bộ, ngành, địa phương để triển khai dịch vụ công trực tuyến theo quy định tại Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng.Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương triển khai 81% thủ tục hành chính là dịch vụ công trực tuyến, trong đó 48,5% thủ tục hành chính được triển khai là dịch vụ công trực tuyến toàn trình.
Tính đến tháng 12/2023, có 49/63 tỉnh đã ban hành chính sách giảm phí, lệ phí và 13/63 tỉnh đã ban hành chính sách giảm thời gian để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến.
- Về hiệu quả sử dụng, tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính đạt 38,5%. Qua thống kê, đo lường trên Hệ thống giám sát, đo lường mức độ cung cấp và sử dụng dịch vụ Chính phủ số (Hệ thống EMC), trung bình hàng ngày có khoảng 76 nghìn hồ sơ dịch vụ công trực tuyến. Theo Thông tư số 02/2017/TT-VPCP ngày 31/10/2017 của Văn phòng Chính phủ về việc hướng dẫn về nghiệp vụ kiểm soát thủ tục hành chính, với mỗi hồ sơ dịch vụ công trực tuyến có thể giúp tiết kiệm thời gian đi lại, thời gian làm tờ khai tối thiểu 02 giờ.
Nền tảng NDXP đã kết nối với hệ thống của 103 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; 10 CSDL và 15 hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ chia sẻ dữ liệu. Tổng số giao dịch thực hiện thông qua NDXP năm 2023 đạt khoảng 650 triệu giao dịch; trung bình hằng ngày có khoảng 1,78 triệu giao dịch thực hiện thông qua nền tảng. Tổng số giao dịch thực hiện thông qua NDXP từ khi đưa vào sử dụng (năm 2019) đến nay là hơn 1,67 tỷ giao dịch. Hiệu quả ban đầu mang lại rất lớn, góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí của xã hội; ước tính đạt hàng trăm tỷ đồng. Các địa phương triển khai nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu trong địa bàn (LGSP). Cho đến nay 45 địa phương và 15 bộ đã triển khai LGSP. Việc triển khai kết nối nhằm hỗ trợ các địa phương giảm thiểu nhập dữ liệu 02 lần, giảm thiểu chi phí xử lý thủ tục hành chính.
Tính đến tháng 12/2023, trên Cổng dịch vụ công quốc gia đã có hơn 6,8 triệu tài khoản đăng ký, hơn 119 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái, hơn 29 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện từ Cổng, hơn 20,3 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến với số tiền hơn 7.113 tỷ đồng. Đến nay, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã kết nối, tích hợp với 150 hệ thống thông tin, CSDL của các cơ quan, đơn vị; công khai hơn 6,3 nghìn thủ tục hành chính, trong đó đã tích hợp, cung cấp 4.591 dịch vụ công trực tuyến; có hơn 11,2 triệu tài khoản; hơn 269,1 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; hơn 35,4 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện từ Cổng; hơn 21,2 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến với số tiền hơn 9.513 tỷ đồng.
Đến hết năm 2023, các bộ, ngành đã thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa gần 2,5 nghìn quy định kinh doanh, đơn giản hóa 528/1.086 thủ tục hành chính (khoảng 49%) để thực thi Nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư; công khai hơn 15,7 nghìn quy định kinh doanh trên Cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 15 Quyết định phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa gần 1,2 nghìn quy định kinh doanh tại 221 văn bản quy phạm pháp luật.
Tại các địa phương: Với việc khai thác, sử dụng các CSDL đã có, giúp đơn giản hóa quy trình tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công, người dân không cần xuất trình nhiều loại giấy tờ, tiết kiệm thời gian chờ đợi. Cụ thể: Có 907 thủ tục hành chính được tái cấu trúc, tự động điền thông tin được khai thác từ CSDL quốc gia về dân cư vào biểu mẫu, điện tử hóa mẫu đơn, tờ khai, đảm bảo tỷ lệ cắt giảm tối thiểu 20% thông tin phải khai báo trên cơ sở tái sử dụng dữ liệu đã được số hóa, không phải nhập lại thông tin; 1.320 thủ tục hành chính được cắt giảm thời gian giải quyết so với quy định, tỷ lệ cắt giảm từ 205 trở lên; 289 thủ tục hành chính sử dụng lại thông tin, dữ liệu đã có trong CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành; tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính không phụ thuộc vào địa giới hành chính với 109 thủ tục hành chính (điển hình tại Cà Mau).
Một số điển hình về hiệu quả kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành
- CSDL quốc gia về dân cư của Bộ Công an đã kết nối với15 bộ, ngành, 63 địa phương. Tiếp nhận trên 1,3 tỷ yêu cầu để tra cứu, xác thực thông tin phục vụ giải quyết các thủ tục hành chính và làm sạch dữ liệu, tiết kiệm trên 500 tỷ đồng cho các bộ, ngành, địa phương. Đồng thời, đồng bộ trên 537 triệu thông tin công dân để làm giàu dữ liệu dân cư.
- Việc kết hợp dữ liệu dân cư, dữ liệu bảo hiểm xã hội đã tạo ra những giá trị mới, cộng hưởng lên nhiều lần mà mỗi dữ liệu đứng một mình không thể làm được, cụ thể: Đến tháng 11/2023, 100% cơ sở khám chữa bệnh BHYT đã triển khai khám chữa bệnh BHYT bằng CCCD gắn chip (nhờ tra cứu thông tin từ CSDL quốc gia về dân cư), với hơn 54 triệu lượt tra cứu thông tin thành công; giúp tiết kiệm thời gian trung bình làm thủ tục từ 10 phút đến vài giờ, nay xác thực tại máy chỉ còn khoảng 6-15 giây cho một bệnh nhân (với 170 triệu lượt khám chữa bệnh BHYT hàng năm, nếu triển khai đầy đủ trong tương lai có thể tiết kiệm cho người bệnh, cho xã hội thời gian và chi phí rất lớn mỗi năm); giúp các cơ sở khám chữa bệnh tiết kiệm được tổng thời gian tiếp đón từ khoảng 1 đến 1,5 giờ; giúp nâng cao tính chính xác và năng lực quản lý dựa trên dữ liệu; tạo điều kiện tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trên môi trường điện tử; hạn chế gian lận, trục lợi trong khám chữa bệnh BHYT... qua đó giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác khám chữa bệnh BHYT, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người tham gia BHYT.       
- Việc khai thác dữ liệu, triển khai các dịch vụ công trực tuyến liên thông đã chứng minh được hiệu quả vượt trội so với việc thực hiện từng thủ tục hành chính riêng lẻ. Ví dụ: với 02 dịch vụ công liên thông “Đăng ký khai sinh – Đăng ký thường trú – Cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi và Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú – Trợ cấp mai táng, hỗ trợ chi phí mai táng” mới được đưa vào sử dụng chính thức trong năm 2023. Tính đến 20/11/2023, đã tiếp nhận, xử lý hơn 342 nghìn hồ sơ liên thông khai sinh và hơn 26 nghìn hồ sơ liên thông khai tử. Giá trị mang lại rất đáng ghi nhận, riêng với BHXH Việt Nam: (1) giúp rút ngắn thời gian chờ cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi từ 05 ngày xuống còn 02 ngày (342 nghìn x 3 ngày ~ khoảng 1 triệu ngày công lao động); (2) rút ngắn thời gian giải quyết hưởng mai táng phí từ 10 ngày xuống còn 07 ngày (26 nghìn x 3 ngày ~ khoảng 81 nghìn ngày công lao động).
- Việc liên thông giữa CSDL quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) với hệ thống thông tin đăng ký thuế (Bộ Tài chính); hệ thống thông tin của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và hệ thống thông tin của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam trong quá trình đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Nghị định số 122/2020/NĐ-CP10 đã tích hợp 04 quy trình vào 01 quy trình. Theo đó, doanh nghiệp sẽ chỉ phải chuẩn bị 01 bộ hồ sơ, kê khai 01 biểu mẫu, thực hiện thủ tục tại 01 cơ quan và nhận 01 kết quả duy nhất. Toàn bộ quy trình trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước được số hóa và trao đổi điện tử, giúp quy trình khởi sự kinh doanh ở Việt Nam giảm từ 08 thủ tục với 16 ngày xuống chỉ còn 03 thủ tục với 06 ngày. Tính đến tháng 11/2023, đã có khoảng 650 nghìn hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 122/2020/NĐ-CP; việc này đã giúp rút ngắn thời gian xử lý, tiết kiệm cho xã hội khoảng 6,5 triệu ngày công lao động.
- Việc giải quyết thủ tục hành chính ở một số địa phương có sự thay đổi đột phá. Ví dụ: tháng 6/2023, tỉnh Quảng Ninh đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 02 dự án đầu tư của doanh nghiệp có tổng mức vốn gần 250 triệu USD chỉ trong 12 giờ làm việc kể từ thời điểm nhà đầu tư nộp hồ sơ trực tuyến qua Cổng dịch vụ công của tỉnh, rút ngắn thời gian giải quyết 14 ngày làm việc so với quy định.
4. Về nhân lực số
Chính phủ đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp thực hiện thúc đẩy nền kinh tế số, trong đó con người là một trong những yếu tố trọng tâm. Với mục đích tăng cường nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 về việc phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Việt Nam có 1,5 triệu lao động đang làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ số. Việt Nam có 168 trường đại học và 520 trường nghề đào tạo về ICT. Thực thi pháp luật về phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin, cơ cấu nguồn nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam cũng được hình thành theo các lĩnh vực phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, bao gồm các nhóm chính như: nhân lực công nghiệp phần cứng và điện tử; nhân lực công nghiệp phần mềm; nhân lực công nghiệp nội dung số và nhân lực dịch vụ công nghệ thông tin. Về năng lực và kỹ năng, nguồn nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam được đánh giá khá cao trên bình diện quốc tế. Việt Nam xếp hạng 29 trên toàn thế giới trong bảng xếp hạng kỹ năng lập trình viên của Skillvalue báo cáo năm 2018. Năm 2017, sinh viên Việt Nam xếp thứ 34/128 tại kỳ thi lập trình quốc tế ACM/ICPC). Việt Nam liên tục lọt vào top 10 nước gia công phần mềm hấp dẫn Châu Á - Thái Bình Dương. Đến năm 2021, Việt Nam xếp thứ 5/55 nước dẫn đầu về dịch vụ gia công quy trình (BPO), và xếp thứ 28/100 nước về trò chơi trực tuyến, xếp thứ 2 thế giới về xuất khẩu smartphone và thiết bị văn phòng theo thống kê của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hiện nay, hàng năm, tổng số sinh viên công nghệ thông tin tốt nghiệp trên 84.000, với khoảng 50.000 tốt nghiệp hệ đại học và 34.000 hệ cao đẳng, trung cấp; tổng số chỉ tiêu tuyển sinh khoảng 100.000.
Hàng năm, bộ, ngành và địa phương dành kinh phí để bồi dưỡng kiến thức cơ bản, chuyên sâu về công nghệ thông tin, đào tạo cho các cán bộ trực thuộc đặc biệt là cán bộ phụ trách công nghệ thông tin. một số bộ, ngành và địa phương tổ chức khóa đào tạo về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ cho các cán bộ chuyên trách về an toàn thông tin và công nghệ thông tin tin tại các đơn vị trực thuộc; tổ chức các khóa bồi dưỡng về lập, quản lý dự án và lập dự toán chi phí đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin. Các cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị thuộc Bộ cơ bản đáp ứng yêu cầu về kiến thức, kỹ năng thực hiện ứng dụng giao dịch điện tử, thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý. Ngoài ra, các cán bộ đủ tiêu chuẩn còn được cơ quan cử tham gia khóa đào tạo sau đại học chuyên ngành công nghệ thông tin theo Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung ương, các khóa đào tạo, bồi dưỡng, học tập kinh nghiệm, nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin tại nước ngoài theo các chương trình, đề án, dự án.
Mặc dù năm 2023 chứng kiến làn sóng sa thải hàng loạt nhân sự công nghệ trên toàn cầu và Việt Nam không phải ngoại lệ. Tuy nhiên, theo dự báo tại Việt Nam, một số vị trí việc làm có nhu cầu tuyển dụng ngày một cao, thị trường chưa đáp ứng được như kỹ sư dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây.
5. Về công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm liên quan đến dữ liệu
Nhằm bảo đảm việc xây dựng, quản lý, phát triển dữ liệu tuân thủ đúng quy định pháp luật, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trong lĩnh vực phụ trách. Mục tiêu chính của hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm: (1) Nắm bắt việc chấp hành, tuân thủ các quy định của Luật và văn bản hướng dẫn trong từng CSDL; (2) Đánh giá tình hình thực tế, kết quả triển khai thực hiện cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thuộc thẩm quyền; (3) Đánh giá tính hiệu quả của dữ liệu, CSDL đối với việc quản lý nhà nước, phục vụ nhân dân; (4) Phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong triển khai dữ liệu, CSDL để điều chỉnh, bổ sung kịp thời nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển dữ liệu.
Qua các cuộc kiểm tra đã kịp thời đôn đốc, hướng dẫn và đề xuất giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ; nâng cao vai trò, tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị, địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06 gắn với cải cách hành chính, phù hợp, thống nhất với chương trình Chuyển đổi số của tỉnh giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030.
Tại các địa phương, UBND các tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành quán triệt và thực hiện nghiêm các văn bản chỉ đạo về những nhiệm vụ trọng tâm về an toàn thông tin, chủ động nắm tình hình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân về những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến dữ liệu; phát huy trách nhiệm người đứng dầu và nâng cao hiệu quả tiếp công dân, giải quyết, xử lý ngay từ cơ sở. Về cơ bản, đến nay các địa phương chưa ghi nhận khiếu nại, tố cáo của người dân đối với hành vi vi phạm liên quan đến dữ liệu.
Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thôngkiểm tra, đánh giá an ninh an toàn hệ thống dịch vụ công của các bộ, ngành, địa phương. Kết quả: Hệ thống dịch vụ công của 11 bộ, cơ quan ngang bộ và 63 địa phương đã bảo đảm an ninh an toàn theo Công văn hướng dẫn số 1552/BTTT, ngày 26/4/2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông.      
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ THI HÀNH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CÓ QUY ĐỊNH VỀ DỮ LIỆU
1. Những ưu điểm, hiệu quả đã đạt được
Những năm qua, thực hiện các quy định pháp luật có liên quan đến dữ liệu đã cho thấy sự quyết tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành, địa phương trong hoàn thiện thể chế nhằm tạo lập hành lang pháp lý giúp kiến tạo sự phát triển đối với lĩnh vực này, góp phần vào sự phát triển nhanh chóng của dữ liệu tại Việt Nam. Dữ liệu đã trở thành nguồn tài nguyên quý giá và là yếu tố quan trọng tạo ra giá trị kinh tế. Phát triển dữ liệu tạo nền tảng cho triển khai, đảm bảo cung cấp dữ liệu số cho các dịch vụ công trực tuyến, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa các cơ quan nhà nước, cung cấp các bộ dữ liệu mở có chất lượng và giá trị khai thác cao, mở dữ liệu theo quy định pháp luật để phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.        
Thực hiện văn bản pháp luật có quy định về dữ liệu đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm mới sáng tạo; nhiều bộ, ngành, địa phương đã thực hiện đẩy mạnh việc kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, địa phương, đặc biệt là dữ liệu từ các CSDL quốc gia, các hệ thống thông tin có quy mô, phạm vi từ trung ương đến địa phương giúp tối đa hóa giá trị dữ liệu, nâng cao chất lượng dịch vụ công cung cấp cho người dân, doanh nghiệp theo hướng lấy người dung làm trung tâm, người dân và doanh nghiệp không phải cung cấp thông tin thủ công, nhiều lần cho cơ quan nhà nước, đơn vị cung cấp dịch vụ, tránh đầu tư trùng lặp, gây lãng phí.
