Báo cáo tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận ở Tổ và Hội trường về Dự thảo Luật giá (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Tổng Thư ký Quốc hội
Ngày ban hành: 30/11/2022
Số hiệu:1840/BC-TTKQH
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, tháng 5-6/2023
A0304-bc1840-TTKQH-tong-hop-thluan-To-va-HT-ve-DA-Luat-Gia-sd---20230522101725.docx
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Ngày 07/11/2022, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ, ngày 11/11/2022 thảo luận tại Hội trường về Dự án Luật Giá (sửa đổi). Sau đây là tổng hợp ý kiến thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội:
- Tổng số lượt đại biểu Quốc hội phát biểu ý kiến (115 ý kiến). Không khí thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, trí tuệ, trách nhiệm.
- Cơ bản các ý kiến tán thành với Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội. Đồng thời, đánh giá các báo cáo được chuẩn bị tốt, ngắn gọn, đánh giá khá toàn diện về tất cả các nội dung.
1. Về sự cần thiết ban hành Luật Giá (sửa đổi)
Nhiều ý kiến nhất trí việc sửa đổi Luật giá là cần thiết (40 ý kiến).
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng Dự thảo Luật còn nhiều quy định chung chung, có tính chất định tính,cần rà soát, bổ sung, quy định cụ thể, không để các quy định chồng chéo, mâu thuẫn để khi có hiệu lực, luật sẽ phát huy tác dụng trên thực tế (13 ý kiến); có ý kiến cho rằng, trong tình hình của nước ta thì không thể để áp dụng quy luật thị trường một cách toàn bộ đối với tất cả các mặt hàng trên thị trường mà cần phải có những mặt hàng nhà nước phải điều tiết để bảo vệ cho người dân, ổn định xã hội (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, Luật Giá hiện hành có nhiều bất cập nên cần sửa đổi Luật (nhiều văn bản hướng dẫn, chồng chéo về thẩm quyền quản lý giá giữa Chính phủ và UBND, mâu thuẫn giữa Luật giá với Luật khác, như: Luật đất đai, bình ổn giá chưa hiệu quả… ) (01 ý kiến).
2. Về quan điểm, mục tiêu sửa đổi Luật
Một số ý kiến đề nghị đối với những vấn đề mà Nhà nước cần phải can thiệp thì phải được quy định cụ thể vào trong luật này; đề nghị khi xây dựng Luật Giá (sửa đổi) cần đảm bảo nguyên tắc kinh tế thị trường và làm rõ vai trò quản lý của nhà nước; khuyến khích cạnh tranh lành mạnh về giá, Nhà nước không can thiệp thô bạo vào thị trường (05 ý kiến).
3. Về tên gọi của Luật
Có ý kiến đề nghị tên gọi của Luật là Luật bình ổn giá (02 ý kiến); Luật quản lý giá (02 ý kiến); Luật kiểm soát giá (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung đánh giá tác động đối với các quy định được bổ sung tại các chương, cũng như các quy định quan trọng được bổ sung trong luật; đánh giá kỹ đối với các mặt hàng chuyển từ phí sang giá… (02 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, trong Báo cáo tổng kết, nội dung về cơ sở pháp lý còn chưa đầy đủ, nhất là các bất cập, hạn chế, nguyên nhân… Do đó, đề nghị cần bổ sung các nội dung trên vào trong Báo cáo tổng kết (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong việc xác định giá, thẩm định giá, kiểm tra giá khi có sự biến động của thị trường (02 ý kiến).
5.Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
Một số ý kiến đề nghị phạm vi điều chỉnh cần thiết kế lại để bảo đảm tính logic, xác định rõ phạm vi hoạt động của nhà nước, phạm vi sản xuất, kinh doanh, phạm vi hoạt động có sự tham gia của các đối tượng ngoài nhà nước; phân định rõ hơn các chủ thể được Luật giá điều chỉnh, bảo đảm tính đầy đủ và bao quát (07 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ thẩm định giá vào sau cụm từ “kiểm tra” (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị Điều 1 được điều chỉnh theo một trong hai hướng cụ thể như sau: Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giá, hoạt động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước, hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường, hoạt động thẩm định giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá hoặc điều chỉnh thành "Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng trong lĩnh vực giá, hoạt động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước, hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường, hoạt động thẩm định giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị phạm vi điều chỉnh cần rõ ràng, tránh trùng lặp hoặc xung đột với các luật có liên quan, như: Luật Đất đai, Luật giáo dục, Luật khám bệnh, chữa bệnh… (05 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định các vấn đề có liên quan đến giá dịch vụ khám, chữa bệnh trong lĩnh vực tư nhân, quy định những nguyên tắc xác định giá để làm cơ sở cho Luật Khám bệnh, chữa bệnh, có cơ sở quy định cụ thể hơn đối với khu vực tư (01 ý kiến).
6. Về đối tượng áp dụng
Có ý kiến cho rằng, đối tượng áp dụng còn chưa đề cập đến đối tượng sản xuất hàng hoá và mới chỉ đề cập đối tượng kinh doanh, nên đề nghị cần làm rõ Dự thảo Luật có điều chỉnh đối với đối tượng này hay không. Việc diễn đạt còn bị trùng lặp, cần thể hiện lại (01 ý kiến).
7. Về áp dụng Luật giá và các Luật có liên quan
Một số ý kiến đề nghị quy định các luật chuyên ngành cần đảm bảo tính thống nhất trong quản lý nhà nước về giá(12 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần xác định rõ trong luật chuyên ngành đối với quy trình thẩm định giá và xác định rõ vai trò của cơ quan chủ trì (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung căn cứ, phương pháp định giá và việc ban hành quyết định giá sách giáo khoa theo Luật Giáo dục tại điểm b khoản 1 Điều 3 (01 ý kiến). Một số ý kiến cho rằng, các luật có liên quan được đề cập trong Điều 3 là chưa đủ (09 ý kiến). Có ý kiến cho rằng, không nên nêu cụ thể tên các luật, mà cần quy định 01 khoản “quét” để bảo đảm tính bao quát (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định lại Điều này, vì Dự thảo chưa phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (01 ý kiến).
8. Về giải thích từ ngữ (Điều 4)
Một số ý kiến đề nghị cần giải thích một số từ ngữ cụ thể và chính xác hơn; bổ sung giải thích từ ngữ đối với các khái niệm: “quản lý nhà nước”, “giá trị phi thị trường”, “điều tiết giá” (04 ý kiến). Có ý kiến đề nghị chuyển khoản 1 Điều 33 sang Điều 4 để làm rõ khái niệm giá tham chiếu (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị giải thích lại các khoản 1, 2, 3 Điều 4 vì định nghĩa như Dự thảo là không phù hợp (06 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị giá thị trường được định nghĩa như sau: giá thị trường là giá được hình thành trên quan hệ thực chất cung cầu của thị trường tại một không gian và thời gian nhất định (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị dùng khái niệm định giá để thay cho khái niệm thẩm định giá và khái niệm quyết định giá để thay cho khái niệm định giá của Dự thảo (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị sửa lại định nghĩa hàng hóa thành “hàng hóa là tài sản có thể trao đổi, mua bán trên thị trường”; thay cụm từ trao đổi, mua bán bằng cụm từ giao dịch dân sự và đề nghị bổ sung cụm từ “là tài sản hiện có”, “tài sản hình thành trong tương lai” sau cụm từ “động sản” và “bất động sản” để phù hợp với Bộ luật Dân sự và Luật Kinh doanh bất động sản (02 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị khoản 3 Điều 4 cần xem lại khái niệm: “nhu cầu phát triển kinh tế” vì phạm vi quá rộng, không rõ ràng; làm rõ thế nào là thiết yếu cho đời sống, thế nào là thiết yếu cho sản xuất. Không nên đưa hàng hoá thiết yếu đối với lĩnh vực an ninh, quốc phòng (06 ý kiến); một số ý kiến đề nghị xem lại giải thích từ ngữ đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu theo hướng cụ thể hơn hoặc có thể giữ nguyên như Luật giá hiện hành (03 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “y tế” (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị khoản 4 Điều 4 thay cụm từ “một thời điểm” thành “một khoảng thời gian”; bỏ cụm từ "hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch khách quan và độc lập” (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị khoản 5 Điều 4 cần cân nhắc bỏ đoạn “được phản ánh bằng chỉ số giá tiêu dùng để phù hợp với thực tiễn” (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bỏ từ “hợp lệ” trong khoản 7 Điều 4 (1 ý kiến). Có ý kiến cho rằng, yếu tố hình thành giá gồm giá thành toàn bộ thực tế, bảo đảm hợp lý, hợp lệ tương ứng với chất lượng của hàng hóa, dịch vụ, lợi nhuận, các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, giá trị vô hình của thương hiệu. Do đó cần giải thích cụ thể, rõ ràng hơn (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị khoản 15 Điều 4 bỏ từ “thẩm định giá” để nội dung rõ ràng hơn (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị không đưa khái niệm “thông đồng giá”, “thẩm định giá” vào khoản này (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại khoản 14 về việc thẩm định giá phải phù hợp với các quy định của pháp luật chuyên ngành khác; cần rà soát lại quy định tại khoản này để bảo đảm đầy đủ hơn vì hàng hóa, dịch vụ vẫn phải có dịch vụ thẩm định giá (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung giải thích từ ngữ đối với thuật ngữ “nội dung”, “cơ chế”, “chính sách giá” sử dụng tại khoản 1 Điều 26 (01 ý kiến).
9. Về nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước (Điều 5)
Có ý kiến cho rằng, để đảm bảo chính sách dân tộc quy định tại khoản 4 Điều 5, đề nghị bổ sung việc quản lý dựa trên nguyên tắc “góp phần ổn định kinh tế, có chính sách về giá phù hợp với khu vực có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn” (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, Điều 5 chưa phải nguyên tắc để làm cơ sở cho các luật chuyên ngành khác thực hiện theo; đề nghị khoản 1 Điều 5 giữ như quy định hiện hành (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị chỉnh lý lại khoản 4 Điều 5 như sau: “4. Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững; thúc đẩy xã hội hóa hoạt động cung cấp dịch vụ công; có chính sách về giá phù hợp với khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và các trường hợp theo quy định tại Luật khác có liên quan” (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần cân nhắc cụm từ “được phản ánh bằng chỉ số giá tiêu dùng” tại Khoản 5 Điều 4 do chỉ số giá tiêu dùng chỉ phản ánh giá các hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng mà không phản ánh mức giá chung của tất cả các hàng hóa, dịch vụ; đề nghị cần bổ sung khái niệm về “giá cả thị trường” và “giá trị thị trường” tại Điều 4 (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị Khoản 2 cần quy định rõ về thứ tự ưu tiên giữa lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, lợi ích của người tiêu dùng để áp dụng khi xảy ra xung đột lợi ích (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định giá hàng hóa tại một số thời điểm đặc biệt. Nhà nước quy định kiểm soát giá thì cần đảm bảo nguồn cung đầy đủ. Phải quản lý được giá các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày nhằm quản lý được giá các mặt hàng chiến lược (03 ý kiến). Có ý kiến đề nghị thu hẹp số lượng các hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước điều tiết giá (01 ý kiến).
10. Về các nội dung tại dự thảo Luật
10.1. Về công khai thông tin (Điều 6)
Nhiều ý kiến đề nghị cần đẩy mạnh hơn nữa công khai về giá để tránh việc lợi dụng các quy định của pháp luật để thông đồng, đẩy giá lên cao và các hành vi tiêu cực khác (13 ý kiến); đề nghị cần có chế tài đối với chế định này (07 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị khoản 5 Điều 6 chỉ quy định về việc chịu trách nhiệm đưa tin theo quy định của pháp luật như luật hiện hành, nếu quy định về việc phải bảo đảm tính chính xác thì không khả thi (01 ý kiến).
10.2. Về các hành vi bị cấm (Điều 7)
Một số ý kiến đề nghị bổ sung các hành vi nghiêm cấm (03 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cấm không tăng giá cao đối với các mặt hàng thiết yếu trong bất kỳ trường hợp nào khi chưa có văn bản hướng dẫn hoặc chưa có sự đồng ý của cơ quan chức năng thẩm tra về giá; quy định rõ việc khan hiếm hàng hóa, thực phẩm thiết yếu là do cung, cầu mất cân đối hay ghim hàng đầu cơ, tích trữ (02 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị bổ sung vào điểm b khoản 2 Điều 7 nội dung sau: “Cấm chuyển giá giữa các đơn vị của các doanh nghiệp liên doanh hoặc các doanh nghiệp FDI”. Đề nghị thay cụm từ “trục lợi” tại Điều 7 thành cụm từ “thu lợi bất chính”. Điểm c, Khoản 1, Điều 7 đề nghị Ban soạn thảo nên cân nhắc bổ sung, "..... hình thức để trục lợi cạnh tranh không lành mạnh" (03 ý kiến).
Nhiều ý kiến đề nghị quy định rõ hơn nội hàm cụm từ “bất thường” và “bất hợp lý” tại điểm c khoản 2 Điều 7 (24 ý kiến). Một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể mức độ % tăng giá hàng hóa, dịch vụ cao hơn giá thị trường được coi là bất hợp lý (03 ý kiến). Có ý kiến đề nghị quy định cấm lợi dụng để đầu cơ trục lợi, không nên quy định là không được tăng giá (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ cạnh tranh không lành mạnh vào điểm đ khoản 2 Điều 7 như sau: các hành vi thông đồng về giá, thẩm định giá dưới mọi hình thức để trục lợi, cạnh tranh không lành mạnh (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm 02 hành vi bị nghiêm cấm là các doanh nghiệp độc quyền hoặc giữ vị trí thống lĩnh thị trường bán không đúng giá nhà nước quy định, lợi dụng vị thế độc quyền của mình để định giá cao, ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng và hành vi cạnh tranh không lành mạnh (02 ý kiến). Có ý kiến nghiên cứu đề nghị bổ sung hành vi cấm liên quan đến việc giảm giá để phù hợp với Luật cạnh tranh (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, không nên dùng từ “bịa đặt” tại điểm a khoản 2 Điều 7. Cân nhắc từ “hoả hoạn” bằng từ “thảm hoạ” tại điểm c khoản 2 Điều 7. Đối với quy định tại điểm d khoản 2 có hành vi thông đồng về giá nhưng không có quy định về việc xử lý nếu có vi phạm (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị điểm c khoản 6 sửa lại như sau: "Sử dụng chứng thư thẩm định giá giả, chứng thư thẩm định giá đã hết thời gian hiệu lực, sử dụng chứng thư thẩm định giá không theo đúng mục đích thẩm định giá không gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá” (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, quy định chưa phù hợp về quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, chỉ nên cấm trường hợp tăng giá bất hợp lý, không phù hợp với biến động của các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ mà nhà nước điều tiết về giá, như: định giá, niêm yết giá, bình ổn giá, kê khai giá, giá tham chiếu (01 ý kiến).
10.3. Về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh, người tiêu dùng (Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11)
Có ý kiến đề nghị gộp Khoản 1 và Khoản 6 Điều 8; gộp Khoản 3, 4, 5 thành một khoản (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị gộp khoản 3 và khoản 4 Điều 9 thành một khoản có nội dung như sau: “kê khai niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật”. Khoản 1, Điều 10 viết lại như sau: “Lựa chọn thỏa thuận về giá khi mua hàng hóa, dịch vụ, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quy định giá” để đảm bảo chặt chẽ (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị tại Điều 9 bổ sung nghĩa vụ thực hiện cung cấp thông tin, kê khai đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin của giá hàng hóa, dịch vụ, cung cấp dịch vụ thiết yếu …; bỏ đoạn "lập phương án giá hoặc báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc danh mục hàng hóa" vì tạo thêm rất nhiều thủ tục hành chính (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị tại khoản 1 Điều 10 sửa thành lựa chọn thỏa thuận về giá khi mua hàng hóa, dịch vụ thêm cụm từ trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá (01 ý kiến).Có ý kiến đề nghị khoản 4 Điều 32 chuyển sang khoản 10 Điều 10 (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung các quy định về quyền lợi của người tiêu dùng tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; bảo đảm sự thống nhất của nội dung này với quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng khi 2 dự thảo Luật này được thông qua (01 ý kiến). Có ý kiến cho rằng nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng trong các trường hợp tổ chức kinh doanh trên nền tảng số chưa được đề cập (01 ý kiến).Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về nghĩa vụ lập phương án, báo cáo đánh giá chi tiết yếu tố hình thành giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh (01 ý kiến).
10.4. Về nội dung quản lý về giá, thẩm định giá và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước (từ Điều 12 đến Điều 18)
a. Các vấn đề chung
Có ý kiến cho rằng, tên của Chương III cần sửa lại cho phù hợp như sau “quản lý nhà nước về giá” hoặc “ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giá” (02 ý kiến).
Nhiều ý kiến cho rằng, việc sửa đổi các điều về thẩm quyền cần phải đánh giá kỹ tác động, làm rõ lý do của việc sửa đổi. Đẩy mạnh hơn cơ chế phân quyền cho các cơ quan, các cấp; bảo đảm tính đồng bộ với chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực, bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước (11 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định rõ vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về giá trong tham gia xây dựng pháp luật, phương pháp định giá và cách định giá dịch vụ nhà nước; quy định rõ hơn khoản 1 Điều 12 (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung ứng dụng công nghệ thông tin về giá, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu về giá (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị làm rõ nguyên tắc, mối quan hệ giữa 2 phương pháp định giá; phương pháp được ưu tiên khi có xung đột giữa hai phương pháp (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể các nội dung nhằm tạo sự công khai, minh bạch, tránh việc lạm dụng để mở rộng phạm vi các mặt hàng thuộc diện bình ổn giá …(01 ý kiến). Có ý kiến cho rằng quy định như khoản 9 Điều 12 là không rõ ràng, đề nghị cần quy định cụ thể hơn (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị Chính phủ cần có đánh giá cụ thể hơn về mức độ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ này đối với tổ chức bộ máy hiện hành. Rà soát nội dung quy định các bộ chỉ có quyền kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, hoạt động thẩm định giá của nhà nước trong lĩnh vực, phạm vi quản lý để đảm bảo tính thống nhất với Luật Thanh tra (01 ý kiến).
b. Về thẩm quyền của Chính phủ
Nhiều ý kiến đề nghị quy định về thẩm quyền bình ổn giá giữ như quy định hiện hành (danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá được quy định cụ thể trong Luật; trong trường hợp cần điều chỉnh danh mục các mặt hàng bình ổn giá, Chính phủ trình UBTVQH xem xét, quyết định) (28 ý kiến). Có ý kiến đề nghị khoản 3 Điều 19 giao UBTVQH quyết định (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị thẩm quyền quy định danh mục bình ổn giá do Chính phủ quy định (07 ý kiến). Có ý kiến đề nghị nên đề ra nguyên tắc mở về danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, như về mức biến động giá so với mặt bằng hiện nay để Chính phủ quyết định đối với loại mặt hàng cần bình ổn giá (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị trình tự, thủ tục định giá nên giao cho Chính phủ quy định chi tiết, nhất là phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, các hàng hóa, dịch vụ do Thủ tướng Chính phủ quy định (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần bổ sung nguyên tắc để Chính phủ xác định giá tại các cơ sở y tế liên kết, y tế tư nhân; sửa đổi, bổ sung cụm từ “cơ sở dữ liệu về giá” bằng cụm từ “cơ sở dữ liệu quốc gia về giá” (02 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị dự thảo Luật cần hạn chế việc giao Chính phủ hướng dẫn (03 ý kiến).
c. Về thẩm quyền của Bộ Tài chính
Có ý kiến đề nghị việc nghiên cứu, dự báo về giá, xây dựng cơ sở dữ liệu về giá cần có sự tham gia của các thành phần khác. Bổ sung việc xây dựng, ban hành khung giá thị trường, giá cụ thể thay thế đối với hàng hóa, dịch vụ (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị nội dung về xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu về giá (khoản 5 Điều 13) nên giao cho Bộ Tài chính quản lý (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị thẩm quyền tham mưu Chính phủ, ban hành nghị định, thông tư, quản lý giá đất… nên thuộc Bộ Tài chính, còn các Bộ, ngành quản lý cụ thể về giá (08 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị việc phân cấp phải chặt chẽ, có kiểm tra, giám sát, xử lý sai phạm của các bộ, ngành đối với các vi phạm trong danh mục hàng hóa của mình quản lý. Bảo đảm sự thống nhất trong quản lý giá trên phạm vi toàn quốc; đề nghị khi thẩm định giá có cơ quan tài chính cùng cấp tham gia (04 ý kiến). Một số ý kiến đề nghị Bộ Tài chính có vai trò chính và các bộ chỉ phối hợp tham gia (04 ý kiến). Có ý kiến đề nghị Bộ Tài chính quy định về giá trần và giá sàn của giá để HĐND các tỉnh áp dụng phù hợp với tỉnh của mình (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, khoản 10 Điều 14 nên giao cho Hiệp hội tự quản, Bộ chủ quản quy định về tiêu chuẩn lĩnh vực đào tạo, còn việc kiểm soát hành nghề trong lĩnh vực này thì nên giao cho tổ chức khác... (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc định giá, rà soát biểu mẫu kê khai giá của các doanh nghiệp ở trung ương (01 ý kiến).
d. Về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ
Có ý kiến đề nghị không nên quy định cụ thể về việc giao nhiệm vụ cho Bộ trưởng Bộ Tài chính, UBND cấp tỉnh quản lý giá đối với các lĩnh vực thuộc bộ, thuộc tỉnh như quy định tại Điều 18 của dự thảo Luật (02 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng đây chỉ là cơ quan đề xuất, do đó thẩm định giá phải là cơ quan nhà nước như Bộ Tài chính, Sở Tài chính (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị rà soát lại thẩm quyền quyết định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh Nhà nước; áp dụng cách tính đặc thù; Bộ Y tế định giá đối với dịch vụ khám, chữa bệnh, không nên giao cho HĐND (03 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị xem lại khoản 6 Điều 14, khoản 6 Điều 15 và khoản 2 Điều 24, vì sẽ có trường hợp các bộ, ngành Trung ương tự đặt ra hoặc ban hành các quy trình, trình tự, thủ tục định giá áp dụng cho hoạt động định giá của chính bản thân đơn vị (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị giữa phân cấp, phân quyền trong việc thẩm định và quy định về giá trong từng điều, khoản cần phải thể hiện rõ hơn giữa trách nhiệm của cơ quan chủ quản, UBND cấp tỉnh. Quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý trong việc định giá, điều tiết giá vật tư nông nghiệp … Cần có quy định về cơ quan chủ quản trong danh mục đối với các mặt hàng này (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị giữ lại khoản 3 Điều 19 Luật hiện hành; khoản 1 Điều 18 chuyển thành một khoản của Điều 14; khoản 2 Điều 18 chuyển thành một khoản của Điều 15 và khoản 3 của Điều 18 chuyển thành một khoản của Điều 17 (02 ý kiến).
đ. Về thẩm quyền của HĐND, Thường trực HĐND
Có ý kiến cho rằng, trong phụ lục kèm theo dự thảo luật không quy định trường hợp thuộc thẩm quyền định giá của HĐND cấp tỉnh. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát lại thẩm quyền định giá của HĐND cấp tỉnh (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị không giao cho Thường trực HĐND, mà cần giao cho HĐND do đây là lĩnh vực quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân, nếu quy định thì sẽ mâu thuẫn với Luật tổ chức chính quyền địa phương (23 ý kiến).
Một số ý kiến cho rằng, dự thảo Luật quy định cho HĐND có thẩm quyền quy định về giá sẽ mâu thuẫn với quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Nếu quy định trong Luật này thì cần sửa đổi Khoản 3 Điều 19 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (10 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng Điều 10, Điều 14 không quy định HĐND ủy quyền cho Thường trực HĐND thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn. Giữa các văn bản quy định về thẩm quyền cũng có sự khác nhau, gây khó khăn, hạn chế cho Thường trực HĐND trong việc ban hành giá đất, kê khai giá đất. Đề nghị đối với những mặt hàng được chuyển từ đăng ký giá, kê khai giá, cần có cơ chế đảm bảo tính thực chất của việc kê khai để tránh hình thức. Do đó cần nghiên cứu, thiết kế lại Điều 16, bảo đảm thống nhất với Điều 17 (02 ý kiến).Có ý kiến đề nghị bỏ quy định tại Điều 16 (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị trường hợp UBND cấp tỉnh trình xin ý kiến về hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện chưa tổ chức kỳ họp HĐND tại Điều 16, thì Thường trực HĐND xem xét, quyết định, sau đó báo cáo tại kỳ họp gần nhất của HĐND cấp tỉnh; bổ sung quy định cụ thể về hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp này (01 ý kiến). Nếu dự thảo luật quy định áp dụng cho toàn bộ các loại hàng hóa, dịch vụ thì nội dung trên cũng cần sửa lại là HĐND cấp tỉnh giao Thường trực HĐND cấp tỉnh có ý kiến về quyết định hàng hóa, dịch vụ khi UBND cấp tỉnh trình xin ý kiến theo quy định của pháp luật (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung từ “cấp tỉnh” ở cuối cụm từ “là nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND” tại Điều 16; quy định rõ việc xin ý kiến tại phiên họp hay bằng văn bản (05 ý kiến). Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về chức năng giám sát của HĐND tỉnh đối với vấn đề về giá (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn Điều 17, Điều 25 (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, việc chỉ giới hạn Thường trực HĐND cho ý kiến thì không có ý nghĩa. Cần cân nhắc đến thẩm quyền của HĐND về vấn đề này và quy định về nguyên tắc để HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyết định về bảng giá đất ở địa phương (01 ý kiến).
e. Về thẩm quyền của UBND
Một số ý kiến đề nghị khoản 4 Điều 17 phải có phương pháp định giá hoặc có hướng dẫn cụ thể để thống nhất trong phạm vi cả nước (06 ý kiến); đề nghị việc quản lý giá chỉ giao cho một cơ quan (ví dụ Bộ Tài chính), không nên phân cấp cho địa phương và phân cấp một cách cơ học như dự thảo Luật (06 ý kiến). Có ý kiến đề nghị làm rõ nội dung cụ thể việc sử dụng cơ sở dữ liệu về giá trong công tác đấu thầu, mua sắm (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về các trường hợp xin ý kiến của HĐND, các trường hợp giao cho UBND quyết định. Việc cho ý kiến quy định rõ là tại cuộc họp nào hay bằng văn bản… (03 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định rõ khoản 2 Điều 17 về phạm vi, tránh chồng chéo với các văn bản cấp trên. Bổ sung khoản 12 quy định về các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của luật này và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Một số ý kiến đề nghị cần bảo đảm sự thống nhất giữa Điều 18 và Điều 26; bỏ Khoản 1 Điều 18 và chuyển thành một khoản của Điều 14; Khoản 2 Điều 18 thành 01 khoản của Điều 15; khoản 3 Điều 18 thành 01 khoản của Điều 17. Đồng thời thay cụm từ UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thành UBND cấp tỉnh (03 ý kiến).
10.5. Về bình ổn giá
a. Về tiêu chuẩn của hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá:
Nhiều ý kiến cho rằng tiêu chí còn chung chung, khó định lượng (17 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị từng bước bỏ quy định về lập quỹ bình ổn giá, nên để thị trường và các doanh nghiệp tự quyết định. Nhà nước chủ yếu giữ vai trò quản lý và giám sát việc tuân thủ luật pháp về giá, ngoại trừ những trường hợp thật cần thiết mà Nhà nước phải trực tiếp tác động (03 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm một nội dung trong Khoản 2 Điều 19 quy định về việc Chính phủ ban hành các danh mục hàng hóa bình ổn, đảm bảo yếu tố nhạy cảm về giới, đảm bảo những nội dung quản lý giá đối với mặt hàng thiết yếu phù hợp với thực tiễn và đảm bảo đáp ứng được yêu cầu đời sống xã hội (01 ý kiến).
b. Về Quỹ bình ổn giá, Quỹ bình ổn giá xăng dầu
Nhiều ý kiến băn khoăn về việc thành lập Quỹ bình ổn giá, Quỹ bình ổn giá xăng dầu; quy định trong Dự thảo vẫn còn chung chung; cần làm rõ về việc quản lý, sử dụng Quỹ và việc kiểm toán, quyết toán hàng năm. Nếu thành lập quỹ thì Quỹ kết thúc nhiệm vụ lúc nào là phù hợp; đề nghị cần giao cho Chính phủ quy định về hoạt động và quản lý quỹ hoặc xây dựng thành Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (13 ý kiến). Một số ý kiến đề nghị không duy trì Quỹ bình ổn giá, Quỹ bình ổn giá xăng dầu; trong trường hợp cần thiết, Nhà nước sẽ điều tiết giá xăng, dầu bằng công cụ khác như thuế, phí để hỗ trợ cho đối tượng yếu thế (04 ý kiến).
Một số ý kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện hành vẫn cần Quỹ bình ổn giá xăng dầu (04 ý kiến). Có ý kiến cho rằng, Quỹ bình ổn giá xăng dầu do Bộ Tài chính thành lập tập trung hoặc có tư cách pháp nhân. Quỹ bình ổn phải có đại diện cho người tiêu dùng (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị làm rõ sự cần thiết của việc thành lập Quỹ bình ổn giá, Quỹ bình ổn giá xăng dầu nếu có thì cần bổ sung một điều quy định về việc quản lý, sử dụng Quỹ như phải công khai, minh bạch, định kỳ báo cáo cho nhân dân giám sát, quy định cụ thể việc thành lập, điều kiện sử dụng quỹ… (12 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị làm rõ Quỹ thuộc Nhà nước quản lý hay mỗi doanh nghiệp bắt buộc phải thành lập và tự quản lý; Quỹ này hoạt động thường xuyên hay trong trường hợp đột biến, có giải thể quỹ khi hoàn thành mục tiêu hay không… (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể việc sử dụng Quỹ bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Đối với hàng hóa, dịch vụ là nguyên, nhiên vật liệu, dịch vụ chính phục vụ cho sản xuất lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cần được tiếp tục rà soát, thu hẹp phạm vi áp dụng, chỉ nên bình ổn giá trong tình trạng khẩn cấp, công bố dịch, thiệt hại do thiên tai có tác động ảnh hưởng toàn diện, quá lớn đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời hạn nhất định (01 ý kiến).
Nhiều ý kiến cho rằng, Quỹ bình ổn giá xăng dầu phản ứng quá chậm với thị trường, Nhà nước điều hành thiếu linh hoạt. Cần đánh giá việc thực hiện mục tiêu ổn định giá xăng dầu, đánh giá tính minh bạch trong hoạt động của quản lý Quỹ (16 ý kiến). Một số ý kiến cho rằng, Quỹ bình ổn giá xăng dầu cần có thời hạn (04 ý kiến). Có ý kiến đề nghị trước mắt cần duy trì quy định trong dự thảo luật về Quỹ bình ổn giá xăng dầu, còn các mặt hàng khác thì không nên thành lập Quỹ bình ổn giá (02 ý kiến). Cần cân nhắc có lộ trình thực hiện Quỹ; có nguyên tắc vận hành quỹ… (05 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản tại Điều 72 quy định chuyển tiếp của dự thảo luật về Quỹ bình ổn giá xăng dầu để tiếp tục thực hiện theo Nghị định 83 của Chính phủ (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần có chính sách để hỗ trợ sản xuất trong các hợp tác xã, doanh nghiệp trong nước để tăng cường nguồn cung, thúc đẩy được nguồn cung thì công tác bình ổn giá mới có hiệu quả (01 ý kiến).
c. Về nguyên tắc, các trường hợp và biện pháp bình ổn giá
Nhiều ý kiến đề nghị cần quy định rõ về thế nào là giá tăng quá cao và giảm quá thấp tại khoản 2, Điều 20; cần có văn bản hướng dẫn kèm theo,đề nghị quy định rõ tỷ lệ phần % biến động về giá để xác định thế nào là tăng quá cao, giảm quá thấp; quy định rõ thế nào là “tài nguyên quan trọng” (13 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị khoản 3 Điều 20 cần cân nhắc quy định mức trần lợi nhuận trên giá vốn; điểm b khoản 1 Điều 20 mâu thuẫn với khoản 1 Điều 19; cân nhắc cụm từ “bình ổn giá có thời hạn” (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể mức trần lợi nhuận trên giá vốn hoặc trên giá thành toàn bộ đối với các mặt hàng thiết yếu trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần có quy định bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ sở sản xuất, kinh doanh trong trường hợp bình ổn giá gây thiệt hại (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc : “việc bình ổn giá phải được kịp thời, nhanh, đáp ứng được yêu cầu điều hành và quản lý”; cần quy định chi tiết một số nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện được bình ổn giá, đặc biệt đối với mặt hàng xăng, dầu thành phẩm, thuốc bảo vệ thực vật. Việc bình ổn giá cần bảo đảm để không gây ra hoặc giảm thiểu ảnh hưởng đến việc đầu tư nâng cao chất lượng trang thiết bị, vật tư y tế cho khám, chữa bệnh (01 ý kiến).
d. Về thực hiện bình ổn giá
Có ý kiến đề nghị bổ sung Khoản 2 Điều 21 chính sách về hỗ trợ bình ổn giá (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị Khoản 3 Điều 21 cần bổ sung cách thức kiểm soát để đảm bảo tính thống nhất về chủ trương, tạo môi trường bình đẳng giữa người tiêu dùng ở các địa phương khác nhau (07 ý kiến).
Một số ý kiến cho rằng, Dự thảo chưa quy định thế nào về việc bình ổn, điều chỉnh giá đầu vào các mặt hàng liên quan đến phân bón, thức ăn, thuốc, hóa chất… trong ngành nông nghiệp, thủy sản (03 ý kiến). Có ý kiến đề nghị cân nhắc việc loại bỏ mặt hàng điện ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá (01 ý kiến). Có ý kiến cho rằng việc quy định cụ thể kít xét nghiệm COVID-19 là chưa phù hợp (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bổ sung mặt hàng vật tư nông nghiệp vào danh mục hàng hóa bình ổn giá (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị quy định về thời hạn bình ổn giá (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị làm rõ lý do sửa đổi quy định về bình ổn giá (01 ý kiến).
10.6. Về định giá
Có ý kiến đề nghị quy định rõ là Nhà nước định giá tại Chương 2 về mục định giá (01 ý kiến). Có ý kiến cho rằng, tại Mục 2 quy định về định giá đã được quy định tại Điều 23, 24, 25, 26; đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan thẩm tra tiếp tục rà soát kỹ hơn nữa để đảm bảo tính thống nhất giữa Luật Giá (sửa đổi) với các luật chuyên ngành (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị cần lượng hóa quy định tại khoản 3 Điều 23 và Điều 20 về mức biến động của các yếu tố hình thành giá thì phải xem xét, điều chỉnh giá (09 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể về nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp, thẩm quyền và trách nhiệm xác định danh mục hàng hóa do nhà nước định giá, tránh hiểu khác nhau để bảo vệ những người làm công tác định giá. Có ý kiến đề nghị có chương riêng về nội dung này (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần bổ sung nguyên tắc trong trường hợp dịch bệnh hoặc có yếu tố rủi ro trong việc kinh doanh mặt hàng thì cho phép được có lợi nhuận cao hơn mức bình thường (04 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị tách quy định về định giá nhà nước, định giá tổ chức, cá nhân; có thể chỉnh sửa thành "nguyên tắc định giá nhà nước bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế, lợi nhuận hợp lý theo nguyên tắc phù hợp với mặt bằng chung của thị trường và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ. Nguyên tắc định giá của tổ chức, cá nhân là bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, chi phí lưu thông thực tế và lợi nhuận kỳ vọng để xác định giá bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ ra thị trường theo nguyên tắc cạnh tranh cung cầu" (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị quy định rõ khoản 1 Điều 25, việc định giá phải gắn với những hàng hóa cụ thể; làm rõ vai trò của HĐND trong lĩnh vực này; cần quy định biện pháp chặt chẽ để kiểm soát việc triển khai, tránh việc không thống nhất và lợi dụng để trục lợi (08 ý kiến). Có ý kiến đề nghị làm rõ cụm từ hàng hóa, dịch vụ có tính địa bàn như thế nào, đồng thời quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm về nội dung trên là thuộc HĐND hay thuộc UBND (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, hệ thống phương pháp định giá còn phân tán và chưa quy định rõ, cần được rà soát, quy định thống nhất (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần rà soát 52 danh mục hàng hóa, dịch vụ để tránh việc quy định về quy trình thẩm định, quy trình định giá, quản lý giá trong luật chuyên ngành (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị thu hẹp danh mục này (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và thẩm quyền của UBND tỉnh trong lĩnh vực này (01 ý kiến). Có ý kiến cho rằng một số sản phẩm dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước khó xác định sao cho phù hợp với mặt bằng thị trường, nhất là việc tính lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp tự chủ về tài chính trong phương án giá (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định các mặt hàng thuốc chữa bệnh mãn tính vào danh mục và giao Bộ Y tế quy định giá cụ thể; giao Chính phủ quy định cụ thể hóa việc điều tiết giá, công khai thông tin về giá và thẩm định giá đối với nội dung này. Làm rõ quy trình, phương pháp, điều kiện xác định giá, đảm bảo tính đúng, tính đủ giá dịch vụ. Việc quy định giá mới chỉ trong khu vực sự nghiệp công lập, cần xác định các đối tượng cung ứng dịch vụ khác để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư và người sử dụng dịch vụ… Các quy định cần cụ thể, chặt chẽ hơn nữa, trong đó cần bảo đảm quy định đối với một số hàng hoá, dịch vụ quan trọng của ngành y tế (05 ý kiến). Có ý kiến cho rằng, giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đều đã được nêu tại Luật giá và Luật khám, chữa bệnh nhưng cuối cùng lại không có cơ sở để thực hiện (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị xem xét giá hợp lý thay thế giá thấp nhất trong việc lựa chọn mua sắm thiết bị, vật tư, thuốc men y tế (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung Bộ Công an quyết định giá cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ an ninh; bổ sung dịch vụ định danh xác thực điện tử, biển số xe ô tô vào danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, thẩm quyền, hình thức định giá do Bộ Công an quyết định về khung giá và tổ chức cung cấp dịch vụ (01 ý kiến).
Một số ý kiến không tán thành giao UBTVQH xem xét, điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ định giá vì Danh mục định giá cần phải quy định công khai, ổn định trong Luật, phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội (05 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần quy định giao Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định tại khoản 5 Điều 25; trong thời gian Quốc hội không họp, trình UBTVQH cho ý kiến và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về tiêu chí hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá (05 ý kiến); đề nghị làm rõ nội hàm khái niệm “thị trường cạnh tranh hạn chế” (03 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể giá bán mặt hàng sách giáo khoa (04 ý kiến); đề nghị nhà nước quy định giá bán tối đa và không ấn định giá (01 ý kiến). Đề nghị xem xét lại quy định tại Dự thảo về mặt hàng sách giáo khoa và Nhà nước phải lưu ý để quản lý, tránh để một doanh nghiệp nhà nước độc quyền về giá sách giáo khoa (02 ý kiến). Có ý kiến cho rằng, việc quy định sách giáo khoa là hàng hoá cần định giá là khác với chủ trương xã hội hoá giáo dục, cần chống độc quyền trong lĩnh vực này (Nghị quyết số 88). Nếu nhà nước vẫn định giá sách giáo khoa, thì để chống độc quyền, đảm bảo chủ trương xã hội hoá cần định giá đối với sách giáo khoa do nhà nước sản xuất, còn đối với sách do doanh nghiệp tư nhân phát hành thì vẫn phải kê khai giá. Hoặc chỉ quy định các mặt hàng được định giá trong Luật, Chính phủ quy định cụ thể trong từng thời kỳ, có giá tối đa, giá tối thiểu (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị các dịch vụ giáo dục tại cơ sở giáo dục đại học công lập do Bộ Giáo dục quy định giá trần, còn giáo dục nghề nghiệp thì do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định giá trần và các cơ sở giáo dục quy định giá cụ thể (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, vấn đề giá trần, giá sàn cần quy định phù hợp với từng mặt hàng/chủng loại/khu vực/vùng miền/đối tượng. Sử dụng công cụ thuế như thế nào để đảm bảo phù hợp với thỏa thuận quốc tế (01 ý kiến).
10.7. Về Hiệp thương giá
Một số ý kiến đề nghị cần làm rõ hơn vai trò của Nhà nước trong hiệp thương giá (05 ý kiến). Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện hiện nay không nên quy định về chính sách hiệp thương giá (02 ý kiến); đề nghị bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm về mức giá trong trường hợp bên mua và bên bán không thoả thuận được mức giá (khoản 5 Điều 25); đề nghị quy định khái niệm “có tính chất độc quyền” (02 ý kiến).Có ý kiến đề nghị việc hiệp thương giá của Nhà nước là không nên bắt buộc (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị khoản 5 Điều 30 bổ sung quy định về thẩm quyền của cơ quan hiệp thương giá được quyết định mức giá tạm thời trong trường hợp bên mua và bên bán không thương lượng thỏa thuận được mức giá; đề nghị xem xét bỏ nội dung quy định về thẩm quyền quyết định giá hiệp thương của cơ quan hiệp thương giá trong trường hợp bên mua và bên bán không thương lượng được mức giá (01 ý kiến).
10.8. Về kê khai giá, niêm yết giá, tham chiếu giá
Nhiều ý kiến băn khoăn về giá trị, tính khả thi của giá tham chiếu; cần quy định cụ thể hơn về giá tham chiếu (17 ý kiến); Quy định hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp quyết định theo giá tham chiếu là không thống nhất với quy định tại Khoản 2, Điều 33 của dự thảo luật (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị quy định như sau: "giá tham chiếu là mức giá đại diện của hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố trên cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và kết quả trực tiếp thực hiện khảo sát thông tin thị trường và kết quả tổ chức tư vấn cung cấp, đã được thẩm tra để các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng làm căn cứ quyết định giá mua và bán hàng hóa, dịch vụ" (01 ý kiến).
Một số ý kiến cho rằng quy định về kê khai giá còn chung chung; đề nghị có quy định hướng dẫn cụ thể về danh mục các mặt hàng kê khai giá và hướng dẫn ban hành về quy cách, tiêu chuẩn những mặt hàng cần thực hiện kê khai giá (15 ý kiến).
Một số ý kiến cho rằng, việc bổ sung thêm nhiều hàng hóa, dịch vụ phải kê khai giá sẽ làm tăng thêm thủ tục hành chính, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, chưa tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và cũng không có tác dụng đối với người dân (02 ý kiến); đề nghị chỉ những tổ chức, nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, đại lý cấp 1, nhà phân phối độc quyền mới phải thực hiện kê khai giá, bỏ quy định kê khai đối với các cá nhân, hộ kinh doanh nhỏ lẻ hoặc chỉ các nhóm đối tượng sau phải kê khai giá: (1) những doanh nghiệp sản xuất lần đầu tiên đưa sản phẩm vào thị trường; những doanh nghiệp nhập khẩu khi lần đầu tiên nhập khẩu hàng hóa để đưa vào thị trường để tiêu thụ; đề nghị bổ sung việc niêm yết giá kinh doanh trên nền tảng số, bổ sung quy định việc định giá đối với các đơn vị tư vấn định giá (08 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung lộ trình thực hiện quy định niêm yết giá, công khai giá đối với các trường hợp kinh doanh nhỏ lẻ (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị làm rõ nội dung cụ thể việc sử dụng cơ sở dữ liệu về giá trong công tác đấu thầu, mua sắm (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần tính toán, điều chỉnh đối với vấn đề niêm yết giá (ví dụ: ở sân bay một số mặt hằng có giá niêm yết quá cao, sẽ ảnh hưởng tới việc người dân sử dụng dịch vụ); đồng thời cũng quản lý vấn đề phí phụ thu vào các dịp lễ, tết.
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định bắt buộc về việc thực hiện niêm yết giá kịp thời ngay khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể Điều 32 để tránh trường hợp bán không đúng giá niêm yết (01 ý kiến).
10.9. Về kiểm tra yếu tố hình thành giá
Có ý kiến cho rằng, quy định giữa nội dung khoản 2 Điều 34 và tên Điều 34 chưa phù hợp với nhau, đề nghị chỉnh lý lại cho phù hợp (01 ý kiến ); đề nghị rà soát, bảo đảm tính thống nhất giữa khoản 2 Điều 34 và khoản 3 Điều 23 (01 ý kiến).
Nhiều ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể, chặt chẽ hơn thế nào là “có biến động bất thường” (13 ý kiến); quy định như dự thảo là khó khả thi (04 ý kiến).
10.10. Về thẩm định giá
a. Quy định chung về thẩm định giá
Một số ý kiến đề nghị thống nhất các quy định về thẩm định giá. Bổ sung nguyên tắc làm cơ sở phân chia thẩm định viên về giá theo loại tài sản, lĩnh vực định giá cụ thể; bổ sung nguyên tắc khi xây dựng kết quả thẩm định giá và cần phải quy định cụ thể việc công khai kết quả thẩm định giá; bổ sung nguyên tắc để có thể áp dụng vào việc thẩm định thương hiệu uy tín của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi đưa vào những đề án liên doanh, liên kết, đặc biệt là trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sử dụng một thương hiệu tham gia vào nhiều đề án xã hội hóa khác nhau (05 ý kiến). Có ý kiến đề nghị cần làm rõ giá trị pháp lý của báo cáo kết quả thẩm định và chứng thư của tổ chức thẩm định giá (02 ý kiến); đề nghị bỏ khái niệm thẩm định giá, dùng khái niệm dự báo giá (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định về người đứng đầu Hội đồng thẩm định giá, người có trách nhiệm ký kết quả thẩm định giá và việc xử lý trong trường hợp kết quả thẩm định giá chưa được cập nhật kịp thời lên cơ sở dữ liệu quốc gia; bổ sung về công tác hậu kiểm, việc phòng ngừa sai phạm trong lĩnh vực thẩm định giá (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị sửa đổi khoản 3 Điều 43 cho bảo đảm tính bao quát và có thể chuyển vào Điều 4 như sau: "Tài sản thẩm định giá là động sản, bất động sản, quyền sở hữu, quyền sử dụng, khai thác, tài sản hình thành trong tương lai, dịch vụ, chi phí thuê mua ngoài có đầy đủ thông tin pháp lý, kỹ thuật, điều kiện thương mại cụ thể, được cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị doanh nghiệp thẩm định giá, cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo nhu cầu với mục đích vào thời điểm cụ thể, các trường hợp pháp luật quy định phải thẩm định giá" (01 ý kiến).
b. Thẩm định viên về giá
Có ý kiến đề xuất sửa đổi như sau: "Thẩm định viên về giá là người có thẻ thẩm định viên về giá đã đăng ký hành nghề thông qua doanh nghiệp thẩm định giá và được Bộ Tài chính công nhận là thẩm định viên về giá. Thẩm định viên về giá phải duy trì điều kiện đăng ký hành nghề quy định tại khoản 1 Điều 47 luật này, trừ trường hợp là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện theo quy định tại Điều 53 của luật này" (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng trường hợp thẩm định viên về giá là người đại diện theo pháp luật không thể áp dụng điều kiện tại điểm b khoản 1 Điều 47 vì sẽ vi phạm khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định về việc đăng ký hành nghề thẩm định giá (khoản 3 Điều 47) như Luật hiện hành. Đề nghị bổ sung đối tượng không được hành nghề thẩm định giá khi đang bị tước thẻ thẩm định viên về giá vào khoản 3 Điều 46 (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “tước thẻ” (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị nghiên cứu lại điều kiện bằng cấp tốt nghiệp cho người tham dự kỳ thi thẩm định viên. Quy định rõ việc công bố danh sách thẩm định viên về giá bao gồm cả các tiêu chí về giá. Việc điều chỉnh danh sách thẩm định viên về giá được thông báo công khai, cập nhật hàng năm hoặc hàng tháng tùy trường hợp theo quy định trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính hoặc các phương tiện thông tin đại chúng khác. Đề nghị bổ sung Bộ Tài chính quy định về thi, cấp, quản lý, thu hồi, tước thẻ thẩm định viên về giá. Bổ sung thêm về quy trình rà soát và thông báo danh sách thẩm định viên về giá (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về nghĩa vụ của thẩm định viên về giá, như: thẩm định viên về giá chịu trách nhiệm trước pháp luật và doanh nghiệp thẩm định giá về tính trung thực, chính xác, khách quan, độc lập của kết quả thẩm định giá, phản ánh đầy đủ quá trình thực hiện vào kết quả thẩm định giá… (03 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị sửa đổi nội dung trong khoản 3 Điều 47 như sau: "Người có thẻ thẩm định viên về giá không được đăng ký hành nghề; đồng thời tại 2 doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá trở lên…” (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về chủ thể có thẩm quyền xác định về thời gian làm việc 36 tháng trở lên của thẩm định viên về giá; đề nghị quy định 36 tháng cần lấy theo thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị dùng cụm từ “thu hồi”, không nên dùng từ “tước” thẻ tại Điều 47 (03 ý kiến).
Có ý kiếnđề nghị quy định nội dung nâng cao chất lượng kỳ thi thẩm định viên về giá để đánh giá đúng người có chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp thay vì hạn chế người được tham gia; không nên giới hạn các cơ quan, các cơ sở đào tạo kiến thức chuyên môn để cấp thẻ hành nghề định giá mà nên mở ra các cơ sở đào tạo đủ điều kiện để đào tạo trong lĩnh vực này (01 ý kiến).
c. Doanh nghiệp thẩm định giá
Một số ý kiến đề nghị rà soát lại từ Điều 51 đến Điều 56, bảo đảm chất lượng của các tổ chức thẩm định giá (02 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị Bộ Tài chính không thực hiện cấp trực tiếp thẻ thẩm định viên về giá mà giao cho doanh nghiệp kinh doanh đã được Bộ Tài chính cho phép. Đề nghị nghị sửa cụm từ “Luật xử lý vi phạm hành chính”, thành “pháp luật về xử lý vi phạm hành chính” (03 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị phải đảm bảo điều kiện, tiêu chuẩn của cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá. Hình thành danh mục những hàng hóa, dịch vụ phải thẩm định giá, nhất là đối với những dự án trên phạm vi mua sắm quốc gia hoặc mua sắm theo ngành, nghề phải có những cơ quan thẩm định giá chuyên nghiệp (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị làm rõ lý do nâng điều kiện số lượng thẩm định viên tại doanh nghiệp thẩm định giá từ 3 đến ít nhất là 5 người; cân nhắc không nên tăng số lượng thẩm định viên, mà cần nâng cao chất lượng thẩm định viên (02 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, cơ quan thẩm định giá của nhà nước hiện nay chưa làm hết trách nhiệm, do đó cần tăng cường thêm lực lượng này (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại Điều 45 về hội nghề nghiệp về thẩm định giá, cần đánh giá tác động, xác định vai trò, vị trí, quyền hạn của Hiệp hội này đảm bảo cụ thể hơn (02 ý kiến); đề nghị nâng số lượng thành viên đáp ứng được nghiệp vụ cho hoạt động thẩm định giá theo luật, phải từ 50% trở lên để đáp ứng với tổng số lượng thành viên của những Hội đồng thẩm định giá có số lượng từ 3 thành viên trở lên (01 ý kiến). Có ý kiến không tán thành với việc tăng số lượng thẩm định viên về giá (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị khoản 1 Điều 51 của dự thảo Luật Giá sửa đổi như sau: khi đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá doanh nghiệp phải có ít nhất 5 thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 48 luật này đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, đồng thời phải đáp ứng các điều kiện tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ "người có thẻ thẩm định viên về giá" thành "thẻ thẩm định viên về giá", theo đó yêu cầu điều kiện sẽ được sửa tương ứng Điều 47 thành Điều 48. Đối với điểm a điều luật chưa làm rõ loại chủ thể chủ sở hữu của Công ty TNHH một thành viên nên cần tách ra để tránh hiểu lầm. Đối với điểm b, cụm từ "người đại diện" có thể hiểu là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền, do đó đề xuất bổ sung cụm từ "theo pháp luật" để điều luật được rõ ràng hơn (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị xem xét, sửa lại quy định “Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp và có tên trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được phát hành chứng thư thẩm định giá, báo cáo kết quả thẩm định giá đối với các hợp đồng thẩm định giá do chi nhánh ký kết với khách hàng thẩm định giá theo phân cấp, ủy quyền của doanh nghiệp thẩm định giá này” (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị điểm a khoản 1 Điều 53 sửa lại như sau: "Có đủ từ 36 tháng là thẩm định viên về giá". Có ý kiến sửa đổi như sau: ở điểm a khoản 1, đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện của người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật liên quan. Điểm đ khoản 1 được sửa như sau: có hợp đồng lao động không xác định thời hạn đang có hiệu lực đối với doanh nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về lao động, trừ trường hợp là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị tách điểm b khoản 1 Điều 53 của dự thảo đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp và duy trì điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 47 luật này thành điểm c và điểm d (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung, hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp, thủ tục, trình tự giải quyết tranh chấp. Kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá được tiến hành theo thủ tục tố tụng của Tòa trọng tài và Tòa án do pháp luật quy định. Điểm đ, khoản 2, Điều 55 quy định còn chung chung, cần quy định cụ thể việc bồi thường thiệt hại và chế tài xử lý, luật được viện dẫn để giải quyết trong trường hợp có vi phạm (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về công bố danh sách các tiêu chí đánh giá, phương pháp đánh giá kèm theo kết quả được cập nhật hàng năm trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính hoặc quy định bổ sung thiết chế, cơ chế đánh giá tín nhiệm đối với thẩm định viên và công ty thẩm định giá thực hiện bởi bên thứ ba kèm theo yêu cầu công khai thông tin đánh giá lên các phương tiện thông tin đại chúng. Quy định chi tiết về mức chi phí dịch vụ thẩm định giá tài sản cụ thể cho một số mục đích hoặc một số loại tài sản nhất định. Cần thiết phải có nguyên tắc chung để tính toán khung chi phí thực hiện hoạt động thẩm định giá để áp dụng cho hoạt động thẩm định giá nói chung và việc tính chi phí thẩm định giá của các hàng hóa được áp dụng trong các Luật chuyên ngành (01 ý kiến).
Một số ý kiến cho rằng, theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật xử lý vi phạm hành chính thì không quy định về các trường hợp “đình chỉ kinh doanh” mà chỉ quy định về đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh. Đề nghị nghiên cứu xem xét chỉnh sửa để quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 56 tại Dự thảo Luật thống nhất với Luật Doanh nghiệp, Luật xử lý vi phạm hành chính. Điều 56 bổ sung việc thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với chi nhánh (04 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại Điều 60, Điều 61 vì nội dung này thuộc quyền tự do thoả thuận hợp đồng và thoả thuận phương thức giải quyết tranh chấp của các chủ thể trong quan hệ về pháp luật dân sự (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị Điều 49 bỏ nội dung “không chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá”. Khoản 2, Điều 49 đề nghị bổ sung các nội dung về nghĩa vụ như sau: “Chịu trách nhiệm thực hiện đúng hướng dẫn của hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá và các quy định nội bộ khác của doanh nghiệp đăng ký hành nghề bảo đảm tính độc lập, khách quan, trung thực và tính chính xác của kết quả thẩm định trước pháp luật” (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần có cơ chế giám sát đối với doanh nghiệp thẩm định giá, quy định cơ quan có quyền hậu kiểm đối với thẩm định giá, kiểm tra quy trình thực hiện thẩm định viên (0 ý kiến).
10.11. Về thẩm định giá của Nhà nước
Có ý kiến đề nghị hạn chế tới mức tối đa việc thành lập Hội đồng định giá, chỉ thành lập trong trường hợp phải thực hiện giám định tư pháp hoặc trong trường hợp không thuê được hàng hóa hoặc không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá. Hội đồng có cơ chế hoạt động và phải có tiêu chuẩn cho các thành viên tham gia hoạt động. Quy định về trách nhiệm trong thẩm định giá của nhà nước còn chưa rõ ràng; đề nghị bổ sung quy định vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng định giá Nhà nước, đối tượng cụ thể của thẩm định giá Nhà nước (03 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, quy định về phạm vi tài sản được thẩm định giá tại Điều 62 dự thảo Luật còn hẹp. Đề nghị cần xem xét đặt ra yêu cầu thẩm định lại các kết luận của doanh nghiệp cung cấp kết quả thẩm định giá trong những trường hợp có dấu hiệu bất thường, có thể ảnh hưởng tới lợi ích của phía Nhà nước hoặc ảnh hưởng tới cộng đồng. Đối với một số lĩnh vực phức tạp, có tác động lớn như trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc thẩm định có thể chưa đủ, mà còn thực hiện “tái thẩm định” bởi nhiều hội đồng khác nhau (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị đối với Điều 62 cần đặt ra yêu cầu thẩm định lại các kết luận của các doanh nghiệp cung cấp kết quả thẩm định giá trong những trường hợp có dấu hiệu bất thường, có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung của Nhà nước hoặc ảnh hưởng đến người dân (01 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, Hội đồng thẩm định giá chỉ cần 01 người là thẩm định viên về giá là không hợp lý trong trường hợp giá trị định giá lớn… Hội đồng thẩm định giá Nhà nước thì bắt buộc phần lớn thành viên phải là người có chuyên môn về thẩm định giá, có thể mời thêm một số người khác để tham khảo ý kiến (02 ý kiến ). Có ý kiến đề nghị đánh giá kỹ tác động của quy định Hội đồng này cần tối thiểu 3 thành viên, trong đó có tối thiểu một thành viên có chuyên môn về lĩnh vực giá để bảo đảm tính khả thi; nếu chỉ cần tối thiểu 1 người có chuyên môn về lĩnh vực giá, yêu cầu tiêu chuẩn không quá cao như Dự thảo Luật thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu về thẩm định giá trên các lĩnh vực; nên quy định cơ quan chuyên môn về thẩm định giá thuộc cơ quan tài chính hoặc trách nhiệm tham gia của cơ quan tài chính trong thẩm định giá; bổ sung thêm quy định về miễn trừ trách nhiệm của Hội đồng thẩm định giá khi sử dụng kết quả thẩm định giá của đơn vị tư vấn và miễn trừ trách nhiệm của người có thẩm quyền quyết định giá khi sử dụng kết quả thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị hàng hóa do nhà nước thẩm định giá phải gồm cả hàng hóa của các DNNN (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị xác định tính pháp lý của kết quả định giá của Hội đồng định giá, của bộ chuyên ngành đối với tài sản của Nhà nước (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị kết quả thẩm định giá của thẩm định giá Nhà nước phải mang tính quyết định (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị cần cân nhắc thận trọng nội dung tại khoản 3 Điều 63 quy định Hội đồng thẩm định giá có quyền thuê doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá (01 ý kiến).
10.12. Về tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
Có ý kiến cho rằng, hiện nay đang không có cơ sở dữ liệu về giá chuẩn nên gây khó khăn cho công tác đấu thầu, quản lý giá, đặc biệt là đối với giá hàng hoá nhập khẩu. Phải sửa luật này và Luật Đấu thầu để bảo vệ cán bộ nếu cán bộ làm đúng theo quy định, nhưng thông tin không đầy đủ để biết được giá phù hợp (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định bổ sung trung tâm định giá quốc gia, trung tâm định giá khu vực, địa phương (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị đánh giá tác động về nguồn lực ngân sách nhà nước đối với việc bố trí ngân sách để đầu tư xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu này, làm rõ cơ chế thu, mức thu từ người truy cập vào cơ sở dữ liệu, phương án sử dụng nguồn thu này… (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị cân nhắc không quy định kinh phí hỗ trợ cho hoạt động này vào dự thảo Luật Giá (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị đưa khái niệm là kịch bản điều hành giá, dự báo về diễn biến lạm phát và các giải pháp, biện pháp điều hành giá trong một thời gian nhất định thành một khoản của Điều 4 về giải thích từ ngữ (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị làm rõ tính pháp lý của cơ sở dữ liệu và kết nối liên thông cơ sở dữ liệu; cần phải có nguồn từ ngân sách nhà nước để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá. Đề nghị bổ sung vào dự thảo nội dung để khẳng định tính pháp lý của giá hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá đất đã được cập nhật công khai trên cơ sở dữ liệu về giá (02 ý kiến).
10.13. Về kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá
Có ý kiến cho rằng, tại Chương 7 cần rà soát bổ sung thêm 1 số nội dung; làm rõ hơn vai trò cơ quan tham gia trong việc kiểm tra, hậu kiểm, giám sát tuân thủ việc thực thi pháp luật, xử phạt khi vi phạm (01 ý kiến). Có ý kiến đề nghị cân nhắc bỏ Điều 67 (02 ý kiến). Có ý kiến đề nghị bỏ chương này, quy định gộp vào khoản 2 Điều 69; đồng thời, giao trách nhiệm kiểm tra vào các điều quy định về thẩm quyền và giao Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định hướng dẫn trình tự, thủ tục kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá và thẩm định giá (01 ý kiến).
Một số ý kiến đề nghị làm rõ các chế tài xử lý vi phạm. Cân nhắc bổ sung một điều về xử lý vi phạm pháp luật về giá, quy định khiếu nại, tố cáo và quy định về thẩm quyền, quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực giá. Có chế tài xử lý các cơ quan, các bộ, ngành đối với những doanh nghiệp lợi dụng dịch bệnh để tăng giá… (06 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 1 Điều 68 về nguyên tắc kiểm tra, như sau: “Công tác kiểm tra được thực hiện theo kế hoạch, theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền hoặc khi phát hiện vi phạm, dấu hiệu vi phạm; khách quan, công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định”; quy định rõ đối với những doanh nghiệp lợi dụng dịch bệnh để tăng giá (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về cơ chế, trách nhiệm giám sát, kiểm tra, quy trình thực hiện thẩm định bảo đảm theo các quy định của pháp luật khác để giá trị của hàng hóa, dịch vụ không bị đẩy lên cao quá mức và đúng với giá trị thực tế. Ngăn chặn tình trạng thông đồng đẩy giá, tăng giá gấp nhiều lần so với giá trị thực tế của hàng hóa trên thị trường, đặc biệt quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, các cấp về công tác hậu kiểm, kết quả thẩm định; có chế tài đủ sức răn đe đối với tổ chức, cá nhân để xảy ra sai phạm. Hàng hóa vật liệu xây dựng thuộc diện phải kê khai chưa toàn diện, chưa đầy đủ, chưa phản ánh đủ tất cả các chủng loại. Đề nghị giao Chủ tịch UBND tỉnh căn cứ điều kiện thực tế để bổ sung danh mục hàng hóa thiết yếu cho phù hợp với quá trình tổ chức thực hiện tại địa phương (01 ý kiến).
10.14. Những nội dung khác
Có ý kiến cho rằng, việc quy định giá đất còn rất chậm; Đối với doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập phải có cơ chế để cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp ngoài nhà nước. Cần tính toán kỹ lưỡng để sát với giá thị trường. Hội đồng thẩm định giá và đơn vị tư vấn không thể tách rời nhau (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị sửa danh mục số thứ tự thứ 30 trong danh mục hàng hóa, dịch vụ cho Nhà nước định giá đất thành “quyền sử dụng đất”. Đối với Khoản 1 của Điều 26, đề nghị giải thích rõ về thuật ngữ, các nội dung, cơ chế, chính sách để trong quá trình soạn thảo nghị quyết ban hành về giá cho phù hợp (02 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị Điều 72 quy định luật áp dụng trong thời gian chuyển tiếp (01 ý kiến).
Có ý kiến đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan soạn thảo nghiên cứu kỹ, rà soát lại giá cả một số mặt hàng hóa, dịch vụ hiện nay chưa đảm bảo sự công bằng, không phù hợp với tình hình thực tế (02 ý kiến).
Có ý kiến cho rằng, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực về giá, phí, lệ phí, hóa đơn, Bộ Tài chính nên quy định về thẩm định viên về giá. Trường hợp trong năm thực hiện có sự biến động về điều chỉnh thẩm định viên thì doanh nghiệp có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản gửi Bộ Tài chính xem xét, điều chỉnh kịp thời. Định kỳ hàng tháng, trên cơ sở báo cáo của doanh nghiệp thẩm định giá, Bộ Tài chính xem xét, thông báo điều chỉnh danh sách thẩm định viên về giá (01 ý kiến).
Trên đây là Báo cáo tổng hợp các ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận Tổ và Hội trường về Dự án Luật Giá (sửa đổi). Tổng Thư ký Quốc hội xin trân trọng báo cáo.
Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý Dự án Luật Giá (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ủy ban thường vụ Quốc hội
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, tháng 5-6/2023
A0302-bc480-UBTVQH-tiep-thu-gtrinh-DA-Luat-Gia-sd---20230522101725.docx
Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội,
Tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và tại Hội trường về dự án Luật Giá (sửa đổi). Trên cơ sở tổng hợp ý kiến thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Ủy ban Tài chính, Ngân sách (Ủy ban TCNS) phối hợp chặt chẽ với Cơ quan soạn thảo, các cơ quan của Chính phủ và các cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH và chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật. UBTVQH xin báo cáo Quốc hội nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật này, cụ thể như sau:
I. NHỮNG NHÓM NỘI DUNG LỚN ĐƯỢC ĐẠI BIỂU QUAN TÂM
So với bản dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, sau khi tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo:
(1) Bỏ 03 Điều
[1];
(2) Bổ sung 06 Điều
[2];
(3) Bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung 14 nội dung của các Luật có liên quan
[3] tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 (sau đây gọi tắt là
Dự thảo Luật);
(4) Bổ sung thêm Phụ lục số 1 quy định Danh mục các hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá;
(5) Từng điều khoản đã được hoàn chỉnh về kỹ thuật lập pháp.
1. Về quan điểm, mục tiêu sửa đổi Luật
1.1. Nhiều ý kiến đề nghị việc sửa đổi Luật bảo đảm tính hiệu quả, khả thi, khắc phục vướng mắc, tạo sự minh bạch trong quản lý nhà nước về giá, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế. Một số ý kiến đề nghị xác định rõ phạm vi điều tiết của Nhà nước, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và nghiên cứu, thể hiện rõ hơn về nguyên tắc quản lý, điều hành giá trong cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố, kiện toàn các nguyên tắc cơ bản về quản lý nhà nước về giá cũng như bổ sung, luật hóa các nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường nhằm xây dựng hành lang pháp lý có tính toàn diện, thống nhất, đảm bảo bao quát và thuận lợi cho công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn.
Tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS đã phối hợp chặt chẽ với Cơ quan soạn thảo, các cơ quan của Quốc hội để rà soát, chỉnh lý Dự thảo Luật. Đến nay, Dự thảo Luật đã: (1) Loại bỏ các quy định gây vướng mắc, tạo sự minh bạch trong quản lý nhà nước về giá, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế. (2) Chỉnh lý, hoàn thiện theo hướng thể hiện rõ hơn nữa nguyên tắc thị trường trong quản lý giá, nguyên tắc định giá của Nhà nước; (3) Làm rõ quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, nhất là đối với việc tự định giá hàng hóa, dịch vụ của mình. (4) Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý giá; (5) Quy định đúng bản chất hoạt động thẩm định giá; trách nhiệm pháp lý của các bên trong thực hiện, giá trị pháp lý của các kết luận, chứng thư; (6) Các quy định khác đã được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH.
Như vậy, đến nay, Dự thảo Luật cơ bản thể hiện ý kiến đa số các vị ĐBQH, bảo đảm tính khả thi, minh bạch trong quản lý nhà nước về giá, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế. Trên cơ sở tiếp tục lắng nghe ý kiến các vị ĐBQH thảo luận tại Kỳ họp thứ 5 này, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục hoàn thiện Dự thảo luật để bảo đảm Luật được thông qua sẽ phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống.
1.2. Có ý kiến đề nghị cần làm rõ các nguyên tắc thị trường tại Dự thảo Luật, đồng thời cần quy định về cơ chế phải có nguồn lực (nguồn vốn ngân sách hoặc hàng hóa dự trữ) để điều tiết giá khi cần thiết
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tiếp thu ý kiến ĐBQH về yếu tố thị trường, tại Dự thảo Luật đã được chỉnh lý, hoàn thiện để
thể hiện rõ hơn nữa nguyên tắc thị trường trong công tác quản lý giá. Cụ thể tại khoản 1 Điều 5 về nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước
“Nhà nước quản lý, điều tiết giá theo cơ chế thị trường phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ; bảo đảm công khai, minh bạch, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật”; khoản 1 Điều 22 Dự thảo Luật về nguyên tắc định giá của Nhà nước
“Bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý, hợp lệ; lợi nhuận (nếu có) hoặc tích lũy theo quy định của pháp luật (nếu có) phù hợp với mặt bằng thị trường; bảo đảm phù hợp với cung cầu hàng hóa, dịch vụ, điều kiện thị trường tại thời điểm định giá và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ”. Đồng thời, tại Điều 8 đã quy định rõ quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhất là đối với việc tự định giá hàng hóa, dịch vụ của mình
[4]. Đây là những nguyên tắc gốc để các Luật chuyên ngành khác có quy định về giá cũng cần thực hiện theo để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong thể chế về giá nói chung. Đồng thời tại Dự thảo Luật cũng đã quy định rõ
“Quản lý, điều tiết giá theo cơ chế thị trường phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ…”. Nguyên tắc quản lý giá theo cơ chế thị trường được quy định thống nhất trong các nội dung tại Dự thảo Luật sửa đổi. Tuy nhiên tại Dự thảo Luật cũng đã làm rõ việc quản lý giá cũng phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.
Về ý kiến của ĐBQH đối với nội dung Nhà nước phải có nguồn lực (nguồn vốn ngân sách hoặc hàng hóa dự trữ) để điều tiết giá khi cần thiết.
UBTVQH nhận thấy, ý kiến ĐBQH là hợp lý và trên thực tế thì Nhà nước cũng đã thực hiện việc bố trí nguồn lực từ NSNN để thực hiện nhiệm vụ trên, bao gồm bố trí dự phòng NSTW theo luật NSNN để xử lý các tình huống cần thiết, thẩm quyền được giao Thủ tướng Chính phủ; mua, xuất cấp hàng dự trữ quốc gia theo quy định của Luật Dự trữ quốc gia. Những nguồn lực này trực tiếp, gián tiếp đều góp phần bình ổn giá.
2. Về tên gọi của Luật
Có ý kiến đề nghị tên gọi của Luật là Luật Bình ổn giá; Luật Quản lý giá; Luật Kiểm soát giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tên gọi của Luật là được kế thừa Luật Giá hiện hành, đã được thảo luận, cân nhắc kỹ và tiếp tục lựa chọn tên Luật Giá nhằm bảo đảm tính bao quát cả lĩnh vực quản lý nhà nước về giá cũng như cả hoạt động của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giá trên thị trường. Nếu dùng từ “quản lý” hoặc “kiểm soát giá” trong lĩnh vực giá dễ dẫn đến sự hiểu lầm (nhất là các tổ chức quốc tế) về chủ trương của Đảng và Nhà nước trong thúc đẩy cơ chế giá theo thị trường; trong khi Luật Giá được Quốc hội ban hành cũng bao hàm nội dung về quản lý, điều chỉnh hành vi, hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực giá. Nếu dùng từ “bình ổn giá” thì có thể sẽ làm hẹp phạm vi điều chỉnh của Luật vì nhiều vấn đề khác như định giá của Nhà nước, niêm yết giá, kê khai giá, hiệp thương giá, thẩm định giá cũng được quy định điều chỉnh tại luật. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ tên gọi của luật là “Luật Giá”.
3. Về áp dụng pháp luật
Một số ý kiến cho rằng cần rà soát các nội dung của Luật Giá (sửa đổi) để quy định rõ ràng, tránh trùng lặp hoặc xung đột với các luật có liên quan, trong đó có Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Đất đai, Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, Luật quản lý thuế cũng như các dự án Luật được đưa ra lấy ý kiến và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV để bảo đảm sự tương thích.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thứ nhất, vấn đề trùng lặp giữa Luật Giá với các Luật khác có liên quan là một trong những tồn tại hạn chế được xác định từ khâu tổng kết, đánh giá thi hành Luật; hiện có 19 luật có quy định về giá; các quy định về giá được quy định tại Luật Giá và cả các luật chuyên ngành đã dẫn đến trùng lặp, chồng chéo về một số quy định như Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, nguyên tắc, phương pháp định giá, quy trình định giá...
Do đó, để khắc phục những chồng chéo giữa các luật chuyên ngành, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về giá, việc rà soát Luật Giá với các luật khác được chú trọng thực hiện trong suốt quá trình soạn thảo theo nguyên tắc: Luật Giá (sửa đổi) sẽ điều chỉnh toàn diện những vấn đề về giá; quy định thống nhất Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá gắn với thẩm quyền, trách nhiệm, hình thức định giá. Riêng đối với một số mặt hàng đặc thù gồm là điện, đất đai, nhà ở, dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, dịch vụ giáo dục, bản quyền tác phẩm ghi âm, ghi hình đã được quy định rõ việc quản lý, điều tiết giá sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật chuyên ngành.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm rà soát kỹ, nghiên cứu các luật và các Dự thảo luật liên quan, chỉnh lý Điều 3
[5] nhằm bảo đảm:
(1) Bao quát về phạm vi điều chỉnh, tuyệt đối không tạo khoảng trống pháp lý;
(2) Bảo đảm tính thống nhất với pháp luật liên quan;
(3) Tuân thủ nguyên tắc áp dụng luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
[6]. (4) Đối với một số lĩnh vực đặc thù như đất đai, sở hữu trí tuệ, điện, học phí, dịch vụ giáo dục, dịch vụ khám chữa bệnh, nhà ở, Dự thảo Luật đã quy định rõ những vấn đề được thực hiện theo pháp luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực. Nội dung này được thể hiện
tại khoản 4 Điều 3 của Dự thảo Luật
[7] và Danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá
[8].
Thứ hai, đối với Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã quy định về các trường hợp chuyển nhượng vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp
[9] và Nghị định số 140/2020/NĐ-CP ngày 30/11/2020 của Chính phủ cũng đã hướng dẫn nội dung này
[10], theo đó, quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và Nghị định số 140/2020/NĐ-CP của Chính phủ thì khi chuyển nhượng vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải xác định giá khởi điểm để đấu giá. Việc xác định giá khởi điểm để phục vụ đấu giá là trách nhiệm của các doanh nghiệp; các doanh nghiệp có thể thuê các doanh nghiệp thẩm định giá để thực hiện tư vấn xác định giá. Trên cơ sở kết quả tư vấn của doanh nghiệp thẩm định giá thì đơn vị chuyển nhượng vốn phải ra quyết định về giá cụ thể để làm giá khởi điểm phục vụ đấu giá.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo chỉnh sửa Điều 59 Dự thảo Luật để đảm bảo rõ ràng cụ thể về hoạt động thẩm định giá của Nhà nước, theo đó: (i) chỉ điều chỉnh cơ chế, hoạt động thẩm định giá khi có phát sinh theo nhu cầu (có nghĩa là khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá để phục vụ các hoạt động của mình theo quy định của pháp luật thì có thể sử dụng thẩm định giá là phương thức để tư vấn theo quy định của Luật Giá) mà không quy định về các trường hợp phải thẩm định giá của Nhà nước; trên cơ sở đó không phát sinh mâu thuẫn với các quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
[11]; (ii) Luật Giá hiện hành và Dự thảo Luật không quy định các trường hợp bắt buộc phải thẩm định giá của Nhà nước; nhưng nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền lựa chọn phương thức thẩm định giá thì phải tuân thủ quy định về tổ chức thực hiện tại Luật Giá để đảm bảo thống nhất, đồng bộ.
Thứ ba, đối với luật Quản lý thuế là một đạo luật gốc, đã điều chỉnh toàn diện các vấn đề liên quan đến các sắc thuế, trong đó có thuế giá trị gia tăng... Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, tại Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) đã bổ sung chỉnh lý để quy định rõ về giá niêm yết phải đảm bảo đầy đủ các nội dung về thuế, phí để tăng cường công khai, minh bạch và công bằng giữa các doanh nghiệp.
Thứ tư, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo tổ chức đánh giá, rà soát kỹ với các dự án Luật được trình xin ý kiến hoặc trình thông qua tại Kỳ họp thứ 5, đặc biệt là các Luật như Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Đấu thầu...để đảm bảo không chồng chéo, mâu thuẫn.
4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
Nhiều ý kiến ĐBQH cho rằng, cần đẩy mạnh hơn phân quyền cho các cơ quan, các cấp; bảo đảm tính đồng bộ với chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực, tính thống nhất trong quản lý nhà nước, hạn chế giao Chính phủ hướng dẫn.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thứ nhất, về trách nhiệm, theo Luật Giá hiện hành, việc phân công nhiệm vụ giữa các Bộ, ngành; giữa cơ quan trung ương với địa phương; giữa các Sở, ngành ở địa phương còn một số nội dung chưa chưa thống nhất, nhiều đầu mối, quy trình thực hiện chưa gắn với trách nhiệm, khi phát sinh vướng mắc thường khó xác định trách nhiệm. Vì vậy, UBTVQH đã chỉ đạo, Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo tiếp thu, làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức trong Dự thảo Luật; cụ thể tại Chương III: “Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá” đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ Tài chính, các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh; bỏ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh. Các nội dung sửa đổi thể hiện từ Điều 12 đến Điều 16 trong Dự thảo Luật. Đồng thời, tại Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá ban hành kèm theo Luật đã quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, hình thức định giá đối với từng mặt hàng cụ thể để tăng cường tính minh bạch.
Thứ hai, về việc cụ thể hóa các điều khoản, hạn chế giao Chính phủ hướng dẫn, UBTVQH đã chỉ đạo, Ủy ban TCNS đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo rà soát kỹ Dự thảo Luật. Theo đó, Đồng thời đã rà soát kỹ các quy định để chỉ giao Chính phủ quy định chi tiết những nội dung về kỹ thuật, trong thực hiện sẽ có thể phải điều chỉnh phù hợp thực tiễn như trình tự, thủ tục điều chỉnh danh mục định giá, bình ổn giá, phương pháp định giá, Chuẩn mực thẩm định giá, vận hành cơ sở dữ liệu về giá… So với Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Dự thảo Luật đã giảm nội dung giao Chính phủ quy định (còn 12 nội dung
[12] so với 13 nội dung tại Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4). Các nội dung còn lại, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo Luật và quy định chi tiết về tổ chức thực hiện tại Nghị định của Chính phủ.
5. Về bình ổn giá
5.1. Đa số ý kiến đề nghị giữ như quy định của Luật hiện hành, theo đó cần quy định rõ mặt hàng bình ổn giá trong Luật, trường hợp cần điều chỉnh, giao UBTVQH xem xét, quyết định. Một số ý kiến đề nghị giao Chính phủ quy định về danh mục hàng hóa bình ổn giá.Một số ý kiến đề nghị bổ sung hàng hóa, dịch vụ cụ thể vào Danh mục bình ổn giá.
Tiếp thu ý kiến đa số, UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
(1) Giá là vấn đề ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến từng người dân, doanh nghiệp, liên quan ổn định thị trường, do đó cần được quy định cụ thể trong Luật nhằm tạo sự công khai, minh bạch, đặc biệt nhằm tránh việc lạm dụng để mở rộng phạm vi các mặt hàng thuộc diện bình ổn giá, hạn chế sự can thiệp từ cơ quan quản lý nhà nước đến quy luật cung cầu; bảo đảm tính pháp lý chắc chắn, ổn định, giúp doanh nghiệp, người dân đang kinh doanh những mặt hàng thuộc diện bình ổn giá có chiến lược kinh doanh phù hợp. Đồng thời, việc quy định rõ danh mục các mặt hàng bình ổn giá trong Luật cũng khắc phục tình trạng “luật khung, luật ống”.
(2)Để bảo đảm tính linh hoạt, kịp thời, Luật Giá hiện hành cũng đã quy định trường hợp cần điều chỉnh danh mục các mặt hàng bình ổn giá, Chính phủ trình UBTVQH xem xét, quyết định (UBTVQH họp hằng tháng và có thể họp bất thường để kịp thời quyết định). Vì vậy, để đúng với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan dân cử, bảo đảm công khai, minh bạch về chính sách nhưng vẫn đáp ứng tính linh hoạt, kịp thời, phù hợp thực tiễn, so với Dự thảo Luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Dự thảo Luật đã được chỉnh lý, hoàn thiện theo hướng giữ như quy định của Luật hiện hành.
Theo đó, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo bổ sung Phụ lục 01 quy định những mặt hàng bình ổn giá và tại khoản 3 Điều 17 Dự thảo Luật quy định: “Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, trên cơ sở đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tài chính trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá.” Đồng thời cũng chỉnh lý các quy định có liên quan tại các điều, khoản khác để đảm bảo tính tương thích.
