Quốc hội thảo luận Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
- 21/06/2017
Ngày 19/6, Quốc hội (QH) tiếp tục thảo luận Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (sửa đổi).
Các đại biểu (ĐB) đề nghị cần có quy định chặt chẽ để tránh việc các tổ chức, cá nhân “lách luật” phá rừng, phải có biện pháp giám sát quỹ hình thành từ khoản thu dịch vụ môi trường rừng...Dự thảo Luật cần tôn trọng nguyên tắc bảo đảm không gian sinh tồn cho cộng đồng dân cư, cho đồng bào dân tộc thiểu số vốn sống gắn bó với rừng. Nhà nước cần tạo điều kiện để người dân có rừng để thực hiện các hoạt động văn hóa tâm linh, có rừng để phát triển sản xuất, có thu nhập bảo đảm từ rừng và có thể sống bằng nghề rừng gắn với xóa đói giảm nghèo tại các địa phương, hướng tới mục tiêu bảo vệ phát triển rừng cũng như hài hòa các mối quan hệ xã hội, thể chế quản lý đối với rừng trong thực tiễn, có như vậy mới có thể bảo vệ, phát triển rừng bền vững.
Quy định chặt chẽ, tránh lách luật
Tham luận trước Quốc hội, ĐB Hứa Thị Hà (Tuyên Quang), cho rằng dự thảo luật còn một số điểm chưa chặt chẽ, điều này có thể dẫn đến lách luật. Ví dụ, tại điểm a khoản 1 Điều 66 quy định việc tận dụng cây gỗ chết, cây gẫy đổ, trên thực tế đã xảy ra sự việc người ta có thể bằng nhiều cách khác nhau làm cây chết như bóc vỏ, cuốn dây thép hoặc cưa quanh thân cây vào tận lõi để cây chết dần, chết mòn, sau đó làm thủ tục xin tận thu.
Tại điểm b khoản 2 Điều 23 quy định về việc thu hồi rừng như sau: "Sau 12 tháng liên tục kể từ ngày được giao, được thuê rừng mà chủ rừng không tiến hành các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng", việc thu hồi rừng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ rừng nên dễ xảy ra tình trạng làm hình thức, chống đối. Do đó, cần định lượng rõ như thế nào là không tiến hành các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng.
Tại khoản 4 Điều 20 quy định về căn cứ giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng như sau: "Năng lực quản lý rừng bền vững của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư". Theo ĐB tiêu chí này cần định lượng và liệt kê nội dung cụ thể để chứng minh năng lực quản lý rừng là bền vững.
Một nội dung nữa là trong quy định về thẩm quyền giải quyết chủ trương, mục đích sử dụng rừng tự nhiên cho phép HĐND chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng dưới 1 ha. Theo ĐB Hà chỉ nên phân cấp cho HĐND cấp tỉnh chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ và rừng sản xuất, không nên phân cấp để HĐND cấp tỉnh quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng mà nên giao cho Chính phủ quy định nội dung này, chỉ chuyển đổi mục đích sử dụng rừng đặc dụng cho các dự án phục vụ nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Vì hiện nay tổng số rừng đặc dụng của cả nước còn lại rất ít, với diện tích hơn 2 triệu ha, chiếm 14,8% tổng diện tích rừng cả nước. Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng có các loài đặc chủng, thực vật đặc hữu, nguy cấp, quý hiếm đã được bảo tồn và nằm trong rừng đặc dụng, khi rừng mất đi thì khó có thể tái tạo lại được.
Không có đất trồng rừng thay thế, có thể nộp tiền
Cũng theo ĐB Hà, về điều kiện chuyển mục đích sử dụng rừng phải trồng rừng thay thế nhưng hiện nay ở một số địa phương việc tự trồng rừng thay thế là khó khả thi, vì không có đất để giao rừng. Do vậy, việc nộp tiền trồng rừng thay thế khả thi hơn nhưng bổ sung nguyên tắc nộp tiền tương đương giá trị rừng được chuyển mục đích do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Cùng quan điểm, ĐB Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) đề nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 24 trường hợp nếu địa phương, nơi chuyển mục đích sử dụng rừng không còn đất để trồng rừng thay thế theo quy hoạch trồng rừng được phê duyệt thì chuyển khoản tiền trồng rừng thay thế theo giá trị tương ứng vào ngân sách địa phương để đầu tư vào công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Báo cáo định kỳ Quỹ dịch vụ môi trường rừng
Quan tâm đến nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng, ĐB Cầm Thị Mẫn (Thanh Hóa) cho biết, tính đến năm 2016 tổng số tiền thu được từ dịch vụ môi trường rừng là trên 6.510 tỷ đồng, bình quân đạt 1.200 tỷ đồng/năm. Số tiền hàng ngàn tỷ đồng không hề nhỏ, do vậy cần phải được quản lý, kiểm soát chặt chẽ. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã bổ sung các quy định về quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước.
Vậy, để tăng cường việc giám sát, thanh tra, kiểm toán của Quốc hội, HĐND, Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán nhà nước đối với việc quản lý, sử dụng nguồn vốn của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, cần bổ sung trách nhiệm báo cáo việc quản lý, sử dụng quỹ này cho cơ quan có thẩm quyền ngay trong điều luật. Có thể quy định định kỳ 3 năm, Chính phủ báo cáo tình hình quản lý quỹ và sử dụng quỹ này cho Quốc hội đối với quỹ ở Trung ương và UBND tỉnh báo cáo HĐND tỉnh đối với quỹ ở địa phương.