Việc triển khai thi hành văn bản pháp luật về dữ liệu đã góp phần hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về dữ liệu, nâng cao vị trí của Việt Nam trên bản đồ công nghệ số thế giới và đảm bảo an ninh, an toàn, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số và phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp.
2. Tồn tại, hạn chế
(1) Hành lang pháp lý về dữ liệu của nước ta vẫn còn chưa đầy đủ, cụ thể:
- Chưa có quy định về việc kết nối liên thông các kho dữ liệu số quốc gia để hình thành kho dữ liệu tập trung, hình thành cơ chế một cửa duy nhất trong truy cập và khai thác dữ liệu.
- Chưa có quy định cụ về thể phân phối, tái sử dụng dữ liệu nhằm tạo ra giá trị mới từ dữ liệu dẫn đến nguy cơ không phân loại được dữ liệu (ví dụ như dữ liệu có tính nhạy cảm hạn chế chia sẻ, dữ liệu ít nhạy cảm có thể chia sẻ và tái sử dụng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội; dữ liệu phục vụ quốc phòng, an ninh…).
- Chưa có quy định pháp lý về việc xây dựng chiến lược dữ liệu, quản trị dữ liệu, bảo vệ dữ liệu.
- Chưa có nguyên tắc trong kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu dùng chung quốc gia.
- Chưa có quy định về thu phí, giá sử dụng dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế xã hội (ví dụ quy định về định mức trong sử dụng hạ tầng công nghệ thông tin, quy định về việc cung cấp sản phẩm, thu phí/giá cho các cơ quan tổ chức, cá nhân…).
- Chưa có quy định về việc cung cấp dữ liệu phục vụ mục đích công cộng, an ninh, quốc phòng, hoạt động nghiên cứu khoa học và các trường hợp, tình trạng khẩn cấp.
- Chưa có các tiêu chí đánh giá cụ thể về mức độ phát triển dữ liệu của cơ quan nhà nước.
- Chủ trương thúc đẩy phát triển sản phẩm trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ chuỗi khối, công nghệ truyền thông dữ liệu, công nghệ internet vạn vật, công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác... đã được Đảng và Nhà nước quán triệt, chỉ đạo trong các Nghị quyết. Tuy nhiên, chưa được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm để thực thi một cách toàn diện, rộng khắp, hiệu quả.
- Dữ liệu là tư liệu sản xuất đầu vào của ngành công nghiệp công nghệ số, góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển kinh tế số, xã hội số, Chính phủ số... Tuy nhiên, còn khoảng trống các quy định pháp luật về phát triển dữ liệu, bao gồm: tiếp cận dữ liệu; thu thập, sử dụng và kinh doanh dữ liệu; chính sách ưu tiên phát triển dữ liệu...
- Nhiều CSDL, hạ tầng thông tin, nền tảng số đã được xây dựng, đưa vào vận hành trong cơ quan nhà nước, tuy nhiên, vẫn chưa có quy định chung, cụ thể về bố trí kinh phí cho việc vận hành, duy trì. Điều này tạo nên một “rào cản” lớn trong việc bảo đảm hoạt động liên tục, thông suốt, tin cậy, an toàn, an ninh mạng của các hệ thống, đặc biệt là các hệ thống quan trọng phục vụ người dân, doanh nghiệp, hoạt động của nền hành chính.
(2) Chưa có tiêu chuẩn về dữ liệu thống nhất dẫn đến đang có nhiều loại dữ liệu gồm các độ mật dữ liệu, dữ liệu nhạy cảm, dữ liệu mở… cơ chế kết nối, chia sẻ giữa các đơn vị không thống nhất và phù hợp.
(3) Các CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành, hạ tầng thông tin có quy mô từ trung ương đến địa phương có tính chất nền tảng chậm được triển khai, đưa vào khai thác trên quy mô quốc gia (điển hình như CSDL đất đai quốc gia).
Một số Bộ, ngành chưa hoàn thành số hoá dữ liệu gốc trong năm 2023, ảnh hưởng việc liên thông dữ liệu, như: dữ liệu đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường (mới hoàn thành 450 cấp huyện); dữ liệu hộ tịch của Bộ Tư pháp (63 địa phương đang triển khai, trong đó có 20 địa phương số hóa dữ liệu trên nền tảng CSDL quốc gia về dân cư); dữ liệu lao động việc làm của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (57/63 địa phương triển khai)…
Một số Bộ, ngành chưa có hệ thống quản lý dữ liệu tập trung, dữ liệu còn rời rạc, phân tán ở nhiều đơn vị quản lý theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa phương, nguyên nhân do hiện nay chưa có một chiến lược dữ liệu tổng thể cho quốc gia, công tác quy hoạch dữ liệu chủ của các ngành chưa được quan tâm đầy đủ, chỉ một số ngành đã công bố được bộ dữ liệu gốc, như: CSDL quốc gia về dân cư; CSDL quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức; CSDL quốc gia về đăng ký doanh nghiệp...
 (4) Hạ tầng dữ liệu quốc gia còn rời rạc, chất lượng không đồng đều và chưa cao. Đồng thời, sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu để tạo lập nguồn tài nguyên dữ liệu quốc gia quan trọng còn yếu và thiếu đồng bộ chưa đáp ứng  tốt việc đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Kinh phí đầu tư trang bị hạ tầng, trung tâm dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương và kết quả mang lại chưa tương xứng.
(5) Việc chia sẻ dữ liệu quốc gia nói riêng và các CSDL từ trung ương tới địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu; dữ liệu của doanh nghiệp nằm một cách rời rạc, cục bộ, khép kín trong phạm vi của mỗi doanh nghiệp.
Dữ liệu trong CSDL quốc gia, dữ liệu lưu trữ chưa được khai thác triệt để nguồn tài nguyên dữ liệu điện tử. Tỷ lệ khai thác, sử dụng lại thông tin, dữ liệu số hóa vẫn còn thấp (9%). Còn sự e dè, ái ngại giữa các cơ quan, ban ngành trong việc khai thác và sử dụng dữ liệu điện tử từ các Ban, ngành, lĩnh vực khác; vẫn còn tình trạng người dân, doanh nghiệp phải xin cấp các giấy tờ, văn bản từ các đơn vị chức năng để thực hiện một hồ sơ, thủ tục ở một đơn vị, lĩnh vực khác. Qua đó, ảnh hưởng tác động tới năm 2025 sẽ không hoàn thành mục tiêu có 50% các thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến dữ liệu dân cư được cắt giảm...
(6) Dữ liệu cá nhân vẫn bị khai thác, mua bán trái pháp luật; an ninh, an toàn thông tin tại một số cơ quan chưa đảm bảo.
(7) Nhân lực về công nghệ thông tin còn hạn chế: Thiếu về số lượng, yếu về kiến thức, kỹ năng tham mưu tổ chức triển khai dữ liệu, chuyển đổi số ở đội ngũ công chức, viên chức chuyên trách công nghệ thông tin tại các bộ, ngành, địa phương; Phổ cập kỹ năng số cho lực lượng lao động làm việc trong các ngành nghề khác nhau và cho người dân còn chậm. Số lượng, chất lượng kỹ sư, cử nhân, kỹ thuật viên về công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số. Các nhiệm vụ về phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia được quan tâm, đẩy mạnh nhưng chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
(1) Đa số các luật có quy định về trách nhiệm của cơ quan chủ quản CSDL trong việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong CSDL. Tuy nhiên, các quy định nêu trên chưa thể hiện được tính đồng bộ, thống nhất trong việc phát triển hệ thống CSDL quốc gia, việc quản lý dữ liệu đều mang tính cát cứ, cục bộ, chưa điều chỉnh thống nhất về quản lý dữ liệu quốc gia của cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
(2) Một số bộ, ngành chưa có đủ hạ tầng để triển khai các hệ thống công nghệ thông tin cốt lõi phục vụ cho các công tác nghiệp vụ;
(3) Nhiều CSDL được thu thập, lưu trữ trùng lặp, chồng chéo, chưa được chuẩn hóa, thống nhất về tiêu chuẩn, danh mục nên không có khả năng kế thừa, khó khăn khi kết nối, chia sẻ, khai thác dùng chung.
(4) Các trung tâm dữ liệu đầu tư thiếu đồng bộ, không đạt các tiêu chuẩn quy định, không bảo đảm mức độ an ninh, an toàn hệ thống, không thường xuyên được kiểm tra, bảo trì, nâng cấp.
(5) Một số bộ, ngành, địa phương thuê dịch vụ hạ tầng công nghệ thông tin tiềm ẩn nhiều rủi ro về an ninh, an toàn thông tin do chưa thực sự quản lý, kiểm soát được dữ liệu nhà nước trên hạ tầng của doanh nghiệp.
(6) Nhân lực vận hành, quản trị các hệ thống thông tin vừa thiếu, vừa yếu.
(7) Nhiều hệ thống thông tin còn lỗ hổng bảo mật, không đủ điều kiện kết nối với CSDL quốc gia về dân cư…
(8) Việc xây dựng các quy định/tiêu chuẩn/quy chuẩn kỹ thuật chậm, đặc biệt là các tiêu chuẩn liên quan đến chia sẻ dữ liệu; tiến độ cung cấp dữ liệu mở chưa đáp ứng được yêu cầu; các hoạt động quản trị dữ liệu, quản trị chia sẻ, khai thác dữ liệu theo quy định của pháp luật chưa được quan tâm triển khai.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Xây dựng Luật Dữ liệu với bốn chính sách lớn, gồm:
1.1. Chính sách 1. Quy định về xây dựng, phát triển, xử lý, quản trị dữ liệu, ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu
Nội dung chính sách: (1) Chiến lược dữ liệu; (2) Chất lượng dữ liệu, thu thập, số hóa và tạo lập dữ liệu; (3) Lưu trữ dữ liệu; (4) Kết hợp, chỉnh sửa, điều chỉnh và cập nhật dữ liệu; (5) Quản trị dữ liệu; (6) Chia sẻ dữ liệu; (7) Cung cấp dữ liệu cho cơ quan nhà nước; (8) Phân tích, tổng hợp dữ liệu; (9) Xác nhận, xác thực dữ liệu; (10) Công khai dữ liệu; (11) Truy cập, truy xuất dữ liệu; (12) Mã hóa, giải mã dữ liệu; (13) Sao chép, chia sẻ dữ liệu; (14) Truyền đưa, chuyển giao dữ liệu; (15) Thu hồi, xóa, hủy dữ liệu; (16)Ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu; (17) Xác định và quản lý rủi ro có thể phát sinh trong chuỗi cung ứng dữ liệu; (18) Hợp tác quốc tế về dữ liệu, (19) Quản lý nhà nước về dữ liệu; (20) Quỹ phát triển dữ liệu quốc gia.
1.2. Chính sách 2. Quy định về CSDL tổng hợp quốc gia
Nội dung chính sách: (1) Đồng bộ toàn bộ các thông tin, dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; (2) Hoạt động xử lý, quản trị, chia sẻ dữ liệu liên quan đến Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; (3) Trách nhiệm cung cấp thông tin, dữ liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cá nhân, tổ chức khác; (4) Mối quan hệ giữa Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cổng dịch vụ công quốc gia và cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin khác; (5) Quy định về lộ trình triển khai, quy định chuyển tiếp khi áp dụng; (6) Đồng bộ các cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tự nguyện cung cấp hoặc bắt buộc cung cấp về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia trong trường hợp ứng phó với tình trạng khẩn cấp; (7)Phí khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
1.3. Chính sách 3. Quy định về Trung tâm dữ liệu quốc gia
Nội dung chính sách: (1) Vị trí, vai trò của Trung tâm dữ liệu quốc gia; (2) Quy định về đăng ký, cấp tài nguyên hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia; (3) Quản trị vận hành, sử dụng tài nguyên hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia; (4) Nâng cấp, bảo trì, sửa chữa hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia; (5) Bố trí nguồn vốn để xây dựng, phát triển, nâng cấp và ưu tiên đầu tư trang thiết bị hiện đại cho Trung tâm dữ liệu quốc gia; (6) Sử dụng Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu quốc gia; (7) Quy định về lộ trình triển khai, quy định chuyển tiếp khi áp dụng; (8)Bảo vệ, bảo đảm an ninh an toàn thông tin trong Trung tâm dữ liệu quốc gia; (9) Bảo đảm nguồn lực hoạt động của Trung tâm dữ liệu quốc gia.
1.4. Chính sách 4. Quy định về sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu
(1) Quy định về các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu: (1) Xác thực điện tử đối với dữ liệu không gắn với chủ thể danh tính điện tử; (2) Sản phẩm, dịch vụ phân tích và tổng hợp dữ liệu; (3) Sản phẩm, dịch vụ trung gian dữ liệu; (4) Sàn giao dịch dữ liệu.
(2) Quản lý đối với tổ chức cung cấp sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu.
2. Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật khác có quy định về dữ liệu
Việc xây dựng Luật Dữ liệu không ảnh hưởng, mâu thuẫn với các luật quy định có liên quan về dữ liệu. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ giao các bộ, ngành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dữ liệu cho phù hợp với quy định của Luật Dữ liệu.
3. Biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về dữ liệu trong thời gian tới
- Tăng cường đầu tư tập trung, đào tạo và có chế độ chính sách, đãi ngộ đối với nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao; đầu tư kinh phí, trang bị vật tư, phương tiện, hạ tầng hiện đại để phát triển dữ liệu.
- Tuyên truyền pháp luật về dữ liệu và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành; khuyến khích đầu tư phát triển dữ liệu để phát triển dữ liệu, thúc đẩy xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.
- Theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản pháp luật về dữ liệu đảm bảo các quy định pháp luật được thực hiện nghiêm túc, phát huy tối đa hiệu quả trong phát triển kinh tế-xã hội.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết pháp luật về dữ liệu và thực hiện thi đua khen thưởng và xử lý vi phạm các tập thể, cá nhân trong quá trình thi hành pháp luật về dữ liệu.
Trên đây là Báo cáo tổng kết thi hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về dữ liệu của Bộ Công an./.

 


[1] Kênh thông tin “Chuyển đổi số quốc gia” là một trong những trang thông tin chính thức của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số trên Zalo. Là kênh truyền thông cung cấp các thông tin mới nhất về chuyển đổi số, tổ công nghệ số cộng đồng, chia sẻ các kiến thức, những câu chuyện, sáng kiến, mô hình, cách làm hay về chuyển đổi số, hỗ trợ tra cứu các văn bản, tài liệu hướng dẫn, trợ lý ảo…
[2] Đài phát thanh truyền hình tỉnh Bắc Kạn sản xuất, phát sóng khoảng 720 tin, bài; phát thanh bằng 4 thứ tiếng Việt, Tày- Nùng, Mông, Dao
3.-bao-cao-tong-ket-phap-luat-ve-du-lieu-1.doc

Đánh giá tác động của chính sách đề nghị xây dựng Luật Dữ liệu

Tác giả : Bộ Công An
Mô tả :
Tài liệu đăng tải lấy ý kiến Nhân dân trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ.