5.2. Về Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá cụ thể
UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS đã phối hợp cùng Cơ quan soạn thảo và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan để rà soát, đánh giá cụ thể Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá như sau:
Luật Giá hiện hành quy định 11 hàng hóa, dịch vụ gồm: Xăng, dầu thành phẩm; điện; khí dầu mỏ hóa lỏng; phân đạm, phân NPK; thuốc bảo vệ thực vật theo quy định của pháp luật; vac-xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm; muối ăn; sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi; đường ăn bao gồm đường trắng và đường tinh luyện; thóc, gạo tẻ thường; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật. Qua rà soát, đánh giá tình hình thực hiện trong thời gian qua và so với các tiêu chí tại Khoản 1 Điều 17 Dự thảo Luật: (i) là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; (ii) có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống người dân cho thấy một số mặt hàng không còn phù hợp, cụ thể là:
- Đối với mặt hàng khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) là mặt hàng thuộc danh mục bình ổn giá hiện hành. Dự thảo Luật gửi xin ý kiến các Đoàn ĐBQH (ngày 19/4/2023) đề xuất đưa ra khỏi danh mục vì nguồn cung đảm bảo, nhu cầu sử dụng ngày càng ít hơn cũng như dự kiến được quản lý theo phương thức giá tham chiếu. Tuy nhiên ý kiến ĐBQH vẫn đề nghị phải giữ mặt hàng này trong Danh mục bình ổn giá vì đây vẫn là mặt hàng thiết yếu, giá ảnh hưởng lớn từ mức giá trên thị trường quốc tế cũng như trong một số tình huống thực tiễn thì việc bình ổn giá là vẫn cần thiết. Qua đánh giá, để tránh xáo trộn trong quy định hiện hành và quy định tại Dự thảo Luật, xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và đưa trở lại danh mục đối với mặt hàng này.
- Điện: Mặt hàng này hiện thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá (kể cả giá bán lẻ, bán buôn cũng như tại các khâu phát, truyền tải...); việc định giá, điều chỉnh giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền định giá quyết định nên về cơ bản đã bao quát các mục tiêu về ổn định giá cả, tác động đến đời sống người dân, doanh nghiệp cũng như chính phương án kinh doanh của doanh nghiệp điện. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho đưa mặt hàng này ra khỏi Danh mục bình ổn giá.
- Mặt hàng muối ăn và đường ăn (trong đó được phân loại gồm đường trắng và đường tinh luyện): Qua theo dõi nhiều năm cho thấy giá các mặt hàng này tương đối ổn định; nguồn cung ngày càng dồi dào, nhu cầu ít biến động và cơ cấu tiêu dùng của người dân cũng có sự chuyển dịch theo hướng giảm nên không cần thiết nằm trong danh mục bình ổn giá. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho đưa mặt hàng này ra khỏi Danh mục bình ổn giá.
- Mặt hàng thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản là hàng hóa thiết yếu đối với sản xuất chăn nuôi, chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành chăn nuôi, là một ngành sản xuất đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Trong thời gian qua một số ý kiến của cử tri có đề nghị xem xét bình ổn giá mặt hàng này nhưng chưa triển khai được do chưa thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho đưa mặt hàng này vào Danh mục bình ổn giá.
- Ý kiến của một số ĐBQH đề nghị bổ sung (i) sữa dành cho người cao tuổi, (ii) thịt lợn (thịt heo) vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá để đảm bảo cơ sở triển khai trong các trường hợp cũng như đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Qua rà soát, các mặt hàng này đáp ứng tiêu chí hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá quy định tại Dự thảo Luật. Trong đó sữa dành cho người cao tuổi là mặt hàng tương đồng với sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi, đều hướng đến các đối tượng yếu thế trong xã hội; mặt hàng thịt lợn (thịt heo) thời gian trước đây có nhiều biến động và có tỉ trọng lớn trong tiêu dùng, ảnh hưởng đến đời sống người dân. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho đưa mặt hàng này vào Danh mục bình ổn giá.
Như vậy, Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá sẽ gồm 10 mặt hàng:
(1) Xăng, dầu thành phẩm.
(2) Khí dầu mỏ hóa lỏng.
(3) Sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi; sữa dành cho người cao tuổi.
(4) Thóc tẻ, gạo tẻ.
(5) Thịt lợn (thịt heo).
(6) Phân đạm; phân DAP; phân NPK.
(7) Thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản.
(8) Vắc - xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm.
(9) Thuốc bảo vệ thực vật.
(10) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Qua tổng hợp ý kiến của các ĐBQH, còn có một số đề nghị bổ sung một số hàng hóa, dịch vụ vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, UBTVQH xin báo cáo giải trình như sau:
- Đối với mặt hàng trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19: tại Nghị Quyết số 41/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội và Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị bổ sung mặt hàng này vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá. Tuy nhiên, tại Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế và Nghị định số 07/2023/NĐ-CP ngày 03/3/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 98/2021/NĐ-CP đã quy định biện pháp kê khai giá đối với trang thiết bị y tế; mặt khác trong bối cảnh bình thường trước và sau đại dịch như hiện nay, mặt bằng giá những mặt hàng trang thiết bị y tế là tương đối ổn định, cơ bản không có biến động. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc đưa mặt hàng này vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá là không còn phù hợp.
- Đối với mặt hàng lương thực, có ý kiến đề nghị bổ sung “gạo nếp” bên cạnh các mặt hàng đã có là thóc tẻ, gạo tẻ. Tuy nhiên qua rà soát, đánh giá tính thiết yếu cũng như nhu cầu, nguồn cung trong thực tiễn cho thấy chưa cần thiết phải bổ sung mặt hàng này vào Danh mục do nhu cầu tiêu dùng chỉ tập trung vào một số thời điểm cũng như không phải nhu cầu cơ bản của con người như thóc tẻ, gạo tẻ. Do vậy xin không bổ sung vào Danh mục.
- Đối với mặt hàng thực phẩm, có ý kiến đề nghị bổ sung các loại thịt, trứng, rau củ hoặc một số mặt hàng công nghệ phẩm như dầu ăn, mì gói, các loại gia vị nấu ăn; tuy nhiên cũng trên cơ sở đánh giá tính thiết yếu và cung cầu cho thấy việc đưa các hàng hóa, dịch vụ này vào danh mục một mặt khó cho công tác tổ chức thực hiện khi đều có tính thị trường rất cao, một mặt dễ dẫn đến phản ứng từ các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này. Do đó, cơ bản tiếp thu ý kiến ĐBQH đối với mặt hàng thịt lợn do một phần đã có thực tiễn và là mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng cơ bản lớn trong đời sống của người dân; các mặt hàng khác xin không đưa vào danh mục và chỉ bình ổn đối với hàng hóa ngoài danh mục trong các trường hợp khẩn cấp theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 18 Dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, tại Điểm b Khoản 2 Điều 18 Dự thảo Luật đã quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét bình ổn giá khi công bố tình trạng khẩn cấp, dịch bệnh và thiên tai. Trong trường hợp này, được xác định là có tính đặc thù, tại điểm a khoản 2 Điều 20 Dự thảo Luật đã quy định UBTVQH được áp dụng ngay các biện pháp bình ổn giá để ứng phó kịp thời, kể cả đối với hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục. Do vậy cơ bản đã đảm bảo đủ cơ chế để triển khai trong các trường hợp. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội nhất trí không đưa các hàng hóa, dịch vụ trên vào Danh mục bình ổn giá.
5.3.Nhiều ý kiến cho rằng, cần quy định về Quỹ bình ổn giá trong Luật, song cần quy định rõ và mở rộng theo hướng đó là một trong các biện pháp bình ổn giá, không nên có một điều riêng về quỹ; cần hoàn thiện cơ chế quản lý Quỹ, quy định nguyên tắc, điều kiện thành lập Quỹ, nguồn hình thành Quỹ, thời hạn hoạt động của Quỹ và giao cho Chính phủ quyết định; bảo đảm công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích của Nhà nước và Nhân dân. Cũng có ý kiến đề nghị không quy định nội dung này tại Dự thảo Luật.
UBTVQH xin tiếp thu như sau:
Thứ nhất, việc tiếp tục quy định về quỹ bình ổn giá tại Dự thảo Luật là nhằm (i) tiếp tục kế thừa quy định của Điều 17 Luật Giá hiện hành
[13]; (ii) để bảo đảm căn cứ pháp lý, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong các trường hợp cần thành lập quỹ. Trên cơ sở đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ quy định về Quỹ bình ổn giá tại Dự thảo Luật (nếu không quy định trong Luật, trường hợp phát sinh cần thiết phải thành lập quỹ bình ổn giá sẽ không có căn cứ để triển khai).
Thứ hai, tiếp thu ý kiến ĐBQH, quy định rõ theo hướngviệc sử dụng quỹ bình ổn giá là một trong các biện pháp bình ổn giá (thay vì việc lập quỹ là một biện pháp như Luật hiện hành) để phù hợp với thực tiễn;đồng thời đưa các quy định nguyên tắc về quỹ bình ổn giá vào điểm đ khoản 1 Điều 19 Dự thảo Luật và không kết cấu một điều riêng về quỹ bình ổn giá như tại Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4.
Thứ ba, tiếp thu ý kiến ĐBQH, để bảo đảm công khai, minh bạch, tăng cường trách nhiệm quản lý, tại điểm đ khoản 1 Điều 19 Dự thảo Luật đã quy định rõ: “Chính phủ quyết định việc lập quỹ bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ chiến lược thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá; quy định về quản lý, trích lập, sử dụng quỹ bình ổn giá và chịu trách nhiệm bảo đảm tính công khai, minh bạch, hiệu quả trong quản lý, sử dụng quỹ”.
5.4. Nhiều ý kiến tán thành duy trì Quỹ bình ổn xăng dầu, một số ý kiến đề nghị không tiếp tục duy trì Quỹ bình ổn giá xăng dầu. Có ý kiến đề nghị lấy ý kiến Nhân dân về sự cần thiết duy trì Quỹ bình ổn giá xăng dầu.
UBTVQH cho rằng, trong điều kiện hiện nay nên duy trì Quỹ bình ổn xăng dầu vì: (1) Quỹ bình ổn giá xăng dầu là một trong những công cụ điều tiết giá xăng dầu trong nước, là biện pháp kinh tế, không phải là can thiệp hành chính. (2) Trong bối cảnh hiện nay việc bỏ Quỹ là chưa phù hợp vì (i) khi thị trường xăng dầu của Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn vận hành theo quy luật thị trường, còn có sự điều hành của Nhà nước; (ii) khi quản lý điều hành giá bán lẻ xăng dầu trong nước vẫn thông qua giá cơ sở; (iii) khi chu kỳ điều chỉnh giá xăng dầu trong nước còn tương đối dài; (iv) khi lượng dự trữ xăng dầu còn mỏng. (3) Thực tế thời gian qua cho thấy, khi giá xăng dầu thế giới biến động thì Quỹ bình ổn đã phát huy vai trò “điều hòa”, góp phần giảm tần suất và mức điều chỉnh tăng giá bán xăng dầu, giảm biên độ biến động giá, từ đó giảm thiểu các tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến ĐBQH, đề nghị trong quản lý, điều hành Quỹ bình ổn giá xăng dầu, Chính phủ cần đề cao tính công khai, minh bạch về thực trạng nguồn, việc sử dụng Quỹ, nâng cao tính kịp thời, hiệu quả thực tế trong điều hành, nhất là khi biến động, đồng thời có lộ trình để sớm đưa giá xăng dầu của Việt Nam hoàn toàn vận hành theo quy luật thị trường.
Đối với đề nghị lấy ý kiến Nhân dân về sự cần thiết duy trì Quỹ bình ổn giá xăng dầu, UBTVQH xin báo cáo tại Luật Giá không có quy định điều chỉnh trực tiếp về Quỹ bình ổn giá xăng dầu mà chỉ có quy định nguyên tắc chung đối với việc lập quỹ và sử dụng quỹ bình ổn giá. Việc xin ý kiến Nhân dân theo quy định tại Luật Ban hành văn bản chỉ áp dụng đối với các nội dung có tác động lớn (như Hiến pháp, Luật Đất đai…).
Quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện được Chính phủ quyết định thành lập và quy định cơ chế tại Nghị định 83/2014/NĐ-CP và Nghị định 95/2021/NĐ-CP. Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật, Cơ quan soạn thảo gửi ý kiến rộng rãi Nhân dân, các đối tượng chịu tác động của Luật trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, trang điện tử của Bộ Tài chính theo đúng quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong đó để đảm bảo thận trọng, toàn diện cũng đã có nội dung về xin ý kiến đánh giá về sự cần thiết của quy định về quỹ bình ổn giá, bao gồm cả Quỹ bình ổn giá xăng dầu. Ý kiến của nhân dân còn đa chiều, có ý kiến đề xuất bỏ quy định về quỹ nhưng cũng có nhiều ý kiến ủng hộ sự cần thiết của Quỹ bình ổn giá xăng dầu; bên cạnh đó, đa số ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương (trong đó có ý kiến của Bộ Công Thương, Hiệp hội xăng dầu Việt Nam) nhất trí với sự cần thiết của quy định về quỹ bình ổn giá và đề nghị giữ quy định về Quỹ bình ổn giá xăng dầu. Hiện nay Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu. Quy định về Quỹ bình ổn giá xăng dầu sẽ tiếp tục được đánh giá, làm rõ và có sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế hiện nay.
6. Về định giá
6.1. Nhiều ý kiến đề nghị quy định cụ thể các tiêu chí, trường hợp hàng hóa, dịch vụ Nhà nước định giá, phương pháp định giá và Danh mục hàng hóa, dịch vụ Nhà nước định giá cần rà soát kỹ lưỡng, phù hợp với các luật chuyên ngành; đồng thời có ý kiến chi tiết về một số hàng hóa, dịch vụ cụ thể.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH
đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý, bổ sung một số quy định về định giá của Nhà nước tại Mục 2 Chương IV nhằm bảo đảm khả thi, minh bạch, bảo vệ những người làm công tác định giá. Cụ thể so với Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Dự thảo Luật đã có chỉnh lý hoàn thiện như sau: (1) Kết cấu lại các Điều, khoản tại Mục 2 chương IV để tăng tính tương thích, liền mạch; (2) đối với những hàng hóa, dịch vụ được quy định tại các luật chuyên ngành đã quy định theo hướng các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan liên quan ban hành phương pháp định giá bao gồm: điện, đất đai, dịch vụ khám chữa bệnh, học phí, dịch vụ giáo dục, bản quyền khi khai thác, sử dụng tác phẩm ghi âm, ghi hình...[14]; (3) đối với Danh mục hàng hóa, dịch vụ Nhà nước định giá được quy định tại Dự thảo Luật, đã chỉnh lý, bổ sung chi tiết liên quan đến thẩm quyền, hình thức định giá các mặt hàng do Nhà nước định giá và được thể hiện tại Danh mục kèm theo Dự thảo Luật
[15];
(4) để làm rõ tính pháp lý và tạo thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện, khắc phục hạn chế trong thời gian qua, đã chỉnh lý quy định tại khoản 1 Điều 24 Dự thảo Luật về việc ban hành văn bản định giá, cơ chế, chính sách giá
[16].
Tuy nhiên, quan điểm của Chính phủ là đề nghị phải giữ quy định về giá trần và bỏ quy định về giá sàn đối với vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa.
Đa số ĐBQH cũng tán thành việc cần giữ quy định về giá trần; bỏ quy định về giá sàn đối với dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa.
Một số ý kiến cho rằng, không nên áp dụng giá trần đối với các dịch vụ này vì: (1) Hàng hóa, dịch vụ này chưa thật sự phù hợp tiêu chí hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; (2) Không phù hợp với nguyên tắc thị trường khi đã có nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực này; (3) Giá trần do cơ quan quản lý Nhà nước quy định trong một số trường hợp thấp hơn chi phí đầu tư của nhà đầu tư hoặc thấp hơn chi phí đầu vào do giá cả vật tư, nguyên, nhiên vật liệu tăng cao; (4) Việc điều chỉnh giá trần của cơ quan Nhà nước thường rất chậm, không theo kịp biến động của thị trường gây khó khăn, thua lỗ lớn cho các doanh nghiệp. Đồng thời, làm mất đi nguồn lực, tài nguyên, nguồn thu NSNN của nhà nước. (5) Quy định giá trần nhưng không quy định giá tối thiểu trong nhiều trường hợp dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh; (6) Làm hạn chế doanh nghiệp kinh doanh phân khúc chất lượng cao, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa công bằng đối với các loại hình dịch vụ khác vì tàu hỏa, taxi đều do doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tự định giá.
Tiếp thu ý kiến đa số ĐBQH, UBTVQH cho rằng, việc giữ quy định về giá trần và bỏ quy định về giá sàn đối với dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địalà cần thiết vì các lý do sau:
Thứ nhất, cần thiết bỏ giá sàn đối với dịch vụ hàng không nội địa vì:
(1) Trên cơ sở tổng kết Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Bộ GTVT đã đánh giá và đề xuất bỏ quy định về giá sàn nhằm tạo cơ chế khuyến khích cạnh tranh để giảm giá dịch vụ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, nhất là của nhiều đối tượng có thu nhập thấp được tiếp cận các dịch vụ hàng không; qua đó giảm chi phí xã hội cho các nhu cầu vận chuyển của người dân cũng như thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
(2) Việc bỏ giá sàn mở cơ hội cho doanh nghiệp cạnh tranh nhưng hoàn toàn không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có quyền cạnh tranh không lành mạnh vì cho dù doanh nghiệp có hạ giá bán thì vẫn phải tuân thủ các quy định tại Luật Cạnh tranh về vấn đề này.
(3) Thực tế việc bỏ quy định về giá sàn không gây tác động đến các doanh nghiệp hàng không hiện nay do trên thực tế trong các năm qua giá sàn trong khung giá được quy định bằng 0 (khoản 2 Điều 3 Thông tư số 17/2019/TT-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa).
(4) Đối với thu ngân sách nhà nước, việc bỏ quy định giá sàn sẽ mang lại nhiều cơ hội tham gia vận chuyển bằng đường hàng không cho người dân, góp phần phát triển thị trường hàng không nội địa, tạo cạnh tranh sôi động. Qua đó, tăng số lượng người dân sử dụng dịch vụ vận chuyển hàng không, góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận cho các hãng hàng không, theo đó tăng thu cho ngân sách nhà nước khi các hãng hàng không thực hiện các nghĩa vụ thuế với ngân sách nhà nước.
(5) Hiện nay, tùy thuộc nhu cầu đi lại của hành khách, kinh doanh dịch vụ vận chuyển hàng không thường có mùa cao điểm, mùa thấp điểm; chuyến bay có giờ bay phù hợp sẽ có nhiều hành khách mua vé và ngược lại những chuyến bay muộn, bay ban đêm thường ít hành khách. Do vậy, trên thực tế, các hãng hàng không luôn xây dựng dải giá linh hoạt với nhiều mức giá, tương ứng với các điều kiện, thời điểm mua khác nhau. Doanh thu, chi phí sẽ được tính tổng chung theo chuyến bay, đường bay hoặc có thể theo mùa vụ. Trong đó có những mức giá thấp, có nhiều loại vé cho, tặng (0 đồng chưa bao gồm thuế, và các khoản thu hộ) theo từng đợt khuyến mại, giảm giá của hãng.
Thứ hai, tiếp thu ý kiến đa số ĐBQH, UBTVQH cho rằng, việc giữ quy định giá trần là cần thiết vì các lý do sau:
(1) Căn cứ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 21 của Dự thảo Luật thì dịch vụ này đáp ứng các tiêu chí luật định và thuộc loại hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, là: “hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, có tính chất độc quyền trong mua bán hoặc có thị trường cạnh tranh hạn chế và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh”. Trên thực tế, với bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu ngày càng cao thì dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa là thiết yếu, tác động với phạm vi rất lớn đến đời sống người dân, đến hoạt động sản xuất - kinh doanh.
(2) Cùng với đề xuất bỏ giá sàn, việc đặt ra vấn đề không quy định giá trần đồng nghĩa với việc Nhà nước bỏ công cụ điều tiết và để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ toàn quyền quyết định giá cung cấp dịch vụ. Các hãng hàng không hoàn toàn có thể đưa ra giá dịch vụ, trong đó có giá vé máy bay ở mức cao, sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng, đến sản xuất, kinh doanh, tác động đến xã hội.
(3) Cần phân định rõ vướng mắc do tổ chức thực hiện hay do pháp luật. Theo quy định hiện hành, để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, kịp thời, thẩm quyền điều chỉnh khung giá đã được giao cho Chính phủ. Nếu giá khung giá có thời điểm chưa phù hợp với thực tiễn thì nguyên nhân là do khâu tổ chức thực hiện chưa kịp thời; không phải do quy định của Luật. Vì vậy, trường hợp nhận thấy giá trần chưa phù hợp thì các đối tượng chịu tác động có quyền đề nghị Chính phủ kịp thời điều chỉnh. Thời gian qua, nhiều hãng hàng không thua lỗ là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do tác động tiêu cực từ đại dịch Covid.
(4) Việc bỏ quy định về áp dụng giá trần đối với dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa là vấn đề lớn, thay đổi một chính sách quan trọng và theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải được đánh giá tác động kỹ lưỡng; trong khi chưa đánh giá tác động thì chưa đủ căn cứ sửa đổi.
Thứ ba, về vấn đề “mức giá 0 đồng” của các hãng hàng không, UBTVQH xin báo cáo như sau:
(1) Về cơ sở pháp lý, tại Thông tư 17/2019/TT-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định tại khoản 2 Điều 3: “Khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên đường bay nội địa có dải giá từ 0 (không) đồng đến mức tối đa của từng nhóm cự ly bay. Hãng hàng không quyết định dải giá dịch vụ vận chuyển hành khách trong khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách đảm bảo phù hợp với chi phí sản xuất kinh doanh thực tế của từng chuyển bay.”. Đồng thời tại khoản 1 Điều 4 cũng quy định cụ thể mức tối đa trong khung giá. Tại khoản 2 Điều 4 quy định: “Mức tối đa giá dịch vụ quy định tại khoản 1 Điều này đã bao gồm toàn bộ chi phí hành khách phải trả cho 01 vé máy bay, trừ các khoản thu sau: a) Thuế giá trị gia tăng; b) Các khoản thu hộ doanh nghiệp cung ứng dịch vụ nhà ga hành khách và dịch vụ đảm bảo an ninh, bao gồm: giá phục vụ hành khách, giá đảm bảo an ninh hành khách, hành lý; c) Khoản giá dịch vụ đối với các hạng mục tăng thêm.”
Dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không là một dịch vụ có tính đặc thù, với các chính sách về kinh doanh thì các doanh nghiệp có nhiều mức giá linh hoạt trên cùng một chuyến bay, và là một cơ chế được tất cả các hãng hàng không áp dụng. Hãng hàng không quyết định dải giá dịch vụ vận chuyển hành khách trong khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách đảm bảo phù hợp với chi phí sản xuất kinh doanh thực tế của từng chuyển bay. Tại Luật Giá hiện hành cũng có quy định về nguyên tắc định giá phải “Bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý, hợp lệ; lợi nhuận (nếu có) hoặc tích lũy theo quy định của pháp luật (nếu có) phù hợp với mặt bằng thị trường; bảo đảm phù hợp với cung cầu hàng hóa, dịch vụ, điều kiện thị trường tại thời điểm định giá và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.” và tiếp tục được kế thừa tại Luật sửa đổi; các quy định này cơ bản phù hợp với các nguyên tắc trong việc xác định giá dịch vụ vận chuyển hành khác hàng không.
(2) Các quy định tại Thông tư 17/2019/TT-BGTVT cũng đã nêu rõ nguyên tắc khung giá vé để áp dụng cho 01 vé máy, đồng thời phải bao gồm các khoản thuế, phí theo quy định. Thực tế việc có hãng hàng không áp dụng “mức giá 0 đồng” là chưa gồm thuế, phí theo quy định và thực tế người tiêu dùng vẫn phải chi trả một khoản tiền nhất định. Việc đưa ra các chính sách về mức giá thấp thực tế có thể coi như một hình thức ưu đãi, chỉ áp dụng cho một số ít ghế; thực tế mức giá phải trả cũng không phải là 0 đồng.
(3) Để xác định hãng hàng không có vi phạm Luật Cạnh tranh hay không thì phải căn cứ trên toàn bộ chi phí sản xuất, kinh doanh của từng chuyến bay và mức giá bình quân vé máy bay, không phải chỉ trên cơ sở các mức giá vé đơn lẻ. Đây là vấn đề thuộc khâu tổ chức thực hiện; các quy định tại Luật Giá hiện hành và Luật Giá (sửa đổi) đối với việc định giá hàng hóa, dịch vụ nói chung và với giá dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nói riêng là vẫn phù hợp.
(4) Về mối quan hệ với quy định về chống bán phá giá: UBTVQH thấy rằng, căn cứ vào hệ thống pháp luật hiện hành thì các chính sách về chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với thương mại quốc tế (giữa các quốc gia), do vậy không điều chỉnh đối với vấn đề giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa.
Thứ tư, về việc có ý kiến đề nghị cân nhắc sự cần thiết của việc tiếp tục giữ quy định giá sàn và giá trần (khung giá) đối với dịch vụ bốc dỡ container; giá tối đa đối với dịch vụ hoa tiêu; đề nghị thay đổi hình thức định giá dịch vụ hàng hải sang thực hiện theo Luật chuyên ngành.
Tiếp thu ý kiến đa số ĐBQH, UBTVQH xin tiếp tục giữ quy định giá sàn và giá trần (khung giá) đối với dịch vụ bốc dỡ container; giá tối đa đối với dịch vụ hoa tiêu vì các lý do sau:
(1) Quy định này kế thừa các quy định hiện hành tại Bộ luật Hàng hải Việt Nam. Trên thực tế, dịch vụ bốc dỡ container là một trong số dịch vụ quan trọng, thiết yếu mang lại doanh thu chính cho cảng; bên cạnh các doanh nghiệp trong nước, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp quốc tế cũng tham gia khai thác dịch vụ này; thực tế có tình trạng doanh nghiệp quốc tế chèn ép, thao túng đối với giá dịch vụ này, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp trong nước. Do đóvẫn cần quy định giá sàn để bảo toàn phần vốn nhà nước đã đầu tư tại các cảng biển, các doanh nghiệp trong nước khi đầu tư vào cảng biển; tránh tình trạng doanh nghiệp nước ngoài chèn ép, thao túng, thâu tóm dịch vụ này.
(2) Mặt khác việc duy trì giá tối đa trong khung giá là cần thiết, tạo công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, doanh nghiệp, đảm bảo mức giá ở mức phù hợp, hỗ trợ cho các hoạt động logicstic, giảm giá thành hàng hóa, dịch vụ trong nước.
(3) Riêng đối với dịch hoa tiêu, tương tự như dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không đã chuyển từ khung giá sang định giá theo giá tối đa (bỏ giá sàn) để thúc đẩy cạnh tranh trong nước do dịch vụ này hoàn toàn chỉ do các đơn vị trong nước cung cấp dịch vụ (không có đơn vị quốc tế).
Thứ năm,về nội dung đề nghị để Bộ Giao thông vận tải quyết định giá theo luật chuyên ngành, UBTVQH xin báo cáo cụ thể như sau: Bộ Luật Hàng hải hiện nay chưa quy định cụ thể các nội dung quy định về giá như căn cứ định, nguyên tắc định giá, phương pháp định giá... Do vậy, nếu để quy định thực hiện theo luật chuyên ngành (cụ thể là Bộ luật Hàng hải) như đề nghị của Hiệp hội cảng biển Việt Nam thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Bộ Giao thông vận tải) định giá dịch vụ tại cảng biển sẽ chưa có có đầy đủ các quy định về căn cứ, nguyên tắc định giá, phương pháp định giá cũng như các quy định khác mà Luật Giá sửa đổi, bổ sung đang quy định. Do vậy, UBTVQH xin được giữ quy định như Dự thảo Luật để không tạo khoảng trống pháp lý.
6.3. Về Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá chi tiết tại phụ lục kèm theo Luật, một số ý kiến xem xét bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá cho phù hợp với yêu cầu và thực tiễn đặt ra trong tình hình mới. Đồng thời, rà soát đánh giá thực trạng để điều chỉnh việc phân công, phân cấp trong quản lý điều hành giá nhằm nâng cao tính hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ điều kiện thực tế tại địa phương. Một số ý kiến góp ý cụ thể về danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá về một số mặt hàng.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội việc tiếp thu và chỉnh lý một số nội dung tại Danh mục kèm theo Dự thảo Luật như sau:
(1) Một số ĐBQH đề nghị bổ sung dịch vụ xác thực định danh điện tử vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá. Rà soát cho thấy dịch vụ này bảo đảm tiêu chí thuộc hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá. Bên cạnh đó, có một số ý kiến tham gia của các Bộ, ngành (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính...) cũng có ý kiến tương tự đối với một số dịch vụ từ các cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Các cơ sở dữ liệu như đã nêu trên ngoài việc phải bảo đảm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước thì việc cung cấp thông tin theo nhu cầu xã hội, là một trong những dịch vụ có tính gia tăng của các cơ sở dữ liệu. Mặt khác, cơ chế để vận hành cơ sở dữ liệu cơ bản là do một đơn vị sự nghiệp trực thuộc bộ hoặc một đơn vị thuộc bộ thực hiện, vì vậy việc các đơn vị này được thu một khoản tiền dịch vụ thông qua giá dịch vụ là phù hợp. Vì vậy, tại danh mục đã bổ sung như sau: “Sản phẩm, dịch vụ khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin do bộ, ngành quản lý theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân; Bộ, ngành được giao quản lý cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quyết định giá cụ thể, giá tối đa, khung giá (tùy dịch vụ)”.
(2) Đối với dịch vụ đấu giá tài sản, dịch vụ công chứng, trên cơ sở ý kiến của ĐBQH, tại Công văn số 961/BTP-BTTP ngày 17/3/2023, Bộ Tư pháp đã có đánh giá chi tiết và đề nghị đưa lại 02 dịch vụ này vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, trong đó cũng đề xuất điều chỉnh thẩm quyền định giá dịch vụ đấu giá tài sản từ Bộ Tài chính cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định khung giá. Trên cơ sở đánh giá chi tiết, xin bổ sung trở lại các hàng hóa, dịch vụ này nhưng có chỉnh lý về tên hàng hóa, dịch vụ, thẩm quyền, hình thức định giá để đảm bảo phù hợp với thực tiễn các tiêu chí xác định hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá như sau:
- Đối với dịch vụ đấu giá tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá (chỉnh lý tên gọi từ dịch vụ đấu giá tài sản) thì giao Bộ Tư pháp định khung giá để tránh xáo trộn các quy định hiện hành do hiện nay chỉ có 1 khung giá chung áp dụng cho toàn quốc.
- Dịch vụ theo yêu cầu liên quan đến việc công chứng (chỉnh lý tên gọi từ dịch vụ công chứng) và tiếp tục giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá tối đa như hiện hành.
(3) Đối với dịch vụ môi giới, đưa người lao động đi nước ngoài làm việc, Trên cơ sở ý kiến của ĐBQH đề nghị tiếp tục đưa vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại và trao đổi, thống nhất với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Tại Danh mục đã chỉnh lý bổ sung và giao Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội định giá tối đa.
(4) Đối với các dịch vụ trông giữ xe, dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ: trên cơ sở tiếp thu ý kiến của ĐBQH, ý kiến của các địa phương, Bộ Công Thương, Cơ quan chủ trì soạn thảo đã thống nhất với Cơ quan thẩm tra để chỉnh lý theo hướng Nhà nước chỉ định giá đối với các dịch vụ được đầu tư từ nguồn vốn nhà nước; đối với các dịch vụ do tư nhân cung cấp sẽ do tổ chức kinh doanh tự định giá.
(5) Đối với hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng an ninh thực hiện đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng an ninh (số thứ tự 26 tại danh mục) tại Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 là giao Bộ Quốc phòng quyết định giá cụ thể; trên cơ sở ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã bổ sung thẩm quyền đối với Bộ Công an.
(6) Đối với nhà ở xã hội, nhà ở công vụ và dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư: có ý kiến của ĐBQH đề nghị đưa ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá.
Tuy nhiên qua rà soát Luật Nhà ở hiện hành cũng như Dự thảo Luật trình Quốc hội và định hướng chính sách tại dự án Luật Nhà ở (sửa đổi) hiện chuẩn bị trình Quốc hội cho ý kiến cho thấy vẫn cần thiết tiếp tục quy định trong phạm vi định giá nhà nước. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến các ĐBQH, ý kiến của Bộ Xây dựng, xin được đưa mặt hàng liên quan đến nhà ở vào diện hàng hóa, dịch vụ đặc thù do (i) hiện nay Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn đã quy định đầy đủ, toàn diện các vấn đề về căn cứ, nguyên tắc, phương pháp xác định giá nhà ở công cụ, nhà ở xã hội… (ii) phương pháp định giá nhà ở có tính đặc thù riêng, khác biệt so với phương pháp định giá chung, (iii) hiện Chính phủ đang trình Quốc hội dự án Luật Nhà ở (sửa đổi), do vậy để đảm bảo tính thống nhất, tránh việc Luật Nhà ở ban hành sau Luật Giá có các quy định khác ngay với Luật Giá. Trên cơ sở đó, đã chỉnh lý tại khoản 4 Điều 3 và tại Danh mục cho phù hợp.
(7) Trên cơ sở đề xuất của Bộ Công Thương, UBTVQH đã cho chỉnh lý, bổ sung vào Danh mục giá khí thiên nhiên vận chuyển bằng đường ống cho sản xuất điện do phù hợp với các tiêu chí hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và thực tế rất cần thiết phải định giá do liên quan trực tiếp đến các chi phí sản xuất điện.
(8) Có ý kiến của ĐBQH đề nghị rà soát kĩ các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, trong đó cụ thể về định giá tiền đền bù đối với bằng sáng chế, giống cây trồng trong trường hợp chuyển giao bắt buộc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong quá trình soạn thảo Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Bộ Khoa học và Công nghệ chưa có đề nghị cập nhật 2 trường hợp này vào Danh mục. Qua nghiên cứu cho thấy nội dung, cơ chế chuyển giao bắt buộc này hiện được quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ theo các Công ước quốc tế (như công ước TRIPS) nhằm đảm bảo các lợi ích của cộng đồng. Qua rà soát thực tế theo kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc đền bù khi yêu cầu chuyển giao bắt buộc có thể thực hiện theo nhiều hình thức, tùy theo bối cảnh thực tế; có những trường hợp không đền bù bằng tiền trực tiếp mà có thể bằng doanh thu từ khai thác sáng chế đó (như tại Ấn Độ, khi chuyển giao bắt buộc sáng chế về thuốc COVID-19 thì người sở hữu sáng chế được đền bù 6% tổng doanh thu của loại thuốc này). Như vậy sẽ có nhiều cơ chế để triển khai đối với vấn đề này và tại bản Dự thảo gửi xin ý kiến các đoàn ĐBQH chưa bổ sung mặt hàng này vào Danh mục.
Trên cơ sở rà soát ý kiến của ĐBQH, Bộ Khoa học và Công nghệ đã rà soát đánh giá kỹ và có văn bản đề nghị bổ sung mặt hàng này vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá để điều chỉnh đối với các trường hợp thực hiện theo cơ chế định giá. UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý tại khoản 4 Điều 3 và tại Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá theo hướng đây cũng là một mặt hàng đặc thù, được thực hiện theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
(9) Đối với dịch vụ kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới, thiết bị và xe máy chuyên dùng đang lưu hành, qua ý kiến rà soát của Bộ Giao thông vận tải cho thấy hiện dịch vụ này hiện đã có sự cạnh tranh rất lớn (281 cơ sở trung tâm đăng kiểm), việc đưa ra khỏi Danh mục sẽ hướng đến tăng tính cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho đưa hàng hóa, dịch vụ này ra khỏi Danh mục và cập nhật nội dung phù hợp tại số thứ tự 07.
(10) Đối với dịch vụ sử dụng đường bộ cao tốc (BOT), có ý kiến ĐBQH đề nghị đưa ra khỏi Danh mục do việc xác định giá không phù hợp với thực tiễn khi mức giá đã được quy định tại hợp đồng cho cả vòng đời dự án theo quy định của Luật PPP. Về vấn đề này, Bộ Giao thông Vận tải cũng đã rà soát và có văn bản gửi Cơ quan chủ trì soạn thảo, trong đó đã đánh giá kỹ việc quy định các cấp định giá tối đa là không cần thiết, không phù hợp với Luật PPP, không thúc đẩy được việc đẩy mạnh chủ trương đầu tư xây dựng đường cao tốc nhằm phát triển kinh tế; trên cơ sở đó đề nghị đưa ra khỏi Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH tại Danh mục đã điều chỉnh loại trừ đối với dịch vụ này tại số thứ tự 03 của Danh mục như sau “Dịch vụ sử dụng đường bộ của các dự án đầu tư xây dựng đường bộ (trừ dịch vụ sử dụng đường bộ cao tốc) để kinh doanh do Trung ương quản lý”.
(11) Chỉnh lý về kỹ thuật một số nội dung như:
- Tại số thứ tự 09: Chỉnh lý tên hàng hóa, dịch vụ để tránh trùng lặp phạm vi điều chỉnh của số thứ tự 17 như sau “Dịch vụ bưu chính công ích, dịch vụ viễn thông công ích trừ các dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước thực hiện đặt hàng.”
- Tại số thứ tự 13: chỉnh lý bỏ thẩm quyền định giá của Bộ Tài chính đối với “Sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác đối với công trình thủy lợi sử dụng vốn nhà nước thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý của địa phương” để đảm bảo sự đồng bộ với cơ chế quản lý của sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi tại số thứ tự 12.
- Tại số thứ tự 16: Chỉnh lý để làm rõ thêm về tên gọi, thẩm quyền, hình thức định giá của hàng dự trữ quốc gia “(i) Bộ Tài chính định giá mua tối đa, giá bán tối thiểu (trừ các trường hợp thực hiện mua theo hình thức đấu thầu rộng rãi, chào hàng cạnh tranh, bán theo hình thức đấu giá, bán trực tiếp rộng rãi cho mọi đối tượng) đối với việc mua, bán hàng dự trữ quốc gia của các Bộ, ngành. (ii) Bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia định giá để thực hiện mua, bán hàng dự trữ quốc gia theo quy định của Luật Dự trữ quốc gia. (iii) Bộ Tài chính định giá để mua, bán hàng dự trữ quốc gia do Bộ Tài chính quản lý theo quy định của Luật Dự trữ quốc gia”. Đồng thời tách riêng quy định về định giá đối với hàng dự trữ quốc gia thuộc lĩnh vực Quốc phòng, an ninh.
- Chỉnh lý, đưa mặt hàng “Dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư đối với nhà chung cư thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn” để gộp chung vào số thứ tự 25 để đảm bảo đúng với quy định tại Luật Nhà ở hiện hành và Dự thảo Luật Nhà ở hiện chuẩn bị trình Quốc hội cho ý kiến.
- Chỉnh lý bổ sung phạm vi định giá của dịch vụ phà được đầu tư từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước (theo ý kiến của Bộ Giao thông vận tải và một số địa phương).
- Cập nhật 02 dịch vụ “Dịch vụ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện” hiện được quy định định giá tại Nghị định 96/2012/NĐ-CP và “Dịch vụ nghĩa trang, dịch vụ hỏa táng của cơ sở hỏa táng được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước” hiện được quy định tại Nghị định 23/2016/NĐ-CP, “Dịch vụ thuê chuyên cơ, chuyên khoang chính thức sử dụng ngân sách nhà nước” hiện đang được quy định tại Nghị định 96/2021/NĐ-CP vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Các dịch vụ này hiện đang áp dụng cơ chế định giá nhà nước và được đề nghị cập nhật trên cơ sở rà soát của Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải để đảm bảo tính pháp lý và cơ chế triển khai. Qua rà soát đảm bảo tiêu chí hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá quy định tại Luật và là cơ chế đang thực hiện nên đã cập nhật cụ thể tại Danh mục (số thứ tự 06, 19 và 30 Dự thảo Luật).
Ngoài ra, UBTVQH xin báo cáo Quốc hội về việc giải trình một số nội dung như sau:
(1) Đối với giá biển số xe: Một số ý kiến của ĐBQH và Bộ Công an đề nghị bổ sung mặt hàng này để phù hợp với các quy định về việc thí điểm đấu giá biển số xe đã được Quốc hội thông qua. Tuy nhiên qua rà soát, việc xác định giá biển số xe sẽ được thực hiện theo cơ chế đấu giá và như vậy tương tự với các hàng hóa, dịch vụ khác thì giá khởi điểm sẽ được xác định theo quy định tại Luật bán đấu giá tài sản và đã có cơ chế cụ thể để thực hiện. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội không bổ sung mặt hàng này vào Danh mục.
(2) Có ý kiến đề nghị đưa quy định giá sử dụng dịch vụ đường bộ cao tốc do Nhà nước đầu tư vào danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá: Liên quan đến trường hợp này thì Chính phủ đã có đánh giá và trình Quốc hội. Tại Tờ trình số 356/TTr-CP ngày 30/9/2022, trong đó đã báo cáo giải trình việc định giá sử dụng dịch vụ đường cao tốc do Nhà nước đầu tư (chuyển từ cơ chế phí sang giá) là vấn đề lớn, đang trong quá trình nghiên cứu cơ chế triển khai và hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo phân công của Chính phủ thì Bộ Giao Thông vận tải được giao chủ trì xây dựng đề án để trình Chính phủ trình Quốc hội. Hiện nay, đề án đang trong quá trình lấy ý kiến để hoàn thiện. Tại thời điểm hiện nay chưa đủ căn cứ, cơ sở để đưa dịch vụ này vào Danh mục Nhà nước định giá. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội không bổ sung mặt hàng này vào Danh mục.
(3) Có ý kiến đề nghị bổ sung dịch vụ thuê phần mềm công nghệ thông tin. Đồng thời, Chính phủ giao cho Bộ chuyên ngành hướng dẫn cụ thể. Qua rà soát, việc thuê phần mềm công nghệ thông tin không phù hợp với các tiêu chí hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Đồng thời nội dung này đã được điều chỉnh bởi Luật đấu thầu; vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội không bổ sung mặt hàng này vào Danh mục.
(4) Có ý kiến đề nghị xem lại Danh mục hàng hóa dịch vụ do Nhà nước định giá vì không có nước ngầm, như vậy không phù hợp với Dự thảo Luật Tài nguyên nước. Về trường hợp này, tại phần thuyết minh, giải trình đối với các hàng hóa, dịch vụ đưa ra khỏi Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá cũng đã báo cáo rõ là việc xác định giá nước ngầm là để phục vụ cho việc tính thuế tài nguyên, được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế và pháp luật về tài nguyên, không áp dụng đối với các mục đích khác. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội không đưa mặt hàng này vào Danh mục.
(5) Có ý kiến đề nghị sửa cụm từ “điện bán buôn” thành “bán buôn điện” để thống nhất với khoản 4 Điều 3 Luật điện lực. Qua rà soát, đánh giá về kỹ thuật soạn thảo thì tại phụ lục hiện đang quy định theo “tên hàng hóa, dịch vụ”; để đảm bảo đúng tính chất gắn với hình thức, xin được quy định là điện bán buôn. Nội dung này cũng được Bộ Công Thương tham gia rà soát và đảm bảo không chồng chéo với quy định tại Luật Điện lực. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này như Dự thảo Luật.
(6) Có ý kiến đề nghị bổ sung “dịch vụ cho thuê rừng để tham quan, du lịch” và giao UBND cấp tỉnh định khung giá. Tại Dự thảo Luật Giá đã cập nhật quy định tại Luật Lâm nghiệp đối với việc định giá rừng. Như vậy, rừng (bao gồm rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất thuộc sở hữu toàn dân) sẽ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Việc định giá và sử dụng cho các mục đích khác nhau được điều chỉnh tại Luật Lâm nghiệp. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội không bổ sung mặt hàng này vào Danh mục.
(7) Có ý kiến ĐBQH đề nghị đối với rừng (bao gồm rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất thuộc sở hữu toàn dân) thuộc phạm vi quản lý của địa phương thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể (thay vì khung giá như trong Dự thảo Luật). Tại Công văn 2035/BNN-TC ngày 04/4/2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vẫn tiếp tục đề xuất thẩm quyền, hình thức định giá của rừng thuộc phạm vi quản lý của địa phương là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định khung giá. Ý kiến tham gia của nhiều địa phương vẫn nhất trí với nội dung này. Do đó, xin giữ quy định này như Dự thảo.
(8) Đối với dịch vụ kiểm dịch y tế dự phòng (hiện tại dự thảo quy định Bộ Y tế định giá tối đa, UBND định giá cụ thể); có ý kiến đề nghị điều chỉnh thẩm quyền, hình thức định giá thành “Bộ Y tế định khung giá; tổ chức cung ứng dịch vụ định giá cụ thể”. Thực tế nội dung này cũng được một số địa phương có ý kiến tương tự; tuy nhiên trên cơ sở đánh giá, rà soát cho thấy dịch vụ này vẫn liên quan đến ngân sách nhà nước và cần có cơ quan nhà nước quyết định giá cụ thể để thực hiện. Do vậy xin tiếp tục quy định như dự thảo, giao “Bộ Y tế định giá tối đa, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá cụ thể”.
(9) Đối với nội dung số 21 “Máu toàn phần và chế phẩm máu đạt tiêu chuẩn” hiện tại Dự thảo Luật quy định là Bộ Y tế định giá tối đa; có ý kiến đề xuất sửa đổi thẩm quyền, hình thức định giá thành Bộ Y tế định giá cụ thể. Qua rà soát, nội dung 21 này kế thừa quy định hiện hành, thực hiện không có vướng mắc nên UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như quy định hiện hành.
(10) Có ý kiến đề nghị bổ sung vào danh mục hàng hóa, dịch vụ: “Dịch vụ kiểm định kỹ thuật máy móc, thiết bị, vật tư và các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về y tế”, thẩm quyền, hình thức định giá: “Bộ Y tế định giá cụ thể”. Tuy nhiên qua rà soát và trao đổi với đơn vị chức năng thuộc Bộ Y tế cho thấy theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ thực hiện cấp phép đối với máy móc, thiết bị, vật tư y tế theo các quy định về quản lý đối với trang, thiết bị y tế mà không phải cung cấp dịch vụ kiểm định riêng. Do đó xin không quy định nội dung này tại dự thảo.
6.4. Có ý kiến đề nghị cần làm rõ lý do, đánh giá tác động đối với sự thay đổi của các dịch vụ, hàng hóa tại Danh mục dịch vụ, hàng hóa do Nhà nước định giá. Có ý kiến cho rằng, Phụ lục danh mục các hàng hóa, dịch vụ danh mục hàng hóa, dịch vụ đưa ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá tại Dự thảo Luật là không cần thiết.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thứ nhất, về đề nghị cần làm rõ lý do, đánh giá tác động đối với sự thay đổi của các dịch vụ, hàng hóa tại Danh mục dịch vụ, hàng hóa do Nhà nước định giá. Tại Tờ trình số 356/TTr-CP ngày 30/9/2022, Chính phủ đã báo cáo có 17 hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá đang được quy định tại Luật Giá hiện hành, 35 hàng hóa, dịch vụ đang được quy định tại các luật chuyên ngành khác. Trên cơ sở đó đã đề xuất đưa ra khỏi danh mục Nhà nước định giá 14 hàng hóa, dịch vụ do không phù hợp với 04 tiêu chí xác định hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá đã đề ra tại do Dự thảo Luật và thực hiện theo cơ chế giá thị trường; đồng thời, Chính phủ trình bổ sung 02 dịch vụ, hàng hóa do Nhà nước định giá là sách giáo khoa và hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh thực hiện đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định tại điểm e khoản 2.1 Nghị quyết số 63/2022/QH15
[17] và theo đề nghị của Bộ Quốc phòng vì thuộc trường hợp Nhà nước độc quyền sản xuất, kinh doanh theo quy định tại Luật Thương mại và Nghị định 94/2017/NĐ-CP, phù hợp với các tiêu chí tại Dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, trong quá trình rà soát toàn diện Danh mục và lấy lại ý kiến của các Bộ quản lý ngành theo ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan chỉnh lý bổ sung hoặc đưa lại một số hàng hóa vào Danh mục (như đã trình bày tại điểm 7.3) và có đánh giá cụ thể.
Thứ hai, đối với ý kiến cho rằng, việc có Phụ lục danh mục các hàng hóa, dịch vụ đưa ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá là không cần thiết. Thực tế tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 đã trình Quốc hội cũng không quy định nội dung này, tuy nhiên trong quá trình giải, trình, tiếp thu, chỉnh lý, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan soạn thảo rà soát, bổ sung để tạo thuận lợi cho việc xin ý kiến các Bộ, ngành liên quan và trình tại các kỳ họp UBTVQH. Trên cơ sở ý kiến của ĐBQH, UBTVQH xin tiếp thu và không bổ sung quy định Phụ lục này tại Dự thảo Luật; đồng thời quy định rõ hơn về các nội dung bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung tại Điều 73 Dự thảo Luật theo đúng kỹ thuật lập pháp, quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
7. Về hiệp thương giá
Nhiều ý kiến đề nghị cần làm rõ hơn vai trò của Nhà nước trong hiệp thương giá và cần làm rõ trách nhiệm, vai trò của từng tổ chức, cá nhân trong hiệp thương giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về cơ bản, các quy định hiệp thương giá được kế thừa từ Luật hiện hành. Biện pháp hiệp thương giá là cơ chế trung gian nhằm xử lý tình huống có vướng mắc về giá trong một số trường hợp gắn với các điều kiện cụ thể, nhằm tạo thuận lợi cho các bên. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về kinh tế thị trường, Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 đã bỏ quy định trường hợp thực hiện hiệp thương giá theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh và quy định rõ các trường hợp hiệp thương theo đề nghị của các tổ chức kinh doanh. Như vậy, cơ chế hiệp thương giá được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của hai bên mua bán. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo
Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý quy định nhằm quy định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và của từng tổ chức, cá nhân trong hiệp thương giá và quy định tại Điều 25 đến Điều 27 Dự thảo Luật. Để bảo đảm bao quát và tính pháp lý của hiệp thương giá, khoản 5 Điều 27 Dự thảo Luật đã quy định rõ về việc triển khai trong trường hợp hai bên không thống nhất được giá hiệp thương[18].
8. Về kê khai, niêm yết, tham chiếu giá, kiểm tra yếu tố hình thành giá
Nhiều ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn, bảo đảm tính khả thi trong thực hiện về kê khai, niêm yết, giá tham chiếu, kiểm tra yếu tố hình thành giá và cần rà soát để bảo đảm tính thống nhất với các quy định khác.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, so với quy định tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý nhiều quy định về kê khai, niêm yết, tham chiếu giá, kiểm tra yếu tố hình thành giá nhằm bảo đảm thống nhất, công khai, minh bạch, có tính khả thi thực hiện và thể hiện tại Điều 28 đến Điều 33 Dự thảo Luật. Theo đó, loại trừ bớt trường hợp đối tượng phải kê khai giá là những cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ
[19]; chỉnh sửa quy định về niêm yết giá
[20]; chỉnh lý quy định về việc tổ chức thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá
[21].
9. Về thẩm định giá
9.1. Về quy định chung
Nhiều ý kiến đề nghị rà soát, bổ sung quy định về nguyên tắc, tiêu chuẩn để làm rõ cơ sở pháp lý và bảo đảm tính bao quát trong các quy định về lĩnh vực thẩm định giá.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH
đã chỉ đạo bổ sung 01 Điều quy định về Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam[22] (có chỉnh lý tên gọi từ Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam thành Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam theo ý kiến của ĐBQH). Đồng thời, tại Dự thảo Luật cũng đã sửa đổi, bổ sung và củng cố nhiều quy định nhằm vừa đảm bảo tính chặt chẽ, vừa đảm bảo tính bao quát, thống nhất; tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện.
9.2. Về dịch vụ thẩm định giá
Nhiều ý kiến đề nghị rà soát, chỉnh sửa các quy định về dịch vụ thẩm định giá nhằm bảo đảm tính khả thi, chặt chẽ.
UBTVQH
xin tiếp thu, chỉnh lý quy định về dịch vụ thẩm định giá nhằm bảo đảm chặt chẽ, khả thi trong thực hiện và thể hiện tại Mục 2 Chương VI (từ Điều 44 đến Điều 58) Dự thảo Luật. Trong đó đã chỉnh lý quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, các nhân liên quan đến dịch vụ thẩm định giá như các quy định về tiêu chuẩn dự thi cấp thẻ thẩm định viên về giá[23], quy định về đăng ký hành nghề thẩm định giá[24], quy định về quyền, nghĩa vụ của thẩm định viên về giá[25] và các quy định về điều kiện thành lập, quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá, người chịu trách nhiệm về doanh nghiệp thẩm định giá[26]. Về cơ bản các nội dung chỉnh lý không làm thay đổi các chính sách về thẩm định giá tại Luật và được trình bày cụ thể tại mục 13, 14 phần II báo cáo này.
9.3. Về thẩm định giá của Nhà nước
Nhiều ý kiến đề nghị rà soát, quy định cụ thể nghĩa vụ, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thứ nhất, Dự thảo Luật đã quy định rõ nguyên tắc và cơ chế thực hiện thẩm định giá của Nhà nước. Đối với các trường hợp cụ thể phải thẩm định giá của Nhà nước, để bảo đảm tính hợp lý, đầy đủ, thống nhất, các đạo luật chuyên ngành sẽ xác định cụ thể; đồng thời quy định tăng cường phân cấp, phân quyền cho các Bộ, ngành, địa phương trong hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.
Thứ hai, về việc xác định trách nhiệm,
Dự thảo Luật đã được hoàn thiện, chỉnh lý theo nguyên tắc quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, cơ quan tương ứng với công việc mà mình thực hiện. Cụ thể là: (1) Tổ chức thẩm định (Hội đồng thẩm định giá) phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan với nội dung tại thông báo kết quả thẩm định đưa ra, bảo đảm tuân thủ Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam. Kết quả thẩm định giá mang tính chất cung cấp căn cứ, thông tin, tư vấn cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định giá tài sản. Mặc dù kết quả thẩm định giá không mang tính bắt buộc phải thực hiện mà là một trong những cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định, phê duyệt giá tài sản, song Hội đồng thẩm định, từng thành viên Hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả thẩm định không chính xác, trung thực. (2) Cơ quan có thẩm quyền quyết định giá xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nội dung này thể hiện cụ thể tại điểm a khoản 2 Điều 62[27], điểm b khoản 2 Điều 63[28] và khoản 1 Điều 64[29] của Dự thảo Luật.
Thứ ba, để tiếp tục cụ thể hóa trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân, trên cơ sở tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý, quy định cụ thể nhiều nội dung về hoạt động thẩm định giá của Nhà nước, theo đó đã bổ sung 02 Điều tại
Dự thảo Luật bao gồm quy định về quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập Hội đồng thẩm định giá[30] và quy định về quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thẩm định giá[31]; chỉnh lý làm rõ thêm quy định về phạm vi thẩm định giá của Nhà nước để tránh trùng lặp
“Hoạt động thẩm định giá của Nhà nước không áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá”[32]. Đồng thời bổ sung quy định về nguyên tắc hoạt động của Hội đồng thẩm định giá tại khoản 3 Điều 60 Dự thảo Luật; bổ sung quy định về quyền của Hội đồng thẩm định giá
“xem xét, quyết định sử dụng kết quả của đơn vị tư vấn, doanh nghiệp thẩm định giá”[33] và nghĩa vụ của Hội đồng phải đảm bảo
“Rà soát, đánh giá việc tuân thủ về thu thập, phân tích thông tin, lựa chọn phương pháp thẩm định giá, lập Báo cáo thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá trong trường hợp thuê thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá”[34]... Ngoài ra, để bảo đảm đủ căn cứ pháp lý khi xảy ra sai phạm, Dự thảo Luật cũng quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với Hội đồng thẩm định giá và thành viên Hội đồng thẩm định giá
[35]. Những quy định trên nhằm vừa tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, vừa bảo đảm tính khả thi, giúp các cá nhân, tổ chức liên quan yên tâm thực hiện đúng chức trách được giao.
10. Về thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá
Nhiều ý kiến đề nghị rà soát, quy định cụ thể cơ chế, trách nhiệm giám sát, kiểm tra, quy trình thực hiện thẩm định bảo đảm theo các quy định của pháp luật và các chế tài xử lý vi phạm. Có ý kiến đề nghị cần nghiên cứu Luật Thanh tra và các quy định có liên quan để xây dựng các điều khoản của Dự thảo Luật về thanh tra chuyên ngành về giá nhằm đảm bảo thống nhất của các văn bản pháp luật hiện hành.
Đây là nội dung mới so với quy định hiện hành. Vì vậy, tại
Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 một số quy định về thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá chưa thực sự chặt chẽ, một số nội dung chưa cụ thể. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý, bổ sung nhiều nội dung liên quan đến thanh tra chuyên ngành về giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá nhằm bảo đảm tính cụ thể, chặt chẽ, khả thi. Theo đó, đã bổ sung mục tiêu, yêu cầu của thanh tra, kiểm tra nhằm “Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các vi phạm trong chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá”[36]; bổ sung quy định về kết quả thanh tra, kiểm tra và trách nhiệm xử lý[37]; bổ sung các nguyên tắc về xử lý vi phạm pháp luật về giá, thẩm định giá[38]. Những quy định trên nhằm xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong trường hợp xảy ra sai phạm.
Về nội dung thanh tra, tiếp thu ý kiến của ĐBQH tại chương VII Dự thảo Luật đã quy định về nội dung thanh tra chuyên ngành về giá; đồng thời để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các quy định tại Luật Thanh tra, tại Dự thảo Luật chỉ quy định dẫn chiếu Luật Thanh tra để thuận lợi cho việc triển khai thống nhất.
II. VỀ NỘI DUNG CỤ THỂ
Ngoài những vấn đề lớn các đại biểu quan tâm và vấn đề còn ý kiến khác nhau, UBTVQH xin báo cáo các nội dung cụ thể như sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh của Luật (Điều 1)
1.1. Về phạm vi điều chỉnh của Luật (Điều 1), một số ý kiến đề nghị phạm vi điều chỉnh cần thiết kế lại để bảo đảm tính logic, xác định rõ phạm vi; phân định rõ hơn các chủ thể được điều chỉnh bởi Luật, bảo đảm tính đầy đủ và bao quát. Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ thẩm định giá vào sau cụm từ “kiểm tra”. Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “định giá” vào phạm vi điều chỉnh.
UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý, quy định theo hướng bảo đảm xác định rõ phạm vi theo như ý kiến của ĐBQH (quy định theo hướng liệt kê đầy đủ các nội dung đã quy định tại luật để tránh chồng chéo về phạm vi áp dụng với các luật khác). Ngoài ra định giá hàng hóa, dịch vụ là một trong những biện pháp quản lý, điều tiết giá của Nhà nước nên không cần thiết thêm cụm từ này vào phạm vi điều chỉnh. Theo đó, đã chỉnh lý quy định tại Điều 1 Dự thảo Luật như sau:“Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân, người tiêu dùng trong lĩnh vực giá, thẩm định giá; hoạt động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước; tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường; thẩm định giá; thanh tra chuyên ngành về giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá”.
1.2. Có ý kiến đề nghị sửa lại cụm từ “cơ quan, tổ chức, cá nhân” bằng cụm từ “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” để đảm bảo thống nhất với đối tượng áp dụng quy định tại Điều 2 dự thảo và quy định tại Điều 8 dự thảo (Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ), Điều 9 dự thảo (Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ).
UBTVQH xin báo cáo làm rõ như sau: Tại Luật có những nội dung điều chỉnh riêng đối với “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” như quy định tại Điều 8, Điều 9 Dự thảo Luật; nhưng cũng có những nội dung điều chỉnh cả các cơ quan nhà nước như quy định tại khoản 1 Điều 6 Dự thảo Luật; tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát các nội dung liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp trong từng điều khoản.
1.3. Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá” vào phạm vi điều chỉnh vì Chương III dự thảo có nội dung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá” nên Ban soạn thảo cần thiết bổ sung nội dung này vào phạm vi điều chỉnh để đảm bảo sự thống nhất, đầy đủ.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại nội dung quy định về phạm vi điều chỉnh đã quy định “Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân, người tiêu dùng trong lĩnh vực giá”; trong đó, cơ quan được điều chỉnh về nhiệm vụ, quyền hạn đã bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về giá. Do vậy UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
1.4. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý các quy định về phạm vi điều chỉnh theo hướng “trong lĩnh vực giá” thay vì “trong lĩnh vực giá, thẩm định giá” và các quy định tương tự tại Luật do nội hàm lĩnh vực giá đã bao gồm thẩm định giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại Luật Giá 2012 sử dụng cụm từ “trong lĩnh vực giá” là bao gồm các nội dung về quản lý, điều tiết giá và thẩm định giá; Dự thảo Luật vẫn tiếp tục kế thừa tên luật là “Luật Giá” để tránh xáo trộn, nhưng phạm vi điều chỉnh có sửa đổi theo hướng làm rõ hơn “trong lĩnh vực giá, thẩm định giá”. Thực tế nội dung thẩm định giá là một lĩnh vực rộng, có tính độc lập tương đối với các nội dung khác tại Luật; do vậy để đảm bảo minh bạch, rõ ràng hơn trong các vấn đề điều chỉnh tại Luật, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ cụm từ “trong lĩnh vực giá, thẩm định giá”.
2. Về đối tượng áp dụng (Điều 2)
2.1. Có ý kiến cho rằng, đối tượng áp dụng mới chỉ đề cập đối tượng kinh doanh mà chưa đề cập đến đối tượng sản xuất hàng hoá
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc sử dụng thuật ngữ “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” được thay đổi so với Luật Giá hiện hành để thống nhất với pháp luật liên quan như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp. Trong thuật ngữ này cũng bảo đảm đã bao quát được các đối tượng sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ bên cạnh các đối tượng về kinh doanh thương mại, bán lẻ… Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo
2.2. Tại dự thảo quy định đối tượng áp dụng trong đó có “các tổ chức, cá nhân khác liên quan đến hoạt động trong lĩnh vực giá, thẩm định giá trên lãnh thổ Việt Nam”; có ý kiến đề nghị để tránh trùng lặp, cần bỏ cụm từ “thẩm định giá” vì đây cũng là một hoạt động trong lĩnh vực giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tiễn thẩm định giá là một lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện rất quan trọng trong kinh tế, xã hội hiện nay. Từ Pháp lệnh giá đến Luật Giá 2012 đều quy định chung phạm vi điều chỉnh “về lĩnh vực giá”; tuy nhiên để tăng cường cơ sở pháp lý cho công tác thẩm định giá, tại Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) hiện nay xin được tách nội dung thẩm định giá để điều chỉnh phạm vi riêng.
3. Về áp dụng Luật Giá và các luật có liên quan (Điều 3)
3.1. Có ý kiến cho rằng, Điều 3 của Dự thảo Luật là không cần thiết, đề nghị bỏ vì hiện nay đã có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật có liên quan.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Như đã phân tích tại các nội dung tổng kết, đánh giá thi hành Luật Giá thì một trong các tồn tại, hạn chế chủ yếu hiện nay là do tại các luật chuyên ngành khác cũng đã quy định nhiều nội dung về giá, đặc biệt là đối với Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Do vậy, để làm rõ hơn các nguyên tắc trong việc áp dụng pháp luật; trên cơ sở Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn yêu cầu quản lý, tại Dự thảo Luật đã bổ sung Điều 3 về nguyên tắc áp dụng pháp luật để tạo thuận lợi trong xây dựng các cơ chế, chính sách về giá và tổ chức thực hiện các quy định, đảm bảo tăng cường tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giá hiện hành. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này tại Dự thảo.
3.2. Có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo xác định rõ:(1) Giới hạn phạm vi điều chỉnh của Luật này; (2) Mối quan hệ với các đạo luật liên quan theo hướng không trùng lắp, mâu thuẫn dẫn đến xung đột pháp luật. Việc quản lý giá trong một số lĩnh vực đặc thù như đất đai, y tế… sẽ được điều chỉnh bởi các luật khác như Luật Đất đai, Luật Khám bệnh, chữa bệnh… Vì vậy, cần dẫn chiếu cụ thể để tạo sự minh bạch, dễ tiếp cận. Có ý kiến cho rằng khoản 4 Điều 3 quy định mang tính liệt kê, thời điểm hiện tại có thể tương đối phù hợp, tuy nhiên có thể không điều chỉnh được các nội dung phát sinh trong tương lai . Có ý kiến đề nghị quy định tại khoản 3 hiện nay sẽ rất dễ phát sinh các mâu thuẫn khi xây dựng những luật khác hoặc những luật khác có thể lách các quy định của Luật Giá. Như vậy, các quy định cho những lĩnh vực đặc thù sẽ không còn đặc thù nữa vì khi đó, luật nào cũng có thể tránh được các điều chỉnh của Luật Giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Để khắc phục những chồng chéo giữa các Luật chuyên ngành, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về giá, về cơ bản Luật Giá (sửa đổi) sẽ điều chỉnh toàn diện những vấn đề về giá; quy định thống nhất Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá gắn với thẩm quyền, trách nhiệm, hình thức định giá. Đối với một số mặt hàng đặc thù thì sẽ quy định rõ những vấn đề thực hiện theo quy định pháp luật chuyên ngành. Theo đó, chỉ có một số lĩnh vực đặc thù sẽ thực hiện toàn diện theo các quy định tại pháp luật chuyên ngành và được dẫn chiếu cụ thể gồm điện, đất đai, nhà ở (mới được tiếp thu theo ý kiến các ĐBQH), khám bệnh chữa bệnh, giáo dục đào tạo, một số hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ. Trường hợp phát sinh thêm các lĩnh vực khác sau khi Luật Giá có hiệu lực cần quy định đặc thù sẽ thực hiện theo khoản 2 và khoản 3 của Điều 3; qua đó đảm bảo tính đồng bộ kể cả các trường hợp phát sinh trong tương lai.
Thực tiễn việc quy định rõ Điều 3 nhằm bao quát được về nguyên tắc đối với các luật ban hành sau khi Luật Giá (sửa đổi) có hiệu lực nhằm tăng tính đồng bộ trong tổng thể hệ thống các chế định về giá. Khi các luật ban hành sau xác định có tính đặc thù vì biến động của kinh tế xã hội thì cũng phải xác định rõ những vấn đề thực hiện hoặc không thực hiện theo Luật Giá; qua đó tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn như hiện hành.
3.2. Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 3 thành “phải xác định cụ thể nội dung về căn cứ, phương pháp định giá, đánh giá tác động việc ban hành văn bản quyết định giá thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định tại Luật Giá, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó”.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã bổ sung nội dung đánh giá tác động chính sách và được thể hiện tại như sau: “3. Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Giá có hiệu lực thi hành có quy định bổ sung thêm hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì phải đánh giá tác động chính sách; hàng hóa, dịch vụ đó phải đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí quy định tại khoản 1 Điều 21 của Luật này; đồng thời quy định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm định giá, hình thức định giá của hàng hóa, dịch vụ đó, xác định cụ thể nội dung về căn cứ, phương pháp định giá, việc ban hành văn bản định giá thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định tại Luật Giá, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.”
3.4. Có ý kiến đề nghị khoản 4 Điều 3 quy định rõ trường hợp luật của từng lĩnh vực đặc thù nếu không có đủ các quy định thì phải thực hiện theo quy định của Luật Giá.
UBTVQH xin báo cáo như sau
Hiện tại khoản 4 Điều 3 Dự thảo Luật đã xác định các lĩnh vực đặc thù bảo đảm có đủ các cơ chế và quy định theo pháp luật chuyên ngành. Mặt khác, tại dự thảo đã quy định rõ khi soạn thảo các luật chuyên ngành khác nếu có quy định đặc thù thì phải nêu rõ việc thực hiện hoặc không thực hiện theo Luật Giá; quy định này nhằm điều chỉnh, tăng tính thống nhất ngay từ khâu soạn thảo để cơ quan chủ trì lựa chọn cơ chế quy định phù hợp. Quy định này cũng phù hợp với quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong việc dẫn chiếu, áp dụng pháp luật.
4. Về giải thích từ ngữ (Điều 4)
Một số ý kiến đề nghị cần giải thích một số từ ngữ cụ thể và chính xác hơn; bổ sung giải thích từ ngữ đối với một số khái niệm có trong Dự thảo Luật. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, thống nhất tiếp thu và thể hiện tại Điều 4 Dự thảo Luật; trong đó đã bổ sung, chỉnh lý nhiều quy định để phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành. Cụ thể như sau:
4.1. Một số ý kiến đề nghị bổ sung giải thích từ ngữ đối với các khái niệm:“quản lý nhà nước”, “giá trị phi thị trường”, “điều tiết giá”, “giá tham chiếu”, “giá cả thị trường”; có ý kiến đề nghị đưa nội hàm “giá tham chiếu” từ Điều 33 Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 lên Điều 4 về giải thích từ ngữ đã được rà soát, chỉnh lý như sau:
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
- Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, tại Dự thảo Luật đã bổ sung khái niệm về “điều tiết giá” tại khoản 8 Điều 4
[39] trên cơ sở tổng hợp, đánh giá các khái niệm về các biện pháp quản lý, điều tiết giá được quy định tại Dự thảo Luật.
- Trên cơ sở ý kiến ĐBQH và các ý kiến khác liên quan, hiện đã chỉnh lý khái niệm giá thị trường như sau “Giá thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ được hình thành trên cơ sở cung, cầu và do các yếu tố thị trường quyết định trong một khoảng thời gian, không gian nhất định.”; theo đó, khái niệm này chính là giá cả thị trường, tuy nhiên để đảm bảo tính đồng bộ với các quy định hiện nay, xin được giữ tên “giá thị trường” như hiện nay.
- Đối với khái niệm giá trị thị trường, theo quy định của Luật hiện hành và tại Dự thảo Luật thì nội dung này thuộc phạm vi hoạt động thẩm định giá, là nội dung có tính kỹ thuật. Hiện nay, tại Tiêu chuẩn thẩm định giá có quy định điều chỉnh cả giá trị thị trường và giá trị phi thị trường. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của Hội đồng Tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế thì khái niệm này sẽ được nghiên cứu chuyển đổi và thay thế bằng giá trị đầu tư, giá trị thanh lý...). Trên cơ sở đó, việc xác định giá trị sẽ gắn với tính chất từng tài sản, chuyên môn, nghiệp vụ. Xin tiếp thu ý kiến của ĐHQH để thể hiện tại văn bản quy định chi tiết Luật về Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam.
- Đối với khái niệm “quản lý nhà nước” có tính lý luận chung nên xin không quy định các nội dung này tại Dự thảo Luật.
-
Đối với “giá tham chiếu” tại Khoản 1 Điều 30 Dự thảo Luật quy định“Giá tham chiếu là mức giá của hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công bố để các cơ quan và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho việc thỏa thuận, quyết định giá hàng hóa, dịch vụ”. Như vậy là đã có quy định giải thích về thuật ngữ. Tuy nhiên, Cơ quan chủ trì xin được để tại Khoản 1 Điều 30 như Dự thảo để gắn với Khoản 2 giao Chính phủ quyết định hàng hóa, dịch vụ áp dụng giá tham chiếu và quy định về việc công bố, sử dụng giá tham chiếu, qua đó tạo tính đồng bộ, tương thích thuận lợi cho triển khai hướng dẫn đối với nội dung này.
4.2. Một số ý kiến đề nghị chỉnh lý, giải thích lại một số khái niệm về “hàng hóa”, “dịch vụ”, “hàng hóa, dịch vụ thiết yếu” để đảm bảo phù hợp với thực tiễn; có ý kiến đề nghị làm rõ hơn nữa yếu tố thị trường tại Luật cũng như làm rõ yếu tố cung cầu trong các khái niệm về “giá thị trường”, “yếu tố hình thành giá”, “giá thành toàn bộ”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
- Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, qua đánh giá, rà soát với các quy định tại một số Luật khác như Luật Tiêu chuẩn chất lượng, Luật Thương mại..., tại
Dự thảo Luật đã chỉnh lý lại các khái niệm tại khoản 1, 2, 3, 4 Điều 4 đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành[40].
Trong đó, đối với khái niệm hàng hóa và dịch vụ được nhiều ĐBQH quan tâm, cho ý kiến góp ý cụ thể. Thuật ngữ về hàng hóa hiện được đề cập, giải thích tại nhiều luật, một phần phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của luật đó song về cơ bản là tương đồng trong nội hàm. Tại Luật Giá quy định thuật ngữ hàng hóa như sau “Hàng hóa là sản phẩm có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường” là phù hợp với phạm vi điều chỉnh của pháp luật về giá, thuận lợi cho việc triển khai nhiệm vụ quản lý, điều tiết giá và không chồng chéo với các Luật chuyên ngành khác.
- Về khái niệm “yếu tố hình thành giá” chỉ căn cứ áp dụng cho việc định giá của Nhà nước đối với các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; phần lớn các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Luật đều xuất phát từ căn cứ định giá là chi phí, lợi nhuận phù hợp. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ khái niệm này như dự thảo.
- Về thuật ngữ “Giá trị trường”: tiếp thu ý kiến ĐBQH về việc cần phải thể hiện được khái niệm “cung cầu” và yếu tố “thị trường” vào giải thích thuật ngữ “Giá thị trường”, tại Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp lần thứ V đã chỉnh lý thành:
“Giá thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ được hình thành trên cơ sở cung, cầu và do các yếu tố thị trường quyết định trong một khoảng thời gian, không gian nhất định”. Trong đó, cơ sở cung cầu được đặt lên trước hết trong quá trình hình thành giá và là yếu tố quan trọng nhất chi phối giá cả; “yếu tố thị trường” được đề cập tại khái niệm để làm rõ hơn vấn đề giá thị trường này không phải là mức giá đơn lẻ mà là mức giá chung do các yếu tố thị trường (quan hệ kinh doanh, nhu cầu, tiềm năng, sự lựa chọn của người mua, khả năng cung cấp theo số lượng của người bán, việc đàm phán, mặc cả và) quyết định, dẫn đến các giao dịch thành công.
Bên cạnh đó, vấn đề về việc khái niệm phải phản ánh được mức giá chung trên thị trường cũng được thể hiện cơ bản tại nội dung thuật ngữ mặt bằng giá thị trường được quy định tại khoản 5 Điều 4 Dự thảo Luật:
“Mặt bằng giá thị trường là bình quân các mức giá phổ biến của hàng hóa, dịch vụ hoặc nhóm hàng hóa, dịch vụ trên thị trường trong một khoảng thời gian, không gian nhất định, được phản ánh thông qua chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất (nếu có).”. Trên thực tế khái niệm này được sử dụng ở khá nhiều tại các quy định về bình ổn giá, tổng hợp, phân tích, dự báo và được hiểu thống nhất chung là mặt bằng chung toàn diện các mức giá được giao dịch trên thị trường. Mặt khác để tạo thuận lợi cho việc đánh giá, tại khái niệm cũng xin tiếp tục được quy định vấn đề “
được phản ánh thông qua chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất (nếu có)” để tạo thuận lợi cho các cơ quan trong quá trình đánh giá mặt bằng giá thị trường, phù hợp với các quy định của pháp luật về thống kê.
4.3. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý khái niệm về “thẩm định giá” thành “tư vấn xác định giá”, “đánh giá giá trị” hoặc “dự báo giá”; có ý kiến đề nghị dùng khái niệm “định giá” thay cho “thẩm định giá”; có ý kiến đề nghị làm rõ hơn các khái niệm liên quan đến thẩm định giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
- Về khái niệm “Thẩm định giá” là cụm từ ghép giữa 2 từ “thẩm định” và “giá”. Theo từ điển Tiếng Việt “thẩm định” nghĩa là xem xét nhằm đánh giá để xác định, quyết định. Từ “giá” trong trường hợp này được hiểu là giá trị. Về tính chất tư vấn của hoạt động “thẩm định giá” đã được làm rõ tại Dự thảo Luật trên cơ sở đánh giá chi tiết các quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên; nhất là quyền định đoạt đối với tài sản (trong đó có quyền định giá) là của chủ tài sản đã được quy định rõ tại Bộ luật Dân sự. Như vậy, tính pháp lý của hoạt động thẩm định giá thực hiện ở việc phải do đơn vị chức năng thực hiện theo các Chuẩn mực và chịu trách nhiệm về bồi thường khi thực hiện không đúng quy định, các đơn vị thẩm định giá không thể quyết định giá thay chủ sở hữu tài sản, nên hoạt động này tư vấn về giá trị tài sản cho chủ tài sản quyết định giá của tài sản là phù hợp.
Như vậy, sử dụng cụm từ “thẩm định giá” cho hoạt động xem xét, đánh giá tài sản nhằm xác định giá trị của tài sản về cơ bản là phù hợp và đưa ra khuyến nghị, “lời khuyên” về giá; còn việc sử dụng các khuyến nghị này như thế nào là do tổ chức, cá nhân sở hữu tài sản hoặc có quyền đối với tài sản quyết định. Một mặt khác thì cụm từ “thẩm định giá” cũng đã được sử dụng xuyên suốt từ Pháp lệnh giá năm 2002 cho đến nay, việc thay thế thuật ngữ có thể gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.
Từ những vấn đề nêu trên, xin tiếp thu ý kiến một số ĐBQH theo hướng làm rõ hơn nữa nội hàm “thẩm định giá” là “hoạt động tư vấn xác định giá trị” như sau: “Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định theo Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam do doanh nghiệp thẩm định giá, Hội đồng thẩm định giá thực hiện”.
- Về khái niệm định giá, khoản 11 Điều 4 Dự thảo Luật quy định: “Định giá là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện xác định giá của hàng hóa, dịch vụ”. Như vậy, đối với Nhà nước thì việc định giá là quyết định mang tính hành chính để xác định giá của hàng hóa, dịch vụ. Trong hệ thống pháp luật về giá, việc sử dụng các thuật ngữ này đã được thực hiện xuyên suốt từ trước tới nay và nhiều văn bản pháp luật khác cũng sử dụng các thuật ngữ này. Việc thay thế các thuật ngữ có thể gây nhầm lẫn, khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện các quy định pháp luật về định giá và thẩm định giá. Việc hiểu và áp dụng các khái niệm “thẩm định giá”, “định giá” trong Luật Giá cũng không mâu thuẫn với các luật khác. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho tiếp tục sử dụng các thuật ngữ này như hiện hành.
- Đối với các khái niệm liên quan đến thẩm định giá, tại Dự thảo Luật cũng đã bổ sung, chỉnh lý, hoàn thiện các khái niệm về “tài sản thẩm định giá”, “báo cáo thẩm định giá”, “chứng thư thẩm định giá”, “thông báo kết quả thẩm định giá”
[41].
4.4. Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “và phản ánh thông qua chỉ số giá tiêu dùng” vì chỉ số giá tiêu dùng chỉ phản ánh đối với hàng hóa, dịch vụ trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính chỉ số giá tiêu dùng và trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính chỉ số giá tiêu dùng cũng có tăng hoặc giảm nên chỉ số giá tiêu dùng không thể phản ánh mặt bằng giá thị trường cho tất cả hàng hóa, dịch vụ được.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế việc đánh giá mặt bằng giá thị trường trong một số trường hợp có thể thông qua những chỉ số, chỉ tiêu thống kê (nếu có). Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của ĐBQH, đã chỉnh lý nội dung “Mặt bằng giá thị trường là bình quân các mức giá phổ biến của hàng hóa, dịch vụ hoặc nhóm hàng hóa, dịch vụ trên thị trường trong một khoảng thời gian, không gian nhất định, được phản ánh thông qua chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất (nếu có).” để đảm bảo tính bao quát.
4.5. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý nội dung “báo cáo thẩm định giá” theo hướng xác định đây là một bộ phận không thể tách rời của chứng thư thẩm định giá. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý điểm b khoản 18 bổ sung thêm “ý kiến biểu quyết thống nhất của hội đồng”.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, đã chỉnh lý lại tại Dự thảo Luật như sau:
- Tại khoản 1 Điều 55: “Báo cáo thẩm định giá phải có chữ ký của thẩm định viên về giá thực hiện cuộc thẩm định giá và phê duyệt của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá và không thể tách rời với chứng thư thẩm định giá.”
- Tại điểm b khoản 18 Điều 4 đã chỉnh lý thành“Đối với hoạt động thẩm định giá của Nhà nước, báo cáo thẩm định giá do hội đồng thẩm định giá lập, thể hiện ý kiến của các thành viên hội đồng và ý kiến biểu quyết thống nhất của hội đồng.”.
4.6. Có ý kiến đề nghị biên tập lại giải thích từ ngữ “thông đồng về giá và thẩm định giá”.
Tiếp thu ý kiến các ĐBQH, các Bộ, ngành để chỉnh lý cho phù hợp như sau: “Thông đồng về giá, thẩm định giá là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi trao đổi để thống nhất làm sai lệch mức giá hàng hóa, dịch vụ hoặc giá trị tài sản thẩm định giá nhằm vụ lợi, trục lợi.”.
