Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em phù hợp với tình hình mới
- 23/07/2015
Để chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, ngày 22-7, tại Hà Nội, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (UB VHGDTTN và NĐ) phối hợp Quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc tại Việt Nam (UNICEF) tổ chức Hội nghị tham vấn chuyên gia về “Dự án Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em”.
Đại diện nhiều bộ, ngành và các tổ chức bảo vệ trẻ em, tổ chức phi chính phủ dự và đóng góp nhiều ý kiến quan trọng, làm rõ những vấn đề mới trong việc thực hiện quyền trẻ em và trao quyền cho trẻ em. Hệ thống luật pháp về trẻ em của Việt Nam bộc lộ những điểm không còn phù hợp với thực tiễn, có những nội dung cần điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, nhằm xây dựng hành lang pháp lý bảo vệ, chăm sóc trẻ em vững vàng, tiên tiến và phù hợp hơn.
Theo thông tin từ các bộ, ngành, trong 10 năm qua, lực lượng công an đã phát hiện 11.182 vụ trẻ em bị xâm phạm, 106.541 trẻ em vi phạm pháp luật, 461 vụ trẻ em bị buôn bán bắt cóc, 2.015 vụ trẻ em bị ngược đãi, bạo lực. Bộ Tư pháp đã thực hiện trợ giúp pháp lý 56.979 vụ việc, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch, khai sinh cho trẻ em, giúp nâng cao tỷ lệ trẻ em được đăng ký khai sinh đúng hạn, đặc biệt là trước độ tuổi đến trường phổ thông.
Phát biểu tại Hội nghị, PGS TS Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm UB VHGDTTN và NĐ nêu rõ, trẻ em quy định trong Luật 2004 là người dưới 16 tuổi. Quy định trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em là dưới 18 tuổi. Giữ quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi thì những người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ không được bảo vệ, chăm sóc theo Luật trẻ em. Trong khi đó, lứa tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi về mặt thể chất và tâm sinh lý đang trong quá trình thay đổi phức tạp, cần có sự hướng dẫn, quan tâm, chăm sóc của gia đình, xã hội và Nhà nước. Bà Đan đề nghị cần bổ sung các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt mà chưa được quy định trong luật và nghiên cứu để quy định những chế tài, chính sách ưu tiên nhiều hơn cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Cuộc sống của trẻ mồ côi, con gia đình nghèo, cận nghèo, trẻ em tàn tật, khuyết tật bẩm sinh, nhiễm HIV, nghiện hút…
Theo GS TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm UBVHGDTTN và NĐ, một trong những điều kiện quan trọng nhất để Luật đi vào cuộc sống là Nhà nước phải có kế hoạch và dành ngân sách cho việc triển khai thi hành các quy định của Luật. Dự thảo Luật cũng đã đưa ra nhiều quy định để bảo đảm quyền của trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt.
Đối với trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, không có cha, mẹ chăm sóc; trẻ em tạm thời không có sự chăm sóc của cha, mẹ; khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo mà cha, mẹ không có khả năng nuôi dưỡng, dự thảo Luật đưa ra giải pháp “chăm sóc thay thế” và dành chín điều quy định chi tiết các trường hợp trẻ được nhận sự chăm sóc thay thế; các hình thức thực hiện; nguyên tắc; điều kiện được cho, nhận; trách nhiệm, quyền lợi của cá nhân, đại diện gia đình nhận chăm sóc thay thế; đăng ký, lựa chọn cá nhân, gia đình; thẩm quyền quyết định; đưa trẻ vào cơ sở trợ giúp xã hội chăm sóc trẻ em; theo dõi, đánh giá trẻ; chấm dứt chăm sóc thay thế.
Đối với trẻ em có liên quan trong quá trình tố tụng dân sự, hình sự, xử lý vi phạm hành chính, dự thảo Luật đã hệ thống hóa những nguyên tắc bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng và xử lý có trong các văn bản pháp luật hiện hành. Đồng thời, bổ sung một số nguyên tắc cho phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em và các điều ước quốc tế khác về tư pháp đối với trẻ em mà Việt Nam là thành viên.
Về vấn đề trợ giúp pháp lý, TS Đỗ Xuân Lân, Vụ trưởng Vụ Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp đề nghị cân nhắc, làm rõ Luật này là Luật trẻ em hay Luật về quyền trẻ em. Theo ông Lân, nên lấy tên là Luật trẻ em (lấy trẻ em làm đối tượng điều chỉnh mà không phải chỉ là các quyền); ngoài các quyền, để phù hợp với sự phát triển của từng độ tuổi khác nhau, cần thiết phải tiếp cận đầy đủ cả về nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của trẻ em đối với xã hội.