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành có liên quan, Bộ Công an báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Dữ liệu như sau:
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN
1. Bối cảnh xây dựng chính sách
1.1. Bối cảnh thế giới
Hiện nay, nhiều nước phát triển trên thế giới đã xây dựng các trung tâm dữ liệu tập trung và các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm phát huy triệt để vai trò, giá trị của nguồn tài nguyên dữ liệu trong phục vụ quản trị quốc gia và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh; qua đó từng bước tạo dựng và xác lập vị trí quốc gia trên bản đồ công nghệ thế giới. Tại Châu Á, một số nước đã tập trung xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia để tạo nền tảng đẩy mạnh chuyển đổi số và đạt được thành tựu như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc... Để hoàn thành việc xây dựng, vận hành hiệu quả các trung tâm dữ liệu quốc gia cần đảm bảo những điều kiện như: Hoàn thiện quy định pháp luật về dữ liệu; Xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia quy mô lớn với nhiều trung tâm để quản lý tập trung, chia sẻ dữ liệu; Có tổ chức độc lập để xây dựng, vận hành, quản lý trung tâm dữ liệu quốc gia; ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn chung đối với quản lý, lưu trữ, khai thác dữ liệu; Có nguồn nhân lực chất lượng cao và chính sách đặc thù, đãi ngộ phù hợp...
Nhiều nước trên thế giới đã có quy định về dữ liệu, vận hành, khai thác, sử dụng dữ liệu (dữ liệu của cơ quan nhà nước, của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân) và bảo vệ dữ liệu cá nhân như:
(1) Luật Dữ liệu mở (Hàn Quốc)
Luật này cho phép các truy cập thương mại và phi thương mại, cũng như việc tái sử dụng dữ liệu của Chính phủ); các dữ liệu được sử dụng thường xuyên gồm: Dữ liệu về các cửa hàng trên toàn quốc; danh sách đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội; dữ liệu sản lượng gas của Tập đoàn Gas Hàn Quốc; thông tin về kết quả khám sức khỏe định kỳ của người tham gia bảo hiểm sức khỏe trên 40 tuổi; thông tin về tai nạn giao thông; thông tin về tình trạng kinh doanh và thông tin xác minh tính xác thực cho các mục đầu vào - Cơ quan Thuế Quốc gia; dự báo thời tiết; thông tin về các cửa hàng trên toàn quốc; thông tin về giao dịch bất động sản; thông tin về ô nhiễm không khí…
2. Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR) (Liên minh Châu Âu)
3. Luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân (Brazil)
4. Đạo luật về quyền riêng tư của người tiêu dùng California
5. Đạo luật về quyền riêng tư (Canada)
6. Đạo luật về quyền riêng tư năm 1988 (Úc)
7. Dự luật bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2019 (Ấn Độ)
8. Luật An ninh mạng Trung Quốc (CCSL) (Trung Quốc)
9. Luật bảo vệ thông tin cá nhân (PIPL) (Trung Quốc)
10. Đạo luật bảo vệ dữ liệu, 2012 (Ghana)
11. Đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân 2012 (Singapore)
12. Đạo luật Bảo mật Dữ liệu năm 2012 (Philippines)
13. Luật bảo vệ dữ liệu (Nga)
14. Đạo luật bảo vệ dữ liệu 2018 (Vương quốc Anh)
15. Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân (PDPL) (Bahrain)
16. Luật Quản trị dữ liệu và Luật Dữ liệu (Liên minh Châu Âu)
1.2. Bối cảnh trong nước
Tại nước ta, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ công cuộc chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Trong đó, có các nhiệm vụ về “khuyến khích đầu tư, phát triển xây dựng các trung tâm dữ liệu lớn” (Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị); “Hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất(Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-09-2019 của Bộ Chính trị); “đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm dữ liệu khu vực. Xây dựng các trung tâm dữ liệu gắn với các vùng động lực, cực tăng trưởng, hành lang kinh tế; phát triển các cụm trung tâm dữ liệu quốc gia tại khu vực phía Bắc và khu vực phía Nam.” (Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023 của Quốc hội); “Bộ Công an chủ trì, phối hợp các bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, xây dựng Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia” (Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2023 của Chính phủ)...
Quán triệt, triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học, công nghệ, nhất là những vấn đề liên quan đến xây dựng, tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu đã đạt được một số kết quả tích cực như: Bước đầu khởi tạo và hình thành được 07 Cơ sở dữ liệu quốc gia; một số Cơ sở dữ liệu quốc gia đã có sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu góp phần cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân; hạ tầng công nghệ xây dựng các Trung tâm dữ liệu bước đầu được quan tâm đầu tư hơn... Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: (1) Một số bộ, ngành chưa có đủ hạ tầng để triển khai các hệ thống công nghệ thông tin cốt lõi phục vụ cho các công tác nghiệp vụ; (2) Nhiều cơ sở dữ liệu được thu thập, lưu trữ trùng lặp, chồng chéo, chưa được chuẩn hóa, thống nhất về tiêu chuẩn, danh mục nên không có khả năng kế thừa, khó khăn khi kết nối, chia sẻ, khai thác dùng chung; (3) Các trung tâm dữ liệu đầu tư thiếu đồng bộ, không đạt các tiêu chuẩn quy định, không bảo đảm mức độ an ninh, an toàn hệ thống, không thường xuyên được kiểm tra, bảo trì, nâng cấp; (4) Một số bộ, ngành, địa phương thuê dịch vụ hạ tầng công nghệ thông tin tiềm ẩn nhiều rủi ro về an ninh an toàn thông tin do chưa thực sự quản lý, kiểm soát được dữ liệu nhà nước trên hạ tầng của doanh nghiệp; (5) Nhân lực vận hành, quản trị các hệ thống thông tin vừa thiếu, vừa yếu; (6) Các cơ sở dữ liệu quốc gia theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ chưa được xây dựng đầy đủ; (7) Nhiều hệ thống thông tin còn lỗ hổng bảo mật, không đủ điều kiện kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư…
Hiện nay việc kết nối, chia sẻ thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các bộ, ngành, địa phương đang được triển khai thực hiện quyết liệt đem lại những kết quả thiết thực, phục vụ có hiệu quả cho công tác quản lý nhà nước, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ hành chính công. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã tiết kiệm được chi phí trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu riêng hoặc không cần thiết phải xây dựng cơ sở dữ liệu riêng khi đã được kết nối, khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung là xu thế chung của các nước trên thế giới hiện nay. Do vậy, việc xây dựng, phát triển Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với dữ liệu gắn với con người và các dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu quốc gia sẽ là trụ cột dữ liệu chính để tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ số, thúc đẩy kinh tế số và hình thành xã hội số. Hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và doanh nghiệp từ đó triển khai các giải pháp kết nối để chia sẻ, sử dụng lại và phát triển các mô hình/ứng dụng phân tích dữ liệu chuyên sâu để tạo ra nhiều giá trị mới, sản phẩm dịch vụ mới và động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn chuyển đổi số của Việt Nam. Việc đầu tư, nâng cấp, mở rộng, lưu trữ thông tin trong Cơ sử dữ liệu tổng hợp quốc gia sẽ tiết kiệm rất nhiều so với việc đầu tư các hệ thống riêng biệt để lưu trữ các thông tin này. Các thông tin được lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia cũng sẽ được chia sẻ phục vụ để việc khai thác chung cho các bộ, ngành, địa phương; cơ quan quản lý dữ liệu không phải thiết lập thêm các kênh kết nối, chia sẻ riêng đối với các thông tin đã được bổ sung, lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
Qua rà soát, Bộ Công an thấy có 69 Luật đang quy định về Cơ sở dữ liệu (Cơ sở dữ liệu quốc gia, Cơ sở dữ liệu chuyên ngành). Trong đó, chỉ có một số luật có quy định về trách nhiệm của cơ quan chủ quản Cơ sở dữ liệu trong việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu. Hiện nay trên cơ sở các quy định pháp luật, các bộ ngành, địa phương đã triển khai xây dựng các cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước, trong đó có gần 40 cơ sở dữ liệu quốc gia và gần 50 cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Tuy nhiên, hầu hết các luật đều không quy định cụ thể hoặc thống nhất về việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu; chưa có luật nào quy định về các dịch vụ liên quan đến dữ liệu, điều chỉnh các nền tảng phát triển, ứng dụng dữ liệu đang có xu hướng phát triển phổ biến trên thế giới như công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ chuỗi khối, công nghệ truyền thông dữ liệu, công nghệ internet vạn vật và công nghệ dữ liệu lớn…
Do đó, cần có Luật Dữ liệu để điều chỉnh các vấn đề nêu trên nhằm thực hiện thống nhất, đồng bộ, sử dụng hiệu quả thông tin trong các cơ sở dữ liệu, phục vụ công tác quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội.
2. Mục tiêu xây dựng chính sách
2.1 Mục tiêu tổng thể:
a) Về phát triển dữ liệu quốc gia
Phát triển Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với dữ liệu gắn với con người và các dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu quốc gia sẽ là trụ cột dữ liệu chính để tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ số, thúc đẩy kinh tế số và hình thành xã hội số. Hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và doanh nghiệp từ đó triển khai các giải pháp kết nối để chia sẻ, sử dụng lại và phát triển các mô hình/ứng dụng phân tích dữ liệu chuyên sâu để tạo ra nhiều giá trị mới, sản phẩm dịch vụ mới và động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn chuyển đổi số của Việt Nam.
b) Về phát triển Chính phủ số và cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính
Cung cấp hạ tầng phục vụ xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và hình thành kho thông tin định danh số cho công dân, tổ chức trong thực hiện các thủ tục hành chính, kết hợp cùng với việc tích hợp đồng bộ, liên thông giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia khác sẽ giúp phát triển Chính phủ số và cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính không còn phù hợp, gia tăng sự hài lòng của người dân với hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Hỗ trợ công tác chỉ đạo, điều hành, hoạch định chính sách của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương trên nền tảng dữ liệu số.
c) Về phát triển kinh tế - xã hội
Thúc đẩy các giao dịch thương mại trên môi trường số được thường xuyên, liên tục, an toàn và minh bạch hơn. Đồng thời hình thành và từng bước mở rộng kho dữ liệu về con người để người dân, doanh nghiệp khai thác, sử dụng phục vụ sáng tạo, triển khai các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mới góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số và xây dựng xã hội số.
d) Về phát triển Trung tâm dữ liệu quốc gia
Trung tâm dữ liệu quốc gia khi đưa vào triển khai hoạt động sẽ là tiền đề để thúc đẩy quá trình phát triển và đẩy mạnh khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; góp phần thực hiện mục tiêu nâng tầm chiến lược phát triển kinh tế số của Việt Nam theo kịp các quốc gia trên thế giới, bảo đảm điều kiện cho Việt Nam phát triển và hòa nhập với nền kinh tế số của thế giới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
a) Về dữ liệu
- Hoàn thành xây dựng và đưa vào khai thác Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia, triển khai ngay việc tổng hợp dữ liệu liên quan đến công dân Việt Nam và người nước ngoài sinh sống, có hoạt động tại Việt Nam làm tiền đề phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ bảo đảm an ninh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội (hoàn thành cơ bản năm 2025); bảo đảm dữ liệu đúng, đủ, sạch, sống cho các cơ sở dữ liệu quốc gia cũng như cơ sở dữ liệu của các cơ quan, tổ chức do dữ liệu được tổng hợp, đối sánh từ nhiều nguồn; giảm thiểu các bước trung gian trong quá trình kết nối, chia sẻ. Kho dữ liệu về con người bao gồm dữ liệu thuộc các lĩnh vực: dân cư, dữ liệu sinh trắc, di biến động cư trú, bảo hiểm, y tế và an sinh xã hội, giáo dục và đào tạo; lao động việc làm, hộ tịch và thu thập tối đa các thông tin lĩnh vực khác như vi phạm hành chính, thuế, thu nhập cá nhân…
- Hoàn thành cơ bản xây dựng và đưa vào khai thác Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia được đồng bộ từ các cơ sở dữ liệu quốc gia và phối hợp khai thác với kho dữ liệu về con người; triển khai thực hiện việc phân tích dữ liệu chuyên sâu hỗ trợ công tác xây dựng cơ chế chính sách, quy hoạch chiến lược phát triển quốc gia; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhiều sản phẩm, dịch vụ mới trên nền các dữ liệu số được khai thác từ các kho dữ liệu dùng chung và kho dữ liệu mở, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Trung tâm dữ liệu quốc gia đóng vai trò là nơi để trao đổi, kết nối quốc tế nhằm chia sẻ thông tin, nghiên cứu phát triển các chiến lược phát triển và đặt nền tảng nghiên cứu, hỗ trợ khai thác, phát triển nền tảng khoa học công nghệ đất nước.
- Hoàn thành việc triển khai Trung tâm dữ liệu quốc gia là nơi lưu trữ dữ liệu, hệ thống thông tin của các cơ sở dữ liệu quốc gia, kết nối liên thông dữ liệu với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, các hệ thống thông tin trong nước và tổ chức Chính phủ các nước để phục vụ các hoạt động trên môi trường số bảo đảm lợi ích hợp pháp của Việt Nam.
b) Về quy hoạch kiến trúc dữ liệu của Trung tâm dữ liệu quốc gia
- Hoàn thành xây dựng và triển khai Bộ tiêu chuẩn áp dụng cho công tác quy hoạch kiến trúc các cơ sở dữ liệu quốc gia tại Trung tâm dữ liệu quốc gia về việc phân cấp, phân loại dữ liệu theo các độ mở, cấp độ mật, tối mật, tuyệt mật và mức độ ảnh hưởng đến quốc gia, người dân và doanh nghiệp; hoàn thành quy hoạch cụ thể phân kho lưu trữ và thiết lập các chính sách an ninh an toàn thông tin phù hợp với đối tượng, phương thức truy cập, quyền khai thác đối với từng loại dữ liệu.
- Hoàn thành việc triển khai các quy hoạch, tiêu chuẩn, kiến trúc dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu quốc gia cũng như cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương.
c) Về phân tích và khai thác dữ liệu
- Triển khai thành công các công nghệ, giải pháp hiện đại và đào tạo được chuyên gia khoa học dữ liệu, đặc biệt là chuyên gia phân tích dữ liệu có trình độ cao để thực hiện công tác phát triển, tổng hợp và khai thác, phân tích dữ liệu tổng thể, đa chiều, khách quan,…
- Triển khai công tác lập các báo cáo dự báo tham mưu cho Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương phục vụ công tác quản lý, điều hành thông qua dữ liệu. Thực hiện cung cấp một số dữ liệu dùng chung, dữ liệu mở quan trọng đáp ứng nhu cầu sử dụng cho người dân, doanh nghiệp và đối tác nước ngoài khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
- Các hoạt động hành chính trao đổi, phối hợp cung cấp thông tin giữa các cơ quan nhà nước được thay thế bằng chia sẻ dữ liệu số từ các Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia trong Trung tâm dữ liệu quốc gia.
d) Về hạ tầng, thiết bị công nghệ thông tin
- Việc xây dựng hạ tầng nhà trạm của Trung tâm dữ liệu quốc gia tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của quốc tế về trung tâm dữ liệu, về an toàn thông tin, bảo đảm độ sẵn sàng của hệ thống, hạ tầng công nghệ hiện đại, đồng bộ. Chủ động triển khai nền tảng điện toán đám mây trong Trung tâm dữ liệu quốc gia, liên tục cập nhật theo xu thế công nghệ mới nhất, tránh lãng phí, đáp ứng mục tiêu của cuộc cách mạng 4.0.