4.7. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về định nghĩa “giá sản phẩm” và “giá dịch vụ”, có thể viết lại như sau: (1) Giá sản phẩm là tổng chi phí để sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, nhân công, đóng gói và chào hàng, giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng và mang lại lợi nhuận cho người sản xuất”; (2) Giá dịch vụ là toàn bộ chi phí vận chuyển để sản phẩm được lưu thông đến thị trường tiêu thụ. Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung quy định cách xác định giá thị trường (hoặc giao Chính phủ quy định) để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng làm căn cứ định giá khi giải quyết các vấn đề pháp lý có liên quan đến tài sản thuộc các ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Ý kiến ĐBQH nêu là phù hợp, nhất là khi triển khai xác định giá bằng phương pháp chi phí. Tuy nhiên, những khoản chi phí nào và phương thức để xác định khoản chi phí đó sẽ được quy định chi tiết tại phương pháp định giá; vì vậy xin không quy định cụ thể tại Luật. Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của ĐBQH, đã rà soát hoàn thiện quy định sau:
“6. Giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ bao gồm:
a) Giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ; giá mua hàng hoá, dịch vụ đối với tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại; giá nhập khẩu hàng hóa;
b) Chi phí lưu thông hàng hoá, dịch vụ” (Khoản 6 Điều 4)
“7. Yếu tố hình thành giá bao gồm giá thành toàn bộ thực tế hợp lý, hợp lệ tương ứng với chất lượng của hàng hóa, dịch vụ; lợi nhuận (nếu có) hoặc tích lũy theo quy định của pháp luật (nếu có); các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật” (Khoản 7 Điều 4)
4.8. Có ý kiến đề nghị quy định về “giá biến động bất thường” như sau: “Giá biến động bất thường là giá hàng hóa, dịch vụ tăng quá cao hoặc giảm quá thấp bất hợp lý khi các yếu tố hình thành giá không thay đổi lớn hoặc trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hoả hoạn, dịch bệnh trong một khoảng thời gian nhất định”.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH chỉnh lý như sau: “Biến động bất thường về giá là hiện tượng mặt bằng giá thị trường của hàng hóa, dịch vụ tăng quá cao hoặc giảm quá thấp so với mặt bằng giá thị trường của một thời kỳ nhất định trước đó.”. Trong đó, việc sử dụng cụm từ “mặt bằng giá thị trường hàng hóa, dịch vụ” thay cho “giá hàng hóa, dịch vụ” cũng đã thể hiện việc biến động gắn với một khoảng thời gian nhất định (khái niệm mặt bằng giá thị trường tại khoản 5).
UBTVQH xin báo cáo như sau:
Thuật ngữ “thông đồng về giá, thẩm định giá” là một thuật ngữ mới được bổ sung so với Luật Giá hiện hành và được nhiều ĐBQH, các cơ quan, đơn vị quan tâm cho ý kiến góp ý. Về cơ bản việc bổ sung thuật ngữ này và các chế định, chế tài liên quan nhằm hướng đến mục tiêu tăng cường minh bạch trong các hoạt động về giá, thẩm định giá; giảm thiểu các sai phạm của các chủ thể. Qua nghiên cứu, đánh giá kỹ nội hàm vấn đề “thông đồng”, ý kiến của Bộ Công an về rà soát Bộ luật Hình sự, ý kiến của các ĐBQH và các quy định tại pháp luật hiện hành như Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Dân sự, tại Dự thảo Luật lần này đã chỉnh lý theo hướng “thông đồng về giá, thẩm định giá” là “việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi trao đổi để thống nhất làm sai lệch mức giá hàng hóa, dịch vụ hoặc giá trị tài sản thẩm định giá nhằm vụ lợi, trục lợi”. Quy định này đảm bảo không chồng chéo với các hành vi “cấu kết”, “thỏa thuận” là các hành vi khác với “thông đồng” theo Bộ luật Hình sự và phù hợp với thực tiễn công tác quản lý thời gian qua.
Bên cạnh đó, tại các bản Dự thảo Luật trước đã sử dụng “kết quả thẩm định giá” thay cho “giá trị tài sản thẩm định giá”. Tuy nhiên, với quy định tại Dự thảo hiện nay thì “kết quả thẩm định giá” được thể hiện chính là “báo cáo thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá”; do đó đã chỉnh lý cụm từ “kết quả thẩm định giá” thành “giá trị tài sản thẩm định giá” để phù hợp hơn với nội hàm thuật ngữ được giải thích.
Về yếu tố “trục lợi” được hiểu là kiếm lợi ích một cách không chính đáng, tại Bộ Luật Hình sự cũng có quy định trong một số trường hợp. Theo đó, thì việc trục lợi sẽ luôn được gắn với một hành vi cụ thể nào đó và được coi là kết quả hoặc mục đích hành vi muốn hướng đến. Như vậy, một số hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá phải được gắn với việc trục lợi đề có căn cứ phân biệt với các trường hợp khác. Quy định này chính là nhằm tạo sự thuận lợi cho việc thực hiện.
5. Về nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước (Điều 5)
5.1. Có ý kiến cho rằng, các quy định tại Điều 5 chưa đảm bảo khái quát các nguyên tắc để làm cơ sở cho các luật chuyên ngành khác thực hiện theo và đề nghị giữ như quy định hiện hành.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Các nguyên tắc về quản lý, điều tiết giá quy định tại Điều 5 được kế thừa từ các quy định hiện hành và có bổ sung thêm một số những nội dung nhằm tăng cường tính minh bạch, công khai, bảo đảm phù hợp với thực tiễn. Đây là những nguyên tắc gốc để các Luật chuyên ngành khác có quy định về giá cũng cần thực hiện theo để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong thể chế về giá nói chung. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ các nội dung cơ bản quy định tại Điều này như Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4.
5.2. Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ về thứ tự ưu tiên giữa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của công cộng, lợi ích của người tiêu dùng để áp dụng khi xảy ra xung đột lợi ích.
Trên cơ sở ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã phối hợp cùng Cơ quan soạn thảo rà soát lại và thấy rằng trong công tác quản lý, điều hành giá là phải bảo đảm sự hài hòa lợi ích của các bên; tuy nhiên để thể hiện rõ hơn mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng, UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý lại như sau:
“Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và Nhà nước”[42].
5.3. Tại khoản 1, có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “theo cơ chế thị trường”, bởi lẽ theo cơ chế thị trường thì không thực hiện việc điều tiết giá mà phải vận hành theo thị trường.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Một trong các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước là phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ chế giá đảm bảo theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Thực tiễn việc thực hiện kết hợp “bàn tay vô hình” – cơ chế thị trường và “bàn tay hữu hình” – cơ chế điều tiết của Nhà nước cũng được khẳng định trong các quan điểm về quản lý kinh tế thị trường hiện đại, xuất phát từ yêu cầu của thị trường nội dung này thể hiện rõ nguyên tắc khi Nhà nước có sự điều tiết giá, không phải là chủ quan từ một phía. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này tại dự thảo.
5.4. Có ý kiến cho rằng nên đưa khoản 2 của Điều 5 lên thành khoản 1 vì đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế các nguyên tắc được quy định tại Điều 5 đều là những nguyên tắc cơ bản, định hướng toàn diện cho công tác quản lý giá, điều tiết giá. Trong đó việc đánh giá nguyên tắc nào là quan trọng nhất còn có nhiều ý kiến khác nhau; tuy nhiên qua đánh giá của nhiều cơ quan, đơn vị thì việc kiên định theo nguyên tắc thị trường cần được khẳng định trước hết. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như bố cục tại dự thảo.
6. Về công khai thông tin về giá, thẩm định giá (Điều 6)
6.1. Có ý kiến cho rằng, để phù hợp với khoản 4 Điều 6, đề nghị điểm a khoản 1 viết lại như sau: “Chủ trương, cơ chế, chính sách pháp luật về giá đề án, báo cáo về biện pháp quản lý, điều tiết giá đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế các nội dung cơ chế, chính sách được thể hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật; do đó trên cơ sở tiếp thu ý kiến ĐBQH, đã chỉnh lý điểm a khoản 1 Điều 6 Dự thảo Luật như sau: “Chủ trương, đề án, báo cáo về biện pháp quản lý, điều tiết giá đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; văn bản quy phạm pháp luật về giá;”
6.2. Có ý kiến đề nghị Khoản 4 thay cụm từ “theo quy định của pháp luật” bằng “và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin đăng tải”.
Tiếp thu ý kiến các ĐBQH, tại khoản 4 Dự thảo Luật đã chỉnh lý lại như sau: “Việc công khai thông tin phải đảm bảo chính xác, trung thực, kịp thời và chịu trách nhiệm về nội dung công khai; không áp dụng đối với các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước và các trường hợp không được phép công khai theo quy định của pháp luật. Việc thông tin, truyền thông về các chính sách pháp luật về giá, cơ chế quản lý, điều hành giá phải đảm bảo khách quan, trung thực theo quy định của pháp luật.”
6.3. Có ý kiến đề nghị xem lại điểm b khoản 1 và khoản 5 Điều này vì có sự chồng chéo; cùng là điểm b khoản 1 Điều này nhưng lại quy định công khai bằng hai hình thức vừa gửi văn bản vừa cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
Tiếp thu ý kiến các ĐBQH, tại khoản 5 Điều 6 Dự thảo Luật đã chỉnh lý lại như sau: “Việc công khai các thông tin quy định tại Điều này được thực hiện theo hình thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân (nếu có) hoặc các hình thức phù hợp khác. Riêng đối với các trường hợp tại điểm b khoản 1 Điều này thì công khai bằng hình thức gửi văn bản đến các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan và cập nhật lên cơ sở dữ liệu về giá; đối với các nội dung quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều này thì công khai bằng hình thức cập nhật vào cơ sở dữ liệu về giá” để đảm bảo tránh sự trùng lặp trong các quy định.
6.4. Có ý kiến cho rằng hiện nay việc thu thập thông tin chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền trên đất của các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng trên thị trường chưa được quy định công khai minh bạch, cần điều chỉnh lại nhằm tháo gỡ khó khăn, phức tạp trong việc thu thập thông tin chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì vậy, đề nghị bổ sung vào Khoản 1 Điều 6 quy định theo hướng “Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền trên đất của các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng khi thực hiện kê khai đóng thuế tại cơ quan thuế, đăng ký tại văn phòng đăng ký đất đai”.
Việc công khai các nội dung này là cần thiết; tuy nhiên thực tế cần được quy định tại Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản và còn chịu sự điều chỉnh của Luật Quản lý thuế. Do vậy, xin không quy định nội dung này tại Dự thảo Luật. Trên cơ sở ý kiến của ĐBQH đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản và quy định tại Luật quản lý thuế để có quy định chi tiết tại Nghị định của Chính phủ về Cơ sở dữ liệu về giá theo hướng quy định việc giá chuyển nhượng làm một trong các trường hợp phải cập nhật trên Cơ sở dữ liệu về giá để phục vụ công tác quản lý nhà nước về giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Các quy định về thông tin phải công khai đã được quy định rõ tại khoản 1, 2, 3 Điều 6. Việc quy định “các trường hợp không được phép công khai theo quy định của pháp luật” là tránh phát sinh xung đột trong việc liệt kê có thể không bảo đảm đủ hết được các trường hợp vì các trường hợp không được phép công khai có thể được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan, nếu quy định rõ các trường hợp nào cụ thể thì sẽ có thể không đủ bao quát hết các trường hợp nên xin chỉ quy định về nguyên tắc. Việc quy định “theo quy định của pháp luật” là để đảm bảo tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản.
Mặt khác, việc quy định được áp dụng công khai thông tin bằng hình thức phù hợp khác là nhằm tạo sự linh hoạt trong tổ chức thực hiện vì có những cơ quan, đơn vị không có trang thông tin điện tử. Do vậy xin vẫn giữ nội dung “hoặc các hình thức phù hợp khác” như tại Dự thảo Luật.
6.6. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm phạm vi “tổ chức, cá nhân” trong khoản 5 về các hình thức công khai và làm rõ nội hàm từ “cơ quan, đơn vị”.
Tại Dự thảo quy định cụm từ “Cơ quan, đơn vị” là bao gồm 3 chủ thể phải thực hiện công khai thông tin tại Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3. Để bảo đảm chỉ rõ hơn, tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại khoản 5 Điều 6 Dự thảo Luật đã chỉnh lý thành: “Việc công khai các thông tin quy định tại Điều này được thực hiện theo hình thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân (nếu có) hoặc các hình thức phù hợp khác.”.
7. Về các hành vi bị cấm (Điều 7)
7.1. Có nhiều ý kiến ĐBQH quan tâm, có ý kiến đối với quy định tại khoản 2 Điều 7 về cấm việc lợi dụng các trường hợp khẩn cấp để tăng giá hàng hóa, dịch vụ: Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cấm không tăng giá cao đối với các mặt hàng thiết yếu trong bất kỳ trường hợp nào khi chưa có văn bản hướng dẫn hoặc chưa có sự đồng ý của cơ quan chức năng thẩm tra về giá; có ý kiến đề nghị quy định rõ việc khan hiếm hàng hóa, thực phẩm thiết yếu là do cung, cầu mất cân đối hay ghim hàng đầu cơ, tích trữ; có ý kiến đề nghị bổ sung các trường hợp cấm lợi dụng tình trạng khan hiếm tạm thời hoặc tình trạng không thuận lợi để tăng giá. Đồng thời, cũng có nhiều ý kiến có đề xuất chỉnh lý chi tiết đối với khoản này để đảm bảo thuận lợi cho khâu tổ chức thực hiện.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về nguyên lý chung thị trường trong cơ chế thị trường, tổ chức, cá nhân được quyền tự định giá và điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh; nhưng đối với các trường hợp lợi dụng thảm họa, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh sẽ tác động rất lớn đến đời sống người dân, kinh tế - xã hội. Trong trường hợp này việc có hành vi lợi dụng khó khăn của thị trường để tăng giá không phù hợp với biến động của giá thành toàn bộ so với điều kiện bình thường nhằm trục lợi sẽ không phù hợp và phải có quy định để điều chỉnh. Như vậy, quy định cấm chỉ áp dụng trong bối cảnh cụ thể này và việc thực hiện ổn định giá trong các bối cảnh bình thường được thực hiện theo biện pháp bình ổn giá quy định tại Mục 1 Chương IV Dự thảo Luật. Việc chỉnh lý từ “yếu tố hình thành giá” thành “giá thành toàn bộ” để phù hợp với các quy định hiện nay tại Điều 4 do yếu tố hình thành giá thì đã bao gồm lợi nhuận của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Do đó nếu quy định là tăng giá so với biến động của “yếu tố hình thành giá” thì sẽ không phù hợp do người bán hoàn toàn có thể tăng lợi nhuận lên cao.
Để bảo đảm chặt chẽ, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo sửa đổi, chỉnh lý lại quy định này như sau: “c) Lợi dụng thảm họa, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ không phù hợp với biến động của giá thành toàn bộ so với điều kiện bình thường nhằm trục lợi.
7.2. Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Cấm chuyển giá giữa các đơn vị của các doanh nghiệp liên doanh hoặc các doanh nghiệp FDI”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Vấn đề chuyển giá trong doanh nghiệp cũng như các biện pháp phòng, chống chuyển giá hiện được thực hiện theo pháp luật về quản lý thuế và pháp luật khác có liên quan. Tại Điều 6 Luật Quản lý thuế đã quy định về các hành vi nghiêm cấm trong quản lý thuế có bao gồm chuyển giá. Vì vậy, vấn đề này đã có pháp luật điều chỉnh, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Giá. Do vậy, xin không quy định nội dung này.
7.3. Có ý kiến cho rằng, đối với hành vi thông đồng về giá nhưng không có quy định về việc xử lý nếu có vi phạm và đề nghị bổ sung quy định xử lý.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo Dự thảo Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá trình cùng Hồ sơ Luật
[43], các hành vi thông đồng về giá sẽ bị xử lý hành chính, trong trường hợp có yếu tố hình sự sẽ thực hiện theo quy định tại Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự. Do vậy, xin không quy định chi tiết nội dung này tại Dự thảo Luật và sẽ được chỉnh lý, hoàn thiện tại Dự thảo Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá.
7.4. Có ý kiến cho rằng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Dự thảo Luật như trên thực tế rất khó xác định, khó xử lý. Đề nghị chỉ quy định những nội dung tập trung vào hành vi vi phạm về giá, còn những hành vi khác đã có pháp luật dân sự điều chỉnh. Tương tự, tại Điểm a, Khoản 3, Điều 7 cũng đề nghị chỉ quy định những nội dung tập trung vào hành vi vi phạm về giá, còn những hành vi khác đã có pháp luật về cạnh tranh điều chỉnh.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế các quy định này được kế thừa từ luật hiện hành, các nội dung cụ thể như chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng... nhằm làm rõ hành vi của tổ chức, cá nhân và ảnh hưởng đến giá hàng hóa, dịch vụ. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Dự thảo Luật đã chỉnh sửa điểm b khoản 2 Điều 7 thành: “b) Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết trong các giao dịch mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, phương thức vận chuyển, thanh toán, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ;” và điểm a khoản 3 Điều 7 thành: “a) Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật về cạnh tranh; thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá;”.
7.5. Đề nghị xem xét thu gọn điểm b và điểm c khoản 3, vì bản chất nội dung tại điểm b là hành vi đã thuộc nội hàm quy định tại điểm c. Tương tự như vậy tại điểm b, c khoản 4, khoản 5, khoản 6. Đồng thời đề nghị bổ sung viện dẫn quy định "Hối lộ" tại Điều 4 theo pháp luật hiện hành nhằm thống nhất trong quá trình thực hiện.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH và thể hiện nội dung quy định chung tại điểm g khoản 2, điểm đ khoản 3, điểm g khoản 4, điểm c khoản 5, điểm b khoản 6, điểm c khoản 7 Điều 7. Trong đó đã chỉnh lý bỏ các nội dung quy định cấm về “Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thoả thuận trong hợp đồng để làm sai lệch kết quả khi thực hiện thẩm định giá;” và đưa vào trong nội hàm các quy định cấm “Mua chuộc, hối lộ, nhận hối lộ hoặc thông đồng về giá, thẩm định giá.”
7.6. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm 1 điểm (điểm g) vào khoản 3 quy định nội dung cụ thể như sau: “g. Hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của mức giá doanh nghiệp thẩm định đảm bảo phù hợp với giá thị trường tại thời điểm thẩm định giá”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Nội dung này thuộc các quy định về quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá, không thuộc hành vi bị cấm. Các quy định về quyền, nghĩa vụ của thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá đã được quy định tại Điều 47 và Điều 53, trong đó liên quan đến trách nhiệm đối với hoạt động thẩm định giá của thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá đã được quy định rất rõ tại điểm b khoản 2 Điều 47
[44] và điểm d khoản 2 Điều 53
[45] Dự thảo Luật để đảm bảo tính logic trong các quy định về quyền và nghĩa vụ.
7.7. Một số ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “và các tình huống cấp bách khác” vào sau cụm từ “Lợi dụng thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, thảm họa, dịch bệnh” nhằm đảm bảo tính bao quát các tình huống có thể xảy để trục lợi.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Các trường hợp cấp bách được quy định tại dự thảo là có căn cứ để xác định, hiện đã được quy định tại pháp luật về tình trạng khẩn cấp, phòng chống dịch bệnh, thiên tai... Nếu bổ sung các trường hợp cấp bách khác sẽ dẫn đến phạm vi rất rộng, nhưng không có cơ sở pháp lý để xác định, sẽ dẫn đến khó khăn trong khâu tổ chức thực hiện. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như quy định hiện nay.
7.8. Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm 02 khoản quy định về hành vi bị nghiêm cấm đối với tổ chức, cá nhân, cụ thể như sau: Nghiêm cấm hành vi thao túng thị trường, tạo sự khan hiếm nguồn cung nhằm đẩy giá hàng hóa, dịch vụ lên cao để trục lợi; nghiêm cấm việc lợi dụng ưu thế về nguồn cung hàng hóa, dịch vụ, nguồn nguyên liệu vật tư,… để mua bán qua nhiều trung gian nhằm đẩy giá thành sản phẩm lên cao để trục lợi.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Rà soát 2 hành vi này cho thấy thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Tại Điều 27 Luật Cạnh tranh quy định đầy đủ các hành vi cấm đối với các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị thế thống lĩnh thị trường... Do vậy xin không quy định nội dung này tại Dự thảo Luật Giá mà thực hiện thống nhất theo Luật Cạnh tranh.
7.9. Có ý kiến đề nghị cần bổ sung thêm nội dung quy định trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị nếu để xảy ra hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về giá do mình quản lý.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hiện nay tại Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng chống tham nhũng đã có những quy định chung về trách nhiệm trong khi thi hành công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như trách nhiệm của viên chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; tại Dự thảo Luật Giá chỉ quy định về trách nhiệm cụ thể trong từng khâu công việc khi thực thi các công việc liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá, thẩm định giá.
7.10. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm một điểm vào Khoản 2, Điều 7 quy định nghiêm cấm hành vi cản trở hoạt động định giá, thẩm định giá .
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Dự thảo Luật đã bổ sung điểm d khoản 2 Điều 7: “d) Cản trở hoạt động quản lý, điều tiết giá, thẩm định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;”.
7.11. Có ý kiến đề nghị khoản 1 bổ sung thêm hành vi bị cấm như sau: “Cố tình kéo dài thời gian hoặc không xem xét, điều chỉnh giá cụ thể, khung giá, giá tối thiểu, giá tối đa theo đề nghị điều chỉnh của tổ chức, cá nhân có kèm theo các thông tin biến động của các yếu tố hình thành giá cụ thể trên thị trường theo đúng thẩm quyền”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Nội dung ĐBQH nêu là thuộc khâu tổ chức thực hiện và phụ thuộc vào tình hình thực tế của bối cảnh, phương án đề xuất điều chỉnh giá; về quy trình xem xét hồ sơ định giá đã có các quy định cụ thể về thời gian, thẩm quyền cụ thể. Trường hợp không tuân thủ thì sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của Luật Cán bộ công chức và pháp luật liên quan. Do đó xin không bổ sung quy định này tại Luật và sẽ củng cố hơn nữa các quy định về quy trình triển khai tại các văn bản hướng dẫn chi tiết.
7.12. Có ý kiến đề nghị điểm a khoản 1 thay cụm từ: “can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn” bằng: “can thiệp trái pháp luật”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về nội hàm hai cụm từ này cũng có sự tương đồng, nhưng nếu quy định rõ là “không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn” sẽ giúp cho việc xác định hành vi được thuận lợi hơn. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như dự thảo.
7.13. Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “cán bộ, công chức, viên chức và người lao động” tại khoản 1 Điều 7 bằng cụm từ “người có chức vụ, quyền hạn” để phù hợp với khoản 2 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH cũng như qua nghiên cứu các quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan soạn thảo chỉnh lý lại như sau: “Đối với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá; người có chức vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng thuộc cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá”.
7.14. Tại điểm b, khoản 1, có ý kiến cho rằng này nên bổ sung thêm cụm từ “về giá” vì đây là thông tin riêng về giá chứ không phải là thông tin một cách chung chung. Có ý kiến đề nghị bổ sung như sau: “Cố tình tiết lộ…”.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại dự thảo đã được chỉnh lý như sau: “Cố tình tiết lộ, sử dụng thông tin về giá do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp không đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;”
7.15 . Có ý kiến đề nghị giải thích từ ngữ đối với hành vi “loan tin”, làm rõ sự khác biệt với “đưa tin” là gì.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về cơ bản loan tin là việc lan truyền rộng rãi các nội dung thông tin; thực tế các vấn đề về thuật ngữ cũng được hiểu chung ở nhiều pháp luật khác như pháp luật về dân sự, báo chí… Hành vi “loan tin” không đúng sự thật trong một số trường hợp có thể chưa gây hậu quả thiệt hại nhưng có ảnh hưởng đến tâm lý chung của xã hội, ảnh hưởng đến tính tuân thủ, hạn chế sự minh bạch… Nội dung này cũng được kế thừa từ Luật hiện hành và vẫn còn phù hợp, do đó UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như dự thảo.
7.17. Một số ý kiến đề nghị sửa đổi theo hướng gộp các hành vi quy định tại điểm đ và e khoản 2 Điều 7 Dự thảo Luật lại thành một nhóm các hành vi quy định chung trong một điểm của điều luật để đảm bảo ngắn gọn mà vẫn đầy đủ các hành vi cần được quy định.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế hành vi phát hành chứng thư giả có nghĩa là không có chức năng nhưng giả mạo đơn vị chức năng để phát hành chứng thư; hành vi làm chứng thư khi không đủ điều kiện có nghĩa là doanh nghiệp đang không đủ các điều kiện hoạt động thẩm định giá tại Luật nhưng vẫn phát hành chứng thư. Như vậy, hai hành vi này có nội hàm khác nhau, dẫn đến các chế định về chế tài cũng có sự khác nhau. Do vậy xin được giữ quy định ở 2 khoản để làm rõ hơn nội hàm hành vi, thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện.
7.18. Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “nghiêm cấm hành vi đầu cơ nâng giá để trục lợi” vào khoản 2 Điều 7.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Các quy định về cấm hoạt động đầu cơ đã được quy định cụ thể tại Điều 196 Bộ luật Hình sự, Luật Thương mại, Nghị định 98/2020/NĐ-CP do vậy xin không quy định nội dung này tại Luật Giá để tránh sự trùng lặp
7.19. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm một điểm tại khoản 2 quy định về hành vi bị nghiêm cấm đối với tổ chức, cá nhân như sau: “Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, phân phối, chi nhánh, đại lý độc quyền, văn phòng đại diện của nhà sản xuất đưa ra các chính sách về tiêu chí kỹ thuật, điều kiện thương mại, đặc thù, nhằm bảo hộ, tạo thế độc quyền cung cấp sản phẩm cho khách hàng, dự án, thị trường cụ thể, hạn chế cung cấp thông tin giá ra thị trường”. Một số ý kiến khác cũng đề nghị bổ sung việc cấm các hành vi về lợi dụng vị thế độc quyền, gian lận thương mại…
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Ý kiến của ĐBQH là phù hợp nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền, gian lận thương mại. Tuy nhiên qua rà soát cho thấy vấn đề này thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại sẽ phù hợp hơn. Tại Điều 7 chỉ quy định các khía cạnh về giá, do đó xin không quy định tại Luật Giá để tránh chồng chéo.
7.20. Có ý kiến đề nghị khoản 4 Điều 7 bổ sung điểm i như sau: “i. Thực hiện thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá khi đã bị tước, thu hồi thẻ thẩm định viên về giá”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Ý kiến của ĐBQH đã được thể hiện trong nội hàm điểm e khoản 2 về cấm các tổ chức, cá nhân “Làm, cung cấp chứng thư thẩm định giá khi không đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá hoặc sử dụng chứng thư đó cho mục đích quy định tại khoản 4 Điều 55 Luật này;”. Do đó xin không bổ sung thêm vào dự thảo.
7.21. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm 1 điểm (điểm g) vào khoản 3 quy định nội dung cụ thể như sau: “g. Hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của mức giá doanh nghiệp thẩm định đảm bảo phù hợp với giá thị trường tại thời điểm thẩm định giá”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Nội dung này đã được quy định, thể hiện phù hợp tại Nghĩa vụ của Doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá tại các Điều 47, Điều 53; do vậy xin giữ như dự thảo.
7.22. Tại khoản 7, có ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào Điều 4 giải thích từ ngữ “bên thứ ba”, vì quy định chung chung chưa rõ “bên thứ ba” là ai. Có ý kiến cho rằng quy định “…Bên thứ ba có tên trong hợp đồng thẩm định giá” hầu như chưa xác định khi soạn thảo hợp đồng thẩm định giá và không xác định được hết đối tượng điều chỉnh, nên sửa thành nội dung sau: “ Đối với khách hàng thẩm định giá và bên có liên quan”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc quy định rõ bên thứ ba phải là người “được ghi trong hợp đồng” để đảm bảo rõ ràng, minh bạch trong nhu cầu và việc cung cấp dịch vụ. Thực tế các nội dung quy định này cũng phù hợp với quy định tại Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như dự thảo.
8. Về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh, người tiêu dùng (từ Điều 8 đến Điều 11)
8.1. Một số ý kiến góp ý chi tiết như: đề nghị gộp Khoản 1 và Khoản 6 Điều 8; gộp Khoản 3, 4, 5 thành một khoản; khoản 4 Điều 32 chuyển sang khoản 10 Điều 10; khoản 1, Điều 10 viết lại như sau: “Lựa chọn thỏa thuận về giá khi mua hàng hóa, dịch vụ, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quy định giá”; gộp khoản 3 và khoản 4 Điều 9 thành một khoản có nội dung như sau: “kê khai niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật”; bổ sung cụm từ “cụ thể” sau “trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá”; có ý kiến cho rằng quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 8 cùng nói về quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh.
UBTVQH xin báo cáo tiếp thu ý kiến ĐBQH như sau:
- Chỉnh lý gộp khoản 5, khoản 6 (Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4) vào khoản 1 Điều 8 như sau “Tự định giá và điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá cụ thể. Được xem xét áp dụng nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá do Nhà nước quy định để định giá hàng hóa, dịch vụ”.
- Tại Điều 8 đã bỏ nội dung “Tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh trên cơ sở căn cứ giá tham chiếu được công bố” để thể hiện rõ hơn tại Điều 33 Dự thảo Luật quy định về giá tham chiếu.
- Đồng thời xin được bỏ nội dung tại khoản 4 Điều 32 Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 để thể hiện chung tại khoản 10 Điều 8 Dự thảo Luật về “quyền khiếu nại, tổ cáo hoặc khởi kiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá” để tránh sự trùng lặp.
8.2. Có ý kiến đề nghị tại Điều 9 bổ sung nghĩa vụ thực hiện cung cấp thông tin, kê khai đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin của giá hàng hóa, dịch vụ, cung cấp dịch vụ thiết yếu …; có ý kiến đề nghị xem xét sự cần thiết hoặc chỉnh lý đối với nghĩa vụ lập phương án giá hoặc báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá hàng hóa, dịch vụ cho phù hợp, tránh các trường hợp lạm dụng hoặc phát sinh thủ tục hành chính.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về nguyên lý dùng trong công tác quản lý, điều hành giá thì phương án giá là cơ sở quan trọng để xem xét nhất là việc định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy việc đặt ra quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải lập phương án giá khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để triển khai các biện pháp quản lý, điều tiết giá là cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến ĐBQH, để giới hạn phạm vi, làm rõ các trường hợp, cách thức báo cáo, tránh việc lạm dụng, tạo thêm thủ tục hành chính, đã gộp khoản 6 vào khoản 1 và chỉnh lý lại khoản 1 Điều 9 như sau: “1. Lập phương án giá hoặc báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá hàng hóa, dịch vụ hoặc cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ số liệu, tài liệu có liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ việc định giá hoặc triển khai, áp dụng các biện pháp quản lý, điều tiết giá khác theo quy định của Luật này.”
8.3. Có ý kiến cho rằng nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng trong các trường hợp tổ chức kinh doanh trên nền tảng số chưa được đề cập
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại Dự thảo Luật áp dụng thuật ngữ “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” đã bao hàm các tổ chức kinh doanh trên nền tảng số, thương mại điện tử theo quy định của Luật Thương mại và các quy định pháp luật về thương mại điện tử. Mặt khác, nội dung này cũng được chỉnh lý, thể hiện rõ về trách nhiệm thực hiện niêm yết giá quy định tại khoản 2 Điều 29 Dự thảo Luật: “Các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ niêm yết giá đảm bảo rõ ràng và không gây nhầm lẫn cho khách hàng về mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng các hình thức: in, dán, ghi thông tin trên bảng, giấy hoặc in trực tiếp trên bao bì của hàng hóa hoặc các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế tại địa điểm bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ hoặc trên các trang thông tin điện tử, website thương mại điện tử của mình để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của khách hàng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
8.4. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp có sự thay đổi về giá bán của hàng hóa, dịch vụ thì phải điều chỉnh ngay về giá mua, giá bán phù hợp với Khoản 3 Điều 29 Dự thảo Luật.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại khoản 4 Điều 9 đã quy định về nghĩa vụ “4. Niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.” của các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Đồng thời tại Điều 29 Dự thảo Luật đã quy định về việc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thay đổi niêm yết giá khi thay đổi giá bán hàng hóa, dịch vụ của mình[46].
8.5. Có ý kiến cho rằng, quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng cần quy định phù hợp và khả thi; tại khoản 3 Điều 10, có ý kiến đề nghị quy định để phù hợp quy định của Luật Quản lý thuế.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý lại quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo Luật thành: “3. Được yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin về giá, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ và hóa đơn theo quy định của pháp luật.”
8.6. Có ý kiến cho rằng “thông tin chất lượng” là khái niệm rộng, đề nghị bổ sung khái niệm “thông tin chất lượng” là những thông tin nào? Đối tượng cung cấp thông tin chất lượng là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp kinh doanh, bán lẻ? hoặc có quy định cụ thể trong Nghị định hướng dẫn của Chính phủ.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hiện nay tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã có những quy định cụ thể về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa…; vì vậy để đảm bảo thống nhất với Luật Chất lượng sản phẩm, Dự thảo Luật Giá xin không quy định chi tiết nội dung này.
8.7. Tại khoản 1 Điều 11 Dự thảo Luật, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ cụm từ “mức giá đã lựa chọn” . Đề nghị chỉnh sửa cụm từ “mức giá do Nhà nước quy định khi mua hàng hóa, dịch vụ” bằng cụm từ “mức giá do Nhà nước quyết định giá cụ thể” để đảm bảo thống nhất với nội dung quy định tại khoản 1 Điều 10 Dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại Dự thảo Luật đã chỉnh lý tại khoản 1 Điều 11 thành: “1. Thanh toán theo mức giá thỏa thuận hoặc mức giá cụ thể do Nhà nước quy định khi mua hàng hóa, dịch vụ.”
8.8. Khoản 5 Điều 8, có ý kiến đề nghị sửa đổi như sau:“Được quyền thỏa thuận điều chỉnh giá bán so với giá đã niêm yết, đã kê khai với người mua hàng hóa, dịch vụ trong các hợp đồng mua bán theo điều kiện cụ thể nhưng đảm bảo không vi phạm pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về chống phá giá hàng nhập khẩu; không vi phạm quy định về quản lý giá của Nhà nước đối với hàng hóa, dịch vụ phải áp dụng khung giá, giá tối đa, tổi thiểu. Đối với các trường hợp hàng hóa, dịch vụ sau đây khi thay đổi giá bán phải kịp thời niêm yết công khai tại nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời hạn điều chỉnh giá (nếu có):…”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc quy định chi tiết như ĐBQH nêu chính là để thể hiện một số quyền tự định giá của doanh nghiệp và vấn đề này đã được quy định tại khoản 1 Điều 8 Dự thảo Luật. Do vậy xin không quy định thêm nội dung này tại dự thảo để tránh sự trùng lặp.
8.9. Khoản 6 Điều 8 Dự thảo Luật, có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “khung giá, giá tối thiểu, giá tối đa” vào khoản này.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Mục tiêu của quy định này nhằm điều chỉnh tất cả hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và không chỉ khung, tối đa, tối thiểu. Do vậy xin giữ như dự thảo.
8.10. Có ý kiến đề nghị điểm d khoản 8 bổ sung trường hợp “doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh”.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, đã chỉnh lý nội dung điểm đ khoản 4 Điều 8 như sau “đ) Hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, phá sản, giải thể; thay đổi địa điểm, ngành nghề sản xuất, kinh doanh;”
8.11. Có ý kiến cho rằng, để có thể bao quát được hết những trường hợp xảy ra trên thị trường, ví dụ như: khi thị trường thay đổi, giá của yếu tố đầu vào giảm (có thể không phải do Nhà nước có các chính sách giảm thuế, phí), nhưng một số người kinh doanh vẫn không chịu giảm giá bán cho phù hợp. Đề nghị Ban soạn thảo xem xét, sửa đổi bổ sung như sau:“Giảm giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh khi giá yếu tố đầu vào giảm, tác động làm giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ giảm từ 3% trở lên”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc tăng, giảm giá hàng hóa, dịch vụ là quyền của tổ chức, cá nhân theo đúng quy luật kinh tế thị trường… Riêng đối với chi phí về thuế sẽ phụ thuộc vào các chính sách về thuế của Nhà nước và trong các trường hợp việc giảm thuế phí nhằm hướng đến hỗ trợ người tiêu dùng thì người kinh doanh mới cần phải tuân thủ giảm ngay giá hàng hóa, dịch vụ. Do đó, quy định của Luật chỉ điều chỉnh khi Nhà nước có chính sách về thuế, phí nhằm hỗ trợ người tiêu dùng (đối với các chính sách thuế gián thu, người tiêu dùng phải chịu và doanh nghiệp chỉ là thu hộ). Việc đặt ra vấn đề quy định trực tiếp tỉ lệ định lượng sẽ khó phù hợp với các nguyên tắc kinh tế thị trường. Do đó xin không quy định nội dung này tại Luật.
8.12. Khoản 7 Điều 9, có ý kiến đề nghị chỉnh lý để tránh lặp từ “căn cứ” và điều chỉnh thành “trên cơ sở nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ để xem xét, định giá hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu”.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH và các ý kiến khác, đã gộp khoản này vào khoản 2 Điều 8 như sau: “Tự định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh theo khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, phù hợp với căn cứ, nguyên tắc, phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ quy định tại Luật này.”. Trên cơ sở đó xác định đây là một quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh.
8.13. Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trong lĩnh vực giá” vào sau tên Điều 10 và Điều 11 của Dự thảo Luật, để thống nhất với nội dung quy định tại Điều 1. Đồng thời, phân biệt giữa quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng được quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật bảo vệ người tiêu dùng. Có ý kiến đề nghị Dự thảo Luật cần làm rõ khái niệm về người tiêu dùng ở Luật này có tương đồng với khái niệm người tiêu dùng của Dự thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng hay không. Ngoài ra, theo Dự thảo Luật Giá thì phạm vi quyền, nghĩa vụ của người tiêu dùng bị bó hẹp hơn so với Dự thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
- Nội dung “trong lĩnh vực giá” đã được thể hiện tại tên Chương 2, do vậy UBTVQH xin Quốc hội cho giữ tên các điều tại Luật để tránh sự trùng lặp.
- Tại Luật Giá chỉ điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong lĩnh vực giá; đối với quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Trong quá trình soạn thảo, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu, rà soát với Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng để chỉnh lý phù hợp, tránh sự trùng lặp về các quy định.
8.14. Có ý kiến đề nghị xem xét lại khoản 1 Điều 10 vì chưa rõ trong trường hợp người tiêu dùng thỏa thuận được giá với người cung cấp hàng hóa dịch vụ (thấp hơn hoặc cao hơn) giá kê khai, niêm yết thì có thể sai quy định của pháp luật hay không.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
- Về kê khai giá, hiện nay đã được điều chỉnh về cơ chế triển khai, theo đó việc kê khai được thực hiện sau khi quyết định giá hàng hóa, dịch vụ hoặc mua, bán. Do vậy về nguyên lý mức giá tại văn bản kê khai sẽ là mức giá thực hiện.
- Đối với nội dung niêm yết giá, tại luật cũng đã quy định người bán không được bán cao hơn giá niêm yết như vậy Luật không điều chỉnh đối với trường hợp nếu có thỏa thuận mức giá thấp hơn.
8.15. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quyền của người tiêu dùng vào khoản này như sau: “từ chối mua hàng hóa dịch vụ trong trường hợp không được người bán cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết về hàng hóa, dịch vụ để có thể quyết định giá mua”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc từ chối mua hàng khi không được cung cấp đầy đủ thông tin là quyền dân sự đã được quy định tại Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Do đó xin không quy định nội dung này tại trong phạm vi Luật Giá.
9.Về nội dung quản lý về giá, thẩm định giá và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước (từ Điều 12 đến Điều 16 Dự thảo Luật).
9.1. Có ý kiến cho rằng, tên của Chương III cần sửa lại cho phù hợp thành “Quản lý nhà nước về giá” hoặc “Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giá”. Có ý kiến đề nghị Điều 12 nên bổ sung thành “Nội dung quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá.”
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo UBTCNS và Cơ quan soạn thảo nghiên cứu, chỉnh lý lại tên Chương thành “Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá” và tên Điều 12 thành “Nội dung quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá”để đảm bảo bao hàm các nội dung quy định về quản lý nhà nước về giá.
9.2. Có ý kiến cho rằng việc quy định thẩm quyền điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, định giá là UBTQVH là chưa phù hợp, nên giao cho Quốc hội và trong trường hợp giữa các kỳ họp thì UBTVQH mới quyết định.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về cơ bản, việc giao UBTVQH quyết định việc điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, định giá là được kế thừa từ Luật hiện hành; quy định này trên cơ sở đánh giá công tác tổ chức thực hiện đảm bảo về tiến độ, thời hạn, đáp ứng yêu cầu quản lý thực tiễn, nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, xã hội cấp bách. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho tiếp tục kế thừa và giữ quy định này như tại Dự thảo.
9.3. Có ý kiến đề nghị quy định rõ vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về giá trong tham gia xây dựng pháp luật, phương pháp định giá và cách định giá dịch vụ nhà nước
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc quy định rõ trách nhiệm phối hợp của các cơ quan trong việc ban hành văn bản là rất cần thiết, nhất là đối với lĩnh vực giá liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực. Dự thảo Luật đã được chỉnh lý, bổ sung tại khoản 2 các Điều 14, 15, 16 về thẩm quyền của Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND cấp tỉnh
[47]. Đồng thời cũng đã bổ sung làm rõ các quy định về trách nhiệm xây dựng phương pháp định giá tại khoản 6 Điều 14, khoản 6 Điều 15 Dự thảo Luật
[48].
9.4. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm nội dung “Thực hiện kiểm soát giá” tại Điều 12 vì trong thực tiễn kiểm soát giá là một trong những hoạt động không thể thiếu giúp quản lý nhà nước về giá có hiệu lực và hiệu quả cao, cũng như kịp thời phát hiện các sai lệch và sửa đổi, điều chỉnh khi cần thiết. Đồng thời, tại Khoản 2 Điều 12 đề nghị bổ sung hoạt động “bình ổn giá” điều chỉnh thành “Quản lý, điều tiết, bình ổn giá của nhà nước” để đảm bảo thẩm quyền của cơ quan nhà nước thực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm ổn định giá hàng hóa, dịch vụ khi có biến động bất thường trong một khoảng thời gian nhất định.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc quy định thêm nội dung về kiểm soát giá thực tế đã được thể hiện một phần trong nội hàm các quy định về “quản lý, điều tiết giá”; việc quy định về “kiểm soát giá” dễ dẫn đến các đánh giá về việc hoàn thiện cơ chế thị trường từ các tổ chức quốc tế, do vậy xin không quy định nội dung này tại Luật. Tại Điều 12 nội dung Dự thảo đã quy định tổng thể các nội dung về việc thiết lập thông tin thông qua việc định giá, kê khai giá, xây dựng CSDLQG về giá…và thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá.
Theo Dự thảo Luật hoạt động bình ổn giá là một trong những nội dung thuộc hoạt động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước (bên cạnh các hoạt động khác như định giá, hiệp thương giá, kê khai giá, niêm yết giá, tham chiếu giá và kiểm tra yếu tố hình thành giá).
9.5. Có ý kiến đề nghị sửa đổi khoản 4 Điều 15 để thống nhất với quy định tại khoản 4, Điều 13 về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, để đảm bảo đồng bộ với nội dung chỉnh lý về giá tham chiếu; tại khoản 4 Điều 15 đã chỉnh lý: “4. Đề xuất và phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá”.
9.6. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm khoản 16 và khoản 17 vào Điều 14 nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài chính về xây dựng, trình Chính phủ ban hành khung giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ là bất động sản và cho phép áp dụng giá thị trường trong lĩnh vực thu thuế, phí, lệ phí và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Giá tính thuế, trong đó có cả giá bất động sản là một nội dung được điều chỉnh tại Luật quản lý thuế và các Luật thuế, lệ phí. Do vậy xin không quy định các nội dung này tại dự thảo.
9.7. Có ý kiến đề nghị rà soát nội dung quy định các bộ chỉ có quyền kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, hoạt động thẩm định giá của Nhà nước trong lĩnh vực, phạm vi quản lý;
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc thực hiện kiểm tra chấp hành pháp luật về giá tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ chỉ thực hiện theo thẩm quyền, phạm vi quản lý và đã được quy định rõ tại Điều 14, Điều 15 Dự thảo Luật. Riêng đối với việc thanh tra chuyên ngành về giá thì Bộ Tài chính sẽ thực hiện theo phạm vi quản lý đã được quy định tại Luật Thanh tra. Các nội dung này cũng được thể hiện tại Chương VII của Dự thảo Luật.
9.8. Có ý kiến Ủy ban nhân dân các tỉnh không phải xây dựng phần mềm riêng cho từng địa phương vì hiện nay một số tỉnh thành đã xây dựng cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương nhưng hiệu quả mang lại chưa cao, sự phối hợp giữa các sở, ngành đơn vị chưa thật sự tốt trong việc kết nối, nhập liệu theo tiêu chí Trung ương đề nghị. Để tiết kiệm ngân sách nhà nước, trên nền tảng dữ liệu có, đề xuất Bộ Tài chính tiếp tục mở rộng xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia để phần mềm cơ sở Dữ liệu quốc gia về giá trở thành Cơ sở dữ liệu về giá của cả nước, nơi tập trung tất cả các giá hàng hóa, dịch vụ liên quan đến lĩnh vực giá để các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các đối tượng có nhu cầu khai thác dữ liệu thuận lợi, nhanh chóng.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và chỉnh lý tại khoản 1 Điều 38 theo hướng việc xây dựng cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương là không bắt buộc, cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương do UBND cấp tỉnh quyết định tùy theo thực tiễn, nhu cầu tại địa phương phục vụ các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giá trên địa bàn. Trường hợp địa phương nào không có sẽ thực hiện cập nhật trực tiếp dữ liệu lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
9.9. Có ý kiến đề nghị làm rõ nguyên tắc, mối quan hệ giữa hai phương pháp định giá; phương pháp được ưu tiên khi có xung đột giữa hai phương pháp. Có ý kiến đề nghị trình tự, thủ tục định giá nên giao cho Chính phủ quy định chi tiết, nhất là phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, các hàng hóa, dịch vụ do Thủ tướng Chính phủ quy định.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về trình tự, thủ tục định giá là các vấn đề có tính kỹ thuật, tùy thuộc vào từng loại hàng hóa, dịch vụ, thẩm quyền mà quy trình, trình tự có sự khác nhau, UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và chỉnh lý theo hướng quy định nguyên tắc và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Việc quy định rõ nguyên tắc, mối quan hệ giữa các phương pháp định giá là rất cần thiết; tuy nhiên vấn đề này mang tính kỹ thuật, chi tiết, gắn với từng trường hợp và sẽ được quy định chi tiết tại văn bản hướng dẫn Luật về phương pháp định giá (hiện hành là Thông tư 25/2014/TT-BTC). Với thẩm quyền giao Bộ Tài chính quy định phương pháp định giá chung và các Bộ, ngành quy định phương pháp định giá riêng là phù hợp; do vậy xin tiếp tục giao các Bộ hướng dẫn phương pháp và không quy định chi tiết nội dung này tại Luật.
9.10. Có ý kiến đề nghị thẩm quyền tham mưu Chính phủ, ban hành nghị định, thông tư, quản lý giá đất… nên thuộc Bộ Tài chính, còn các Bộ, ngành quản lý cụ thể về giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo Dự thảo Luật, Bộ Tài chính là cơ quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chung về giá, bao gồm cả phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ. Việc quản lý các hàng hóa, dịch vụ cụ thể sẽ giao cho các Bộ, ngành, địa phương theo lĩnh vực, phạm vi quản lý. Riêng đối với đất đai là một trong các hàng hóa đặc thù đã được nêu tại Điều 3 của Luật thì sẽ được cập nhật, thực hiện theo Luật Đất đai. Hiện nay song song với quá trình xây dựng Luật Giá (sửa đổi) thì dự án Luật Đất đai (sửa đổi) cũng đang được hoàn thiện, trình Quốc hội. Để bảo đảm tính đồng bộ thì các quy định của Luật Giá về hàng hóa này sẽ theo hướng cập nhật, thực hiện theo Luật Đất đai. Do vậy, xin tiếp tục giữ nội dung này như Dự thảo.
9.11. Một số ý kiến đề nghị Bộ Tài chính có vai trò chính trong quản lý nhà nước về giá và các bộ, ngành chỉ phối hợp tham gia.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về nguyên lý thì công tác quản lý, điều hành giá được gắn với lĩnh vực, phạm vi quản lý hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Việc phân định rõ thẩm quyền giữa Bộ Tài chính và các Bộ, ngành cũng là chủ trương trong việc xây dựng dự án Luật. Việc tăng cường phân công, phân cấp trong thực tế đã được thực hiện bước đầu ngay từ Luật Giá 2012 và được triển khai triệt để tại Dự thảo Luật lần này.
Thực tế tại Dự thảo Luật cũng đã tiếp tục chuyển một số việc quản lý hàng hóa, dịch vụ cụ thể hiện đang thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính cho các Bộ chuyên ngành (Dịch vụ kiểm định phương tiện vận tải chuyển Bộ Giao thông vận tải; Dịch vụ kiểm nghiệm thuốc dành dùng cho động vật, thực vật, dịch vụ tiêm phòng, tiêu độc, khử trùng cho động vật, chẩn đoán thú y chuyển Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Dịch vụ kiểm dịch y tế, y tế dự phòng tại cơ sở y tế công lập chuyển Bộ Y tế). Việc chuyển thẩm quyền quản lý như vậy là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, chuyên môn lĩnh vực quản lý và được sự đồng thuận của các Bộ, ngành.
Từ thực tiễn triển khai thực hiện cho thấy nếu giao hết về một đầu mối là Bộ Tài chính và Sở Tài chính là không bảo đảm tính khả thi vì mỗi hàng hóa, dịch vụ đều có những đặc thù riêng về yếu tố kỹ thuật, những vấn đề về sản xuất, cung ứng gắn với chiến lược của từng ngành, lĩnh vực. Vì thế, nếu cắt đoạn khâu quản lý giá và giao một cơ quan khác thực hiện sẽ không bảo đảm tính đồng bộ; trừ một số trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc quản lý của nhiều cơ quan. Từ lý do này, trong thực tiễn thời gian qua, việc giao thẩm quyền trách nhiệm quản lý giá hàng hóa, dịch vụ gắn với quản lý ngành lĩnh vực là một nguyên tắc và đã phát huy tính hiệu quả. Ví dụ như giá đất đã được điều chuyển về Bộ Tài nguyên và Môi trường, giá điện điều chuyển về Bộ Công thương.
Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này như Dự thảo.
9.12. Có ý kiến đề nghị không nên quy định cụ thể về việc Bộ trưởng, Ủy ban nhân dân giao nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên môn tham mưu công tác quản lý nhà nước về giá như tại Điều 18 của Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4. Một số ý kiến đề nghị cần bảo đảm sự thống nhất giữa Điều 18 và Điều 26 hoặc đưa nội hàm Điều 18 vào các Điều 14, 15, 16.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, đánh giá kỹ trên tinh thần tiếp thu tối đa ý kiến ĐBQH; theo đó, việc quy định về nguyên tắc giao nhiệm vụ tham mưu công tác quản lý nhà nước về giá của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cho các cơ quan chuyên môn và vẫn cần thiết để đảm bảo thống nhất trong tổ chức thực hiện; mặt khác đây chỉ là các quy định có tính nguyên tắc, không can thiệp trực tiếp vào quyền hạn, trách nhiệm của các Bộ. Trên cơ sở đó, đã chỉnh lý lại theo hướng bỏ Điều 18 và đưa một số nội dung còn phù hợp của Điều này vào các Điều 14, 15, 16 tại Dự thảo Luật
[49].
9.13. Có ý kiến đề nghị giữ lại khoản 3 Điều 19 Luật Giá hiện hành thay vì quy định thành danh mục riêng.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Khoản 3 Điều 19 Luật hiện hành quy định về danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, nhưng thẩm quyền và hình thức thì giao Chính phủ quy định. Dự thảo Luật sửa đổi quy định chi tiết danh mục là Phụ lục kèm theo Luật gồm tên hàng hóa, dịch vụ gắn với thẩm quyền và hình thức định giá. Việc quy định này một mặt tăng tính công khai, minh bạch, một mặt làm rõ hơn khoản 3 Điều 19 Luật Giá hiện hành. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như quy định này như Dự thảo Luật đã trình.
9.13. Về thẩm quyền của HĐND, Thường trực HĐND, nhiều ý kiến của ĐBQH đề nghị không quy định thẩm quyền định giá của HĐND, xem xét lại các quy định tại Điều 16 để thống nhất với các quy định tại Luật tổ chức chính quyền địa phương. Có ý kiến đề nghị Dự thảo quy định cụ thể trách nhiệm của HĐND cấp tỉnh và làm rõ vai trò của HĐND cấp tỉnh cho phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, xin được bỏ Điều 16 trong Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4. Theo đó, thẩm quyền định giá hàng hóa, dịch vụ tại địa phương được quy định tại Luật Giá chỉ có Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; quy định về thẩm quyền định giá của Hội đồng nhân dân thực tế là quy định đặc thù, chỉ áp dụng đối với 2 lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh và giáo dục. Đối với những hàng hóa, dịch vụ có tính đặc thù thì thực hiện theo Luật chuyên ngành được quy định tại Điều 3 Dự thảo Luật.
Tại Dự thảo Luật trình Quốc hội có quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân trong việc định giá của Nhà nước. Nhiều ý kiến của ĐBQH băn khoăn về sự cần thiết vì theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, thẩm quyền của Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ quyết định giá dịch vụ giáo dục, đào tạo đối với cơ sở giáo dục, đào tại công lập thuộc phạm vi quản lý của tỉnh và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Luật Khám bệnh, chữa bệnh vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 4 thì cũng không quy định thẩm quyền định giá của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, hiện chỉ còn học phí, giá dịch vụ giáo dục. Theo quy định tại Điều 3 Dự thảo Luật thì giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh và học phí, giá dịch vụ giáo dục được thực hiện theo quy định của pháp luật về giáo dục, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến ĐBQH đã chỉnh lý bỏ thẩm quyền định giá của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trong thực tiễn, trường hợp cần lấy ý kiến HĐND sẽ thuộc về khâu tổ chức thực hiện của từng địa phương, không nên quy định cứng tại Luật.
9.14. Có một số ý kiến góp ý chi tiết về kỹ thuật như: sửa đổi, bổ sung cụm từ “cơ sở dữ liệu về giá” bằng cụm từ “cơ sở dữ liệu quốc gia về giá”; bổ sung nội dung ứng dụng công nghệ thông tin về giá, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu về giá; đề nghị việc nghiên cứu, dự báo về giá, xây dựng cơ sở dữ liệu về giá cần có sự tham gia của các thành phần khác; nội dung về xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu về giá (khoản 5 Điều 13) nên giao cho Bộ Tài chính quản lý.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, đánh giá và thống nhất tiếp thu tối đa ý kiến các ĐBQH để chỉnh lý, bổ sung tại Dự thảo các nội dung đã được góp ý chi tiết nêu trên tại Điều 38 về Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá
[50];
9.15. Về khoản 1 Điều 15, đề nghị chỉnh lý thay cụm từ “hiện có” bằng “đảm bảo nguyên tắc không phát sinh thêm bộ máy, biên chế”.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, nội dung này đã được chỉnh lý như sau: “Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá trong lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ giao cơ quan, đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá của Nhà nước quy định tại Điều này, đảm bảo nguyên tắc không phát sinh thêm bộ máy, biên chế.”.
10. Về bình ổn giá (từ Điều 17 đến Điều 20)
10.1. Về tiêu chí của hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, nhiều ý kiến cho rằng tiêu chí còn chung chung, khó định lượng; có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét quy định lại về tiêu chí của danh mục hành hóa, dịch vụ bình ổn giá và xem xét, bổ sung nội dung quy định cụ thể hành hóa, dịch vụ nào là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế việc xác định tiêu chí quy định sẽ theo hướng đáp ứng đồng thời nhiều tiêu chí, như phải là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu (được quy định tại khoản 3 Điều 4) cũng như phải có tác động đến kinh tế - xã hội. Tiếp thu và để làm rõ ý kiến ĐBQH, tại Dự thảo Luật cũng đã chỉnh lý khái niệm về hàng hóa, dịch vụ thiết yếu để không trùng lặp với quy định về tiêu chí của danh mục bình ổn giá
, bên cạnh việc đã chỉnh lý quy định về khái niệm “hàng hóa, dịch vụ thiết yếu”. Hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá vừa phải là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, vừa phải “Có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống người dân.”; UBTVQH đã chỉnh lý quy định tại khoản 1 Điều 17 Dự thảo Luật[51] về tiêu chí của hàng hóa, dịch vụ và quy định chi tiết Danh mục các mặt hàng bình ổn giá tại khoản 2 Điều 17[52].
10.2. Về nguyên tắc, các trường hợp và biện pháp bình ổn giá, nhiều ý kiến đề nghị cần quy định rõ về thế nào là giá tăng quá cao và giảm quá thấp; cần có văn bản hướng dẫn kèm theo, đề nghị quy định rõ tỷ lệ phần trăm (%) biến động về giá để xác định thế nào là tăng quá cao, giảm quá thấp.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, điểm a khoản 2 Điều 18 Dự thảo Luật đã được chỉnh lý như sau: “a) Mặt bằng giá thị trường của hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá biến động bất thường gây tác động lớn đến kinh tế - xã hội, sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân;”. Như vậy, việc bình ổn giá cụ thể (biện pháp, thời gian, tổ chức thực hiện) sẽ căn cứ trên cơ sở kiểm tra yếu tố hình thành giá để xác định rõ nguyên nhân, mức độ biến động của hàng hóa, dịch vụ. Việc kiểm tra yếu tố hình thành giá về cơ bản mang tính rà soát, đánh giá vừa xác định các nguyên nhân của biến động giá nhằm đề xuất biện pháp phù hợp và sẽ có quy trình triển khai nhanh, bảo đảm kịp thời cho công tác thực hiện trong thực tiễn (không thuộc phạm vi hoạt động kiểm tra xử lý vi phạm).
Đối với quy định về “giá biến động bất thường” tại khoản 10 Điều 4 Dự thảo Luật,UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau: việc đặt ra quy định lượng hóa thế nào là tăng bất hợp lý, tăng quá cao hoặc giảm quá thấp là vấn đề đã được đặt ra để thảo luận, làm rõ từ giai đoạn xây dựng Luật hiện hành; trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật sửa đổi, Ban soạn thảo cũng đã nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, do mỗi loại hàng hóa, dịch vụ có tính đặc thù riêng, mức độ biến động và ảnh hưởng của giá hàng hóa, dịch vụ trong các bối cảnh khác nhau nên việc lượng hóa chung một mức độ biến động sẽ không cần thiết, khó áp dụng cụ thể trong từng trường hợp. Ngay cả một số nước khi quy định về mức độ biến động để áp dụng các biện pháp bình ổn cũng gắn với từng nhóm hàng hóa và theo bối cảnh, nguyên nhân cụ thể (tình trạng khẩn cấp hay thiên tai, dịch bệnh…), không thể quy định rõ tỷ lệ phần trăm (%) biến động về giá để xác định.
10.3. Có ý kiến đề nghị quy định trong Dự thảo về các trường hợp khi có phát sinh biến động giá của những mặt hàng thiết yếu nhất là trong điều kiện thiên tai, dịch bệnh gây khó khăn trong việc quyết định triển khai bình ổn giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc triển khai bình ổn giá sẽ được thực hiện trong trường hợp giá hàng hóa, dịch vụ biến động bất thường. Ngoài ra, trong trường hợp xảy ra thiên tai, dịch bệnh hoặc tình trạng khẩn cấp thì việc triển khai bình ổn giá cần phải được thực hiện nhanh, kịp thời hơn, đáp ứng được yêu cầu cấp bách. Do đó tại Luật đã quy định rõ 2 trường hợp thực hiện bình ổn giá và cũng đã cụ thể hóa về quy trình thực hiện, nhất là quy trình triển khai nhanh trong các trường hợp khẩn cấp.
10.4. Có ý kiến đề nghị quy định ngay trong Luật việc quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá để áp dụng thống nhất, không giao cho Chính phủ quy định như trong Dự thảo và trong trường hợp có nhiều mặt hàng trong Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá cần có quỹ bình ổn giá riêng thì có phương án thành lập một quỹ bình ổn giá cho tất cả các mặt hàng để tạo sự linh động, hiệu quả, giảm lãng phí khi điều hành quỹ. Có ý kiến đề nghị điều chỉnh điểm đ khoản 1 Điều 19 thành “Quỹ bình ổn giá là quỹ tài chính được trích lập từ giá hàng hóa, dịch vụ và các nguồn tài chính hợp pháp khác và nằm trong cân đối ngân sách nhà nước và chỉ được sử dụng cho mục đích bình ổn giá”, việc một phần quỹ bình ổn giá nằm trong ngân sách nhà nước làm đa dạng nguồn quỹ, tăng khả năng điều tiết giá cả trong trường hợp thị trường biến động mạnh, đồng thời nhằm giảm bớt áp lực về phía người dân và doanh nghiệp.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Luật hiện hành quy định 11 hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bình ổn giá và mặt hàng nào lập quỹ bình ổn giá thì giao Chính phủ quy định. Luật sửa đổi tiếp tục kế thừa nguyên tắc này vì nếu thành lập một quỹ chung sẽ không khả thi vì còn liên quan đến trích lập, quản lý, sử dụng của từng mặt hàng; nhất là việc quản lý quỹ, hạch toán quỹ sẽ rất khó khăn. Vì vậy tại Luật chỉ quy định về nguyên tắc là “Quỹ bình ổn giá là quỹ tài chính không nằm trong cân đối ngân sách nhà nước, được trích lập từ giá hàng hóa, dịch vụ và các nguồn tài chính hợp pháp khác và chỉ được sử dụng cho mục đích bình ổn giá. Chính phủ quyết định việc lập quỹ bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ chiến lượcthuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá; quy định về quản lý, trích lập, chi sử dụng quỹ bình ổn giá và chịu trách nhiệm bảo đảm tính công khai, minh bạch, hiệu quả trong quản lý, sử dụng quỹ”. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo Luật.
10.5. Có ý kiến đề nghị cần cân nhắc quy định mức trần lợi nhuận trên giá vốn hoặc trên giá thành toàn bộ đối với các mặt hàng thiết yếu trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh; đề nghị cần có quy định bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ sở sản xuất, kinh doanh trong trường hợp bình ổn giá gây thiệt hại.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại khoản 3 Điều 20 của Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 và tiếp tục được quy định tại khoản 1 Điều 19 của Dự thảo Luật quy định các biện pháp bình ổn giá, trong đó có một biện pháp là: “c) Định giá cụ thể, giá tối đa, giá tối thiểu hoặc khung giá phù hợp với tính chất của từng loại hàng hóa, dịch vụ và thời hạn áp dụng mức giá; việc định giá hàng hóa, dịch vụ được thực hiện theo các nguyên tắc, căn cứ, phương pháp quy định tại Mục 2 Chương này”
Biện pháp quy định giá tối đa để bình ổn giá chính là nhằm kiểm soát giá hàng hóa, dịch vụ và thông qua đó cũng đã điều tiết mức lợi nhuận của việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong giai đoạn áp dụng biện pháp bình ổn giá. Theo đó, đây là biện pháp can thiệp trực tiếp vào mức giá hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong trường hợp này thì việc định giá cũng phải bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí hợp lý, hợp lệ (tương tự với việc định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục định giá); bảo đảm hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Như vậy lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp vẫn được bảo đảm phù hợp, hài hòa chung với mục tiêu bình ổn giá.
Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo để bảo đảm tính bao quát và thuận lợi, khả thi trong công tác tổ chức thực hiện.
10.6. Một số ý kiến cho rằng, cần quy định chi tiết một số nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện được bình ổn giá, đặc biệt đối với mặt hàng xăng, dầu thành phẩm, thuốc bảo vệ thực vật. Việc bình ổn giá cần bảo đảm để không gây ra hoặc giảm thiểu ảnh hưởng đến việc đầu tư nâng cao chất lượng trang thiết bị, vật tư y tế cho khám, chữa bệnh.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Luật Giá (sửa đổi) tiếp tục kế thừa Luật hiện hành để quy định rõ hoạt động bình ổn giá. Thứ nhất là mặt hàng bình ổn giá phải thuộc Danh mục; thứ hai là chỉ bình ổn giá khi có biến động bất thường (giá tăng quá cao hoặc giảm quá thấp so với hiện hành) gây tác động đến mặt bằng giá thì sẽ là dấu hiệu ban đầu để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp nghiệp vụ về rà soát yếu tố hình thành giá để xác định rõ nguyên nhân và đề xuất biện pháp bình ổn phù hợp. Quy định tại khoản 1 Điều 20 đối với áp dụng bình ổn giá trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá biến động bất thường gây tác động lớnđến kinh tế - xã hội, sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân cũng đã nêu rõ việc bình ổn giá sẽ chỉ áp dụng thời hạn nhất định… do đó khi triển khai các cơ quan quản lý sẽ cân đối hài hòa giữa mục tiêu bình ổn và lợi ích của các bên, trong đó cũng sẽ bảo đảm không ảnh hưởng đến việc đầu tư nâng cao chất lượng trang thiết bị, vật tư y tế cho khám, chữa bệnh.
10.7. Một số ý kiến đề nghị bổ sung cách thức kiểm soát để bảo đảm tính thống nhất về chủ trương, tạo môi trường bình đẳng giữa người tiêu dùng ở các địa phương khác nhau trong việc áp dụng bình ổn giá trên địa bàn.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 21 tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 quy định: “Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong các giai đoạn nhằm ổn định giá cả thị trường.” Việc quy định giao UBND cấp tỉnh xây dựng và áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong các giai đoạn nhằm ổn định giá cả thị trường đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Trong thực tiễn các địa phương đều triển khai hướng đến việc ổn định giá cả theo mặt bằng chung của giá thị trường, bảo đảm đời sống người dân và không có sự khác biệt nhiều với các địa phương khác do phương thức, cơ chế triển khai tương đối tương đồng. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của ĐBQH, đã nghiên cứu, chỉnh lý và đưa nội dung này vào Điều 16 của Dự thảo thành: “12. Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương trong từng giai đoạn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai các biện pháp phù hợp nhằm ổn định mặt bằng giá thị trường trên địa bàn.”
10.8. Có ý kiến đề nghị quy định chi tiết về thời hạn bình ổn giá.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của ĐBQH, và bổ sung thêm quy định tại khoản 2 Điều 19 “Thời hạn áp dụng các biện pháp bình ổn giá do cơ quan có thẩm quyền quyết định biện pháp bình ổn giá xác định trên cơ sở xác định nguyên nhân của biến động giá; căn cứ tình hình thực hiện, diễn biến giá hàng hóa, dịch vụ trong thực tế có thể kết thúc bình ổn giá trước thời hạn hoặc gia hạn thời hạn áp dụng”.
10.9. Có ý kiến đề nghị điểm b khoản 1 Điều 18 cần bổ sung thêm cụm từ “phù hợp với điều kiện thị trường tại thời điểm thực hiện bình ổn giá”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Ý kiến của ĐBQH đã được thể hiện ở khoản 1 Điều 18 Dự thảo Luật trong nội hàm quy định “bối cảnh kinh tế xã hội”. Để đảm bảo tính bao quát, UBTVQH xin Quốc hội cho tiếp tục giữ như dự thảo.
10.10. Một số ý kiến cho rằng, điểm a khoản 2 Điều 18 cụm từ “gây tác động lớn” chưa phản ánh đầy đủ nội hàm của việc ảnh hưởng tiêu cực từ việc biến động bất thường của giá hàng hóa, dịch vụ đến kinh tế - xã hội, sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân.
Nghiên cứu ý kiến ĐBQH, xin giữ quy định tại Điều 18 Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, nhưng có chỉnh lý quy định tại điểm b khoản 1 Điều 17 Dự thảo Luật cho phù hợp như sau: “b) Có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống người dân.”
10.11. Có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo bổ sung thêm danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá đối với “thức ăn chăn nuôi thủy sản, gia súc, gia cầm” để tạo điều kiện cho người dân phát triển sản xuất.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại Luật Chăn nuôi đã có quy định cụ thể về “thức ăn chăn nuôi” bao gồm các loại sản phẩm cụ thể. Do đó tại Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá của Dự thảo Luật xin giữ tên chung là “Thức ăn chăn nuôi”. Việc quy định kỹ thuật chi tiết của nhóm hàng hóa, dịch vụ này sẽ do Bộ NN&PTNT quy định.
11. Về định giá (từ Điều 21 đến Điều 24)
11.1. Có ý kiến đề nghị quy định tên Mục 2 Chương II là “Nhà nước định giá”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Luật hiện hành quy định về nội dung này tại Mục 2 Chương III cũng là “Định giá” để bảo đảm tính bao quát, mang tính nguyên tắc chung và việc giữ tên gọi như Dự thảo Luật cũng không làm thay đổi bản chất của sự điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực giá. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo thống nhất sắp xếp, chỉnh lý lại một số tên Điều tại Mục 2 Chương II
[53] để làm rõ hơn nội hàm và bảo đảm tính logic, hợp lý.
11.2. Một số ý kiến đề nghị cần lượng hóa quy định về mức biến động của các yếu tố hình thành giá thì phải xem xét, điều chỉnh giá
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Điều 23 Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 quy định về nguyên tắc định giá, trong đó tại khoản 3 quy định “Kịp thời xem xét điều chỉnh giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi”. Về nguyên lý thì khi các yếu tố hình thành giá thay đổi sẽ có tác động đến mức giá hiện hành nên phải xem xét điều chỉnh (so với Luật hiện hành). Luật sửa đổi đã bổ sung cụm từ “xem xét” để các cơ quan có thẩm quyền trách nhiệm định giá hàng hóa, dịch vụ chủ động hơn trong điều chỉnh mức giá cho phù hợp với biến động của yếu tố hình thành giá và thực tiễn. Nếu quy định một mức biến động của yếu tố hình thành giá để có cơ sở điều chỉnh giá sẽ thuận lợi hơn cho thực hiện, nhưng sẽ không bảo đảm nguyên lý chung. Để phù hợp với thực tiễn cũng như qua rà soát với quy định tại Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 đã có nội dung sửa đổi Luật Giá, UBTVQH xin tiếp thu, chỉnh lý và thể hiện tại điểm c khoản 1 Điều 22 Dự thảo Luật như sau: “Kịp thời Xem xét điều chỉnh giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi. Trường hợp điều chỉnh giá sản phẩm, dịch vụ công trong dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư được thực hiện theo từng thời kỳ quy định tại hợp đồng dự án”
11.3. Một số ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể về nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp, thẩm quyền và trách nhiệm xác định danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá, tránh hiểu khác nhau để bảo vệ những người làm công tác định giá. Có ý kiến đề nghị có chương riêng về nội dung này; có ý kiến đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa phương pháp định giá chung và phương pháp định giá riêng. Có ý kiến việc giao các Bộ, ngành hướng dẫn phương pháp định giá riêng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quản lý có khả năng dẫn đến việc nhiều phương pháp định giá được quy định tại các luật chuyên ngành và sẽ khó kiểm soát, ảnh hưởng đến việc áp dụng trong thực tiễn.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hoạt động định giá của Nhà nước đối với một số hàng hóa, dịch vụ là nội dung quan trọng tại Luật Giá hiện hành và Luật Giá (sửa đổi) tiếp tục kế thừa. Các quy định về hoạt động định giá của Nhà nước đối với một số hàng hóa, dịch vụ là nội dung quan trọng tại Luật Giá hiện hành và Luật Giá (sửa đổi) tiếp tục kế thừa. Các quy định hiện hành mặc dù là bước tiến lớn trong công tác quản lý giá của Nhà nước nhưng qua thời gian thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế như
các hình thức định giá (giá cụ thể, khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu) chưa bao quát, đáp ứng được những phát sinh trong thực tiễn; một số danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá còn quy định trùng lặp, chồng chéo các Luật, Nghị định, Thông tư; chồng chéo trong quy định về thẩm quyền và hình thức định giá; chưa rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong định giá[54]. Tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung về nguyên tắc, phương pháp, hình thức, thẩm quyền, trách nhiệm trong định giá của Nhà nước và kèm theo Danh mục các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Theo đó, về cơ bản đã quy định khá cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong định giá Nhà nước. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý, bổ sung một số quy định về nguyên tắc, phương pháp, tiêu chí, thẩm quyền, cơ sở pháp lý của văn bản định giá và Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá nhằm bảo đảm khả thi, minh bạch, bảo vệ những người làm công tác định giá
[55].
Đối với quy định về phương pháp định giá, đã chỉnh lý theo hướng:
- Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá chung để áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Như vậy, về cơ bản hàng hóa, dịch vụ được định giá theo phương pháp tiếp cận từ chi phí hoặc theo phương pháp tiếp cận từ thị trường (phương pháp so sánh) như hiện hành. Tuy nhiên, trường hợp có nội dung cần hướng dẫn thì các bộ quản lý ngành, lĩnh vực, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng nội dung cụ thể, có văn bản gửi Bộ Tài chính xem xét, ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện.
- Quy định các trường hợp sẽ áp dụng phương pháp định giá riêng và sẽ giao các Bộ chuyên ngành ban hành để phù hợp với tính chất đặc thù riêng.
Đối với đề nghị có Chương riêng về nội dung này, UBTVQH xin báo cáo: Do hoạt động định giá là một trong những nội dung thuộc hoạt động quản lý, điều tiết giá, thực tế được kế thừa từ Luật Giá hiện hành; vì vậy, để quy định thống nhất, xin cho tiếp tục giữ là một Mục trong Chương IV Hoạt động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước.
11.4. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về “tài nguyên quan trọng” (điểm b khoản 1 Điều 21) và “hàng hóa, dịch vụ thiết yếu ... ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh” (điểm d khoản 1 Điều 21) để khi triển khai thi hành Luật được đảm bảo sự minh bạch, công khai, rõ ràng.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của ĐBQH, tại Dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định dẫn chiếu tài nguyên quan trọng theo quy định của pháp luật về tài nguyên.
Về tiêu chí tại điểm d khoản 1 Điều 21 được bổ sung so với quy định tại Luật Giá hiện hành trên cơ sở tổng kết, đánh giá các hàng hóa, dịch vụ đã được bổ sung thêm vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá từ các Luật chuyên ngành.
11.5. Tại khoản 2 Điều 21 Dự thảo Luật, đề nghị Ban soạn thảo chỉnh sửa cụm từ “cơ quan, tổ chức, cá nhân” bằng cụm từ “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” để đảm bảo thống nhất với đối tượng áp dụng được quy định tại Điều 2 và phù hợp với nội dung quy định tại khoản 11 Điều 4 Dự thảo Luật này.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ theo mức giá do Nhà nước quy định không chỉ giới hạn đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh mà kể cả cơ quan nhà nước trong các trường hợp. Do vậy tại khoản 2 điều chỉnh toàn bộ đối với “cơ quan, tổ chức, cá nhân” và UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như dự thảo.
11.6. Có ý kiến cho rằng một trong những quy tắc tuân thủ khi định giá là phải khách quan và phù hợp với điều kiện thị trường tại thời điểm định giá. Do đó, đề nghị bổ sung thêm một nội dung vào khoản 1 Điều 22: “Đảm bảo khách quan, phù hợp với điều kiện thị trường tại thời điểm định giá”.
11.7. Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện định giá và phòng chuyên môn cấp huyện thẩm định giá một số hàng hóa, dịch vụ: thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Ngay trong quá trình xây dựng dự án Luật Giá (sửa đổi) đã có địa phương có ý kiến đề nghị bổ sung chính sách này để tăng cường phân công, phân cấp công tác quản lý nhà nước về giá tại địa phương; tuy nhiên qua đánh giá với thực tiễn phạm vi ảnh hưởng và tác động của biện pháp định giá nhà nước thì việc phân cấp thẩm quyền định giá chỉ nên thực hiện đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Theo đó Ủy ban nhân dân cấp huyện chủ yếu tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách do Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành là phù hợp với thực tiễn.
11.8. Có ý kiến đề nghị cần bổ sung nguyên tắc trong trường hợp dịch bệnh hoặc có yếu tố rủi ro trong việc kinh doanh mặt hàng thì cho phép được có lợi nhuận cao hơn mức bình thường
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Luật Giá hiện hành và Luật sửa đổi tiếp tục kế thừa và có quy định các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được quyền tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất kinh doanh trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Như vậy, ngay cả trong điều kiện bình thường thì Nhà nước không can thiệp vào giá của hàng hóa, dịch vụ trừ những hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá. Tuy nhiên trong trường hợp như dịch bệnh thì tại Luật có quy định cấm lợi dụng thảm họa, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ không phù hợp với biến động của giá thành toàn bộ so với điều kiện bình thường nhằm trục lợi (điểm c, khoản 2, Điều 7). Quy định này nhằm kiểm soát tình trạng “té nước theo mưa”, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vì vậy xin cho phép không đưa quy định này vào Luật để tránh có những lợi dụng để trục lợi.
11.9. Có ý kiến đề nghị làm rõ cụm từ hàng hóa, dịch vụ có tính địa bàn như thế nào, đồng thời quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm về nội dung trên là thuộc HĐND hay thuộc UBND.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hàng hóa, dịch vụ có tính địa bàn là những hàng hóa, dịch vụ chỉ phát sinh tại địa phương này nhưng không phát sinh tại địa phương khác (như rừng thuộc phạm vi quản lý của địa phương hoặc dịch vụ vận tải hành khách trên đường sắt đô thị) hoặc có phát sinh tại các địa phương nhưng các khâu từ sản xuất, phân phối thì chỉ dừng ở phạm vi của từng địa phương (như nước sạch sinh hoạt, dịch vụ trông giữ xe). Tiếp thu ý kiến ĐBQH, đã chỉnh lý tại điểm d khoản 3 Điều 21 Dự thảo Luật như sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá đối với hàng hóa, dịch theo thẩm quyền thuộc phạm vi quản lý theo địa bàn.”
11.10. Có ý kiến đề nghị cần rà soát danh mục hàng hóa, dịch vụ để tránh việc quy định về quy trình thẩm định, quy trình định giá, quản lý giá trong luật chuyên ngành
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Quy trình định giá bao gồm các bước về xây dựng phương án giá, thẩm định phương án giá và trình ban hành quyết định giá được quy định thống nhất tại Luật Giá và các văn bản hướng dẫn. Chỉ riêng 05 nhóm hàng hóa, dịch vụ đặc thù có thể có những quy định khác về nội dung này và hầu hết các hàng hóa, dịch vụ khác đều thực hiện thống nhất theo quy trình tại Luật Giá.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo phối hợp, làm việc với các cơ quan liên quan để rà soát, đánh giá kỹ Danh mục hàng hóa, dịch vụ Nhà nước định giá, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy định liên quan và quy định tại Phụ lục Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
11.11. Có ý kiến cho rằng một số sản phẩm dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước khó xác định để phù hợp với mặt bằng thị trường, nhất là việc tính lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp tự chủ về tài chính trong phương án giá
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Đối với việc định giá dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có chủ trương là đẩy mạnh thực hiện cơ chế giá thị trường theo lộ trình phù hợp; trên cơ sở đó, tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP nay là Nghị định 60/2021/NĐ-CP của Chính phủ cũng đã quy định chi tiết về lộ trình triển khai; nguyên tắc định giá đối với nhóm dịch vụ này được thực hiện theo quy định của Luật Giá. Tại Điều 5 Nghị định 60/2021/NĐ-CP cũng đã quy định nguyên tắc là phải căn cứ khả năng cân đối ngân sách nhà nước và mặt bằng giá thị trường, tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ để cơ quan có thẩm quyền quyết định cụ thể giá dịch vụ cho phù hợp. Ý kiến của ĐBQH còn băn khoăn về vấn đề này là xác đáng, để khắc phục thì việc củng cố tăng cường trách nhiệm của cơ quan lập phương án giá, thẩm định phương án giá là rất quan trọng. Vấn đề này là một trong những yêu cầu được đặt ra khi Luật sửa đổi có hiệu lực. Như vậy, việc tính toán kết cấu các yếu tố chi phí trong phương án giá, trong đó có cả lợi nhuận sẽ thuộc khâu tổ chức thực hiện. Các vấn đề này, đề nghị trong việc xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật về phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ, Chính phủ cần tiếp thu, nghiên cứu để quy định chi tiết.
11.12. Một số ý kiến không tán thành giao UBTVQH xem xét, điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ định giá vì Danh mục định giá cần phải quy định công khai, ổn định trong Luật, phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá được quy định tại Phụ lục 02 của Dự thảo Luật nhằm bảo đảm tính công khai, ổn định. Việc giao UBTVQH xem xét, điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá là được kế thừa từ Luật Giá hiện hành. Thực tiễn việc giao UBTVQH sẽ bảo đảm tính kịp thời trong một số trường hợp và tại các kỳ họp Quốc hội gần nhất thì UBTVQH sẽ báo cáo Quốc hội cụ thể. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho kế thừa quy định hiện hành và cho phép giữ nội dung này như Dự thảo.
