Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Cùng dự có: Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao Nguyễn Huy Tiến; Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao Nguyễn Quang Dũng; Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quốc Hùng; Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng; đại diện các cơ quan Tòa án Nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ban Nội chính Trung ương, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Toàn cảnh phiên họp

Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về 4 dự án luật gồm Luật Dẫn độ, Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, Luật Tương trợ tư pháp về hình sự và Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. Thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo (Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp) và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) để chỉnh lý các dự thảo luật; sau đó tiếp tục gửi xin ý kiến các cơ quan tư pháp Trung ương và các cơ quan hữu quan và tiếp thu, hoàn chỉnh theo ý kiến góp ý của các cơ quan. Các dự thảo luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý cùng dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và hồ sơ kèm theo đã được gửi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ phải được tiến hành thận trọng, đúng quy định pháp luật

Đề cập về giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định dẫn độ hoặc quyết định từ chối dẫn độ (khoản 4 Điều 30) trong Luật Dẫn độ, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho biết, dự thảo Luật do Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9 quy định: “Việc giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định dẫn độ hoặc quyết định từ chối dẫn độ được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 370 và 397 Bộ luật Tố tụng hình sự” (khoản 4 Điều 30). Một số ý kiến ĐBQH đề nghị không quy định thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định dẫn độ hoặc quyết định từ chối dẫn độ vì không cần thiết.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp

Về vấn đề trên, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho biết, hoạt động dẫn độ liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm quyền con người, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quan hệ hợp tác tư pháp quốc tế, thể hiện quyền tài phán và chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Do đó, việc quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ phải được tiến hành thận trọng, đúng quy định pháp luật và đặt dưới cơ chế kiểm soát tư pháp chặt chẽ thông qua các thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu có) nhằm phòng tránh oan, sai và không bỏ lọt tội phạm, đồng thời thể hiện thiện chí của Việt Nam trong hoạt động hợp tác tư pháp quốc tế. Quyết định dẫn độ và quyết định từ chối dẫn độ của Tòa án thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 370, Điều 397 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trên thực tiễn đã có trường hợp phải áp dụng thủ tục tái thẩm với quyết định từ chối dẫn độ do sau khi có quyết định, cơ quan chức năng mới phát hiện tình tiết mới quan trọng.

So với Luật Tương trợ tư pháp hiện hành, dự thảo Luật chuyển thẩm quyền xem xét yêu cầu dẫn độ từ một Hội đồng gồm 03 thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp tỉnh sang cho 01 thẩm phán của Tòa án nhân dân khu vực nên trước mắt có thể ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của việc xem xét yêu cầu dẫn độ. Do đó, việc quy định thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ sẽ giúp khắc phục các sai sót, vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc xử lý những tình tiết mới phát sinh sau khi quyết định đã có hiệu lực.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng, từ những căn cứ nêu trên, Thường trực Ủy ban đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho giữ quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định dẫn độ hoặc quyết định từ chối dẫn độ như Chính phủ trình. Đồng thời, để bảo đảm tính khả thi và hiệu lực thực tế của quyết định tư pháp, Điều 30 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng áp dụng thủ tục này theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, trừ trường hợp người được yêu cầu dẫn độ đã được dẫn độ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam; việc quy định chi tiết giao cho Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện.

Về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ chính thức (Điều 33), một số ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung trình tự, thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp để dẫn độ trong trường hợp chưa có yêu cầu dẫn độ chính thức. Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp nhận thấy, Điều 506a của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2025 đã quy định việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật về dẫn độ.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Các lãnh đạo Quốc hội tham dự phiên họp

Tiếp thu ý kiến ĐBQH và căn cứ quy định tại Điều 506a của Bộ luật Tố tụng hình sự, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp và Bộ Công an thống nhất đề nghị chỉnh lý Điều 33 của dự thảo Luật theo hướng quy định về thủ tục và điều kiện giữ người trong cả 02 trường hợp (Việt Nam và nước ngoài là thành viên của điều ước quốc tế; Việt Nam và nước ngoài không cùng là thành viên của điều ước quốc tế về dẫn độ); về thời hạn giữ người trong trường hợp khẩn cấp (không quá 45 ngày) tại cơ sở lưu trú cho người nước ngoài chờ xuất cảnh. Ngoài ra, dự thảo Luật cũng được chỉnh lý, bổ sung các điểm h, k, l và m khoản 3 Điều 33 để làm rõ trách nhiệm của nước yêu cầu dẫn độ và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.

