Sửa 3 luật thuế để đáp ứng các cam kết quốc tế
- 23/03/2016
Phát biểu tại phiên Quốc hội thảo luận về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế sáng 22-3, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh, mặc dù các luật thuế này mới có hiệu lực nhưng chúng ta phải sửa để phù hợp với cam kết phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã và đang ký kết.
Nhất trí cao
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, cơ bản các ý kiến đều tán thành Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và Luật quản lý thuế.
ĐB Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) đã bày tỏ sự thống nhất cao với nội dung sửa đổi, bổ sung của 3 luật thuế GTGT, TTĐB và Quản lý thuế.
“Với quy định các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường khi bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã ở khâu kinh doanh thương mại thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT sẽ khắc phục được tình trạng lợi dụng để gian lận chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT. Đồng thời giảm bớt được chi phí, nhân lực trong quản lý thuế đối với nông sản trong khâu thương mại nội địa (vì không tính thu nộp thuế GTGT tại khâu kinh doanh nội địa nên không phải hoàn thuế khi xuất khẩu).”- ĐB Đỗ Văn Vẻ nói.
ĐB này cũng đồng tình với quy định không hoàn thuế cho các cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết, cơ sở kinh doanh sẽ được chuyển sang khấu trừ vào các kỳ tiếp theo. Tuy nhiên, theo ĐB Đỗ Văn Vẻ, trong thực tế sẽ có những trường hợp trong các kỳ thuế tiếp theo vẫn không thể khấu trừ được hết số thuế đầu vào và lựa chọn các tính vào chi phí.
“Cần bổ sung quy định: “Trường hợp cơ sở kinh doanh có số thuế đầu vào không chuyển sang kỳ tiếp theo để khấu trừ thì được lựa chọn tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.”- ĐB Đỗ Văn Vẻ đề xuất.
Ngoài ra, ĐB Đỗ Văn Vẻ đề nghị không áp mức tiền chậm nộp thuế là 0,04%/ngày như Dự thảo mới mà giữ nguyên mức 0,03%/ngày theo dự thảo trước đây. Bởi vì, khác với lãi tiền vay trả ngân hàng, tiền chậm nộp thuế không được tính vào chi phí mà doanh nghiệp phải lấy từ lợi nhuận sau thuế. Với tỷ lệ 0,04%/ngày, bằng 14,6%/năm, nếu quy về chi phí lãi vay trước thuế thì tương đương mức 18,25%/năm, đây là mức quá cao so với sức chịu đựng của doanh nghiệp.
Đề xuất này cũng được ĐB Trần Du Lịch đồng tình vì theo ĐB, Nhà nước cho DN vay thay vì phải vay ở hệ thống ngân hàng. Nếu trường hợp chây ỳ có tiền không đóng thuế thì cơ quan Thuế có quyền áp dụng các biện pháp khác để thu hồi.
Tuy nhiên, trong Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và Luật quản lý thuế của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chủ nhiệm Ủy ban- Tài chính Ngân sách Quốc hội Phùng Quốc Hiển trình bày đã nêu rõ, việc quy định mức phạt tiền chậm nộp 0,03% là thấp, thấp hơn mức lãi suất hiện hành của các ngân hàng thương mại, sẽ dẫn đến trường hợp doanh nghiệp cố tình chậm nộp tiền thuế cho Nhà nước. Mặt khác, nếu quy định mức phạt tiền chậm nộp theo tỷ lệ % của lãi suất năm của năm trước liền kề do Ngân hàng Nhà nước công bố sẽ không đảm bảo minh bạch, cụ thể, khó khăn trong quá trình triển khai, áp dụng. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép điều chỉnh quy định mức phạt chậm nộp là 0,04%/ngày thay vì mức 0,03%/ngày như Dự thảo luật đã trình Quốc hội.

ĐB Đỗ Văn Vẻ góp ý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế.
Ảnh: Quochoi.vn
Thống nhất nguyên tắc tính thuế
ĐB Đỗ Văn Vẻ đề nghị cần thống nhất nguyên tắc tính thuế, thu thuế TTĐB theo đúng bản chất kinh tế của thuế TTĐB, đó là thuế được tính từ khâu đầu tiên: Hàng hoá sản xuất trong nước sẽ tính thuế theo giá bán ra của cơ sở sản xuất; hàng hoá nhập khẩu thì tính thuế theo giá bán ra của cơ sở nhập khẩu (thay cho quy định trước đây chỉ tính trên giá CIF cộng với thuế nhập khẩu). Với nguyên tắc này sẽ bảo đảm sự bình đẳng giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, khắc phục được tình trạng gian lận thuế tại khâu nhập khẩu và góp phần tăng thu ngân sách khi chúng ta thực hiện cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo các Hiệp định thương mại tự do.
Về vấn đề này, Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và Luật quản lý thuế của UBTVQH cũng nêu rõ mục tiêu của thuế TTĐB là thu vào người tiêu dùng sản phẩm hàng hóa mà nhà nước không khuyến khích, do đó, việc quy định giá tính thuế TTĐB về nguyên tắc là giá bán lẻ đến người tiêu dùng cuối cùng đối với cả hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước là hợp lý.
Hiện tại các quốc gia như: Hàn Quốc, I-xra-en, Mê-hi-cô... áp dụng giá tính thuế TTĐB là giá bán buôn; Phần Lan, Áo, Chi-lê áp dụng giá tính thuế TTĐB là giá bán lẻ đến người tiêu dùng cuối cùng. Cũng có nước như Phi-lip-pin quy định giá tính thuế TTĐB áp dụng chung cho cả hàng hóa sản xuất trong nước và nhập khẩu và tùy mặt hàng mà giá tính thuế là giá bán buôn (ô tô, nước hoa các loại, đồ trang sức, du thuyền và dụng cụ thể thao) hoặc giá bán lẻ (rượu các loại).
Tuy nhiên, theo UBTVQH, việc quy định giá tính thuế là giá bán lẻ đến người tiêu dùng cuối cùng là không khả thi và chưa có cơ chế kiếm soát hữu hiệu. Do đó, việc quy định thống nhất giá tính thuế TTĐB đối với hàng hóa chịu thuế TTĐB là giá do nhà nhập khẩu, nhà sản xuất bán ra là giá bán buôn của cơ sở nhập khẩu và cơ sở sản xuất trong nước là phù hợp với thực tế.
Đối với hàng hóa nhập khẩu bán ra thông thường được thực hiện ở hai giai đoạn là khâu nhập khẩu và khâu bán ra trong nước. Tuy nhiên, việc thể hiện như Dự thảo luật đang được hiểu là hàng hóa nhập khẩu bị tính trùng thuế (ở khâu nhập khẩu và khâu bán ra trong nước). Do vậy, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban Tài chính Ngân sách và Cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định về khấu trừ số thuế tại khâu nhập khẩu.