11.13. Một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về tiêu chí hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá; đề nghị làm rõ nội hàm khái niệm “thị trường cạnh tranh hạn chế”. Có ý kiến đề nghị quy định rõ thế nào là “tài nguyên quan trọng”
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tiêu chí để xác định hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá hiện được quy định chi tiết tại Điều 21. So với Luật hiện hành đã bổ sung thêm tiêu chí “
Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu có tính chất độc quyền trong mua bán hoặc có thị trường cạnh tranh hạn chế và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh.”[56]. Đối với hàng hóa, dịch vụ thị trường cạnh tranh hạn chế, xin báo cáo cho thực hiện theo quy định tại Luật Cạnh tranh, không quy định chi tiết tại Luật này.
Đối với quy định về tài nguyên quan trọng, UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và thể hiện tại điểm b khoản 1 Điều 21 Dự thảo Luật để làm rõ như sau: “Tài nguyên quan trọng theo quy định của pháp luật về tài nguyên”. Như vậy, tài nguyên quan trọng được hiểu theo quy định của pháp luật liên quan như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản...
11.14. Có ý kiến đề nghị quy định bổ sung Trung tâm định giá quốc gia, Trung tâm định giá khu vực, địa phương
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc thành lập các trung tâm định giá/thẩm định giá được thực hiện từ giai đoạn trước đây (trước 2007), thời gian đầu hoạt động khá hiệu quả, nhưng sau khi UBTVQH ban hành Pháp lệnh giá 2002 đã chuyển sang hình thức doanh nghiệp thẩm định giá. Trong bối cảnh hiện nay vai trò của các trung tâm định giá/thẩm định giá là không còn cần thiết, phát sinh bộ máy không cần thiết. Do đó, xin không quy định nội dung này tại Dự thảo Luật.
11.15. Có ý kiến về cách xác định giá thị trường có thể quy định theo hướng thuê dịch vụ để xác định giá hoặc giao cho cơ quan quản lý tài chính các cấp xác định.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc thuê đơn vị xác định hoặc tư vấn xác định giá sẽ gắn với quy trình xây dựng phương án giá và gắn với chuyên môn, nghiệp vụ và nhu cầu của cơ quan thực hiện. Nội dung này thực tế thuộc khâu tổ chức thực hiện và sẽ được yêu cầu làm rõ tại Nghị định quy định chi tiết Luật.
11.16. Có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo xem xét đối với giá đất nên tiếp tục được quy định trong Luật Giá, tránh giao về cho cơ quan chuyên môn, dẫn đến tình trạng vừa là cơ quan thực hiện thẩm định giá và cũng là cơ quan tham mưu quản lý về giá đất, đây cũng là nhóm hàng hóa thứ 3 ảnh hưởng lớn đến phát triển của cơ chế thị trường. Mặt khác, phương pháp xác định, thẩm quyền, trách nhiệm bồi thường giá đất đều theo Luật Giá, vì vậy nên đưa giá đất vào Luật Giá sẽ phù hợp hơn.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hiện nay việc định giá đất, căn cứ, nguyên tắc, phương pháp… đều đã được quy định cụ thể, toàn diện, đầy đủ tại Luật Đất đai 2013 và đây cũng là một trong các nội dung trọng tâm được chỉnh lý toàn diện, phù hợp tại Dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Đất đai là một hàng hóa đặc biệt, được xác định có tính đặc thù ngay từ khâu xây dựng chính sách. Do đó UBTVQH xin Quốc hội cho giữ quy định như dự thảo.
11.17. Một số ý kiến đề nghị không đưa các hàng hóa, dịch vụ đã nêu tại khoản 4 Điều 3 vào Phụ lục 2 vì không cần thiết và đã được thực hiện theo quy định của các pháp luật khác có liên quan.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau: danh mục tại Dự thảo Luật Giá sửa đổi để xác định đầy đủ các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, đảm bảo bao quát và thống nhất chung. Mặc dù các mặt hàng đặc thù thực hiện theo Luật chuyên ngành, nhưng cần cập nhật tên hàng hóa, dịch vụ vào danh mục để thuận lợi cho công tác quản lý. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
12. Về hiệp thương giá (Từ Điều 25 đến Điều 27)
12.1. Có ý kiến đề nghị cần xem xét, chỉnh lý làm rõ về tiêu chí, các trường hợp thực hiện hiệp thương giá để đảm bảo thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện. Có ý kiến đề nghị bổ sung tiêu chí “Hàng hóa, dịch vụ quan trọng được sản xuất, kinh doanh trong điều kiện đặc thù hoặc có thị trường cạnh tranh hạn chế”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Điều 25 Dự thảo Luật quy định hàng hóa, dịch vụ hiệp thương giá phải đảm bảo các tiêu chí sau:
“1. Không thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; không thuộc các trường hợp phải đấu thầu, đấu giá theo quy định của pháp luật về đấu thầu, đấu giá.
2. Có tính chất độc quyền mua hoặc độc quyền bán mà bên mua, bên bán phụ thuộc nhau khó thay thế được.”
Tiêu chí hàng hóa có tính chất độc quyền mua hoặc độc quyền bán mà bên mua, bên bán phụ thuộc nhau khó thay thế thực tế chính là điều kiện đặc thù như ý kiến của ĐBQH. Do đó, xin giữ như Dự thảo Luật.
12.2. Tại khoản 1 của dự thảo quy định: “Hàng hóa, dịch vụ hiệp thương giá phải đảm bảo các tiêu chí sau: Không thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.” Có ý kiến cho rằng việc quy định này là không cần thiết, bởi do tính chất của biện pháp định giá nhà nước là việc nhà nước quyết định giá nên không thể phát sinh trường hợp các bên không thỏa thuận được mức giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó, việc quy định điều kiện hiệp thương giá trong thực tế lại chưa quy định rõ về tính chất của các bên mua, bán hàng hóa, dịch vụ. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc không đưa nội dung vào dự thảo.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Các hình thức định giá của Nhà nước bao gồm giá cụ thể, giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá cho nên về nguyên tắc thì đối với hình thức giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá thì các bên mua, bán vẫn tự quyết định giá cụ thể. Để tạo thuận lợi cho khâu tổ chức thực hiện, bảo đảm công khai minh bạch thì việc quy định hàng hóa, dịch vụ hiệp thương giá phải đảm bảo tiêu chí không thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá là cần thiết. Do đó, xin báo cáo đại biểu cho giữ như Dự thảo Luật.
12.3. Một số ý kiến đề nghị cần làm rõ hơn vai trò của Nhà nước trong hiệp thương giá. Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện hiện nay không nên quy định về chính sách hiệp thương giá; có ý kiến đề nghị việc hiệp thương giá của Nhà nước là không nên bắt buộc.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Biện pháp hiệp thương giá là cơ chế trung gian nhằm xử lý tình huống có vướng mắc về giá trong một số trường hợp gắn với các điều kiện cụ thể, nhằm tạo thuận lợi cho các bên, hiện đã có từ Pháp lệnh giá, Luật Giá 2012. Theo quy định hiện hành thì việc hiệp thương theo đề nghị của bên mua hoặc bên bán hoặc cả hai bên mua bán; hoặc trong trường hợp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) đã bỏ quy định trường hợp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Như vậy, cơ chế hiệp thương giá được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của hai bên mua bán.
Trong quá trình soạn thảo Luật cũng có ý kiến đề nghị xem xét bỏ cơ chế hiệp thương. Tuy nhiên sau khi rà soát đánh giá kỹ cho thấy nếu bỏ cơ chế này thì nếu phát sinh trường hợp các doanh nghiệp không thống nhất được giá của một số hàng hóa đặc thù (cả 2 bên mua bán phụ thuộc lẫn nhau, khó có hàng hóa thay thế kịp thời) sẽ không có cơ chế để khắc phục. UBTVQH cho rằng, cần tiếp tục giữ cơ chế hiệp thương giá tại Luật để bảo đảm đủ cơ chế triển khai nếu có phát sinh.
Do đó, xin cho tiếp tục kế thừa Luật hiện hành để sửa đổi hoàn thiện một số quy định chi tiết nhằm đảm bảo thuận lợi cho khâu tổ chức thực hiện, cụ thể tại các Điều 25, 26, 27 Dự thảo Luật.
12.4. Có ý kiến đề nghị nên quy định mở Hiệp thương giá là phương thức thỏa thuận giữa các “cơ quan, tổ chức, cá nhân, người tiêu dùng về giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ....” vì quy định như dự thảo thì hiệp thương giá chỉ có thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, còn lại các tổ chức, cá nhân khác không được thỏa thuận. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý điều kiện hiệp thương theo hướng văn bản đề nghị chỉ cần xuất phát từ 1 trong 2 bên bán hoặc bên mua thay vì cả 2 bên như dự thảo.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ là một hoạt động thương mại được điều chỉnh bằng luật thương mại, các bên thỏa thuận với nhau về giao kết thương mại, trong đó có giá mua, giá bán theo nguyên tắc thị trường trừ các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Tại Dự thảo Luật cũng có quy định về quyền tự định giá mua bán hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc thù, hàng hóa, dịch vụ có tính chất độc quyền mua hoặc độc quyền bán (và không thuộc phạm vi định giá nhà nước); nhưng trong trường hợp này thì các bên bắt buộc phải thực hiện giao dịch do có sự phụ thuộc, khó có thể thay thế. Vì vậy, Hiệp thương giá là một biện pháp để xử lý những vướng mắc về giá trong mua, bán hàng hóa, dịch vụ và chỉ áp dụng giữa các bên là doanh nghiệp do có ảnh hưởng đến hoạt sản xuất, kinh doanh của các bên và kinh tế xã hội. Ví dụ như trong trường hợp mua, bán than cho sản xuất điện giữa EVN và TKV. Trong trường hợp này, bên bán là TKV và bên mua là EVN, nếu không thỏa thuận, thống nhất được giá bán than sẽ ách tắc hoạt động sản xuất điện; trong khi đó EVN rất khó tìm được nguồn than từ các đối tác khác. Như vậy, từ nguyên lý của Hiệp thương thì trong trường hợp một bên mua, bán cơ quan nhà nước thì không bảo đảm yêu cầu và được thực hiện theo quy định của luật đấu thầu, đấu giá.
Nguyên tắc hiệp thương giá là phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của cả bên mua và bên bán, có tính chất tương đồng như cơ chế trọng tài thương mại. Để bảo đảm nguyên tắc này thì việc hiệp thương giá chỉ nên thực hiện khi có văn bản đề nghị hiệp thương của cả bên mua và bên bán. Do đó, xin đề nghị giữ như Dự thảo Luật.
12.5. Có ý kiến đề nghị bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm về mức giá trong trường hợp bên mua và bên bán không thoả thuận được mức giá; một số ý kiến đề nghị xem xét lại các quy định về thẩm quyền quyết định giá hiệp thương khi các bên không thương lượng được.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về việc quy định việc xác định giá trong các trường hợp các bên không thỏa thuận được mức giá đã được quy định từ Luật Giá hiện hành. Qua quá trình tổng kết, đánh giá cho thấy vẫn cần thiết vai trò của cơ quan tổ chức hiệp thương phải quyết định giá để hai bên thực hiện trong một giới hạn điều kiện nhất định. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo chỉnh lý lại nội dung khoản 5 Điều 27
[57] Dự thảo Luật để phù hợp với thực tiễn, gắn trách nhiệm thực hiện mức giá của các bên khi cơ quan hiệp thương đã quyết định giá.
12.6. Có ý kiến cho rằng, các quy định về hiệp thương giá từ Điều 25 đến Điều 27 Dự thảo Luật hiện chưa quy định rõ chi phí cho việc hiệp thương giá được xác định cụ thể dựa trên căn cứ như thế nào? Bên nào phải chịu các khoản chi phí này trong cả hai trường hợp hiệp thương giá thành và hiệp thương giá không thành phải chuyển sang hình thức yêu cầu cơ quan có thẩm quyền định giá. Từ những lý do trên, đề nghị sửa đổi, bổ sung để làm rõ các vấn đề về thẩm quyền, trách nhiệm hiệp thương giá và chi phí hiệp thương giá để đảm bảo tính khả thi, thuận lợi khi thực thi Luật.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc hiệp thương giá là nội dung công vụ cần thực hiện của cơ quan nhà nước, đây là trách nhiệm thực hiện của các cơ quan có thẩm quyền, các cán bộ, công chức (tương tự như việc định giá, bình ổn giá); do vậy, doanh nghiệp không phải nộp chi phí để yêu cầu thực hiện. Tuy nhiên về phạm vi cũng sẽ giới hạn nhằm đảm bảo việc hiệp thương thực hiện theo đúng nhu cầu thực tiễn và các trường hợp phát sinh để tránh sự lạm dụng. Do vậy xin không không quy định các vấn đề về chi phí hiệp thương giá tại Dự thảo Luật.
12.7. Có ý kiến cho rằng, khoản 2 Điều 26 quy định về thẩm quyền và trách nhiệm cơ quan hiệp thương giá đã quy định thẩm quyền hiệp thương của Bộ và Sở quản lý ngành tương ứng hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành. Tuy nhiên, đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý của nhiều ngành, lĩnh vực thì chưa rõ thẩm quyền, trách nhiệm hiệp thương giá thuộc cơ quan nào.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc đề nghị hiệp thương theo yêu cầu của cả 2 doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực; do vậy trên cơ sở quy định tại Dự thảo Luật thì 2 doanh nghiệp tự xác định cơ quan đề nghị hiệp thương phù hợp. Mặt khác hiện nay chức năng, nhiệm vụ về quản lý ngành, lĩnh vực, chuyên môn đối với các mặt hàng đều khá rõ nét. Do vậy xin không quy định quá chi tiết vấn đề này tại Dự thảo Luật.
13. Về kê khai giá, niêm yết giá, tham chiếu giá, kiểm tra yếu tố hình thành giá (từ Điều 28 đến Điều 33)
13.1. Có ý kiến đề nghị khoản 1 Điều 28 giải thích về “Kê khai giá” chuyển về Điều 4 Giải thích từ ngữ để bảo đảm tính logic, tương tự với Khoản 1 Điều 29, và Khoản 1 Điều 30 giải thích về “Niêm yết giá”, “Giá tham chiếu”.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH, khoản 14 Điều 4 tại Dự thảo Luật (bản trình Quốc hội kỳ 4) đã được chỉnh lý đưa lên nội dung giải thích từ ngữ: “14. Kê khai giá là việc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục kê khai giá gửi thông báo mức giá sau khi định giá, điều chỉnh giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ bình ổn giá, tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường”.
13.2. Một số ý kiến cho rằng quy định về kê khai giá còn chung chung; đề nghị có quy định hướng dẫn cụ thể về danh mục các mặt hàng kê khai giá và hướng dẫn ban hành về quy cách, tiêu chuẩn những mặt hàng cần thực hiện kê khai giá. Nguyên tắc xác định danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai, nội dung kê khai, đối tượng kê khai và trên cơ sở đó giao Chính phủ quy định chi tiết để thực hiện (trong đó có danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai) sẽ bảo đảm tính linh hoạt phù hợp với chức năng điều hành của Chính phủ
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Kê khai giá là một biện pháp quản lý giá gián tiếp và cũng được các nước sử dụng phổ biến; ví dụ như tại Úc cũng có quy định về việc thông báo giá khi có thay đổi về giá các hàng hóa, dịch vụ hạ tầng, năng lượng… Theo quy định thì biện pháp kê khai giá chỉ dừng ở tiếp nhận thông tin, nắm bắt diễn biến giá để có giải pháp ứng phó kịp thời, thẩm quyền quyết định giá là thuộc doanh nghiệp. Tuy nhiên, so với Luật hiện hành thì tại Luật sửa đổi quy định thời điểm kê khai thực hiện sau khi doanh nghiệp quyết định giá thay cho việc phải kê khai trước, tạo thuận lợi cho việc thực hiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động. Để triển khai biện pháp kê khai thì có những nội dung mang tính nghiệp vụ, quy trình nên tại Dự thảo Luật chỉ thiết kế một điều để quy định những vấn đề về nguyên tắc chung để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện.
Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo và giao Chính phủ quy định các vấn đề chi tiết liên quan đến tổ chức thực hiện.
13.3. Một số ý kiến cho rằng, việc bổ sung thêm nhiều hàng hóa, dịch vụ phải kê khai giá sẽ làm tăng thêm thủ tục hành chính, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; Có ý kiến đề nghị không áp dụng kê khai đối với các hộ kinh doanh nhỏ lẻ.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo quy định của Luật Giá hiện hành và Luật sửa đổi tiếp tục kế thừa thì kê khai giá là một biện pháp cung cấp thông tin và có tính nghiệp vụ, không phải thủ tục hành chính. Đối với các đối tượng phải kê khai giá, UBTVQH đã chỉnh lý lại nội dung về đối tượng kê khai tại khoản 4 Điều 28 Dự thảo Luật như sau: “Đối tượng kê khai giá là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có đăng ký kinh doanh theo quy định tại pháp luật về doanh nghiệp và có quyền quyết định giá; thuộc danh sách do cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận kê khai thông báo”. Theo đó bảo đảm các đối tượng kinh doanh nhỏ lẻ sẽ không phải thực hiện kê khai mà chỉ hướng đến các đối tượng lớn, có quyền quyết định giá.
13.4. Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “ký, mã hiệu” vào khoản 2, diễn đạt lại như sau: “2. Nội dung kê khai giá gồm mức giá gắn với tên, chủng loại, ký mã hiệu, nước sản xuất (nếu có), chỉ tiêu chất lượng (nếu có) và nguyên nhân điều chỉnh giá bán giữa các lần kê khai.”
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc bổ sung nội dung kê khai bao gồm cả ký, mã hiệu của hàng hóa, dịch vụ sẽ làm phức tạp nội dung kê khai, gây nhiều khó khăn cho đối tượng thực hiện, trong khi đó, kê khai giá chỉ mang tính chất thông báo mức giá. Do đó, xin giữ như hiện hành để tạo thuận lợi trong tổ chức thực hiện cho các doanh nghiệp.
13.5. Có ý kiến đề nghị cần quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong kê khai giá
UBTVQH cho rằng, để bảo đảm chặt chẽ, minh bạch, việc quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong kê khai giá là cần thiết. Do vậy, UBTVQH đã chỉnh lý tại khoản 6 Điều 28 Dự thảo Luật: “Tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng kê khai giá tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ, có trách nhiệm kê khai giá lần đầu và kê khai lại giá ngay sau khi quyết định giá theo quy định và chịu trách nhiệm về mức giá, nội dung kê khai giá của mình.”. Ngoài ra, trách nhiệm kiểm tra của cơ quan quản lý đã được quy định tại Chương 7 về thanh tra chuyên ngành về giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá.
13.6. Có ý kiến đề nghị cần tính toán, điều chỉnh cơ chế quản lý đối với vấn đề niêm yết giá (ví dụ: ở sân bay một số mặt hàng có giá niêm yết quá cao, sẽ ảnh hưởng tới việc người dân sử dụng dịch vụ); đồng thời cũng quản lý vấn đề phí phụ thu vào các dịp lễ, tết. Có ý kiến đề nghị bỏ từ “kịp thời” trong nội dung khoản 3 Điều 29 vì là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bắt buộc phải thực hiện.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Niêm yết là một hình thức để công khai thông tin, không điều chỉnh về việc niêm yết giá cao hay thấp. Việc quyết định giá là quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo cơ chế thị trường. Do đó, xin không quy định về việc quản lý đối với giá do doanh nghiệp tự niêm yết mà chỉ quy định về việc niêm yết đúng theo quy định.
Đối với vấn đề phụ thu trong các dịp lễ, Tết là một vấn đề thực tiễn do trong các dịp này các doanh nghiệp kinh doanh vận tải thường phải chạy 01 chiều rỗng nên có các quy định thêm về phụ thu chiều còn lại nhằm bù đắp chi phí. Thực tế hiện nay vấn đề này cũng được các địa phương tăng cường giám sát để đảm bảo đúng các quy định của pháp luật về vận tải, pháp luật có liên quan.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, khoản 3 Điều 29 Dự thảo Luật đã được chỉnh lý như sau: “3... Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ điều chỉnh mức giá niêm yết ngay khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ”.
13.7. Nhiều ý kiến cho rằng quy định về giá niêm yết phải gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ cụ thể và nhiều thông tin khác về thông số kĩ thuật… sẽ gây khó khăn cho nhà cung cấp hàng hóa.
UBTVQH xin tiếp thu, chỉnh lý và thể hiện tại khoản 1 Điều 29: “Giá niêm yết được gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ phù hợp, các thông tin khác (nếu có) về đặc điểm kỹ thuật cơ bản, xuất xứ, phương thức mua bán ”. Theo đó các thông tin về đặc điểm kỹ thuật cơ bản, xuất xứ, phương thức mua bán sẽ không bắt buộc phải có mà tùy theo điều kiện thực tế để đảm bảo thực tiễn; tuy nhiên đối với các thông tin về số lượng, khối lượng hàng hóa, dịch vụ vẫn cần phải được niêm yết nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, tăng cường minh bạch, văn minh thương mại.
13.8. Có ý kiến cho rằng Điều 29 Dự thảo Luật thiếu quy định bắt buộc về việc niêm yết giá bao gồm thuế, phí và các loại lệ phí hay không – đây cũng là điểm khác với Luật Giá hiện hành, việc này dẫn đến sự tuỳ nghi của doanh nghiệp thể niêm yết hoặc không niêm yết, từ đó người tiêu dùng cũng sẽ có sự ngộ nhận về giá, ảnh hưởng sự cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp kinh doanh.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và chỉnh lý tại khoản 1 Điều 29 Dự thảo Luật như sau: “1. Giá niêm yết là giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh quyết định bằng Đồng Việt Nam đã bao gồm các loại thuế, phí và lệ phí (nếu có) của hàng hóa, dịch vụ đó, trừ các trường hợp thực hiện theo quy định của pháp luật về ngoại hối…”.
13.9. Có ý kiến đề nghị bổ sung 01 điều quy định về “Giá khuyến mãi”, sau điều 29, cụ thể như sau: “Giá khuyến mãi là giá hàng hóa, sản phẩm thấp hơn giá niêm yết để nhằm tăng doanh số bán hàng, số lượng sản phẩm; giá khuyến mãi được áp dụng trong thời gian ngắn áp dụng khi triển khai chương trình vào các dịp lễ, Tết hoặc theo mùa để tăng doanh thu và giảm số lượng hàng hóa tồn đọng tại kho do hình dạng cũ, cần thay đổi thay đổi hình dáng, mẫu sản phẩm mới”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế hiện nay tại Luật Thương mại đã quy định rõ về khuyến mại; các văn bản hướng dẫn cũng đã quy định rõ về công tác tổ chức thực hiện nội dung này. Do đó xin giữ như Dự thảo Luật và thực hiện thống nhất theo Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn.
13.10. Có ý kiến đề nghị sửa khoản 3 Điều 30, Dự thảo Luật thành: “Chính phủ quy định chi tiết loại hàng hóa, dịch vụ phải công bố giá tham chiếu” để thống nhất chung các điều, khoản tương tự trong Dự thảo Luật.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH, và chỉnh lý Điều 30 Dự thảo Luật như sau: “2. Chính phủ quyết định hàng hóa, dịch vụ áp dụng giá tham chiếu và quy định về việc công bố, sử dụng giá tham chiếu”.
13.11 Nhiều ý kiến băn khoăn về giá trị, tính khả thi của giá tham chiếu; cần quy định cụ thể hơn về giá tham chiếu; quy định hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp quyết định theo giá tham chiếu là không thống nhất với quy định tại Khoản 2 Điều 33 của Dự thảo Luật.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Giá tham chiếu là quy định mới, tuy nhiên trên thế giới đang áp dụng khá rộng rãi vì thông qua mức giá tham chiếu để điều hành giá cho các giao dịch mua bán cụ thể. Qua đó, một mặt vẫn có sự quản lý có tính gián tiếp, một mặt vẫn tập trung quyền và tạo chủ động cho các doanh nghiệp trong tự quyết định giá. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy tại Hy Lạp sử dụng giá tham chiếu trong quản lý giá thuốc, mức giá tham chiếu được xác định trên cơ sở thực hiện các mức giá bán thấp nhất tại thị trường châu Âu để trên cơ sở đó các doanh nghiệp trong nước quyết định giá bán xoay quanh giá tham chiếu. Hoặc đối với mặt hàng xăng dầu, các doanh nghiệp đàm phán giá mua – bán xoay quanh giá tham chiếu của hãng tin Platt Singapore công bố; trên cơ sở đó giá cơ sở xăng dầu cũng được tính theo giá tham chiếu Platt Singapore. Hoặc đối với mặt hàng gas, các doanh nghiệp trong nước đang xác định giá bán xoay quanh giá tham chiếu PC (Price contract).
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy sự cần thiết của việc bổ sung quy định về giá tham chiếu tại Luật để có cơ sở pháp lý cho việc triển khai áp dụng trong thời gian tới. Hiện nay, đối với mặt hàng than bán cho sản xuất điện thì theo quy định hiện hành do các doanh nghiệp tự thỏa thuận quyết định giá và kê khai với cơ quan nhà nước. Tuy nhiên thực tế cũng có vướng mắc trong khâu đàm phán giá giữa doanh nghiệp sản xuất kinh doanh than với EVN hoặc các nhà máy điện trong thời gian qua đã phát sinh phải hiệp thương giá. Trong bối cảnh hiện nay, khi có phát sinh nguồn than nhập khẩu pha trộn với than trong nước bán cho sản xuất điện, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo nghiên cứu áp dụng chỉ số giá tham chiếu bán cho sản xuất điện để có cơ sở hai bên có căn cứ đàm phán giá mua – bán.
Giá tham chiếu là nội dung mới nên trình Quốc hội cho quy định một Điều có tính nguyên tắc như trong Dự thảo và để phù hợp với thực tế, UBTVQH xin Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành. UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và quy định tại khoản 1 Điều 30 Dự thảo Luật như sau: “Giá tham chiếu là mức giá của hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công bố để các cơ quan và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho việc thỏa thuận, quyết định giá hàng hóa, dịch vụ”.
13.12. Có ý kiến đề nghị tách thành 02 nội dung về giá tham chiếu, trong đó có 01 giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố để phục vụ việc mua sắm công và 01 giá tham chiếu phục vụ các tổ chức, cá nhân tự quyết định giá của mình
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Đối với việc mua, bán tài sản công, Luật Đấu thầu đã quy định các căn cứ, phương thức xác định giá đối với việc mua sắm từ nguồn vốn nhà nước; Luật Đấu giá đã quy định về vấn đề xác định giá khởi điểm trong đấu giá. Bên cạnh đó, tại Dự thảo Luật cũng đã có điều chỉnh nhất định đối với phương thức thực hiện xác định giá trong một số trường hợp này theo dịch vụ vụ thẩm định giá (của doanh nghiệp thẩm định giá) hoặc thẩm định giá của Nhà nước. Do vậy, xin không quy định nội dung về giá tham chiếu phục vụ công tác mua, bán tài sản công mà chỉ quy định về việc áp dụng giá tham chiếu làm cơ sở cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tự quyết định giá bán hàng hóa, dịch vụ của mình.
13.13. Có ý kiến đề nghị điểm d Khoản 2 Điều 33 cần quy định rõ thời gian cơ quan kiểm tra báo cáo kết quả kiểm tra kể từ ngày kết thúc kiểm tra để tạo sự thống nhất cho việc triển khai thực hiện, là cơ sở cho việc đánh giá trách nhiệm của cơ quan kiểm tra. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể “trường hợp cần thiết kéo dài thời gian kiểm tra” trong quy định tại điểm c khoản 2 Điều 33 là “trường hợp vụ việc kiểm tra có dấu hiệu phức tạp, cần phải xác minh, làm rõ nhiều nội dung”.
UBTVQH xin tiếp thu và thể hiện tại điểm c khoản 2 Điều 33 Dự thảo Luật như sau: “c) Thời gian kiểm tra yếu tố hình thành giá tối đa không quá 30 ngày kể từ khi nhận đủ tài liệu theo yêu cầu. Trường hợp phức tạp thì có thể gia hạn không quá 15 ngày”.
13.14. Có ý kiến đề nghị khoản 1 Điều 28 bỏ từ “cá nhân”.
UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý tại khoản 2 Điều 28 đã được chỉnh lý như sau: “2. Hàng hóa, dịch vụ thực hiện kê khai giá bao gồm:
a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bình ổn giá;
b) Hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu để các tổ chức định mức giá cụ thể bán cho người tiêu dùng;
c) Hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp quyết định theo giá tham chiếu;
d) Một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu khác theo Danh mục do Chính phủ ban hành. Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định kỹ thuật chi tiết các hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá.”
13.16. Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn nữa đối tượng phải thực hiện kê khai giá để đảm bảo tránh việc kê khai dàn trải, không cần thiết.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Đây là vấn đề thuộc phạm vi quy định chi tiết và thực tế hiện nay do các Bộ, ngành, địa phương có thẩm quyền tiếp nhận kê khai sẽ lựa chọn các đối tượng có thị phần lớn phải thực hiện kê khai để đảm bảo nắm bắt giá cả thị trường có tính đại diện chung.
13.7. Có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo bổ sung tại khoản 5 Điều 28 quy định về kiểm tra thông tin kê khai giá để phân biệt với niêm yết giá như sau: “…Cơ quan tiếp nhận kê khai có trách nhiệm cập nhật thông tin giá kê khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và thực hiện kiểm tra thông tin giá đã kê khai trong trường hợp nhận thấy có nội dung kê khai không đúng thực tế, mâu thuẫn với hồ sơ kê khai hoặc thông tin thị trường có liên quan và phù hợp với quy định tại Điều 31, Điều 32, Điều 33 Luật này;…”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Kê khai là biện pháp cung cấp thông tin giá hàng hóa, dịch vụ, việc kê khai được thực hiện sau khi doanh nghiệp đã quyết định giá. Doanh nghiệp thực hiện kê khai và chịu trách nhiệm về mức giá, thông tin kê khai nên không đặt nặng vấn đề thường xuyên phải rà soát, đánh giá thông tin do doanh nghiệp kê khai có chính xác hay không. Cơ quan nhà nước chỉ tiếp nhận và sử dụng phục vụ công tác tổng hợp, phân tích, dự báo. Trường hợp phát sinh yêu cầu cần kiểm tra thì việc kiểm tra, hậu kiểm sẽ thực hiện theo chương trình, kế hoạch và đã được quy định tại Chương VII về thanh tra chuyên ngành và kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá. Do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo Luật.
14. Về thẩm định giá
14.1. Những quy định chung
a) Có ý kiến đề nghị quy định rõ về tính pháp lý của kết quả thẩm định giá trong các trường hợp. Có ý kiến đề nghị cần đặt ra yêu cầu thẩm định lại các kết luận của các doanh nghiệp cung cấp kết quả thẩm định giá trong những trường hợp có dấu hiệu bất thường, có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung của Nhà nước hoặc ảnh hưởng đến người dân. Khoản 1 Điều 40 quy định: “Hoạt động thẩm định giá gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá và hoạt động thẩm định giá của Nhà nước”. Có ý kiến cho rằng quy định này vô tình đã trao quyền quá rộng cho doanh nghiệp có chức năng thẩm định giá, nhưng dự thảo chưa quy định cơ quan nào, cấp nào có quyền “hậu kiểm”. Đề nghị quy định cụ thể hơn về cơ chế, trách nhiệm cụ thể được giao quyền giám sát, kiểm tra nhằm hạn chế tình trạng sai phạm
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị bằng tiền của tài sản trên cơ sở giao kết hợp đồng dân sự giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá, mang tính chất như là hoạt động “bán lời khuyên”. Việc sử dụng hoặc không sử dụng sản phẩm tư vấn của doanh nghiệp thẩm định giá (Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá) là quyền của khách hàng - những người sở hữu tài sản hoặc có quyền đối với tài sản; Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá không mang tính chuẩn mực buộc các bên thực hiện mà chỉ là một trong những cơ sở để các bên xem xét, quyết định, phê duyệt giá tài sản; trường hợp quyết định sử dụng sản phẩm tư vấn thì khách hàng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tương tự đối với một số hoạt động tư vấn khác như đấu giá, kiểm toán, kế toán và luật sư thì việc quản lý được thực hiện thông qua quản lý các điều kiện hoạt động và bộ công cụ chuẩn mực về chuyên môn. Trường hợp có dấu hiệu sai phạm về tuân thủ chuẩn mực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp sẽ có kiểm tra giám sát việc tuân thủ và xử lý sai phạm (đã được quy định tại chương 7 về thanh tra chuyên ngành về giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá). Theo đó, nếu doanh nghiệp thẩm định giá không tuân thủ các quy định về thẩm định giá trong quá trình thực hiện dẫn đến sản phẩm tư vấn gây thiệt hại cho khách hàng thẩm định giá thì phải chịu trách nhiệm về: (1) Trách nhiệm dân sự: có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; (2) Trách nhiệm hành chính: bị xử phạt, tước thẻ, thu hồi thẻ, đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép…; (3) Trách nhiệm hình sự: bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật về hình sự.
Từ những vấn đề nêu trên, UBTVQH xin Quốc hội cho thực hiện theo cơ chế như hiện hành.
b) Một số ý kiến đề nghị thống nhất các quy định về thẩm định giá và thuật ngữ “tiêu chuẩn thẩm định” cần phù hợp với quy định pháp luật khác như Luật Tiêu chuẩn chất lượng.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hoạt động thẩm định giá đã được quy định cụ thể tại Điều 40 Dự thảo Luật, theo đó đã làm rõ hoạt động thẩm định giá gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện và hoạt động thẩm định giá của Nhà nước do Hội đồng thẩm định giá thực hiện. Các nội dung tại Chương VI (gồm 3 Mục, 27 Điều) đã quy định toàn diện về hoạt động thẩm định giá để thống nhất thực hiện đối với cả hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá và Hội đồng thẩm định giá.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh sửa thuật ngữ
“tiêu chuẩn thẩm định” thành “chuẩn mực thẩm định” (tại Điều 42 và đồng bộ tại các nội dung liên quan trong Dự thảo Luật) để tương đồng với chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và đảm bảo không chồng chéo với quy định tại Luật Tiêu chuẩn chất lượng.Trên cơ sở đó, việc thẩm định giá được thực hiện thống nhất theo các chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam (hiện hệ thống chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ gồm 13 chuẩn mực); đồng thời bổ sung thêm quy định chuyển tiếp[58] để đảm bảo tính khả thi trong triển khai Luật.
c) Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc làm cơ sở phân chia thẩm định viên về giá theo loại tài sản, lĩnh vực định giá cụ thể;
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại Dự thảo Luật quy định hai lĩnh vực thẩm định giá là tài sản và doanh nghiệp, gắn với đó là thẩm định viên về giá theo loại tài sản và lĩnh vực hoạt động; vấn đề này đã được tổng kết, đánh giá từ thực tiễn và được xây dựng là một chính sách để bổ sung hoàn thiện Luật nhằm giảm các chi phí xã hội, tăng cường chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa đối với hoạt động thẩm định giá. Việc hướng dẫn chi tiết sẽ được quy định cụ thể tại các văn bản dưới Luật; do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này như Dự thảo.
d) Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc khi xây dựng kết quả thẩm định giá và cần phải quy định cụ thể việc công khai kết quả thẩm định giá.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của ĐBQH, đối với việc công khai kết quả thẩm định giá, tại Điều 55 về Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo thẩm định giá đã bổ sung làm rõ quy định “Chứng thư thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá theo quy định của Bộ Tài chính, trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước.”; về thẩm định giá của Nhà nước, tại điểm c khoản 2 Điều 61 cũng đã quy định “Cập nhật Thông báo kết quả thẩm định giá lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước;”. Việc cập nhật này đảm bảo phục vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá và tăng cường minh bạch trong các thông tin về thẩm định giá.
đ) Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc để có thể áp dụng vào việc thẩm định thương hiệu uy tín của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi đưa vào những đề án liên doanh, liên kết, đặc biệt là trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sử dụng một thương hiệu tham gia vào nhiều đề án xã hội hóa khác nhau
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Vấn đề ĐBQH nêu là rất cần thiết nhưng nội dung này có tính nghiệp vụ và sẽ được quy định chi tiết tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam. Hiện hành tại Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 13 - Thẩm định giá tài sản vô hình (ban hành kèm theo Thông tư số 06/2014/TT-BTC), Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 12 - Thẩm định giá doanh nghiệp (ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT-BTC) đã có các quy định được sử dụng để thẩm định giá thương hiệu của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Trong thời gian tới, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan sớm rà soát, hoàn thiện các quy định này.
e) Có ý kiến đề nghị bỏ khái niệm thẩm định giá, dùng khái niệm dự báo giá
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thẩm định giá là một hoạt động tư vấn cung cấp dịch vụ và hiện rất phát triển trên thế giới. Mục đích của hoạt động là sử dụng các phương pháp, công cụ để xác định giá trị của tài sản nhằm tư vấn cho khách hàng đưa ra quyết định về giá của tài sản. Trong hoạt động thẩm định giá, đối với một số loại tài sản như doanh nghiệp, bất động sản thương mại, tài sản vô hình,… khi sử dụng các phương pháp thuộc cách tiếp cận từ thu nhập thì cũng sử dụng kỹ thuật dự báo như dự báo dòng tiền, dự báo kết quả kinh doanh… Vì vậy, trong một số trường hợp kết quả thẩm định giá có tính dự báo. Tuy nhiên, xét về tổng thể của hoạt động và định nghĩa được kế thừa từ Luật Giá hiện hành. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ thuật ngữ “thẩm định giá” như Dự thảo.
g) Có ý kiến đề nghị Điều 41 bổ sung thêm nội dung khoản 4: “4. Bảo mật thông tin trong công tác thẩm định giá theo quy định của pháp luật” bởi vì công tác bảo mật trong công tác thẩm định giá rất quan trọng; đặc biệt cần thiết bảo mật các thông tin theo trình tự thẩm định giá, cũng như sau khi kết quả thẩm định giá được ban hành
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Đối với hoạt động thẩm định giá nhà nước do Hội đồng thẩm định giá thực hiện, tại điểm c khoản 2 Điều 62 quy định về nghĩa vụ của Hội đồng thẩm định giá, điểm d khoản 2 Điều 63 quy định về nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thẩm định giá đã quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin như sau: “Bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật”. Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện, đây là hoạt động trên cơ sở giao kết dân sự, do đó, việc bảo mật thông tin được thực hiện theo điều khoản hợp đồng thỏa thuận giữa các bên vì vậy không nên quy định cứng trong Luật.
h) Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể thời điểm thẩm định giá trong Dự thảo Luật
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc xác định rõ thời điểm thẩm định giá là rất cần thiết, là yếu tố quan trọng trong hoạt động thẩm định giá. Vì vậy, tại khoản 16 Điều 4 Dự thảo Luật quy định như sau: “16. Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định theo Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam do doanh nghiệp thẩm định giá, hội đồng thẩm định giá thực hiện”. Về thời điểm cụ thể nào làm căn cứ xác định giá trị của tài sản thì phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng hoặc người có thẩm quyền và không điều chỉnh cụ thể vấn đề này tại Luật.
i) Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Chương VI một Điều quy định về Quy trình thẩm định giá để đảm bảo tính công khai, minh bạch và tháo gỡ những khó khăn, bất cập hiện nay trong giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện thẩm định giá
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Các nội dung công việc cần tiến hành trong một cuộc thẩm định giá đang được quy định tại Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam về phạm vi công việc. Đây là nội dung mang tính chuyên môn, kỹ thuật, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như hiện hành quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam do Bộ Tài chính ban hành.
k) Có ý kiến đề nghị bổ sung một Điều quy định về Cơ chế trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thẩm định giá vào Chương VI vì trong thực tế hoạt động thẩm định giá có trường hợp xảy ra tranh chấp, khiếu nại, tố cáo… gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả thẩm định giá, nhất là trong lĩnh vực giải tỏa đền bù thực hiện dự án và trong lĩnh vực tố tụng
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hoạt động khiếu nại, tố cáo hiện đã được quy định cụ thể tại pháp luật về khiếu nại, tố cáo; trong đó bao gồm cả trường hợp trong hoạt động thẩm định giá. Vì vậy không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Do đó, xin giữ như Dự thảo Luật.
l) Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về Hội nghề nghiệp về thẩm định giá, cần đánh giá tác động, xác định vai trò, vị trí, quyền hạn của Hiệp hội này bảo đảm cụ thể hơn
UBTVQH cho rằng, việc quy định rõ vai trò, vị trí, quyền hạn của Hội nghề nghiệp sẽ giúp cho các hoạt động của Hội bảo đảm cơ sở pháp lý cũng như rõ ràng, minh bạch hơn. Do đó, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến ĐBQH và chỉnh lý nội dung này tại Điều 43 Dự thảo Luật
[59] theo hướng tiếp tục kế thừa quy định tại Luật Giá hiện hành và bổ sung thêm quy định được thực hiện các hoạt động liên quan đến thẩm định giá theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Khi Luật sửa đổi có hiệu lực và gắn với chủ trương về củng cố, kiện toàn các hội nghề nghiệp theo hướng tăng cường xã hội hóa một số nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước.
m) Có ý kiến đề nghị nghiên cứu, bổ sung vào Dự thảo Luật quy định cụ thể trường hợp nào cần phải thuê dịch vụ thẩm định giá, trường hợp nào tự tham khảo báo giá trên thị trường đối với các trường hợp mua sắm tài sản công, hàng hóa dịch vụ để duy trì hoạt động thường xuyên từ nguồn ngân sách nhà nước. Có ý kiến đề nghị để thống nhất trong công tác thẩm định giá tài sản nhà nước, cần: (1) Quy định chi tiết danh mục các loại tài sản phải thẩm định giá; (2) Quy định rõ về các phương pháp thẩm định giá đối với từng loại tài sản, đặc biệt thẩm định giá đối với tài sản chuyên dùng, đặc thù nhập khẩu; (3) Quy định trách nhiệm của chủ đầu tư đối với việc lựa chọn tài sản là những hàng hóa đặc thù, hàng hóa gia công, đặt hàng riêng có tính chất cá biệt theo nhu cầu sử dụng.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về cơ bản thẩm định giá dù do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện hay do Hội đồng thẩm định giá (của nhà nước) thực hiện thì đều xuất phát từ nhu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tại Luật Giá 2012 hiện hành cũng như tại Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) hướng đến việc quy định hoàn chỉnh các công cụ, cơ chế để tổ chức thực hiện hoạt động thẩm định giá mà không đặt ra quy định cụ thể về các trường hợp phải thẩm định giá. Trường hợp nào phải thẩm định giá sẽ do các Luật chuyên ngành quy định (ví dụ như Luật Đấu thầu, Luật Đấu giá, Luật Dân sự, Luật Thương mại...). Do vậy xin không quy định nội dung này vào Dự thảo Luật.
14.2. Thẩm định viên về giá
a) Có ý kiến đề nghị nghiên cứu lại điều kiện bằng cấp tốt nghiệp cho người tham dự kỳ thi thẩm định viên. Có ý kiến đề nghị cần rà soát các quy định nhằm khuyến khích phát triển nghề thẩm định giá tại Việt Nam, bảo đảm cơ sở pháp lý; đồng thời quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của thẩm định viên về giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Điểm b khoản 2 Điều 46 Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 quy định như sau: “Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các nhóm ngành về kinh tế, kỹ thuật, luật theo quy định của pháp luật”. Trên cơ sở ý kiến của ĐBQH cho thấy không cần thiết phải quy định giới hạn nhóm ngành nghề khi đã có bằng tốt nghiệp đại học. Tài sản thẩm định giá rất phong phú và đa dạng đòi hỏi thẩm định viên có kiến thức rộng, do đó, các ngành nghề đào tạo đều có tác dụng hỗ trợ cho hoạt động thẩm định giá.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, nhằm khuyến khích phát triển nghề thẩm định giá, xin chỉnh lý quy định tại điểm b khoản 2 Điều 44 Dự thảo Luật về điều kiện dự thi cấp Thẻ thẩm định viên về giá theo hướng nới rộng điều kiện về bằng đại học chuyên môn được dự thi, cụ thể: “Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên” và bỏ nội dung “thuộc một trong các nhóm ngành về kinh tế, kỹ thuật, luật theo quy định của pháp luật”. Đồng thời, nhằm khuyến khích hoạt động định hướng nghề nghiệp, tại điểm c khoản 1 Điều 45 Dự thảo Luật đã quy định đối với trường hợp làm việc với trình độ đại học trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá theo chương trình định hướng ứng dụng sẽ được rút ngắn thời gian xét điều kiện làm việc để đăng ký hành nghề xuống 24 tháng so với các đối tượng khác đang là 36 tháng; thực tế những người có bằng đại học chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá theo chương trình định hướng ứng dụng theo quy định đã có thời gian học tập, làm việc thực tế tại các doanh nghiệp về chuyên môn, nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, để bảo đảm cơ sở pháp lý, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của thẩm định viên về giá; tiếp thu ý kiến ĐBQH tại Dự thảo Luật đã củng cố và làm rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá (Điều 47 Dự thảo Luật), quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá (Điều 53 Dự thảo Luật), cũng như quy định rõ hơn về các điều cấm đối với thẩm định viên về giá (khoản 4 Điều 7 Dự thảo Luật), điều cấm đối với doanh nghiệp thẩm định giá (khoản 3 Điều 7 Dự thảo Luật) để đảm bảo minh bạch trong việc triển khai các hoạt động thẩm định giá, giảm thiểu các sai phạm.
b) Có ý kiến đề nghị quy định nội dung nâng cao chất lượng kỳ thi thẩm định viên về giá để đánh giá đúng người có chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp thay vì hạn chế người được tham gia.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc nâng cao chất lượng kỳ thi thẩm định viên về giá là một trong những nội dung sẽ được củng cố thông qua phương thức, nội dung thi và sẽ được quy định chi tiết tại Nghị định của Chính phủ và Thông tư của Bộ Tài chính. UBTVQH đề nghị Chính phủ ghi nhận đầy đủ ý kiến của ĐBQH để hoàn thiện trong quá trình xây dựng các văn bản dưới Luật.
c) Có ý kiến không nên giới hạn các cơ quan, các cơ sở đào tạo kiến thức chuyên môn để cấp thẻ hành nghề định giá mà nên mở ra các cơ sở đào tạo đủ điều kiện để đào tạo trong lĩnh vực này
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tại Dự thảo Luật quy định giao Bộ Tài chính quy định về đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức nghiệp vụ thẩm định giá (điểm b khoản 10 Điều 14). Hiện hành thì tại Thông tư số 204/2014/TT-BTC, Thông tư số 11/2019/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá cũng không giới hạn cơ sở đào tạo kiến thức chuyên môn về thẩm định giá. Dự thảo Luật đang tiếp tục kế thừa và củng cố hoạt động này.
d) Một số ý kiến đề nghị Bộ Tài chính không thực hiện cấp trực tiếp thẻ thẩm định viên về giá mà giao cho doanh nghiệp kinh doanh đã được Bộ Tài chính cho phép
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định giá là điều kiện quan trọng để công nhận một người là thẩm định viên về giá, đồng thời cũng là điều kiện để xem xét cấp, đình chỉ, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá. Với tầm quan trọng như vậy, để bảo đảm chất lượng, đồng bộ trong quản lý thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá thì với tình hình phát triển của nghề thẩm định giá nước ta hiện nay việc cấp thẻ thẩm định viên về giá vẫn cần thiết do cơ quan nhà nước thực hiện. Việc quy định cơ quan nhà nước cấp Thẻ thẩm định viên về giá cũng phù hợp với thông lệ của một số quốc gia trên thế giới. Theo khảo sát và nghiên cứu của cơ quan soạn thảo, tại các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ả rập xê út và một số nước có nghề thẩm định giá phát triển trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Indonesia, cơ quan quản lý nhà nước giữ chức năng cấp chứng chỉ hành nghề cho các thẩm định viên về giá (license) (tương tự với Thẻ thẩm định viên về giá của Việt Nam). Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này như Dự thảo.
đ) Có ý kiến đề nghị xem xét sự thống nhất trong việc cấp thẻ thẩm đinh viên về giá, cần làm rõ cơ quan nào có thẩm quyền cấp thẻ, cũng như có thẩm quyền tổ chức thi để cấp thẻ
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 44 của Dự thảo Luật thì Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về thi, cấp, quản lý, thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá; do đó, cơ quan có thẩm quyền cấp Thẻ thẩm định viên về giá sẽ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định. Hiện nay, Bộ Tài chính đang là cơ quan tổ chức thi và cấp Thẻ thẩm định viên về giá và dự kiến sẽ tiếp tục là cơ quan cấp Thẻ thẩm định viên về giá trong thời gian tới. Việc cấp Thẻ thẩm định viên về giá có thể xem xét chuyển giao cho Hội nghề nghiệp khi Hội nghề nghiệp đủ năng lực thực hiện. Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận chuyên môn, do đó, không thể do doanh nghiệp cấp. Để tránh hiểu nhầm về việc doanh nghiệp có thể cấp Thẻ thẩm định viên về giá, khoản 1 Điều 44 được chỉnh lý như sau: “1. Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp, được cấp cho người đạt yêu cầu tại kỳ thi thẩm định viên về giá”.
e) Có ý kiến đề nghị làm rõ căn cứ để xác định tiêu chuẩn điều kiện “trường hợp có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá”. Đề nghị rà soát nội dung này đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện này nhằm có sự thống nhất tránh quy định nội dung này trong luật để phát sinh chuyên ngành đào tạo riêng về nội dung này ở trình độ cao đẳng. Về mặt quan điểm, việc đào tạo trình độ chuyên môn tại hệ thống giáo dục chỉ đảm bảo nền tảng đầu vào, do đó nhất thiết phải “Có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá phù hợp với lĩnh vực chuyên môn dự thi”. Do đó, đề nghị nên bỏ nội dung quy định về “trường hợp có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá” tại khoản 2 Điều 44.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Quy định này cơ bản kế thừa và nâng cấp từ quy định hiện hành về điều kiện thi cấp Thẻ thẩm định viên về giá quy định tại Thông tư số 46/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính. Về nguyên lý thì “chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá” là bước bổ túc thêm về nghiệp vụ đối với các ngành đào tạo cấp đại học khác. Như vậy, đối với những trường hợp đã được đào tạo chuyên ngành vật giá, giá trước đây và chuyên ngành đào tạo đại học về thẩm định giá hiện nay thì không cần phải có bước chuyển đổi này.
g) Có ý kiến đề nghị quy định về việc đăng ký hành nghề thẩm định giá như Luật hiện hành.
Theo quy định hiện hành thì việc đăng ký hành nghề thẩm định giá của thẩm định viên về giá quy định tại Nghị định số 89/2013/NĐ-CP, Nghị định số 12/2021/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 38/2014/TT-BTC và Thông tư số 60/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính. Theo đó, thẩm định viên về giá thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá thông qua doanh nghiệp thẩm định giá để được Bộ Tài chính thông báo đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá. Quy định tại Dự thảo Luật là kế thừa, nâng quy định này từ Nghị định lên Luật để củng cố tính pháp lý cao hơn. Việc quy định thẩm định viên đăng ký hành nghề qua doanh nghiệp là vì doanh nghiệp thẩm định giá là chủ thể cung cấp dịch vụ thẩm định giá, thẩm định viên không hành nghề với tư cách cá nhân mà gắn với doanh nghiệp thẩm định giá. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, đã chỉnh lý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Dự thảo Luật: “Có tổng thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá với trình độ Đại học trở lên từ đủ 36 tháng; Trường hợp làm việc với trình độ đại học trở lên chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá theo chương trình định hướng ứng dụng thì tổng thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá từ đủ 24 tháng”.
h) Có ý kiến cho rằng điểm c khoản 1 Điều 45 quy định thời gian như vậy là khá dài đối với những người đã có thẻ thẩm định viên về giá. Điều này không phù hợp với số lượng thẩm định viên hành nghề hiện tại và quy định của Dự thảo Luật điều chỉnh tăng số lượng thẩm định ít nhất 5 người, khi doanh nghiệp đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; Có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, sửa đổi thời gian làm việc đủ 24 tháng đối với trường hợp làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá với trình độ Đại học trở lên, đủ 18 tháng đối với trường hợp có bằng đại học trở lên chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá theo chương trình định hướng ứng dụng.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo quy định hiện hành thì người đăng ký dự thi Thẻ thẩm định viên về giá phải có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực này ít nhất đủ 36 tháng kể từ khi có bằng đại học. Qua đánh giá thấy rằng, quy định về kinh nghiệm làm việc nên gắn với điều kiện hành nghề hơn là điều kiện thi, cấp chứng nhận chuyên môn; do đó, Dự thảo Luật đã quy định một trong những điều kiện hành nghề thẩm định giá là có tổng thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá với trình độ Đại học trở lên từ đủ 36 tháng; trường hợp làm việc với trình độ đại học trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá theo chương trình định hướng ứng dụng thì tổng thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá từ đủ 24 tháng. Với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá thì quy định có tổng thời gian kinh nghiệm 36 tháng là phù hợp. Lĩnh vực kiểm toán hành nghề hiện cũng đang có quy định tương tự.
i) Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về chủ thể có thẩm quyền xác định về thời gian làm việc 36 tháng trở lên của thẩm định viên về giá; đề nghị quy định 36 tháng cần lấy theo thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Dự thảo Luật quy định Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục đăng ký hành nghề thẩm định giá, do đó, chủ thể có thẩm quyền xác định về thời gian làm việc đủ 36 tháng sẽ được quy định tại Nghị định quy định chi tiết. Về căn cứ xác định 36 tháng làm việc thực tế tại doanh nghiệp thẩm định giá được xác định theo thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội tại doanh nghiệp thẩm định giá là một vấn đề được trao đổi, tranh luận khi tổ chức thi hành Nghị định số 89/2013/NĐ-CP và cả trong quá trình soạn thảo Luật Giá sửa đổi. Trong hoạt động thẩm định giá, đang quy định cấm thẩm định viên làm việc đồng thời tại 02 doanh nghiệp thẩm định để bảo đảm tính độc lập của các đơn vị tư vấn; nhưng không cấm đối với trường hợp thẩm định viên đồng thời làm việc cho doanh nghiệp thẩm định giá và doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, để loại trừ những phát sinh chủ quan, tiêu cực, Luật cũng có quy định cấm đối với trường hợp thực hiện thẩm định giá cho các đối tượng có liên quan. Vì vậy, việc lấy mốc thời gian theo đóng bảo hiểm xã hội tại doanh nghiệp thẩm định giá sẽ không phù hợp với trường hợp này vì thời gian đóng bảo hiểm xã hội tại doanh nghiệp thẩm định giá không đồng nhất với thời gian làm việc thực tế tại doanh nghiệp thẩm định giá trong trường hợp người lao động được đóng bảo hiểm xã hội tại doanh nghiệp khác. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này như Dự thảo.
k) Đề nghị bổ sung đối tượng không được hành nghề thẩm định giá khi đang bị tước thẻ thẩm định viên về giá. Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “tước thẻ”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Điểm c khoản 2 Điều 45 Dự thảo Luật trình Quốc hội quy định như sau: “Người đang bị tước Thẻ thẩm định viên về giá”. Việc sử dụng cụm từ “tước thẻ” là được căn cứ theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, điểm c khoản 2 Điều 45 Dự thảo Luật đã được chỉnh lý như sau: “Người đang bị tước Thẻ thẩm định viên về giá theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”.
Đối với ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “tước thẻ”, qua rà soát cho thấy: Việc sử dụng cụm từ “tước thẻ” nhằm phù hợp với các quy định pháp luật khác có liên quan về xử lý vi phạm hành chính, do vậy, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
l) Có ý kiến cho rằng, Dự thảo quy định trường hợp không được đăng ký hành nghề thẩm định giá là “Người có hành vi vi phạm pháp luật về thẩm định giá bị xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày có quyết định xử phạt”. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính”, do vậy đề nghị biên tập lại như sau: “Người có hành vi vi phạm pháp luật về thẩm định giá bị xử phạt vi phạm hành chính mà chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính” cho phù hợp và thống nhất.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Để phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính, tại Dự thảo Luật đã không còn quy định trên; liên quan đến pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, điểm c khoản 2 Điều 45 Dự thảo Luật quy định đối tượng không được hành nghề thẩm định giá gồm: “c) Người đang bị tước Thẻ thẩm định viên về giá theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”.
m) Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm về quy trình rà soát và thông báo danh sách thẩm định viên về giá
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, tại khoản 2, khoản 3 Điều 46 Dự thảo Luật đã bổ sung làm rõ hơn về việc thông báo danh sách thẩm định viên về giá. Riêng đối với việc quy định chi tiết quy trình rà soát thông báo danh sách thẩm định về giá là nội dung mang tính kỹ thuật giao Chính phủ quy định chi tiết sẽ phù hợp hơn, do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo Luật.
n) Tại điểm a khoản 3 Điều 46 quy định “Danh sách thẩm định viên về giá hằng năm được thông báo trước ngày 01/01 của năm đó”. Để đảm bảo phù hợp và logic hơn, đề nghị sửa lại mốc thời gian thông báo Danh sách thẩm định viên về giá hằng năm như sau “Danh sách thẩm định viên về giá hằng năm được thông báo vào ngày 31/12 của năm liền kề trước đó;”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc quy định cứng thông báo vào ngày 31/12 của năm liền kề trước đó sẽ vướng mắc trong trường hợp ngày 31/12 của năm đó không phải là ngày làm việc; do đó, xin giữ như quy định hiện hành: Danh sách thẩm định viên về giá hằng năm được thông báo trước ngày 01/01 của năm đó.
o) Một số ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 2, Điều 47 nội dung nghĩa vụ “Đảm bảo độc lập, khách quan, trung thực và tính chính xác của kết quả thẩm định giá trước pháp luật và doanh nghiệp đăng ký hành nghề”. Có ý kiến đề nghị Điều 47 quy định bổ sung quy định “Chịu trách nhiệm thực hiện đúng hướng dẫn của hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá và các quy định nội bộ khác của doanh nghiệp đăng ký hành nghề; bảo đảm độc lập, khách quan, trung thực và tính chính xác của kết quả thẩm định giá trước pháp luật và doanh nghiệp đăng ký hành nghề; … vào báo cáo kết quả thẩm định giá để các bên liên quan có thể đánh giá được mức độ tin cậy của kết quả thẩm định giá”. Bởi vì, trong quá trình thực hiện, thẩm định viên về giá hoạt động độc lập theo quy trình chuyên môn, không buộc phải báo cáo với doanh nghiệp trừ trường hợp thấy cần thiết, thông tin thị trường trực tiếp thu thập nên phải chịu trách nhiệm về mức độ chính xác của kết quả thẩm định giá do mình thực hiện. Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về nghĩa vụ của thẩm định viên về giá, như: thẩm định viên về giá chịu trách nhiệm trước pháp luật và doanh nghiệp thẩm định giá về tính trung thực, chính xác, khách quan, độc lập của kết quả thẩm định giá, phản ánh đầy đủ quá trình thực hiện vào kết quả thẩm định giá
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, điểm b khoản 2 Điều 47 Dự thảo Luật quy định về nghĩa vụ của thẩm định viên về giá đã được chỉnh lý như sau: “b) Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, tính trung thực, khách quan, chính xác trong quá trình thẩm định giá tài sản; chịu trách nhiệm về chuyên môn trong quá trình thực hiện và đảm bảo báo cáo thẩm định giá tuân thủ các Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam”.
Riêng đối với các quy định nội bộ doanh nghiệp là vấn đề thuộc về phân công, tổ chức thực hiện trong nội bộ của mỗi doanh nghiệp, Luật Giá chỉ điều chỉnh điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ; các quy định nội bộ doanh nghiệp cũng phải bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật.
o) Có ý kiến đề nghị Điều 44 Dự thảo Luật quy định về thẻ thẩm định viên về giá, đề nghị cần có quy định cụ thể về hình thức thi (nên cân nhắc và bổ sung thêm các hình thức thi, như thi phỏng vấn hay thông qua báo cáo thẩm định giá mà thí sinh tham gia thẩm định giá...)
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc củng cố, nâng cao chất lượng, chuyên môn hóa theo lĩnh vực thẻ thẩm định viên về giá gắn với củng cố, đổi mới phương thức, nội dung thi là một nội dung được nêu ra trong quá trình tổng kết đánh giá thi hành Luật Giá. Hiện nay việc thi cấp thẻ thẩm định viên về giá được thực hiện thông qua các bài thi với nội dung lý thuyết theo hình thức câu hỏi tự luận kết hợp với câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tính toán tùy theo từng môn thi. Trong thời gian tới, có thể nghiên cứu bổ sung thêm hình thức thi phỏng vấn. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình thực tế, thì nội dung mang tính kỹ thuật như hình thức thi cấp thẻ thẩm định viên về giá nên được quy định tại văn bản dưới Luật và giao cho Bộ Tài chính quy định chi tiết. UBTVQH xin được ghi nhận đầy đủ ý kiến của ĐBQH để hoàn thiện trong quá trình xây dựng các văn bản dưới Luật.
p) Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm loại hình thẩm định viên tập sự để đảm bảo kinh nghiệm hoạt động thẩm định giá được kiểm soát tốt hơn.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hiện tại Dự thảo Luật đã có các quy định về thời gian làm việc tại doanh nghiệp thẩm định giá để đăng ký hành nghề. Việc quy định định danh thêm đối với loại hình thẩm định viên tập sự cũng đã được đặt ra trong quá trình xây dựng Luật; tuy nhiên việc quy định này có thể dẫn đến khó khăn trong khâu kiểm soát, phức tạp trong việc quản lý và tạo thêm những thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp. Do đó xin không quy định thêm chức danh này tại Luật.
q) Có ý kiến cho rằng điểm b khoản 1 Điều 45 Dự thảo Luật quy định về điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá có điểm không hợp lý, chưa phù hợp với thực tiễn bởi lẽ điều kiện đưa ra là “có hợp đồng lao động không xác định thời hạn”. Bộ luật Lao động hiện hành có quy định về các loại hợp đồng bao gồm hợp đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng không xác định thời hạn. Đồng thời, trên thực tế các doanh nghiệp và người lao động tuỳ theo nhu cầu và điều kiện có thể thoả thuận với nhau về việc ký kết hợp đồng lao động theo một trong hai loại hợp đồng này. Như vậy, Dự thảo Luật quy định về điều kiện “có hợp đồng lao động không xác định thời hạn” như nêu trên là không phù hợp với thực tế, không khả thi và làm hạn chế đi cơ hội hành nghề của người có thẻ Thẩm định viên về giá. Do đó, đề nghị sửa đổi điều kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 45 theo hướng chỉ cần có hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật về lao động.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo quy định của Bộ luật Lao động, hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Thực tế chính sách hiện nay đối với ngành nghề thẩm định giá hướng đến sự ổn định trong hành nghề, nâng cao trách nhiệm của thẩm định viên. Qua đó quy định phải là hợp đồng không xác định thời hạn cũng là một trong các nội dung biện pháp nhằm tăng cường trách nhiệm, giảm thiểu các sai phạm, rủi ro trong hành nghề.
r) Có ý kiến cho rằng, Dự thảo Luật chưa quy định là giấy chứng nhận cập nhật kiến thức đã được cấp từ khi nào và đến thời điểm đăng ký hành nghề thẩm định giá thì giấy chứng nhận này có còn giá trị hay không. Có ý kiến đổi cụm từ “Có giấy chứng nhận cập nhật kiến thức về thẩm định giá theo lĩnh vực chuyên môn” thành: “Có giấy chứng nhận bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về thẩm định giá”.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, xin giao nội dung quy định chi tiết này cho Bộ Tài chính để đảm bảo thuận lợi cho việc quy định các nội dung có tính linh hoạt trong thực tiễn (do có nhiều trường hợp thẩm định viên mới thi đỗ kỳ thi thì không cần phải cập nhật; thẩm định viên nghỉ không hành nghề nhiều năm mới cập nhật thì sẽ được đăng ký luôn…). Tại điểm d khoản 1 Điều 45 đã chỉnh lý như sau: “d) Đã cập nhật kiến thức về thẩm định giá theo quy định của Bộ Tài chính;”
s) Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại điểm a khoản 1 như sau: “… ký chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá theo lĩnh vực chuyên môn được phép hành nghề mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ…”; điểm d khoản 1 được bổ sung như sau: “Từ chối thực hiện… không đủ hoặc không đảm bảo tin cậy hoặc không đúng lĩnh vực chuyên môn”;
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
- Điểm a khoản 1 Điều 47: “Hành nghề thẩm định giá theo quy định của Luật này; ký chứng thư thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá theo lĩnh vực chuyên môn; được phép hành nghề mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ, điều kiện chuyên môn khác với quy định tại Luật này;”
- Điểm d khoản 1 Điều 47: “Từ chối thực hiện thẩm định giá trong trường hợp không đúng lĩnh vực chuyên môn được phép hành nghề hoặc xét thấy hồ sơ, tài liệu để thực hiện thẩm định giá không đủ hoặc không đảm bảo tin cậy;”
t) Có ý kiến đề nghị điểm b khoản 2 Điều 50 bỏ cụm từ “tại trụ sở chính hoặc” vì không thể chọn được người đăng ký hành nghề tại trụ sở chính làm người đứng đầu chi nhánh và quy định này sẽ mâu thuẫn với điểm a khoản 2 Điều 50. Có ý kiến đề nghị khoản 3 Điều 50 điều chỉnh như sau: “Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được thực hiện một phần hoặc toàn bộ… theo quyết định bằng văn bản của doanh nghiệp thẩm định giá và được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá đối với các hợp đồng thẩm định giá do chi nhánh ký kết với khách hàng thẩm định giá”.’
Tiếp thu ý kiến các ĐBQH, tại Điều 50 đã chỉnh lý lại để đảm bảo phù hợp, tránh trùng lặp, mâu thuẫn như sau:
“2. Điều kiện xem xét là chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Phải có ít nhất 03 người có thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá tại chi nhánh của doanh nghiệp. Những người này không đồng thờiđăng ký hành nghề thẩm định giá tại trụ sở chính hoặc chi nhánh khác của doanh nghiệp;
b) Người đứng đầu chi nhánh phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá tại chi nhánhđó.
3. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được thực hiện hoạt động thẩm định giá theo quyết định bằng văn bản của doanh nghiệp thẩm định giá và được phát hành chứng thư thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá đối với các hợp đồng thẩm định giá do chi nhánh ký kết với khách hàng thẩm định giá.”
v) Tại điểm a khoản 1 Điều 51, có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, chỉnh sửa như sau: “a) Là người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp” thành “a) Đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện của người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp theo quy định pháp luật liên quan;”.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh ngành nghề dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và được Bộ Tài chính cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Quy định này nhằm đảm bảo sự đồng bộ giữa chức danh của người đứng đầu doanh nghiệp tại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
14.3. Về doanh nghiệp thẩm định giá
a) Có ý kiến đề nghị tiếp tục hoàn thiện, nâng cao vai trò, trách nhiệm cũng như năng lực của các tổ chức tư vấn giá, doanh nghiệp có chức năng thẩm định giá khi tham gia thẩm định giá; xây dựng hoàn thiện cơ chế chính sách huy động sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức này vào hoạt động định giá, thẩm định giá của Nhà nước, nhất là đối với trường hợp phức tạp, thời gian yêu cầu thực hiện gấp.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Vấn đề nâng cao năng lực của doanh nghiệp thẩm định giá là một trong những chính sách quan trọng và tại Dự thảo Luật đã có nhiều quy định nhằm củng cố tăng cường từ điều kiện thành lập, điều kiện hoạt động, trách nhiệm trong thực hiện thẩm định giá của thẩm định viên, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp… Đồng thời với đó thì hoạt động thẩm định giá của Nhà nước cũng được củng cố, kiện toàn. Trong đó, tại Luật đã quy định rõ Hội đồng được thuê đơn vị tư vấn để giúp triển khai thực hiện một số công việc và cơ chế thực hiện là giao kết dân sự (có trả phí).
b) Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định không cho phép người từng có chức vụ, quyền hạn quản lý Nhà nước về giá thành lập công ty thẩm định giá
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Để bảo đảm tính thống nhất với Luật Cán bộ, công chức, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành, tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác liên quan, dự thảo đã tiếp thu và thể hiện tại khoản 2 Điều 48 Dự thảo Luật: “Doanh nghiệp thẩm định giá không được thành lập bởi người có chức vụ, quyền hạn hoặc bố trí các chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp cho người có chức vụ, quyền hạn thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về giá sau khi thôi giữ chức vụ trong thời hạn theo quy định của Bộ Tài chính”
c) Tên của Điều 49 ghi như sau: “Điều kiện doanh nghiệp cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”,đề nghị sửa lại tên cho phù hợp hơn thành: “Điều 49. Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá cho doanh nghiệp”;đề nghị bỏ cụm từ “doanh nghiệp” để tên điều ngắn gọn và dễ hiểu hơn, viết lại tên Điều này như sau: “Điều 49. Điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, tên Điều 49 Dự thảo Luật được chỉnh lý như sau: “Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”.
d) Có ý kiến đề nghị làm rõ lý do nâng điều kiện số lượng thẩm định viên tại doanh nghiệp thẩm định giá từ 3 đến ít nhất là 5 người; cân nhắc không nên tăng số lượng thẩm định viên, mà cần nâng cao chất lượng thẩm định viên
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc điều chỉnh các quy định về số lượng thẻ thẩm định viên tối thiểu tại doanh nghiệp (từ 3 lên 5 thẩm định viên) và chi nhánh doanh nghiệp (từ 2 lên 3 thẩm định viên) bên cạnh việc làm tăng quy mô của doanh nghiệp, qua đánh giá cũng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá vì lý do: Thẩm định viên về giá không hành nghề độc lập mà đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên không thể phát hành Chứng thư độc lập mà là Chứng thư thẩm định giá do doanh nghiệp phát hành; khi số lượng thẩm định viên tại doanh nghiệp tăng lên cũng có nghĩa là khối lượng công việc bình quân của thẩm định viên tại doanh nghiệp giảm đi tạo điều kiện thẩm định viên có thời gian, tập trung vào nhiệm vụ được giao; hơn nữa khi số lượng thẩm định viên tại doanh nghiệp tăng sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng được quy trình kiểm soát chất lượng đầy đủ và bài bản hơn, qua đó chất lượng sẽ được củng cố. Theo số liệu đăng ký hành nghề từ đầu năm 2022, có 279 doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, trong đó có hơn một trăm doanh nghiệp có số lượng thẩm định viên dưới 5; các doanh nghiệp này về nguyên tắc cần phải có thời gian và chi phí để bồi dưỡng, đào tạo hoặc tuyển dụng thêm để đáp ứng điều kiện về số lượng thẩm định viên. Tuy nhiên, với số lượng thẩm định viên đăng ký hành nghề đầu năm 2022 mới chỉ là 1.462 thẩm định viên, trong khi đó tổng số người đã được cấp thẻ thẩm định viên đến thời điểm hiện nay là 2.352 người thì việc tuyển dụng bổ sung thêm thẩm định viên tại các doanh nghiệp đang có số lượng thẩm định viên dưới 5 không phải là vấn đề phức tạp và kinh phí phát sinh thực tế không lớn, mặt khác Luật sửa đổi khi chính thức được ban hành cũng sẽ có thời gian chuyển tiếp để các doanh nghiệp hoàn thiện các điều kiện nên sẽ không tạo áp lực với kinh phí thường xuyên của đơn vị.
đ) Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa nội dung “…phải có 5 người có thẻ thẩm định viên…” thành “phải có ít nhất 5 người có thẻ thẩm định viên” để đảm bảo tính phù hợp
Tiếp thu ý kiến ĐBQH tại Dự thảo Luật đã chỉnh lý tại khoản 1 Điều 49 thành: “1. Khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp phải có ít nhất 5 người có Thẻ thẩm định viên về giá…”.
e) Tại điểm đ khoản 1 Điều 51, đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định tăng thời gian giữa các lần thành lập doanh nghiệp dài hơn đối với những người là Giám đốc, tổng giám đốc bị thu hồi giấy chứng nhận từ 2 lần trở lên tại điểm đ khoản 1 Điều 51
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, điểm đ khoản 1 Điều 51 Dự thảo Luật đã được chỉnh lý như sau: “đ) Không thuộc các trường hợp đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời gian 12 tháng đối với doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá lần đầu và 60 tháng đối với doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá từ lần 2 trở đi, tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”.
g) Có ý kiến cho rằng để nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp tư vấn định giá trong việc thực hiện định giá và cung cấp kết quả định giá, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 53
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Điều 41 Dự thảo Luật quy định về nguyên tắc hoạt động thẩm định giá đã quy định nguyên tắc: Độc lập, khách quan, trung thực; đồng thời, khoản 16 Điều 4 Dự thảo Luật đã quy định: Thẩm định giá là hoạt động tư vấn. Do đó, điểm d khoản 2 Điều 53 Dự thảo Luật xin giữ như sau: “d) Chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng thẩm định giá về Chứng thư thẩm định giá đã phát hành theo hợp đồng đã ký kết trừ trường hợp khách hàng thẩm định giá cố tình cung cấp thông tin sai lệch về tài sản thẩm định giá; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá hoặc trong trường hợp hoạt động thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá”.
h) Khoản 5 Điều 55 quy định: “Chứng thư thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước”. Quy định như trên là chưa cụ thể, rõ ràng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện cập nhật, thời gian cập nhập chứng thư thẩm định giá lên cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và hình thức xử lý đối với đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân chậm hoặc không thực hiện cập nhật chứng thư thẩm định giá lên cơ sở dữ liệu quốc gia về giá. Để phục vụ công tác quản lý nhà nước và nhu cầu của xã hội đối với các thông tin được cung cấp từ cơ sở dữ liệu quốc gia về giá đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung cho phù hợp.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Việc cập nhật chứng thư thẩm định giá lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá chủ yếu nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước về giá; các thông tin cập nhật (như hiện hành) chỉ gồm một số thông tin cơ bản của chứng thư để đảm bảo khả thi trong tiếp nhận thông tin. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, khoản 5 Điều 55 Dự thảo Luật được chỉnh lý như sau: “5. Chứng thư thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá theo quy định của Bộ Tài chính trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước”; qua đó xin được quy định chi tiết các nội dung này tại văn bản hướng dẫn Luật.
i) Có ý kiến cho rằng Dự thảo chưa quy định thời điểm có hiệu lực của chứng thư thẩm định giá và thời hạn có hiệu lực của kết quả thẩm định giá. Đề nghị cần bổ sung quy định về thời điểm chứng thư thẩm định giá có hiệu lực, thời hạn có hiệu lực của kết quả thẩm định giá, phụ thuộc theo đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của tài sản.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Nội dung này thuộc về chuyên môn, kỹ thuật, hiện đang được quy định tại Tiêu chuẩn thẩm định giá do Bộ Tài chính ban hành (thời hạn tối đa là 6 tháng). Việc xác định thực tế cũng dựa theo loại tài sản, các đặc điểm kinh tế kĩ thuật như ý kiến của ĐBQH. Do đó, xin tiếp tục được quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam.
k) Có ý kiến đề nghị cần quy định thêm trách nhiệm người đứng đầu, người có thẩm quyền ký vào kết quả thẩm định giá trị tài sản.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Khoản 18 Điều 4 Dự thảo Luật đã quy định về việc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá xem xét, phê duyệt Báo cáo thẩm định giá như sau: “18. Báo cáo thẩm định giá là văn bản trình bày về quá trình thẩm định giá, làm căn cứ lập chứng thư thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc thông báo kết quả thẩm định giá của hội đồng thẩm định giá, trong đó: a) Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá do thẩm định viên về giá lập, thể hiện ý kiến của thẩm định viên về giá và được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá xem xét, phê duyệt”.
l) Có ý kiến đề nghị làm rõ về “trách nhiệm nghề nghiệp” để thực hiện “Mua bảo hiểm” và “rủi ro nghề nghiệp” trong hoạt động thẩm định giá. Những yếu tố, hoạt động động nào được cho là “rủi do nghề nghiệp”. Về nguyên tắc, là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thẩm định giá, chịu trách nhiệm với nghiệp vụ và tài sản của doanh nghiệp việc lập các loại quỹ để đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp không trái quy định của pháp luật. Đề nghị rà soát các nội dung trên nhằm đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, hoặc có hướng dẫn cụ thể về nội dung này trong thực hiện.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Quy định này cơ bản kế thừa quy định hiện hành tại Luật Giá năm 2012. Việc mua bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp hoặc trích lập quỹ là biện pháp nhằm đảm bảo nghĩa vụ của doanh nghiệp trong những trường hợp phải đền bù cho khách hàng do những lỗi của mình. Thực tế thực hiện trong thời gian qua không có vướng mắc; hiện trong lĩnh vực kiểm toán hành nghề và kinh nghiệm quốc tế cũng có những quy định tương tự. Do đó xin giữ như dự thảo.
m) Có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung, hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp, thủ tục, trình tự giải quyết tranh chấp. Kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá được tiến hành theo thủ tục tố tụng của Tòa trọng tài và Tòa án do pháp luật quy định.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hoạt động thẩm định giá được các bên giao kết trên cơ sở hợp đồng dân sự và khi phát sinh tranh chấp thì cũng tương tự các giao dịch dân sự khác sẽ được giải quyết theo quy định hiện hành. Do đó, xin giữ nội dung này như Dự thảo. Nội dung này được quy định tại Điều 58 Dự thảo Luật.
n) Có ý kiến đề nghị quy định chi tiết về mức chi phí dịch vụ thẩm định giá tài sản cụ thể cho một số mục đích hoặc một số loại tài sản nhất định
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Dịch vụ thẩm định giá là loại hình dịch vụ có tính cạnh tranh cao, không bảo đảm các tiêu chí của hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Dự thảo Luật quy định nguyên tắc xác định giá dịch vụ dịch vụ thẩm định giá nhằm mục đích hạn chế và có cơ sở để xem xét đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh bằng cách hạ giá dịch vụ quá thấp, ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp dịch vụ. Nghiên cứu ý kiến ĐBQH, Điều 57 Dự thảo Luật được chỉnh lý như sau: “Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo giao dịch dân sự giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá; đảm bảo nguyên tắc bù đắp chi phí thực tế hợp lý để thực hiện đầy đủ các hoạt động theo phạm vi công việc được quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam”.
o) Có ý kiến cho rằng Dự thảo Luật quy định về quyền của doanh nghiệp: “b. Tham gia tổ chức nghề nghiệp trong nước và ngoài nước về thẩm định giá theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định về Hội nghề nghiệp về thẩm định giá (Điều 43) thì không thấy quy định về tổ chức nghề nghiệp ngoài nước, vì vậy đề xuất dùng từ “hội” và đề nghị sửa lại điểm b khoản 1 thành: “Tham gia hội nghề nghiệp trong nước và ngoài nước về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;” và trong Điều 43 cần bổ sung thêm một khoản về việc tham gia hội nghề nghiệp ngoài nước.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế tại Luật chỉ điều chỉnh đến hoạt động của các Hội nghề nghiệp về thẩm định giá trong nước; đối với hoạt động của các Hội nghề nghiệp về thẩm định giá nước ngoài hiện được thực hiện theo quy định quốc tế. Do vậy tại Luật chỉ quy định về quyền tham gia tự nguyện của các doanh nghiệp.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại Luật cũng đã chỉnh lý điểm b khoản 1 Điều 53 Dự thảo Luật cho rõ như sau: “Tham gia hội nghề nghiệp, tổ chức nghề nghiệp trong nước và ngoài nước về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;”
p) Có một số ý kiến đề nghị Điều 52 Dự thảo Luật nội dung bổ sung quy định về công bố danh sách các tiêu chí đánh giá, phương pháp đánh giá kèm kết quả cập nhật hàng năm trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính hoặc Quy định bổ sung thiết chế, cơ chế đánh giá tín nhiệm đối với thẩm định viên và công ty thẩm định giá thực hiện bởi bên thứ ba kèm theo yêu cầu công khai thông tin đánh giá lên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH cần có quy định về vấn đề đánh giá chất lượng dịch vụ thẩm định giá; tuy vậy đây là vấn đề thuộc khâu tổ chức thực hiện, cần sự linh hoạt trong triển khai và quy định nên xin giao cho Bộ Tài chính quy định cụ thể. Trên cơ sở đó, tại khoản 10 Điều 14 đã có chỉnh lý, bổ sung như sau: “e) Quản lý hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá; quản lý nhà nước trong lĩnh vực thẩm định giá đối với hội nghề nghiệp về thẩm định giá theo quy định của pháp luật; quy định về việc đánh giá hoạt động doanh nghiệp thẩm định giá.”.
q) Có ý kiến đề nghị khoản 2 Điều 52 có 02 vấn đề cần được khắc phục: (1) Phải xác định khoảng thời gian doanh nghiệp thẩm định giá phải báo cáo Bộ Tài chính (ví dụ trong thời hạn 7 ngày) khi không đáp ứng một trong các điều kiện quy định tại Điều 49, Điều 50 Luật này; (2) Việc xác định mốc thời gian để doanh nghiệp thẩm định giá khắc phục một trong các điều kiện không đáp ứng theo quy định tối đa 03 tháng kể từ ngày không đủ điều kiện là không rõ ràng mà Dự thảo Luật cần xác định một mốc thời gian chặt chẽ hơn như tối đa 03 tháng kể từ ngày có báo cáo cho Bộ Tài chính.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại khoản 2 Điều 52 đã bổ sung quy định như sau: “2. Doanh nghiệp thẩm định giá phải báo cáo Bộ Tài chính chậm nhất sau 10 ngày kể từ ngày không đáp ứng một trong các điều kiện quy định tại Điều 49, Điều 50 Luật này nhưng không thuộc quy định tại Điều 54 Luật này, đồng thời khắc phục trong thời hạn tối đa 03 tháng kể từ ngày không đủ điều kiện. Trong thời gian khắc phục, hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện như sau:”. Về cơ bản, thời gian 10 ngày để thông báo là phù hợp với thực tiễn. Đồng thời thời gian khắc phục xin giữ như Dự thảo Luật (kể từ ngày không đủ điều kiện) để đảm bảo đúng với các nguyên tắc về xử lý vi phạm hiện hành.
r) Có ý kiến đề nghị điểm b khoản 2 Điều 54 cần làm rõ cụm từ “trong thời hạn 01 năm” là kể từ ngày ký kết hợp đồng dịch vụ thẩm định giá nhưng doanh nghiệp thẩm định giá không phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá hay là không có hợp đồng dịch vụ thẩm định giá nào trong 01 năm dẫn đến không phát hành được Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Quy định về việc thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp trong trường hợp không phát hành chứng thư thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá trong thời hạn 1 năm nhằm hướng đến việc tăng cường chặt chẽ các điều kiện hoạt động, tránh tình trạng “chộp giật” làm giảm uy tín chất lượng ngành nghề. Hiện quy định này được thiết kế theo hướng xét cả thời gian 1 năm nếu không phát hành chứng thư (kể cả do không có hợp đồng).
t) Có ý kiến đề nghị xem xét, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 56 dự thảo về quyền được phản ánh về chất lượng cung cấp dịch vụ của đơn vị thẩm định giá; bổ sung quy định việc phản ánh về chất lượng cung cấp dịch vụ của đơn vị thẩm định giá tại các địa phương để làm cơ sở cho Bộ, cơ quan quản lý nhà nước xem xét điều kiện hoạt động của các đơn vị thẩm định giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế quyền phản ánh về chất lượng của doanh nghiệp cũng đã được thể hiện trong các quyền về khiếu nại, tố cáo được quy định tại quyền của khách hàng thẩm định giá. Do đó, xin không đưa quy định này vào dự thảo để tránh sự trùng lặp.