đ) Về cải cách, cắt giảm thủ tục hành chính
Mục tiêu cung cấp các dịch vụ công trực tuyến thiết yếu (như lĩnh vực cư trú, hộ tịch, bảo hiểm xã hội, giáo dục, y tế, đất đai, lao động...) để phục vụ người dân, doanh nghiệp trên cơ sở sử dụng xác thực, chia sẻ bằng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính.
e) Về phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển thêm các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế mới dựa trên dữ liệu. Tham gia quan trọng vào phát triển nền kinh tế dữ liệu, bảo đảm mục tiêu kinh tế dữ liệu đóng góp vào GDP đất nước.
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
1. Chính sách 1. Quy định về xây dựng, phát triển, quản trị, xử lý dữ liệu, ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu, quản lý nhà nước về dữ liệu
1.1. Xác định vấn đề bất cập
Hiện nay, có hơn một trăm văn bản quy phạm pháp luật có quy định liên quan đến dữ liệu tuy nhiên các văn bản này chưa có quy định thống nhất về việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu; chưa có quy định về bảo vệ dữ liệu; hoạt động truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu; chưa có quy định đầy đủ về quản trị dữ liệu; các dịch vụ liên quan đến dữ liệu, xác định và quản lý rủi ro có thể phát sinh trong chuỗi cung ứng dữ liệu, ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu đang có xu hướng phát triển phổ biến trên thế giới như công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ chuỗi khối, công nghệ truyền thông dữ liệu, công nghệ internet vạn vật và công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác… Do đó công tác quản lý dữ liệu còn bộc lộ một số bất cập, thiết xót, hạn chế; chưa thúc đẩy sự phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu. Vì vậy, cần phải ban hành luật để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến dữ liệu, nhất là các chính sách về xây dựng, phát triển, xử lý,quản trị, bảo vệ dữ liệu, ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu, xác định và quản lý rủi ro có thể phát sinh trong chuỗi cung ứng dữ liệu; hợp tác quốc tế dữ liệu để góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về dữ liệu và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó hiện nay tại Việt Nam chỉ có tiêu chuẩn dữ liệu thông tin đầu vào của cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ ban hành theo Thông tư số 02/2019/TT-BNV về quy định tiêu chuẩn dữ liệu thông tin đầu vào và yêu cầu bảo quản tài liệu lưu trữ điện tử; tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9250:2021 về yêu cầu hạ tầng kỹ thuật viễn thông của Trung tâm dữ liệu; chưa có một tiêu chuẩn chung về tiêu chuẩn dữ liệu do vậy cần có một tiêu chuẩn chung để áp dụng thống nhất, đồng bộ.
Ngoài ra hiện nay chưa có quỹ phát triển dữ liệu quốc gia để hỗ trợ việc đầu tư, xây dựng, phục vụ hoạt động của Trung tâm dữ liệu quốc gia; hỗ trợ việc nghiên cứu giải pháp gia tăng bảo vệ dữ liệu, chuyển giao công nghệ về dữ liệu, phát triển ứng dụng công nghệ cao liên quan đến dữ liệu; hỗ trợ khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành thích trong công tác xây dựng, phát triển dữ liệu và hỗ trợ hợp tác quốc tế về dữ liệu. Vì vậy cần phải có quy định để quản lý các hoạt động của Quỹ phát triển dữ liệu quốc gia.
1.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Quy định về chiến lược dữ liệu; xử lý dữ liệu (gồm các hoạt động thu thập, ghi, phân tích, tổng hợp, xác nhận, xác thực, lưu trữ, chỉnh sửa, cập nhật, điều chỉnh, công khai, kết hợp, truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu hoặc các hoạt động khác có liên quan); quản trị dữ liệu, bảo vệ dữ liệu, chất lượng dữ liệu, cung cấp dữ liệu; xác định và quản lý rủi ro có thể phát sinh trong chuỗi cung ứng dữ liệu; hợp tác quốc tế về dữ liệu; ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu đang có xu hướng phát triển phổ biến trên thế giới như công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ chuỗi khối, công nghệ truyền thông dữ liệu, công nghệ internet vạn vật và công nghệ dữ liệu lớn,…
1.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Không quy định chính sách này và áp dụng theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dữ liệu.
Giải pháp 2: Quy định về quản lý nhà nước về dữ liệu; chiến lược dữ liệu; thu thập, ghi, phân tích, xác nhận, lưu trữ, chỉnh sửa, cập nhật, điều chỉnh, công khai, kết hợp, truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu; quản trị dữ liệu, chất lượng dữ liệu, cung cấp dữ liệu; xác định và quản lý rủi ro có thể phát sinh trong chuỗi cung ứng dữ liệu; hợp tác quốc tế về dữ liệu; Quỹ phát triển dữ liệu quốc gia.
Giải pháp 3: Bao gồm các nội dung của giải pháp 02 và bổ sung quy định về việc ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu
Cụ thể là:
- Quy định về thu thập, ghi, phân tích, tổng hợp, xác nhận, xác thực, lưu trữ, chỉnh sửa, cập nhật, điều chỉnh, công khai, kết hợp, truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu; chất lượng dữ liệu, cung cấp dữ liệu;
- Quy định về quản lý nhà nước về dữ liệu;
- Quy định về chiến lược dữ liệu;
- Quy định về quản trị dữ liệu;
- Quy định về bảo vệ dữ liệu;
- Quy định về xác định và quản lý rủi ro phát sinh trong xử lý dữ liệu;
- Quy định về hợp tác quốc tế về dữ liệu;
- Quy định về Quỹ phát triển dữ liệu quốc gia;
- Quy định về ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu, bao gồm các nội dung về:
(1) Nhà nước ưu tiên việc xử lý, quản trị dữ liệu thông qua ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ chuỗi khối, công nghệ truyền thông dữ liệu, công nghệ internet vạn vật, công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác để phục vụ công tác quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng yêu cầu trong chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
(2) Nguyên tắc trong phát triển công nghệ trong xử lý dữ liệu.
(3) Nguyên tác trong ứng dụng công nghệ (vào quản lý nhà nước, vào phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ hoạt động của xã hội).
(4) Định hướng phát triển, sử dụng các công nghệ tại Việt Nam.
1.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
Giải pháp 1: Không quy định chính sách này và áp dụng theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dữ liệu.
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Nhà nước không phát sinh chi phí sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản để điều chỉnh chính sách.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không tốn chi phí để nghiên cứu triển khai thực hiện các quy định mới.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Do không có quy định cụ thể, thống nhất về các hoạt động liên quan đến dữ liệu, từ việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng dữ liệu, mỗi cơ quan tổ chức phải đầu tư chi phí, nhân lực để tự xây dựng ban hành chính sách riêng. Phải đầu tư để chuẩn hóa bảo đảm chất lượng dữ liệu thu thập từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau. Phải đầu tư ngân sách về xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; quản lý khai thác riêng lẻ, không tập trung. Đa số các bộ, ngành, địa phương chưa ứng dụng các nền tảng khoa học công nghệ hiện đại phục vụ phát triển kinh tế trong lĩnh vực chuyển đổi số.
Không kịp thời hỗ trợ xây dựng, phát triển dữ liệu mà ngân sách nhà nước chưa đầu tư, chưa đáp ứng cho yêu cầu hoạt động khai thác, sử dụng và phát triển ứng dụng công nghệ cao liên quan đến dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Chưa được hưởng lợi tối đa từ việc khai thác, ứng dụng dữ liệu trong việc phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Ví dụ như tác động của trí tuệ nhân tạo đến năng suất có thể tăng thêm giá trị hàng nghìn tỷ đô la cho nền kinh tế toàn cầu. Nghiên cứu mới nhất của McKinsey ước tính rằng trí tuệ nhân tạo có thể tăng thêm số tiền tương đương từ 2,6 nghìn tỷ USD đến 4,4 nghìn tỷ USD hàng năm trong 63 usecase được phân tích-tương đương toàn bộ GDP của Vương quốc Anh vào năm 2021 là 3,1 nghìn tỷ USD. Điều này sẽ làm tăng tác động của tất cả trí tuệ nhân tạo lên 15 đến 40%. Ước tính này sẽ tăng gần gấp đôi nếu chúng ta tính đến tác động của việc nhúng trí tuệ nhân tạo vào phần mềm hiện đang được sử dụng cho các nhiệm vụ khác ngoài các usecase cụ thể được nghiên cứu.
Giá trị kinh tế tiềm năng mà công nghệ internet vạn vật có thể mở ra là rất lớn và ngày càng tăng. Đến năm 2030, McKinsey ước tính rằng nó có thể mang lại giá trị từ 5,5 nghìn tỷ USD đến 12,6 nghìn tỷ USD trên toàn cầu, bao gồm cả giá trị mà người tiêu dùng và khách hàng thu được đối với các sản phẩm và dịch vụ IoT.
Báo McKinsey đánh giá môi trường nhà máy (bao gồm môi trường sản xuất được tiêu chuẩn hóa trong sản xuất, bệnh viện và các khu vực khác) sẽ mang lại giá trị kinh tế tiềm năng lớn nhất từ IoT, khoảng 26%, vào năm 2030. Môi trường healthcare đứng thứ hai, chiếm khoảng 10 đến 14% giá trị kinh tế IoT ước tính vào năm 2030.
Nguồn thông tin theo báo cáo của McKinsey về tác động của trí tuệ nhân tạo tới nền kinh tế toàn cầu:
(theo nguồn: www.mckinsey.com)
Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Không làm xáo trộn các chính sách hiện hành liên quan đến xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng, bảo vệ dữ liệu...
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không làm thay đổi các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm liên quan đến thu thập, khai thác, sử dụng dữ liệu.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Không hoàn thiện các quy định về chiến lược, thu thập, ghi, phân tích, xác nhận, lưu trữ, chỉnh sửa, cập nhật, điều chỉnh, công khai, kết hợp, truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu.
Hiện nay việc phát triển dữ liệu ở nước ta vẫn chưa có định hướng tổng thể dẫn đến nhiều khó khăn trong triển khai, xây dựng các cơ sở dữ liệu để đảm bảo thống nhất, đồng bộ. Vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 về Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030; trong đó bao hàm rất nhiều nội dung quan trọng về phát triển hạ tầng dữ liệu, phát triển dữ liệu…, đây là những quy định hành chính nhưng tác động rất lớn đến các chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương, quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, doanh nghiệp do vậy cần thiết phải luật hóa việc xây dựng chiến lược dữ liệu (bao gồm chiến lược dữ liệu quốc gia, chiến lược cơ sở dữ liệu chuyên ngành, chiến lược phát triển cơ sở dữ liệu chuyên ngành, chiến lược phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia).
- Không đồng bộ, thống nhất dữ liệu dùng chung; không huy động được ngay những dữ liệu dùng riêng của các bộ, ngành trong một số trường hợp khẩn cấp mà Chính phủ quy định.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không được bảo đảm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến việc khai thác, sử dụng dữ liệu.
c) Tác động về giới
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực: Không làm thay đổi hệ thống pháp luật có liên quan.
(2) Về mặt tiêu cực: Không bảo đảm mặt thống nhất các quy định về xây dựng, phát triển dữ liệu; không tạo ra cơ chế ứng dụng cá công nghệ nền tảng phát triển, ứng dụng dữ liệu đang có xu hướng phát triển phổ biến trên thế giới như công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ chuỗi khối, công nghệ truyền thông dữ liệu, công nghệ internet vạn vật và công nghệ dữ liệu lớn,….
đ) Tác động thủ tục hành chính: Không
Giải pháp 2: Quy định về chiến lược dữ liệu; chất lượng dữ liệu,thu thập, ghi, phân tích, xác nhận, lưu trữ, chỉnh sửa, cập nhật, điều chỉnh, công khai, kết hợp, truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu; quản trị dữ liệu, bảo vệ dữ liệu, cung cấp dữ liệu; xác định và quản lý rủi ro có thể phát sinh trong chuỗi cung ứng dữ liệu; hợp tác quốc tế về dữ liệu. Cụ thể như:
- Xử lý dữ liệu là một hoặc nhiều hoạt động tác động tới dữ liệu, như: thu thập, ghi, phân tích, tổng hợp, xác nhận, xác thực, lưu trữ, chỉnh sửa, cập nhật, điều chỉnh, công khai, kết hợp, truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chia sẻ, truyền đưa, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu hoặc các hoạt động khác có liên quan.
- Quản trị dữ liệu là hoạt động tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược dữ liệu; biện pháp quản lý, xử lý dữ liệu, bảo đảm tính toàn vẹn, chính xác, kip thời của dữ liệu.
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Giảm tải các chi phí trong đầu tư xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu. Tăng cường khả năng truy cập, chia sẻ và sử dụng dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu suất của hoạt động kinh tế. Việc có quy định thống nhất, cụ thể về xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác cơ sở dữ liệu sẽ giúp hạn chế tối đa các hoạt động đầu tư manh mún, nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ tại các cơ quan đơn vị liên quan.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Giảm chi phí trong việc khai thác, sử dụng dữ liệu; có quy định thống nhất cụ thể liên quan ứng dụng dữ liệu trong các hoạt động kinh tế.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước:
Không thu được các lợi ích kinh tế khi không quản lý các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn.
Theo thống kê số liệu toàn cầu, thị phần ngành công nghiệp AI đạt 454,12 tỷ USD vào năm 2022 và dự kiến có thể chạm mốc 2575,16 tỷ USD và năm 2032. Riêng thị trường Bắc Mỹ đạt 167,3 tỷ USD vào năm 2022.
Thị phần ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ blockchain đạt 11.14 tỷ USD vào năm 2022 và dự kiến có thể đạt 469,49 tỷ USD vào năm 2030. Riêng thị trường Bắc Mỹ chiếm 47,13% thị phần năm 2022.
Thị phần ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ IoT đạt 544,38 tỷ USD năm 2022, dự kiến đạt 3352 tỷ USD vào năm 2030. Riêng thị trường Bắc Mỹ chiếp 33% thị phần năm 2022.
Theo thống kê của Hội đồng Công nghệ Bắc Virginia (Northern Virginia Technology Council), ngành công nghiệp trung tâm dữ liệu đã mang lại nguồn thu thuế 1,2 tỷ đô la, trong đó bao gồm 1 tỷ đô la cho chính quyền địa phương, và 174 triệu đô la cho chính quyền bang.
Thống kê số tiền thuế nộp bởi một số doanh nghiệp công nghệ lớn như Apple, Oracle, Microsoft...
 
         
 
 
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không thu được các lợi ích kinh tế từ việc phát triển, ứng dụng các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn trong hoạt động kinh tế.
Theo trang www.vov.vn thì hiện nay trong top 200 công ty blockchain trên thế giới có 5-7 công ty do người Việt Nam sáng lập, nhưng tất cả lại đăng ký kinh doanh ở một số nước khác như: Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, dù trụ sở làm việc, công nghệ, nhân lực... đều ở Việt Nam. Nguyên do là Việt Nam vẫn còn thiếu hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ mới của cách mạng công nghiệp 4.0 như blockchain, trí tuệ nhân tạo… Từ đó dẫn đến việc các công ty trên đều không đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước. Đồng thời, điều này dẫn tới tình trạng “chảy máu” chất xám lĩnh vực công nghệ của người Việt.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Giúp hoàn thiện, tạo cơ chế chính sách để xây dựng, phát triển, xử lý, quản trị dữ liệu, bảo đảm đồng bộ, thống nhất phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số. Bảo đảm tiêu chuẩn dữ liệu theo kịp các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế nhằm thúc đẩy việc chia sẻ, khai thác dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu trong nước và quốc tế. Chất lượng dữ liệu được đảm bảo giúp thuận lợi cho việc lưu trữ, khai thác, sử dụng dữ liệu.