Chuyển đổi hình phạt tù phải căn cứ vào các tình tiết của vụ án được nêu trong bản án

Đối với kinh phí chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù (Điều 11) của dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, một số ý kiến ĐBQH đề nghị quy định cụ thể, rõ hơn việc tự nguyện đóng góp, hỗ trợ và việc quản lý, sử dụng nguồn kinh phí này; đồng thời, giao Bộ Công an quản lý, sử dụng nguồn kinh phí, giao Chính phủ quy định việc quản lý, sử dụng cụ thể.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và khách mời tham dự phiên họp

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho biết, Thường trực Ủy ban nhận thấy, ý kiến ĐBQH là có cơ sở, phù hợp với thực tiễn vì mặc dù khoản kinh phí do người đang chấp hành án phạt tù, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tự nguyện đóng góp chỉ được sử dụng chi trả cho cá nhân người đang chấp hành án phạt tù trong quá trình di chuyển từ nước chuyển giao về nước nhận nhưng cần phân định rõ hơn để tránh việc trùng nội dung chi từ ngân sách, bảo đảm công khai, minh bạch. Tuy nhiên, do đây là nội dung cụ thể; mức hỗ trợ, đóng góp tự nguyện cũng khác nhau nên để bảo đảm tính ổn định của Luật, phù hợp với thực tiễn, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp và Cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.

Về chuyển đổi hình phạt tù (Điều 23), một số ý kiến ĐBQH đề nghị rà soát, chỉnh lý quy định cụ thể, chi tiết hơn việc chuyển đổi hình phạt tù, đồng thời, bổ sung nội dung giao quy định chi tiết Điều này. Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp và Cơ quan chủ trì soạn thảo xin tiếp thu một phần ý kiến của ĐBQH, bỏ quy định “không chuyển đổi hình phạt tù thành các hình phạt khác” tại khoản 3. Bên cạnh đó, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp nhận thấy, chuyển đổi hình phạt tù là vấn đề lớn, phức tạp, phải căn cứ vào các tình tiết của vụ án được nêu trong bản án, quyết định đã được nước chuyển giao tuyên để chuyển đổi phù hợp với chính sách hình sự và quy định của pháp luật Việt Nam, trong khi chính sách hình sự của Việt Nam và các nước có nhiều điểm khác biệt.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Đại diện các Bộ ngành và đơn vị hữu quan tham dự phiên họp

Do đó, để bảo đảm tính ổn định, khả thi của Luật, thuận lợi khi áp dụng, phù hợp với thực tiễn và sự đa dạng của pháp luật các nước trên thế giới cũng như yêu cầu đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp và Cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất đề nghị không bổ sung các quy định chi tiết về nội dung này tại dự thảo Luật; đồng thời, bổ sung khoản 5 giao “Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều này”.

Giao Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao thống nhất quản lý hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong phạm vi cả nước là phù hợp

Đề cập về việc Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự của dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, có ý kiến ĐBQH đề nghị quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh, hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự là việc các quốc gia (thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong việc giải quyết vụ án hình sự. Do đó, dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự giao Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao thống nhất quản lý hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong phạm vi cả nước là phù hợp với vị trí, trách nhiệm của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao với tư cách là Cơ quan trung ương trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự và được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong các giai đoạn tố tụng. Đồng thời, để phù hợp với trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động quản lý Nhà nước, dự thảo Luật đã tiếp thu một phần ý kiến nêu trên và bổ sung vào Điều 18 theo hướng: Chính phủ chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự; phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thực hiện quản lý hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự; Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về công tác tương trợ tư pháp về hình sự trong báo cáo công tác hàng năm... Cách quy định này cũng tương tự như quy định tại Điều 64 của Luật Kiểm toán nhà nước về trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động kiểm toán nhà nước.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 4 dự án Luật trong lĩnh vực tương trợ tư pháp

Đại diện các Bộ ngành và đơn vị hữu quan tham dự phiên họp

Về từ chối, hoãn thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự (Điều 28), có ý kiến ĐBQH đề nghị cân nhắc không quy định bắt buộc phải từ chối tương trợ tư pháp về hình sự trong trường hợp “yêu cầu tương trợ tư pháp đối với tội phạm có liên quan đến chính trị hoặc quân sự”.

Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho biết, tuy một số hiệp định song phương về tương trợ tư pháp mới được ký kết giữa Việt Nam và các nước thời gian gần đây có quy định vấn đề này, song đây là thỏa thuận riêng của hai nước, xuất phát từ đặc điểm cụ thể của các bên tham gia ký kết. Do đó, để bảo đảm sự linh hoạt cho quá trình đàm phán, ký kết các hiệp định thời gian tới phù hợp với đặc điểm của tương trợ tư pháp về hình sự, đồng thời tránh tạo ra xung đột pháp luật hoặc tạo ra cách hiểu khác nhau đối với các quy định của pháp luật có liên quan, đặc biệt là Bộ luật Hình sự, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp và Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao thống nhất đề nghị tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật (điểm c khoản 2 Điều 28) theo hướng quy định đây là trường hợp có thể bị từ chối tương trợ tư pháp về hình sự thay cho quy định bắt buộc phải từ chối như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9.

Quy định tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và các nước có chung đường biên giới là cần thiết

Đối với quy định miễn hợp pháp hóa lãnh sự (Điều 8) của dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, dự thảo Luật do Chính phủ trình tại Kỳ họp thứ 9 quy định hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp của nước ngoài được miễn hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác hoặc theo yêu cầu của nước được yêu cầu. Một số ý kiến ĐBQH đề nghị quy định hồ sơ và kết quả tương trợ tư pháp về dân sự được miễn hợp pháp hóa lãnh sự nếu được ký, đóng dấu bởi cơ quan, người có thẩm quyền của nước ngoài. Cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị chỉnh lý theo hướng hồ sơ yêu cầu và kết quả tương trợ tư pháp về dân sự được miễn hợp pháp hóa lãnh sự nếu được gửi bởi cơ quan, người có thẩm quyền, trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng, Thường trực Ủy ban nhận thấy, quy định như dự thảo Luật do Chính phủ trình và phương án chỉnh lý theo đề xuất của Cơ quan chủ trì soạn thảo là chưa chặt chẽ, vì Nghị định số 111/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định hợp pháp hóa lãnh sự là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên giấy tờ, tài liệu của nước ngoài. Hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự có thể gồm nhiều loại tài liệu, trong đó có tài liệu không phải do cơ quan nhà nước lập, cấp nhưng văn bản yêu cầu phải do cơ quan, người có thẩm quyền của nước ngoài ký, đóng dấu. Do đó, tiếp thu ý kiến xác đáng của ĐBQH, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đề nghị chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng hồ sơ yêu cầu và kết quả tương trợ tư pháp về dân sự được miễn hợp pháp hóa lãnh sự khi được ký, đóng dấu bởi cơ quan, người có thẩm quyền của nước ngoài để cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có căn cứ pháp lý thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài hoặc công nhận để xem xét, sử dụng kết quả tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài. Quy định nêu trên cũng đồng bộ, thống nhất với quy định về miễn hợp pháp hóa lãnh sự tại các dự thảo Luật khác được tách ra từ Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.

Về thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam với các nước có chung đường biên giới (Điều 14), có ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung quy định tương trợ tư pháp về dân sự giữa các tỉnh của Việt Nam với các địa phương của quốc gia khác có chung đường biên giới với Việt Nam.

Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho biết, việc quy định tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và các nước có chung đường biên giới là cần thiết, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền của các nước giải quyết nhanh vụ việc dân sự, phá sản, thi hành án dân sự, tránh dồn việc lên Cơ quan trung ương về tương trợ tư pháp về dân sự của mỗi nước. Hiện nay, Nhà nước ta đã ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với cả 3 nước có chung đường biên giới, trong đó Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào có quy định nội dung tương trợ tư pháp về dân sự giữa cơ quan tư pháp của các tỉnh giáp biên giới hai nước. Do đó, tiếp thu ý kiến xác đáng của ĐBQH, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp thống nhất với Cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và bổ sung 01 điều luật mới (Điều 14) quy định về nội dung này.

Bích Lan - Hà Thu - Cao Hoàng - Thế Anh/Cổng thông tin điện tử Quốc hội