15. Về thẩm định giá của Nhà nước
15.1. Có ý kiến đề nghị hạn chế tối đa việc thành lập Hội đồng thẩm định giá, chỉ thành lập trong trường hợp phải thực hiện giám định tư pháp hoặc trong trường hợp không thuê được hàng hóa hoặc không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Luật Giá hiện hành và Dự thảo Luật sửa đổi không có quy định bắt buộc các trường hợp cụ thể phải thẩm định giá nhà nước. Luật chỉ quy định cơ chế thực hiện thẩm định giá Nhà nước trong các trường hợp khi phát sinh phải thẩm định giá theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Như vậy, cơ sở pháp lý để xác định các trường hợp phải thẩm định giá của Nhà nước là phải theo pháp luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, kết quả thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá của Nhà nước mang tính chất tư vấn cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định, hoạt động này cũng tương tự với vai trò tham mưu trong thực thi công vụ. Hoạt động thẩm định giá được thực hiện nhằm cung cấp thêm thông tin cho người có quyền quyết định giá tài sản. Do đó, kết quả thẩm định giá không mang tính bắt buộc phải thực hiện mà chỉ là một trong những cơ sở để các bên xem xét, quyết định, phê duyệt giá tài sản và Hội đồng phải chịu trách nhiệm kết quả thẩm định giá bảo đảm tuân thủ chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, để bảo đảm chặt chẽ, minh bạch, Dự thảo Luật đã được chỉnh lý và quy định về phạm vi thẩm định giá Nhà nước tại Điều 59
[60] và bổ sung làm rõ nhiều quy định liên quan đến Hội đồng thẩm định giá Nhà nước tại Điều 60
[61] Dự thảo Luật.
Đối với đề nghị mở rộng phạm vi quy định các trường hợp phải thực hiện thẩm định giá của Nhà nước, đối với tính chất của hoạt động mang tính tư vấn để xác định giá thì việc giới hạn phạm vi như tại Luật là phù hợp. Đối với các hoạt động xác định giá khác để làm căn cứ cho xử lý các vụ việc… sẽ thực hiện theo quy định tại các Luật chuyên ngành (như hiện nay đã có quy định về định giá tài sản trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự…). Do đó xin giữ phạm vi thẩm định giá của Nhà nước như tại dự thảo.
15.2. Có ý kiến cho rằng, quy định về trách nhiệm trong thẩm định giá của nhà nước còn chưa rõ ràng; đề nghị bổ sung quy định vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng định giá Nhà nước, đối tượng cụ thể của thẩm định giá Nhà nước
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Về hoạt động thẩm định giá của Nhà nước thì Luật không đặt ra các trường hợp cụ thể phải thẩm định giá, mà quy định về mặt nguyên tắc và đưa ra cơ chế thực hiện thẩm định giá của Nhà nước. Nếu liệt kê tại Luật Giá các trường hợp phải thẩm định giá của Nhà nước thì sẽ bị bó hẹp, không đầy đủ. Do đó, các trường hợp cụ thể phải thẩm định giá của Nhà nước sẽ theo pháp luật chuyên ngành và phân cấp, phân quyền của các Bộ, ngành và địa phương. Đối với trách nhiệm của Hội đồng thẩm định giá Nhà nước, kết quả thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá Nhà nước mang tính chất tư vấn cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định, hoạt động này cũng tương tự với vai trò tham mưu trong thực thi công vụ. Hoạt động thẩm định giá được thực hiện nhằm cung cấp thêm thông tin cho người có quyền quyết định giá tài sản, do đó, kết quả thẩm định giá không mang tính bắt buộc phải thực hiện mà chỉ là một trong những cơ sở để các bên xem xét, quyết định, phê duyệt giá tài sản. Cơ quan cơ thẩm quyền quyết định giá xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, để bảo đảm cơ sở pháp lý, chặt chẽ, minh bạch, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS và Cơ quan soạn thảo chỉnh lý, bổ sung quy định tại Dự thảo Luật và thể hiện cụ thể tại Điều 62 quy định về quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thẩm định giá, Điều 64 quy định về quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thẩm định giá và khoản 1 Điều 64
[62] của Dự thảo Luật mới.
15.3. Có ý kiến đề nghị nên quy định cơ quan chuyên môn về thẩm định giá thuộc cơ quan tài chính hoặc trách nhiệm tham gia của cơ quan tài chính trong Hội đồng thẩm định giá. Có ý kiến cho rằng, Hội đồng thẩm định giá chỉ cần 01 người là thẩm định viên về giá là không hợp lý trong trường hợp giá trị thẩm định giá lớn… hội đồng thẩm định giá Nhà nước thì bắt buộc phần lớn thành viên phải là người có chuyên môn về thẩm định giá, có thể mời thêm một số người khác để tham khảo ý kiến.
UBTVQH cho rằng, việc đánh giá thực tiễn thực hiện hoạt động này cho thấy việc thẩm định giá tài sản phải được gắn với trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản để tăng cường trách nhiệm của cá nhân, tổ chức được giao quản lý, sử dụng tài sản công, mua sắm công. Thực tế hiện các nội dung về nhà nước về giá cũng theo nguyên tắc tăng cường phân công, phân cấp trong tổ chức thực hiện, nhất là đối với các nhiệm vụ cụ thể. Vì vậy, xin được tiếp thu theo hướng bổ sung quy định về quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập Hội đồng thẩm định giá được thuê chuyên gia có chứng nhận về chuyên môn làm thành viên Hội đồng thẩm định giá
[63].
Về tiêu chuẩn số lượng thành viên có chứng chỉ chuyên môn về thẩm định giá tham gia Hội đồng, UBTVQH xin tiếp thu, sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 60 về tiêu chuẩn thành viên từ
“Hội đồng thẩm định giá phải có tối thiểu 03 thành viên, trong đó phải có thành viên có một trong các chứng nhận chuyên môn sau” thành
“Hội đồng thẩm định giá phải có ít nhất 50% thành viên bao gồm Chủ tịch Hội đồng thẩm định giácó ít nhất một trong các chứng nhận chuyên môn sau…”. Đồng thời, để đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện, tại Dự thảo Luật cũng bổ sung hiệu lực thi hành của quy định này sau 18 tháng kể từ ngày Luật sửa đổi có hiệu lực thi hành
[64].
15.4. Về quy định số lượng thành viên có chứng nhận chuyên môn nhằm tham gia các Hội đồng thẩm định giá của Nhà nước, hiện còn nhiều ý kiến khác nhau của các ĐBQH, trong đó có đại biểu để nghị giảm từ 50% còn 30%; có đại biểu đề nghị tăng thành 65%; có ý kiến đề nghị quy định rõ các trường hợp về số lượng người có chứng chỉ chuyên môn trong khi biểu quyết của Hội đồng…
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Theo quy định của pháp luật về thẩm định giá hiện nay, Hội đồng thẩm định giá phải có ít nhất 01 thành viên có chứng nhận chuyên môn. Tuy nhiên trong quá trình đánh giá việc thực hiện Luật Giá 2012, cũng như trong quá trình lấy ý kiến đối với Dự thảo Luật đã có nhiều ý kiến đề nghị củng cố hơn về điều kiện chuyên môn của hội đồng thẩm định giá để phù hợp với tính chất của hoạt động này.
Chính vì vậy, trên cơ sở đánh giá việc tham gia hội đồng thẩm định giá phần lớn là các cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc và đã có những hiểu biết hoặc liên quan nhất định đến tài sản cần thẩm định giá tại Dự thảo Luật đã quy định Hội đồng thẩm định giá phải có ít nhất 50% thành viên bao gồm Chủ tịch Hội đồng thẩm định giá có chứng nhận chuyên môn. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ nội dung này như quy định tại Dự thảo Luật.
15.5. Có ý kiến đề nghị để kết quả thẩm định giá được chính xác, khách quan, cần thiết quy định thành viên của Hội đồng thẩm định giá của Nhà nước phải bao gồm ít nhất ba thành viên sau: (1) Đại diện đơn vị có tài sản cần thẩm định giá; (2) Đại diện đơn vị chuyên môn về quản lý giá, quản lý tài chính của cơ quan tài chính nhà nước; (3) Đại diện cơ quan, đơn vị nhà nước hoặc chuyên gia về ngành, lĩnh vực có liên quan đến tài sản cần định giá. Có ý kiến cho rằng, ở các địa phương có rất nhiều Hội đồng thẩm định giá khi thực hiện thẩm định giá trong các lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi chuyên môn khác nhau. Do đó, đề nghị cơ quan tiếp thu giải trình nghiên cứu quy định về hội đồng thẩm định giá cần gắn với chuyên môn, chuyên ngành cho phù hợp tình hình thực tế tại địa phương.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Do tính chất của hoạt động thẩm định giá của Nhà nước là tư vấn về chuyên môn cho người có thẩm quyền quyết định, phê duyệt giá tài sản cho nên cơ cấu của Hội đồng phải là những người thuộc quản lý có am hiểu về tài sản. Dự thảo Luật đã quy định cụ thể liên quan đến tiêu chuẩn chuyên môn, như: Hội đồng thẩm định giá phải có ít nhất 50% thành viên bao gồm Chủ tịch Hội đồng thẩm định giá có chứng nhận chuyên môn; người có thẩm quyền thành lập Hội đồng thẩm định giá có thể thuê chuyên gia tham gia Hội đồng hoặc Hội đồng thuê các đơn vị tư vấn để thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá. Bên cạnh đó, quy định tại Dự thảo Luật cũng góp phần gắn chặt trách nhiệm của người có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt giá với thẩm quyền mua sắm, quản lý tài sản… từ đó góp phần tiết kiệm ngân sách, cũng như tối ưu nguồn lực xã hội. Như vậy, việc quy định phải có thêm đại diện của cơ quan quản lý giá, quản lý tài chính nhà nước tham gia Hội đồng là không cần thiết, thậm chí gây cản trở cho việc chủ động thành lập Hội đồng khi có phát sinh.
15.6. Khoản 1 Điều 60: có ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể thế nào là “trường hợp cần thiết có thể thuê người có chứng nhận chuyên môn quy định tại khoản 2 Điều này làm thành viên Hội đồng thẩm định giá”
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Trong hoạt động thẩm định giá sẽ có những trường hợp phức tạp cần có thêm sự trợ giúp của chuyên gia là người đã có chứng nhận về chuyên môn. Như vậy, khi nào thì cần sẽ do người có thẩm quyền thành lập Hội đồng căn cứ vào những trường hợp cụ thể để quyết định. Theo đó, tùy theo tính chất và đặc điểm của tài sản cần thẩm định giá, cũng như bối cảnh cụ thể của hoạt động thẩm định giá thì người có thẩm quyền quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá sẽ quyết định việc thuê chuyên gia tham gia Hội đồng thẩm định giá. Quy định này cũng góp phần gắn chặt trách nhiệm của người có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt giá với thẩm quyền mua sắm, quản lý tài sản.
15.7. Có ý kiến đề nghị điểm a khoản 1 Điều 61 bổ sung cụm từ “đáp ứng yêu cầu tại Khoản 1 Điều 60 Luật này” thành “Lựa chọn các cá nhân phù hợp trong cơ quan, tổ chức tham gia Hội đồng thẩm định giá đáp ứng yêu cầu tại Khoản 1 Điều 60 Luật này”
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại Dự thảo Luật đã chỉnh lý điểm a khoản 1 Điều 61 thành: “a) Lựa chọn các cá nhân đáp ứng yêu cầu quy định tại tại khoản 1, khoản 2 Điều 60 Luật này tham gia Hội đồng thẩm định giá;”
15.8. Có ý kiến bổ sung thêm quy định về quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thẩm định giá “Xem xét, quyết định sử dụng kết quả của đơn vị tư vấn, doanh nghiệp thẩm định giá” và “Rà soát, đánh giá việc tuân thủ về thu thập, phân tích thông tin, lựa chọn phương pháp thẩm định giá, lập Báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá trong trường hợp thuê thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá”.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, các nội dung này đã được thể hiện tại điểm c khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 62 Dự thảo Luật như sau:
“Điều 62. Quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thẩm định giá
1. Hội đồng thẩm định giá có quyền:
…
c) Xem xét, quyết định sử dụng kết quả của đơn vị tư vấn, doanh nghiệp thẩm định giá;
2. Hội đồng thẩm định giá có nghĩa vụ:
…
b) Rà soát, đánh giá việc tuân thủ về thu thập, phân tích thông tin, lựa chọn phương pháp thẩm định giá, lập Báo cáo thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá trong trường hợp thuê thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá”.
15.9. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm một Điểm vào Khoản 1, Điều 62 quy định về quyền của Hội đồng thẩm định giá “Từ chối việc thẩm định giá tài sản trong trường hợp không có đủ thông tin, tài liệu liên quan theo quy định tại Điểm a, Khoản 1 Điều này” để đảm bảo đầy đủ quyền của Hội đồng thẩm định giá nhà nước. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể phương án xử lý đối với trường hợp này và các trường hợp Hội đồng không có đủ thông tin khảo sát giá hàng hóa.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hoạt động thẩm định giá của Nhà nước do Hội đồng thẩm định giá thực hiện. Người có thẩm quyền xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá khi bán, thanh lý, cho thuê, liên doanh, liên kết tài sản công hoặc mua, đi thuê hàng hóa, dịch vụ, tài sản có sử dụng vốn nhà nước sẽ quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá nếu cần thiết để giúp cho mình có đầy đủ thông tin trước khi xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá. Các thành viên tham gia Hội đồng thẩm định giá ngoài chuyên gia được thuê (nếu có) thì Cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập Hội đồng thẩm định giá lựa chọn các cá nhân phù hợp trong cơ quan, tổ chức của mình tham gia Hội đồng. Việc thực hiện thẩm định giá của Hội đồng tương tự như thực hiện công vụ, do đó nếu khó khăn, vướng mắc trong thực hiện thì có quyền báo cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập Hội đồng (quy định tại khoản 1 Điều 62) để có biện pháp xử lý phù hợp với đặc điểm của tài sản cần thẩm định giá, cũng như bối cảnh cụ thể tại thời điểm thẩm định giá.
Bên cạnh đó, khi mua, đi thuê hàng hóa, dịch vụ, tài sản có sử dụng vốn nhà nước theo quy định của pháp luật về đấu thầu thì có nhiều phương thức xác định giá khác nhau, phương thức thẩm định giá của nhà nước chỉ là một trong các phương thức được người có thẩm quyền lựa chọn.
15.10. Điểm b, Khoản 1, Điều 62 dự thảo quy định Hội đồng thẩm định giá được “thuê doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá”. Có ý kiến cho rằng thực tế trong hoạt động thẩm định giá, những trường hợp Hội đồng thẩm định giá thuê lại doanh nghiệp thẩm định giá sẽ làm tăng chi phí thẩm định, gây tốn kém cho ngân sách nhà nước và dễ phát sinh tiêu cực, né tránh trách nhiệm. Vì vậy, đề nghị bỏ quy định cho Hội đồng thẩm định giá được thuê doanh nghiệp thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá mà nên quy định theo hướng xác định những nội dung công việc nào doanh nghiệp thẩm định giá làm được thì để cho doanh nghiệp trực tiếp làm, trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định; những việc nào phải do Hội đồng thẩm định giá thực hiện và chịu trách nhiệm.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy trong nhiều trường hợp tài sản thẩm định giá rất phức tạp, đòi hỏi cần có thời gian để khảo sát, thu thập và phân tích đánh giá thông tin kỹ lưỡng. Chính vì vậy, tùy theo đặc điểm của từng tài sản thẩm định giá, cũng như bối cảnh cụ thể, Hội đồng thẩm định giá có thể thuê các đơn vị tư vấn để giúp Hội đồng thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá nhằm giúp Hội đồng hoạt động hiệu quả hơn là cần thiết. Như vậy, khi phát sinh thì đòi hỏi phải có nguồn kinh phí cũng là phù hợp. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho giữ như Dự thảo.
15.11. Có ý kiến đề nghị khoản 2 Điều 64 bổ sung thêm quy định cụ thể về “Thời hạn thông báo kết quả thẩm định giá” kể từ khi kết thúc việc thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá đối với tài sản, hàng hoá, dịch vụ liên quan. Có ý kiến đề nghị xem xét, bổ sung quy định về quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân “yêu cầu Hội đồng thẩm định giá thông báo kết quả định giá” để đảm bảo đầy đủ các quy định pháp luật khi triển khai thực hiện.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Hội đồng thẩm định giá được người có thẩm quyền xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá thành lập khi cần thiết để giúp có đầy đủ thông tin trước khi xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá. Các thành viên tham gia Hội đồng thẩm định giá ngoài chuyên gia được thuê (nếu có) thì Cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập Hội đồng thẩm định giá lựa chọn các cá nhân phù hợp trong cơ quan, tổ chức của mình tham gia Hội đồng; việc thực hiện thẩm định giá của Hội đồng tương tự như thực hiện công vụ. Do đó, việc yêu cầu Hội đồng báo cáo và thời hạn báo cáo thuộc khâu tổ chức thực hiện và do người thành lập quyết định xin không quy định tại Dự thảo Luật.
15.12. Dự thảo Luật quy định “Trong trường hợp cần thiết quyết định thành lập Tổ giúp việc cho Hội đồng”. Đề nghị bổ sung thêm cụm từ “thẩm định giá” vào sau từ “Hội đồng” để đảm bảo thống nhất thuật ngữ sử dụng trong quy định của Dự án luật.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến ĐBQH và thể hiện tại điểm c khoản 1 Điều 61: “c) Trong trường hợp cần thiết quyết định thành lập Tổ giúp việc cho Hội đồng thẩm định giá;”
15.13. Một số ý kiến đề nghị có quy định rõ các phương pháp và cơ sở xác định giá của Hội đồng thẩm định giá trong hoạt động thẩm định giá nhà nước. Vì thực tế, hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thẩm định giá được thực hiện có quy mô, có số lượng thẩm định viên về giá đạt tiêu chuẩn hành nghề có thẻ thẩm định viên về giá, cung cấp dịch vụ, được thương lượng giá cung cấp dịch vụ thẩm định giá và có quyền từ chối thực hiện dịch vụ thẩm định giá đối với yêu cầu khách hàng. Trong khi đó, Hội đồng thẩm định giá nhà nước chủ yếu là các cán bộ, công chức chuyên trách, kiêm nhiệm, điều kiện để thực hiện việc thẩm định giá theo quy mô như các doanh nghiệp là rất khó thực hiện. Đề nghị giao Chính phủ, Bộ Tài chính có hướng dẫn cụ thể về quy trình, phương pháp thẩm định giá đối với hoạt động thẩm định giá nhà nước.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế hiện nay các quy định về phương pháp, nội dung công việc thẩm định giá đã được quy định hoàn thiện, đồng bộ tại hệ thống Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam (sẽ được công nhận là Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam sau khi Luật có hiệu lực). Theo đó dù là doanh nghiệp thẩm định giá hay Hội đồng thẩm định giá đều sẽ thực hiện thống nhất theo hệ thống quy định hướng dẫn này để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ. Hiện tại Luật đã giao Bộ Tài chính ban hành Chuẩn mực thẩm định giá.
15.14. Có ý kiến đề nghị xem xét quy định về Hội đồng thẩm định giá nên tổ chức có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Quy định cấp thẩm quyền ban hành quyết định Hội đồng thẩm định giá từng cấp, phân cấp giá trị tài sản định giá theo từng khung giá trị để giao Hội đồng định giá từng cấp cho phù hợp.
UBTVQH xin báo cáo như sau:
Một trong các thay đổi tại Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) là hướng đến việc tăng cường phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá. Đối với hoạt động thẩm định giá nhà nước thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quyết định giá sẽ là người trực tiếp thành lập Hội đồng thẩm định giá theo nhu cầu (thay vì giao cho các cơ quan tài chính như trước đây sẽ dẫn đến quá tải, không đảm bảo cho khâu tổ chức thực hiện). Tại Luật đã quy định đầy đủ về các nguyên tắc này đảm bảo cho việc thành lập các hội đồng trong trường hợp cần thiết.
15.15. Có ý kiến đề nghị đối với khoản 1 Điều 59, để tránh hiểu lầm việc thực hiện giá gói thầu phải thông qua Hội đồng thẩm định giá của Nhà nước, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 11 Thông tư số 58/2016/TT-BTC (được sửa đổi tại khoản 7 Điều 1 Thông tư số 68/2022/TT-BTC) thì đề nghị bỏ đoạn: “hoặc mua, đi thuê hàng hóa, dịch vụ, tài sản có sử dụng vốn nhà nước”.
UBTVQH xin báo cáo như sau:
Hoạt động mua, đi thuê hàng hóa, dịch vụ tài sản sử dụng vốn nhà nước hiện được quy định phải thực hiện đấu thầu. Trong đó việc xác định giá gói thầu được thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu hiện này. Để làm cơ sở cho việc xác định giá gói thầu thì tại Thông tư số 68/2022/TT-BTC cũng quy định về một trong các cơ sở này là kết quả thẩm định giá của Nhà nước. Do đó tại Luật vẫn cần đảm bảo quy định cụ thể về vấn đề này, đồng thời tại khoản 1 Điều 59 Dự thảo Luật cũng đã quy định rõ về việc thẩm định giá của Nhà nước không phải là hoạt động bắt buộc mà chỉ được thực hiện khi cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quyết định, phê duyệt giá lựa chọn sử dụng phương thức này làm một trong các cơ sở để xem xét quyết định, phê duyệt giá. Tuy nhiên cần xác định rõ việc thực hiện thẩm định giá của Nhà nước chỉ để tư vấn cho người có thẩm quyền phê duyệt giá gói thầu (không phải là người quyết định giá). Do đó đảm bảo không chồng chéo với Luật Đấu thầu.
15.16. Có ý kiến đề nghị để thuận tiện trong quá trình triển khai thực hiện, điểm d khoản 1 Điều 66 đề nghị sửa lại để làm rõ về các tài liệu liên quan trong trường hợp thuê doanh nghiệp thẩm định giá và thuê chuyên gia tham gia Hội đồng.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại điểm d khoản 1 Điều 66 Dự thảo Luật đã chỉnh lý như sau: “Các tài liệu do hội đồng thẩm định giá thu thập, phân tích trong quá trình thẩm định giá; các báo cáo chuyên gia, chứng thư thẩm định giá kèm Báo cáo thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá (nếu có);”.
Đối với chuyên gia tham gia Hội đồng với tư cách là thành viên Hội đồng thì sẽ có trách nhiệm, nghĩa vụ được quy định tại Điều 63. Do đó các ý kiến chuyên gia trong trường hợp này cũng chính là ý kiến của thành viên Hội đồng thể hiện ở báo cáo thẩm định giá và thông báo kết quả thẩm định giá.
16. Về tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
16.1. Có ý kiến đề nghị đánh giá tác động về nguồn lực ngân sách nhà nước đối với việc bố trí ngân sách để đầu tư xây dựng, vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá; cũng có ý kiến đề nghị cần phải có nguồn từ ngân sách nhà nước để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá. Có ý kiến đề nghị làm rõ cơ chế thu, mức thu từ người truy cập vào cơ sở dữ liệu, phương án sử dụng nguồn thu này. Có ý kiến đề nghị cân nhắc không quy định kinh phí hỗ trợ cho hoạt động này vào Dự thảo Luật Giá.
UBTVQH xin báo cáo như sau:
Đối với các nội dung đánh giá về chi phí đối với việc xây dựng cơ sở dữ liệu đã được đánh giá cụ thể tại Tờ trình Quốc hội như sau: Các quy định về trách nhiệm triển khai, xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá đã được quy định từ Luật Giá hiện hành
[65]; thực tế hiện nay Bộ Tài chính đã thực hiện xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá (hiện đang hoàn thành giai đoạn 2 và đi vào hoạt động); mặt khác trong giai đoạn vừa qua đã có 40 Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai xây dựng các cơ sở dữ liệu này để phục vụ công tác quản lý giá trên địa bàn cũng như kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá; các địa phương còn lại đều đã xây dựng và có dự toán phục vụ cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương. Do vậy, việc Luật hóa các quy định về cơ sở dữ liệu sẽ không làm phát sinh thêm các chi phí, nguồn nhân lực để bảo đảm thi hành Luật. Việc quy định các vấn đề về kinh phí tại Điều 39 của Dự thảo Luật là nhằm đảm bảo các cơ sở pháp lý việc triển khai trong thực tiễn và cũng phù hợp với ý kiến của một số ĐBQH.
Đối với cơ chế thu, mức thu từ người truy cập Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá, hiện nay tại Dự thảo Luật đã có quy định về việc định giá đối với “Sản phẩm, dịch vụ khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin do bộ, ngành quản lý theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân” và do Bộ, ngành được giao quản lý cơ sở dữ liệu định giá; việc triển khai trong thực tế thuộc khâu tổ chức thực hiện và sẽ do các Bộ, ngành quy định chi tiết, đảm bảo quy định tại Luật Giá và các văn bản liên quan.
Đối với hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường thực tế có tính chất một phần là công vụ của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy quản lý nhà nước; tuy vậy công tác dự báo với đòi hỏi chuyên môn sâu, quá trình nghiên cứu phức tạp gắn với công tác thu thập, tổng hợp phân tích thông tin chuyên sâu từ nhiều nguồn, thậm chí phải mua để phục vụ nhiệm vụ quản lý, điều hành giá. Do đó cần thiết có kinh phí cho hoạt động này để hỗ trợ các cơ quan trong quá trình tổ chức thực hiện; các quy định này cũng phù hợp với thực tế, tương đồng với một số nội dung như xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.... Thực tiễn trong và ngoài nước, nhiều cơ quan, tổ chức chuyên về nghiên cứu cũng phải có nguồn lực tài chính phù hợp với có thể triển khai tốt nhiệm vụ này. Về tổng nguồn lực bảo đảm cho công tác thi hành không lớn, không đặt áp lực cho ngân sách nhà nước và lại có hiệu quả lớn, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, ổn định giá cả thị trường.
16.2. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý lại khoản 1 Điều 38 để phù hợp với thực tiễn triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương.
UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý, thể hiện tại Điều 38 như sau: “1. Cơ sở dữ liệu về giá gồm Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương. 2. Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được xây dựng phục vụ công tác quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá và các nhu cầu của xã hội, do Bộ Tài chính thống nhất quản lý. Thông tin được cung cấp từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá là một trong các nguồn thông tin phục vụ công tác quản lý nhà nước và nhu cầu của xã hội. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu được đề nghị cung cấp thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và thanh toán chi phí theo quy định của Bộ Tài chính.”
16.3. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý khoản 3 Điều 39 sửa cụm từ “Bộ Tài chính” thành “Bộ trưởng Bộ Tài chính” và tại một số nội dung tương tự tại Luật để bảo đảm phù hợp với thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
UBTVQH xin tiếp thu và đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan soạn thảo cùng các cơ quan liên quan rà soát toàn diện và chỉnh lý các nội dung liên quan tại Dự thảo Luật.
16.3. Có ý kiến đề nghị chỉnh lý khoản 3 Điều 39 sửa cụm từ “Bộ Tài chính” thành “Bộ trưởng Bộ Tài chính” và tại một số nội dung tương tự tại Luật để bảo đảm phù hợp với thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Tiếp thu ý kiến của các ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan rà soát toàn diện, chỉnh lý các nội dung liên quan tại Dự thảo Luật.
17. Về kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá
17.1. Có ý kiến cho rằng, tại Chương 7 cần rà soát bổ sung thêm 1 số nội dung; làm rõ hơn vai trò cơ quan tham gia trong việc kiểm tra, hậu kiểm, giám sát tuân thủ việc thực thi pháp luật, xử phạt khi vi phạm. Cân nhắc bổ sung một điều về xử lý vi phạm pháp luật về giá, chỉnh lý quy định về nguyên tắc kiểm tra.
UBTVQH xin báo cáo như sau:
Trên cơ sở tiếp thu tối đa ý kiến ĐBQH, nhất là các ý kiến tham gia trực tiếp vào Dự thảo, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp với Cơ quan soạn thảo chỉnh lý tại Chương 7 các nội dung về nguyên tắc kiểm tra, kết quả kiểm tra và trách nhiệm xử lý
[66] bảo đảm rõ ràng, minh bạch hơn, tạo thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện.
Mặt khác, về nội dung thanh tra chuyên ngành về giá, tại Dự thảo Luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ để trình Quốc hội bỏ nội dung này khỏi Luật để thực hiện thống nhất theo các quy định của Luật Thanh tra 2010. Tuy nhiên, trên cơ sở rà soát các quy định tại Luật Thanh tra vừa được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 4
[67], UBTVQH cho rằng, cần quy định cụ thể nội dung thanh tra chuyên ngành về giá tại Luật Giá vì các lý do: (i) nhằm tăng cường công tác hậu kiểm, ngăn ngừa, xử lý kịp thời các sai phạm trong lĩnh vực giá; (ii) để tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập các đơn vị thanh tra chuyên ngành theo đúng quy định của Luật Thanh tra
[68] . Do đó, xin được bổ sung lại các quy định về thanh tra chuyên ngành về giá tại nội dung của Chương này. Về cơ bản các nội dung về mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc và việc triển khai thanh tra đã được quy định rõ tại Luật Thanh tra nên tại Luật Giá chỉ quy định mang tính nguyên tắc, dẫn chiếu từ Luật Thanh tra và có quy định rõ thêm về thẩm quyền thực hiện thanh tra chuyên ngành để tạo thuận lợi cho việc triển khai.
17.2. Có ý kiến đề nghị xem xét lại tính quy phạm pháp luật cũng như sự cần thiết của quy định về mục tiêu, yêu cầu kiểm tra vì thông thường các mục tiêu, yêu cầu của việc kiểm tra chấp hành pháp luật sẽ được đặt ra tại các kế hoạch kiểm tra cụ thể, không cần thiết quy định trong luật.
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế nội dung kiểm tra chấp hành pháp luật về giá là một nội dung chính sách mới tại Luật, do vậy việc thể chế các quy định liên quan đến nội dung này cần phải được thực hiện đầy đủ, toàn diện. Theo đó tại Luật cần đặt ra quy định về mục tiêu, yêu cầu kiểm tra là một trong những nguyên tắc, cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện hoạt động này.
17.3. Tại điểm a, khoản 2 Điều 68, có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc kiểm tra đột xuất việc chấp hành pháp luật về giá theo yêu cầu công tác quản lý nhà nước hoặc phát hiện dấu hiệu vi phạm.
UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý điểm a, khoản 2 Điều 68 như sau: “Thực hiện theo kế hoạch hoặc theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền hoặc khi phát hiện vi phạm, dấu hiệu vi phạm…”. Theo đó đã bao gồm các trường hợp kiểm tra đột xuất theo thẩm quyền hoặc khi phát hiện các dấu hiệu sai phạm từ các tổ chức, cá nhân.
17.4. Một số ý kiến đề nghị chỉnh lý cụ thể đối với quy định tại Điều 71.
UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý tại Điều 72 Dự thảo Luật kỳ 5 như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
2. Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này, ngoài việc bị xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều này còn bị đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng.
3. Chính phủ quy định chi tiết về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá.”
18. Về quy định về bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một số Luật có liên quan (Điều 73); hiệu lực thi hành (Điều 74); quy định chuyển tiếp (Điều 75).
18.1 Về việc bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một số Luật có liên quan
UBTVQH xin báo cáo: Tại Điều 73 Dự thảo Luật đã chỉnh lý so với Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 và quy định sửa đổi, bãi bỏ một số điều khoản tại 13 luật khác bao gồm: (1) Luật Hàng không dân dụng. (2) Luật Hàng hải Việt Nam. (3) Luật Đường sắt. (4) Luật Lâm nghiệp. (5) Luật Thủy lợi. (6) Luật Giao thông đường bộ. (7) Luật Bảo vệ môi trường. (8) Luật Điện lực. (9) Luật Công chứng. (10) Luật Đấu giá tài sản. (11) Luật Quy hoạch. (12) Luật Phí, lệ phí. (13) Luật Chuyển giao công nghệ. Các quy định này nhằm hướng đến việc đảm bảo đồng bộ trong hệ thống pháp luật hiện hành khi tại Luật Giá (sửa đổi) đã chỉnh lý nhiều quy định liên quan đến hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, thẩm quyền, hình thức định giá.
Trên cơ sở đó, có một số ý kiến của ĐBQH đề nghị chỉnh lý chi tiết tại Điều này. Tiếp thu ý kiến các ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS phối hợp Cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan để chỉnh lý nhằm đảm bảo đồng bộ trong hệ thống pháp luật về giá hiện hành cũng như đảm bảo kỹ thuật lập pháp theo quy định.
18.2 Về hiệu lực thi hành
UBTVQH xin báo cáo như sau:
Tại Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật đã trình Quốc hội đã đề xuất thời hạn hiệu lực của Luật là từ 01/01/2024 trên cơ sở đánh giá các nội dung chính sách sách quy định. Tuy nhiên qua thực tế công tác soạn thảo, đánh giá chi tiết hơn đối với tác động từ các thay đổi của Luật đến các người dân, doanh nghiệp và các cơ quan, đơn vị, UBTVQH xin điều chỉnh thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật sửa đổi từ ngày 01 tháng 07 năm 2024 với các lý do:
Thứ nhất, các quy định tại Luật Giá (sửa đổi) thay đổi nhiều về cơ chế triển khai, tổ chức thực hiện của các Bộ, ngành, địa phương, nhất là đối với các vấn đề liên quan đến định giá của Nhà nước, các hàng hóa, dịch vụ đưa vào, đưa ra khỏi Danh mục phải thay đổi về cơ chế quản lý. Do vậy, cần có thời gian để đảm bảo xây dựng đầy đủ các cơ chế quản lý chi tiết, phù hợp với tính chất của từng hàng hóa, dịch vụ theo từng ngành, lĩnh vực. Thực tế nội dung này cũng tương đồng như Luật Phí, lệ phí khi đưa nhiều hàng hóa chuyển từ cơ chế phí sang quản lý theo cơ chế giá cũng cần thời gian để xây dựng hoàn thiện các cơ chế triển khai.
Thứ hai, công tác thẩm định giá của Nhà nước với các thay đổi về cơ chế triển khai cũng cần được chuẩn bị kỹ lưỡng về các điều kiện chuyên môn (về chứng chỉ nghiệp vụ quy định tại khoản 2 Điều 60 Dự thảo Luật) của các cấp thực hiện; đặc biệt là khi tại luật đã tăng cường phân công, phân cấp đến từng đơn vị triển khai mua, bán tài sản là đơn vị trực tiếp thành lập hội đồng thẩm định giá.
Thứ ba, công tác quản lý giá phức tạp, liên quan đến nhiều Bộ, ngành, địa phương, cũng như tác động đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau trên phạm vi cả nước; đồng thời cũng trực tiếp tác động đến đời sống của Nhân dân, doanh nghiệp. Do vậy việc chuẩn bị các quy định chi tiết cần được thực hiện thận trọng, đảm bảo tránh xáo trộn, ảnh hưởng đến các chủ thể trong tổ chức thực hiện.
18.3 Về quy định chuyển tiếp
Tại Điều 75 Dự thảo Luật tiếp tục củng cố 04 khoản quy định chuyển tiếp quy định tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định chuyển tiếp đối với Thẻ thẩm định viên về giá được cấp trước khi Luật này có hiệu lực sẽ được công nhận là Thẻ thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp. Người có Thẻ thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp được đăng ký hành nghề cả hai lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật này.
Đồng thời tại Dự thảo Luật cũng bổ sung nội dung chuyển tiếp đối với các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, cụ thể tại khoản 4 Điều 75 Dự thảo Luật quy định: “4. Các Tiêu chuẩn thẩm định giá đã được ban hành theo quy định của Luật Giá số 11/2012/QH13 được công nhận là Chuẩn mực thẩm định giá theo quy định tại Điều 42 Luật này và tiếp tục được áp dụng cho đến khi có Chuẩn mực thẩm định giá thay thế được ban hành hoặc tối đa cho đến ngày 01 tháng 07 năm 2025”. Các Tiêu chuẩn thẩm định giá là những quy định mang tính chuyên môn, nghiệp vụ của hoạt động thẩm định giá và không bị thay đổi bởi các chính sách mới tại Luật sửa đổi nên vẫn có thể được áp dụng trong thực tiễn công tác thẩm định giá; trong thời gian qua, các tiêu chuẩn thẩm định giá cũng thường xuyên được cập nhật, sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu của hoạt động thẩm định giá tại Việt Nam, cũng như phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Do đó, cùng với việc điều chỉnh tên gọi “Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam” thành “Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam” tại Điều 42 Dự thảo Luật, thì các Tiêu chuẩn ban hành trước khi Luật này có hiệu lực sẽ tiếp tục áp dụng đến khi được thay thế mới.
19. Về một số nội dung khác
Trên cơ sở ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Ủy ban TCNS cùng Cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan nghiêm túc tiếp thu tối đa, giải trình đầy đủ và thể hiện hợp lý các ý kiến của ĐBQH.Về kỹ thuật lập pháp cũng đã được hoàn thiện một bước trong Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp này.
Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Giá (sửa đổi). Ủy ban Thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
[1] Điều 16, Điều 18, Điều 22 tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4
[2] Điều 43, Điều 62, Điều 64, Điều 69, Điều 71, Điều 72 tại Dự thảo Luật
[4] Khoản 1, 2 Điều 8: “1. Tự định giá và điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá cụ thể. Được xem xét áp dụng nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá do Nhà nước quy định để định giá hàng hóa, dịch vụ.
2. Tự định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh theo khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, phù hợp với căn cứ, nguyên tắc, phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ quy định tại Luật này.”
[5] Ngày 06/03/2023, để bảo đảm tính thận trọng trong tiếp thu, thực hiện cơ chế phối hợp, Thường trực Ủy ban TCNS đã gửi Công văn số 1022/UBTCNS15 đề nghị Ủy ban Pháp luật tham gia ý kiến về Điều 3 Nguyên tắc áp dụng luật do đây là lĩnh vực Ủy ban Pháp luật phụ trách. Tại Công văn số 1521/UBPL15 ngày 08/03/2023, Thường trực Ủy ban Pháp luật đã nhất trí với nội dung Điều 3 của Dự thảo luật.
[6] Khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 3 Dự thảo Luật quy định:
“1. Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Giá và luật khác được ban hành trước ngày Luật Giá có hiệu lực thì thực hiện theo Luật Giá.
2. Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Giá có hiệu lực thi hành cần quy định đặc thù về quản lý, điều tiết giá khác với quy định tại Luật Giá thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định của Luật Giá, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.
3. Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Giá có hiệu lực thi hành có quy định bổ sung thêm hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì phải đánh giá tác động chính sách; hàng hóa, dịch vụ đó phải đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí quy định tại khoản 1 Điều 21 của Luật này; đồng thời quy định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm định giá, hình thức định giá của hàng hóa, dịch vụ đó, xác định cụ thể nội dung về căn cứ, phương pháp định giá, việc ban hành văn bản định giá thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định tại Luật Giá, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.”
[7] Khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 3 Dự thảo Luật quy định: “
1. Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Giá và luật khác được ban hành trước ngày Luật Giá có hiệu lực thì thực hiện theo Luật Giá.
2. Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Giá có hiệu lực thi hành cần quy định đặc thù về quản lý, điều tiết giá khác với quy định tại Luật Giá thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định của Luật Giá, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.
3. Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Giá có hiệu lực thi hành có quy định bổ sung thêm hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì phải đánh giá tác động chính sách; hàng hóa, dịch vụ đó phải đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí quy định tại khoản 1 Điều 21 của Luật này; đồng thời quy định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm định giá, hình thức định giá của hàng hóa, dịch vụ đó, xác định cụ thể nội dung về căn cứ, phương pháp định giá, việc ban hành văn bản định giá thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định tại Luật Giá, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.”
[8] Khoản 4 Điều 3 Dự thảo Luật: “
4. Việc định giá của Nhà nước đối với một số mặt hàng được thực hiện theo quy định của pháp luật khác có liên quan như sau: a) Giá đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai; b) Giá nhà ở được thực hiện theo quy định của pháp luật về nhà ở; c) Giá điện được thực hiện theo quy định của pháp luật về điện lực; d) Giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh; đ) Học phí, giá dịch vụ giáo dục được thực hiện theo quy định của pháp luật về giáo dục, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp;e) Tiền bản quyền khi khai thác, sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình trong trường hợp giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan, tiền đền bù đối với quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao theo quyết định bắt buộc trong trường hợp người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế và người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thỏa thuận được, tiền đền bù đối với quyền sử dụng giống cây trồng được chuyển giao theo quyết định bắt buộc được thực hiện theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.”
[9]Điểm c khoản 2 Điều 31 Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 quy định về chuyển nhượng vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp như sau:
“c) Việc chuyển nhượng vốn đầu tư của doanh nghiệp tại công ty cổ phần chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán thì thực hiện đấu giá công khai. Trường hợp đấu giá công khai không thành công thì thực hiện chào bán cạnh tranh. Trường hợp chào bán cạnh tranh không thành công thì thực hiện theo phương thức thỏa thuận”
Điểm c khoản 2 Điều 38 Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 quy định chuyển nhượng vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên như sau:“c) Việc chuyển nhượng vốn tại công ty cổ phần chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán thực hiện đấu giá công khai. Trường hợp đấu giá công khai không thành công thì thực hiện chào bán cạnh tranh. Trường hợp chào bán cạnh tranh không thành công thì thực hiện theo phương thức thỏa thuận”
[10]Điểm d khoản 15 Điều 2 Nghị định số 140/2020/NĐ-CP ngày 30/11/2020 của Chính phủ hướng dẫn Luật số 69/2014/QH13 quy định:
“Việc xác định giá khởi điểm khi chuyển nhượng vốn: Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ lựa chọn ký hợp đồng thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về giá và thẩm định giá. Tổ chức có chức năng thẩm định giá được lựa chọn các phương pháp định giá thích hợp theo quy định của pháp Luật Giá và thẩm định giá để xác định giá khởi điểm; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm định giá”
[11]Điều 59 Dự thảo Luật:
“1. Thẩm định giá của Nhà nước thực hiện trong trường hợp pháp luật quy định được sử dụng phương thức này, đồng thời cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quyết định, phê duyệt giá lựa chọn sử dụng phương thức này làm một trong các cơ sở để xem xét quyết định, phê duyệt giá khi bán, thanh lý, cho thuê, liên doanh, liên kết tài sản công hoặc mua, đi thuê hàng hóa, dịch vụ, tài sản có sử dụng vốn nhà nước.2. Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt giá theo quy định của khoản 1 Điều này thành lập hội đồng thẩm định giá để thực hiện thẩm định giá của Nhà nước. 3. Hoạt động thẩm định giá của Nhà nước không áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá”.
[12] Khoản 3 Điều 17; khoản 3 Điều 20; khoản 5 Điều 21; khoản 3 Điều 24; khoản 6 điều 27; khoản 8 Điều 28; khoản 3 Điều 30; khoản 4 Điều 38; khoản 4 Điều 45; khoản 3 Điều 49; khoản 4 Điều 54; khoản 3 Điều 72 tại Dự thảo Luật
[13]Điều 17 Luật Giá hiện hành quy định:
“Trong trường hợp cần thiết, lập quỹ bình ổn giá đối với mặt hàng cần bình ổn giá thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá nhằm hỗ trợ bình ổn giá; sử dụng quỹ bình ổn giá khi giá của hàng hóa, dịch vụ đó biến động bất thường hoặc tác động xấu đến nền kinh tế và đời sống. Chính phủ quy định chi tiết về mặt hàng được lập quỹ bình ổn giá, việc lập, quản lý và sử dụng quỹ bình ổn giá.”
[14] Điều 23 Dự thảo Luật.
[15]Như: (1) Bổ sung dịch vụ sử dụng phà được đầu tư từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước do Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá tối đa theo phân cấp quản lý bến phà; (2) Bổ sung Sản phẩm, dịch vụ khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin do bộ, ngành quản lý theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân và giao các Bộ, ngành quản lý cơ sở dữ liệu thực hiện định giá; (3) Bổ sung Tiền đền bù đối với các trường hợp chuyển giao bắt buộc Bằng sáng chế, giống cây trồng theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ; (3) Chỉnh lý đưa lại vào Danh mục một số hàng hóa, dịch vụ đã đề xuất đưa ra khỏi phạm vi định giá theo ý kiến ĐBQH và đề xuất của các Bộ, ngành như dịch vụ đấu giá tài sản, dịch vụ theo yêu cầu liên quan đến việc công chứng, dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, dịch vụ môi giới, đưa người lao động đi nước ngoài (4) sửa đổi một số nội dung cụ thể khác về thẩm quyền, hình thức cho phù hợp với thực tế và một số nội dung về kỹ thuật lập pháp tại Bản so sánh Luật kèm theo.
[16] Khoản 1 Điều 24: “
1. Văn bản định giá hoặc điều chỉnh mức giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền định giá ban hành là văn bản hành chính; việc ban hành văn bản được thực hiện như sau: a) Lập phương án giá; b) Thẩm định phương án giá; c) Trình và ban hành văn bản định giá.”
[17]Bổ sung sách giáo khoa vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá khi sửa đổi Luật Giá. Tại Dự thảo Luật đã bổ sung tại STT 23 của Danh mục và giao Bộ Giáo dục và đào tạo định giá tối đa. Nội dung này đã được Bộ Giáo dục và đào tạo đánh giá chi tiết và đề xuất phương án về hình thức định giá tối đa là phù hợp với thực tiễn hiện nay.
[18] Khoản 5 Điều 27 Dự thảo Luật quy định:
“ Trong trường hợp bên mua và bên bán không thỏa thuận được mức giá và tiếp tục đề nghị cơ quan tổ chức hiệp thương giá định giá để hai bên thực hiện thì cơ quan tổ chức hiệp thương giá lập biên bản để các bên ký ghi nhận nội dung hội nghị hiệp thương giá. Bên bán có trách nhiệm lập phương án giá, lấy ý kiến bên mua và tổng hợp gửi cơ quan tổ chức hiệp thương giá rà soát, đánh giá, xem xét ban hành văn bản định giá để hai bên thực hiện. Các đơn vị có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu để cơ quan hiệp thương thực hiện định giá. Văn bản định giá của cơ quan tổ chức hiệp thương chỉ được áp dụng một lần cho đúng đối tượng đề nghị hiệp thương, theo đúng vụ việc mua, bán, khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được các bên thống nhất tại văn bản đề nghị và không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác. Bên mua và bên bán chịu trách nhiệm tuân thủ mức giá do cơ quan tổ chức hiệp thương ban hành.”
[19]Chỉnh lý quy định tạiKhoản 4 Điều 28 Dự thảo 5: “
Đối tượng kê khai giá là tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có đăng ký kinh doanh theo quy định tại pháp luật về doanh nghiệp và có quyền quyết định giá; thuộc danh sách do cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận kê khai thông báo”
[20]Chỉnh lý quy định tại khoản 2 Điều 29 dự thảo 5:
“Các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ niêm yết giá đảm bảo rõ ràng và không gây nhầm lẫn cho khách hàng về mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng các hình thức: in, dán, ghi thông tin trên bảng, giấy hoặc in trực tiếp trên bao bì của hàng hóa hoặc các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế tại địa điểm bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ hoặc trên các trang thông tin điện tử, website thương mại điện tử của mình để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của khách hàng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền”
[21]Điểm c khoản 2 Điều 33 Dự thảo Luật: “
Thời gian kiểm tra yếu tố hình thành giá tối đa không quá 30 ngày kể từ khi nhận đủ tài liệu theo yêu cầu. Trường hợp phức tạp thì có thể gia hạn không quá 15 ngày”
[22] Bổ sung Điều 42 tại Dự thảo Luật kỳ 5 về Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam.
[23]Chỉnh sửa điểm b khoản 2 Điều 44 Dự thảo Luật:
“Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên”, bỏ nội dung thuộc một trong các nhóm ngành về kinh tế, kỹ thuật, luật theo quy định của pháp luật
[24]Điều 45 và Điều 46 Dự thảo Luật.
[25]Điểm b khoản 2 Điều 47 Dự thảo Luật: “ Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, tính trung thực, khách quan, chính xác trong quá trình thẩm định giá tài sản; chịu trách nhiệm về chuyên môn trong quá trình thực hiện và đảm bảo báo cáo thẩm định giá tuân thủ các Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam;”
[26] Điều 49, Điều 50, Điều 51 Dự thảo Luật.
[27]Điểm a khoản 2 Điều 62 Dự thảo Luật:
“Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ; tính trung thực, khách quan, chính xác trong quá trình thẩm định giá tài sản và chịu trách nhiệm về hoạt động thẩm định giá tài sản mà hội đồng thẩm định giá thực hiện tuân thủ Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam;”.
[28] Điểm b khoản 2 Điều 63 Dự thảo Luật:
“Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ; chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng, tính đầy đủ, chính xác, trung thực, khách quan đối với thông báo kết quả thẩm định giá và chịu trách nhiệm trước pháp luật về ý kiến nhận định, đánh giá của mình quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này”
[29]Khoản 1 Điều 64 Dự thảo Luật: “
Thông báo kết quả thẩm định giá và báo cáo thẩm định giá của hội đồng thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét quyết định, phê duyệt giá theo quy định của pháp luật về đấu thầu, đấu giá và pháp luật có liên quan.”
[30] Điều 61 tại Dự thảo Luật
[31]Điều 63 tại Dự thảo Luật
[32]Khoản 3 Điều 59 Dự thảo Luật
[33]Điểm c khoản 1 Điều 62 Dự thảo Luật
[34]Điểm b khoản 2 Điều 62 Dự thảo Luật
[35] Khoản 5, khoản 6 Điều 7 Dự thảo Luật
[36]Khoản 4 Điều 67 Dự thảo Luật
[39]Khoản 8 điều 4:
“8. Điều tiết giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp quy định tại Luật này tác động vào giá hàng hóa, dịch vụ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước và nhằm thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, phát triển kinh tế - xã hội.”
[40]Cụ thể như:
“1. Hàng hóa là sản phẩm có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường.
2. Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau.
3. Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu là những hàng hóa, dịch vụ cần thiết đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, dịch vụ chính phục vụ sản xuất, lưu thông và phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
4. Giá thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ được hình thành trên cơ sở cung, cầu và do các yếu tố thị trường quyết định trong một khoảng thời gian, không gian nhất định.”
[41] Các khoản 17 đến 20 Điều 4:
“17. Tài sản thẩm định giá là hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Luật này và tài sản theo quy định của Bộ Luật dân sự, được cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá theo nhu cầu hoặc các trường hợp pháp luật quy định phải thẩm định giá.
18. Báo cáo thẩm định giá là văn bản trình bày về quá trình thẩm định giá, làm căn cứ lập chứng thư thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc thông báo kết quả thẩm định giá của hội đồng thẩm định giá, trong đó:
a) Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá, báo cáo thẩm định giá do thẩm định viên về giá lập, thể hiện ý kiến của thẩm định viên về giá và được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá xem xét, phê duyệt;
b) Đối với hoạt động thẩm định giá của Nhà nước, báo cáo thẩm định giá do hội đồng thẩm định giá lập và thể hiện ý kiến của các thành viên hội đồng và ý kiến biểu quyết thống nhất của hội đồng.
19. Chứng thư thẩm định giá là văn bản do doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phát hành sau khi kết thúc hoạt động thẩm định giá để thông báo cho khách hàng, các tổ chức, cá nhân liên quan được ghi trong hợp đồng thẩm định giá (nếu có) về giá trị tài sản thẩm định giá và những nội dung chính của báo cáo thẩm định giá.
20. Thông báo kết quả thẩm định giá là văn bản do hội đồng thẩm định giá phát hành sau khi kết thúc hoạt động thẩm định giá để báo cáo thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thành lập hội đồng thẩm định giá về giá trị tài sản thẩm định giá và những nội dung chính của báo cáo thẩm định giá.”
[42]Khoản 2 Điều 5 Dự thảo Luật
[43] Khoản 9 Điều 20, khoản 5, khoản 7 Điều 21, khoản 4 Điều 22 Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá, phí, lệ phí và hóa đơn; Nghị định số 49/2016/NĐ-CP ngày 27 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ kèm theo Hồ sơ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4
[44] b) Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, tính trung thực, khách quan, chính xác trong quá trình thẩm định giá tài sản; chịu trách nhiệm về chuyên môn trong quá trình thực hiện và đảm bảo báo cáo thẩm định giá tuân thủ các Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam
[45] d) Chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng thẩm định giá về Chứng thư thẩm định giá đã phát hành theo hợp đồng đã ký kết trừ trường hợp khách hàng thẩm định giá cố tình cung cấp thông tin sai lệch về tài sản thẩm định giá; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá hoặc trong trường hợp hoạt động thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá
[46] Khoản 3 Điều 29 Dự thảo Luật: Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ điều chỉnh mức giá niêm yết ngay khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ.
[47] Khoản 2 Điều 14: “
Ban hành theo thẩm quyền, xây dựng, trình cơ quan, người có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giá, thẩm định giá; phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về giá”
Khoản 2 Điều 15: “Ban hành theo thẩm quyền, xây dựng, trình cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá thuộc lĩnh vực quản lý; phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về giá.”
Khoản 2 Điều 16: “Ban hành theo thẩm quyền, xây dựng, trình cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá thuộc phạm vi quản lý; phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về giá.”
[48] Khoản 6 Điều 14
: “Định giá đối với các hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền; quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và hướng dẫn thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật này.”
Khoản 6 Điều 15: “Định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng, ban hành phương pháp định giá riêng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Luật này và Luật khác có liên quan.”
[49]“
Điều 14. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài chính
1. Là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá. Bộ trưởng Bộ Tài chính giao cơ quan quản lý giá thuộc Bộ giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá theo quy định tại Điều này.”
“Điều 15. Nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, Cơ quan ngang Bộ
1. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá trong lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ giao cơ quan, đơn vị thuộc bộ, cơ quan ngang bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá của Nhà nước quy định tại Điều này, đảm bảo nguyên tắc không phát sinh thêm bộ máy, biên chế.”
“ Điều 16. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá tại địa phương theo quy định của pháp luật; có thẩm quyền quyết định, phân công nhiệm vụ đối với từng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo ngành, lĩnh vực, cơ quan hành chính cấp dưới tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá quy định tại Điều này.”
[50]Điều 38:
1. Cơ sở dữ liệu về giá gồm Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương. 2. Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được xây dựngphục vụ công tác quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá và các nhu cầu của xã hội, do Bộ Tài chính thống nhất quản lý. Thông tin được cung cấp từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá là một trong các nguồn thông tin phục vụ công tác quản lý nhà nước và nhu cầu của xã hội. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu được đề nghị cung cấp thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và thanh toán chi phí theo quy định của Bộ Tài chính..”
[51]Khoản 1 Điều 17:
“1. Hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá phải đáp ứng đồng thời các tiêu chí sau:
a) Là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu;
b) Có tác động lớn ảnh hưởng toàn diện đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống người dân trong từng thời kỳ.”
[52]Khoản 2 Điều 17: “Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá được quy định tại Phụ lục số 1 ban hành kèm theo Luật này. Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quy định kỹ thuật chi tiết các hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá.”
[53]Chỉnh tên Điều 22 thành: “Nguyên tắc
và căn cứ định giá
của Nhà nước”; và một số nội hàm tại Mục để thể hiện rõ phạm vi định giá của Nhà nước.
[54]Theo Báo cáo đánh giá tác động số 01/BC-BTC ngày 05/01/2022 của Bộ Tài chính
[55] - Chỉnh lý Điều 23 về phương pháp định giá:
“1. Phương pháp định giá là cách thức để xác định giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá theo các hình thức định giá quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật này.
2. Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. Trường hợp khi áp dụng phương pháp định giá chung có nội dung đặc thù cần hướng dẫn, các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng nội dung cụ thể, có văn bản gửi Bộ Tài chính xem xét, ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện.
3. Bộ trưởng các bộ quản lý ngành, lĩnh vực, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ, cơ quan liên quan ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành phương pháp định giá đối với hàng hóa, dịch vụ gồm:
a) Hàng hóa, dịch vụ được quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật này;
b) Hàng hóa, dịch vụ không áp dụng được phương pháp định giá quy định tại khoản 2 Điều này và pháp luật khác có quy định về phương pháp định giá riêng..”;
- Chỉnh lý điểm b khoản 1 Điều 21 về tiêu chí định giá: “Tài nguyên quan trọng theo quy định của pháp luật về tài nguyên;”
- Chỉnh lý khoản 1, 2 Điều 24 về Ban hành văn bản định giá, điều chỉnh mức giá, quy định cơ chế, chính sách về giá:
“1. Văn bản định giá hoặc điều chỉnh mức giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền định giá ban hành là văn bản hành chính; việc ban hành văn bản được thực hiện như sau:
a) Lập phương án giá;
b) Thẩm định phương án giá;
c) Trình và ban hành văn bản định giá, điều chỉnh mức giá.
2. Văn bản quy định cơ chế, chính sách về giá do cơ quan Nhà nước ban hành là văn bản quy phạm pháp luật; trình tự, thủ tục ban hành văn bản được thực hiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật”
[56]Điểm d khoản 1 Điều 21 Dự thảo Luật
[57]Trong trường hợp bên mua và bên bán không thỏa thuận được mức giá và tiếp tục đề nghị cơ quan tổ chức hiệp thương giá định giá để hai bên thực hiện thì cơ quan tổ chức hiệp thương giá lập biên bản để các bên ký ghi nhận nội dung hội nghị hiệp thương giá. Bên bán có trách nhiệm lập phương án giá, lấy ý kiến bên mua và tổng hợp gửi cơ quan tổ chức hiệp thương giá rà soát, đánh giá, xem xét ban hành văn bản định giá để hai bên thực hiện. Các đơn vị có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu để cơ quan hiệp thương thực hiện định giá. Văn bản định giá của cơ quan tổ chức hiệp thương chỉ được áp dụng một lần cho đúng đối tượng đề nghị hiệp thương, theo đúng vụ việc mua, bán, khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được các bên thống nhất tại văn bản đề nghị và không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác. Bên mua và bên bán chịu trách nhiệm tuân thủ mức giá do cơ quan tổ chức hiệp thương ban hành.
[58]Khoản 4 Điều 74 Dự thảo Luật: “Các Tiêu chuẩn thẩm định giá đã được ban hành theo quy định của Luật Giá số 11/2012/QH13 được công nhận là Chuẩn mực thẩm định giá theo quy định tại Điều 42 Luật này và tiếp tục được áp dụng cho đến khi có Chuẩn mực thẩm định giá thay thế được ban hành hoặc tối đa cho đến ngày 01 tháng 07 năm 2025.”
[59] 2. Hội nghề nghiệp về thẩm định giá được tổ chức đào tạo nghiệp vụ về thẩm định giá, bồi dưỡng cập nhật kiến thức chuyên môn về thẩm định giá, cấp chứng chỉ hoàn thành khóa học và thực hiện các hoạt động liên quan đến thẩm định giá theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
[60]“Điều 59. Hoạt động thẩm định giá của Nhà nước
1. Thẩm định giá của Nhà nước thực hiện trong trường hợp pháp luật quy định được sử dụng phương thức này, đồng thời cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quyết định, phê duyệt giá lựa chọn sử dụng phương thức này làm một trong các cơ sở để xem xét quyết định, phê duyệt giá khi bán, thanh lý, cho thuê, liên doanh, liên kết tài sản công hoặc mua, đi thuê hàng hóa, dịch vụ, tài sản có sử dụng vốn nhà nước.”
[61]“Điều 60. Hội đồng thẩm định giá. 1. Hội đồng thẩm định giá phải có tối thiểu 03 thành viên là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng của người thành lập hội đồng thẩm định giá; trong trường hợp cần thiết có thể thuê người có chứng nhận chuyên môn quy định tại khoản 2 Điều này làm thành viên hội đồng thẩm định giá.2. Hội đồng thẩm định giá phải có ít nhất 50% thành viên bao gồm Chủ tịch hội đồng thẩm định giácó ít nhất một trong các chứng nhận chuyên môn sau: a) Bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá, thẩm định giá; b) Thẻ thẩm định viên về giá; c) Chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ về thẩm định giá; d) Chứng chỉ bồi dưỡng thẩm định giá nhà nước.3. Nguyên tắc hoạt động của Hội đồng thẩm định giáa) Hội đồng thẩm định giá làm việc theo nguyên tắc tập thể. Phiên họp thẩm định giá chỉ được tiến hành khi có mặt ít nhất 2/3 số lượng thành viên của hội đồng thẩm định giá trở lên tham dự. Trường hợp hội đồng thẩm định giá chỉ có 03 thành viên thì phiên họp phải có mặt đủ 03 thành viên. Chủ tịch hội đồng thẩm định giá điều hành phiên họp thẩm định giá; trước khi tiến hành phiên họp thẩm định giá, những thành viên vắng mặt phải có văn bản gửi tới Chủ tịch hội đồng thẩm định giá nêu rõ lý do vắng mặt và có ý kiến độc lập của mình về các vấn đề liên quan đến giá của tài sản cần thẩm định; b) Hội đồng thẩm định giá thông báo lập thông báo kết quả thẩm định giá theo ý kiến đa số đã được biểu quyết và thông qua của thành viên Hội đồng thẩm định giá có mặt tại phiên họp. Trong trường hợp có ý kiến ngang nhau thì bên có biểu quyết của Chủ tịch hội đồng thẩm định giá là ý kiến quyết định. Thành viên của hội đồng thẩm định giá có quyền bảo lưu ý kiến của mình nếu không đồng ý với giá của tài sản do hội đồng quyết định; ý kiến bảo lưu đó được ghi vào biên bản phiên họp thẩm định giá tài sản; c) Hội đồng thẩm định giá tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều này chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ quy định tại Quyết định thành lập hội đồng. Các trường hợp phát sinh sau khi hội đồng thẩm định giá chấm dứt hoạt động sẽ do cơ quan có thẩm quyền thành lập hội đồng chủ trì xử lý;d) Hội đồng thẩm định giá được sử dụng con dấu của cơ quan quyết định thành lập hội đồng thẩm định giá tài sản hoặc cơ quan nơi Chủ tịch hội đồng thẩm định giá công tác..”
[62] Khoản 1 Điều 64: “Thông báo kết quả thẩm định giá và báo cáo thẩm định giá của hội đồng thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét quyết định, phê duyệt giá theo quy định của pháp luật về đấu thầu, đấu giá và pháp luật có liên quan”
[63]Khoản 1 Điều 60: “
1. Hội đồng thẩm định giá phải có tối thiểu 03 thành viên là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng của người thành lập Hội đồng thẩm định giá; trong trường hợp cần thiết có thể thuê người có chứng nhận chuyên môn quy định tại khoản 2 Điều này làm thành viên Hội đồng thẩm định giá.”
[64]Khoản 1 Điều 74: “ Quy định tại khoản 2 Điều 60 Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2026.”
[65]Khoản 4 Điều 7 Luật Giá 2012: “4. Thu thập, tổng hợp, phân tích và dự báo giá thị trường trong nước và thế giới để xây dựng cơ sở dữ liệu về giá phục vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá.”
[66]Chỉnh lý các Điều 68, Điều 69 và bổ sung thêm Điều 70.
[67]Khoản 2 Điều 9 Luật Thanh tra số 11/2022/QH15 có quy định về Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực
[68] Điểm a khoản 2 Điều 18 Luật Thanh tra số 11/2022/QH có quy định: “2. Thanh tra Tổng cục, Cục được thành lập trong các trường hợp sau đây: a) Theo quy định của luật; b) Theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; c) Tại Tổng cục, Cục thuộc Bộ có phạm vi đối tượng quản lý nhà nước chuyên ngành, lĩnh vực lớn, phức tạp, quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của Chính phủ.”
Báo cáo tóm tắt tiếp thu, giải trình, chỉnh lý Dự án Luật Giá (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ủy ban thường vụ Quốc hội
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, tháng 5-6/2023
A0301-bc480-UBTVQH-tiep-thu-gtrinh-DA-Luat-Gia-sd-tomtat---20230522101725.doc
Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội,
Tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã thảo luận về Dự án
Luật Giá (sửa đổi). Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Ủy ban Tài chính, Ngân sách (TCNS) phối hợp với Cơ quan soạn thảo, các cơ quan hữu quan khẩn trương nghiên cứu, nghiêm túc tiếp thu, giải trình đầy đủ tất cả các ý kiến đóng góp tại (1) Kỳ họp thứ tư; (2) tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách; (3) tại các Đoàn ĐBQH. So với Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, sau khi tiếp thu, chỉnh lý đã:
(1) Bỏ 03 Điều
[1];
(2) Bổ sung 06 Điều
[2];
(3) Bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung 14 nội dung của các Luật liên quan
[3];
(4) Bổ sung Phụ lục số 01 quy định Danh mục các hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá;
(5) Từng điều, khoản đã được hoàn chỉnh cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp. Tất cả ý kiến các vị ĐBQH đã được tiếp thu, giải trình và thể hiện cụ thể trong Báo cáo tiếp thu, giải trình số 480/BC-UBTVQH15 ngày 22/5/2023 với dung lượng 112 trang. Sau đây, UBTVQHH xin phép báo cáo tóm tắt việc
tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) như sau:
1. Về quan điểm, mục tiêu sửa đổi Luật
UBTVQH xin báo cáo Quốc hội như sau:
Tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo hoàn thiện Dự thảo Luật. Đến nay, Dự thảo Luật đã: (1) Loại bỏ các quy định gây vướng mắc, tạo sự minh bạch trong quản lý nhà nước về giá, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế.(2) Chỉnh lý, hoàn thiện theo hướngquy định rõ hơn nữa nguyên tắc thị trường trong quản lý giá, nguyên tắc định giá của Nhà nước; (3) Làm rõ quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc tự định giá hàng hóa, dịch vụ của mình. (4) Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý giá; (5) Quy định đúng bản chất hoạt động thẩm định giá; trách nhiệm pháp lý của các bên trong thực hiện; giá trị pháp lý của các kết luận, chứng thư; (6) Các quy định khác đã được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH.
Như vậy, đến nay, Dự thảo Luật cơ bản thể hiện ý kiến đa số các vị ĐBQH, bảo đảm tính khả thi, minh bạch trong quản lý nhà nước về giá, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế. Trên cơ sở tiếp tục lắng nghe ý kiến các vị ĐBQH thảo luận tại Kỳ họp thứ 5 này, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục tiếp thu, hoàn thiện Dự thảo Luật để bảo đảm Luật được thông qua sẽ phát huy hiệu quả và đi vào cuộc sống.
2. Về áp dụng pháp luật
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm rà soát kỹ; nghiên cứu các luật và các Dự thảo luật liên quan, chỉnh lý Điều 3
[4] nhằm bảo đảm:
(1) Bao quát về phạm vi điều chỉnh, tuyệt đối không tạo khoảng trống pháp lý;
(2) Bảo đảm tính thống nhất với pháp luật liên quan;
(3) Tuân thủ nguyên tắc áp dụng luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
(4) Đối với một số lĩnh vực đặc thù như đất đai, sở hữu trí tuệ, điện, học phí, dịch vụ giáo dục, dịch vụ khám chữa bệnh, nhà ở, Dự thảo Luật đã quy định rõ những vấn đề được thực hiện theo pháp luật chuyên ngành. Nội dung này được thể hiện tại khoản 4 Điều 3 của Dự thảo Luật và Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
3. Về bình ổn giá
UBTVQH xin báo cáo như sau:
(1) Về thẩm quyền quyết định Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá
Tại Kỳ họp thứ 4, Chính phủ trình Dự thảo Luật trong đó giao Chính phủ quyết định danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá.
Tuy nhiên, qua ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH thấy rằng, giá là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến từng người dân, doanh nghiệp, ổn định thị trường, do đó các hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá cần được quy định cụ thể trong Luật nhằm tạo sự công khai, minh bạch, hạn chế tối đa sự can thiệp từ cơ quan quản lý nhà nước đến quy luật cung cầu. Vì vậy, để đúng với chức năng nhiệm vụ của cơ quan dân cử, nhưng vẫn đáp ứng tính linh hoạt, kịp thời, UBTVQH đã chỉ đạo tiếp thu, theo đó: Thứ nhất, giữ như quy định của Luật hiện hành, Quốc hội quyết định Danh mục. Trường hợp cần điều chỉnh, Chính phủ trình UBTVQH xem xét, quyết định. Thứ 2, bổ sung Phụ lục 01 quy định cụ thể những mặt hàng bình ổn giá, bảo đảm công khai, minh bạch; Thứ 3, chỉnh lý các quy định có liên quan tại các điều, khoản khác để đảm bảo tính tương thích.
(2) Về Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá: Tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo nghiên cứu kỹ lưỡng ý kiến từng Bộ, ngành liên quan; rà soát thận trọng; đánh giá cụ thể từng mặt hàng trong Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá. Đến nay, Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá gồm 10 mặt hàng, bao gồm:
(1) Xăng, dầu thành phẩm;
(2) Khí dầu mỏ hóa lỏng;
(3) Sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi; sữa dành cho người cao tuổi;
(4) Thóc tẻ, gạo tẻ;
(5) Thịt lợn (thịt heo);
(6) Phân đạm; phân DAP; phân NPK;
(7) Thức ăn chăn nuôi; thức ăn thủy sản;
(8) Vắc - xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm;
(9) Thuốc bảo vệ thực vật;
(10) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Có ý kiến đề nghị bổ sung một số hàng hóa, dịch vụ vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá như trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19; lương thực, thực phẩm. UBTVQH xin báo cáo như sau:
- Đối với trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19: (1) Tại Nghị định 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế và Nghị định 07/2023/NĐ-CP đã quy định biện pháp kê khai giá đối với trang thiết bị y tế. (2) Trong bối cảnh bình thường trước và sau đại dịch như hiện nay, mặt bằng giá trang thiết bị y tế là tương đối ổn định, cơ bản không biến động. Do vậy, xin không đưa mặt hàng này vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá.
- Đối với mặt hàng lương thực, thực phẩm: Có ý kiến đề nghị bổ sung gạo nếp, các loại thịt, trứng, rau củ, dầu ăn, mì gói, các loại gia vị nấu ăn vào Danh mục. Trên cơ sở đánh giá tính thiết yếu và khả năng cung cầu, UBTVQH nhận thấy, các mặt hàng này có tính thị trường rất cao; gắn với quyền chủ động của các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng này. Riêng thịt lợn là mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng lớn, cơ bản thiết yếu đối với người dân và nếu gặp sự cố về dịch bệnh, cung ứng... sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống người dân. Do vậy, tiếp thu ý kiến ĐBQH, xin bổ sung thịt lợn vào Danh mục. Các mặt hàng khác sẽ thực hiện bình ổn trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 18 của Dự thảo Luật.
Đối với Quỹ bình ổn giá xăng, dầu: Nhiều ý kiến tán thành duy trì Quỹ bình ổn giá xăng, dầu;Một số ý kiến đề nghị không tiếp tục duy trì Quỹ bình ổn giá xăng, dầu.
UBTVQH cho rằng, trong điều kiện hiện nay nên duy trì Quỹ bình ổn giá xăng, dầu vì: (1) Quỹ bình ổn giá xăng, dầu là một trong những công cụ điều tiết giá xăng dầu trong nước, là biện pháp kinh tế, không phải là can thiệp hành chính. (2) Trong bối cảnh hiện nay việc bỏ Quỹ là chưa phù hợp vì: (i) thị trường xăng dầu của Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn vận hành theo quy luật thị trường; (ii) quản lý, điều hành giá bán lẻ xăng dầu trong nước vẫn thông qua giá cơ sở; (iii) chu kỳ điều chỉnh giá xăng dầu trong nước còn tương đối dài (hiện là 10 ngày); (iv) lượng dự trữ xăng dầu còn mỏng. (3) Thực tế cho thấy, khi giá xăng, dầu thế giới biến động thì Quỹ bình ổn đã phát huy vai trò “điều hòa”, góp phần giảm tần suất và mức điều chỉnh tăng giá bán xăng dầu.
Tuy nhiên, UBTVQH cũng đề nghị cần đổi mới trong quản lý, điều hành giá mặt hàng xăng, dầu; đề cao tính công khai, minh bạch về thực trạng nguồn, việc sử dụng Quỹ, nâng cao tính kịp thời, hiệu quả trong điều hành, đồng thời đánh giá kỹ việc thực hiện Nghị định 95/2021/NĐ-CP; sớm đưa giá xăng, dầu của Việt Nam hoàn toàn vận hành theo quy luật thị trường.
4. Về định giá
Tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo: (1) Hoàn thiện, bổ sung nhiều quy định về định giá của Nhà nước tại Mục 2 Chương IV nhằm bảo đảm minh bạch; có cơ chế bảo vệ người làm công tác định giá khi đã tuân thủ đúng pháp luật và hoàn thiện như sau: (2) Kết cấu lại các Điều, khoản tại Mục 2 Chương IV; (3) Đối với một số hàng hóa, dịch vụ đặc thù, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan liên quan ban hành phương pháp định giá; (4) Đối với Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, đã bổ sung các quy định chi tiết về: (i) Thẩm quyền, (ii) Hình thức định giá và được thể hiện tại Danh mục kèm theo Dự thảo Luật.
Về Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá: UBTVQH đã chỉ đạo rà soát thận trọng từng mặt hàng tại Phụ lục 2. Các ý kiến ĐBQH đều cơ bản đồng thuận. Riêng về dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa và dịch vụ hàng hải còn ý kiến khác nhau. UBTVQH xin báo cáo như sau:
Về dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa: một số ý kiến cho rằng, không nên áp dụng giá trần vì: (1) Dịch vụ này chưa thật sự phù hợp tiêu chí Nhà nước định giá; (2) Không phù hợp nguyên tắc thị trường; (3) Giá trần do cơ quan quản lý Nhà nước quy định trong một số trường hợp thấp hơn chi phí đầu tư; (4) Việc điều chỉnh giá trần của Nhà nước thường rất chậm, thua lỗ lớn cho doanh nghiệp, làm mất đi nguồn lực, tài nguyên, nguồn thu NSNN của nhà nước. (5) Quy định giá trần nhưng không có giá tối thiểu dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh; (6) Làm hạn chế kinh doanh phân khúc chất lượng cao.
Tuy nhiên, quan điểm của Chính phủ là đề nghị giữ quy định về giá trần và bỏ quy định về giá sàn đối với vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa.
Đa số ĐBQH cũng tán thành việc cần giữ quy định về giá trần; bỏ quy định về giá sàn đối với dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa.
UBTVQH cho rằng, việc giữ quy định về giá trần và bỏ quy định về giá sàn đối với dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địalà cần thiết vì các lý do sau:
Thứ nhất, về lý do bỏ giá sàn:
(1) Trên cơ sở tổng kết Luật Hàng không dân dụng, Bộ Giao thông vận tải đã đề xuất bỏ quy định về giá sàn nhằm tạo cơ chế khuyến khích cạnh tranh, giảm giá dịch vụ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, nhất là đối tượng có thu nhập thấp được tiếp cận các dịch vụ hàng không; giảm chi phí xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
(2) Việc bỏ giá sàn mở cơ hội cho doanh nghiệp cạnh tranh nhưng hoàn toàn không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có quyền cạnh tranh không lành mạnh vì doanh nghiệp có hạ giá bán thì vẫn phải tuân thủ các quy định tại Luật Cạnh tranh.
(3) Về tác động thực tế, thực chất việc bỏ giá sàn không gây tác động đến các doanh nghiệp hàng không do trong các năm qua, giá sàn trong khung giá được quy định bằng 0 (khoản 2 Điều 3 Thông tư số 17/2019/TT-BGTVT) của Bộ Giao thông vận tải.
(4) Về tác động đối với thu ngân sách nhà nước, việc bỏ giá sàn sẽ mang lại nhiều cơ hội cho người dân, thúc đẩy phát triển thị trường hàng không nội địa, tạo cạnh tranh sôi động; từ đó, tăng số lượng người dân sử dụng dịch hàng không, góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận cho các hãng hàng không, theo đó tăng thu ngân sách nhà nước.
Thứ hai, việc giữ quy định giá trần là cần thiết vì các lý do sau:
(1) Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 21 Dự thảo Luật thì dịch vụ vận chuyển hành khách hàng không nội địa đáp ứng các tiêu chí luật định là loại hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, là: “hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, có tính chất độc quyền trong mua bán hoặc có thị trường cạnh tranh hạn chế và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh”. Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, dịch vụ này là thiết yếu, tác động với phạm vi rất lớn đến đời sống người dân, đến sản xuất - kinh doanh.
(2) Cùng với đề xuất bỏ giá sàn, nếu không quy định giá trần đồng nghĩa với việc Nhà nước bỏ công cụ điều tiết và để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ toàn quyền quyết định giá dịch vụ. Các hãng hàng không hoàn toàn có thể đưa ra giá dịch vụ, trong đó có giá vé máy bay ở mức cao, ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng, đến sản xuất, kinh doanh, tác động đến xã hội.
(3) Cần phân định rõ vướng mắc do tổ chức thực hiện hay do pháp luật. Theo quy định hiện hành, để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, kịp thời, thẩm quyền điều chỉnh khung giá đã được giao cho Chính phủ. Nếu giá khung giá có thời điểm chưa phù hợp với thực tiễn thì nguyên nhân là do khâu tổ chức thực hiện chưa kịp thời; không phải do quy định của Luật. Vì vậy, trường hợp nhận thấy giá trần chưa phù hợp thì các đối tượng chịu tác động có quyền đề nghị Chính phủ kịp thời điều chỉnh. Thời gian qua, nhiều hãng hàng không thua lỗ là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19.
(4) Việc bỏ quy định về giá trần là vấn đề lớn, thay đổi một chính sách quan trọng và theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải được đánh giá tác động kỹ lưỡng; trong khi chưa đánh giá tác động thì chưa đủ căn cứ sửa đổi.
Thứ ba, về “mức giá 0 đồng” của các hãng hàng không: Có ý kiến đề nghị cần xem xét mối quan hệ giữa Luật Giá với các quy định tại pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá khi có hãng hàng không định “mức giá 0 đồng”.
UBTVQH xin báo cáo như sau:
(1) Về ý kiến đề nghị xem xét mối quan hệ giữa Luật Giá với quy định về chống bán phá giá khi có hãng hàng không định “mức giá 0 đồng”: UBTVQH thấy rằng, căn cứ vào hệ thống pháp luật hiện hành thì các chính sách về chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với thương mại quốc tế (giữa các quốc gia). Do vậy, không có mối quan hệ với giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa.