Các cơ quan nhà nước có thể thực hiện được việc đồng bộ, chia sẻ ngay các dữ liệu (bao gồm cả dữ liệu dùng riêng) của các bộ, ngành, địa phương để giải quyết tình trạng khẩn cấp; trường hợp đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Bảo đảm việc thu thập quản lý, bảo vệ dữ liệu của tổ chức doanh nghiệp cá nhân được chính xác, hạn chế sai sót nhầm lẫn, đảm bảo việc quản lý dữ liệu được an toàn.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Chưa hoàn thiện đầy đủ các quy định về phát triển ứng dụng dữ liệu, đặc biệt các công nghệ nền tảng phát triển, ứng dụng dữ liệu, bao gồm các nội dung về: trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không có cơ chế để bảo đảm trong phát triển các công nghệ nền tảng về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn.
c) Tác động về giới
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính: Không.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của pháp luật trong quy định về dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không phải lãng phí nguồn lực trong việc nghiên cứu, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau có quy định liên quan đến dữ liệu, đặc biệt là các dữ liệu quốc gia, dữ liệu chuyên ngành thường xuyên khai thác, sử dụng.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Chưa có quy định để điều chỉnh các công nghệ nền tảng về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải cập nhật các quy định pháp luật liên quan đến dữ liệu, đặc biệt là các dữ liệu quốc gia, dữ liệu chuyên ngành thường xuyên khai thác, sử dụng.
Giải pháp 3: Bao gồm các nội dung của giải pháp 02 và bổ sung quy định về ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu đang có xu hướng phát triển phổ biến trên thế giới (trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác)
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Giảm tải các chi phí trong đầu tư xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu. Tăng cường khả năng truy cập, chia sẻ và sử dụng dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu suất của hoạt động kinh tế. Việc có quy định thống nhất, cụ thể về xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác cơ sở dữ liệu sẽ giúp hạn chế tối đa các hoạt động đầu tư manh mún, nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ tại các cơ quan đơn vị liên quan. Thu được các lợi ích kinh tế khi quản lý các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Giảm chi phí trong việc khai thác, sử dụng dữ liệu; có nhiều lựa chọn dịch vụ liên quan ứng dụng dữ liệu trong các hoạt động kinh tế. Hưởng lợi khi xây dựng, sử dụng các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Gây tốn chi phí trong quản lý, đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ hoạt động quản lý các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Giúp hoàn thiện, tạo cơ chế chính sách để xây dựng phát triển dữ liệu phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số. Tạo hành lang pháp lý trong việc quản lý phát triển, ứng dụng các công nghệ đang có xu hướng phát triển phổ biến trên thế giới như công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ chuỗi khối, công nghệ truyền thông dữ liệu, công nghệ internet vạn vật, công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác …
Số liệu thống kê dự báo xu hướng phát triển thị phần ngành công nghiệp AI tại Mỹ sẽ tăng từ 108,42 tỷ đô la năm 2020 lên 738,76 tỷ đô la vào năm 2030. Thị phần ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ blockchain đạt 11.14 tỷ USD vào năm 2022 và dự kiến có thể đạt 469,49 tỷ USD vào năm 2030. Năm 2023, 805 tỷ USD được đầu tư vào công nghệ IoT (Internet of Things) trên toàn cầu. (theo nguồn: www.precedenceresearch.comwww.fortunebusinessinsights.com; www.statista.com).
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức doanh nghiệp trong hoạt động phát triển các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Thay đổi trạng thái làm việc trong công tác quản lý, phát triển dữ liệu và các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải tiếp cận với các phương thức quản lý dữ liệu mới.
c) Tác động về giới
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính: Không.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong quy định chung về việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu. Đồng thời bổ sung các quy định về quản lý các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Được bảo đảm việc triển khai các hoạt động liên quan đến dữ liệu, các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác bằng quy định của pháp luật.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan nhà nước: Không.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải cập nhật các quy định pháp luật liên quan đến dữ liệu, các nền tảng công nghệ về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác bằng quy định của pháp luật.
1.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Trong các giải pháp trên, Bộ Công an kiến nghị lựa chọn giải pháp 3 để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong quy định chung về việc xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu. Đồng thời bổ sung các quy định về định hướng phát triển, ứng dụng các công nghệ hiện đại về trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây; công nghệ chuỗi khối; công nghệ truyền thông dữ liệu; công nghệ internet vạn vật; công nghệ dữ liệu lớn và các công nghệ hiện đại khác trong hoạt động xử lý dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng yêu cầu trong chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
2. Chính sách 2: Quy định về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
2.1. Xác định vấn đề bất cập
Qua rà soát, hiện nay Bộ Công an thấy có gần 40 cơ sở dữ liệu quốc gia, 50 cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Qua triển khai thực hiện những vấn đề liên quan đến xây dựng, tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu đến nay bước đầu khởi tạo và hình thành được 07 Cơ sở dữ liệu quốc gia; một số Cơ sở dữ liệu quốc gia đã có sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu góp phần cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân... Tuy nhiên, hạ tầng dữ liệu quốc gia còn rời rạc, chất lượng không đồng đều và chưa cao; nhiều cơ sở dữ liệu được thu thập, lưu trữ trùng lặp, chồng chéo, chưa được chuẩn hóa, thống nhất về tiêu chuẩn, danh mục nên không có khả năng kế thừa, khó khăn khi kết nối, chia sẻ, khai thác dùng chung, người dân vẫn phải khai báo thông tin nhiều lần; đồng thời, sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu để tạo lập nguồn tài nguyên dữ liệu quốc gia quan trọng còn yếu và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được tốt việc đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4; tốc độ phát triển tài nguyên số, đặc biệt là tài nguyên dữ liệu phục vụ cho phát triển kinh tế dữ liệu chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Từ đó, đặt ra yêu cầu phải có quy định về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia, để tập hợp, tích hợp, đồng bộ, lưu trữ, chia sẻ, phân tích, khai thác, chia sẻ dữ liệu của các cơ quan nhà nước và dữ liệu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật nhằm hình thành kho dữ liệu về con người và kho dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân; dữ liệu tại cơ sở dữ liệu tổng hợp là nền tảng cốt lõi cung cấp các dịch vụ liên quan đến dữ liệu, hỗ trợ hoạch định chính sách, kiến tạo phát triển, xây dựng Chính phủ số, xã hội số và kinh tế số, bảo đảm quốc phòng an ninh.
2.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Quy định Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia là nơi tích hợp, đồng bộ, lưu trữ, khai thác, chia sẻ và chia sẻ dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nhằm đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong phát triển, khai thác dữ liệu lớn. Ứng dụng phân tích chuyên sâu dữ liệu để hỗ trợ tốt hơn cho công tác xây dựng các cơ chế chính sách, quy hoạch, chiến lược phát triển quốc gia. Từ đó, tạo điều kiện phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ mới trên nền các dữ liệu số được khai thác góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
2.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
- Giải pháp 1: Không quy định chính sách này và áp dụng theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dữ liệu.
- Giải pháp 2: Quy định về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia (trên cơ sở đồng bộ toàn bộ dữ liệu mở, dữ liệu dùng chung từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia)
Bao gồm các nội dung về:
(1) Đồng bộ toàn bộ các thông tin, dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia, tạo lập kho dữ liệu mở, kho dữ liệu dùng chung để thống kê, phân tích, tổng hợp phục vụ công tác quản lý nhà nước, các dịch vụ công của Chính phủ và phát triển kinh tế - xã hội;
(2) Hoạt động xử lý, quản trị, chia sẻ dữ liệu liên quan đến Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia;
(3) Trách nhiệm cung cấp thông tin, dữ liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cá nhân, tổ chức khác;
(4) Mối quan hệ giữa Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cổng dịch vụ công quốc gia và cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin khác;
(5) Phí khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia;
- Giải pháp 3: Tương tự như giải pháp 2 và bổ sung việc đồng bộ dữ liệu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tự nguyện cung cấp hoặc bắt buộc cung cấp về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia trong trường hợp ứng phó với tình trạng khẩn cấp (như trường hợp khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, sức khỏe cộng đồng hoặc các thảm họa lớn do thiên nhiên hoặc do con người gây ra).
2.4. Đánh giá tác động của giải pháp
Giải pháp 1: Không quy định chính sách này và áp dụng theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dữ liệu.
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với Nhà nước: Không phát sinh chi phí xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; chi phí xây dựng, vận hành, quản trị, bảo trì, sử dụng Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
 (2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Không tận dụng, phát huy được tối đa lợi ích của dữ liệu để phát triển kinh tế số; không giảm được chi phí khi triển khai cung cấp các dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử; làm tăng chi phí của nhà nước trong việc triển khai các cơ sở dữ liệu, khai thác và sử dụng dữ liệu trong phục vụ chuyển đổi số; làm chậm quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số của đất nước do việc triển khai nhiều cơ sở dữ liệu bị phân tán, trùng lặp.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Tốn chi phí để bảo đảm an ninh, an toàn khi tham gia các hoạt động giao dịch điện tử; không tối đa được chi phí do vẫn phải khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu trong các cơ sở dữ liệu theo cách truyền thống; phải thực hiện các thủ tục hành chính, các dịch vụ công riêng lẻ do các cơ sở dữ liệu còn phân tán, chưa tập trung, liên thông.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với Nhà nước: Không phải điều chỉnh các chính sách về quản lý, vận hành, kết nối, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không phải cập nhật quy định pháp luật và thay đổi thói quen trong việc khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu trong các cơ sở dữ liệu; việc thực hiện các thủ tục hành chính, các dịch vụ công.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Không giải quyết được các khó khăn, vướng mắc liên quan đến quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu trong các cơ sở dữ liệu; việc quản lý các cơ sở dữ liệu không tập trung, đồng bộ, thống nhất ảnh hưởng đến công tác thống kê, phân tích, tổng hợp dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước, liên thông các thủ tục hành chính trực tuyến, các dịch vụ công.
Không phù hợp với Chiến lược dữ liệu quốc gia quy định tại Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ, Đề án xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia quy định tại Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023 của Chính phủ, Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 quy định tại Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ;
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không được thụ hưởng tối đa các tiện ích từ các sở dữ liệu; các quyền và lợi ích chính đáng khi khai thác, sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu; tốn công sức, thời gian do phải thực hiện các thủ tục hành chính, các dịch vụ công riêng lẻ cho chưa liên thông được các thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến; khó tiếp cận các nguồn thông tin từ các cơ sở dữ liệu của nhà nước theo phương thức thống nhất do nhiều cơ sở dữ liệu với nhiều tiêu chuẩn dữ liệu và phương thức khác nhau; công dân, doanh nghiệp phải cung cấp thông tin nhiều lần cho nhiều cơ quan, đơn vị khác nhau, thiếu đồng bộ, nhất quán trong các định dạng dữ liệu phải cung cấp.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính:
(1) Về mặt tích cực: Không.
(2) Về mặt tiêu cực:
Không cắt giảm được tối đa các thủ tục hành chính khi thực hiện các dịch vụ công, đặc biệt là dịch vụ công trực tuyến liên quan đến việc khai thác, sử dụng dữ liệu.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực:
Không phải sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về dữ liệu.
(2) Về mặt tiêu cực:
Không có quy định pháp luật điều chỉnh toàn diện về dữ liệu; các quy định pháp luật liên quan đến dữ liệu hiện hành không bảo đảm đồng bộ, thống nhất; pháp luật liên quan đến dữ liệu không được cập nhật, tương thích với xu thế chuyển đổi số, quy định pháp luật của các nước trên thế giới; nhà nước phải ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh riêng các loại dữ liệu quốc gia, dữ liệu chuyên ngành khác nhau.
Giải pháp 2: Quy định về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia (trên cơ sở đồng bộ toàn bộ dữ liệu mở, dữ liệu dùng chung từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành về Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia)
a) Tác động về kinh tế:
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với Nhà nước: Sẽ giảm được chi phí khi triển khai cung cấp các dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử và chi phí vận hành, quản lý cơ sở dữ liệu điện tử; tận dụng thông tin, dữ liệu trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia để phân tích, đưa ra các giải pháp điều hành phục vụ phát triển kinh tế.
Tận dụng, phát huy được tối đa lợi ích của dữ liệu để phát triển kinh tế số; giảm được chi phí khi triển khai cung cấp các dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử; giảm chi phí của nhà nước trong việc triển khai các cơ sở dữ liệu, khai thác và sử dụng dữ liệu trong phục vụ chuyển đổi số; thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số của đất nước.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Hạn chế phát sinh chi phí để bảo đảm an ninh, an toàn khi tham gia các hoạt động giao dịch điện tử; khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; cắt giảm chi phí thực hiện các thủ tục hành chính do các thủ tục hành chính, các dịch vụ công được thực hiện liên thông.
Cụ thể như đối với việc thực hiện liên thông điện tử đối với 02 dịch vụ công liên thông “Đăng ký khai sinh - Đăng ký thường trú - Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi” và “Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú - Trợ cấp mai táng, hỗ trợ chi phí mai táng” sẽ cắt giảm hoặc tái sử dụng lại (theo hướng người dân chỉ khai báo thông tin, giấy tờ một lần) đối với tối thiểu 09 loại giấy tờ, gồm: 02 mẫu đơn, tờ khai, Danh sách, giấy báo tử, sổ bảo hiểm xã hội, giấy chứng sinh, trường hợp thanh toán phí giám định y khoa thì có thêm hóa đơn, chứng từ thu phí giám định, bảng kê các nội dung giám định, các loại giấy tờ tùy thân phải xuất trình (chứng minh nhân dân, hoặc căn cước công dân …) và 06 trường thông tin về họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, nơi cư trú, trong đó có nhiều trường thông tin trùng lặp. Ước tính sơ bộ chi phí tiết kiệm khoảng 331 tỷ đồng/năm; trường hợp áp dụng chữ ký số trên ứng dụng của thiết bị di động giúp triển khai dịch vụ công toàn trình (mức độ 4) thì chi phí tiết kiệm được sẽ là 358,1 tỷ đồng/năm. Bên cạnh đó, còn giúp giảm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết; rút ngắn thời gian luân chuyển hồ sơ; khắc phục được tình trạng sai lệch thông tin, làm giả hồ sơ; đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước; góp phần thúc đẩy hình thành công dân số, xã hội số.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Phát sinh chi phí xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản hiện hành; chi phí xây dựng Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia. Không tận dụng được tài nguyên dữ liệu được chia sẻ từ các doanh nghiệp, cá nhân cho nhà nước để phục vụ chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải tốn chi phí để triển khai, thực hiện, áp dụng các quy định pháp luật mới về dữ liệu.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với Nhà nước: Giải quyết được các khó khăn, vướng mắc liên quan đến quản lý, vận hành, kết nối, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu; đáp ứng được yêu cầu trong thực hiện hoạt động chuyển đổi số theo Chiến lược dữ liệu quốc gia quy định tại Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ; Đề án xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia quy định tại Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023 của Chính phủ, Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 quy định tại Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Được bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng khi khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; tiết kiệm công sức, thời gian thực hiện các thủ tục hành chính do các thủ tục hành chính, dịch vụ công được thực hiện liên thông.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Phải điều chỉnh các chính sách về quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng thông tin trên môi trường điện tử; phát sinh chi phí xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; chi phí xây dựng, vận hành, quản trị, bảo trì, sử dụng Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia. Không tận dụng được dữ liệu của các doanh nghiệp, cá nhân để xử lý kịp thời các trường hợp khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, sức khỏe cộng đồng hoặc các thảm họa lớn do thiên nhiên hoặc do con người gây ra.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải cập nhật quy định pháp luật và thay đổi thói quen trong việc khai thác, sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính:
(1) Về mặt tích cực:
Cắt giảm và đơn giản hóa được nhiều thủ tục hành chính do có điều kiện thuận lợi trong thực hiện liên thông và các thủ tục hành chính liên quan đến cập nhật, bổ sung, đính chính thông tin tại các cơ sở dữ liệu hiện hành; cải thiện sự phục vụ của cơ quan nhà nước cho người dân, doanh nghiệp.