Hiện nay, một số quy định của Luật trẻ em trùng lặp với quy định về người chưa thành niên được quy định trong các dự thảo: Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật Xử lý vi phạm hành chính, trong khi đó, nhiều nội dung có biểu hiện xung đột pháp luật. Vì vậy, cơ quan soạn thảo Luật cần cân nhắc bổ sung nguyên tắc xử lý xung đột pháp luật và nguyên tắc dẫn chiếu ưu tiên áp dụng pháp luật khi quy định của luật này khác với các quy định của luật khác về cùng một vấn đề.
Các đại biểu khác đã đóng góp nhiều ý kiến cụ thể về các chương, điều trong dự thảo luật.
Theo thông tin từ các bộ, ngành, trong 10 năm qua, lực lượng công an đã phát hiện 11.182 vụ trẻ em bị xâm phạm, 106.541 trẻ em vi phạm pháp luật, 461 vụ trẻ em bị buôn bán bắt cóc, 2.015 vụ trẻ em bị ngược đãi, bạo lực. Bộ Tư pháp đã thực hiện trợ giúp pháp lý 56.979 vụ việc, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch, khai sinh cho trẻ em, giúp nâng cao tỷ lệ trẻ em được đăng ký khai sinh đúng hạn, đặc biệt là trước độ tuổi đến trường phổ thông.
Phát biểu tại Hội nghị, PGS TS Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm UB VHGDTTN và NĐ nêu rõ, trẻ em quy định trong Luật 2004 là người dưới 16 tuổi. Quy định trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em là dưới 18 tuổi. Giữ quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi thì những người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ không được bảo vệ, chăm sóc theo Luật trẻ em. Trong khi đó, lứa tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi về mặt thể chất và tâm sinh lý đang trong quá trình thay đổi phức tạp, cần có sự hướng dẫn, quan tâm, chăm sóc của gia đình, xã hội và Nhà nước. Bà Đan đề nghị cần bổ sung các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt mà chưa được quy định trong luật và nghiên cứu để quy định những chế tài, chính sách ưu tiên nhiều hơn cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Cuộc sống của trẻ mồ côi, con gia đình nghèo, cận nghèo, trẻ em tàn tật, khuyết tật bẩm sinh, nhiễm HIV, nghiện hút…
Theo GS TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm UBVHGDTTN và NĐ, một trong những điều kiện quan trọng nhất để Luật đi vào cuộc sống là Nhà nước phải có kế hoạch và dành ngân sách cho việc triển khai thi hành các quy định của Luật. Dự thảo Luật cũng đã đưa ra nhiều quy định để bảo đảm quyền của trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt.
Đối với trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, không có cha, mẹ chăm sóc; trẻ em tạm thời không có sự chăm sóc của cha, mẹ; khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo mà cha, mẹ không có khả năng nuôi dưỡng, dự thảo Luật đưa ra giải pháp “chăm sóc thay thế” và dành chín điều quy định chi tiết các trường hợp trẻ được nhận sự chăm sóc thay thế; các hình thức thực hiện; nguyên tắc; điều kiện được cho, nhận; trách nhiệm, quyền lợi của cá nhân, đại diện gia đình nhận chăm sóc thay thế; đăng ký, lựa chọn cá nhân, gia đình; thẩm quyền quyết định; đưa trẻ vào cơ sở trợ giúp xã hội chăm sóc trẻ em; theo dõi, đánh giá trẻ; chấm dứt chăm sóc thay thế.
Đối với trẻ em có liên quan trong quá trình tố tụng dân sự, hình sự, xử lý vi phạm hành chính, dự thảo Luật đã hệ thống hóa những nguyên tắc bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng và xử lý có trong các văn bản pháp luật hiện hành. Đồng thời, bổ sung một số nguyên tắc cho phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em và các điều ước quốc tế khác về tư pháp đối với trẻ em mà Việt Nam là thành viên.
Về vấn đề trợ giúp pháp lý, TS Đỗ Xuân Lân, Vụ trưởng Vụ Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp đề nghị cân nhắc, làm rõ Luật này là Luật trẻ em hay Luật về quyền trẻ em. Theo ông Lân, nên lấy tên là Luật trẻ em (lấy trẻ em làm đối tượng điều chỉnh mà không phải chỉ là các quyền); ngoài các quyền, để phù hợp với sự phát triển của từng độ tuổi khác nhau, cần thiết phải tiếp cận đầy đủ cả về nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của trẻ em đối với xã hội.
Hiện nay, một số quy định của Luật trẻ em trùng lặp với quy định về người chưa thành niên được quy định trong các dự thảo: Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật Xử lý vi phạm hành chính, trong khi đó, nhiều nội dung có biểu hiện xung đột pháp luật. Vì vậy, cơ quan soạn thảo Luật cần cân nhắc bổ sung nguyên tắc xử lý xung đột pháp luật và nguyên tắc dẫn chiếu ưu tiên áp dụng pháp luật khi quy định của luật này khác với các quy định của luật khác về cùng một vấn đề.
Các đại biểu khác đã đóng góp nhiều ý kiến cụ thể về các chương, điều trong dự thảo luật.