(2) Về mối quan hệ giữa Luật Giá với Luật Cạnh tranh
khi có hãng hàng không định “mức giá 0 đồng”:
(i) Thực chất, không có vé máy bay giá “0 đồng” vì Thông tư 17/2019/TT-BGTVT quy định rõ nguyên tắc định giá vé cho 01 vé máy bay, theo đó phải bao gồm các khoản thuế, phí theo quy định. “Mức giá 0 đồng” là chưa gồm thuế, phí và thực tế người tiêu dùng vẫn phải chi trả một khoản tiền nhất định. Thời gian qua, một số hãng áp dụng giá “vé 0 đồng” như một hình thức ưu đãi, chỉ áp dụng cho một số ít ghế trong 1 chuyến bay và thực tế mức giá phải trả không phải là 0 đồng.
(ii) Thông tư 17/2019/TT-BGTVT cũng quy định việc tính giá
[5]; theo đó giá phải
đảm bảo phù hợp với chi phí sản xuất kinh doanh thực tế của từng chuyến bay”.
(iii) Dự thảo Luật quy định nguyên tắc định giá phải:
“Bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường.” (iv) Thực tế, các hãng hàng không đều xây dựng dải giá linh hoạt với nhiều mức giá khác nhau, tương ứng với các điều kiện, thời điểm khác nhau. Doanh thu, chi phí sẽ được tính tổng chung theo chuyến bay, đường bay.
(v) Mặt khác, để xác định hãng hàng không có vi phạm Luật Cạnh tranh hay không thì phải căn cứ trên toàn bộ chi phí của từng chuyến bay và mức giá bình quân vé máy bay, không phải chỉ tính trên các mức giá vé đơn lẻ. Đây là vấn đề thuộc khâu tổ chức thực hiện.
Như vậy, pháp luật về giá và Dự thảo Luật thể hiện rõ quan điểm không cho phép các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, không mâu thuẫn với Luật Cạnh tranh.
Thứ tư, về ý kiến đề nghị cân nhắc sự cần thiết của việc tiếp tục giữ quy định giá sàn và giá trần (khung giá) đối với dịch vụ bốc dỡ container; giá tối đa đối với dịch vụ hoa tiêu; đề nghị thay đổi hình thức định giá dịch vụ hàng hải sang thực hiện theo Luật chuyên ngành.
UBTVQH xin tiếp tục giữ quy định giá sàn và giá trần đối với dịch vụ bốc dỡ container; giá tối đa đối với dịch vụ hoa tiêu vì:
(1) Quy định này kế thừa Bộ luật Hàng hải. Trên thực tế, dịch vụ bốc dỡ container là một trong số dịch vụ quan trọng, thiết yếu mang lại doanh thu chính cho cảng; hiện rất nhiều doanh nghiệp quốc tế tham gia khai thác dịch vụ này. Thực tế có tình trạng doanh nghiệp quốc tế chèn ép, thao túng giá dịch vụ này, gây thiệt hại cho doanh nghiệp trong nước. Do đó, cần thiết quy định giá sàn để bảo toàn phần vốn Nhà nước và các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào cảng biển; tránh tình trạng doanh nghiệp nước ngoài chèn ép, thâu tóm dịch vụ này.
(2) Việc duy trì giá tối đa đối với dịch vụ hàng hải nhằm tạo công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, doanh nghiệp; đảm bảo mức giá phù hợp, hỗ trợ hoạt động logicstic, giảm giá thành hàng hóa, dịch vụ trong nước.
(3) Riêng đối với dịch hoa tiêu đã chuyển từ khung giá sang định giá tối đa (bỏ giá sàn) để thúc đẩy cạnh tranh trong nước do dịch vụ này hoàn toàn chỉ do các đơn vị trong nước cung cấp dịch vụ (không có đơn vị quốc tế).
Thứ năm,về đề nghị để Bộ Giao thông vận tải quyết định giá theo luật chuyên ngành, Bộ luật Hàng hải hiện nay chưa quy định cụ thể căn cứ định giá, nguyên tắc định giá, phương pháp định giá... Nếu quy định thực hiện theo luật chuyên ngành đó thì chưa đủ cơ sở pháp lý, vướng khi triển khai. Do vậy, xin giữ quy định như Dự thảo Luật để không tạo khoảng trống pháp lý.
5. Về thẩm định giá
Thẩm định giá của Nhà nước là nội dung được nhiều đại biểu quan tâm. Nhiều ý kiến đề nghị rà soát, quy định cụ thể nghĩa vụ, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong hoạt động thẩm định giá của Nhà nước. UBTVQH đã tiếp thu và xin báo cáo như sau:
(1) Về việc xác định trách nhiệm, Dự thảo Luật hoàn thiện theo hướng quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, cơ quan tương ứng với công việc mà mình thực hiện. Cụ thể là: (i) Tổ chức thẩm định (Hội đồng thẩm định giá) phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan với nội dung tại thông báo kết quả thẩm định đưa ra, bảo đảm tuân thủ Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam. Kết quả thẩm định giá mang tính chất cung cấp căn cứ, thông tin, tư vấn cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định giá tài sản. Tuy nhiên, Hội đồng thẩm định, từng thành viên Hội đồng thẩm định phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả thẩm định không trung thực. (ii) Cơ quan có thẩm quyền quyết định giá xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nội dung này thể hiện cụ thể tại điểm a khoản 2 Điều 62, điểm b khoản 2 Điều 63 và khoản 1 Điều 64 của Dự thảo Luật.
(2) Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, bổ sung nhiều nội dung về hoạt động thẩm định giá của Nhà nước, theo đó đã: (i) Bổ sung 02 Điều bao gồm về quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập Hội đồng thẩm định giá và quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thẩm định giá; (ii) Quy định rõ hơn về phạm vi thẩm định giá của Nhà nước; (iii) Bổ sung quy định về nguyên tắc hoạt động của Hội đồng thẩm định giá; (iv) Bổ sung quy định về quyền, nghĩa vụ của Hội đồng; (v) Bổ sung quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với Hội đồng thẩm định giá, thành viên Hội đồng thẩm định giá. Những quy định trên nhằm vừa tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, vừa bảo đảm tính khả thi, giúp các cá nhân, tổ chức yên tâm thực hiện đúng chức trách được giao.
7. Về thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá
Đây là nội dung mới so với quy định hiện hành. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung nhiều nội dung về thanh tra chuyên ngành về giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá nhằm bảo đảm tính chặt chẽ, khả thi. Theo đó, đã: (1) Bổ sung mục tiêu, yêu cầu của thanh tra, kiểm tra; (2) Bổ sung quy định về kết quả thanh tra, kiểm tra và trách nhiệm xử lý; (3) Bổ sung nguyên tắc về xử lý vi phạm pháp luật về giá.
8. Về các vấn đề khác: Ngoài các nội dung trên, các cơ quan chức năng đã nghiêm túc tiếp thu tối đa, giải trình chi tiết tất cả các ý kiến của các vị ĐBQH và thể hiện cụ thể tại Báo cáo, tiếp thu, giải trình đầy đủ. Về kỹ thuật lập pháp cũng đã được hoàn thiện một bước trong Dự thảo luật trình Quốc hội tại Kỳ họp này.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Để tiếp tục hoàn thiện Dự thảo Luật trình Quốc hội biểu quyết, thông qua, cùng với các vấn đề các vị ĐBQH quan tâm, trân trọng đề nghị các vị ĐBQH tập trung thảo luận một số nội dung sau:
(1) Về bình ổn giá;
(2) Về định giá của Nhà nước, trong đó có Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá;
(3) Về thẩm định giá.
Trên đây là Báo cáo tóm tắt một số vấn đề lớn về giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Giá (sửa đổi). Ủy ban Thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định./. Xin trân trọng cảm ơn.
[1] Điều 16, Điều 18, Điều 22 tại Dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4
[2] Điều 43, Điều 62, Điều 64, Điều 69, Điều 71, Điều 72 tại Dự thảo Luật
[4] Ngày 06/03/2023, để bảo đảm tính thận trọng trong tiếp thu, thực hiện cơ chế phối hợp, Thường trực Ủy ban TCNS đã gửi Công văn số 1022/UBTCNS15 đề nghị Ủy ban Pháp luật tham gia ý kiến về Điều 3 Nguyên tắc áp dụng luật do đây là lĩnh vực Ủy ban Pháp luật phụ trách. Tại Công văn số 1521/UBPL15 ngày 08/03/2023, Thường trực Ủy ban Pháp luật đã nhất trí với nội dung Điều 3 của Dự thảo Luật.
[5] Thông tư 17/2019/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải quy định:
“Khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên đường bay nội địa có dải giá từ 0 đồng đến mức tối đa của từng nhóm cự ly bay. Hãng hàng không quyết định dải giá dịch vụ vận chuyển hành khách trong khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách đảm bảo phù hợp với chi phí sản xuất kinh doanh thực tế của từng chuyển bay.”. (ii) Cũng tại Thông tư này, khoản 1 Điều 4 quy định cụ thể mức tối đa trong khung giá. Tại khoản 2 Điều 4 quy định:
“Mức tối đa giá dịch vụ quy định tại khoản 1 Điều này đã bao gồm toàn bộ chi phí hành khách phải trả cho 01 vé máy bay, trừ các khoản thu sau: a) Thuế giá trị gia tăng; b) Các khoản thu hộ doanh nghiệp cung ứng dịch vụ nhà ga hành khách và dịch vụ đảm bảo an ninh, bao gồm: giá phục vụ hành khách, giá đảm bảo an ninh hành khách, hành lý; c) Khoản giá dịch vụ đối với các hạng mục tăng thêm.”
BẢNG TỔNG HỢP TIẾP THU, GIẢI TRÌNH Ý KIẾN GÓP Ý VỀ DỰ THẢO LUẬT GIÁ (SỬA ĐỔI) XIN Ý KIẾN RỘNG RÃI
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A14161-Bang-tong-hop-TTGT-y-kien-rong-rai-ve-Luat-Gia---20221003020834.docx
STT
|
Nôi dung dự thảo xin ý kiến rộng rãi
|
Ý kiến tham gia
|
Tiếp thu, giải trình
|
I. CÁC Ý KIẾN THAM GIA VÀO CÁC QUY ĐỊNH CỤ THỂ TẠI DỰ THẢO LUẬT
|
1
|
Luật giá (sửa đổi)
|
Xem xét để chuẩn hóa tên gọi là sửa đổi hay ban hành mới (UBND tỉnh Đăk Nông, Bình Phước, Phú Thọ, Hà Giang)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo; theo đó, Luật sửa đổi, thay thế Luật giá 2012 nên tên gọi sẽ là “Luật giá” theo đúng quy định về thể thức.
|
2
|
Điều 3. Áp dụng Luật Giá và các Luật có liên quan
Các hoạt động trong lĩnh vực giá, thẩm định giá trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này. Trường hợp Luật khác có quy định về hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, thẩm quyền và trách nhiệm định giá; thẩm định giá thì thực hiện theo quy định tại Luật này.
|
- Quy định này chưa phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong đó đã quy định về áp dụng pháp luật. (Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công thương, Bộ Xây dựng)
- Cần làm rõ thêm đối với áp dụng các Luật liên quan (Luật chuyên ngành) (Bắc Giang)
|
Tiếp thu ý kiến của các Bộ và các ý kiến trong quá trình tổ chức hội thảo, họp Ban soạn thảo và Tổ biên tập, đã chỉnh lý bỏ điều 3 về áp dụng pháp luật.
|
3
|
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hàng hóa là tài sản có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm các loại động sản và bất động sản.
2. Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ trong hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật.
3. Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu là những hàng hóa, dịch vụ không thể thiếu cho sản xuất, đời sống, quốc phòng, an ninh; bao gồm: nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, dịch vụ chính phục vụ sản xuất, lưu thông; sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người và quốc phòng, an ninh.
4. Giá thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch khách quan và độc lập được hình thành do các yếu tố chi phối và vận động của thị trường quyết định tại một thời điểm, địa điểm nhất định.
5. Mặt bằng giá thị trường là mức giá bình quân của hàng hóa, dịch vụ hoặc nhóm hàng hóa, dịch vụ trên thị trường trong một thời kỳ tại một không gian nhất định và được phản ánh bằng chỉ số giá tiêu dùng.
6. Giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ là giá thành tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, bao gồm:
a) Giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ; giá mua hàng hoá, dịch vụ đối với tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại;
b) Chi phí lưu thông để đưa hàng hoá, dịch vụ bán ra thị trường.
7. Giá tối thiểu là mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định mà tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh không được định giá hàng hóa, dịch thấp hơn.
8. Giá tối đa là mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định mà tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh không được định giá hàng hóa, dịch cao hơn.
9. Khung giá là giới hạn các mức giá từ giá tối thiểu đến giá tối đa.
10. Giá tham chiếu là mức giá do cơ quan có thẩm quyền công bố làm cơ sở cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tham khảo quyết định giá hàng hóa, dịch vụ.
11. Yếu tố hình thành giá gồm giá thành toàn bộ thực tế hợp lý, hợp lệ tương ứng với chất lượng của hàng hóa, dịch vụ; lợi nhuận (nếu có); các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; giá trị vô hình của thương hiệu.
12. Bình ổn giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm ổn định giá hàng hóa, dịch vụ trong một khoảng thời gian.
13. Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quyết định giá cho hàng hóa, dịch vụ.
14. Hiệp thương giá là phương thức thỏa thuận giữa các doanh nghiệpvề giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm trung gian hỗ trợ các bên thỏa thuận theo quy định của Luật này.
15. Kê khai giá là việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục kê khai giá gửi thông báo mức giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi định giá, điều chỉnh giá.
16. Niêm yết giá là hình thức công khai mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng Đồng Việt Nam đến người tiêu dùng.
17. Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị bằng tiền của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
18. Thông đồng về giá, thẩm định giá là việc các tổ chức, cá nhân có hành vi thỏa thuận, cấu kết nhằm làm sai lệch mức giá hàng hóa, dịch vụ hoặc kết quả thẩm định giá tài sản để trục lợi.
|
Đề nghị sửa Khoản 1 Điều 4 như sau: "Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể trao đổi mua bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người". Do: nếu hiểu "hàng hóa" chỉ bao gồm động sản và bất động sản như Dự thảo Luật đã nêu thì chưa bao hàm hết nội hàm của "hàng hóa", vì "hàng hóa" ngoài các tài sản hữu hình còn bao gồm cả tài sản vô hình như: bằng sáng chế, phát minh, tác quyền sở hữu trí tuệ... (Bộ Quốc phòng, Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
|
Khái niệm “Hàng hóa” tại dự thảo được kế thừa Luật hiện hành, đã bao gồm các tài sản vô hình và hiện nay không có vướng mắc về nội dung này.
|
Đề nghị làm rõ nội hàm của hàng hóa thiết yếu và dịch vụ thiết yếu nhằm đảm bảo thống nhất cách hiểu giữa các địa phương. Việc quy định danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cần được quy định thống nhất áp dụng trên phạm vi cả nước. (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
|
Tại dự thảo Luật kế thừa hiện hành, trong đó nêu rõ các tiêu chí để xác định hàng hóa, dịch vụ thiết yếu để phục vụ cho các quy định về quản lý, điều tiết giá. Việc xác định danh mục phải tùy điều kiện hoàn cảnh, việc đưa ra danh mục cố định là không cần thiết và không khả thi.
|
Luật giá chỉ có khái niệm hàng hóa, không có khái niệm tài sản nhưng trong nội dung dự thảo Luật giá quy định thẩm quyền định giá tài sản nhưng không có quy định thẩm định giá hàng hóa. (Bộ Quốc phòng)
|
Khái niệm tài sản đã được quy định tại Bộ Luật dân sự.
|
Đề nghị bổ sung định nghĩa “giá cụ thể”, “phương pháp định giá” (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Định nghĩa “phương pháp định giá” đã tiếp thu, chỉnh lý tại Điều quy định về phương pháp và tại Danh mục
|
Đề nghị làm rõ hơn khái niệm “Thẩm định giá” để làm rõ sự khác biệt với hoạt động định giá của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. (Bộ Tài nguyên và môi trường, Bình Thuận)
|
Khái niệm thẩm định giá đã rõ, định giá là việc quyết định, thẩm định giá là tư vấn
|
Tại Khoản 3: Đề nghị làm rõ sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của quốc phòng, an ninh bao gồm những gì, có bao gồm vũ khí thiết bị kỹ thuật quân sự không. (Bộ Quốc phòng)
|
Khái niệm này tại dự thảo được kế thừa Luật hiện hành, đã bao gồm các tài sản vô hình và hiện nay không có vướng mắc về nội dung này.
|
Đề nghị bổ sung cụm từ “giá cụ thể”, “hàng hóa, dịch vụ đặc thù”. Đồng thời quy định rõ thời gian có hiệu lực của giá cụ thể theo hướng phù hợp với từng loại dịch vụ công bảo đảm hiệu lực của giá đến khi hoàn thành việc cung cấp dịch vụ công theo quy định. (Bộ LĐTBXH)
|
|
Khoản 5: Giải thích rõ định nghĩa “mặt bằng giá thị trường” (UBND tỉnh Đà Nẵng)
|
Cụm từ này mang ý nghĩa tổng hợp, hiện nay không có vướng mắc.
|
Đề nghị sửa Khoản 16 Điều 4 như sau: "Niêm yết giá là hình thức công khai mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng Đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ được pháp luật cho phép đến người tiêu dùng". Do: Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối theo văn bản hợp nhất số 07/VBHN-VPQH ngày 11/7/2013 và Điều 4 Thông tư hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam theo Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-NHNN ngày 04/04/2019 có quy định một số trường hợp được niêm yết bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. (Bộ Quốc phòng)
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
|
Khoán 2 - thuật ngữ "Dịch vụ" được định nghĩa là hàng hóa có tính vô hình là chưa thống nhất với Bảng phân loại quốc tế hàng hóa/dịch vụ ni-xơ (phiên bản 11-2021) của WIPO công bố, theo đó "sản phẩm" bao gồm hàng hóa và dịch vụ. Do vậy, cần cân nhắc định nghĩa (Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
|
Khái niệm này tại dự thảo được kế thừa Luật hiện hành, hiện nay không có vướng mắc về nội dung này và được đưa ra phù hợp với bối cảnh Việt Nam
|
Đề nghị bổ sung giải thích từ ngữ: “hàng hóa đặc thù”; “Giá cụ thể” được quy định tại mục b khoản 1 Điều 6; “phương pháp định giá” được quy định tại Khoản 1 Điều 24. (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công Thương)
|
Đã tiếp thu theo hướng tại dự thảo Luật bỏ quy định về hàng hóa đặc thù và giá cụ thể, phương pháp định giá đã được quy định tại cụ thể tại các quy định tại dự thảo Luật.
|
Đề nghị xem xét điều chỉnh khoản 3: “Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu là những hàng hóa, dịch vụ không thể thiếu cho sản xuất, đời sống,kinh tế, quốc phòng, an ninh; bao gồm: nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, dịch vụ chính phục vụ sản xuất, lưu thông; sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người, nhu cầu phát triển kinh tế và quốc phòng, an ninh.” (Bộ Công Thương)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Không đưa khái niệm “Thông đồng về giá, thẩm định giá” do đưa khái niệm nhưng không có quy định chi tiết hành vi vi phạm và chế tài hành chính dẫn đến chưa phù hợp với thông lệ xây dựng Luật. (Bộ Tài nguyên và môi trường, UBND tỉnh Quảng Bình, Quảng Ngãi, Hà Giang, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên; Công ty VAI)
|
Không tiếp thu. Luật hiện hành có quy định cấm với hành vi thông đồng và tiếp tục được kế thừa tại Luật sửa đổi, nên việc giải thích rõ hành vi thông đồng để làm rõ và tạo thuận lợi cho việc thực hiện. Các quy định về xử lý vi phạm hành chính sẽ có tại Nghị định
|
Đề nghị bổ sung khái niệm “giá trị phi thị trường” do Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá vẫn đang có Tiêu chuẩn về cơ sở này và hiện các hệ thống quy định về giá tính thuế đều đang sử dụng cơ sở hình thành giá trị phi thị trường nhưng chưa được thừa nhận. (Bộ Tài nguyên và môi trường, UBND tỉnh Quảng Trị, Vĩnh Long)
|
Thuộc phạm vi hoạt động của thẩm định giá, đã được quy định tại các tiêu chuẩn thẩm định giá – cơ sở giá trị phục vụ trong hoạt động thẩm định giá.
|
Bổ sung giải thích “sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người”. (UBND tỉnh Bình Định)
|
Đây là khái niệm đã được kế thừa hiện hành và thực tế ý nghĩa bổ nghĩa cho khái niệm tại khoản 3 Điều 4
|
Bổ sung khái niệm: Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và Giá cụ thể (UBND tỉnh Quảng Ngãi)
|
Nội dung này đã có mục riêng để quy định rõ tại Điều 43 chương V
|
- Tại khoản 3, Điều 4: đề nghị hướng dẫn cụ thể hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết hàng hóa, dịch vụ thiết yếu để thống nhất trong cách hiểu và áp dụng, khắc phục tình trạng không thống nhất trong cách hiểu về hàng hóa, dịch vụ thiết yếu giữa các cơ quan, địa phương như trong thời gian giãn cách xã hội do ảnh hưởng của dịch Covid-19. (UBND tỉnh Tiền Giang)
|
Khái niệm này nhằm phục vụ cho công tác điều tiết giá; Tùy thuộc vào bối cảnh và đã quy định cụ thể danh mục tại các Chương về các hàng hóa dịch vụ thuộc diện định giá, bình ổn giá tại dự thảo Luật
|
- Tại khoản 18 đề nghị sửa như sau: “Thông đồng về giá, thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi thỏa thuận, cấu kết nhằm làm sai lệch mức giá hàng hóa, dịch vụ hoặc kết quả thẩm định giá tài sản để trục lợi.”
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật
|
4
|
Điều 5. Nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước
1. Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết giá theo cơ chế thị trường gắn với công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường; bảo đảm công khai, minh bạch, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Luật này thực hiện định giá hàng hóa, dịch vụ theo các nguyên tắc, phương pháp phù hợp với nguyên tắc của nền kinh tế thị trường.
2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước; có tính đến chính sách phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ.
3. Góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, thúc đẩy xã hội hóa hoạt động cung cấp dịch vụ công, có chính sách về giá nhằm hỗ trợ khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
|
Khoản 1: Đề nghị bổ sung nội dung như sau “…Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Luật này thực hiện quản lý, chỉ đạo, kiểm tra việc định giá; tổ chức, đơn vị định giá, thực hiện định giá hàng hóa, dịch vụ theo các nguyên tắc, phương pháp phù hợp với nguyên tắc của nền kinh tế thị trường” để bảo đảm quy định về nguyên tắc quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, điều tiết giá của Nhà nước; sự phù hợp theo sự phân công, phân cấp của Chính phủ đối với các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực, địa phương cũng như nguyên tắc thực hiện của các tổ chức, doanh nghiệp, công ty tư vấn trong thực hiện định giá tài sản. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Tiếp thu một phần và chỉnh lý để làm rõ nội dung quy định
|
Điều 5 Dự thảo đưa ra 3 nguyên tắc:
Nguyên tắc 1: Đề nghị giữ như Luật Giá hiện hành “Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết giá theo cơ chế thị trường, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Vì: Quy định như Dự thảo: Nhà nước, tiếp đến cơ quan Nhà nước là thừa và không cần thiết phải quy định điều tiết giá gắn với phân tích, dự báo giá thị trường.
Các nguyên tắc 2 và 3 của Dự thảo, đó không phải là nguyên tắc mà là mục tiêu của nguyên tắc điều tiết, (Hội thẩm định giá Việt Nam)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý làm rõ thêm một số nội dung
|
Khoản 3: quy định nguyên tắc “... có chính sách về giá nhằm hỗ trợ khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn”. Bộ Tư pháp cho rằng, đối với khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm ưu tiên phát triển kết hợp với các chính sách an sinh – xã hội khác. Do vậy, để bảo đảm nguyên tắc quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc đối với nguyên tắc trên.(Bộ Tư pháp)
|
Quy định này kế thừa Luật hiện hành, trong một số trường hợp vẫn có lộ trình có hỗ trợ
|
5
|
Điều 6. Công khai thông tin về giá
1. Nội dung công khai bao gồm:
a) Các báo cáo, đề án, chương trình kế hoạch, chủ trương, biện pháp quản lý, điều hành giá, bình ổn giá, các văn bản về quyết định giá của hàng hóa, dịch vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Giá cụ thể các hàng hóa, dịch vụ do các tổ chức, cá nhân quyết định trong khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu được nhà nước quy định, giá kê khai;
c) Danh sách doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá.
2. Việc công khai thông tin về giá quy định tại Điều này không áp dụng đối với các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước và các trường hợp không được phép công khai theo quy định của pháp luật.
3. Việc công khai được thực hiện bằng một trong các hình thức sau: công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang điện tử của cơ quan, đơn vị, phát hành ấn phẩm hoặc văn bản gửi đến các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan. Đối với các nội dung công khai quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều này phải được cập nhật lên cơ sở dữ liệu về quốc gia về giá.
4. Đối tượng phải thực hiện công khai gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp thẩm định giá.
5. Cơ quan thông tin, truyền thông có trách nhiệm thông tin, tuyên truyền, đưa tin về chính sách pháp luật về giá, cơ chế quản lý, điều hành giá chính xác, khách quan, trung thực và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin theo quy định của pháp luật.
|
Khoản 3: Theo quy định tại Điều 18 Luật Tiếp cận thông tin thì có nhiều hình thức công khai thông tin trong đó có: “Các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin xác định”. Do đó cân nhắc đến các hình thức công khai thông tin về giá phù hợp với các đối tượng là người tiêu dùng. (UBND tỉnh Bình Định)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo tại khoản 3 Điều 6: “3. Việc công khai được thực hiện bằng một trong các hình thức sau: công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang điện tử của cơ quan, đơn vị, phát hành ấn phẩm hoặc văn bản gửi đến các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan hoặc các hình thức phù hợp khác theo khả năng. Đối với các nội dung công khai quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều này phải được cập nhật lên cơ sở dữ liệu về quốc gia về giá.”
|
Đề nghị nêu rõ các trường hợp không được phép công khai theo quy định của pháp luật. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Việc liệt kê các trường hợp khó đầy đủ và thực tiễn là cần thực hiện theo nhiều pháp luật có liên quan đến vấn đề này ví dụ Luật bảo vệ bí mật nhà nước, Luật tiếp cận thông tin, Luật đất đai…
|
Xem xét bỏ công khai thông tin về thẩm định viên về giá.
Do: Để phù hợp với quy định tại điểm a khoản 3 Điều 7 tránh các doanh nghiệp thẩm định giá sử dụng thông tin công khai của “thẩm định viên về giá” vào mục đích kê khai năng lực doanh nghiệp. Mặt khác, thông tin về thẩm định viên về giá đã được cập nhật trên “cơ sở dữ liệu quốc gia về giá”, cơ quan quản lý nhà nước khi cần thiết phải kiểm tra thông tin “thẩm định viên về giá” được yêu cầu cung cấp bản chính hoặc truy cập cơ sở dữ liệu để đối chứng theo phân quyền. (UBND tỉnh Sơn La)
|
Không tiếp thu do hiện nay nội dung này đã và đang được công khai để minh bạch năng lực doanh nghiệp
|
6
|
Điều 7. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Đối với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá; cán bộ, công chức thuộc cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá:
a) Can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật vào quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giá;
b) Tiết lộ, sử dụng thông tin do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh cung cấp không đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Thông đồng về giá, thẩm định giá dưới mọi hình thức.
2. Đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh:
a) Bịa đặt, loan tin, đưa tin không đúng sự thật về tình hình thị trường, giá hàng hóa, dịch vụ;
b) Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết trong các giao dịch mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, chất lượng hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ;
c) Lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và điều kiện bất thường khác; lợi dụng chính sách của Nhà nước để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý;
d) Các hành vi thông đồng về giá dưới mọi hình thức để trục lợi.
3. Đối với doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Tranh giành khách hàng dưới hình thức ngăn cản, đe dọa, lôi kéo, mua chuộc, các hành vi hạ giá dịch vụ bất hợp lý và cạnh tranh không lành mạnh khác; thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá;
b) Thông đồng với khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá;
c) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thoả thuận trong hợp đồng;
d) Tiết lộ thông tin về hồ sơ, khách hàng thẩm định giá và tài sản được thẩm định giá, trừ trường hợp được khách hàng thẩm định giá đồng ý hoặc pháp luật cho phép;
đ) Gây trở ngại hoặc can thiệp vào công việc điều hành của tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá khi họ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
4. Đối với thẩm định viên về giá, ngoài các quy định tại khoản 3 Điều này:
a) Cho thuê, cho mượn; sử dụng Thẻ thẩm định viên về giá trái với quy định của pháp luật về giá;
b) Hành nghề thẩm định giá với tư cách cá nhân;
c) Làm việc trong cùng một thời gian cho từ hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên;
d) Ký Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định giá không đúng lĩnh vực hành nghề;
đ) Thực hiện thẩm định giá cho đơn vị được thẩm định giá mà thẩm định viên về giá có bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột là thành viên trong ban lãnh đạo hoặc kế toán trưởng của đơn vị được thẩm định giá.
5. Đối với khách hàng thẩm định giá:
a) Chọn tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá để ký hợp đồng thẩm định giá;
b) Cung cấp không chính xác, không trung thực, không đầy đủ, không kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến tài sản cần thẩm định giá;
c) Mua chuộc, hối lộ, thông đồng với thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá;
d) Sử dụng kết quả thẩm định giá không trong thời gian hiệu lực, không theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá.
6. Tổ chức, cá nhân đưa ra các điều kiện nhằm hạn chế hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá trái với quy định tại Luật này.
|
Khoản 5: Liệu khách hàng có đủ khả năng và điều kiện để đánh giá về việc tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá hay không?
Trong trường hợp có sự gian dối của bên cung cấp dịch vụ một cách chuyên nghiệp thì rất khó phát hiện. Hơn nữa, việc phát hiện và xử lý các chủ thể không đủ điều kiện/vi phạm quy định của pháp luật có lẽ không thuộc nghĩa vụ của khách hàng. Việc đã để cho hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện thẩm định giá có nghĩa rằng đó là sự cho phép của Nhà nước (Điều 9 quy định thẩm quyền của Bộ Tài chính trong hoạt động thẩm định giá) và người dân/khách hàng có quyền tin tưởng vào sự cho phép đó.
(Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
|
Quy định này được đưa ra để bảo vệ người tiêu dùng và Bộ Tài chính công khai danh sách tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá
|
Điểm c khoản 5: Đề nghị bổ sung tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về giá cho đầy đủ và bao quát được các đối tượng áp dụng của dự thảo Luật (Bộ Công an)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Điều 7 có quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm nhưng chưa có quy định hình thức xử lý khi có hành vi vi phạm một trong các điều cấm. Vì vậy, đề nghị bổ sung một điều để quy định hình thức (chế tài) xử lý các hành vi vi phạm tại Điều 7 làm căn cứ pháp lý để áp dụng trong tổ chức triển khai thực hiện, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật; đồng thời cũng là giải pháp để răn đe, phòng ngừa vi phạm. (Bộ Nội vụ)
|
Quy định này sẽ được quy định tại cụ thể tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính hướng dẫn Luật giá sửa đổi và hiện nay được quy định tại NĐ 109/2013/NĐ-CP
|
- Đề nghị sửa cách quy định về người có liên quan theo Khoản 23 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020. (Bộ Quốc phòng)
|
Việc giới hạn các đối tượng như dự thảo đã đảm bảo cho việc thực hiện quy định trong hoạt động thẩm định giá và không cần thiết phải quy định hết các đối tượng như trong Luật doanh nghiệp
|
Đề nghị sửa Điểm C Khoản 2 Điều 7 như sau: "lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, điều kiện bất thường khác và chính sách của Nhà nước để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý" để tránh lặp tự "lợi dụng" và có quy định chi tiết về nội dung "bất hợp lý". (Bộ Quốc phòng)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
- Điểm a khoản 1: “a) Can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật vào quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thẩm định giá và tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giá;” (Bộ Công an)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
- Khoản 4: Đề nghị bổ sung một điểm quy định về việc nghiêm cấm đối với hành vi thông đồng về giá dưới mọi hình thức để bảo đảm tính chặt chẽ và bao quát được các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có liên quan đến lĩnh vự quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá. (Bộ Công an)
|
Nội dung này đã có tại khoản 3 điều này.
|
- Điểm d khoản 3: Đề nghị sửa đổi như sau: “Tiết lộ thông tin về hồ sơ, khách hàng…pháp luật cho phép hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.”
- Khoản 5: Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định đối với khách hàng thẩm định giá: “Giả mạo, chỉnh sửa kết quả thẩm định giá”
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
-Khoản 2:
(i) Sửa đổi điểm a, b như sau:
a) Bịa đặt, loan tin, đưa tin không đúng sự thật, không chính xác về tình hình thị trường, giá hàng hóa, dịch vụ;
b) Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết trong các giao dịch mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, phương thức vận chuyển, thanh toán chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ;
(ii) Điểm c: Thời gian qua dịch bệnh Covid 19, các cơ sở sản xuất kinh doanh các loại thiết bị phục vụ phòng chống dịch và các hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục do nhà nước định giá, đã tăng giá cao hơn mức cần thiết nhưng để xác định trường hợp nào được coi là “bất hợp lý” thì không có công cụ hướng dẫn. có căn cứ áp dụng các chế độ xử lý (tăng giá bao nhiêu phần trăm so với thời điểm trước đó được coi là tăng giá hàng hóa dịch vụ bất hợp lý trong trường hợp lợi dụng thiên tai, địch họa, hoản hoạn, dịch bệnh)
- Khoản 4:
(i): Điểm a: Đề nghị bổ sung hành vi giả mạo, tự ý tẩy xóa, sửa chữa nội dung Thẻ thẩm định viên; thẩm định giá cho đơn vị có quan hệ góp vốn, mua cổ phần, trái phiếu.
(ii): Điểm c: Đề nghị bỏ nội dung này vì việc đăng ký hành nghề đã quy định phải đăng ký qua Bộ Tài chính, do đó một thẩm định viên về giá không thể đăng ký hành nghề tại 02 doanh nghiệp cùng một lúc.
(Bộ Công Thương, Lào Cai)
|
- Khoản 2
(i) Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
(ii) Để xác định dấu hiệu tăng giá được coi là bất hợp lý hay không cần phải tiến hành các biện pháp nghiệp vụ (tương tự như Luật Cạnh tranh có điều chỉnh việc hạ giá để cạnh tranh). Do đó không thể lượng hóa cụ thể yếu tố này.
- Khoản 4: Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo.
|
Đề nghị sửa như sau:
- Tại điểm c khoản 1 quy định: "Thông đồng về giá, thẩm định giá dưới bằng mọi hình thức"; tại điểm d khoản 2 quy định: " Các hành vi thông đồng về giá dưới bằng mọi hình thức để trục lợi"; tại điểm a khoản 3 quy định: "Tranh giành khách hàng dưới bằng mọi hình thức ngăn cản, đe dọa, lôi kéo, mua chuộc, các hành vi hạ giá dịch vụ bất hợp lý và cạnh tranh không lành mạnh khác;...". (UBND tỉnh Bình Phước)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
- Điểm c khoản 2: Đề nghị làm rõ thế nào là “bất hợp lý” để làm rõ cơ sở cho việc áp dụng luật do hiện nay không có quy định về lợi nhuận định mức ngành và nguyên tắc cung cầu, cơ hội đầu tư; do đó không thể áp dụng văn bản luật ngành để can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính vào quan hệ thị trường trong khi không thể cung cấp số liệu thống kê về lợi nhuận định mức ngành để khống chế việc tăng giá, nhất là việc tăng giá không phải là mặt hàng thiết yếu trong những thời điểm nhất định. (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công An, Bộ Tài nguyên và môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Công Thương; Bộ Thông tin và Truyền thông; UBND tỉnh Quảng Bình, Quảng Ngãi, Sơn La, Nghệ An, Tiền Giang, Hà Giang, Lạng Sơn, Ninh Bình, Phú Thọ, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Nam Định, Vĩnh Long; Công ty VAI)
- Điểm c khoản 2 đề nghị xem xét quy định: “c) Lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và điều kiện bất thường khác; lợi dụng chính sách của Nhà nước để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ trái quy định”; (Điện Biên)
|
Việc lượng hóa vấn đề “bất hợp lý” phải gắn với bối cảnh thực tế để xác định và thông qua công tác kiểm tra. Do đó không thể có khái niệm cụ thể.
|
- Đề nghị bỏ cụm từ “Tổ chức, cá nhân” đồng thời ghép vào khoản 1 thành một điểm cho phù hợp với nội dung quy định cấm đối với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá. (Bộ Công an)
|
Đã tiếp thu một phần và chỉnh lý tại dự thảo Luật
|
- Khoản 2: Đề nghị bổ sung nội dung “nghiêm cấm hành vi đầu cơ nâng giá để trục lợi” (UBND tỉnh Đà Nẵng)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
- Tại Khoản 6 quy định: "Tổ chức, cá nhân đưa ra các điều kiện nhằm hạn chế hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá trái với quy định tại Luật này." Đề nghị cơ quan soạn thảo chỉnh sửa cụm từ "Tổ chức, cá nhân" thành "Bộ, ngành, địa phương" cho phù hợp vì tổ chức, cá nhân nào không nằm trong hệ thống hành chính Nhà nước có quyền lực để đưa ra điều kiện hạn chế hoạt động. (Bộ Tài nguyên và môi trường, UBND tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Tây Ninh)
|
Việc can thiệp này không chỉ bao gồm các Bộ, ngành mà còn có cả các tổ chức, cá nhân khác (như ngân hàng…) nên vẫn giữ cụm từ chung là tổ chức, cá nhân để đảm bảo bao quát vấn đề
|
7
|
Điều 8. Thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
1. Thống nhất quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá.
2. Phân công, phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá hàng hóa, dịch vụ trong danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá ban hành kèm theo Luật này.
3. Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá trong danh mục ban hành kèm theo Luật này.
4. Quy định danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước bình ổn giá, kê khai giá.
|
Đề nghị quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ và thẩm quyền, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
(Bộ Nông nghiệp, Bộ Nội vụ, Bộ Công an và UBND tỉnh Bình Định)
|
Đã chỉnh lý tại dự thảo Luật chỉ quy định về Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ tại Điều 13.
|
8
|
Điều 9. Thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý về giá và thẩm định giá.
2. Xây dựng, trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá và thẩm định giá, Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
3. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chiến lược về giá và thẩm định giá trong từng thời kỳ.
4. Trình Chính phủ ban hành, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, kê khai giá. Trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
5. Tổ chức thực hiện bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ theo phân công của Chính phủ.
6. Định giá đối với các hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền theo phân công của Chính phủ; quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và hướng dẫn thực hiện phương pháp.
7. Tiếp nhận kê khai giá và hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện kê khai giá.
8. Tổ chức triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường; xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
9. Quy định điều kiện dự thi và điều kiện để cấp Thẻ thẩm định viên về giá; tổ chức thi, cấp thẻ thẩm định viên về giá; quản lý, cấp, tước có thời hạn và thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá; quy định về đăng ký và quản lý hành nghề thẩm định viên về giá.
10. Cấp, cấp lại, đình chỉ, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;đình chỉ hoạt động kinh doanh thẩm định giá.
11. Quản lý hoạt động thẩm định giá đối với doanh nghiệp thẩm định giá, tổ chức nghề nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
12. Công khai danh sách doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá hành nghề.
13. Quy định chương trình đào tạo, điều kiện được tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá và chứng chỉ thẩm định giá nhà nước; quy định về cập nhật kiến thức thẩm định giá cho thẩm định viên về giá.
14. Quy định về đánh giá hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và việc chấp hành các quy định của Nhà nước về thẩm định giá.
15. Thực hiện thẩm định giá nhà nước theo quy định.
16. Thực hiện hợp tác quốc tế về giá và thẩm định giá.
17. Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá và thẩm định giá.
|
a) Khoản 1: “Giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá”, bảo đảm thống nhất với thẩm quyền của Chính phủ quy định tại Điều 8. b) Khoản 2: “Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá và thẩm định giá theo quy định của pháp luật”, bảo đảm đầy đủ cơ quan có thẩm quyền ban hành các quy định về quản lý giá (Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá). Đồng thời, đề nghị không đưa nội dung tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam vào dự thảo Luật, vì khoản này đã quy định chung về quản lý và thẩm định giá (trong đó đã bao gồm nội dung ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá). (Bộ Nội vụ)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Đề nghị xem xét, bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc “Xây dựng và cập nhật kịch bản điều hành giá hàng quý để báo cáo Ban Chỉ đạo điều hành giá của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các giải pháp, biện pháp quản lý, điều hành giá phù hợp” để đảm bảo phù hợp, thống nhất với nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 39 của dự thảo Luật. (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
|
Xây dựng kịch bản là 1 nội dung của tổng hợp phân tích dự báo đã quy định tại dự thảo Luật
|
+ Đề nghị bổ sung: “Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể cho tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phương pháp lập phương án giá (giá tối đa, giá tối thiểu) của hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước đặt hàng”;
+ Rà soát một số quy định lặp lại trong dự thảo: khoản 6 Điều 9, khoản 1 Điều 24, khoản 4 Điều 10 (Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá);
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Tại khoản 17, quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc “Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá và thẩm định giá trong phạm vi cả nước.” bố sung phần in đậm để phù hợp với điểm g khoản 12 Điều 11. (UBND tỉnh Bình Định)
|
Vấn đề thẩm quyền, trách nhiệm phải thực hiện theo pháp luật về xử lý khiếu nại, tố cáo, đây chỉ là quy định mang tính nguyên tắc chung
|
Khoản1Bổ sung “Giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá” (UBND tỉnh Quảng Ngãi)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo tại khoản 1 Điều 14
|
Khoản 17: Đề nghị xem xét bổ sung phạm vi Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá và thẩm định giá của Bộ Tài chính cho phù hợp vì Bộ Tài chính được thực hiện kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật đối với các nội dung thuộc phạm vi theo chức năng, quyền hạn quy định của Chính phủ; không thể kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật đối với những nội dung thuộc phạm vi chức năng, quyền hạn của Bộ ngành khác. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Tiếp thu, chỉnh lý tại dự thảo
|
9
|
Điều 10. Thẩm quyền, trách nhiệm của các Bộ, Cơ quan ngang Bộ
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chínhtrong công tác quản lý nhà nước về giá.
2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá theo thẩm quyền.
3. Đề xuất và phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, kê khai giá.
4. Định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền theo phân công của Chính phủ; Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng, ban hành phương pháp định giá đặc thù đối với hàng hóa, dịch vụ đặc thù theo phân công.
5. Tổ chức thực hiện bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực quản lý theo phân công của Chính phủ.
6. Tiếp nhận kê khai giá theo phân công của Chính phủ, theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
7. Cung cấp dữ liệu về giá vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
8. Tổ chức thực hiện thẩm định giá nhà nước theo quy định pháp luật.
|
Đề nghị bổ sung trách nhiệm: “Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá và thẩm định giá theo thẩm quyền”
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật, tuy nhiên các Bộ không có kiểm tra về thẩm định giá, chỉ có thẩm định giá của nhà nước
|
Khoản 1: Đề nghị bổ sung nội dung như sau “Các Bộ, Cơ quan ngang Bộ thực hiện quản lý nhà nước về giá trong phạm vi, quyền hạn của mình và phối hợp với Bộ Tài chính trong công tác quản lý nhà nước về giá theo quy định” để bảo đảm sự phân công rõ trách nhiệm và tránh chồng chéo trong việc tổ chức thực hiện. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Tiếp thu, chỉnh lý tại dự thảo
|
Khoản 1: Đề nghị bổ sung thêm thẩm quyền “Quy định chương trình đào tạo, điều kiện được tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ định giá, cấp chứng chỉ định giá theo chức năng quản lý nhà nước của Bộ, Cơ quan ngang Bộ (nếu có); quy định về cập nhật kiến thức định giá cho cá nhân hành nghề định giá” và thẩm quyền Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá trong phạm vi chức năng, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
+ Đề nghị bổ sung thêm thẩm quyền “Quy định chương trình đào tạo, điều kiện được tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ định giá, cấp chứng chỉ định giá theo chức năng quản lý nhà nước của Bộ, Cơ quan ngang Bộ (nếu có); quy định về cập nhật kiến thức định giá cho cá nhân hành nghề định giá” và thẩm quyền Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá trong phạm vi chức năng, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Theo quy định của Luật giá 2012 và Luật sửa đổi thì lĩnh vực quản lý nhà nước về thẩm định giá thì BTC là thống nhất quản lý; vấn đề quản lý đào tạo thẩm định giá chỉ theo … Riêng với định giá thì các Bộ, ngành theo chức năng, các Luật chuyên ngành cũng có quy định về định giá … vấn đề này các Bộ quy định theo hệ thống pháp luật chuyên ngành (ví dụ về đất đai) nhưng không được phát sinh thêm các điều kiện chồng chéo.
|
Khoản 1, khoản 2 đề nghị sửa đổi theo hướng: “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi, quyền hạn của mình có trách nhiệm ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá theo quy định của Luật này và Luật chuyên ngành”. (Bộ Xây dựng)
|
Ban soạn thảo không tiếp thu do việc quy định “Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá theo thẩm quyền” là đã đủ đảm bảo tính bao quát
|
Tại khoản 4: đề nghị bổ sung thêm nội dung ban hành tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quản lý. (UBND tỉnh Tiền Giang)
|
Định mức kinh tế kỹ thuật được quy định tại các Luật chuyên ngành, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật giá, Luật thủy lợi, Luật xây dựng
|
10
|
Điều 11. Thẩm quyền, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
1. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, cho ý kiến để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá hàng hóa, dịch vụ theo thẩm quyền.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
a) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá trên địa bàn. Phân công việc tổ chức thực hiện công tác quản lý, điều hành giá, định giá hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn theo quy định của pháp luật về giá;
b) Định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền;
c) Tổ chức phân công, phân cấp việc tiếp nhận kê khai giá trên địa bàn tỉnh;
d) Quyết định chủ trương và biện pháp triển khai thực hiện biện pháp bình ổn giá trên địa bàn tỉnh theo quy định;
đ) Thực hiện nhiệm vụ thu thập, theo dõi, tổng hợp, phân tích diễn biến giá cả thị trường trên địa bàn theo quy định;
e) Xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu về giá trên địa bàn và kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về giá theo quy định;
g) Tổ chức thực hiện thẩm định giá nhà nước theo quy định pháp luật;
h) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giáthuộc phạm vi quản lý của địa phương.
|
- Tại dự thảo Luật đã quy định danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quy định giá của UBND cấp tỉnh cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh là “định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền”. Do đó, đề nghị làm rõ có phải tất cả các trường hợp liên quan đến quyết định giá đều phải có ý kiến của Hội đồng nhân dân tỉnh hay không vì thực tế hiện nay, một số loại giá mới phải xin ý kiến của Hội đồng nhân dân tỉnh được quy định tại một số Luật chuyên ngành, Nghị định của Chính phủ; Thông tư của một số bộ, ngành…
Đề nghị rà soát quy định lại theo hướng những nội dung cần xem xét, cho ý kiến thì quy định thẩm quyền thuộc Thường trực HĐND, còn những nội dung cần quyết định, thông qua HĐND cấp tỉnh quyết định nhằm tạo sự thống nhất, phù hợp, thuận lợi, linh hoạt cho địa phương trong quá trình thực hiện. (UBND tỉnh Hà Nam, Đăk Nông, Sơn La, Long An, Hà Giang, Ninh Bình, Đăk Lăk, Lâm Đồng)
- Qua rà soát thì không thấy có quy trình định giá hàng hóa, dịch vụ của UBND cấp tỉnh. Do đó đề nghị xem xét, chỉnh lý cho thống nhất tại dự thảo.
(Hải Phòng)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo: sửa lại theo hướng linh hoạt, trường hợp cần thiết thì xin ý kiến của thường trực Hội đồng nhân dân; đưa vào quy trình định giá. Mặt khác tại Danh mục cũng đã quy định rõ những mặt hàng thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân (dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; học phí)
|
Khoản 2: Về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh đề nghị bỏ điểm g “Tổ chức thực hiện thẩm định giá nhà nước theo quy định của pháp luật”. Lý do tại dự thảo Luật đã quy định hoạt động thẩm định giá nhà nước do Hội đồng thẩm định giá nhà nước thực hiện. (UBND tỉnh Hà Nam)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo, theo đó rà soát tương tự đối với các quy định của Bộ, ngành
|
Đối với quy định liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh tại Khoản 2 Điều 11 của dự thảo Luật Giá, đề nghị bổ sung thêm một điểm quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh “Đề xuất và phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, kê khai giá; trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá” để thực hiện trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh tại Điều 16 dự thảo Luật Giá. (Bộ Khoa học và công nghệ)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Điều 10 và Điều 11
- Đề nghị phân công rõ việc tiếp nhận kê khai giá cho các cơ quan trong quy định, thống nhất từ trung ương đến địa phương.
- Khoản 4 điều 10 và khoản 2 điều 11: Đề nghị phân công rõ thẩm quyền định giá hàng hóa, dịch vụ cho các cơ quan thống nhất từ trung ương đến địa phương (UBND tỉnh Nghệ An)
|
- Danh mục kê khai tại dự thảo Luật giao Chính phủ quy định
- Danh mục định giá được quy định rõ trong danh mục kèm theo Luật
|
11
|
Điều 12. Quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
1. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có quyền:
a) Tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá;
b) Quyết định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh mà Nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu hoặc nhà nước công bố giá tham chiếu;
c) Cạnh tranh về giá theo quy định của pháp luật;
d) Áp dụng nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá do Nhà nước quy định để định giá hàng hóa, dịch vụ;
đ) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá khi yếu tố hình thành giá thay đổi;
e) Tiếp cận thông tin về chính sách giá của Nhà nước; các biện pháp quản lý, điều tiết giá của Nhà nước và các thông tin công khai khác;
g) Khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá; yêu cầu tổ chức, cá nhân bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
2. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có nghĩa vụ:
a) Lập phương án giá hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá trình cơ quan có thẩm quyền quyết định, kê khai giá lần đầu và khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước;
b) Chấp hành quyết định về giá, biện pháp bình ổn giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
d) Niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ và bán đúng giá niêm yết;
e) Công khai thông tin về giá hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật này;
g) Cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ số liệu, tài liệu có liên quan theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp Nhà nước định giá, áp dụng biện pháp bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu về giá;
h) Giải quyết kịp thời mọi khiếu nại về giá hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh. Bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định
|
- Đề nghị sửa đổi Điểm b khoản 1 thành: “Quyết định giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh mà Nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu hoặc Nhà nước công bố giá tham chiếu”;
- Điểm b khoản 1: Bộ Tư pháp cho rằng, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có quyền quyết định giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh hoặc quyết định giá mua hàng hóa, dịch vụ bán trên thị trường trừ trường hợp hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, chỉnh lý quy định này để đảm bảo quyền định giá của tổ chức, cá nhân chỉ bị hạn chế đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá. (Bộ Tư pháp)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý cụ thể tại khoản 2 Điều 8 dự thảo “2. Quyết định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh mà Nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu hoặc áp dụng giá tham chiếu.”
|
Bổ sung Khoản : “Trường hợp hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước đặt hàng, giá cụ thể của hàng hóa, dịch vụ do Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quyết định trên cơ sở khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu của Bộ Tài chính quy định”; (Bộ Tư pháp)
|
Nội dung này không thuộc quy định tại điều 12 và phân công phân cấp sẽ được quy định rõ tại danh mục
|
Đề nghị sửa điểm d, khoản 2 thành: “Niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ và bán không cao hơn giá niêm yết”. Do Giá bán của một số hàng hóa phụ thuộc vào số lượng bán, dịch vụ lắp đặt, bảo hành,… (UBND tỉnh Hà Nam, Đắk Lắk, Điện Biên)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo khoản 4 điều 9: “4. Niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Luật này.”
|
Tại điểm d khoản 2: Do việc mua bán hàng hóa phụ thuộc nhiều yếu tố, như số lượng, yêu cầu kỹ thuật chọn thêm và điều kiện thanh toán, lắp đặt,… khác nhau thì giá thanh toán khác nhau, do đó chỉ nên quy định như Luật giá 2012: “Niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ và bán không cao hơn giá niêm yết.” (UBND tỉnh Quảng Bình)
|
Điểm đ khoản 1 bổ sung như sau: “đ) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền…. yếu tố hình thành giá thay đổi dẫn đến không phù hợp với mặt bằng giá thị trường hoặc giá hàng hóa, dịch vụ đó không phù hợp với khung giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.”
Do: Phù hợp với khoản 5, khoản 9 điều 4 dự thảo Luật. Đồng thời, thêm điều kiện để cơ quan có thẩm quyền khi xem xét đề nghị tăng giá hàng hóa, dịch vụ khi yếu tố cấu thành giá thay đổi nhưng vẫn phù hợp với mặt bằng giá thị trường và khung giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. (UBND tỉnh Sơn La)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại khoản 5 Điều 8: “5. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá khi yếu tố hình thành giá thay đổi.”
(Để đảm bảo nguyên tắc tại khoản 1 Điều 22)
|
Điểm g khoản 2: Bộ Tư pháp cho rằng, các số liệu, tài liệu có liên quan đến giá hàng hóa, dịch vụ là bí mật kinh doanh của tổ chức, cá nhân, chỉ được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi tổ chức, cá nhân lập phương án giá đối với giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá hoặc khi nhà nước áp dụng thực hiện bình ổn giá bằng hình thức định giá. Đối với yêu cầu cung cấp số liệu, tài liệu phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu về giá cần đưa ra khỏi quy định này để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. (Bộ Tư pháp)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Khoản 6 Điều 8: “6. Cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ số liệu, tài liệu có liên quan theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp Nhà nước định giá, áp dụng biện pháp bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ của mình.”
|
12
|
Điều 13. Quyền, nghĩa vụ của người tiêu dùng
1. Người tiêu dùng có quyền:
a) Lựa chọn, thỏa thuận và góp ý về giá khi mua hàng hóa, dịch vụ;
b) Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về giá, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ;
c) Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ đã mua không đúng tiêu chuẩn chất lượng, số lượng, giá hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, cam kết;d) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi;
đ) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Người tiêu dùng có nghĩa vụ:
a) Thanh toán theo mức giá thỏa thuận, mức giá đã lựa chọn hoặc mức giá do Nhà nước quy định khi mua hàng hóa, dịch vụ;
b) Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan khi phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá.
|
Điểm c Khoản 1: Chỉ nên để yếu tố giá, vì những yếu tố còn lại như tiêu chuẩn chất lượng, số lượng... đã có Luật Dân sự và các văn bản khác điều chỉnh, tránh sự chồng chéo không cần thiết, và cũng không đảm bảo tính thống nhất giữa các điều luật trong 1 văn bản, khi mà phần quy định nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh chỉ quy định về nghĩa vụ niêm yết công khai giá. (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam)
|
Quy định này để đảm bảo sự phù hợp giữa giá với chất lượng và số lượng, Đồng thời quy định tại Luật giá không điều chỉnh về tiêu chuẩn chất lượng và số lượng. Tuy nhiên vẫn tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật khoản 3 Điều 10: “3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ đã mua không đúng tiêu chuẩn chất lượng, số lượng, giá hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, cam kết.”
|
Sửa điểm d khoản 1 như sau: “d) Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền….. Nhà nước định giá khi chất lượng hàng hóa dịch vụ, mặt bằng giá thị trường, khung giá thay đổi”.
Do khoản 11 Điều 4 định nghĩa thì người tiêu dùng kiến nghị điều chỉnh giá khi lợi nhuận, giá trị vô hình của tổ chức, sản xuất kinh doanh thay đổi là không phù hợp. Người tiêu dùng có quyền lợi được hưởng chất lượng hàng hóa, dịch vụ tương xứng chi phí mua. (UBND tỉnh Sơn La)
|
Mặt bằng giá thị trường thay đổi không phải căn cứ để điều chỉnh giá. Đồng thời, khi chất lượng hàng hóa dịch vụ thay đổi thì các yếu tố hình thành giá sẽ thay đổi
Do đó không tiếp thu nội dung này.
|
- Tại Khoản 1:
(i) Tại điểm a, b, c đề nghị nghiên cứu, sửa lại như sau:
“a) Lựa chọn, thỏa thuận và góp ý về giá với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khi mua hàng hóa, dịch vụ;.
b) Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; giá, chất lượng, nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng;
c) Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ đã mua không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết;”.
(ii) Đề nghị nghiên cứu, bổ sung nội dung sau: “Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh về giá, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh”.
(Bộ Công Thương)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại tại Điều 9 và Điều 10 về Quyền và Nghĩa vụ của người tiêu dùng
|
Việc quy định niêm yết giá và phải bán đúng giá niêm yết cần được xem xét lại. Nếu niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và bán đúng giá niêm yết là đúng; Tuy nhiên đối với hàng hóa dịch vụ Nhà nước không định giá mà thuộc quyền định giá của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh thì quy định này là không hợp lý, không phù hợp với tập quán thương mại, thậm chí ngăn cản cơ chế thỏa thuận về giá có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Với những loại hàng hóa, dịch vụ này chỉ cần quy định như Luật Giá hiện hành: Không bán cao hơn giá niêm yết là được (họ có thể bán bằng hoặc thấp hơn giá niêm yết). (Hội thẩm định giá Việt Nam)
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý lại nội dung này thống nhất với quy định tại Mục về niêm yết giá.
|
Điểm b khoản 2 Điều 13 dự thảo Luật quy định người tiêu dùng có nghĩa vụ: “Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan khi phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá”. Hành vi vi phạm pháp luật về giá có thể chưa đến mức bị xử lý hoặc bị xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự; việc phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc dự thảo Luật quy định người tiêu dùng có nghĩa vụ thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan khi phát hiện có hành vi “có dấu hiệu” vi phạm pháp luật về giá có thể làm ảnh hưởng đến chính bản thân người tiêu dùng (trường hợp hành vi đó được chứng minh không phải là hành vi vi phạm pháp luật về giá thì người tiêu dùng có thể bị cho là “vu cáo”, “bịa đặt”; trường hợp hành vi đó được chứng minh là hành vi vi phạm pháp luật về giá thì có thể xảy ra khả năng người tiêu dùng bị “trả thù”). Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc đối với quy định này, nếu quy định đây là nghĩa vụ của người tiêu dùng thì cần có cơ chế bảo vệ người tiêu dùng trong trường hợp này.
(Bộ Tư pháp)
|
Nội dung này đã được chuyển sang Quyền của người tiêu dùng tại điều 9.
|
13
|
Điều 14. Trách nhiệm của đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá
Đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm giúp Thủ trưởng cơ quan tổ chức triển khai các nhiệm vụ quy định tại Điều 9, 10, 11 Luật này.
|
Đề nghị sửa lại như sau: “Đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tình có trách nhiệm giúp cho Thủ trưởng cơ quan, UBND tỉnh tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ quy định tại điều 9,10,11 Luật này”. (UBND tỉnh Hà Nam)
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
|
14
|
Điều 15. Nguyên tắc bình ổn giá
1. Việc bình ổn giá phải được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, kịp thời, công khai, minh bạch.
2. Phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế và bối cảnh kinh tế xã hội, mục tiêu kiểm soát lạm phát chung.
3. Việc bình ổn giá được thực hiện tại một địa phương, trên phạm vi vùng hoặc cả nước. Trường hợp cần thiết căn cứ tình hình thực tế, khả năng ngân sách của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong dịp trước, trong và sau Tết nhằm ổn định giá cả thị trường.
|
Đề nghị bổ sung nguyên tắc “ Tuân thủ pháp luật về giá” (UBND tỉnh Bình Phước)
|
Nội dung này đã được quy định tại Luật giá.
|
Đề nghị bỏ quy định tại Điều 15 về nguyên tắc bình ổn giá, Bộ Tư pháp cho rằng, Luật Giá là văn bản quy phạm pháp luật quy định về bình ổn giá nên nội dung các quy định về bình ổn giá cần thể hiện đúng và đầy đủ nguyên tắc bình ổn giá quy định tại Điều 15 dự thảo Luật, còn nội dung nguyên tắc này nên đưa vào Tờ trình để giải trình nội dung quy định của Luật về bình ổn giá.
(Bộ Tư pháp)
|
Đây là nguyên tắc để triển khai nên không bỏ tại dự thảo.
|
Ngoài 03 nguyên tắc đề nghị nghiên cứu bổ sung nguyên tắc về đảm bảo lợi ích hài hòa giữa người dân, nhà nước và doanh nghiệp khi thực hiện bình ổn giá (Bộ Kế hoạch và đầu tư)
|
Nguyên tắc này đã được thể hiện tại Điều 4, Nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước
|
Tại Khoản 3: đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc bổ sung trường hợp “thiên tai”, “dịch bệnh” gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân vào diện bình ổn giá do Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng và áp dụng để bảo đảm bao quát hết những phát sinh trong thực tế. (Bộ Khoa học và công nghệ)
|
Đã tiếp thu góp ý của Bộ Khoa học và Công nghệ, điều chỉnh về việc bình ổn giá tại địa bàn linh hoạt hơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 dự thảo xin ý kiến thẩm định
|
Khoản 3 xem xét sửa đổi nội dung như sau: “ Nhà nước áp dụng biện pháp phù hợp có thời hạn để bình ổn giá theo quy định. Trường hợp cần thiết, căn cứ vào tình hình thực tế và khả năng ngân sách của địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng và triền khai chương trình bình ổn giá đối với một/một số hàng hóa, dịch vụ nhằm bảo đảm cân đối cung cầu, ổn định giá cả thị trường” vì thực tiễn triển khai cho thấy, chương trình bình ổn thị trường được triển khai xuất phát từ yếu tố mùa vụ và nhu cầu của mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng. Trong khi đó nhu cầu hàng hóa dịp cuối năm và Tết nguyên đán chủ yếu đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm.
(Bộ Công Thương)
|
Tiếp thu và chình lý nội dung này tại dự thảo
|
Khoản 3
Đề nghị xem lại quy định này để phù hợp với quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Thực tế tại địa phương trong những năm qua, UBND tỉnh Đắk Lắk đã xây dựng chương trình bình ổn giá thị 2 trường trên địa bàn tỉnh trước, trong và sau Tết Nguyên đán nhằm ổn định giá thị trường theo hình thức Nhà nước ứng vốn cho doanh nghiệp để dự trữ lượng hàng hóa phục vụ và bán hàng theo giá bình ổn, nhưng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước không được ứng tiền ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp để mua hàng hóa dự trữ phục vụ chương trình bình ổn giá thị trường trước, trong và sau Tết Nguyên đán.
Mặt khác, quy định cụ thể là việc áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường được thực hiện trong dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán hay Tết Dương lịch vì trong thực tế việc áp dụng chương trình bình ổn giá chỉ thực hiện trước, trong và sau Tết.
Để phân biệt rõ danh mục hàng hóa, dịch vụ để áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán với danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đề nghị bổ sung (nội dung in đậm) như sau: “Việc bình ổn giá được thực hiện tại một địa phương, trên phạm vi vùng hoặc cả nước. Trường hợp cần thiết căn cứ tình hình thực tế, khả năng ngân sách của địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng danh mục hàng hóa, dịch vụ để áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán nhằm ổn định giá cả thị trường”.
(UBND tỉnh Bình Định, Long An, Hà Nội, Lạng Sơn, Đăk Lăk, Điện Biên)
|
Tiếp thu các ý kiến và chỉnh lý lại theo hướng như sau: “Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong các giai đoạn nhằm ổn định giá cả thị trường.”
|
15
|
Điều 16. Hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá
1. Hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu thuộc Danh mục do Chính phủ quy định. Trường hợp phát sinh phải điều chỉnh Danh mục, trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét điều chỉnh Danh mục.
2. Trong trường hợp khẩn cấp do thiên tai, dịch bệnh hoặc các trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; trên cơ sở đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét, quyết định hàng hóa, dịch vụ không thuộc Danh mục để áp dụng trong thời hạn nhất định.
|
Khoản 1 về hàng hóa dịch vụ thực hiện bình ổn giá: đề nghị bổ sung thêm danh mục để có cơ sở thực hiện. (UBND tỉnh Đồng Nai)
|
Nội dung này sẽ được quy định tại Nghị định
|
Dự kiến sửa đổi theo hướng bỏ quy định danh mục mặt hàng BOG cụ thể trong Luật mà giao Chính phủ xác định để quy định ở văn bản dưới Luật, kể cả việc điều chỉnh danh mục. Hội TĐGVN cho rằng quy định như vậy có linh hoạt hơn nhưng không minh bạch như quy định hiện hành và việc mở rộng diện mặt hàng BOG – tức mở rộng phạm vi can thiệp, điều tiết của Nhà nước hơn hiện hành là khó tránh khỏi.
Vì vậy, Hội TĐGVN đề nghị giữ như quy định hiện hành, đồng thời cần bổ sung làm rõ hơn về tiêu chí và điều kiện để xác định danh mục hàng hóa, dịch vụ BOG.
(Hội thẩm định giá Việt Nam)
|
Việc giao Chính phủ quy định chi tiết danh mục và điều chỉnh danh mục sẽ tăng cường tình linh hoạt đối với một biện pháp cần triển khai gấp, có tính thời điểm. Đây cũng là chính sách đã được Chính phủ phê duyệt
|
16
|
Điều 17. Các trường hợp và biện pháp bình ổn giá
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bình ổn giá trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá tăng quá cao hoặc giảm quá thấp trong một khoảng thời gian và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh, mặt bằng giá thị trường hoặc trong trường hợp dịch bệnh, thiên tai hoặc khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp theo quy định tại pháp luật về tình trạng khẩn cấp.
2. Các biện pháp bình ổn giá có thời hạn:
a) Điều hòa, kiểm soát cung cầu bao gồm: điều hòa sản xuất hàng hóa trong nước, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; điều hòa hàng hóa giữa các vùng, các địa phương trong nước thông qua việc tổ chức lưu thông hàng hóa; mua vào hoặc bán ra hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ lưu thông;
b) Các biện pháp về tài chính, tiền tệ phù hợp với quy định của pháp luật;
c) Định giá cụ thể, giá tối đa, giá tối thiểu hoặc khung giá; việc định giá được thực hiện theo quy định tại Mục 2 Chương này. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá thấp hơn phương án giá đã được rà soát, đánh giá theo quy định thì xem xét, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo quy định tại Luật ngân sách hoặc có cơ chế hỗ trợ hợp lý, phù hợp với thẩm quyền.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
Khoản 1: Đề nghị quy định cụ thể biên độ tăng, giảm đối với trường hợp hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá tăng quá cao hoặc giảm quá thấp trong một khoảng thời gian và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội để bảo đảm thuận tiện khi áp dụng pháp luật.
(UBND tỉnh Hà Nội, Hải Phòng)
|
Việc lượng hóa vấn đề phải gắn với bối cảnh thực tế để xác định và thông qua công tác kiểm tra. Do đó không thể có quy định cụ thể.
|
Khoản 1 đưa ra các tiêu chí khi thực hiện bình ổn giá là “tăng quá cao” hoặc “giảm quá thấp” trong “một khoảng thời gian” là khó lượng hóa được, nhất là phải nhận diện yếu tố “một khoảng thời gian”. Do đó, đề nghị ban soạn thảo cần làm rõ nội hàm của các tiêu chí trên.
Đề nghị bổ sung quy định về việc quản lý và sử dụng các “Quỹ bình ổn giá” để tăng tính minh bạch trong việc sử dụng quỹ bình ổn.
(Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
|
Mức tăng quá cao hoặc giảm quá thấp gắn với thời gian là dấu hiệu, việc định lượng phải phụ thuộc vào loại hàng hóa và bối cảnh cụ thể.
Các quy định về quỹ BOG đã được bỏ tại dự thảo xin ý kiến rộng rãi.
|
Khoản 2 Điều 17 dự thảo Luật quy định về các biện pháp bình ổn giá và giao Chính phủ quy định chi tiết. Tại khoản 2 Điều 17 không quy định kiểm tra yếu tố hình thành giá; kiểm soát hàng hóa tồn kho, kiểm tra số lượng, khối lượng hàng hóa hiện có (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 19 dự thảo Luật) là một trong các biện pháp bình ổn giá nhưng lại được áp dụng các biện pháp này khi thực hiện bình ổn giá. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, chỉnh sửa để đảm bảo tính thống nhất trong dự thảo Luật về các biện pháp bình ổn giá được áp dụng khi thực hiện bình ổn giá. Ngoài ra, điểm a khoản 1 Điều 19 dự thảo Luật chỉ quy định về việc các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hàng hóa tồn kho, kiểm tra số lượng, khối lượng hàng hóa hiện có mà không quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn... điều này có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, hoàn thiện quy định trên đảm bảo việc thực hiện các biện pháp trên công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
(Bộ Tư pháp)
|
Nội dung này đã được rà soát và quy định thống nhất tại dự thảo.
|
Điểm c khoản 2 Điều 17 dự thảo Luật quy định: “Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá thấp hơn phương án giá đã được rà soát, đánh giá theo quy định thì xem xét, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo quy định tại Luật ngân sách hoặc có cơ chế hỗ trợ hợp lý, phù hợp với thẩm quyền”. Bộ Tư pháp cho rằng, trường hợp cơ quan nhà nước định giá thấp hơn phương án giá đã được rà soát, đánh giá thì việc xem xét, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, cần quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, nguồn hỗ trợ, thời gian thực hiện hỗ trợ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. (Bộ Tư pháp)
Quy định này được hiểu là sử dụng ngân sách để bù cho khoản chi phí không được tính đúng, tính đủ. Đây cũng có thể coi là bước lùi không hợp lý so với hiện hành và không phù hợp với cam kết WTO. Hội TĐGVN đề nghị cần kiên định theo chính sách hiện hành, để giá đi theo thị trường – kể cả giá do Nhà nước định; không lồng ghép thực hiện chính sách xã hội, chính sách an sinh trong giá, việc thực hiện các chính sách này phải được giải quyết bằng các giải pháp ngoài giá.
(Hội Thẩm định giá Việt Nam)
Điểm c khoản 2: Để tránh bị lạm dụng, gây thiệt hại cho nhà nước đề nghị quy định rõ điều kiện, trường hợp được áp dụng và trình tự thủ tục xem xét hỗ trợ ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước hoặc có cơ chế hỗ trợ hợp lý, phù hợp khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giá thấp hơn phương án đã được rà soát, đánh giá theo quy định. (UBND tỉnh Long An)
Đề nghị xem xét lại nội dung này vì quy định này được hiểu là quay lại cơ chế bù giá, bù lỗ mà Luật Giá hiện hành đã bỏ. Bên cạnh đó quy định này không phù hợp với cơ chế thị trường, dễ bị lạm dụng trong thực tế. (Bộ Công Thương)
|
Nội dung hỗ trợ này được dự thảo trên cơ sở thiết kế chỉ áp dụng cho biện pháp bình ổn giá. Tuy nhiên qua đánh giá thì thực tiễn vẫn sẽ rất khó triển khai nên tại dự thảo gửi xin ý kiến thẩm định, Bộ Tài chính đã bỏ nội dung này tại dự thảo
|
Điểm c khoản 2: bổ sung khái niệm định giá cụ thể để phù hợp với các biện pháp bình ổn giá. (UBND tỉnh Bình Định)
|
Đã có quy định cụ thể tại chương định giá
|
Lạm phát cao của nền kinh tế xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có cả những nguyên nhân lạm phát từ tâm lý, từ đầu cơ, găm hàng gây bất ổn định cung cầu do tác động của những thông tin thất thiệt mà không được các cơ quan Nhà nước cung cấp đầy đủ và minh bạch từ thông tin thị trường.
Hội TĐGVN kiến nghị các biện pháp BOG cần bổ sung giải pháp: Cung cấp đầy đủ, công khai, minh bạch thông tin thị trường, cung cầu và các giải pháp điều hành để định hướng thị trường mục tiêu.
(Hội Thẩm định giá Việt Nam)
|
Về công khai, minh bạch thông tin đã được quy định tại Điều 5 về công khai thông tin do đó không cần thiết quy định tại nội dung chương này
|
Nếu chúng ta sửa đổi chính sách theo hướng chỉ BOG đối với các mặt hàng thiết yếu cụ thể khi giá thị trường có biến động bất thường (tăng quá cao hoặc giảm quá thấp) mà xóa bỏ cơ chế bình ổn giá đối với mặt bằng giá (tức là chỉ số giá tiêu dùng) khi mặt bằng giá có biến động ảnh hưởng đến ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, lạm phát… không chỉ là một khiếm khuyết mà còn là một bước lùi so với Luật Giá hiện hành. Bởi vì việc điều tiết giá đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể là quan trọng, nhưng quan trọng hơn phải là điều tiết mặt bằng giá, tức chỉ số giá tiêu dùng (CPI) một chỉ số về lượng đo mức độ lạm phát của nền kinh tế bởi lạm phát là sự gia tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa, dịch vụ theo thời gian. Khi mức giá chung tăng cao sẽ gây những bất lợi cho nền kinh tế. Do đó, nếu không có những quy định bình ổn mặt bằng giá thì các mục tiêu kinh tế vĩ mô sẽ bị đe dọa và việc điều hành nền kinh tế có thể dẫn đến thất bại nếu để nền kinh tế xảy ra lạm phát cao hoặc thiểu phát.
(Hội Thẩm định giá Việt Nam)
|
Biện pháp bình ổn giá trong nhiều trường hợp chủ yếu gắn với các vấn đề cụ thể liên quan đến mặt hàng; trường hợp bình ổn giá khi mặt bằng giá chung (CPI) biến động thường sẽ được sử dụng các biện pháp vĩ mô khác như chính sách tiền tệ (lãi suất…) hay tài khóa hoặc thương mại (cung cầu); việc áp dụng các biện pháp về giá thường khó có hiệu quả trong các trường hợp này. Do vậy tại phạm vi biện pháp bình ổn giá chỉ quy định việc bình ổn giá đối với mặt hàng cụ thể
|
Đề nghị sửa: “1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bình ổn giá trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá tăng quá cao hoặc giảm quá thấp trong một khoảng thời gian và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh, mặt bằng giá thị trường hoặc trong trường hợp dịch bệnh, thiên tai hoặc khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp theo quy định tại pháp luật về tình trạng khẩn cấp hoặc trong dịp trước, trong và sau Tết nhằm ổn định giá cả thị trường.” (UBND tỉnh Long An)
|
Đã chỉnh lý cụ thể tại dự thảo khoản 1 Điều 21: “1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bình ổn giá trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá tăng quá cao hoặc giảm quá thấp trong một khoảng thời gian gây ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh, mặt bằng giá thị trường hoặc khi xảy ra thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn bất ngờ hoặc khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp theo quy định tại pháp luật về tình trạng khẩn cấp.”
|
17
|
Điều 18. Thẩm quyền và trách nhiệm bình ổn giá
1. Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương bình ổn giá trên quy mô vùng hoặc cả nước. Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt chủ trương bình ổn giá; Ban chỉ đạo điều hành giá của Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ trong việc xem xét, phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện chủ trương bình ổn giá. Các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chịu trách nhiệm ban hành Quyết định áp dụng biện pháp bình ổn giá và tổ chức triển khai thực hiện bình ổn giá theo chủ trương, biện pháp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương bình ổn giá trên địa bàn tỉnh. Sở Tài chính có trách nhiệm phối hợp với các Sở, ban, ngành trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định chủ trương và biện pháp bình ổn giá. Sở quản lý ngành, lĩnh vực chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện bình ổn giá.
|
(1) Quy định bổ sung đối với trường hợp thành lập Ban chỉ đạo điều hành giá. (UBND tỉnh Gia Lai)
(2) Khoản 1 quy định Ban chỉ đạo điều hành giá của Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng trong việc xem xét, phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện chủ trương bình ổn giá. Tuy nhiên theo quyết định số 690/QĐ-TTg ngày 11/05/2014, Ban chỉ đạo là tổ chức phối hợp liên ngành. Do đó đề nghị cân nhắc giao việc xem xét, phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện chủ trương bình ổn giá cho cơ quan hành chính có bộ máy tổ chức (Bộ, cơ quan ngang Bộ), có thể là Bộ Tài chính. ( Bộ Công Thương)
|
Đã có quy định cụ thể theo quy chế thành lập Ban chỉ đạo điều hành giá
Đã tiếp thu và chỉnh lý bổ sung chỉ quy định trách nhệm là giúp trong việc xem xét, tham mưu
|
18
|
Điều 19.Thực hiện bình ổn giá
1. Trường hợp bình ổn giá trên quy mô vùng hoặc cả nước, căn cứ chủ trương bình ổn giá được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực theo phân công có trách nhiệm tổ chức thực hiện và phối hợp, hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh triển khai bình ổn giá như sau:
a) Kiểm tra yếu tố hình thành giá; kiểm soát hàng hoá tồn kho; kiểm tra số lượng, khối lượng hàng hóa hiện có để xác định nguyên nhân làm cơ sở cho việc lựa chọn biện pháp bình ổn giá phù hợp. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm triển khai và báo cáo kết quả kịp thời về Bộ quản lý ngành, lĩnh vực để tổng hợp;
b) Lựa chọn, quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bình ổn giá theo quy định tại Điều 17 Luật này;
c) Tổ chức triển khai và kiểm tra thực hiện biện pháp bình ổn giá.
2. Trường hợp bình ổn giá trên địa bàn tỉnh, căn cứ chủ trương bình ổn giá được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt, các Sở quản lý ngành, lĩnh vực theo phân công tổ chức triển khai bình ổn giá như sau:
a) Kiểm tra yếu tố hình thành giá; kiểm soát hàng hoá tồn kho; kiểm tra số lượng, khối lượng hàng hóa hiện có để xác định nguyên nhân làm cơ sở cho việc lựa chọn biện pháp bình ổn giá phù hợp;
b) Lựa chọn một hoặc một số biện pháp bình ổn giá quy định tại Điều 17 Luật này trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định;
c) Tổ chức triển khai và kiểm tra thực hiện biện pháp bình ổn giá.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
- Đề nghị sửa điểm b khoản 1 như sau: “ b) Lựa chọn, quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bình ổn giá theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật này”. Nhằm quy định rõ quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bình ổn giá theo quy định tại khoản 2.
Tương tự sửa điểm b khoản 2: “b) Lựa chọn, quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bình ổn giá theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật này trình UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định”.
(UBND tỉnh Đắk Lắk)
|
Đã chỉnh lý một số nội dung tại dự thảo
|
19
|
Điều 20. Kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Kiểm tra yếu tố hình thành giá theo quy định tại Điều 19 Luật này là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền rà soát, đánh giá về tính đúng đắn, đầy đủ, hợp lý, hợp lệ của các yếu tố hình thành giá hàng hóa, dịch vụ nhằm rà soát, nhận diện các yếu tố tác động đến giá hàng hóa, dịch vụ có cơ sở để xuất chủ trương bình ổn giá.
2. Thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá:
a) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền bình ổn giá xác định đối tượng cần kiểm tra; trên cơ sở đó có văn bản thông báo gửi đến tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
b) Tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng kiểm tra yếu tố hình thành giá có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các thông tin, hồ sơ, tài liệu, chứng từ liên quan đến yếu tố hình thành giá;
c) Thời gian kiểm tra yếu tố hình thành giá tối đa không quá 30 ngày làm việc, việc kiểm tra được tiến hành trực tiếp tại trụ sở của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Trường hợp cần thiết kéo dài thời gian kiểm tra, cơ quan kiểm tra có trách nhiệm thông báo đến đối tượng kiểm tra, thời gian kéo dài không quá 15 ngày làm việc;
d) Kết thúc kiểm tra, cơ quan kiểm tra có báo cáo kết quả kiểm tra yếu tố hình thành giá;
đ) Việc kiểm tra không được ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân.
3. Báo cáo kết quả kiểm tra yếu tố hình thành giá:
a. Báo cáo kết quả kiểm tra yếu tố hình thành giá bao gồm các nội dung về mục đích, yêu cầu, đối tượng kiểm tra; kết quả kiểm tra; nguyên nhân và đề xuất các biện pháp và thời hạn thực hiện bình ổn giá;
b. Báo cáo kết quả kiểm tra là căn cứ để quyết định biện pháp và thời hạn thực hiện bình ổn giá.