(2) Về mặt tiêu cực: Phát sinh thủ tục khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực:
Hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; các thông tin số được hoàn thiện, đồng bộ, cập nhật, tương thích với xu thế chuyển đổi số, quy định pháp luật của các nước trên thế giới. Không phải ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để điều chỉnh riêng các loại dữ liệu quốc gia, dữ liệu chuyên ngành khác nhau.
(2) Về mặt tiêu cực:
Phải ban hành mới Luật Dữ liệu và sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
a) Tác động về kinh tế:
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với Nhà nước: Sẽ giảm được chi phí khi triển khai cung cấp các dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử và chi phí vận hành, quản lý cơ sở dữ liệu điện tử; tận dụng thông tin, dữ liệu trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia để phân tích, đưa ra các giải pháp điều hành phục vụ phát triển kinh tế.
Tận dụng, phát huy được tối đa lợi ích của dữ liệu để phát triển kinh tế số; giảm được chi phí khi triển khai cung cấp các dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử; giảm chi phí của nhà nước trong việc triển khai các cơ sở dữ liệu, khai thác và sử dụng dữ liệu trong phục vụ chuyển đổi số; thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số của đất nước. Tận dụng được tài nguyên dữ liệu được chia sẻ từ các doanh nghiệp, cá nhân cho nhà nước để phục vụ chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Hạn chế phát sinh chi phí để bảo đảm an ninh, an toàn khi tham gia các hoạt động giao dịch điện tử; khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; cắt giảm chi phí thực hiện các thủ tục hành chính do các thủ tục hành chính, các dịch vụ công được thực hiện liên thông.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Phát sinh chi phí xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản hiện hành; chi phí xây dựng Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải tốn chi phí để triển khai, thực hiện, áp dụng các quy định pháp luật mới về dữ liệu.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với Nhà nước: Giải quyết được các khó khăn, vướng mắc liên quan đến quản lý, vận hành, kết nối, khai thác, sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu. Tận dụng dữ liệu của các doanh nghiệp, cá nhân để xử lý kịp thời các trường hợp khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, sức khỏe cộng đồng hoặc các thảm họa lớn do thiên nhiên hoặc do con người gây ra.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Được bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng khi khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; tiết kiệm công sức, thời gian thực hiện các thủ tục hành chính do các thủ tục hành chính, dịch vụ công được thực hiện liên thông.
 (2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Phải điều chỉnh các chính sách về quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng thông tin trên môi trường điện tử; phát sinh chi phí xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; chi phí xây dựng, vận hành, quản trị, bảo trì, sử dụng Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải cập nhật quy định pháp luật và thay đổi thói quen trong việc khai thác, sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính:
(1) Về mặt tích cực:
Cắt giảm và đơn giản hóa được nhiều thủ tục hành chính liên quan đến cập nhật, bổ sung, đính chính thông tin tại các cơ sở dữ liệu hiện hành; cải thiện sự phục vụ của cơ quan nhà nước cho người dân, doanh nghiệp;
(2) Về mặt tiêu cực: Phát sinh thủ tục khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực:
Hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; các thông tin số được hoàn thiện, đồng bộ, cập nhật, tương thích với xu thế chuyển đổi số, quy định pháp luật của các nước trên thế giới. Không phải ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để điều chỉnh riêng các loại dữ liệu quốc gia, dữ liệu chuyên ngành khác nhau.
(2) Về mặt tiêu cực:
Phải ban hành Luật Dữ liệu và sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
2.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn:
Bộ Công an kiến nghị lựa chọn giải pháp 3 để xây dựng Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia nhằm sử dụng hiệu quả thông tin, dữ liệu trong các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp, cá nhân, phục vụ công tác quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy quá trình xây dựng Chính phủ số, kinh tế số; kịp thời giải quyết các trường hợp khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, sức khỏe cộng đồng hoặc các thảm họa lớn do thiên nhiên hoặc do con người gây ra. Nhà nước, người dân và doanh nghiệp sẽ được thụ hưởng rất nhiều thành quả từ Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia.
Việc xây dựng, phát triển Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia sẽ là trụ cột dữ liệu chính để tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ số, thúc đẩy kinh tế số và hình thành xã hội số; hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và doanh nghiệp từ đó triển khai các giải pháp kết nối để chia sẻ, sử dụng lại và phát triển các mô hình/ứng dụng phân tích dữ liệu chuyên sâu để tạo ra nhiều giá trị mới, sản phẩm dịch vụ mới và động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn chuyển đổi số của Việt Nam. Việc đầu tư, nâng cấp, mở rộng, lưu trữ thông tin trong Cơ sử dữ liệu tổng hợp quốc gia sẽ tiết kiệm rất nhiều so với việc đầu tư các hệ thống riêng biệt để lưu trữ các thông tin này. Các thông tin được lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia cũng sẽ được chia sẻ phục vụ để việc khai thác chung cho các bộ, ngành, địa phương; cơ quan quản lý dữ liệu không phải thiết lập thêm các kênh kết nối, chia sẻ riêng đối với các thông tin đã được bổ sung, lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia. Việc ban hành chính sách này thuộc thẩm quyền của Quốc hội và phải được quy định, điều chỉnh trong Luật Dữ liệu.
3.1. Xác định vấn đề bất cập
Ở nước ta, qua triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, đặc biệt qua thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06) cho thấy bức tranh về hạ tầng, công nghệ, dữ liệu của Việt Nam còn nhiều hạn chế như:
(1) Một số bộ, ngành chưa có đủ hạ tầng để triển khai các hệ thống công nghệ thông tin cốt lõi phục vụ cho các công tác nghiệp vụ;
(2) Nhiều cơ sở dữ liệu được thu thập, lưu trữ trùng lặp, chồng chéo, chưa được chuẩn hóa, thống nhất về tiêu chuẩn, danh mục nên không có khả năng kế thừa, khó khăn khi kết nối, chia sẻ, khai thác dùng chung;
(3) Các trung tâm dữ liệu đầu tư thiếu đồng bộ, không đạt các tiêu chuẩn quy định, không bảo đảm mức độ an ninh, an toàn hệ thống, không thường xuyên được kiểm tra, bảo trì, nâng cấp;
(4) Một số bộ, ngành, địa phương thuê dịch vụ hạ tầng công nghệ thông tin tiềm ẩn nhiều rủi ro về an ninh an toàn thông tin do chưa thực sự quản lý, kiểm soát được dữ liệu nhà nước trên hạ tầng của doanh nghiệp;
(5) Nhân lực vận hành, quản trị các hệ thống thông tin vừa thiếu, vừa yếu;
(6) Các cơ sở dữ liệu quốc gia theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ chưa được xây dựng đầy đủ;
(7) Nhiều hệ thống thông tin còn lỗ hổng bảo mật, không đủ điều kiện kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư…
3.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Giúp Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương: (1) Tập trung nguồn lực hạ tầng, công nghệ; (2) Giải quyết vấn đề hạn chế của các hệ thống thông tin, của việc tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan; (3) Tăng cường hiệu quả, tính minh bạch trong quản lý nhà nước, hiện đại hóa quy trình quản trị quốc gia; (4) Tiết kiệm nguồn lực đầu tư của nhà nước và xã hội.
- Xây dựng, vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia là nơi lưu trữ dữ liệu, hệ thống của các cơ sở dữ liệu quốc gia, kết nối liên thông dữ liệu với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, các hệ thống thông tin trong nước và tổ chức, Chính phủ các nước để phục vụ các hoạt động trên môi trường số.
- Quy hoạch lưu trữ và thiết lập các chính sách an ninh an toàn thông tin phù hợp với đối tượng, phương thức truy cập, quyền khai thác đối với từng loại dữ liệu.
- Triển khai các công nghệ, giải pháp hiện đại và đào tạo được chuyên gia khoa học dữ liệu, đặc biệt là chuyên gia phân tích dữ liệu để thực hiện công tác phát triển, tổng hợp và khai thác, phân tích dữ liệu tổng thể, đa chiều, khách quan… Bảo đảm trên 90% các hoạt động hành chính trao đổi, cung cấp thông tin giữa các cơ quan nhà nước được thay thế bằng chia sẻ dữ liệu số của Trung tâm dữ liệu quốc gia.
- Cơ bản các hệ thống của bộ, ngành (các địa phương có nhu cầu) được quản lý, lưu trữ ở Trung tâm dữ liệu quốc gia (trừ các hệ thống phục vụ Quốc phòng, an ninh, các hệ thống đặc thù do Chính phủ quyết định).
3.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
a) Giải pháp 1: Giữ nguyên hiện trạng (không quy định xây dựng, phát triển, sử dụng chung hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia)
b) Giải pháp 2: Quy định về việc xây dựng, phát triển, sử dụng chung hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia phục vụ hoạt động quản trị cơ sở dữ liệu của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (trừ hệ thống phục vụ quốc phòng, an ninh, các hệ thống chuyên ngành đặc thù khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định) như sau:
- Quy định về đăng ký, cấp tài nguyên hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia phục vụ hoạt động quản trị cơ sở dữ liệu: Các cơ quan có thể sử dụng hạ tầng của Trung tâm dữ liệu quốc gia hoặc tự đầu tư hạ tầng theo tiêu chuẩn và đặt tại Trung tâm dữ liệu quốc gia
- Quy định về Quản trị, vận hành, sử dụng tài nguyên hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia: Trung tâm dữ liệu quốc gia quản lý và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin đối với các hệ thống thông tin đặt tại Trung tâm dữ liệu quốc gia; đồng thời phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong quá trình tích hợp, chia sẻ dữ liệu tại vùng dùng chung của Trung tâm dữ liệu quốc gia. Các bộ, ban, ngành, địa phương và tổ chức chính trị xã hội tiếp tục thực hiện việc quản lý cơ sở dữ liệu trong hệ thống của đơn vị mình, phối hợp với Trung tâm dữ liệu quốc gia bảo đảm an ninh an toàn thông tin hệ thống, bảo mật dữ liệu tại đơn vị trong quá trình đồng bộ dữ liệu với Trung tâm dữ liệu quốc gia.
- Quy định về nâng cấp, bảo trì, sửa chữa hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia: Thực hiện theo nguyên tắc cơ quan nào đầu tư thì cơ quan đó chịu trách nhiệm nâng cấp, bảo trì, sửa chữa.
- Quy định về bố trí nguồn vốn để xây dựng, phát triển, nâng cấp và ưu tiên đầu tư trang thiết bị hiện đại cho Trung tâm dữ liệu quốc gia gồm: (1) Nguồn vốn phục vụ Trung tâm dữ liệu quốc gia được lấy từ kinh phí nhà nước từ nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho các bộ, ngành và kinh phí từ trung ương dự kiến hỗ trợ ngân sách địa phương; (2) lợi nhuận từ việc cung cấp dịch vụ từ dữ liệu; (3) bổ sung quy định về việc thành lập, sử dụng Quỹ phát triển dữ liệu quốc gia.
- Quy định về việc sử dụng Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu của Trung tâm dữ liệu quốc gia phục vụ chia sẻ dữ liệu giữa Trung tâm dữ liệu quốc gia và các cơ quan, tổ chức. Nền tảng này không xung đột mà sẽ hỗ trợ và được sử dụng song song với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia.
- Quy định về lộ trình triển khai, quy định chuyển tiếp khi áp dụng: Thực hiện Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023 của Chính phủ phê duyệt Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia, Bộ Công an đang xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia số 1 tại khu công nghệ cao Hòa Lạc, thành phố Hà Nội, dự kiến sẽ hoàn thiện và đi vào sử dụng từ cuối năm 2025. Do vậy lộ trình chuyển đổi hệ thống từ các bộ, ngành về Trung tâm dữ liệu quốc gia tại Nghị quyết 175/NQ-CP và lộ trình có hiệu lực của Luật dữ liệu (01/01/2026) là khả thi và phù hợp.
- Quy định về bảo vệ dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu quốc gia (trách nhiệm của Trung tâm dữ liệu quốc gia; trách nhiệm của đơn vị chủ quản cơ sở dữ liệu đặt tại Trung tâm; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng dữ liệu).
- Quy định về bảo đảm nguồn lực hoạt động của Trung tâm dữ liệu quốc gia:
(1) Nhà nước bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất, đất đai, trụ sở, công trình cho hoạt động của Trung tâm dữ liệu quốc gia.
(2) Bảo đảm nguồn nhân lực cho các hoạt động của Trung tâm dữ liệu quốc gia, có phương án thuê chuyên gia, doanh nghiệp, bảo đảm chất lượng dịch vụ và an ninh, an toàn hệ thống. Quy định về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực và chế độ, chính sách đãi ngộ cho nguồn nhân lực chất lượng cao.
c) Giải pháp 3: Tương tự như giải pháp 2, tuy nhiên ngoài việc cung cấp hạ tầng phục vụ hoạt động quản trị cơ sở dữ liệu thì bổ sung quy định về việc bảo đảm cung cấp hạ tầng cho hoạt động quản trị hệ thống thông tin khác của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
3.4. Đánh giá tác động của giải pháp
Giải pháp 1: Giữ nguyên hiện trạng (không quy định xây dựng, phát triển, sử dụng chung hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia)
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực
- Đối với Nhà nước: Nhà nước không phát sinh chi phí sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản để điều chỉnh chính sách; Không tốn chi phí thay đổi mô hình quản trị và quản lý dữ liệu, đào tạo cán bộ để thay đổi theo mô hình mới.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không tốn chi phí đề nghiên cứu triển khai thực hiện các quy định mới.
(2) Về mặt tiêu cực
- Đối với Nhà nước: Lãng phí nguồn lực, kinh phí, ngân sách do không xây dựng tập trung hệ thống công nghệ thông tin; làm chậm quá trình chuyển đổi số quốc gia do phải đợi triển khai hạ tầng công nghệ; không triển khai thông suốt được dịch vụ công do phải đợi các cơ sở dữ liệu xây dựng, tạo lập phân tán; Khó khăn trong việc khai thác, chia sẻ dữ liệu do phải thực hiện quy trình, thủ tục và đầu tư kết nối nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau với nhiều đầu mối khác nhau.