Quy trách nhiệm quản lý nhà nước
ĐB Ksor Phước Hà (Ksor H’Bơ Khăp) - Gia Lai dẫn chứng hiện nay mỗi năm cả nước xảy ra 7.000 vụ phá rừng, 20.000 vụ vận chuyển chế biến lâm sản trái phép, hàng loạt những công trình thủy điện lớn, nhỏ, trải dài theo những khe suối, con sông... Không những rừng bị tàn phá nặng nề mà đến đất rừng cũng bị đào bới mang đi. ĐB Phước Hà đề nghị chấm dứt việc cấp phép xây các công trình thủy điện đồng thời phải quy trách nhiệm quản lý nhà nước về lâm nghiệp. “Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch UBND các cấp có trách nhiệm chính đối với các vụ phá rừng, cháy rừng, mất rừng thuộc phạm vi, lĩnh vực địa bàn mình quản lý hoặc để các tổ chức, cá nhân, cấp dưới vi phạm các quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng", ĐB Hà nói.
Làm rõ 'chủ rừng' có đồng thời là 'chủ đất'Về thẩm quyền giao rừng, cho thuê, thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, ĐB Kiều Trinh - Nghệ An đề nghị bổ sung quy định cụ thể về quy mô, diện tích và từng cấp từ Trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, cần làm rõ: Chủ rừng là các công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng có được cho thuê lại rừng hay không. Đặc biệt, nên cân nhắc kỹ việc giao thẩm quyền này cho cấp huyện vì thực tế vừa qua, nhiều huyện để xảy ra nhiều sai phạm nghiêm trọng trong quản lý, sử dụng, bảo vệ rừng.
Dự thảo luật chưa đề cập đến đất rừng, chưa giải thích rõ thế nào là quản lý, phát triển và sử dụng rừng và chưa đề cập đến quyền, nghĩa vụ đối với cá nhân, tổ chức được giao rừng tự nhiên. Đặc biệt, dự thảo luật quy định “rừng là hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng... trong đó thành phần chính là cây gỗ, tre, nứa...cao trên 5m đối với thực vật núi đất hoặc trên 2m đối với các hệ thực vật khác...” là chưa bao quát hết vì phần còn lại của rừng sẽ quy định ra sao.
Đề nghị cần làm rõ quy định “chủ rừng” có đồng thời là “chủ đất” hay không? Nên nghiên cứu gắn trách nhiệm nghĩa vụ của các cơ sở chế biến lâm sản đối với việc phát triển rừng.
Đại biểu Đinh Thị Kiều Trinh góp ý cụ thể vào các điều Luật như sau:
Đại biểu Đinh Thị Kiều Trinh góp ý cụ thể vào các điều Luật như sau:
Đối với quy định về chủ rừng tại Điều 8: Theo Điểm b Khoản 1 Điều 8 Dự thảo quy định về chủ rừng quy định như sau: “b) Tổ chức kinh tế gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam;”
Như vậy, theo quy định này thì những “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” nhưng được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cũng được xem là “tổ chức kinh tế”.
Tuy nhiên, Khoản 4 Điều 8 của dự thảo cũng quy định thêm một đối tượng chủ rừng là: “4. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
Vậy nếu dự thảo quy định như hiện tại thì Điểm b Khoản 1 và Khoản 4 của Điều 8 có sự trùng lặp. Một đồi tượng – doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được quy định hai lần trong cùng một Điều luật.
Bên cạnh đó, tại Khoản 27 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.”
Luật đất đai hiện hành đã tách đối tượng là Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi đối tượng Tổ chức kinh tế để điều chỉnh. Vậy nếu dự thảo luật muốn tách để thống nhất với Luật đất đai thì nên sửa đổi Điểm b Khoản 1 Điều 8 dự thảo theo hướng “b) Tổ chức kinh tế gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.
Về quyền và nghĩa vụ của Ban quản lý rừng đặc dụng:
Tại Điểm d Khoản 1 Điều 36 quy định quyền của Ban quản lý rừng đặc dụng là được cho thuê hay liên kết với các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí. Tuy nhiên, tại Mục 1 Chương III của dự thảo quy định về Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, thu hồi rừng lại không hề có quy định nào về việc cho thuê rừng đặc dụng mà chỉ có quy định về cho thuê rừng sản xuất tại Điều 22. Để có sự thống nhất giữa các Điều luật kiến nghị dự thảo nên có sự thay đổi bổ sung trong các quy định này.
Về định giá rừng quy định tại Điều 85:
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 85 thì: “4. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định khung giá rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định giá rừng cụ thể trên địa bàn tỉnh.”
Việc quy định khung giá rừng là vấn đề rất quan trọng để đảm bảo tính thống nhất không nên trao thẩm quyền này cho một cá nhân mà nên trao cho cả một tập thể đảm bảo tính dân chủ, thống nhất. Trong trường hợp này, kiến nghị sửa đổi dự thảo Luật theo hướng trao thẩm quyền quy định khung giá rừng cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cơ quan trực tiếp quản lý các vấn đề về rừng chứ không trao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như dự thảo hiện nay.