4. Trong quá trình kiểm tra, trường hợp phát hiện hành vi vi phạm, cơ quan kiểm tra có trách nhiệm xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
|
Tại điểm a khoản 2 Điều 20 quy định: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền bình ổn giá xác định đối tượng cần kiểm tra…” Đề nghị quy định cụ thể cơ quan nhà nước có thẩm quyền bình ổn giá là cơ quan nào để phân định trách nhiệm rõ ràng theo hướng đồng bộ với quy định tại khoản 2 Điều 18 (UBND tỉnh, Sở Tài chính; Sở, ngành…). (UBND tỉnh Đắk Lắk)
|
Hiện tại dự thảo Luật xin ý kiến thẩm định đã cơ cấu lại biện pháp kiểm tra yếu tố hình thành giá là một mục riêng thuộc chương quản lý, điều tiết giá, là một hoạt động nhằm phục vụ cho việc triển khai các biện pháp điều tiết về giá khác.
|
20
|
Điều 21. Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá
1. Nhà nước định giá đối với hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu, ảnh hưởng toàn diện đến kinh tế - xã hội, đời sống người dân và sản xuất kinh doanh, bao gồm:
a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước sản xuất, kinh doanh theo quy định tại Luật thương mại và các Luật khác;
b) Hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu, có tính chất độc quyền trong mua bán và không thể thay thế;
c) Tài nguyên quan trọng;
d) Hàng dự trữ quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.
2. Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, hình thức định giá và thẩm quyền, trách nhiệm định giá được ban hành thống nhất tại phụ lục kèm theo Luật này. Trường hợp phát sinh phải điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập Báo cáo đánh giá tác động của việc điều chỉnh gửi Bộ Tài chính tổng hợp, trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
3. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục đề nghị điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá.
|
Bổ sung Danh mục: “Hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng an ninh thực hiện đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh sản xuất, cung ứng” do các hàng hóa, dịch vụ này phù hợp nguyên tắc quy định tại Khoản 1 Điều 21 Dự thảo. (Bộ Quốc phòng)
|
Đã bổ sung vào danh mục định giá
|
Đề nghị xem xét sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 như sau: “Hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước sản xuất, kinh doanh, cung cấp theo quy định tại Luật thương mại và pháp luật về chuyên ngành khác có liên quan". Đồng thời, đề nghị bổ sung vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai không sử dụng ngân sách nhà nước, bao gồm: “Dịch vụ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Cung cấp thông tin, dữ liệu đất đai; Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính về đất đai theo nhu cầu về thời gian và địa điểm của người yêu cầu cung cấp dịch vụ”. Trong đó, ở địa phương thì thực hiện Dịch vụ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính về đất đai theo nhu cầu về thời gian và địa điểm của người yêu cầu cung cấp dịch vụ; ở Trung ương thì thực hiện Dịch vụ Cung cấp thông tin, dữ liệu đất đai. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Không tiếp thu vì mặc dù dịch vụ đăng ký đất đai: lệ phí, cung cấp thông tin dữ liệu đất đai: phí theo Luật phí, lệ phí; tuy nhiên Việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quảlà dịch vụ ngoài gia tăng, không bắt buộc, theo nhu cầu.
|
Điểm d khoản 1: Đề nghị rà soát quy định hàng dự trữ quốc gia là đối tượng Nhà nước định giá trong dự thảo, bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Dự trữ quốc gia. Cụ thể: Theo Luật Dự trữ quốc gia (Mục 2 và Mục 3), việc mua hàng dự trữ quốc gia đươc thực hiện theo pháp luật về đấu thầu; việc mua hàng dự trữ quốc gia được thực hiện theo các phương thức bán đấu giá, bán chỉ định và bán trực tiếp rộng rãi cho mọi đối tượng. (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
|
Hàng dự trữ quốc gia là hàng hóa đặc biệt, được mua chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước, việc định giá nhằm mục đích kiểm soát chi ngân sách là rất quan trọng nên vẫn cần thiết phải thực hiện định giá
|
Điểm d khoản 1: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo đưa ra các nguyên tắc về tiêu chí, đối tượng các loại sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công do nhà nước định giá để các Bộ ngành, địa phương rà soát với Luật chuyên ngành và thực tế thực hiện (ví dụ, theo phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng trong dự thảo Luật giá (sửa đổi): bổ sung danh mục nhà nước định giá có dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải, giá thuê công trình hạ tầng kỹ thuật chung do nhà nước đầu tư, chưa có giá (chi phí) dịch vụ nghĩa trang và dịch vụ hoả táng; ngoài ra, danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí 2 nhà nước còn có lĩnh vực duy trì chiếu sáng đô thị, cây xanh đô thị, tuy nhiên, hai lĩnh vực này thực hiện theo hình thức quản lý chi phí…). (Bộ Xây dựng)
|
Việc quy định tiêu chí là nhằm làm cơ sở cho việc xác định các hàng hóa, dịch vụ nào sẽ được định giá; tuy nhiên không phải tất cả các hàng hóa, dịch vụ phù hợp với tiêu chí thì sẽ thuộc danh mục nhà nước định giá. Do vậy, vẫn sẽ có một số mặt hàng được quản lý theo biện pháp gián tiếp khác (qua chi phí hay phương pháp xác định giá…)
|
Đề nghị bổ sung điểm đ vào Khoản 1, Điều 21 dự thảo Luật nội dung sau:
“đ) Hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu khác theo quy định của Pháp luật”. (Ủy ban dân tộc)
|
Không tiếp thu do quy định này quá rộng và liên quan nội dung này đã được nghiên cứu tại điểm b
|
Khoản 2 Điều 21 quy định “Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, hình thức định giá và thẩm quyền, trách nhiệm định giá được ban hành thống nhất tại phục lục kèm theo Luật này. Tuy nhiên, Ban Soạn thảo nên cân nhắc quy định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm và các hình thức định giá được áp dụng tại mục 2 Chương III Dự thảo Luật, Phụ lục kèm theo chỉ quy định về Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và hình thức định giá đói với từng hàng hóa, dịch vụ cụ thể. (Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
|
Khoản 2 Điều 21 dự thảo Luật quy định: “Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, hình thức định giá và thẩm quyền, trách nhiệm định giá được ban hành thống nhất tại phụ lục kèm theo Luật này”. Tuy nhiên, trong hồ sơ gửi lấy ý kiến chỉ có Danh mục hàng hóa dịch vụ do Nhà nước định giá (chỉ có tên hàng hóa, dịch vụ; quy định hiện hành và đề xuất), chưa có quy định về hình thức định giá, thẩm quyền, trách nhiệm định giá. Do vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo hoàn thiện nội dung này, lấy ý kiến của các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong quá trình thực hiện. Mặt khác, thẩm quyền, trách nhiệm định giá là nội dung rất quan trọng của Luật Giá nên cần thể hiện trong nội dung của Luật chứ không nên đưa vào phụ lục ban hành kèm theo Luật. (Bộ Tư pháp)
|
Đã có đề xuất về hình thức tại Danh mục
|
Khoản 2 quy định danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá đã nhận thấy một số dịch vụ như: dịch vụ sử dụng các dự án đầu tư xây dựng đường cho kinh doanh (BOT), dịch vụ dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ (chợ do nhà nước đầu tư), thù lao đấu giá, công chứng đề xuất đưa ra khỏi danh mục; tuy nhiên để tránh việc lúng túng trong thực hiện các loại giá dịch vụ có vốn nhà nước, dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp đề xuất giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế nếu cần thiết quyết định hoặc phân cấp quyết định các loại giá nêu trên. (UBND tỉnh Đồng Tháp)
|
Việc phân công phân cấp sẽ được quy định cụ thể tại danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá
|
- Để bảo đảm phân quyền quyết định giá hợp lý, minh bạch Hội TĐGVN đề nghị trước hết cũng phải xây dựng được các tiêu chí rõ ràng về thẩm quyền và lựa chọn danh mục phù hợp với thẩm quyền định giá.
- Trong Dự thảo Hội TĐGVN nhận thấy việc phân cấp theo hướng giảm quyền quyết định giá của Bộ Tài chính cơ quan tổng hợp thực hiện chi ngân sách gắn với giá so với trước là không phù hợp. Đề nghị cần rà soát lại và phân quyền như ý kiến góp ý trên; Mặt khác, Dự thảo cũng đưa ra yêu cầu: Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định của các Bộ… Sau khi có ý kiến tham gia bằng văn bản của Bộ Tài chính cũng không hợp lý về thủ tục hành chính mà cần lựa chọn có chọn lọc loại hàng nào gắn với tiêu chí rõ ràng.
|
Hiện nay tại dự thảo đã bổ sung quy định rõ hơn về nguyên tắc phân công, phân cấp:
“a) Bộ Tài chính định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý; hàng hóa dịch vụ thuộc nhiều ngành, lĩnh vực quản lý và ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước;
b) Bộ, cơ quan ngang Bộ định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực, phạm vi chuyên ngành quản lý theo quy định pháp luật;
c) Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá đối với hàng hóa, dịch vụ có tính địa bàn theo phạm vi quản lý.”
|
+ Nghiên cứu quy định tại khoản 2, khoản 3 theo hướng bỏ khoản 3 vì trong khoản 2 đã quy định.
+ Về hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá: Khoản 2 quy định Phụ lục Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, hình thức định giá và thẩm quyền, trách nhiệm định giá. Tuy nhiên chưa có Phụ lục kèm theo dự thảo. Vì vậy, đề nghị bổ sung Phụ lục này tại dự thảo Luật. (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
|
21
|
Điều 22. Nguyên tắc định giá
1. Bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá thực tế hợp lý, hợp lệ, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường; có tính đến lộ trình giá thị trường phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
2. Kịp thời xem xét điều chỉnh giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi.
3. Bảo đảm hài hòa quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng và của nhà nước.
|
Tại Khoản 1 Điều 22: Đề nghị có giải thích rõ về “Có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường”. (Bộ Quốc phòng)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo tại khoản 1 Điều 25: “1. Bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng thị trường và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.”
|
Khoản 1 Điều 22: Đề nghị sửa nội dung “Bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá thực tế hợp lý, hợp lệ, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường; có tính đến lộ trình giá thị trường phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.” thành “Bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá thực tế hợp lý, hợp lệ, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá phổ biến trên thị trường;”; vì việc quy định phải tính lộ trình giá thị trường phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ mà không quy định rõ khái niệm, cách tính toán thì sẽ gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo tại khoản 1 Điều 25: “1. Bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng thị trường và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.”
Vì lợi nhuận phải phù hợp với mặt bằng thị trường.
|
Khoản 1: Đề nghị quy định rõ cơ sở, phương pháp xác định giá sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước trong trường hợp không có giá thị trường và quy định về việc tính lợi nhuận dự kiến đối với một số sản phẩm, dịch vụ công do các đơn vị sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước xây dựng để sản xuất, kinh doanh. (UBND tỉnh Đà Nẵng)
|
Việc quy định cụ thể này sẽ được xây dựng tại Thông tư về hướng dẫn phương pháp định giá.
|
Khoản 1 quy định nguyên tắc định giá “bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá thực tế hợp lý, hợp lệ, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường; có tính đến lộ trình giá thị trường phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ” Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, quy định bổ sung về nguyên tắc, cơ chế tổ chức thực hiện đối với các loại hàng hóa, dịch vụ có tính đến lộ trình giá thị trường. (Bộ Xây dựng)
|
Việc tính đến lộ trình thực hiện đã được thể hiện tại nguyên tắc định giá “Bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý; lợi nhuận phù hợp với mặt bằng thị trường, cung cầu hàng hóa, dịch vụ và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.”
|
Tại Điều 22 dự thảo Luật giá (sửa đổi) quy định nguyên tắc định giá, đề nghị bổ sung thêm các nguyên tắc đảm bảo phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. (Bộ Ngoại giao)
|
Không tiếp thu vì vấn đề này đã được điều chỉnh tại Luật Điều ước quốc tế
|
Đề nghị sửa khoản 3 như sau: “Bảo đảm hài hòa quyền lợi và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh.”
Lý do: Mặc dù đảm bảo hài hòa quyền và lợi ích của các bên nhưng phải ưu tiên lợi ích Nhà nước, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh. Mặt khác, quy định như vậy sẽ đảm bảo đúng với cương lĩnh chính trị của Đảng và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước (UBND tỉnh Bình Phước)
|
Đã chỉnh lý lại tại khoản 3 Điều 25: “3. Bảo đảm hài hòa quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng.”
|
Khoản 1: “1. Bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá thực tế hợp lý, hợp lệ tương xứng với chất lượng hàng hóa, dịch vụ có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường; có tính đến lộ trình giá thị trường phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.”
Do: Khi các bộ, ngành ban hành hướng dẫn phương pháp định giá, hướng dẫn phương pháp quy định giá cụ thể, thường đưa các chi phí khấu hao TSCĐ và CPSX, khi đó với quy mô, giá trị TSCĐ khác nhau nhưng chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đến người tiêu dùng giống nhau thì có giá khác nhau.
Việc bổ sung này sẽ đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Đồng thời, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tự đổi mới phương pháp để giảm giá thành, nâng cao hiệu suất lao động. (UBND tỉnh Sơn La)
|
Trong khái niêm yếu tố hình thành giá đã có “1. Bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá thực tế hợp lý, hợp lệ có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường và chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.”
|
122
|
Điều 23. Căn cứ định giá
1. Giá thành toàn bộ, chất lượng của hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm định giá; mức lợi nhuận dự kiến.
2. Quan hệ cung cầu của hàng hóa, dịch vụ và sức mua của đồng tiền; khả năng thanh toán của người tiêu dùng.
3. Giá thị trường trong nước, thế giới và khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm định giá.
|
Đề nghị chỉnh lý cụm từ “giá thành toàn bộ” thành “yếu tố hình thành giá” để bảo đảm nguyên tắc định giá quy định tại khoản 1 Điều 22 về tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá. (Bộ Công an)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Khoản 1: Căn cứ định giá là giá thành toàn bộ, chất lượng của hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm định giá; mức lợi nhuận dự kiến. Như vậy, chưa bảo đảm tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá (yếu tố hình thành giá gồm giá thành toàn bộ thực tế hợp lý, hợp lệ tương ứng với chất lượng của hàng hóa, dịch vụ; lợi nhuận (nếu có); các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; giá trị thương hiệu… (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Tiếp thu, chỉnh lý thành yếu tố hình thành giá
|
Đề nghị bổ sung căn cứ định giá là định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành (nếu có).
(Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)
|
|
Đề nghị bổ sung thêm căn cứ định giá đối với trường hợp hàng hóa dịch vụ có tính đặc thù để thống nhất với quy định tại Khoản 2 Điều 24. (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
|
Các nội dung căn cứ đã đảm bảo bao quát các đối tượng.
|
23
|
Điều 24. Phương pháp định giá
1. Phương pháp định giá là các cách thức, quy trình kĩ thuật để xác định giá hàng hóa, dịch vụ theo các cách tiếp cận từ so sánh giá thị trường, từ các yếu tố hình thành giá và từ thu nhập. Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; trường hợp hàng hóa, dịch vụ có yếu tố hình thành giá mang tính chuyên ngành, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành văn bản hướng dẫn phương thức xác định, thực hiện.
2. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ có tính đặc thù không thể áp dụng phương pháp định giá chung quy định tại Khoản 1 Điều này. Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá riêng.
|
Tại Khoản 1 Điều 23: Đề nghị bổ sung định nghĩa về cách xác định "thời điểm định giá; mức lợi nhuận dự kiến".
(Bộ Quốc phòng)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo tại khoản 2 Điều 26: “2. Phương pháp định giá:
a) Phương pháp định giá là các cách thức, quy trình kĩ thuật để xác định giá hàng hóa, dịch vụ;
b) Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; trường hợp hàng hóa, dịch vụ có yếu tố hình thành giá cần hướng dẫn chi tiết, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành văn bản hướng dẫn;
c) Trường hợp Luật khác có quy định về phương pháp định giá chuyên ngành, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành phương pháp riêng.”
|
Cần rà soát lại Khoản 1 và Khoản 2 để làm rõ sự khác nhau giữa "tính chuyên ngành" và "tính đặc thù" của hàng hóa, dịch vụ, từ đó xác định rõ thẩm quyền quy định phương pháp định giá (do Bộ Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn phương thức xác định hay Bộ quản lý ngành chủ trì ban hành phương pháp định giá riêng?). (Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, UBND tỉnh Lâm Đồng)
|
Về phương pháp định giá:
- Đề nghị xác định thế nào là hàng hóa, dịch vụ có yếu tố hình thành giá mang tính chuyên ngành (khoản 1 Điều 24) và hàng hóa, dịch vụ có tính đặc thù (khoản 2 Điều 24). Đồng thời làm rõ sự khác nhau giữa 02 loại hàng hóa này để đảm bảo thống nhất, rõ ràng trong quá trình các Bộ, ngành triển khai thực hiện, áp dụng. (Bộ Nông nghiệp)
- Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, làm rõ trường hợp nào thì ban hành văn bản hướng dẫn, trường hợp nào ban hành phương pháp định giá riêng để đảm bảo tính khả thi và tính thống nhất trong quá trình triển khai thi hành. (Bộ Tư pháp)
|
Tại khoản 1: Đề nghị đưa khái niệm Phương pháp định giá lên Điều 4. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Không cần thiết đưa vào định nghĩa do đây là vấn đề có tính tổ chức thực hiện
|
Theo Điều 24 dự thảo Luật đang quy định Bộ Tài chính sẽ ban hành hướng dẫn phương pháp định giá chung; các Bộ, ngành sẽ chủ động ban hành phương pháp định giá đối với một số mặt hàng có tính chất đặc thù của các Bộ, ngành. Tuy nhiên, đề nghị nghiên cứu, giải quyết vấn đề thực tiễn vướng mắc hiện nay (nhiều mặt hàng rất khó định giá hoặc nhạy cảm như trang thiết bị y tế, thuốc…). Trong đó có quy định các Bộ, ngành có phương pháp định giá đối với những mặt hàng riêng cho các hàng hóa, dịch vụ có tính đặc thù, đề nghị đánh giá tính khả thi của quy định này, có thực hiện được không. (Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, UBND tỉnh Hải Dương)
Đồng thời, đề nghị bổ sung quy định giao Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quy định “danh mục hàng hóa, dịch vụ đặc thù” làm căn cứ pháp lý cho các Bộ chuyên ngành và Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ quy định tại Khoản 4 Điều 10 và Khoản 2 Điều này (nếu còn quy định). (Bộ Công Thương)
Đề nghị bỏ đoạn “trường hợp hàng hóa, dịch vụ có yếu tố hình thành giá mang tính chuyên ngành, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành văn bản hướng dẫn phương thức xác định, thực hiện tại khoản 1 và sửa khoản 2 như sau: Trường hợp hàng hóa, dịch vụ có yếu tố hình thành giá mang tính chuyên ngành, không thể áp dụng phương pháp định giá chung quy định tại khoản 1 Điều này, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá riêng. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
Để thống nhất việc ban hành phương pháp định giá có tính đặc thù của một số bộ quản lý ngành, đề nghị Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan ban hành phương pháp định giá riêng. Điều chỉnh nội dung quy định như sau “2. Trường hợp hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù không thể áp dụng phương pháp định giá chung quy định tại Khoản 1 Điều này, Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ quản lý chuyên ngành ban hành phương pháp định giá riêng”. (Bộ Khoa học và công nghệ)
|
Đã chỉnh lý như sau:
“2. Phương pháp định giá:
a) Phương pháp định giá là cách thức, quy trình để xác định giá hàng hóa, dịch vụ. Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; trường hợp hàng hóa, dịch vụ có yếu tố hình thành giá cần hướng dẫn chi tiết, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành văn bản hướng dẫn;
b) Đối với một số hàng hóa, dịch vụ mà Luật khác quy định về phương pháp định giá riêng, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành phương pháp để thực hiện.”
Việc Bộ Tài chính chủ trì ban hành phương pháp chung và hướng dẫn phương pháp trong trường hợp có các yếu tố hình thành giá cần hướng dẫn chi tiết là chủ trương chung về thống nhất đầu mối trong ban hành phương pháp đã được Chính phủ phê duyệt trong quá trình xây dựng Chính sách.
Việc ban hành phương pháp định giá riêng liên quan trực tiếp đến tính đặc thù của hàng hóa, phải áp dụng các phương thức xác định giá riêng biệt nên do các Bộ chuyên ngành triển khai.
|
24
|
Điều 25. Ban hành Quyết định giá
1. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét ban hành Quyết định giá hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở phương án giá được lập theo quy định tại Luật này. Hình thức quyết định về giá hàng hóa, dịch vụ là văn bản hành chính. Trừ trường hợp tại Quyết định giá có các nội dung về cơ chế, chính sách giá thì phải phải ban hành Quyết định văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Thủ tướng Chính phủ, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm tổ chức lập phương án giá trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Tài chính.
3. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Bộ trưởng Bộ Tài chính, việc lập, thẩm định phương án giá và trình ban hành Quyết định giá được thực hiện như sau:
a) Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý của các Bộ: Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm tổ chức lập phương án giá, có văn bản gửi Bộ Tài chính đề nghị định giá; đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định;
b) Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tài chính, đơn vị chuyên môn hoặc đơn vị quản lý hàng dự trữ quốc gia có trách nhiệm lập phương án giá; đơn vị được giao nhiệm vụ quản quản lý giá thuộc Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định;
c) Trường hợp hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước đặt hàng, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm lập phương án giá gửi Bộ quản lý ngành, lĩnh vực thẩm định và có văn bản gửi Bộ Tài chính đề nghị định giá; đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ Tài chính có trách nhiệm rà soát hồ sơ phương án giá trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định.
4. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá Bộ, cơ quan ngang Bộ, đơn vị chuyên môn thuộc Bộ lập phương án giá; đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ có trách nhiệm thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình Bộ trưởng quyết định sau khi có ý kiến tham gia bằng văn bản của Bộ Tài chính.
5. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an do Bộ trưởng các bộ này quy định việc lập, thẩm định phương án giá và trình Quyết định giá.
6. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định giá của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Sở quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm tổ chức lập phương án giá trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định sau khi có ý kiến thẩm định của Sở Tài chính. Trường hợp lập và thẩm định bảng giá đất, phương án giá đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.
7. Đơn vị được giao trách nhiệm xây dựng phương án giá tổ chức khảo sát thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh tại một số đơn vị; diễn biến cung cầu; mặt bằng giá thị trường để xây dựng phương án giá và đánh giá tác động của mức giá đến kinh tế xã hội, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân. Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở biến động yếu tố hình thành giá chủ động rà soát, đánh giá hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền định giá lập báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá gửi cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định giá hàng hóa, dịch vụ.
8. Bộ Tài chính quy định về phương án giá và hồ sơ trình ban hành Quyết định giá.
|
Khoản 6: Đề nghị có hướng dẫn cụ thể về hình thức, nội dung thẩm định phương án giá của Sở Tài chính. (UBND tỉnh Hà Nam)
|
Sẽ được quy định chi tiết tại văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn dưới Luật
|
- Khoản 6: Đất là tài sản đặc thù, hiện nay phương pháp định giá đất do Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định, giá đất. Do đó, để phù hợp với quy định tại Điều 25, đề nghị không quy định nội dung này.
(UBND tỉnh Lâm Đồng)
- Khoản 6: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu việc quy định trách nhiệm lập phương án giá, thẩm định giá, quyết định giá theo quy định của Luật chuyên ngành và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. (Bộ Xây dựng)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo theo hướng quy định chung các bước quy trình để hướng dẫn chi tiết tại Nghị định
|
Khoản 1 không thống nhất với quy định Điều 10, Điều 11 dự thảo Luật và Điều 4 Luật ban hành văn bản QPPL. Do nếu các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành văn bản QPPL về giá có các nội dung về cơ chế, chính sách giá thì theo Luật ban hành văn bản QPPL phải ban hành dưới dạng Thông tư. Nếu UBND cấp tỉnh ban hành thì phải dưới dạng Quyết định. (UBND tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật
|
Tại Dự thảo Luật không có quy định về cơ quan có thẩm quyền định giá nên không xác định được mối liên hệ giữa cơ quan có thẩm quyền định giá với cơ quan có thẩm quyền ban hành Quyết định giá. Vì vậy, cần cân nhắc bổ sung quy định về việc cơ quan có thẩm quyền định giá ban hành Quyết định giá. (Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật
|
Trình tự thủ tục ban hành Quyết định giá: nên cân nhắc quy định đến trách nhiệm của Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, còn trình tự, thủ tục cụ thể trong nội bộ Bộ, ngành UBND cấp tỉnh nên quy định tại văn bản quy định chi tiết (Khoản 8 Điều 25 có giao trách nhiệm cho Bộ Tài chính quy định về phương án giá và hồ sơ trình ban hành Quyết định giá).
(Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
|
Quy định này nhằm thể hiện cụ thể phương án chính sách đã được Chính phủ phê duyệt
|
Cần thống nhất trong sử dụng thuật ngữ "lập phương án giá" hay "xây dựng phương án giá". Điều 25 đang sử dụng cả hai cụm từ này. (Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
|
Đã tiếp thu và thống nhất sử dụng thuật ngữ: “lập phương án giá”
|
Tại Khoản 4 Điều 25 về ban hành Quyết định giá quy định: "Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Bộ, cơ quan ngang Bộ, …, đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ có trách nhiệm thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình Bộ trưởng quyết định sau khi có ý kiến tham gia bằng văn bản của Bộ Tài chính".
Ban Soạn thảo cân nhắc lại quy định này vì dịch vụ sự nghiệp công, sản phẩm dịch vụ công ích nhà nước đặt hàng sử dụng NSNN thuộc thẩm quyền định giá của các Bộ quản lý ngành (mục 41 Danh mục hàng hóa, dịch vụ Nhà nước định giá) có khối lượng rất lớn (trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch hiện quy định 75 dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo QĐ 156/QĐ-TTG ngày 29/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ). Nếu việc định giá tất cả các hàng hóa, dịch vụ này đều phải xin ý kiến thỏa thuận của Bộ Tài chính thì khối lượng công việc của Bộ Tài chính phải xử lý rất lớn và khó đảm bảo về tiến độ trả lời văn bản đối với các Bộ quản lý ngành để Bộ đặt hàng đơn vị cung ứng sản xuất sản phẩm, dịch vụ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước. (Bộ Văn hóa thể thao và du lịch)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Đề nghị bỏ Điều 25 Ban hành Quyết định giá vì việc quyết định giá, thẩm định phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất của ngành, lĩnh vực. Nên Luật giá chỉ quy định nguyên tắc chung sẽ phù hợp hơn. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Các quy định về ban hành quyết định giá cần được quy định rõ để tạo sự thống nhất chung trong triển khai. Việc không thống nhất trong triển khai là một trong các tồn tại hạn chế đã nêu rõ tại Báo cáo tổng kết. tại nội dung Chính sách thì Chính phủ cũng đã quy định cần có quy trình chung gắn với đánh giá, giám sát, kiểm tra kết quả thực hiện. Theo đó tại Điều 25 thì các quy định cũng chỉ là định hướng chung, việc định giá phải trên cơ sở phương án giá, được thẩm định để trình ban hành. Tuy nhiên có kế thừa hiện hành để loại trừ 2 lĩnh vực công an, quốc phòng đặc thù liên quan đến bí mật, an ninh quốc gia.
|
- Điểm d Khoản 3 Điều 19 Luật giá 2012 quy định “Định giá tối đa hoặc tối thiểu đối với hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch sản xuất, kinh doanh sản phẩm…”. Tuy nhiên, tại Điều 25 Dự Thảo Luật giá không quy định đối với các trường hợp định giá hàng hóa dịch vụ được Nhà nước giao kế hoạch sản xuất, kinh doanh (giao nhiệm vụ). Đề nghị có thuyết minh lý do đề xuất bỏ nội dung này.
- Điểm c Khoản 3 Điều 25 dự thảo Luật giá quy định “Trường hợp hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước đặt hàng, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm lập phương án giá gửi Bộ quản lý ngành, lĩnh vực thẩm định và có văn bản gửi Bộ Tài chính đề nghị định giá; đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ Tài chính có trách nhiệm rà soát hồ sơ phương án giá trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định”.
Tuy nhiên, tại số thứ tự 41 Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá về dịch vụ sự nghiệp công, hàng hóa do Nhà nước định giá về dịch vụ sự nghiệp công, hàng hóa, dịch vụ công ích nhà nước đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đề xuất các Bộ, ngành, địa phương quyết định giá cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định đặt hàng của mình.
Do đó, đề nghị rà soát, chỉnh sửa đảm bảo thống nhất.
(Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
|
- Tại Nghị định 32, hiện nay không quy định hình thức giao kế hoạch phải định giá
- Tiếp thu và sửa tại quy trình
|
Điểm a khoản 2 quy định: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có nghĩa vụ lập phương án giá hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá trình cơ quan có thẩm quyền quyết định”. Đề nghị sửa lại quy định về thẩm quyền của đơn vị chuyên môn thuộc Bộ, sở quản lý ngành, lĩnh vực thuộc địa phương và tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh tại các khoản 4, 6, 7 Điều 25 cho phù hợp với điểm a khoản 2 Điều 12.
(Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
|
Tại dự thảo đã quy định rõ 2 trường hợp tổ chức kinh doanh thực hiện lập phương án giá nên không có mâu thuẫn tại 2 điều này.
|
Khoản 1 Điều 25, đề nghị làm rõ hoặc tham chiếu đến nội dung ghi rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại quy định “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét ban hành Quyết định giá…”. (Bộ Khoa học và công nghệ)
|
Đã bổ sung thêm 1 Điều quy định chi tiết về cơ chế giá tham chiếu
|
Về ban hành Quyết định giá: Đề nghị xác định, làm rõ như thế nào là Quyết định giá “có các nội dung về cơ chế, chính sách giá” để đảm bảo thuận lợi cho các cơ quan áp dụng trong quá trình triển khai thực hiện Luật. (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
|
Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Tư pháp có hướng dẫn về nội dung này gửi các Bộ, ngành và địa phương tại công văn số 12076/BTC-QLG ngày 02/10/2020 V/v hình thức văn bản về quản lý, điều hành giá. Tuy nhiên Nội dung này sẽ được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định
|
25
|
Điều 26. Hàng hóa, dịch vụ hiệp thương giá
Hàng hóa, dịch vụ hiệp thương giá phải đảm bảo các điều kiện sau:
1. Không thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
2. Có tính chất độc quyền mua hoặc độc quyền bán mà bên mua, bên bán phụ thuộc nhau không thể thay thế được; hàng hóa, dịch vụ quan trọng được sản xuất hoặc kinh doanh trong điều kiện đặc thù.
|
Khoản 1 Điều 26: Cân nhắc bỏ quy định này để thực hiện theo Báo cáo đánh giá tác động chính sách và đảm bảo sự phù hợp giữa các quy định của dự thảo Luật.
|
Quy định này kế thừa hiện hành, đảm bảo loại trừ các mặt hàng đã thực hiện định giá sẽ không thực hiện hiệp thương và đảm bảo chính sách đã được phê duyệt
|
26
|
Điều 27. Nguyên tắc hiệp thương giá
1. Các đối tượng đề nghị hiệp thương phải là doanh nghiệp mua, bán hàng hóa, dịch vụ đáp ứng quy định tại Điều 26 Luật này.
2. Việc tiếp nhận, tổ chức hiệp thương được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; cả 2 bên đều phải có văn bản đề nghị hiệp thương.
3. Quá trình hiệp thương phải đảm bảo khách quan, công khai, minh bạch.
|
Khoản 1 Điều 27: Đề nghị cân nhắc việc quy định đối tượng đề nghị hiệp thương phải là doanh nghiệp vì trong rất nhiều lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch), có hàng hóa, dịch vụ thuộc trường hợp quy định tại Điều 26 mà đối tượng không phải là doanh nghiệp. Việc quy định đối tượng đề nghị hiệp thương phải là doanh nghiệp tạo nên sự không bình đằng giữa các chủ thể trong thực hiện chính sách hiệp thương giá.
|
Chính sách này đã được đánh giá và được Chính phủ phê duyệt
|
“Hiệp thương giá” không phải là một hình thức lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Do đó đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định: “trường hợp mua hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về Đấu thầu” (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
|
Hiện theo dự thảo đã quy định việc hiệp thương giá chỉ thực hiện giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh nên sẽ không phát sinh việc thực hiện mua hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu.
|
Dự thảo Luật đang quy định hiệp thương giá là biện pháp khi có đề xuất của các cơ quan, tổ chức về tổ chức hiệp thương thì cơ quan quản lý nhà nước về giá sẽ tổ chức hiệp thương. Trường hợp các bên không thống nhất với giá hiệp thương thì cơ quan quản lý nhà nước về giá sẽ quyết định giá cho các bên. Đây là trường hợp xảy ra đối với các hạ tầng dùng chung (ví dụ: cột điện dùng cho viễn thông) hoặc hàng hóa là đầu vào cho hàng hóa khác không thể sớm thay thế (ví dụ: than cho sản xuất điện…).
Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.
Việc cơ quan nhà nước ban hành Quyết định mức giá hiệp thương để hai bên thực hiện như quy định tại Khoản 3 Điều 29 tại dự thảo Luật hiện nay được thực hiện tương tự như ban hành Quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá đối với các trường hợp bên mua và bên bán không thương lượng thỏa thuận được mức giá là không cần thiết và chưa phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đồng thời, cũng xuất phát từ mục tiêu của Luật giá, để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, việc thương thảo, định giá mua, giá bán là quyền của doanh nghiệp, không cần có sự can dự trực tiếp của cơ quan nhà nước.
Trên cơ sở các căn cứ trên, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc bỏ quy định tại dự thảo liên quan tới Hiệp thương giá.
|
Hiện nay, theo chính sách được phê duyệt sửa đổi Luật thì hiệp thương giá vẫn là một biện pháp về giá; đề xuất của Bộ Công Thương là hợp lý tuy nhiên cần đánh giá chi tiết hơn nhằm tránh các lỗ hổng pháp lý. Do vậy, Bộ Tài chính kiến nghị vẫn giữ cơ chế này nhưng có nghiên cứu phương án để báo cáo Chính phủ trong trường hợp cần thiết.
|
27
|
Điều 28. Thẩm quyền và trách nhiệm cơ quan hiệp thương giá
1. Bộ Tài chính hiệp thương đối với trường hợp đối tượng đề nghị hiệp thương là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con theo Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước.
2. Sở Tài chính hiệp thương đối với các trường hợp khác không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp các đối tượng đề nghị hiệp thương có trụ sở đóng tại hai tỉnh khác nhau, hai bên thống nhất đề nghị một trong hai tỉnh hiệp thương; trường hợp không thống nhất được thì Sở Tài chính nơi bên bán đóng trụ sở hiệp thương.
|
Điều 28: Cân nhắc quy định thẩm quyền hiệp thương giá giao cho Bộ Tài chính và Sở Tài chính vì thực tế sẽ phát sinh rất nhiều trường hợp đề nghị hiệp thương giá, chỉ cần đáp ứng quy định tại Điều 26. Hàng hóa, dịch vụ lại thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành khác nhau. Điều 9 Dự thảo Luật khi quy định về trách nhiệm của Bộ Tài chính lại không có quy định liên quan đến thực hiện chính sách hiệp thương giá.
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
|
28
|
Điều 29. Tổ chức hiệp thương giá
2. Cơ quan hiệp thương tổ chức hội nghị hiệp thương để bên mua và bên bán thương lượng với nhau về mức giá trên cơ sở hợp tác, hài hòa lợi ích giữa các bên. Cơ quan hiệp thương có vai trò trung gian, không được can thiệp vào mức giá thương lượng giữa các bên.
3. Khi bên mua và bên bán thỏa thuận được với nhau về mức giá thì hội nghị hiệp thương kết thúc. Mức giá hiệp thương chỉ được áp dụng cho đúng vụ việc mua, bán và khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được các bên thống nhất tại văn bản đề nghị hiệp thương; mức giá hiệp thương không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác. Các bên chịu trách nhiệm về mức giá hiệp thương, việc tổ chức thực hiện mức giá hiệp thương.
4. Trong trường hợp bên mua và bên bán không thương lượng thỏa thuận được mức giá thì cơ quan hiệp thương lập biên bản để ghi nhận nội dung hội nghị và tiến hành ban hành Quyết định mức giá hiệp thương để 2 bên thực hiện. Việc ban hành Quyết định giá hiệp thương được thực hiện tương tự như việc ban hành Quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá. Các đơn vị có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu để cơ quan hiệp thương thực hiện định giá theo quy định. Quyết định giá hiệp thương chỉ được áp dụng cho đúng đối tượng đề nghị hiệp thương và không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác.
5. Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục tổ chức hiệp thương giá.
|
Khoản 4: Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc về giá trị pháp lý của Quyết định mức giá hiệp thương để bảo đảm quyền tự do thỏa thuận hợp đồng của các bên tham gia hiệp thương. Bộ Tư pháp cho rằng, để bảo đảm quyền tự do thỏa thuận hợp đồng của các bên thì Quyết định mức giá hiệp thương là mức giá để các bên tham khảo, ký kết hợp đồng, nếu các bên không áp dụng mức giá hiệp thương thì không có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước tổ chức hiệp thương nữa.
(Bộ Tư pháp)
|
Việc quy định mức giá tạm thời (tương tự việc định giá) là được kế thừa và có chỉnh lý làm rõ thêm. Tuy nhiên tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp, Bộ tài chính sẽ tiếp tục nghiên cứu để chỉnh lý quy định này trong trường hợp cần thiết.
|
29
|
Điều 30. Hàng hóa, dịch vụ kê khai giá
1. Hàng hóa, dịch vụ thực hiện kê khai giá bao gồm: hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bình ổn giá; hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu, giá tham chiếu; một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; một số hàng hóa, dịch vụ tại địa phương.
2. Chính phủ quy định chi tiết Danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá. Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ ban ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Chính phủ danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá. Trường hợp phát sinh phải điều chỉnh Danh mục, trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét điều chỉnh Danh mục.
|
Để tạo điều kiện cho Bộ TTTT thực hiện trách nhiệm quản lý giá cước viễn thông, đề nghị Bộ Tài chính bổ sung quy định tại khoản 1. Điều 30 của Dự thảo Luật Giá. Cụ thể như sau: “Điều 30. Hàng hoá, dịch vụ kê khai giá 1. Hàng hoá, dịch vụ thực hiện kê khai giá bao gồm: hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục bình ổn giá; hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu, giá tham chiếu, quy định phương pháp xác định giá; một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu; một số hàng hoá, dịch vụ tại địa phương”
(Bộ Thông tin và Truyền thông)
|
|
30
|
Điều 31. Nội dung và đối tượng kê khai giá
1. Nội dung kê khai giá gồm mức giá do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tự quyết định gắn với tên, chủng loại, nước sản xuất và nguyên nhân điều chỉnh giá bán giữa các lần kê khai.
2. Đối tượng kê khai gồm:
a) Trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh chỉ thực hiện bán buôn thì kê khai giá bán buôn;
b) Trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh vừa thực hiện bán buôn, vừa thực hiện bán lẻ thì kê khai cả giá bán buôn và giá bán lẻ;
c) Trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là đơn vị nhập khẩu, đồng thời là nhà phân phối độc quyền thì kê khai giá bán buôn;
d) Trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là nhà phân phối độc quyền thì kê khai giá bán buôn, giá bán lẻ; tổng đại lý có quyền quyết định giá và điều chỉnh giá thì kê khai giá bán buôn, giá bán lẻ; đại lý có quyền quyết định giá và điều chỉnh giá thì thực hiện kê khai giá bán lẻ.
3. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ quản lý ngành, lĩnh vực rà soát, ban hành Quyết định danh sách tổ chức kê khai giá tại Bộ Tài chính và các Bộ. Căn cứ danh sách của Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Sở Tài chính phối hợp với các Sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện rà soát, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Quyết định danh sách tổ chức, cá nhân kê khai giá tại địa phương.
4. Chậm nhất sau 02 ngày kể từ ngày định giá, điều chỉnh giá, các đối tượng kê khai giá quy định tại khoản 2 Điều này có trách nhiệm kê khai giá.
5. Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết về Điều này.
|
1. Tại Khoản 1: Đề nghị không áp dụng kê khai giá "nước sản xuất và nguyên nhân điều chỉnh giá bán giữa các lần kê khai" đối với lĩnh vực xăng dầu, do:
- Xăng dầu được tạo nguồn từ nhập khẩu và các nhà máy lọc dầu trong nước, được chứa chung bồn tại các kho. Vì vậy, không thể bóc tách được nước sản xuất khi chưa chung hàng hóa sau đó lưu thông ra thị trường.
- Xăng dầu ngoài các mặt hàng Nhà nước định giá, có mặt hàng doanh nghiệp tự định giá trên cơ sở căn cứ quy định của Nhà nước, chưa kể hiện nay chu kỳ điều chỉnh giá dao động khoảng 10 ngày/lần và Nhà nước quy định công thức xác định giá xăng dầu minh bạch, công khai, do đó không cần thiết áp dụng kê khai nguyên nhân điều chỉnh giá bán giữa các lần kê khai.
(Hiệp hội xăng dầu Việt Nam)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Tại Điểm b, Khoản 2
Đề nghị không áp dụng "Kê khai cả giá bán buôn" đối với lĩnh vực xăng dầu. Lý do:
- Xăng dầu do Nhà nước định giá và có thể hiểu là giá tối đa khi bán cho người tiêu dùng, các thương nhân kinh doanh xăng dầu không bán vượt giá cơ sở.
- Thị trường xăng dầu Việt Nam hiện nay, ngoài các thương nhân đầu mối còn có các thương nhân phân phối có nhiều mức giá bán khác nhau phụ thuộc sản lượng, điểm giao hàng, phương thức thanh toán... và giá bán cho đối tượng này thường thấp hơn giá bán lẻ nhà nước quy định, vì vậy không cần thiết kê khai cả giá bán buôn.
(Hiệp hội xăng dầu Việt Nam)
|
Đã tiếp thu và bổ sung quy định loại trừ với mặt hàng xăng dầu tại dự thảo
|
(i) Khoản 1: Đề nghị bổ sung nội dung mức giá gắn với chỉ tiêu chất lượng hoặc ngưỡng chất lượng cụ thể vào nội dung kê khai giá.
(ii) Điểm c Khoản 2: Dự thảo hiện nay đang quy định: “Trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là đơn vị nhập khẩu, đồng thời là nhà phân phối độc quyền thì kê khai giá bán buôn”. Tuy nhiên, trong trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh chỉ bán buôn hoặc bán lẻ thì đối tượng kê khai như thế nào? Đề nghị làm rõ nội dung này.
(iii) Điểm d Khoản 2: Đề nghị rà soát và cân nhắc làm rõ các hình thức đại lý theo hướng dẫn tại Luật Thương mại để phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác.
(Bộ Công Thương)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Khoản 4 Sửa như sau:
4. Chậm nhất sau 02 ngày kể từ ngày có quyết định danh sách tổ chức, cá nhân kê khai giá của cấp có thẩm quyền ban hành, các đối tượng kê khai giá quy định tại khoản 2 Điều này có trách nhiệm kê khai giá lần đầu.
Chậm nhất sau 02 ngày kể từ ngày định giá, điều chỉnh giá, các đối tượng kê khai giá quy định tại khoản 2 Điều này có trách nhiệm thông báo mức giá, kê khai giá theo quy định.
(UBND tỉnh Long An)
|
Thời hạn kê khai gắn với quyết định giá của đơn vị chứ không căn cứ vào danh sách.
|
- Chậm nhất sau 02 03 ngày kể từ ngày định giá, điều chỉnh giá, các đối tượng kê khai giá quy định tại khoản 2 Điều này có trách nhiệm kê khai giá theo quy định.
- Đề nghị giới hạn về đối tượng thực hiện kê khai giá được quy định tại khoản 2 đặc biệt là những cá nhân sản xuất, kinh doanh bán lẻ vì các đối tượng này rất nhiều tuy nhiên hoạt động kinh doanh chủ yếu một mình, không có máy móc để thực hiện kê khai giá.
(UBND tỉnh Nghệ An)
|
- Không tiếp thu do thời gian có thể dài, mức giá có thể thay đổi
- Tiếp thu giới hạn đối tượng
|
Tại khoản 3: Đề nghị bổ sung tiêu chí để lựa chọn các cá nhân, tổ chức đưa vào danh sách thuộc đối tượng kê khai giá do Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định (danh sách cá nhân, tổ chức kinh doanh các mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá tại địa phương là rất nhiều, vì vậy cần có tiêu chí để lựa chọn các cá nhân, tổ chức tiêu biểu, mang tính đại diện).
(UBND tỉnh Hải Dương, Hưng Yên)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Đề nghị nghiên cứu bỏ nội dung quy định UBND tỉnh ban hành Quyết định danh sách tổ chức, cá nhân do trong quá trình thực hiện tiếp nhận kê khai giá tại địa phương các hộ gia đình cá nhân chủ yếu là kinh doanh bán lẻ.
(UBND tỉnh Thái Bình)
|
Đã được nghiên cứu và quy định tại dự thảo
|
31
|
Điều 32. Tổ chức tiếp nhận kê khai giá
1. Hình thức kê khai giá và phương thức tiếp nhận kê khai giá:
a) Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc diện kê khai giá có trách nhiệm gửi văn bản kê khai giá đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận kê khai giá;
b) Các cơ quan tiếp nhận kê khai giá có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận kê khai giá bằng các hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến thông qua cơ sở dữ liệu về giá quy định tại Luật này hoặc các ứng dụng công nghệ thông tin (fax, email).
2. Trên cơ sở mức giá kê khai, cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận kê khai có trách nhiệm tổng hợp, rà soát, đánh giá tình hình, diễn biến giá hàng hóa, dịch vụ để phục vụ việc bình ổn giá theo quy định tại Luật này.
3. Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận kê khai tổng hợp, đánh giá tình hình, diễn biến giá hàng hóa, dịch vụ để phục vụ việc bình ổn giá theo quy định tại Luật này.
Điều 33. Quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
1. Đối với cơ quan tiếp nhận kê khai:
a) Được sử dụng mức giá kê khai trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường theo quy định; trường hợp cần thiết để phục vụ công tác quản lý, điều hành giá, có thể yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá báo cáo một số yếu tố hình thành giá gây tác động đến việc điều chỉnh giá;
b) Tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị kê khai thực hiện theo các hình thức trực tuyến.
2. Đối với tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá:
a) Được lựa chọn phương thức kê khai giá phù hợp;
b) Thực hiện báo cáo theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
|
Khoản 2 và khoản 3 đều quy định nội dung cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận kê khai có trách nhiệm tổng hợp, rà soát,… do đó nên gộp lại làm 1 khoản tránh trùng lắp. (UBND tỉnh Bình Định, Long An, Thái Bình)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân: điểm a khoản 1 Điều 33 dự thảo Luật quy định: “trường hợp cần thiết để phục vụ công tác quản lý, điều hành giá, có thể yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá báo cáo một số yếu tố hình thành giá gây tác động đến việc điều chỉnh giá”. Bộ Tư pháp cho rằng, việc yêu cầu các tổ chức, cá nhân báo cáo một số yếu tố hình thành giá nhưng không quy định cụ thể trường hợp nào được yêu cầu, các tài liệu nào phải cung cấp sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể về các trường hợp được yêu cầu các tổ chức, cá nhân báo cáo yếu tố hình thành giá.
(Bộ Tư pháp)
|
Khi Nhà nước thực hiện biện pháp quản lý điều tiết giá (Bình ổn giá)
|
Đề nghị quy định rõ cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận kê khai giá là cơ quan nào? (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
|
Tại Luật quy định nguyên tắc và giao Chính phủ ban hành danh mục kèm theo thẩm quyền
|
Xem xét bổ sung tại khoản 2 Điều 33 như sau: “c) Kê khai giá kịp thời, trung thực, đúng giá bán niêm yết, giá bán thực tế theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Do: Tránh trường hợp không kê khai hoặc kê khai cao hơn so với mức giá bán thực tế, làm sai lệch kết quả khảo sát, tổng hợp công bố giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhất là giá vật liệu ảnh hưởng đến chi phí đầu tư xây dựng. (UBND tỉnh Sơn La)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Khoản 1: b) Tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị kê khai thực hiện theo các hình thức trực tuyến. kê khai giá phù hợp mà đơn vị lựa chọn. (UBND tỉnh Long An)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
32
|
Điều 34. Nguyên tắc niêm yết giá
1. Giá niêm yết là giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh quyết định bằng Đồng Việt Nam, đã bao gồm các loại thuế, phí và khuyến mại (nếu có) của hàng hóa, dịch vụ đó.
2. Việc niêm yết được thực hiện bằng các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ; bảo đảm rõ ràng, không gây nhầm lẫn cho khách hàng; khuyến khích in giá trực tiếp lên bao bì của sản phẩm.
3. Việc niêm yết giá phải đi kèm đơn vị định lượng cụ thể và không được thể hiện với kích thước nhỏ hơn giá niêm yết.
|
- Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định về các hình thức niêm yết giá; ví dụ: Dán trên sản phẩm, treo biển... tại các vị trí mà người tiêu dùng dễ nhận biết nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
- Đề nghị bổ sung như sau: “2. Việc niêm yết được thực hiện bằng các hình thức phù hợp với điện kiện thực tế tại địa điểm bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ hoặc trên các trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ; bảo đảm rõ ràng, không gây nhầm lẫn cho khách hàng; khuyến khích in giá trực tiếp lên bao bì của sản phẩm.”
(Bộ Thông tin và Truyền thông)
|
Nội dung này sẽ được quy định cụ thể tại các văn bản hướng dẫn Luật.
|
33
|
Điều 35. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng
1. Các tổ chức, cá nhân phải thực hiện niêm yết giá gồm:
a) Cơ sở sản xuất, kinh doanh (có quầy giao dịch và bán sản phẩm);
b) Siêu thị, trung tâm thương mại, chợ theo quy định của pháp luật;
c) Cửa hàng, cửa hiệu, ki-ốt, quầy hàng, nơi giao dịch thực hiện việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
d) Các tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật.
2. Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ và bán đúng giá niêm yết; đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải niêm yết đúng giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Trường hợp có thỏa thuận với người tiêu dùng/khách hàng thì không được bán cao hơn giá đã niêm yết.
3. Người tiêu dùng có quyền khiếu nại, tố cáo với các cơ quan có thẩm quyền về việc các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh niêm yết giá không đúng quy định. Có quyền thỏa thuận về giá với các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh (nếu có).
|
Khoản 2:Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại quy định này để bảo đảm phù hợp với quy định tại khoản 7, 8, 9 và 10 Điều 4 dự thảo Luật. Theo đó, đối với hàng hóa, dịch do Nhà nước định giá thì tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải niêm yết đúng giá theo giá do mình quyết định, đảm bảo phù hợp với giá do Nhà nước định giá.
(Bộ Tư pháp)
|
Đã chỉnh lý lại tại Điều 8 của Dự thảo Luật.
|
Tại Khoản 1 Điều 35, đề nghị Quý Bộ cân nhắc không liệt kê các tổ chức, cá nhân kinh doanh như dự thảo do không thể bao quát hết các trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh trên thực tế như bán hàng trên thương mại điện tử, bán hàng không có địa chỉ cố định, bán hàng tận cửa theo pháp luật về thương mại và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Do vậy, Bộ Công Thương đề nghị cân nhắc sửa đổi thành: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh có giao dịch mua bán trực tiếp, trực tuyến với khách hàng tại địa điểm kinh doanh hoặc tại địa điểm khác theo quy định của pháp luật”.
(Bộ Công Thương)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
34
|
Điều 36. Mục tiêu, yêu cầu công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
1. Tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường là việc thu thập, tổng hợp thông tin, số liệu về giá trong một thời kỳ/chu kỳ để phân tích, đánh giá và dự báo về xu hướng biến động của giá, xây dựng kịch bản điều hành giá và đề ra phương hướng, giải pháp, biện pháp công tác quản lý, điều hành giá.
2. Nội dung công tác tổng hợp, phân tích, dự báo mặt bằng giá thị trường
a) Tổ chức thu thập, phân tích giá các tài sản, hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
b) Xây dựng Báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường trong từng giai đoạn, thời kỳ gắn với mục tiêu kiểm soát lạm phát.
c) Đề xuất mục tiêu kiểm soát lạm phát hàng năm và đề xuất các giải pháp về quản lý, điều hành giá phù hợp nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
d) Xây dựng cơ sở dữ liệu về giá và tổ chức hoạt động cung cấp, công bố thông tin về giá.
|
Tên điều chưa phù hợp với nội dung quy định trong điều là về nội dung công tác tổng hợp, phân tích dự báo giá thị trường.
Đề nghị tách ra thành 2 điều như sau:
“Điều 36. Mục tiêu, yêu cầu công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
1. Thu thập, tổng hợp thông tin, số liệu về giá trong một thời kỳ hoặc chu kỳ để phân tích, đánh giá và dự báo về xu hướng biến động của giá.
2. Xây dựng kịch bản điều hành giá
3. Đề ra phương hướng, giải pháp, biện pháp công tác quản lý, điều hành giá.”
Điều 37 (mới). Nội dung công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường (Quy định như khoản 2 Điều 36 trong dự thảo Luật)
(UBND tỉnh Bình Phước)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
Đề nghị cân nhắc đưa khái niệm “tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường” và “kịch bản điều chỉnh giá” vào nội dung tại Điều 4 về giải thích từ ngữ. (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
|
Các vấn đề này là nội dung về tổ chức thực hiện, do đó không đưa vào phần định nghĩa.
|
Trong chương này có một Điều quy định về “Kịch bản điều hành giá.
Hội TĐGVN đề nghị thay tên của quy định này ví dụ như “Các phương án điều hành giá” bởi tên “Kịch bản” là không phù hợp với lĩnh vực kinh tế. Theo Đại từ điển tiếng Việt – Nhà XBVH-TT 1998 thì định nghĩa: “Kịch bản là vở kịch ở dạng văn bản”.
(Hội thẩm định giá Việt Nam)
|
Các vấn đề tương tự hiện nay về kinh tế đều sử dụng thuật ngữ kịch bản tăng trưởng, kịch bản điều hành, kịch bản kinh tế nên việc sử dụng thuật ngữ kịch bản điều hành giá cũng phù hợp với thực tiễn hiện nay.
|
35
|
Điều 40. Trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị thực hiện công tác tổng hợp, phân tích, dự báo
1. Bộ Tài chính có trách nhiệm tổ chức triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính để triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo diễn biến giá thị trường các hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực quản lý và đề xuất các biện pháp điều hành giá gửi Bộ Tài chính tổng hợp.
3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo diễn biến giá thị trường các hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn và đề xuất các biện pháp điều hành giá gửi Bộ Tài chính tổng hợp. Xây dựng báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường trên địa bàn theo hướng dẫn của Bộ Tài chính
|
Khoản 2: Do phạm vi quản lý của Bộ chuyên ngành có rất nhiều lĩnh vực; đề nghị cơ quan chủ trì bổ sung nguyên tắc lựa chọn hoặc phạm vi các loại hàng hoá, dịch vụ cần tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường phục vụ quản lý, điều hành giá của nhà nước đảm bảo đúng mục đích, hiệu quả; đồng thời, tránh “trùng lặp” hoặc “mâu thuẫn” về số liệu quản lý giữa Bộ ngành và địa phương.
(Bộ Xây dựng)
|
Phạm vi thực hiện công tác tổng hợp, phân tích, dự báo của các Bộ, ngành, địa phương sẽ theo phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực và địa bàn để tạo sự thống nhất trong phân công, phân cấp
|
36
|
Điều 41. Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá
1. Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được xây dựng phục vụ công tác quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá và các nhu cầu của xã hội do Bộ Tài chính thống nhất quản lý.
2. Các Bộ, ngành có trách nhiệm cập nhật thông tin vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
3. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, tổ chức, cá nhân có liên quan xây dựng, khai thác và quản lý vận hành cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương; phối hợp với đơn vị quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá để kết nối; cập nhật thông tin từ cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương với Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
4. Việc thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ và khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá phải ứng dụng công nghệ thông tin đảm bảo đầy đủ, nhanh chóng, chính xác theo yêu cầu của công tác quản lý nhà nước; tổ chức, cá nhân có nhu cầu về thông tin tại cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được đề nghị cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu cung cấp và thanh toán chi phí theo quy định của Bộ Tài chính.
5. Thủ tướng Chính phủ quy định về xây dựng, vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
|
- Khoản 3: Đề nghị nghiên cứu theo hướng chỉ xây dựng 01 cơ sở dữ liệu quốc gia về giá, không xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá tại địa phương hoặc xây dựng theo hướng liên thông các cơ sở dữ liệu để thống nhất quản lý, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước và thuận tiện trong quá trình triển khai, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu.
- Khoản 5: Đề nghị bổ sung giải trình cơ sở đề xuất Thủ tướng Chính phủ quy định về xây dựng, vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
|
Hiện nay cơ sở dữ liệu về giá đã được triển khai đồng bộ cả tại Trung ương và địa phương. Do vậy việc tiếp tục kế thừa và quy định vấn đề này là cần thiết.
Hiện đã chỉnh lý thành Chính phủ quy định chi tiết
|
Khoản 1: Nên quy định rõ Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xây dựng, quản lý, khai thác, vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trên phạm vi cả nước, đảm bảo tính thống nhất giữa trung ương và địa phương, nhằm tránh mâu thuẫn, chồng chéo.
(Bắc Giang)
|
Hiện đã chỉnh lý Chính phủ quy định chi tiết
|
Để khai thác sử dụng có hiệu quả trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực giá, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung: “Cơ quan nhà nước khai thác, sử dụng trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo quy định”
(UBND tỉnh Đà Nẵng)
|
Các quy định về cơ sở dữ liệu đã hướng đến việc phục vụ các cơ quan quản lý nhà nước.
|
37
|
Điều 43. Hoạt động thẩm định giá
1. Hoạt động thẩm định giá gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá và hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.
2. Tài sản thẩm định giá là tài sản quy định tại Bộ luật dân sự, được cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá hoặc các trường hợp pháp luật quy định phải thẩm định giá.
3. Kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc Hội đồng thẩm định giá nhà nước được sử dụng làm một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá xem xét, quyết định giá hoặc phê duyệt giá tài sản phục vụ cho các mục đích về quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật.
|
- Khoản 1 Điều 43 hoạt động thẩm định giá là hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn thẩm định giá và hoạt động thẩm định giá nhà nước. Bổ sung thêm từ “dịch vụ tư vấn” và khoản này nên chuyển về phần giải thích từ ngữ
- Khoản 2 và 3 điều 43 nên xếp về các điều trong mục cụ thể là Mục Dịch vụ thẩm định giá quy định riêng về Tài sản thẩm định giá và điều khoản về Kết quả thẩm định giá (Cty Valuino)
|
Thẩm định giá đã được giải thích là việc tư vấn, do đó, không cần thiết phải ghi thêm là dịch vụ tư vấn. Về kết cấu của các điều khoản đã được giải trình.
|
Đề nghị quy định rõ các trường hợp thẩm định giá để phân biệt được hoạt động định giá và hoạt động thẩm định giá. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Nội hàm của cụm từ “định giá” và “thẩm định giá đã được giải thích rõ tại Điều 4 của Luật. Theo đó, hoạt động “định giá” và “thẩm định giá” tại Luật đã được quy định rõ là hai hoạt động khác nhau.
|
Chương V về thẩm định giá: Hiện nay, trong hoạt động đầu tư xây dựng có các vật tư, thiết bị đặc thù (như lĩnh vực y tế, công thương, giao thông vận tải, thể thao…) và cần thiết phải thẩm định giá; đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung nguyên tắc, cơ chế thẩm định giá đối với các trường hợp này làm cơ sở tổ chức thẩm định tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng.
|
“Thẩm định giá” tại Luật giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị của tài sản, kết quả thẩm định giá được sử dụng làm một trong những căn cứ để người có thẩm quyền quyết định giá tài sản. Dự thảo Luật đã quy định một trường hợp đặc biệt bắt buộc phải sử dụng thẩm định giá của Nhà nước là trường hợp mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước, các trường hợp khác bắt buộc phải sử dụng thẩm định giá làm một trong những căn cứ quyết định giá tài sản cần được cân nhắc, đánh giá tại pháp luật chuyên ngành.
|
38
|
Điều 44. Nguyên tắc hoạt động thẩm định giá
1. Tuân thủ pháp luật, tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, chịu trách nhiệm về hoạt động thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
2. Độc lập, khách quan, trung thực.
3. Dịch vụ thẩm định giá do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện, được giao kết bằng hợp đồng dân sự; hoạt động thẩm định giá của nhà nước do Hội đồng thẩm định giá nhà nước thực hiện theo Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
(1) Đề nghị xem xét bổ sung nguyên tắc về việc bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, tiết kiệm thời gian, chi phí khi thực hiện hoạt động thẩm định giá nhằm tăng cường tính hiệu quả của hoạt động thẩm định giá trong quá trình tổ chức thi hành.
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
(2) Đề nghị làm rõ nội dung, nguyên tắc thẩm định giá của doanh nghiệp và Hội đồng thẩm định giá Nhà nước (Bộ Công Thương)
|
Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
39
|
Điều 46. Hợp tác quốc tế về thẩm định giá
1. Hợp tác quốc tế về thẩm định giá bao gồm hợp tác nghiên cứu khoa học, triển khai các dự án phát triển nghề thẩm định giá; tham gia là thành viên hiệp hội thẩm định giá trong khu vực, thành viên của tổ chức ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế.
2. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về thẩm định giá.
|
Đề nghị thêm vai trò của Hội TĐG VN (công ty VVFC)
|
Dự thảo Luật đã không quy định một điều riêng về hợp tác quốc tế về thẩm định giá
|
40
|
Điều 47. Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá
1. Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về hội, có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm định giá.
2. Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá được tổ chức đào tạo, cập nhật kiến thức về thẩm định giá và thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hoạt động thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
|
(1). Sở TC Gia Lai: đề nghị xem xét để thống nhất quy định về “đào tạo, cập nhật kiến thức về thẩm định giá” tại Khoản 13 Điều 9, Khoản 2 Điều 47 và điểm c khoản 2 Điều 51 về “bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về thẩm định giá”
(1) Hội TĐG VN
- Đề nghị ghi như Luật hiện hành
- Ghi định danh luôn tên Hội Thẩm định giá Việt Nam tại Luật
(3) STC Thái Bình
Đề nghị bổ sung thêm cụm từ “và quy định của pháp luật về thẩm định giá”
|
Dự thảo Luật đã thay đổi cụm từ “tổ chức nghề nghiệp” thành “hội nghề nghiệp” để thống nhất với quy định của pháp luật về hội; đồng thời vai trò của hội nghề nghiệp cũng đã được rà soát và chỉnh lý tại dự thảo Luật.
Việc định danh là Hội thẩm định giá Việt Nam tại Luật thì không phù hợp do không bảo đảm tính bao quát trong trường hợp có nhiều hội nghề nghiệp về thẩm định giá hoặc Hội thẩm định giá Việt Nam tự giải thể
|
41
|
Điều 48. Thẻ thẩm định viên về giá
1. Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận về chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp cấp cho người đạt yêu cầu tại kỳ sát hạch do Bộ Tài chính tổ chức.
2. Người tham dự kỳ sát hạch cấp Thẻ thẩm định viên về giá phải có đủ các điều kiện sau:
a) Có năng lực hành vi dân sự, có phẩm chất đạo đức, liêm khiết, trung thực;
b) Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên một trong các chuyên ngành giá, thẩm định giá, kinh tế, kinh tế - kỹ thuật, tài chính, kỹ thuật, luật;
c) Có thời gian thực tế làm việc tại doanh nghiệp thẩm định giá từ 36 tháng trở lên;
d) Có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá còn thời hạn do cơ quan , tổ chức có chức năng đào tạo về thẩm định giá cấp, trừ trường hợp người đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học, sau đại học trong nước hoặc nước ngoài về chuyên ngành giá, thẩm định giá.
3. Người đáp ứng yêu cầu tại điểm a và c Khoản 2 Điều này, có thẻ hoặc chứng nhận hành nghề thẩm định giá còn hiệu lực do cơ quan quản lý nhà nước của nước ngoài cấp hoặc công nhận, đạt yêu cầu tại kỳ sát hạch kiến thức pháp luật về giá và thẩm định giá bằng Tiếng Việt do Bộ Tài chính tổ chức thì được cấp Thẻ thẩm định viên về giá.
4. Bộ Tài chính quy định chi tiết về sát hạch, cấp, quản lý và thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá.
|
(1) Bộ QP: Điểm c Khoản 2 sửa: “c) Có thời gian thực tế làm việc theo đúng chuyên ngành tại doanh nghiệp thẩm định giá từ 36 tháng trở lên;”
(2) Hội TĐG
- Không nên quy định điểm c Khoản 2 Điều 48,
- Bỏ Quy định khống chế người tham dự kỳ thi Thẻ thẩm định viên về giá phải là người làm việc tại doanh nghiệp thẩm định giá, thay bằng tất cả các đối tượng có nhu cầu thi và có đủ điều kiện dự thi.
- Bổ sung các quy định Tiêu chuẩn thẩm định viên về giá.
(3) Sở TC Bình Phước: bỏ bằng tốt nghiệp cao đẳng và bỏ quy định chứng chỉ “còn thời hạn”
(4) Cty Valuino
Về tiêu chuẩn thẩm định viên: Nghề thẩm định giá là nghề nghiệp đặc thù đòi hỏi kiến thức Kinh tế - kỹ thuật - pháp luật tổng hợp và kinh nghiệm thực tiễn kỹ năng nghề nghiệp cao, chính vì vậy tiêu chuẩn thẩm định viên cần nâng cao chất lương, chúng tôi kiến nghị để năng cao chất lượng thẩm định viên cần quy định rõ ràng các tiêu chí để trở thành thẩm định viên như:
- Là công dân Việt nam có đầy đủ hanh vi dân sự
- Tốt nghiệp đại học chuyên ngành Kinh tế, tài chính, giá cả, Luật
- Có chứng chỉ thẩm định viên về giá
- Hành nghề trong một tổ chức thẩm định giá
Về đào tạo nghề thẩm định giá chúng tôi đề nghị cần nâng cao chất lượng như:
Thời gian đào tạo tối thiểu 12 tháng
Sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo cần có thời gian tập sự tại tổ chức hành nghề 12 tháng.
Khi đã tập sự xong thì đăng ký thi sát hạch do Bộ Tài chính tổ chức và đỗ kỳ thì sát hạch thì được Bộ tài chính cấp chứng chỉ hành nghề.
Cũng cần quy định từ ngày cấp chứng chỉ hành nghề mà không hành nghề thẩm đinh giá trong thời hạn 24 tháng thì sẽ thu hồi.
(5) STC Thái Bình
Đề nghị bỏ cụm từ “còn thời hạn” tại điểm d khoản 2. Vì theo khoản 3 Điều 12 Luật Giáo dục năm 2019 quy định: Chính chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học để xác nhận kết quả học tập sau khi được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp hoặc cấp cho người học dự thi lấy chứng chỉ theo quy định. Hơn nữa các chứng chỉ đào tạo được cấp theo các luật chuyên ngành khác như Chứng chỉ đào tạo nghề Luật sư, Công chứng viên,… có giá trị suốt đời của người tham gia đào tạo.
|
Sau khi nghiên cứu các ý kiến tham gia, dự thảo Luật đã được hoàn thiện theo hướng không quy định điều kiện có thời gian thực tế làm việc tại doanh nghiệp thẩm định giá từ 36 tháng trở lên đối với người tham dự kỳ thi thẩm định viên về giá mà chuyển điều kiện này sang điều kiện của thẩm định viên về giá để phù hợp với bản chất của Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận về chuyên môn; điều kiện về kinh nghiệm làm việc nên được chuyển thành điều kiện hành nghề sẽ phù hợp hơn. Đã bỏ quy định về thời hạn của chứng chỉ; giữ quy định có bằng cao đẳng về thẩm định giá thì không cần có chứng chỉ đào tạo do xét về thời gian đào tạo thì bằng cao đẳng thời gian đào tạo dài hơn thời gian đào tạo cấp chứng chỉ.
|
42
|
Điều 49. Đăng ký hành nghề thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện đăng ký hành nghề cho người có thẻ thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp. Điều kiện đăng ký hành nghề là:
a) Trường hợp người có thẻ thẩm định viên về giá được cấp trong vòng 01 năm tính đến ngày đăng ký hành nghề thì phải có hợp đồng lao động toàn thời gian và chứng nhận về đóng bảo hiểm xã hội tại doanh nghiệp;
b) Trường hợp thẻ được cấp trên 01 năm tính đến ngày đăng ký hành nghề, ngoài quy định tại điểm a thì phải có thêm giấy chứng nhận cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính.
2. Các trường hợp không được đăng ký hành nghề thẩm định giá:
a) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
b) Người đang bị cấm hành nghề thẩm định giá theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; người đang trong thời gian bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; người đã bị kết án một trong các tội về kinh tế, chức vụ liên quan đến tài chính, giá, thẩm định giá mà chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người đang bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc;
c) Người có hành vi vi phạm pháp luật về thẩm định giá bị xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày có quyết định xử phạt;
d) Người đang bị tước quyền sử dụng thẻ thẩm định viên về giá.
3. Bộ Tài chính quy định chi tiết về đăng ký hành nghề thẩm định giá.
|
(1) Hội TĐG VN
- điểm a Khoản 2 Điều 49 không cần thiết (nếu dự thảo vẫn giữ nội dung đối tượng thi thẻ)
- Bổ sung thêm quy định người cho thuê, cho mượn thẻ không được đăng ký hành nghề
(2) Sở TC Hà Tĩnh:
Tại điểm c khoản 2 Điều 49 quy định trường hợp "Người có hành vi vi phạm pháp luật về thẩm định giá bị xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày có quyết định xử phạt" thì không được đăng ký hành nghề thẩm định giá. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thì "Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính" sẽ được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, đề nghị chỉnh sửa nội dung tại dự thảo theo hướng "bị xử phạt vi phạm hành chính mà chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định" để đảm bảo chặt chẽ, thống nhất cho dự thảo.
(3) Cty VVFC
- Bổ sung Các trường hợp không được đăng ký hành nghề thẩm định giá: là người cho mượn, cho thuê thẻ TĐV về giá
(4) Cty Valuino
Doanh nghiệp thẩm định giá nộp hồ sơ đăng ký hành nghề cho người có thẻ thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp: Hồ sơ gồm có:
a/ Đối với thẩm định viên đăng ký hành nghề lần đầu tại doanh nghiệp:
- Bản công chứng chứng chỉ thẩm định viên về giá
- Hợp đồng lao động
- Các quyết định bổ nhiệm chức danh nếu có
- Chứng nhận cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính
b/ Đối với thẩm định viên đăng ký hành nghề lần thứ hai trở đi tại doanh nghiệp:
- Bản công chứng chứng chỉ thẩm định viên về giá
- Hợp đồng lao động
- Xác nhận đóng bảo hiểm xã hội của năm liền kề
- Các quyết định bổ nhiệm chức danh nếu có
- Chứng nhận cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính
c/ Thẻ thẩm định viên về giá của người đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp được cấp lần đầu trong vòng 12 tháng tính đến thời điểm đăng ký hành nghề được miễn nộp chứng nhận cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính
Điểm c khoản 2 Điều 49 Đăng ký hành nghề thẩm định giá đề nghị sửa như sau “Người có hành vi vi phạm pháp luật về thẩm định giá đã bị xử phạt vi phạm hành chính chưa hết 12 tháng kể từ ngày ra quyết định xử phạt”
(5) Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đề nghị làm rõ cơ sở pháp lý khi đề xuất Bộ Tài chính quy định chi tiết về đăng ký hàng nghề thẩm định giá như trong Dự thảo; đồng thời cân nhắc sửa lại theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này để bảo đảm phù hợp với thẩm quyền.
(6) Bộ Công Thương
Đề nghị cân nhắc quy định về đăng ký hành nghề thẩm định giá, đối với thẩm định viên đã có Thẻ thẩm định viên do Bộ Tài chính cấp, việc đăng ký hành nghề là không cần thiết.
(7) Bộ Khoa học và công nghệ
Bổ sung điểm c khoản 1 Điều 49 như sau: “c) Có chứng nhận tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức đối với thẩm định giá chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành (nếu có)”.
|
Sau khi nghiên cứu các ý kiến tham gia, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng không quy định trường hợp người có hành vi vi phạm pháp luật về thẩm định giá bị xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày có quyết định xử phạt thuộc trường hợp không được hành nghề thẩm định giá mà áp dụng thống nhất theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Việc cho thuê, cho mượn Thẻ thẩm định viên về giá khi bị phát hiện sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, theo đó, cũng áp dụng theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Dự thảo Luật đã quy định rõ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết.
Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận về chuyên môn được cấp khi đạt kỳ thi cấp Thẻ thẩm định viên về giá, không phải là chứng nhận hành nghề, do đó, cần thiết phải có quy định về đăng ký hành nghề đối với những người có Thẻ thẩm định viên về giá. Quy định hiện hành cũng đang quy định như vậy.
Thẻ thẩm định viên về giá đã là chứng nhận chuyên môn về thẩm định giá tài sản bao gồm: tài sản và doanh nghiệp, do đó, việc yêu cầu thêm chứng nhận tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức đối với thẩm định giá chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành ví dụ như thẩm định giá công nghệ, tư vấn xác định giá đất là chồng chéo và lãng phí nguồn lực xã hội. Dự thảo Luật đã quy định thẩm định viên về giá được quyền ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá theo lĩnh vực tài sản được phép hành nghề mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ, điều kiện chuyên môn khác với quy định tại Luật này.
|
43
|
Điều 50. Thẩm định viên về giá
1. Thẩm định viên về giá là người có thẻ thẩm định viên về giá đang hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá.
2. Người có thẻ thẩm định viên về giá được hành nghề khi Bộ Tài chính thông báo đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá.
3. Định kỳ trước ngày 31/12 hằng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm rà soát, cập nhật danh sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá kể từ ngày 01/01 của năm tiếp theo. Định kỳ hằng tháng, Bộ Tài chính xem xét điều chỉnh danh sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề khi có biến động. Trường hợp biến động thẩm định viên do cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì danh sách thẩm định viên được điều chỉnh tại ngày cấp, cấp lại.
|
- Tại khoản 2 Điều 50 quy định “Người có thẻ thẩm định viên về giá được hành nghề khi Bộ Tài chính thông báo đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá”. Tuy nhiên, tại dự thảo Luật giá chưa thấy đề cập quy định rõ các trường hợp “đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá” vì vậy đề nghị xem xét bổ sung quy định này; (UBND tỉnh Hà Tĩnh)
|
Dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định rõ về thẩm định viên về giá như sau: Thẩm định viên về giá là người đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 49 Luật này, đang làm việc tại doanh nghiệp thẩm định giá, đã đăng ký hành nghề và được Bộ Tài chính thông báo là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp thẩm định giá. Trong thời gian không đáp ứng điều kiện của thẩm định viên về giá, người có Thẻ thẩm định viên về giá không được ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá.
|
Khoản 1 Điều 49 và Điều 50: Đề nghị bỏ nội dung “Trường hợp thẻ được cấp trên 01 năm tính đến ngày đăng ký hành nghề, ngoài quy định tại điểm a thì phải có thêm giấy chứng nhận cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính.” “Người có thẻ thẩm định viên về giá được hành nghề khi Bộ Tài chính thông báo đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá.”, do quy định này sẽ làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, tăng thêm các khoản chi phí cho xã hội không cần thiết. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Hoạt động thẩm định giá là hoạt động chuyên môn, người được cấp Thẻ thẩm định viên về giá trong quá trình hành nghề cần thiết phải cập nhật, bổ sung các kiến thức mới so với thời điểm được cấp Thẻ, do đó, dự thảo Luật quy định nếu sau khi cấp Thẻ 01 năm, người có Thẻ muốn đăng ký hành nghề phải học cập nhật kiến thức. Quy định này hiện nay cũng đang thực hiện, do đó, không làm phát sinh thêm chi phí so với hiện hành.
|
44
|
Điều 51. Quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá
1. Quyền của thẩm định viên về giá:
a) Hành nghề thẩm định giá theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;
b) Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ;
c) Yêu cầu khách hàng cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến tài sản thẩm định giá và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá;
d) Từ chối thực hiện thẩm định giá nếu xét thấy không đủ điều kiện thực hiện thẩm định giá;
đ) Tham gia tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật;
e) Được tham gia các hoạt động tư vấn xác định giá cho cơ quan nhà nước mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ chuyên môn khác;
g) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của thẩm định viên về giá:
a) Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;
b) Chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá và giải trình hoặc bảo vệ kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với khách hàng thẩm định giá hoặc bên thứ ba sử dụng kết quả thẩm định giá không phải là khách hàng thẩm định giá nhưng có ghi trong hợp đồng thẩm định giá khi có yêu cầu;
c) Tham gia các chương trình bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về thẩm định giá do cơ quan, tổ chức được phép tổ chức;
d) Lập hồ sơ về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
đ) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
|
(1) Sở TC Quảng Bình:
Tại khoản 2 Điều 51, đề nghị bổ sung quy định về nghĩa vụ Thẩm định viên về giá như sau: "- Chịu trách nhiệm thực hiện đúng hướng dẫn của hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá và các quy định nội bộ khác của doanh nghiệp đăng ký hành nghề - Đảm bảo độc lập, khách quan, trung thực và tính chính xác của kết quả thẩm định giá trước pháp luật và doanh nghiệp đăng ký hành nghề; phản ánh đầy đủ quá trình thực hiện giả thiết, giả thiết đặc biệt, lưu ý hạn chế … vào báo cáo kết quả thẩm định giá để các bên liên quan có thể đánh giá được mức độ tin cậy của kết quả thẩm định giá." Nguyên nhân: Trong quá trình thực hiện, Thẩm định viên về giá hoạt động độc lập theo quy trình chuyên môn, không buộc phải báo cáo với doanh nghiệp trừ trường hợp thấy cần thiết, thông tin thị trường trực tiếp thu thập nên phải chịu trách nhiệm về mức độ chính xác của kết quả thẩm định giá do mình thực hiện.
(2) Hội TĐG
- Bổ sung Quy định: Thẩm định viên phải chịu trách nhiệm chính về kết quả thẩm định giá được ban hành tại Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá.
(3) Cty VVFC
- Bổ sung Nghĩa vụ TĐV: chịu trách nhiệm chính về kết quả thẩm định giá được ban hành tại Chứng thư và Báo cáo kết quả thẩm định giá.
(4) Cty Valuino
Điểm c khoản 1 Điều 51 Quyền của thẩm định viên về giá “ Yêu cầu khách hàng….và được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá”
(5) STC Quảng Trị
Điểm c khoản 2 Điều 51: “Tham gia các lớp đào tạo, cập nhật kiến thức về thẩm định giá do cơ quan, tổ chức được phép tổ chức.”. Do: Để phù hợp với quy định tại Khoản 13 Điều 9, Khoản 2 Điều 47 tại dự thảo Luật giá (sửa đổi).
|
Dự thảo Luật quy định kết quả thẩm định giá được thể hiện bằng hình thức Chứng thư thẩm định giá kèm theo Báo cáo kết quả thẩm định giá, trong đó Báo cáo kết quả thẩm định giá là văn bản do thẩm định viên về giá lập, trong đó nêu rõ quá trình thẩm định giá, ý kiến của thẩm định viên về giá trị của tài sản thẩm định giá và được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá xem xét, phê duyệt. Theo đó, dự thảo Luật đã quy định nghĩa vụ tương ứng của thẩm định viên là: chịu trách nhiệm về chuyên môn trong quá trình thực hiện và đưa ra kết quả thẩm định giá; giải trình hoặc bảo vệ kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với khách hàng thẩm định giá hoặc bên thứ ba được sử dụng kết quả thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá khi có yêu cầu; giải trình kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật. Về phía doanh nghiệp thẩm định giá là đơn vị ký hợp đồng cung cấp dịch vụ thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá, phát hành Chứng thư thẩm định giá, chịu trách nhiệm đăng ký hành nghề cho các thẩm định viên, đánh giá dịch vụ, dự thảo Luật đã quy định nghĩa vụ: chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá trong giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá; thực hiện thẩm định giá theo đúng hợp đồng thẩm định giá; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá và trong trường hợp kết quả thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá.
|
Khoản 2 Điều 51: đề nghị bổ sung thêm nội dung:
+ Chịu trách nhiệm thực hiện đúng hướng dẫn của hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá và các quy định nội bộ khác của doanh nghiệp đăng ký hành nghề.
+ Đảm bảo độc lập, khách quan, trung thực và tính chính xác của kết quả thẩm định giá trước pháp luật và doanh nghiệp đăng ký hành nghề; phản ánh đầy đủ quá trình thực hiện giả thiết, giả thiết đặc biệt, lưu ý hạn chế … vào báo cáo kết quả thẩm định giá để các bên liên quan có thể đánh giá được mức độ tin cậy của kết quả thẩm định giá. Vì trong quá trình thực hiện, Thẩm định viên về giá hoạt động độc lập theo quy trình chuyên môn, không buộc phải báo cáo với doanh nghiệp trừ trường hợp thấy cần thiết, thông tin thị trường trực tiếp thu thập nên phải chịu trách nhiệm về mức độ chính xác của kết quả thẩm định giá do mình thực hiện. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Dự thảo Luật quy định thẩm định viên có nghĩa vụ tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan đã bảo đảm tính bao quát, các quy định nội bộ của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật. Về phân định trách nhiệm của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá liên quan đến kết quả thẩm định giá đã được giải trình bên trên.
|
45
|
Điều 52. Doanh nghiệp thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp và được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của Luật này.