Không phù hợp với Chiến lược dữ liệu quốc gia quy định tại Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ, Đề án xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia quy định tại Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023 của Chính phủ, Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 quy định tại Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 2568/QĐ-BTTTT ngày 29/12/2023 của Bộ Thông tin và Truyền thông về ban hành Khung kiến trúc chính phủ điện tử Việt Nam, phiên bản 3.0, hướng tới chính phủ số.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Tốn nguồn lực, chi phí khi phải kết nối, khai thác với nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau để phục vụ phát triển kinh tế số; rủi ro khi đi thuê dịch vụ trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây của các đơn vị, doanh nghiệp nước ngoài hoặc trong nước thiếu tin tưởng, gây lộ lọt dữ liệu, ảnh hưởng đến dịch vụ cung cấp.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với nhà nước: Không làm xáo trộn các chính sách hiện hành liên quan đến xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không làm thay đổi các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm liên quan đến thu thập, khai thác, sử dụng dữ liệu; Không phải thay đổi phương thức khai thác và sử dụng dữ liệu qua Trung tâm dữ liệu quốc gia.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với nhà nước: Thu thập dữ liệu nhiều lập, trùng lắp, thiếu đồng bộ, nhất quán trong việc thu thập, khai thác và sử dụng dữ liệu qua nhiều nền tảng, hệ thống, hạ tầng của các cơ quan, đơn vị khác nhau thiếu đồng bộ thống nhất; Chậm liên thông trong việc khai thác và sử dụng dữ liệu để đơn giản hóa dịch vụ công do phải kết nối nhiều đầu mối, cơ sở dữ liệu khác nhau
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Hạn chế trong việc tiếp cận các nền tảng cung cấp dịch vụ hạ tầng, Trung tâm dữ liệu cậy từ chính phủ; Phải nghiên cứu nhiều quy định, tiêu chuẩn, định dạng dữ liệu của các cơ quan, đơn vị khác nhau để kết nối, khai thác và sử dụng;
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính: Không.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực:  
- Đối với cơ quan Nhà nước: Không phải ban hành các quy định mới để điều chỉnh về chính sách lưu trữ, khai thác, sử dụng dữ liệu, quản trị, quản lý dữ liệu qua Trung tâm dữ liệu;
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không phải nghiên cứu các quy định mới về việc khai thác, sử dụng dữ liệu trong Trung tâm dữ liệu quốc gia;
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với nhà nước: Không điều chỉnh kịp thời theo xu hướng, mô hình tập trung dữ liệu; Không khắc phục được các lỗ hổng về chính sách, rào cản trong việc triển khai, xây dựng hạ tầng của các cơ sở dữ liệu phân tán.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Tiếp tục phải nghiên cứu, tìm kiếm văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến việc khai thác và sử dụng các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin.
Giải pháp 2: Quy định về việc xây dựng, phát triển, sử dụng chung hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia phục vụ hoạt động quản trị cơ sở dữ liệu của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (trừ hệ thống phục vụ quốc phòng, an ninh, các hệ thống chuyên ngành đặc thù khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định)
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực
- Đối với Nhà nước: Giảm chi phí đầu tư cho Nhà nước về hạ tầng, nguồn lực chuyển đổi số, Nhà nước tập trung đầu tư cho việc phát triển đội ngũ vận hành Hạ tầng Trung tâm dữ liệu duy nhất; Thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, hạ tầng dữ liệu do cung cấp hạ tầng nhanh chóng, ngay lập tức cho cơ quan nhà nước, doanh nghiệp an ninh, an toàn, bảo mật, tin cậy; Thúc đẩy dịch vụ công bởi việc liên thông các hệ thống, cơ sở dữ liệu đặt tại hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia đảm bảo tính ổn định, liên tục, nhanh chóng.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: được đăng ký, sử dụng dịch vụ hạ tầng trung tâm dữ liệu quốc gia, dịch vụ điện toán đám mây do Chính phủ cung cấp, giảm nguồn lực đầu tư, giảm mối lo ngạy về lộ lọt dữ liệu.
(2) Về mặt tiêu cực
- Đối với Nhà nước: Phải đào tạo, chuyển đổi nguồn nhân lực, cán bộ theo mô hình tổ chức, quản trị vận hành hạ tầng các cơ dữ liệu; chuyển đổi mô hình nghiệp vụ dịch vụ công theo hướng mới và các chi phí về phần mềm điều chỉnh có liên quan để hoạt động trên hạ tầng điện toán đám mây.
Nhà nước chưa tiết kiệm được kinh phí đối với việc bố trí hoạt động quản trị các hệ thống thông tin ngoài cơ sở dữ liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không tác động.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với nhà nước: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội qua hạ tầng tập trung, thống nhất; phục vụ phân tích, chỉ đạo điều hành của Chính phủ nhanh chóng nhờ hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thống nhất. Chính phủ tập trung công tác quản lý dữ liệu, đảm bảo an ninh, an toàn và kiểm soát được việc khai thác, sử dụng dữ liệu cụ thể đến từng đối tượng, mục đích, phạm vi trong nước hay chuyển ra nước ngoài; Bộ, ngành được cập nhật dữ liệu sớm nhất và cung cấp dịch vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Cá nhân, doanh nghiệp được thúc đẩy triển khai trên hạ tầng điện toán đám mây, tin cậy, yên tâm phát triển các dịch vụ; Các doanh nghiệp triển khai trên cùng hạ tầng trung tâm dữ liệu của Chính phủ được người dân tin cậy hơn trong việc sử dụng dịch vụ
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với nhà nước: Phải điều chỉnh phương thức quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng dữ liệu; điều chỉnh các hạng mục phục vụ kết nối, chia sẻ tại các hệ thống công nghệ thông tin hiện tại.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải nghiên cứu, tiếp cận đến các phương thức khai thác, sử dụng dữ liệu mới, hiện đại.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính: Không.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với nhà nước: Giảm thiểu việc ban hành nhiều hướng dẫn triển khai các trung tâm dữ liệu của doanh nghiệp đảm bảo an ninh, an toàn thông tin; Thống nhất về các quy định  đối với phát triển hạ tầng phục vụ lưu trữ, đồng bộ, xử lý và cập nhật dữ liệu;
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với nhà nước: Không.
          - Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
Giải pháp 3: Tương tự như giải pháp 2, tuy nhiên ngoài việc cung cấp hạ tầng phục vụ hoạt động quản trị cơ sở dữ liệu thì bổ sung quy định về việc bảo đảm cung cấp hạ tầng cho hoạt động quản trị hệ thống thông tin khác của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực
- Đối với Nhà nước: Giảm chi phí đầu tư cho Nhà nước về hạ tầng, nguồn lực chuyển đổi số, Nhà nước tập trung đầu tư cho việc phát triển đội ngũ vận hành hạ tầng Trung tâm dữ liệu duy nhất; bảo đảm thống nhất quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, cho hoạt động thu thập, lưu trữ, quản lý, khai thác, sử dụng, chia sẻ dữ liệu trong phạm vi cả nước; sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ về dữ liệu đáp ứng yêu cầu phát triển xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.
Nhà nước tiết kiệm được kinh phí đối với việc bố trí hoạt động quản trị các hệ thống thông tin ngoài cơ sở dữ liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: được đăng ký, sử dụng dịch vụ hạ tầng trung tâm dữ liệu quốc gia, dịch vụ điện toán đám mây do Chính phủ cung cấp, giảm nguồn lực đầu tư, giảm mối lo ngại về lộ lọt dữ liệu;
- Các bộ, ngành, địa phương tiết kiệm được chi phí thu thập, làm sạch dữ liệu về dân cư khi có thể khai thác, sử dụng thông tin có sẵn trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (khoảng 573 tỷ đồng thu thập dữ liệu lần đầu và chi phí rà soát làm sạch dữ liệu (70.000 người x 180 ngày lao động/01 năm x 2 năm x 200.000đ/ngày = 5040 tỷ đồng).
- Chi phí xây dựng hạ tầng một cơ sở dữ liệu, cụ thể như cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai với chi phí xây dựng, hoàn thiện hạ tầng khoảng 173 tỷ đồng tại Trung ương, khoảng 3.360 tỷ đồng tại các địa phương (Theo trang thông tin điện tử Bộ Tài nguyên và Môi trường).
Hiện tại một số đơn vị đã có hệ thống nhưng đang đi thuê chỗ đặt hạ tầng của các doanh nghiệp, tập đoàn, cụ thể:
-      Hệ thống của Bảo hiểm xã hội: 40 tủ rack (tương đương 19,2 tỷ/1 năm)
-      Tổng Cục thuế: 79 tủ rack (tương đương 32,4 tỷ/ 1 năm) (DR 40 tủ rack)
-      Kho Bạc nhà nước: 34 tủ rack đang đặt tại Cát Linh; DR 30 tủ.
-      Tổng cục Hải quan, Dự trữ quốc gia có quy mô bằng 50% Tổng Cục thuế với tổng 45 tỷ/ năm (15 tỷ/1 đơn vị).
(Tạm tính tổng các đơn vị có khoảng 270 tủ rack với chi phí tổng khoảng 96,6 tỷ/năm).
Hiện tại các Tập đoàn đang cho thuê với mức giá trung bình khoảng 30 - 42 triệu/1 tháng cho 01 rack (với lợi nhuận thực tế khoảng 10-15%), trong đó bao gồm các hạng mục tiền điện 45%, khấu hao 25%, thuê nhà và đường truyền 18%, bảo trì 5%, chi phí vận hành 7%.
Trong trường hợp chuyển về đặt tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, ngoài việc được đảm bảo an ninh, an toàn ở mức cao nhất, nhà nước có thể giảm khoảng 20% tổng chi phí do giảm thiểu các chi phí liên quan đến thuê nhà, chi phí vận hành do mức lương nhà nước thấp hơn so với thị trường, lợi nhuận kinh doanh. Như vậy, dự kiến tổng chi phí nhà nước cấp cho Trung tâm dữ liệu quốc gia phục vụ quản trị vận hành hạ tầng vỏ trạm cho mỗi tủ rack khoảng 32 triệu/1 tháng (với quy mô 270 tủ rack tương đương 104 tỷ/ 1 năm – tiết kiệm được 26 tỷ/1 năm).
(2) Về mặt tiêu cực
- Đối với Nhà nước: Phải phát triển nguồn nhân lực theo mô hình tổ chức, quản trị vận hành hạ tầng các cơ sở dữ liệu; chuyển đổi mô hình nghiệp vụ dịch vụ công theo hướng mới và các chi phí về phần mềm điều chỉnh có liên quan để hoạt động trên hạ tầng điện toán đám mây.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
          b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với nhà nước: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội qua hạ tầng tập trung, thống nhất; phục vụ phân tích, chỉ đạo điều hành của Chính phủ nhanh chóng nhờ hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thống nhất; thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, hạ tầng dữ liệu do cung cấp hạ tầng nhanh chóng, ngay lập tức cho cơ quan nhà nước, doanh nghiệp an ninh, an toàn, bảo mật, tin cậy; thúc đẩy dịch vụ công bởi việc liên thông các hệ thống, cơ sở dữ liệu đặt tại hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia đảm bảo tính ổn định, liên tục, nhanh chóng;
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Cá nhân, doanh nghiệp được thúc đẩy triển khai trên hạ tầng điện toán đám mây, tin cậy, yên tâm phát triển các dịch vụ; các doanh nghiệp triển khai trên cùng hạ tầng trung tâm dữ liệu của Chính phủ được người dân tin cậy hơn trong việc sử dụng dịch vụ.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với nhà nước: Làm thay đổi các chính sách hiện hành liên quan đến xây dựng, thu thập, quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng dữ liệu;
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính: Không.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với nhà nước: Giảm thiểu việc ban hành nhiều hướng dẫn triển khai các trung tâm dữ liệu của doanh nghiệp đảm bảo an ninh, an toàn thông tin; Thống nhất về các quy định đối với phát triển hạ tầng phục vụ lưu trữ, đồng bộ, xử lý và cập nhật dữ liệu;
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải nghiên cứu, tiếp cận đến các phương thức khai thác, sử dụng dữ liệu mới, hiện đại.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với nhà nước: Không.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
3.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn:
Bộ Công an kiến nghị lựa chọn giải pháp 3 để bảo đảm thực hiện đúng định hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại các văn bản Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30/10/2023; Chiến lược dữ liệu quốc gia quy định tại Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ, Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 quy định tại Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 2568/QĐ-BTTTT ngày 29/12/2023 của Bộ Thông tin và Truyền thông về ban hành khung kiến trúc chính phủ điện tử Việt Nam, phiên bản 3.0, hướng tới chính phủ số.
4. Chính sách 4: Quy định về các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu
4.1. Xác định vấn đề bất cập
Dữ liệu là nguồn tài nguyên mới, là huyết mạch của các cơ quan, tổ chức hiện nay, nó được tạo lập từ nhiều nguồn khác nhau để mở ra không gian hoạt động và phát triển kinh tế - xã hội cho các quốc gia. Ở nước ta, những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ công cuộc chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Theo đó, bước đầu khởi tạo và hình thành được 07 cơ sở dữ liệu quốc gia; một số cơ sở dữ liệu quốc gia đã có sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu góp phần cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân; các trung tâm dữ liệu bước đầu được quan tâm đầu tư, xây dựng hạ tầng công nghệ... Tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa có quy định về các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; nhất là việc khai thác, ứng dụng dữ liệu trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi đó, việc thiết lập thị trường dữ liệu, xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu hiện nay lại có vai trò rất quan trọng, nó được xem là yếu tố đột phá để từng bước tạo lập và thúc đẩy mở thị trường dữ liệu, lấy thị trường dữ liệu làm động lực phát triển dữ liệu và kích thích, thúc đẩy chuyển đổi số các ngành, các lĩnh vực, tăng năng lực cạnh tranh, bảo đảm cho tiến trình chuyển đổi số ở nước ta.
Theo Chiến lược dữ liệu quốc gia quy định tại Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ thì sẽ giao Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì việc xây dựng các sàn giao dịch dữ liệu. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch dữ liệu tiềm ẩn nhiều nguy cơ, tác động lớn đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần thiết phải quy phạm hóa việc xây dựng, quản lý sàn giao dịch dữ liệu và quy định tại Luật này để thực hiện quản lý bảo đảm chặt chẽ, thống nhất. Đồng thời, Bộ Công an sẽ là cơ quan thực hiện cấp phép và quản lý đối với các sàn dữ liệu. Việc triển khai sàn giao dịch dữ liệu được thực hiện bởi các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ quan quản lý nhà nước.
Qua rà soát, Bộ Công an thấy rằng hiện nay một số luật quy định liên quan đến dịch vụ dữ liệu như: Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Viễn thông. Tuy nhiên, để quản lý nhà nước đối với các dịch vụ dữ liệu được thống nhất, bảo đảm an ninh, an toàn thì việc bổ sung quy địnhvề các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu tại Luật này là cần thiết, phù hợp với thực tiễn và không xung đột với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
4.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Quy định về các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu tạo cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện đồng bộ, thống nhất từ đó thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, xã hội tham gia thu thập, xây dựng, phát triển, khai thác, sử dụng, làm giàu dữ liệu và dẫn dắt, định hướng phát triển, quản lý các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, đồng thời tạo cơ hội cho tổ chức, doanh nghiệp được tiếp cận các hỗ trợ của Nhà nước và người dân có nhiều cơ hội tiếp cận, lựa chọn, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu.
4.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Không quy định chính sách này và áp dụng theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dữ liệu.
Giải pháp 2: Quy định về các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu (chỉ quy định các sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia)
Cụ thể là:
(1) Trung tâm dữ liệu quốc gia sử dụng nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu để cung cấp các dịch vụ:
- Xác thực điện tử đối với dữ liệu không gắn với chủ thể danh tính điện tử.
- Sản phẩm, dịch vụ phân tích và tổng hợp dữ liệu.
- Sản phẩm, dịch vụ trung gian dữ liệu.
- Sàn giao dịch dữ liệu (áp dụng đối với dữ liệu phi cá nhân; dữ liệu cá nhân khi được chủ thể dữ liệu đồng ý; đối với dữ liệu đã lên sàn thì không phải thủ tục đánh giá tác động chuyển dữ liệu cá nhân ra nước ngoài theo quy định của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân; các dữ liệu không tác động đến an ninh – quốc phòng, bí mật nhà nước).
(2) Quản lý đối với tổ chức cung cấp sản phẩm, dịch vụ trung gian dữ liệu (giữa Trung tâm dữ liệu quốc gia đối với chủ thể sử dụng dữ liệu).
Giải pháp 3: Tương tự như giải pháp 2 nhưng mở rộng hơn, quy định đối với việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ dựa trên cơ sở dữ liệu do cơ quan nhà nước tạo lập và cơ sở dữ liệu do tổ chức, cá nhân khác tạo lập
Cụ thể là:
(1) Trung tâm dữ liệu quốc gia (đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp thuộc Trung tâm) sử dụng nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu để cung cấp các dịch vụ:
- Xác thực điện tử đối với dữ liệu không gắn với chủ thể danh tính điện tử.
- Sản phẩm, dịch vụ phân tích và tổng hợp dữ liệu.
- Sản phẩm, dịch vụ trung gian dữ liệu.
- Sàn giao dịch dữ liệu.
(2) Quản lý đối với tổ chức cung cấp sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu.
4.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan.
Giải pháp 1: Không quy định chính sách này và áp dụng theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dữ liệu.
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Không phát sinh chi phí của Nhà nước để nghiên cứu, xây dựng, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Không thu được lợi ích kinh tế từ phát triển ứng dụng dữ liệu và không phù hợp với Chiến lược dữ liệu quốc gia quy định tại Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Không triển khai được các dịch vụ và hưởng lợi từ sản phẩm dịch vụ về dữ liệu tiên tiến, thiếu động lực nghiên cứu, sáng tạo, phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu.
Một nghiên cứu điển hình chứng minh lợi ích tài chính của một công ty tận dụng chiến lược dữ liệu quốc gia là Giao thông Vận tải Luân Đôn (TfL). Cách tiếp cận của TfL trong việc mở các bộ dữ liệu của mình cho khách du lịch và các nhà cung cấp bên thứ ba đã tác động đáng kể đến nền kinh tế của London, đóng góp ước tính khoảng 130 triệu bảng Anh hàng năm thông qua việc tiết kiệm thời gian cho khách du lịch.
Hơn nữa, trong lĩnh vực xây dựng, việc áp dụng các phương pháp chia sẻ dữ liệu, đặc biệt là dưới dạng Mô hình thông tin công trình (BIM), đã giúp tiết kiệm chi phí lên tới 30%.
Ngoài ra, một báo cáo của McKinsey & Co. vào năm 2019 cho thấy tỷ lệ lớn hơn các công ty tăng trưởng nhanh trên toàn thế giới sử dụng các phương pháp dựa trên dữ liệu so với các công ty tăng trưởng chậm hơn. Nhấn mạnh mối quan hệ giữa việc ra quyết định dựa trên dữ liệu và tăng trưởng kinh doanh, đồng thời nêu bật hơn nữa những lợi ích tài chính mà các công ty có thể nhận ra thông qua việc áp dụng các chiến lược dữ liệu. (Theo www.gov.uk)
- Đối với cá nhân: Không có nhiều cơ hội để tiếp cận, hưởng lợi từ các sản phẩm, dịch vụ dữ liệu mới, tiên tiến; nhất là trong việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ dữ liệu để giải quyết thủ tục hành chính, giao dịch kinh tế, dân sự.
Trong 3 năm từ 2020 - 2022, các tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước đã thực hiện hơn 22 triệu việc công chứng (trong đó có gần 21 triệu việc công chứng hợp đồng, giao dịch và hơn 1 triệu việc công chứng bản dịch); tổng số phí công chứng, chứng thực các loại giấy tờ của người dân thu được là hơn 9.100 tỷ đồng; tổng số thù lao công chứng phải chi trả là hơn 1.200 tỷ đồng; trong đó mức thu phí chứng thực bản sao từ bản chính là 2.000 đồng/trang đối với đơn vị thực hiện chứng thực thuộc cơ quan nhà nước và từ 5.000đ đến 10.000 đồng/trang đối với đơn vị công chứng tư nhân thực hiện.
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Không làm xáo trộn các chính sách hiện hành liên quan dịch vụ dữ liệu và không làm thay đổi thói quen, cách thức giải quyết các thủ tục hành chính; cách thức khai thác, cung cấp dữ liệu của cơ quan Nhà nước.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không làm thay đổi cách thức tiếp cận, khai thác, sử dụng, cung cấp thông tin, dữ liệu của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Nhà nước không thể hiện được vai trò trong việc định hướng, hoạch định chính sách phát triển và quản lý việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; khó khăn trong việc áp dụng các cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển và quản lý các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Tổ chức, doanh nghiệp có sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu không có điều kiện tiếp cận các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, kiềm chế khả năng sáng tạo và năng lực phát triển, làm giảm hiệu quả kinh tế.
- Đối với cá nhân: Không được tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, hạn chế trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch kinh tế, dân sự.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính:
(1) Về mặt tích cực: Không làm thay đổi quy định về thủ tục hành chính thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước hiện hành.
(2) Về mặt tiêu cực: Không cải thiện, giúp đơn giản hóa giấy tờ, thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, không thúc đẩy việc thực hiện liên thông các thủ tục hành chính, làm chậm quá trình chuyển đổi số.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực: Không làm thay đổi hệ thống pháp luật hiện hành có quy định về dữ liệu.
 (2) Về mặt tiêu cực: Không bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phải xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau quy định về dữ liệu quốc gia, dữ liệu chuyên ngành.
Giải pháp 2: Quy định cụ thể về các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu (chỉ quy định các sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia)
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Giảm chi phí giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; giảm chi phí vận hành đầu tư, thu được lợi ích kinh tế từ việc kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, phát huy hiệu quả dữ liệu tạo lập được, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Được sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; giảm chi phí trong thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự, được tiếp cận với nguồn dữ liệu chính thống từ cơ quan nhà nước để tối ưu các quy trình sản xuất, kinh doanh; các công ty công nghệ có nhiều cơ hội để khai phá dữ liệu tạo ra những công trình, sản phẩm có giá trị mới, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
- Đối với cá nhân: Người dân được tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; tiết giảm được các chi phí trong việc đề nghị cơ quan, tổ chức cấp, trích lục, chứng thực các loại giấy tờ của bản thân…; giảm chi phí trong giải quyết thủ tục hành chính như chi phí bưu chính, kê khai nhiều loại giấy tờ khác nhau...; các nhà khoa học có điều kiện tiếp cận nguồn dữ liệu để tạo ra các tri thức mới, công trình khoa học.
Qua triển khai thử nghiệm việc cung cấp dịch vụ chấm điểm tín dụng, trong đó công ty tài chính TNHH MB Shinei thử nghiệm 10.000 dữ liệu công dân; Ngân hàng PVcomBank thử nghiệm 20.000 dữ liệu công dân; Công ty Datanest thử nghiệm 60.000 dữ liệu công dân. Kết quả giảm tỷ lệ rủi ro khi cho vay vốn và cho vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng từ 7-20%. Sau khi thử nghiệm các ngân hàng đều có mong muốn được triển khai chính thức trên quy trình cho vay của ngân hàng.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Phát phát sinh chi phí của Nhà nước để nghiên cứu, xây dựng, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật, tăng chi phí nâng cấp hệ thống để đảm bảo an ninh, an toàn dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Không.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Thể hiện được vai trò của Nhà nước trong việc dẫn dắt, định hướng phát triển và quản lý các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; có thể áp dụng cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các dịch vụ liên quan đến dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Tổ chức, doanh nghiệp có dịch vụ liên quan đến dữ liệu được tiếp cận các hỗ trợ của Nhà nước, tạo động lực nghiên cứu, sáng tạo, phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, gia tăng hiệu quả kinh tế.
- Đối với cá nhân: Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận, lựa chọn, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; thuận lợi hơn trong thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự hay các hoạt động khác cần phải chứng minh thông tin cá nhân.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Làm thay đổi thói quen, cách thức quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng dữ liệu phục vụ giải quyết các thủ tục hành chính và các hoạt động quản lý nhà nước khác.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Làm thay đổi thói quen, cách thức trong khai thác, sử dụng dữ liệu phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và giao dịch dân sự.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính:
(1) Về mặt tích cực: Tạo thêm các phương thức mới, hiện đại trong việc tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bảo đảm quá trình giải quyết thủ tục hành chính được thuận lợi.
(2) Về mặt tiêu cực: Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục hành chính trong việc cấp giấy phép kinh doanh để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ dữ liệu.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực: Tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật liên quan đến dữ liệu.
 (2) Về mặt tiêu cực: Không.
Giải pháp 3: Tương tự như giải pháp 2 nhưng mở rộng hơn, quy định đối với việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ dựa trên cơ sở dữ liệu do cơ quan nhà nước tạo lập và cơ sở dữ liệu do tổ chức, cá nhân khác tạo lập
a) Tác động về kinh tế
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Giảm chi phí giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu. Giúp tái sử dụng những dữ liệu đã có; từ đó, giúp nhà nước tiết kiệm chi phí, không mất chi phí để thu thập hoặc yêu cầu người dân cung cấp các thông tin đã có trong các cơ sở dữ liệu.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, dễ dàng chuyển đổi dữ liệu; giảm chi phí trong thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự. Việc tìm kiếm dữ liệu cần thiết sẽ được thực hiện nhanh chóng, từ đó có cái nhìn đa chiều để đánh giá và lựa chọn dữ liệu phù hợp.
- Đối với cá nhân: Người dân được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; được tìm kiếm dữ liệu của bản thân và các thông tin cần thiết khác một cách nhanh chóng với nhiều hình thức đa dạng, đầy đủ ở nhiều lĩnh vực; tiết giảm được các chi phí trong việc đề nghị cơ quan, tổ chức cấp trích lục, chứng thực các loại giấy tờ của bản thân…; giảm chi phí trong thực hiện thủ tục hành chính như chi phí bưu chính, kê khai nhiều loại giấy tờ khác nhau.
Ví dụ như: Đối với lĩnh vực Ngân hàng đã ứng dụng dữ liệu về dân cư phục vụ xác thực cho ngành ngân hàng, thu phí 67 tỷ đồng, giúp ngành ngân hàng kiểm soát, đánh giá rủi ro trong quá trình cung cấp dịch vụ, xác thực chính xác chủ thể tham gia giao dịch ngân hàng. Phối hợp với các đơn vị hoàn thiện giải pháp chấm điểm tín dụng công dân, giúp ngành ngân hàng đánh giá hạn chế rủi ro trong quá trình cho vay tín chấp, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, giảm thời gian, quy trình xác minh, đẩy nhanh quá trình giải ngân. Người dân có nhu cầu vay vốn dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn chính thống, qua đó, giảm rủi ro phải vay “tín dụng đen”.
Đối với lĩnh vực Viễn thông đã ứng dụng dữ liệu về dân cư phục vụ xác thực dữ liệu thông tin thuê bao di động cho 03 nhà mạng viễn thông (Vinaphone, Viettel, Mobifone) với 102 triệu yêu cầu xác thực theo hình thức trực tuyến; 05 nhà mạng viễn thông (ASIM, ITEL, Vietnamobile, Gtel Mobile, Mobicast) theo hình thức offline với 311,656,000 yêu cầu xác thực. Góp phần chuẩn hóa thông tin thuê bao di động phục vụ công tác quản lý nhà nước, giảm rủi ro khi mở đăng ký, mở tài khoản ngân hàng, ví điện tử, đăng ký thực hiện các dịch vụ công. Loại bỏ dần tình trạng “sim rác”, tội phạm lừa đảo, đe dọa, vu khống.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Nhà nước phát phát sinh chi phí để nghiên cứu, xây dựng, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Phải điều chỉnh nền tảng, hạ tầng công nghệ theo quy định chung; phát sinh chi phí để triển khai, thực hiện, áp dụng các quy định pháp luật mới.
b) Tác động về xã hội
(1) Về mặt tích cực:
- Đối với cơ quan Nhà nước: Thể hiện được vai trò của Nhà nước trong việc dẫn dắt, định hướng phát triển và quản lý các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; có thể áp dụng cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, phục vụ công cuộc chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Tổ chức, doanh nghiệp có sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu được tiếp cận các hỗ trợ của Nhà nước, tạo động lực nghiên cứu, sáng tạo, đầu tư, phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, gia tăng hiệu quả kinh tế thông qua dữ liệu. Tổ chức, doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu để hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Đối với cá nhân: Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận, lựa chọn, sử dụng các dịch vụ liên quan đến dữ liệu; được cung cấp thông tin, dữ liệu đa chiều, nhanh chóng, được lựa chọn loại sản phẩm, dịch vụ theo nhu cầu và tình hình thực tế; thuận lợi trong thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự hay các hoạt động khác cần phải chứng minh thông tin cá nhân.
(2) Về mặt tiêu cực:
- Đối với Nhà nước: Làm thay đổi thói quen, cách thức quản lý, vận hành, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng dữ liệu phục vụ giải quyết các thủ tục hành chính và các hoạt động quản lý nhà nước khác.
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân: Làm thay đổi thói quen, cách thức trong khai thác, sử dụng dữ liệu phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và giao dịch dân sự.
c) Tác động về giới:
Chính sách không ảnh hưởng đến cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện và thụ hưởng các quyền, lợi ích của mỗi giới do chính sách được áp dụng chung, không có sự phân biệt về giới.
d) Tác động về thủ tục hành chính:
(1) Về mặt tích cực: Tạo thêm các phương thức mới, hiện đại trong việc tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bảo đảm quá trình giải quyết thủ tục hành chính được thuận lợi.
(2) Về mặt tiêu cực: Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục hành chính trong việc cấp giấy phép kinh doanh để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ dữ liệu.
đ) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
(1) Về mặt tích cực: Tạo hành lang pháp lý, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật liên quan đến dữ liệu.
 (2) Về mặt tiêu cực: Không.
4.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Bộ Công an kiến nghị lựa chọn giải pháp 3 để tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện đồng bộ, thống nhất; thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc dẫn dắt, định hướng phát triển và quản lý các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu; bảo đảm mục tiêu quản lý xã hội, chỉ đạo điều hành, cung cấp dịch vụ công và tiện ích cho người; tạo cơ hội cho tổ chức, doanh nghiệp được tiếp cận được các hỗ trợ của Nhà nước, tạo động lực nghiên cứu, sáng tạo, đầu tư, phát triển các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu, gia tăng hiệu quả kinh tế thông qua dữ liệu; người dân có nhiều cơ hội tiếp cận, lựa chọn, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến dữ liệu một cách toàn diện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và công dân số.
III. Ý KIẾN THAM VẤN
Bộ Công an đã gửi dự thảo Báo cáo đánh giá tác động và hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Dữ liệu để lấy ý kiến tham gia của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Công an các đơn vị, địa phương. Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động cũng đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an để lấy ý kiến tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định.
Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến tham gia, Bộ Công an đã nghiên cứu, tiếp thu, giải trình ý kiến tham gia và chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của chính sách theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành có liên quan.
IV. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
1. Việc tổ chức thi hành Luật Dữ liệu liên quan trực tiếp đến các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Do đó, trách nhiệm thi hành luật là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan; trong đó, trách nhiệm chính là của Chính phủ với vai trò là cơ quan hành pháp có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật và cơ quan đầu mối giúp Chính phủ tổ chức thi hành Luật Dữ liệu là Bộ Công an.
2. Giám sát, đánh giá việc thực hiện Luật Dữ liệu thuộc trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể giám sát việc triển khai thi hành Luật.
Trên đây là nội dung Báo cáo đánh giá tác động của chính sách đề nghị xây dựng Luật Dữ liệu./.
2.-bao-cao-danh-gia-tac-dong-chinh-sach-luat-du-lieu-1.doc
Không tìm thấy ý kiến nào