2. Doanh nghiệp thẩm định giá phải có cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư nhưng không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được sử dụng cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp.
|
(1) Bộ NN&PTNT: Đề nghị xem lại nội dung quy định Khoản 2, Mục 2, Dịch vụ Thẩm định giá có cần thiết quy định cứng doanh nghiệp thẩm định giá phải có cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi doanh nghiệp. Thay vào đó, hàng năm Bộ Tài chính công bố danh sách doanh nghiệp đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điểu kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
(2). Sở TC Tiền Giang:
- Tại khoản 2, Điều 52 về doanh nghiệp thẩm định giá: “Doanh nghiệp thẩm định giá phải có cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư nhưng không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được sử dụng cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp”.
Đề nghị chỉnh sửa như sau: “Doanh nghiệp thẩm định giá phải có cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nhưng không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được sử dụng cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải đăng ký thay đổi tên doanh nghiệp”.
(3) Cty VVFC
- Sửa khoản 2 thành: … nhưng không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được phát hành Chứng thư thẩm định giá theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam”.
(4) Cty Valuino
Kiến nghị để đảm bảo thống nhất quản lý doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp đặc thù, để quản lý chặt chẽ Bộ Tài chính nghiên cứu bỏ mô hình công ty cổ phần và việc đăng ký do Bộ Tài chính cấp giảm thủ tục cấp giấy phép con mà chỉ cần chứng nhận thành lập doanh nghiệp thẩm định giá do Bộ Tài chính cấp vừa tiết kiệm chi phí xã hội, vừa đảm bảo quản lý tốt nghề thẩm định giá
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật, theo đó, dự thảo Luật chỉ giữ quy định: Trường hợp doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được sử dụng cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp để tránh gây nhầm lẫn cho khách hàng. Về danh sách doanh nghiệp đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá hiện cũng đang được công bố công khai.
Về mô hình công ty cổ phần: đã được nghiên cứu đánh giá trong báo cáo chính sách theo đó vẫn tiếp tục giữ mô hình loại hình doanh nghiệp này nhưng để bảo đảm siết chặt hơn, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về tỷ lệ sở hữu vốn tối thiểu của các thẩm định viên.
Việc thành lập doanh nghiệp cần được thực hiện thống nhất theo Luật doanh nghiệp. Luật giá chỉ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Do đó, kiến nghị Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp thẩm định giá là không phù hợp. Đối với trường hợp không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá nhưng vẫn phát hành Chứng thư thẩm định giá theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh.
|
Đề nghị bỏ nội dung khoản 2 “Doanh nghiệp thẩm định giá phải có cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư nhưng không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được sử dụng cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp.” do không phù hợp với pháp luật về doanh nghiệp. Mặt khác, theo quy định này sẽ gây tăng thêm các thủ tục hành chính và khoản chi phí không cần thiết. (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Đã giải trình, tiếp thu ở trên
|
Tại Khoản 2 Điều 48 Luật Chuyển giao công nghệ quy định “Tổ chức thực hiện hoạt động thẩm định giá công nghệ phải đáp ứng điều kiện được quy định tại pháp luật về giá và quy định điều kiện đặc thù về nhân lực, cơ sở vật chất - kỹ thuật” và tại Khoản 3 Điều 48 Luật Chuyển giao công nghệ giao Chính phủ quy định cụ thể điều kiện đặc thù về nhân lực, cơ sở vật chất - kỹ thuật đối với tổ chức thực hiện hoạt động thẩm định giá công nghệ (được quy định tại Điều 32 Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ). Do đó, để đồng bộ với quy định hiện hành của Luật Chuyển giao công nghệ, đề nghị Bộ Tài chính bổ sung trong Luật Giá tổ chức được thành lập theo quy định pháp luật được tiến hành thẩm định giá nếu đáp ứng điều kiện theo quy định. Đồng thời, đề nghị rà soát, sửa cụm từ “doanh nghiệp thẩm định giá” thành “doanh nghiệp, tổ chức thẩm định giá” tại các điều, khoản, điểm có liên quan trong dự thảo Luật Giá: điểm c khoản 2 Điều 48; khoản 1 Điều 49; khoản 1 Điều 50; tên điều và khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; tên điều và khoản 1, 2 Điều 55; tên điều và khoản 1, 2 Điều 57; tên điều và khoản 1, 2 Điều 58; khoản 2 Điều 60; khoản 1, 2 Điều 61; khoản 1, 2 Điều 62; khoản 1, 2 Điều 63.
(Bộ Khoa học và công nghệ)
|
Tại Báo cáo tổng kết, đánh giá thi hành Luật đã đánh giá việc doanh nghiệp thẩm định giá đáp ứng các điều kiện tại Luật giá thì sẽ đảm bảo điều kiện về thực hiện hoạt động thẩm định giá công nghệ. Việc quy định tại Luật chuyển giao công nghệ sẽ gây ra chồng chéo. Do vậy, Bộ Tài chính không tiếp thu nội dung này.
Luật giá hiện hành quy định tổ chức đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật này được hoạt động thẩm định giá, đồng thời quy định về doanh nghiệp thẩm định giá, điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. Việc Nghị định hướng dẫn Luật Chuyển giao công nghệ quy định về tổ chức thẩm định giá công nghệ bao gồm cả tổ chức không hoạt động theo loại hình doanh nghiệp là không phù hợp với Luật giá hiện hành. Dự thảo Luật tiếp tục kế thừa quy định về doanh nghiệp thẩm định giá tại Luật giá hiện hành, đồng thời, quy định rõ hoạt động thẩm định giá bao gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá và hoạt động thẩm định giá của Nhà nước của Hội đồng thẩm định giá để bảo đảm thống nhất các quy định về cung cấp dịch vụ thẩm định giá.
|
Khoản 2: Đề nghị sửa “Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” thành “Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”, bảo đảm phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2020. (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
|
Đã tiếp thu tại dự thảo
|
46
|
Điều 53. Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải có 5 người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp. Trong đó:
a) Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp, Giám đốc đối với doanh nghiệp tư nhân, người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 56 Luật này. Các thành viên hợp danh phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải có vốn điều lệ tối thiểu từ 5 tỷ đồng trở lên và phải đảm bảo duy trì được khoản vốn này trong suốt quá trình hoạt động;
b) Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần: Có ít nhất 02 thành viên góp vốn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, 02 cổ đông đối với công ty cổ phần phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp; trường hợp có thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện của thành viên là tổ chức phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, phần vốn góp của thành viên là tổ chức không được vượt quá mức vốn góp do Chính phủ quy định. Tổng số vốn góp của các thành viên góp vốn, cổ đông là thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Có vốn điều lệ tối thiểu từ 5 tỷ đồng trở lên và phải đảm bảo duy trì được khoản vốn này trong suốt quá trình hoạt động. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên, công ty cổ phần phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 56 Luật này.
2. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
(1) Bộ NN&PTNT: Khoản b Mục 2 Thẩm định giá: Đối với Công ty cổ phần có ít nhất 02 cổ đông phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp đề nghị sửa là 02 cổ đông sáng lập.
(2). Sở TC Gia Lai:
- Quy định 5 tỷ là chưa phù hợp;
- Số lượng thẩm định viên không quyết định đến chất lượng dịch vụ
- Tồn tại một số chi nhánh DN TĐG không có tên trong thông báo đủ điều kiện,
(3). Sở TC Hà Tĩnh:
- Tại khoản 1 Điều 53 quy định "Doanh nghiệp khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải có 5 người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp". Tuy nhiên, đề nghị chỉnh sửa số lượng người từ "05 người" thành "tối thiểu 05 người" để đảm bảo chính xác
(4) Sở TC Quảng Bình, Nam Định:
Việc quy định vốn điều lệ để thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn là 5 tỷ đồng là không phù hợp với thực tế và bản chất của Doanh nghiệp thẩm định giá. Vì doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi chế độ tin cậy về trình độ, năng lực cá nhân của các thành viên tham gia để cung cấp sản phẩm, dịch vụ ra bên ngoài. Hoạt động chủ yếu là cung cấp dịch vụ tư vấn, không thương mại hay sản xuất nên các doanh nghiệp này đều không có nhu cầu sử dụng vốn lớn. Do đó, việc quy định doanh nghiệp phải có 05 tỷ vốn điều lệ là không phù hợp với bản chất của nghề tư vấn, tạo nên nhiều khó khăn cho doanh nghiệp
(5). Sở TC Tiền Giang:
- Tại điểm b, khoản 1, Điều 53: “Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần: Có ít nhất 02 thành viên góp vốn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, 02 cổ đông đối với công ty cổ phần phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp; trường hợp có thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện của thành viên là tổ chức phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, phần vốn góp của thành viên là tổ chức không được vượt quá mức vốn góp do Chính phủ quy định…..”. Đề nghị điều chỉnh lại: “Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần: Có ít nhất 02 thành viên góp vốn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, có ít nhất 02 cổ đông đối với công ty cổ phần phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp; trường hợp thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện theo ủy quyền của thành viên, cổ đông công ty là tổ chức phải là người có thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp…”.
Đồng thời, đề nghị bỏ nội dung “phần vốn góp của thành viên là tổ chức không được vượt quá mức vốn góp do Chính phủ quy định”, vì theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký doanh nghiệp không quy định mức vốn góp tối đa của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do thành viên, cổ đông công ty là tổ chức nắm giữ
(6) Hội TĐG VN
- Đề nghị bỏ quy định về vốn điều lệ
(7) Cty Valuino
Về mô hình doanh nghiệp giá theo kiến nghị của chúng tôi không nên để mô hình công ty cổ phần vì những lý do sau:
- Theo tìm hiểu của chúng tôi, đối với các dịch vụ như Kiểm toán, Luật sư, công chứng, đấu giá và thẩm định giá trên thế giới thì các dịch vụ này không phải là đối vốn mà là đối nhân, người sáng lập và điều hành hoạt động của công ty cần người có kiến thức chuyên môn chứ không cần vốn để hoạt động.
- Mô hình công ty cổ phần không phù hợp bởi việc chuyển nhượng vốn quá dễ dàng và việc thay đổi nhân sự cấp cao chỉ cần nắm nhiều cổ phần và người nắm cổ mà không có chuyên môn dễ tác động làm sai lệch kết quả vì mục đích lợi nhuận, bởi khi họ góp nhiều vốn thì họ cần tạo ra lợi nhuận vì vậy ít nhiều vì mục tiêu lợi nhuận họ sẽ có tác động và định hướng bằng mọi giá tìm kiếm lợi nhuận
- Nếu vẫn để tồn tại Mô hình công ty cổ phần thì cần phải có hướng quản lý chặt chẽ hơn là quy định sáng lập viên phải là thẩm định viên về giá và sáng lập viên chỉ được chuyển nhượng cổ phần cho người có thẻ thẩm định viên về giá đang hành nghề hoặc và người nắm giữ cổ phần trên 20% bắt buộc phải là thẩm định viên về giá hành nghề.
Về vấn đề vốn pháp định chúng tôi đề nghị không đưa vốn pháp định vào công ty thẩm định giá, bởi công ty thẩm định giá là công ty đối nhân không đối vốn và ngược lại để vốn pháp định trong công ty không phải đối vốn là lãng phí nguồn lực xã hội, tuy nhiên để kiểm soát rủi ro nghề nghiệp thì cần mua bảo hiểm trách nhiệm và có thể quy định mức bảo hiểm tối thiểu hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro và chúng tôi cho rằng doanh nghiệp ký nhiều hợp đồng thì rủi ro nhiều, do đó trích lập dự phòng rủi ro là hợp quy luật bởi tỷ lệ rủi ro sẽ tương ứng với việc thực hiện, tuy nhiên tỷ lệ trích cần nâng lên 5% và quỹ này luôn phải có và báo cáo thường xuyên với Cục Quản lý giá
- Khoản 3 Điều 50 Thẩm định viên về giá đưa lên Điều 49 Đăng ký hành nghề sẽ phù hợp hơn bởi liên quan đến thông báo biến động thẩm định viên và đề nghị nên để 6 tháng hoặc hàng quý Bộ Tài chính xem xét điều chỉnh biến động chứ để hàng tháng như Dự thảo cơ quan quản lý nhà nước sẽ mất nhiều thời gian cho công việc dịch vụ này và sẽ khiến các doanh nghiệp không ổn định thẩm định viên (nhảy việc thay đổi nhiều) dẫn tới chất lượng cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp có thẩm định viên thay đổi nhiều kém chất lượng
- Điểm a, khoản 2 Điều 53 bỏ từ “Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc” chỉ cần để khái niệm người đại diện pháp luật, Tên gọi “ Giám đốc hay Tổng giám đốc chỉ là khái niệm chức danh trong tổ chức doanh nghiệp” Người đại diện pháp luật của doanh nghiệp là người được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận cung cấp dịch vụ thẩm định giá, còn chức danh là Chủ tịch hay TGĐ hay GĐ là do nội bộ tổ chức doanh nghiệp đề ra theo điều lệ
(8) Cty CP TĐG Nam Trung Bộ
- Bỏ quy định vốn điều lệ
- Số thẻ TĐV không quyết định đến chất lượng dịch vụ nên đề nghị bỏ quy định 5 thẻ đối với DN, 3 thẻ đối với chi nhánh
(9) Bộ Tư pháp: dự thảo Luật bổ sung quy định tăng số lượng người có thẻ thẩm định viên về giá từ 3 lên 5 người, bổ sung quy định về vốn điều lệ của doanh nghiệp (vốn điều lệ tối thiểu từ 5 tỷ đồng trở lên). Bộ Tư pháp cho rằng, việc bổ sung quy định về vốn điều lệ tối thiểu chỉ nên áp dụng đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần; đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp doanh thì việc quy định vốn điều lệ tối thiểu là không cần thiết vì các doanh nghiệp này chịu trách nhiệm vô hạn đối với các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.
(10) Bộ Tài nguyên và môi trường
Việc quy định tăng số thẻ thẩm định viên từ 3 lên 5 như hiện nay không làm tăng chất lượng dịch vụ. Nguyên nhân là theo quy định về thẩm định giá, 01 hợp đồng cung cấp dịch vụ chỉ cần có 01 thẩm định viên về giá và người đại diện theo pháp luật ký (đồng thời là thẩm định viên về giá), như vậy số lượng thẩm định viên nhiều hay ít đều không tác động đến kết quả của dịch vụ tư vấn cung cấp cho khách hàng. Doanh nghiệp thẩm định giá phải tự có quy trình kiểm soát nội bộ phù hợp với Tiêu chuẩn thẩm định giá và các quy định của pháp luật có liên quan để đảm bảo chất lượng dịch vụ. Tương tự như vậy, việc chi nhánh được thành lập tương ứng với thị trường nên tăng thêm thẩm định viên sẽ tạo áp lực về chi phí không đáng có cho doanh nghiệp.
(11) Bộ Công Thương: điểm b khoản 1: Đề nghị xem xét lại nội dung “…Có vốn điều lệ tối thiểu từ 5 tỷ đồng trở lên và phải đảm bảo duy trì được khoản vốn này trong suốt quá trình hoạt động…” Do việc quy định doanh nghiệp phải có 5 tỷ vốn điều lệ là không phù hợp với bản chất của nghề tư vấn, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
(12) Bộ Khoa học và công nghệ: Bổ sung điểm c khoản 1 Điều 53 như sau: “c) Đối với tổ chức: người đứng đầu tổ chức phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 56 Luật này”.
|
Việc quy định cổ đông sáng lập chỉ phù hợp với các công ty cổ phần thành lập mới, đối với các công ty cổ phần đã có thời gian hoạt động lâu, đã diễn ra các hoạt động chuyển nhượng cổ phần, mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp thì nhiều trường hợp không còn cổ đông sáng lập, do đó, đối với loại hình công ty cổ phần, dự thảo Luật chỉ yêu cầu thẩm định viên phải là cổ đông, đồng thời, dự thảo Luật cũng đã quy định về tỷ lệ sở hữu vốn của các thẩm định viên tối thiểu 50% vốn điều lệ.
Quy định tăng số lượng thẩm định viên nhằm siết chặt hơn điều kiện hoạt động các doanh nghiệp thẩm định, tránh tình trạng thành lập số lượng lớn các doanh nghiệp thẩm định giá trong thời gian vừa qua. Đã tiếp thu không quy định điều kiện vốn điều lệ tối thiểu 5 tỷ.
Về một số chi nhánh doanh nghiệp thẩm định không có tên trong thông báo đủ điều kiện, dự thảo Luật đã quy định rõ chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có tên trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định, trong quá trình hoạt động, nếu không đủ điều kiện hoạt động trong 3 tháng liên tục sẽ bị xóa tên chi nhánh.
Quy định về điều kiện tỷ lệ vốn góp của thành viên góp vốn là tổ chức là kế thừa quy định hiện hành, quy định như vậy phù hợp với loại hình kinh doanh mang tính chuyên môn cao như kinh doanh dịch vụ thẩm định giá nhằm hạn chế chi phối của những thành viên là tổ chức lên hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy định về điều kiện của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá là kế thừa quy định hiện hành, quy định như vậy phù hợp với loại hình kinh doanh mang tính chuyên môn cao như kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, người điều hành doanh nghiệp cần có chuyên môn sâu.
Quy định hàng tháng thông báo danh sách thẩm định viên là kế thừa quy định hiện hành. Qua xem xét, đánh giá thì việc ban hành thông báo hàng tháng là phù hợp, nếu để thời gian là quý hoặc 6 tháng thì quá dài đối với trường hợp người có thẻ bị xóa tên khỏi danh sách thẩm định viên về giá cần phải có thông báo để công bố thông tin.
Việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp sẽ được cân nhắc hướng dẫn chi tiết tại văn bản dưới Luật.
Về bổ sung điều kiện với tổ chức: không tiếp thu và đã giải thích ở trên.
|
47
|
Điều 54. Cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Trường hợp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá mất, rách do khách quan hoặc các thông tin về doanh nghiệp thẩm định giá tại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá có thay đổi, doanh nghiệp thẩm định giá phải làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
2. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
(1). UBND tỉnh Hà Tĩnh:
- Điều 54 quy định trong trường hợp các thông tin về doanh nghiệp thẩm định giá tại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thay đổi thì sẽ cấp lại giấy này. Tuy nhiên, đề nghị xem xét chỉnh sửa theo hướng trong trường hợp này sẽ thực hiện việc điều chỉnh mà không phải cấp lại để đảm bảo hợp lý.
Đồng thời, tại dự thảo mới chỉ quy định các trường hợp cấp, cấp lại mà chưa xác định đầy đủ các trường hợp thu hồi. Do đó, đề nghị rà soát, bổ sung một Điều quy định về các trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá để đảm bảo rõ ràng, đầy đủ
|
Quy định về cấp lại khi thông tin doanh nghiệp thay đổi là kế thừa quy định hiện hành, hiện nay thực hiện cơ bản không có vướng mắc.
Dự thảo Luật đã có quy định về đình chỉ, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
|
48
|
Điều 55. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
1. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp và có tên trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá.
2. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có ít nhất 03 thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp thẩm định giá và các chi nhánh khác. Giám đốc chi nhánh phải là thẩm định viên về giá.
|
(1). UBND tỉnh Gia Lai:
- Tồn tại một số chi nhánh DN TĐG không có tên trong thông báo đủ điều kiện,
- Bổ sung Văn phòng đại diện doanh nghiệp TĐG
(2). UBND tỉnh Tiền Giang:
- Tại khoản 2, Điều 55: “Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có ít nhất 03 thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp thẩm định giá và các chi nhánh khác. Giám đốc chi nhánh phải là thẩm định viên về giá”. Đề nghị điều chỉnh lại: “Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có ít nhất 03 thẩm định viên về giá độc lập với doanh nghiệp thẩm định giá và các chi nhánh khác. Người đứng đầu chi nhánh phải là thẩm định viên về giá”; để phù hợp với cách gọi theo quy định của Nghị định về đăng ký doanh nghiệp.
(3) Cty Valuino
Đề nghị sửa Khoản 2 Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại Chi nhánh, các thẩm định viên đăng ký hành nghề tại công ty thì không được đăng ký hành nghề tại chi nhánh và ngược lại. Người được ủy quyền đại diện chi nhánh phải là thẩm định viên về giá.
(4) Cty CP TĐG Nam Trung Bộ
- Bổ sung Văn phòng đại diện doanh nghiệp TĐG
|
Về một số chi nhánh doanh nghiệp thẩm định không có tên trong thông báo đủ điều kiện, dự thảo Luật đã quy định rõ chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có tên trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định, trong quá trình hoạt động, nếu không đủ điều kiện hoạt động trong 3 tháng liên tục sẽ bị xóa tên chi nhánh.
Luật giá điều chỉnh điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, qua rà soát thì văn phòng đại diện của doanh nghiệp không có chức năng kinh doanh, do đó, dự thảo Luật chỉ quy định điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp và chi nhánh của doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp thì chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động của chi nhánh do doanh nghiệp thành lập. Do đó, đối với hoạt động thẩm định giá cần quy định các thẩm định viên của chi nhánh (bao gồm cả người đứng đầu) phải là thẩm định viên tại doanh nghiệp đã thành lập chi nhánh để bảo đảm doanh nghiệp thống nhất quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của chi nhánh.
Về ý kiến sửa cụm từ giám đốc chi nhánh thành người đứng đầu chi nhánh: đã tiếp thu tại dự thảo Luật.
|
49
|
Điều 56. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá
1. Có thẻ thẩm định viên về giá về thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp; phải đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
2. Có đủ 36 tháng là thẩm định viên về giá.
3. Không là người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong khoảng thời gian 01 năm (12 tháng) tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
(1) Hội TĐG VN
- Không nên quy định cứng: “Có Thẻ thẩm định viên về giá về thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp” mà cần quy định theo hướng mở tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp, tức: “Có Thẻ thẩm định viên về giá về thẩm định giá tài sản và /hoặc thẩm định giá doanh nghiệp.
(2) Cty Valuino
- Khoản 1 điều 56 đề nghị xem xét người đại diện theo pháp luật hoặc Tổng giám đốc hoặc Giám đốc chỉ cần điều kiện là có thẻ thẩm định viên về giá không cần phải đồng thời có 2 thẻ thẩm định viên về giá là thẩm định viên về thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định viên về giá doanh nghiệp, bởi để chuyên sâu người thẩm định viên hành nghề mới cần thiết và thẩm định viên là người chịu trách nhiệm chính về công việc tư vấn do mình thực hiện, người quản lý đại diện cho doanh nghiệp không nhất thiết phải có cả 2. Nếu quy định như thế này sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp đang hoạt động.
- Khoản 3 điều 56 chỉnh sửa như sau: “Người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc, Giám đốc của doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong vòng 12 tháng kể từ ngày thu hồi giấy phép không được đăng ký là người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc, Giám đốc của doanh nghiệp khác”
(3) Bộ Khoa học và công nghệ
Sửa tên điều và nội dung khoản 3 Điều 56 như sau: “Điều 56. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu tổ chức thẩm định giá” ... “3. Không là người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu tổ chức thẩm định giá đã bị thu 3 hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong khoảng thời gian 01 năm (12 tháng) tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”.
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật, theo đó, chỉ quy định “có Thẻ thẩm định viên về giá”.
Khoản 3 đang quy định theo hướng đây là một yêu cầu, do đó, cách diễn đạt như vậy đã phù hợp.
Ý kiến của Bộ KHCN: không tiếp thu và đã giải thích ở trên
|
50
|
Điều 57. Điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
1. Được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đồng thời phải bảo đảm duy trì các điều kiện hoạt động kinh doanh quy định tại Điều 53 và các nghĩa vụ quy định tại Điều 58 Luật này.
2. Trong quá trình hoạt động, trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá không bảo đảm một trong các điều kiện quy định tại Điều 53, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không đảm bảo điều kiện quy định tại Điều 55 Luật này thì phải khắc phục kịp thời trong thời hạn tối đa 03 tháng; hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp được thực hiện như sau:
a) Trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, giám đốc chi nhánh không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp thì doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá;
b) Trường hợp doanh nghiệp hoặc chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không đủ số lượng thẩm định viên tối thiểu thì không được ký kết thêm hợp đồng dịch vụ thẩm định giá nhưng được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá với những hợp đồng thẩm định giá đã ký kết;
c) Trường hợp sau 03 tháng, doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp không khắc phục đảm bảo các điều kiện hoạt động thẩm định giá thì bị đình chỉ, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, xóa tên chi nhánh tại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
(1). UBND tỉnh Hà Tĩnh:
- Tại khoản 1 Điều 57, đề nghị bổ sung "Điều 55" và chỉnh sửa thành "Được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đồng thời phải bảo đảm duy trì các điều kiện hoạt động kinh doanh quy định tại Điều 53, Điều 55 và các nghĩa vụ quy định tại Điều 58 Luật này", vì nội dung Điều này còn quy định liên quan đến chi nhánh doanh nghiệp nên cần phải đáp ứng điều kiện tại Điều 55 về chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá. Bên cạnh đó, việc bổ sung còn đảm bảo được thống nhất với nội dung tại khoản 2 Điều 57. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 57, đề nghị xác định rõ thời điểm để tính thời hạn "tối đa 03 tháng" để các doanh nghiệp thực hiện khắc phục nhằm đảm bảo rõ ràng, thống nhất trong quá trình áp dụng. Tương tự, đề nghị rà soát, chỉnh sửa trong toàn bộ dự thảo.
(2) Cty Valuino
Điểm b khoản 2, điều 57 đề nghị bỏ, vì dễ bị lợi dụng ký lùi hợp đồng (đã không đủ không được phát hành, đợi đến khi đủ thì phát hành hoặc thỏa thuận hủy hđ đã ký theo quy định của Bộ Luật dân sự). Nếu chi nhánh không đủ điều kiện thì chuyển về Công ty phát hành nếu công ty vẫn đủ điều kiện
|
- Đã tiếp thu tại dự thảo Luật.
- Thời điểm “tối đa 03 tháng” được hiểu là từ thời điểm doanh nghiệp không bảo đảm điều kiện.
- Quy định cho phép phát hành chứng thư đối với những hợp đồng đã ký kết trước thời điểm không đủ điều kiện là kế thừa quy định hiện hành nhằm có thời gian chuyển tiếp để các doanh nghiệp khắc phục. Quy định này có thể dẫn đến việc lợi dụng như ý kiến đã nêu, tuy nhiên, việc ghi thời điểm ký hợp đồng không đúng với thời điểm giao kết thực tế có thể không được pháp luật bảo vệ trong trường hợp tranh chấp.
|
51
|
Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
1. Quyền của doanh nghiệp thẩm định giá và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo quy định tại Luật này;
b) Tham gia tổ chức nghề nghiệp trong nước và ngoài nước về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
c) Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp hồ sơ, tài liệu, số liệu có liên quan đến tài sản thẩm định giá và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá;
d) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này;
b) Cung cấp Báo cáo kết quả thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá;
c) Thực hiện đúng và đầy đủ hợp đồng thẩm định giá; bồi thường thiệt hại cho khách hàng theo quy định của pháp luật về dân sự;
d) Chịu trách nhiệm về tính hợp lý, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá;
đ) Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động thẩm định giá hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp;
e) Quản lý thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp;
g) Thực hiện chế độ báo cáo theo quy định;
h) Lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá theo quy định;
i) Tham gia cung cấp dịch vụ thẩm định giá phục vụ định giá trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
k) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
|
(1) UBND tỉnh Long An:
Điểm d Khoản 2 Điều 58 đề nghị thay đổi thành: “Chịu trách nhiệm về tính hợp lý, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá phù hợp với tiêu chuẩn, quy trình thẩm định giá theo quy định của pháp luật”.
(2) UBND tỉnh Phú Thọ:
Đề nghị bổ sung khoản 3 Điều 58 dự thảo: “Cơ quan có thẩm quyền định giá tài sản hoặc cơ quan chủ trì thành lập Hội đồng thẩm định giá có trách nhiệm gửi 01 bản sao Báo cáo kết quả thẩm định giá hoặc Kết luận thẩm định giá tài sản về Bộ Tài chính (đối với cơ quan Trung ương) hoặc Sở Tài chính (đối với cơ quan địa phương) để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cung cấp thông tin và quản lý Nhà nước về thẩm định giá”.
(3) UBND tỉnh Quảng Bình:
Đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 2 Điều 58 như sau: "Chịu trách nhiệm ban hành quy trình thẩm định giá nội bộ phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam và pháp luật có liên quan; kiểm tra kết quả thẩm định giá đúng, đủ quy trình trước khi ban hành". Nguyên nhân: Việc xác định kết quả thẩm định giá đảm bảo "trung thực" mang yếu tố định tính, khó thực hiện vì chỉ người thực hiện (thẩm định viên về giá) mới biết được mức độ "trung thực" của kết quả tư vấn do quá trình thực hiện thẩm định giá là độc lập theo quy trình, không chịu sự tác động của bất cứ ai; doanh nghiệp thẩm định giá chỉ có thể giám sát kết quả dịch vụ thông qua Báo cáo kết quả thẩm định giá phải phản ánh đầy đủ các bước thực hiện trước khi ban hành.
(4) Cty Valuino
- Khoản 1 Điều 58 đề nghị kế thừa toàn bộ khoản 1 điều 42 Luật giá 2012, bổ sung khoản e nội dung “ Yêu cầu khách hàng thẩm định giá hoặc những người có liên quan cung cấp toàn bộ hồ sơ, tài liệu, số liệu về tài sản thẩm định giá và được tạo điều kiện thuận lợi để thẩm định giá”
- Nghĩa vụ doanh nghiệp thẩm định giá đề nghị giữ như Khoản 2 Điều 42 Luật giá năm 2012
(2) STC Đồng Tháp
Tại điểm d khoản 2 quy định nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá được sử dụng làm căn cứ để lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu (theo quy định tại khoản 2 Điều 35 Luật đấu thầu), hoặc được sử dụng phục vụ yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản; sau khi tiến hành quy trình đấu thầu, giá trúng thầu có chênh lệch lớn so với giá kế hoạch hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác định kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá là chưa phù hợp thị trường… thì doanh nghiệp thẩm định giá là đơn vị chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc kết quả thẩm định giá chưa phù hợp thị trường theo khoản d điều 2? Đề xuất quy định rõ trách nhiệm của đơn vị tư vấn thẩm định giá, các bên có liên quan.
|
Đã nghiên cứu trong quá trình chỉnh lý dự thảo Luật, cụ thể dự thảo Luật đã quy định, doanh nghiệp thẩm định giá có nghĩa vụ phù hợp với bản chất của hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá là hoạt động tư vấn về chuyên môn và phân định trách nhiệm giữa thẩm định viên thực hiện và doanh nghiệp thẩm định giá: Chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá trong giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá; thực hiện thẩm định giá theo đúng hợp đồng thẩm định giá; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá và trong trường hợp kết quả thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá;
|
52
|
Điều 59. Đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong các trường hợp sau:
a) Không bảo đảm một trong các điều kiện quy định tại Điều 53 của Luật này trong 03 tháng liên tục;
b) Vi phạm nghiêm trọng Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
c) Các trường hợp đình chỉ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật xử lý vi phạm hành chính.
2. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Kê khai không đúng hoặc gian lận, giả mạo hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
b) Không kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong 12 tháng liên tục;
c) Không khắc phục được vi phạm quy định tại điểm a khoản 1 Điều này trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày bị đình chỉ;
d) Bị giải thể, phá sản hoặc tự chấm dứt hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
đ) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.
3. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải chấm dứt việc kinh doanh dịch vụ thẩm định giá kể từ ngày quyết định thu hồi có hiệu lực thi hành. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá tại thời điểm bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá quy định tại điểm h khoản 2 Điều 58 Luật này.
4. Chính phủ quy định chi tiết việc đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
(1) Bộ Khoa học và công nghệ
Sửa điểm c khoản 1, điểm đ khoản 2, khoản 3 Điều 59 như sau: “1. c) Các trường hợp đình chỉ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật xử lý vi phạm hành chính và pháp luật chuyên ngành (nếu có)”. “2. đ) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động hoặc quyết định thành lập”. “3. Doanh nghiệp, tổ chức thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải chấm dứt việc kinh doanh dịch vụ thẩm định giá kể từ ngày quyết định thu hồi có hiệu lực thi hành. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu tổ chức thẩm định giá tại thời điểm bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá của doanh nghiệp, tổ chức thẩm định giá quy định tại điểm h khoản 2 Điều 58 Luật này”.
(2) Bộ NN&PTNT: Mục 2, Dịch vụ Thẩm định giá quy định nội dung doanh nghiệp bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá nhưng chưa thấy nội dung hướng dẫn thủ tục doanh nghiệp phục hồi (tiếp tục) thực hiện dịch vụ thẩm định giá.
(3). UBND tỉnh Hà Tĩnh:
- Tại điểm c khoản 1 Điều 59 quy định doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong trường hợp "đình chỉ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Xử lý vi phạm hành chính". Tuy nhiên, ngoài Luật Xử lý vi phạm hành chính thì việc quy định trường hợp đình chỉ kinh doanh còn được quy định tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, đề nghị chỉnh sửa "Luật Xử lý vi phạm hành chính" thành "pháp luật về xử lý vi phạm hành chính".
|
Ý kiến của Bộ KHCN liên quan đến bổ sung tổ chức không phải là doanh nghiệp thẩm định giá được tham gia cung cấp dịch vụ vụ thẩm định giá đã được giải thích bên trên.
Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết việc đình chỉ, việc khắc phục trong thời gian đình chỉ sẽ được quy định chi tiết tại Nghị định.
Luật xử lý vi phạm hành chính quy định đình chỉ hoạt động có thời hạn là một trong các hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, dự thảo Luật dẫn chiếu đến Luật xử lý vi phạm hành chính là phù hợp.
|
53
|
Điều 60. Kết quả thẩm định giá
1. Kết quả thẩm định giá được thể hiện bằng hình thức Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định giá. Thẩm định viên về giá có trách nhiệm xác định thời gian hiệu lực của kết quả thẩm định giá phù hợp với đặc điểm của tài sản, mục đích, yêu cầu thẩm định giá nhưng tối đa không quá 06 tháng.
2. Trường hợp Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đã được phát hành nhưng chưa được sử dụng, doanh nghiệp thẩm định giá hoặc thẩm định viên về giá phát hiện thông tin phục vụ thẩm định giá có sai sót thì được thu hồi. Doanh nghiệp thẩm định giá có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng thẩm định giá trong trường hợp do lỗi của doanh nghiệp thẩm định giá.
3. Kết quả thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời gian hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá.
4. Bộ Tài chính quy định về mẫu Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá và việc thu hồi Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá.
|
(1) UBND tỉnh Phú Thọ:
Đề nghị bổ sung khoản 2 Điều 60, nội dung “không quá 01 lần thu hồi/ 01 dự án”, thành: “2. Trường hợp Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đã được phát hành nhưng chưa được sử dụng, doanh nghiệp thẩm định giá hoặc thẩm định viên về giá phát hiện thông tin phục vụ thẩm định giá có sai sót thì được thu hồi (không quá 01 lần thu hồi/ 01 dự án). Doanh nghiệp thẩm định giá có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng thẩm định giá trong trường hợp do lỗi của doanh nghiệp thẩm định giá”.
(2) Cty Valuino
Điều 60 Kết quả thẩm định giá đề sửa như sau:
Khoản 1 Điều 60 “Kết quả thâm định giá thể hiện bằng Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định giá và có hiệu lực tối đa không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành”
Bổ sung: “Kết quả thẩm định giá là một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham khảo làm căn cứ xác định giá trị tài sản theo mục đích và thông số, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá”
Khoản 2 sửa như sau: Trường hợp Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đã được phát hành nhưng chưa được sử dụng, doanh nghiệp thẩm định giá hoặc thẩm định viên về giá thực hiện thẩm định phát hiện thông tin có sai sót thì thu hồi và phát hành lại Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo thẩm định giá”
|
Trường hợp thu hồi, dự thảo Luật đã giao Bộ Tài chính quy định cụ thể. Các ý kiến về kết quả thẩm định giá đã được xem xét, cân nhắc trong quá trình chỉnh lý dự thảo Luật.
|
54
|
Điều 61. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng thẩm định giá
1. Quyền của khách hàng thẩm định giá:
a) Lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật để giao kết hợp đồng thẩm định giá;
b) Yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp thông tin trong hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá và thông tin về thẩm định viên về giá;
c) Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu không liên quan đến cuộc thẩm định giá;
d) Đề nghị thay thế thẩm định viên tham gia cuộc thẩm định giá khi có căn cứ cho rằng thẩm định viên đó vi phạm nguyên tắc hoạt động độc lập, khách quan trong quá trình thực hiện thẩm định giá;
đ) Yêu cầu bồi thường trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá gây thiệt hại;
e) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của khách hàng thẩm định giá:
a) Cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực, kịp thời, khách quan thông tin, tài liệu cần thiết theo yêu cầu của thẩm định viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu đã cung cấp;
b) Phối hợp, tạo điều kiện cho thẩm định viên thực hiện thẩm định giá;
c) Thông báo kịp thời, đầy đủ các vi phạm pháp luật và vi phạm hợp đồng thẩm định giá trong hoạt động thẩm định giá của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
d) Thanh toán thù lao dịch vụ thẩm định giá theo giá thỏa thuận trong hợp đồng;
đ) Sử dụng kết quả thẩm định giá trong thời gian hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá;
e) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
|
Tại Điều 61 dự thảo quy định trường hợp chứng thư thẩm định giá, Bảo cáo kết quả thẩm định giá đã được phát hành nhưng chưa được sử dụng, doanh nghiệp thẩm định giá hoặc thẩm định viên về giá phát hiện thông tin phục vụ thẩm định giá có sai sót thì được thu hồi. Doanh nghiệp thẩm định giá có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng thẩm định giá trong trường hợp do lỗi của doanh nghiệp thẩm định giá. Tuy nhiên trong thời gian thực tế gần đây phát sinh trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá đã phát hành Chứng thư thẩm định giá, Bảo cáo kết quả thẩm định giá, đã được sử dụng, đặc biệt sử dụng làm cơ sở lập giá kế hoạch mua sắm, đã lựa chọn được nhà thầu nhưng lại bị đình chỉ hoạt động với thời gian hồi tố về thời điểm đã sử dụng kết quả thẩm định giá trước đó; việc này gây lúng túng cho các đơn vị đã sử dụng kết quả trong khi các văn bản liên quan chưa có hướng dẫn xử lý chi tiết. Do đó, đề xuất bổ sung nội dung xử lý trường hợp Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đã được phát hành và đã được sử dụng. (STC Đồng Tháp)
|
Dự thảo Luật đã quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá, đồng thời, tại phần nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá đã quy định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá và trong trường hợp kết quả thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá.
|
55
|
Điều 63. Giá dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá có trách nhiệm ban hành, niêm yết biểu giá dịch vụ thẩm định giá theo quy định.
2. Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá; trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
|
(1). UBND tỉnh Tiền Giang:
- Tại khoản 2, Điều 63: kiến nghị thay đổi cụm cừ “nhà thầu tư vấn thẩm định giá” thành “nhà thầu tư vấn”. Lý do: câu từ đã rõ nghĩa, không cần nhấn mạnh lại nội dung tư vấn thẩm định giá; ngoài ra, nếu đưa vào “tư vấn thẩm định giá” thì tại Điều 4 không có giải thích từ ngữ này, đồng thời tại khoản 17, Điều 4 cũng đã nêu rõ “Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị bằng tiền của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam”.
(2) Cty VVFC
- Bổ sung việc cấp cạnh tranh không lành mạnh, hạ giá dịch vụ thẩm định giá thấp dưới mức chi phí hợp lý cần thiết, làm sai quy trình và giảm chất lượng kết quả thẩm định giá.
(3) Cty Valuino
Đề nghị bỏ khoản 1 do Giá dịch vụ thẩm định giá theo thỏa thuận dựa trên việc bù đắp chi phí và tính hiệu quả: khi xây dựng giá dịch vụ cần có thông tin về tài sản thẩm định giá như Mức độ khó dễ của thông tin, địa điểm thực hiện, mục đích thức hiện, thời điểm thực hiện,… nên khó có thể xây dựng được biểu giá dịch vụ cho loại hình thẩm định giá, thẩm định giá cũng như một số ngành nghề được thù là Kiểm toán, Luật sư … không thể có bảng giá niêm yết cụ thể
Khoản 2 đề nghị sửa như sau: Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng bằng hợp đồng thẩm định giá trên nguyên tắc bù đắp chi phí thực tế (chi phí trực tiếp, chi phí chuyên gia, chi phí gián tiếp, lợi nhuận hợp lý). Trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
|
Đã nghiên cứu, cân nhắc trong quá trình chỉnh lý dự thảo Luật.
|
56
|
Điều 64. Cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá
1. Thương lượng, hòa giải trên cơ sở những cam kết đã ghi trong hợp đồng thẩm định giá.
2. Giải quyết bằng trọng tài thương mại.
3. Khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
|
(1) Hội TĐG VN
- Bổ sung: Cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá khi có khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp thẩm định giá cùng tham gia thẩm định giá một loại tài sản có thông số kỹ thuật và điều kiện tương đồng.
(2) Cty VVFC
- Sửa cơ chế giải quyết tranh chấp gồm:
+ Giữa DN TĐG và khách hàng TĐG
+ Giữa kết quả TĐG khác biệt lớn của các DN TĐG trong cùng điều kiện tài sản có thông số ký thuật và điều kiện tương đồng.
|
Ý kiến đề nghị bổ sung cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp thẩm định giá khi đưa ra kết quả thẩm định giá khác nhau là không phù hợp với bản chất của hoạt động thẩm định giá là tư vấn của doanh nghiệp thẩm định giá đối với khách hàng, khách hàng có thể thuê nhiều doanh nghiệp thẩm định giá khác nhau để tư vấn về giá trị của tài sản, quyền quyết định giá tài sản là của khách hàng, do đó, nếu có xảy ra tranh chấp thì là tranh chấp giữa khách hàng và doanh nghiệp thẩm định giá.
|
57
|
Điều 66. Phạm vi thẩm định giá của Nhà nước
1. Việc thẩm định giá của Nhà nước do Hội đồng thẩm định giá nhà nước thực hiện nhằm giúp cho cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt giá tài sản.
2. Thẩm định giá của Nhà nước thực hiện trong các trường hợp sau:
a. Bán, cho thuê, liên doanh, liên kết tài sản công mà pháp luật quản lý sử dụng tài sản công quy định phải thẩm định giá của Nhà nước;
b. Mua, đi thuê tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước trừ trường hợp pháp luật về ngân sách nhà nước có quy định phương thức xác định giá khác;
c. Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp Luật khác quy định phải thẩm định giá của Nhà nước.
|
(1). UBND tỉnh Hải Dương, Hưng Yên: sửa thành
“2. Thẩm định giá của Nhà nước thực hiện trong các trường hợp sau:
…
b. Mua, đi thuê tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước có giá trị lớn, có tính chất phức tạp, trừ trường hợp pháp luật về ngân sách nhà nước có quy định phương thức xác định giá khác;”.
Đồng thời, đề nghị bổ sung quy định giao cho Chính phủ quy định chi tiết như thế nào là “tài sản có giá trị lớn, có tính chất phức tạp” để áp dụng chung cho toàn quốc, tránh trường hợp cùng 01 loại tài sản nhưng mỗi tỉnh, thành phố lại có quy định khác nhau về phạm vi thẩm định giá của nhà nước.
|
Sau khi nghiên cứu các ý kiến tham gia, dự thảo Luật đã quy định rõ các trường hợp thẩm định giá của Nhà nước như sau:
“2. Thẩm định giá của Nhà nước thực hiện trong các trường hợp sau:
a. Bán, cho thuê, liên doanh, liên kết tài sản công mà pháp luật quản lý sử dụng tài sản công quy định phải thẩm định giá của Nhà nước;
b. Các trường hợp mua, đi thuê tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước mà người có thẩm quyền phê duyệt giá theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, đấu thầu lựa chọn phương thức thẩm định giá của nhà nước trong các phương thức được quy định làm căn cứ xác định giá.
c. Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp Luật khác quy định phải thẩm định giá của Nhà nước. “
|
(2) UBND tỉnh Thái Bình
Đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành (Điều 44 Luật), đồng thời đề nghị quy định cụ thể giá trị lớn của tài sản để có căn cứ tổ chức triển khai thực hiện tại địa phương.
|
(3) UBND tỉnh Quảng Trị:
Các trường hợp thực hiện thẩm định giá Nhà nước còn quy định chung chung dẫn đến khó xác định trường hợp cụ thể trong thực tế để thực hiện. Đề nghị bổ sung thêm nội dung: “Giao cho tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Chính phủ hoặc Bộ Tài chính) quy định cụ thể danh mục các hàng hóa, dịch vụ thực hiện thẩm định giá Nhà nước” để tạo sự minh bạch, rõ ràng trong thực tiễn áp dụng hình thức thẩm định giá Nhà nước.
|
58
|
Điều 67. Hội đồng thẩm định giá nhà nước
1. Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao nhiệm vụ bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê hoặc được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu có trách nhiệm thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước để thực hiện thẩm định giá tài sản theo quy định của Luật này.
2. Hội đồng thẩm định giá nhà nước phải có tối thiểu 03 thành viên, trong đó ít nhất phải có 1/3 thành viên có chứng chỉ thẩm định giá nhà nước do Bộ Tài chính cấp.
3. Hội đồng thẩm định giá nhà nước có quyền:
a) Yêu cầu tổ chức, cá nhân khác có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết phục vụ cho việc thẩm định giá tài sản;
b) Thuê tổ chức có chức năng thực hiện giám định tình trạng kinh tế - kỹ thuật, chất lượng của tài sản; thuê thẩm định giá tài sản nhằm có thêm thông tin phục vụ cho việc thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá nhà nước;
c) Được sử dụng con dấu của cơ quan quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước;
d) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
4. Hội đồng thẩm định giá nhà nước có nghĩa vụ như sau:
a) Thực hiện thẩm định giá theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
b) Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ; tính trung thực, khách quan trong quá trình thẩm định giá tài sản và chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá tài sản;
c) Bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật;
d) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
5. Trong trường hợp khẩn cấp do thiên tai, dịch bệnh hoặc các trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, các cơ quan nhà nước phải mua sắm các loại hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng yêu cầu khắc phục hậu quả thiên tai, ngăn chặn dịch bệnh phục vụ an sinh xã hội, sức khỏe cộng đồng thì Hội đồng thẩm định giá nhà nước có thể xác định giá tài sản thông qua đàm phán giá trực tiếp với nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ trừ trường hợp trưng mua, trưng dụng theo Luật trưng mua, trưng dụng tài sản.
6. Chính phủ quy định chi tiết về Hội đồng thẩm định giá nhà nước.
|
(1) UBND tỉnh Hà Nội:
- Khoản 2: Đề nghị Bộ Tài chính hướng dẫn quy định về chứng chỉ thẩm định giá nhà nước do hiện nay chỉ có quy định về bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá theo quy định tại Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/08/2013, Thông tư số 204/2014/TT-BTC, Thông tư số 11/2019/TT-BTC
(2) UBND tỉnh Bình Phước:
- Khoản 2: quy định rõ thành viên bắt buộc phải có chứng chỉ TĐGNN như Thủ trưởng đơn vị, LĐ phòng TC- Quản trị, LĐ Phòng chuyên môn phụ trách mua sắm….
- Điểm b Khoản 3 sửa thành: “b) Thuê tổ chức có chức năng thực hiện giám định tình trạng kinh tế - kỹ thuật, chất lượng của tài sản; thuê thẩm định giá tài sản để làm căn cứ phục vụ cho việc thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá nhà nước;”
(3). UBND tỉnh Hà Tĩnh:
- Tại khoản 3 Điều 67, đề nghị xem xét bổ sung Hội đồng thẩm định giá nhà nước có quyền "Từ chối việc thẩm định giá tài sản trong trường hợp không có đủ thông tin, tài liệu theo yêu cầu quy định" để đảm bảo đầy đủ.
- Tại điểm c khoản 3 Điều 67: “c) Được sử dụng con dấu của cơ quan quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước”. Đề nghị sửa đổi như sau: “c) Được sử dụng con dấu do cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập quy định”. Quy định này sẽ tạo thuận lợi cho Hội đồng thẩm định giá nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện trong trường hợp Chủ tịch Hội đồng thẩm định giá là lãnh đạo của cơ quan tài chính cùng cấp mà không có chủ tịch Hội đồng là lãnh đạo của cơ quan quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước.
- Tại khoản 3 Điều 67 quy định về quyền của Hội đồng thẩm định giá nhà nước đề nghị xem xét bổ sung thêm quyền “Từ chối thực hiện thẩm định giá nếu xét thấy không đủ điều kiện thực hiện thẩm định giá”.
(4) UBND tỉnh Đắk Lắk:
- Tại khoản 1 Điều 67 quy định: “Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao nhiệm vụ bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê … có trách nhiệm thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước để thực hiện thẩm định giá tài sản theo quy định của Luật này”. Theo quy định của pháp luật thì hàng hóa thực hiện mua sắm theo 02 hình thức (mua sắm trực tiếp và mua sắm tập trung):
+ Nếu hàng hóa không thuộc danh mục mua sắm tập trung thì đơn vị được giao nhiệm vụ mua, trực tiếp mua sắm.
+ Nếu hàng hóa thuộc danh mục mua sắm tập trung thì đơn vị mua sắm tập trung tổ chức thực hiện mua sắm theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật khác có liên quan.
Theo quy định về mua sắm tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị theo phương thức tập trung tại Chương VI Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (từ Điều 67 đến Điều 83) không có quy định việc mua sắm hàng hóa thuộc danh mục mua sắm tập trung phải thực hiện thẩm định giá của nhà nước hay thẩm định giá do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện. Như vậy, nếu tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao nhiệm vụ mua tài sản thuộc danh mục tài sản, hàng hóa mua sắm tập trung thì thực hiện thẩm định giá của nhà nước như thế nào, cơ 3 quan được dự toán NSNN để mua sắm thực hiện thẩm định hay đơn vị mua sắm tập trung thẩm định.
- Khoản 2 Điều 67 quy định: “Hội đồng thẩm định giá nhà nước phải có tối thiểu 03 thành viên, trong đó có ít nhất phải có 1/3 thành viên có chứng chỉ thẩm định giá nhà nước do Bộ Tài chính cấp”. Theo quy định trên, thì tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện mua sắm tài sản phải có ít nhất 01 người có chứng chỉ thẩm định giá nhà nước do Bộ Tài chính cấp; để đạt được nội dung này, số lượng người phải tham gia đào tạo thẩm định giá là rất lớn; do đó, cần có quy định cụ thể thời gian để hoàn thành nội dung này, nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động mua sắm tài sản phục vụ hoạt động thường xuyên của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
(6) UBND tỉnh Quảng Trị:
Đề nghị dự thảo cần làm rõ Hội đồng thẩm định giá Nhà nước tại Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao nhiệm vụ bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê hoặc được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu có bao gồm thành phần tham gia hội đồng là đại diện chuyên môn hoặc lãnh đạo của cơ quan tài chính cùng cấp hay không.
(7) Bộ Tư pháp
- Khoản 2: Đây là quy định mới so với quy định của Luật Giá năm 2012, nếu Luật có hiệu lực thi hành thì sẽ không thể thực hiện thẩm định giá nhà nước do không có thành viên có chứng chỉ thẩm định giá nhà nước do Bộ Tài chính cấp. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo quy định về thời hạn áp dụng quy định này kể từ khi Luật có hiệu lực. Đồng thời trong dự thảo Luật cần quy định rõ tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục, thời hạn để được Bộ Tài chính cấp chứng chỉ thẩm định giá nhà nước.
- Khoản 5: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc đối với quy định này vì Hội đồng thẩm định giá nhà nước có thể không có thẩm quyền đàm phán giá trực tiếp với nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ. (Bộ Tư pháp, Đà Nẵng)
(8) UBND tỉnh Đồng Tháp
Theo dự thảo thì tất cả hoạt động mua, bán,.. đều có trách nhiệm thành lập Hội đồng thẩm định giá Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều đơn vị có kế hoạch lựa chọn nhà thầu thuê, mua tài sản có giá trị thấp, tài sản mua là các loại thông dụng, có giá phổ biến trên thị trường nếu yêu cầu thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước sẽ phát sinh nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian và chưa thống nhất về cơ sở lấy giá lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu mua sắm tài sản nhà nước quy định tại Luật Đấu thầu năm 2013, đặc biệt khi điều kiện ràng buộc của Hội đồng phải ít nhất 1/3 thành viên có chứng chỉ thẩm định giá nhà nước. Do đó đề xuất có thể giới hạn trong một số trường hợp hoặc giá trị cụ thể cần thiết thành lập Hộ đồng thẩm định giá nhà nước, đồng thời sửa đổi, bổ sung cho thống nhất về điều kiện lập, xác định kế hoạch tại Luật Đấu thầu năm 2013
|
Các ý kiến tham gia đã được nghiên cứu, cân nhắc trong quá trình chỉnh lý dự thảo Luật. Dự thảo Luật đã quy định rõ hơn về trường hợp thẩm định giá của Nhà nước.
Tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp về chứng chỉ thẩm định giá nhà nước, dự thảo Luật đã quy định rõ hơn như sau:
Hội đồng thẩm định giá nhà nước phải có tối thiểu 03 thành viên, trong đó phải có thành viên có một trong các chứng nhận chuyên môn sau:
a) Bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá, thẩm định giá;
b) Thẻ thẩm định viên về giá;
c) Chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ về thẩm định giá;
d) Chứng chỉ bồi dưỡng thẩm định giá nhà nước.
|
(9) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Khoản 1: Dự thảo Luật đã quy định tương đối đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giá; Tuy nhiên, chưa có quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân quy định tại Khoản 1 Điều 67 (gồm tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao nhiệm vụ bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê hoặc được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu).
Vì vậy, đề nghị bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của các đối tượng nêu trên.
|
Quyền và nghĩa vụ về tài sản thì theo pháp luật chuyên ngành (Luật quản lý sử dụng tài sản công…) bao gồm quyền quyết định giá. Tại Chương này chủ yếu đề cập đến hoạt động thẩm định giá của nhà nước để phục vụ quyết định giá. Do vậy trong Luật chỉ nêu về quyền thành lập Hội đồng để xác định giá và việc sử dụng kết quả để làm 1 trong các cơ sở cơ sở quyết định giá. Do đó ko cần thiết có riêng 1 điều quy định về quyền và nghĩa vụ.
|
(10) Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Đề nghị bỏ nội dung khoản 6 do tại Điều 66 và Điều 70 đã quy định về Thẩm định giá nhà nước trong đó có Hội đồng thẩm định giá nhà nước.
|
Các quy định về thành phần Hội đồng thẩm định giá, quyền nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thẩm định giá cần được quy định để quy định về Hội đồng thẩm định giá có thể thực thiện, do đó, quy định Chính phủ quy định chi tiết là cần thiết.
|
59
|
Điều 68. Kết quả thẩm định giá
1. Kết quả thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá nhà nước được thể hiện bằng hình thức Kết luận của Hội đồng thẩm định giá nhà nước. Hội đồng thẩm định giá nhà nước có trách nhiệm xác định thời gian hiệu lực của kết quả thẩm định giá phù hợp với đặc điểm của tài sản, mục đích, yêu cầu thẩm định giá nhưng tối đa không quá 06 tháng.
2. Kết quả thẩm định giá của Nhà nước được sử dụng là một trong những căn cứ để tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 67 quyết định về giá tài sản để phục vụ việc quản lý, sử dụng tài sản; các hoạt động bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê theo quy định của pháp luật. Kết quả thẩm định giá phải được cập nhật lên cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước.
3. Kết quả thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời gian hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại văn bản yêu cầu thẩm định giá.
|
(1) Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Đề nghị sửa lại kết quả thẩm định giá có giá trị tối thiểu là khoảng thời gian cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công, công ích theo quy định nhưng tối đa không quá 5 năm (do có sản phẩm, dịch vụ như dịch vụ đào tạo giáo dục nghề nghiệp trình độ cao đẳng thực hiện trong thời gian từ 02 đến 03 năm học tùy theo chuyên ngành hoặc nghề đào tạo (quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Giáo dục nghề nghiệp)
|
Dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng: Hội đồng thẩm định giá có trách nhiệm xác định thời gian hiệu lực của kết quả thẩm định giá phù hợp với đặc điểm của tài sản, mục đích, yêu cầu thẩm định giá.
|
60
|
Điều 70. Hồ sơ thẩm định giá của Nhà nước
1. Hồ sơ thẩm định giá gồm có các tài liệu sau đây:
a) Văn bản giao nhiệm vụ bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê hoặc văn bản được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu;
b) Thông tin, tài liệu về tài sản cần thẩm định giá;
c) Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước;
d) Các tài liệu do Hội đồng thẩm định giá nhà nước thu thập, phân tích trong quá trình thẩm định giá; các báo cáo chuyên gia, chứng thư thẩm định giá hoặc báo cáo kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá (nếu có);
đ) Biên bản và kết luận của Hội đồng thẩm định giá nhà nước về kết quả thẩm định giá;
e) Các tài liệu khác có liên quan đến việc thẩm định giá tài sản.
2. Cơ quan thành lập Hội đồng thẩm định giá nhà nước có trách nhiệm bảo quản, lưu giữ hồ sơ thẩm định giá theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
|
(1). UBND tỉnh Hải Dương, Hưng Yên:
Tại khoản 1 Điều 70 về hồ sơ thẩm định giá của nhà nước: Trong thành phần hồ sơ thẩm định, đề nghị bổ sung thêm “Văn bản của cơ quan, tổ chức, đơn vị đề nghị thẩm định giá nhà nước; trong văn bản cần nêu rõ danh mục, chủng loại, số lượng, đơn giá và lý do đề nghị thẩm định.”.
|
Trong thành phần hồ sơ đã có “thông tin, tài liệu về tài sản cần thẩm định giá”.
|
61
|
Điều 71. Nguyên tắc kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá
1. Mục đích kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá
a. Kiểm tra việc thi hành luật giá và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành của các cơ quan, đơn vị nhằm đôn đốc, hướng dẫn, giám sát thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giá.
b. Góp phần nâng cao kỷ luật, kỷ cương, đem lại tác động tích cực trong công tác quản lý điều hành giá và thẩm định giá.
b. Nắm bắt khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về giá và thẩm định giá để kịp thời hướng dẫn triển khai và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật.
2. Nguyên tắc kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá
a) Công tác kiểm tra được thực hiện theo kế hoạch hoặc theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyển; Việc triển khai được thực hiện theo cơ chế xử lý rủi ro, bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Không gây cản trở, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng được kiểm tra.
b) Nội dung kiểm tra phải được thể hiện chi tiết tại kế hoạch kiểm tra do cấp có thẩm quyền phê duyệt hàng năm. Bảo đảm phù hợp với định hướng xây dựng hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về giá; Không trùng lặp, chồng chéo với hoạt động kiểm tra cùng lĩnh vực đối với một đơn vị trong cùng thời kỳ kiểm tra.
c. Kết thúc kiểm tra phải có kết luận rõ ràng, nếu phát hiện có sai phạm phải được xử lý, khắc phục kịp thời.
|
Tên điều đề nghị đổi thành: “Mục đích, nguyên tắc kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá” cho phù hợp với nội dung quy định. (Bộ Công an)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo tách làm 02 điều.
|
Khoản 2: Trong dự thảo văn bản có rất nhiều điều khoản quy định về nghĩa vụ của các chủ thể nhưng chưa thấy có nội dung đề cập hoặc dẫn chiếu quy định việc xử lý các hành vi vi phạm nghĩa vụ nếu có.
Trong nguyên tắc về kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá cũng nêu quản điểm rằng kết thúc kiểm tra phải có kết luận rõ ràng, nếu phát hiện có sai phạm phải được xử lý, khắc phục kịp thời. Tuy vậy, biện pháp xử lý và khắc phục ở đây là gì thì chưa được đề cập đến. (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam)
|
Các nội dung này sẽ được quy định tại Nghị định xử phạt sau khi Luật giá được ban hành
|
Đề nghị tách ra làm 2 điều:
“Điều 71. Mục đích kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá
1. Đôn đốc, hướng dẫn, giám sát việc thực hiện văn bản QPPL về giá.
2. Nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong công tác quản lý điều hành giá và thẩm định giá
3. Phát hiện khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý, điều hành về giá và thẩm định giá để kịp thời hướng dẫn triển khai và hoàn thiện văn bản QPPL.
Điều 72 (mới). Nguyên tắc kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá
1. Công tác kiểm tra được thực hiện theo kế hoạch hoặc theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền; Việc triển khai được thực hiện theo cơ chế xử lý rủi ro, bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Không gây cản trở, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng được kiểm tra.
2. Nội dung kiểm tra phải được thể hiện chi tiết tại kế hoạch kiểm tra do cấp có thẩm quyền phê duyệt hàng năm. Bảo đảm phù hợp với định hướng xây dựng hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về giá; Không trùng lặp, chồng chéo với hoạt động kiểm tra cùng lĩnh vực đối với một đơn vị trong cùng thời kỳ kiểm tra.
3. Kết thúc kiểm tra phải có kết luận rõ ràng, nếu phát hiện có sai phạm phải được xử lý, khắc phục kịp thời.
(UBND tỉnh Bình Phước)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
62
|
Điều 72. Nội dung và trách nhiệm kiểm tra trong hoạt động quản lý, điều hành giá
1. Kiểm tra các quy định về quản lý, điều hành giá tại Luật giá và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật bao gồm bình ổn giá, định giá, hiệp thương giá, kê khai giá, niêm yết giá, tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường. Nội dung kiểm tra phải được thể hiện chi tiết tại kế hoạch kiểm tra hàng năm nhằm đánh giá việc chấp hành các quy định pháp luật các biện pháp quản lý, điều hành giá;
2. Đối tượng kiểm tra là các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao về việc tổ chức thực hiện, chấp hành các quy định pháp luật về giá theo quy định tại Luật giá.
3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá đối với các biện pháp quản lý, điều hành giá trong phạm vi, thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ được giao.
4. Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá thuộc Bộ Tài chính thực hiện chức năng kiểm tra chuyên ngành về giá, tổ chức triển khai công tác kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá; chủ trì kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thẩm định giá theo quy định tại Luật này. Bộ Tài chính quy định trình tự, thủ tục thực hiện kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá.
|
Tên điều đề nghị đổi thành: “Đối tượng, nội dung và trách nhiệm kiểm tra trong hoạt động điều hành giá” (Bộ Công an)
|
Tiếp thu và làm rõ ở Khoản 2 Điều 71
|
63
|
Điều 73. Nội dung và trách nhiệm kiểm tra trong hoạt động thẩm định giá
1. Kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý hoạt động thẩm định giá, quản lý thẩm định viên về giá hành nghề; Việc tuân thủ các tiêu chuẩn thẩm định giá (quy trình thẩm định giá, phương pháp thẩm định giá, hồ sơ thẩm định giá,...); Các nội dung khác theo quy định của pháp luật.
2. Đối tượng kiểm tra là các doanh nghiệp thẩm định giá và các cơ quan thực hiện thẩm định giá nhà nước.
3. Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá thuộc Bộ Tài chính có trách nhiệm tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thẩm định giá tại các doanh nghiệp thẩm định giá, các cơ quan đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định giá.
|
- Tên điều đề nghị đổi thành: “Đối tượng, nội dung và trách nhiệm kiểm tra trong hoạt động thẩm định giá” (Bộ Công an)
- Sửa khoản 3 Điều 73 như sau: “3. Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá thuộc Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ quản lý ngành, lĩnh vực, cơ quan liên quan tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thẩm định giá tại các doanh nghiệp, tổ chức thẩm định giá, các cơ quan đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định giá”. (Bộ Khoa học và công nghệ)
|
Đã tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
|
64
|
Điều 74. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật có liên quan đến Luật giá
1. Bãi bỏ các nội dung về hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, thẩm quyền, trách nhiệm và hình thức định giá tại các văn bản sau:
a) Điểm a Khoản 2, Khoản 3, Khoản, 4 và Khoản 5 Điều 90; Điều 149 Bộ Luật Hàng hải;
b) Điều 83 Luật giao thông đường Bộ năm 2008.
c) Khoản 3, Khoản 4, Khoản 6, Khoản 7, Khoản 8 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam.
d) Điểm đ Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 56 Luật Viễn thông năm 2009
đ) Khoản 4, 5 Điều 44 Luật Bưu chính năm 2010.
e) Khoản 2 Điều 78 Luật đấu giá tài sản năm 2016.
g) Khoản 4, Khoản 5 Điều 19 Luật tổ chức chính quyền địa phương.
h) Khoản 5 Điều 31 Luật bảo hiểm y tế được bổ sung tại Khoản 20 Điều 1 Luạt sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế.
i) Khoản 6 Điều 107 Luật Dược năm 2016.
k) Điểm a Khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018.
l) Khoản 1 Điều 34, Điểm b Khoản 2 Điều 35 Luật Thủy lợi năm 2017.
m) Khoản 3, Khoản 4 Điều 90 Luật Lâm Nghiệp.
n) Điểm d Khoản 2 Điều 18 Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2013.
o) Khoản 15 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật điện lực.
p) Điểm b Khoản 2 Điều 47 Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14.
q) Khoản 5 Điều 106 Luật Nhà ở năm 2014.
r) Khoản 6 Điều 78 Luật bảo vệ môi trường năm 2020.
s) Khoản 3 Điều 22 và Khoản 4 Điều 23 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020.
2. Bãi bỏ quy định về điều kiện đối với Doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá tại các văn bản sau:
a) Khoản 2 Điều 48 Luật Chuyển giao công nghệ và Điều 32 Nghị định số 76/2018/NĐ-CP.
b) Điều 116, 116 Luật Đất đai
|
- Tên Điều 74 “sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật có liên quan đến luật giá” nhưng trong nội dung của Điều 74 chỉ quy định về bãi bỏ các nội dung về hàng hóa do Nhà nước định giá, thẩm quyền, trách nhiệm và hình thức định giá như vậy là chưa có sự thống nhất, đề nghị sửa lại tên điều từ “sửa đổi, bổ sung” thành “bãi bỏ”.
- Điểm b quy định về bãi bỏ “Điều 83 Luật Giao thông đường bộ năm 2008” là chưa chính xác vì Điều 83 quy định về tổ chức hoạt động của bến xe ô tô, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ. Chỉ có khoản 6 Điều 83 là quy định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh quy định giá dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô, do đó, việc bãi bỏ toàn bộ Điều 83 là chưa phù hợp.
- Điểm g dự thảo Luật Giá quy định bãi bỏ “khoản 4, khoản 5 Điều 19 Luật Tổ chức chính quyền địa phương”, tuy nhiên tại khoản 4, khoản 5 Điều 19 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; y tế, lao động và chính sách xã hội. Tại các khoản này không chỉ quy định riêng về giá mà còn quy định thêm các nội dung khác vì vậy bãi bỏ toàn 3 bộ 2 khoản này là chưa phù hợp. Đề nghị rà soát lại để bãi bỏ các điểm có liên quan hoặc các cụm từ cho chính xác.
(UBND tỉnh Hà Giang, Ninh Bình, Đắk Lắk)
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
1. “Sửa đổi khoản 2 Điều 90 của Bộ Luật Hàng hải số 95/2015/QH13 như sau:
“2. Giá dịch vụ tại cảng biển bao gồm:
a) Giá dịch vụ bốc dỡ container; giá dịch vụ hoa tiêu; giá sử dụng cầu, bến, phao neo;
b) Giá dịch vụ lai dắt; Giá dịch vụ khác tại cảng biển.”
2. Bãi bỏ điểm d khoản 2 Điều 78 của Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH14;
3. Bãi bỏ, sửa đổi một số nội dung tại Phụ lục số 2 về danh mục các sản phẩm, dịch vụ chuyển từ phí sang giá dịch vụ do nhà nước định giá ban hành kèm theo Luật Phí, lệ phí số 97/2015/QH13 như sau:
a) Bãi bỏ các nội dung tại số thứ tự thứ 4;
b) Sửa đổi nội dung tên giá sản phẩm, dịch vụ tại số thứ tự thứ 5 như sau:
“Dịch vụ sử dụng đường cao tốc do Nhà nước đầu tư”;
c) Sửa đổi nội dung tên giá sản phẩm, dịch vụ tại số thứ tự thứ 6 như sau:
“Dịch vụ sử dụng đò, phà được đầu tư hoàn toàn từ nguồn vốn ngân sách nhà nước”;
4. Sửa đổi khoản 7, khoản 8 điều 11 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam số 66/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam số 61/2014/QH13 như sau:
“7. Doanh nghiệp quyết định mức giá dịch vụ quy định tại điểm b khoản 3 Điều này trong khung giá do Bộ Giao thông vận tải quy định, thực hiện kê khai giá với Bộ Giao thông vận tải.
8. Doanh nghiệp quyết định mức giá dịch vụ quy định tại khoản 4 Điều này và thực hiện niêm yết giá theo quy định.”
5. Bãi bỏ điểm b khoản 6 Điều 55 Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14.
6. Bãi bỏ khoản 3 Điều 22 và khoản 4 Điều 23 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số 69/2020/QH14.
7. Bãi bỏ cụm từ thẩm định giá tại điểm b khoản 2 Điều 47; bãi bỏ quy định tại khoản 2 Điều 48 tại Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14;
8. Bãi bỏ khoản 2 Điều 67 của Luật Công chứng số 53/2014/QH13.
9. Bãi bỏ, sửa đổi một số Điều của Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 như sau:
a) Bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 58;
b) Sửa đổi Khoản 2 Điều 61 như sau:
“2. Đối với nhà ở xã hội do hộ gia đình, cá nhân đầu tư xây dựng thì chủ đầu tư tự xác định giá thuê, giá thuê mua, giá bán.”
|
Tại điểm p Khoản 1 Điều 74 quy định về bãi bỏ điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Chuyển giao công nghệ ngày 19/6/2017 có nội dung tổ chức đánh giá, thẩm định giá, giám định công nghệ có nghĩa vụ “Hằng năm, gửi báo cáo kết quả hoạt động đánh giá, thẩm định giá, giám định công nghệ tới cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ”. Trong khi dự thảo Luật Giá chỉ điều chỉnh đối với hoạt động “thẩm định giá”, còn hoạt động “đánh giá” và “giám định công nghệ” thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, rà soát, không bãi bỏ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Chuyển giao công nghệ bảo đảm tính phù hợp, đồng bộ của hệ thống pháp luật. (Bộ Khoa học và công nghệ)
|
+ Đề nghị làm rõ việc bãi bỏ Khoản 6 Điều 78 Luật bảo vệ môi trường năm 2020 vì khoản này có nội dung không liên quan. + Khoản 6 Điều 79 Luật bảo vệ môi trường năm 2020 quy định: 6. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn; quy định giá cụ thể đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; quy định cụ thể hình thức và mức kinh phí hộ gia đình, cá nhân phải chi trả cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên khối lượng hoặc thể tích chất thải đã được phân loại. Vì vậy việc bãi bỏ toàn bộ khoản này cũng chưa phù hợp. (Bộ Tài nguyên và môi trường, UBND tỉnh Hà Nội)
|
65
|
Khác
|
1. Hà Nam
Đề nghị xem xét bổ sung quy định về “thời điểm định giá”
|
Nội dung tham gia không rõ ràng nên không có ý kiến giải trình
|
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Về khái niệm “định giá” và “thẩm định giá”: Khoản 13 và Khoản 17 Điều 4 dự thảo Luật;
Tuy nhiên, dự thảo Luật (Điều 65), Bộ luật dân sự năm 2015 (Khoản 1 Điều 306), Luật đấu giá tài sản năm 2016 (Điều 9, Điều 65) đang sử dụng các khái niệm “tổ chức thẩm định giá”, “tổ chức định giá” mà không làm rõ nội hàm của các khái niệm này. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu đề xuất bổ sung các khái niệm “tổ chức thẩm định giá”, “tổ chức định giá” hoặc sửa đổi, bổ sung các khái niệm “định giá” và “thẩm định giá” để đảm bảo đầy đủ và thống nhất với quy định tại các Luật khác.
|
Về nguyên lý của định giá và thẩm định giá đã quy định tại Luật hiện hành, Định giá là việc của cơ quan nhà nước, thẩm định giá là của cơ quan có chức năng (doanh nghiệp, hội đồng). Luật sẽ không cần thiết điều chỉnh các vấn đề về tổ chức định giá, tổ chức thẩm định giá. Thực tiễn trong một số Luật chuyên ngành sẽ có các quy định đặc thù riêng.
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Về thẩm định giá khoản nợ: Tại Công văn số 8448/BTC-TCNH ngày 29/7/2021 về việc tham gia ý kiến về dự thảo Báo cáo Chính phủ về đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14, Bộ Tài chính có ý kiến về việc Bộ “đang nghiên cứu về thẩm định giá các khoản nợ, thẩm định giá công cụ tài chính trên cơ sở thị trường mua, bán nợ của Việt Nam”.
Do đó, đề nghị cân nhắc bổ sung các quy định về thẩm định giá khoản nợ (bao gồm cả nợ xấu), tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ (bao gồm cả nợ xấu) để các tổ chức mua bán nợ áp dụng trong quá trình mua bán nợ xấu và góp phần hình thành thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.
|
Hiện Bộ Tài chính đã đưa vào kế hoạch, đang dự thảo. Ý kiến này thuộc về khâu triển khai thực hiện Luật, tại Luật đã có quy định về trách nhiệm của Bộ Tài chính ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
|
II. CÁC Ý KIẾN THAM GIA VÀO NGUYÊN TẮC CHUNG
|
1
|
Các ý kiến chung
|
(1) Bộ Tư pháp
1. Qua rà soát, nhận thấy: (i) một số chính sách nêu tại đề nghị xây dựng Luật Giá (sửa đổi) chưa được cụ thể hóa, quy định tại dự thảo Luật; (ii) một số nội dung sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới của dự thảo Luật chưa bám sát các chính sách nêu tại đề nghị xây dựng Luật. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bám sát các chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Giá (sửa đổi) để quy định phù hợp, đầy đủ.
Ví dụ:
- Chính sách 1 (Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá) đề ra giải pháp giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định danh mục chi tiết trên cơ sở tuân thủ đúng các nguyên tắc đã được đề ra tại luật nhưng dự thảo Luật (Điều 21) quy định danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, hình thức định giá và thẩm quyền, trách nhiệm định giá được ban hành thống nhất tại phụ lục kèm theo Luật này.
- Chính sách 2 (Phương pháp và hình thức định giá) đề ra giải pháp bổ sung phương pháp điều hành giá thông qua “giá tham chiếu”. Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được quyền tự quyết định mức giá cụ thể để áp dụng trên nguyên tắc tôn trọng mức giá tham chiếu và có thể tăng giảm quanh mức giá này với một biên độ nhất định và đảm bảo đúng các nguyên tắc thị trường. Tuy nhiên, khoản 10 Điều 4 dự thảo Luật quy định: “Giá tham chiếu là mức giá do cơ quan có thẩm quyền công bố làm cơ sở cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tham khảo quyết định giá hàng hóa, dịch vụ” mà không quy định về biên độ tăng giảm giá theo giá tham chiếu.
- Chính sách 7 (Thẩm định viên về giá) đề ra giải pháp chuyên môn hóa hoạt động nghề nghiệp của thẩm định viên để bảo đảm tính chuyên sâu, chuyên nghiệp, tại thẻ thẩm định viên về giá sẽ thể hiện rõ lĩnh vực chuyên môn của thẩm định viên theo nhóm tài sản thẩm định. Việc phân định chi tiết các nhóm tàn sản này sẽ tiếp tục được đánh giá, phân định rõ ràng, cụ thể trong quá trình soạn thảo Luật. Tuy nhiên, mục 2 Chương V dự thảo Luật (dịch vụ thẩm định giá) chưa cụ thể hóa chính sách này.
2. Dự thảo Luật quy định nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung và có bổ sung một số quy định mới so với Luật Giá hiện hành. Tuy nhiên, kèm theo dự thảo Luật, cơ quan chủ trì soạn thảo chưa làm rõ căn cứ, cơ sở của việc đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung và quy định mới này. Hơn nữa, một số quy định còn mang tính chung chung, chưa cụ thể hóa; một số quy định được đưa ra mang tính cảm tính, chưa có cơ sở, căn cứ khoa học cũng như chưa có sự đánh giá, nghiên cứu, tổng kết để làm cơ sở cho việc đề xuất. Ví dụ: quy định về cấp thẻ thẩm định viên về giá cho thành viên Hội đồng thẩm định giá nhà nước (khoản 2 Điều 67); quy định về giá tham chiếu (khoản 10 Điều 4);... Do đó, để đảm bảo tính khả thi, thống nhất, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung, làm rõ cơ sở, căn cứ của việc sửa đổi, bổ sung và quy định nội dung mới tại dự thảo Luật.
|
(1) Bộ Tư pháp:
Các nội dung này đã được nghiên cứu, rà soát và chỉnh lý tại dự thảo theo đúng các chính sách đã được Chính phủ phê duyệt.
|
(2) Bộ Công thương
1. Mục tiêu xây dựng dự thảo Luật Giá tại mục II dự thảo Tờ trình đã nêu: “Luật giá là một trong những công cụ pháp lý quan trọng để tham gia điều hành kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, góp phần phát triển kinh tế, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. ”. Do đó, dự thảo Luật Giá cần phải thừa nhận các quyền đảm bảo quyền tự do kinh doanh, các quyền tự định đoạt giá đối với hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trên thị trường có sự kiểm soát của nhà nước.
- Việc định giá sản phẩm, dịch vụ thấp hơn để cạnh tranh là quyền của chủ kinh doanh và có lợi cho người dùng. Đối với các trường hợp doanh nghiệp vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền bán dưới giá thành vi phạm pháp luật cạnh tranh đã có cơ chế xử lý theo quy trình tố tụng cạnh tranh được quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2018). Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc các quy định liên quan tới giá, giá tối thiểu trong dự thảo Luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác như pháp luật điện lực
2. Dự thảo Luật hiện hành chỉ đưa ra các nội dung có thể hiện việc quản lý nhà nước về giá thông qua bình ổn giá, định giá, hiệp thương giá, niêm yết giá, thẩm định giá, tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường, kiểm tra việc chấp hành luật về giá mà chưa có có bất kỳ nội dung nào thể hiện nguyên tắc, quan điểm quản lý nhà nước về giá có thể thực hiện được thông qua các chính sách, công cụ, biện pháp điều hành khác,... của các cấp có thẩm quyềm trong công việc quản lý nhà nước đối với từng lĩnh vực chuyên ngành. Điều này có thể dẫn tới một số hạn chế, cản trở nhất định cho công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc chính sách cũng như thực thi quản lý nhà nước trong trường hợp có những ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn đòi hỏi thực hiện phải phối hợp thực hiện công việc quản lý nhà nước về giá cả thông qua các phương pháp khác bên ngoài các công cụ nội dung đang được quy định tại dự thảo Luật. Do đó đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu các kỹ các biện pháp quản lý nhà nước về giá cả.
3. Đề nghị cơ quan quản lý chỉnh sửa quy định tại dự thảo Luật vai trò, phạm vi, mức độ, biện pháp điều tiết của nhà nước theo các tiêu chí rõ ràng. Sự điều tiết của nhà nước phải hoàn toàn do yêu cầu của khách hàng nhằm vào việc khắc phục các hạn chế, những tác động bất lợi của thị trưởng đến nền kinh tế
4. Việc giao các Bộ, cơ quan ngang Bộ định giá, thực hiện bình ổn giá, tiếp nhận kê khai giá như quy định tại Điều 10 và các nội dung liên quan tại dự thảo Luật khó khả thi trong thực tế và không phù hợp với xu thể hiện nay (các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau). Từ thực tiễn quản lý trên, đề nghị cơ quan quản lý điều chỉnh nghiên cứu theo hướng quy định một cơ quan quản lý nhà nước làm đầu mối ở Trung ương (Bộ Tài chính) hoặc địa phương để thực hiện.
5. Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất sử dụng thuật ngữ “tổ chức, cá nhân kinh doanh” thay cho thuật ngữ “tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doah hàng hóa, dịch vụ”; thuật ngữ “cơ quan quản lý nhà nước” thay cho thuật ngữ “cơ quan nhà nước” trong toàn bộ dự thảo để thống nhất với các văn bản pháp luật khác và thực tiễn.
6. Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo quy định chi tiết tại dự thảo Luật hoặc giao Chính phủ quy định như hồ sơ, trình tự, thủ tục thực hiện định giá, thẩm định giá, tiếp nhận kê khai giá; thời gian thực hiện khai báo công khai giá; cập nhật, tra cứu, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu về quốc gia về giá; biện pháp nhà nước thực hiện quản lý, điều chỉnh giá theo cơ chế thị trường khi giá thị trường thường xuyên biến động, thay đổi, ...
|
(2) Bộ Công thương
1. Trong một số trường hợp, việc định giá tối thiểu là để định giá mua – bán có sử dụng ngân sách như nhà nước đặt hàng, mua hàng dự trữ quốc gia
2. Khoản 4 Điều 4 đã chỉnh lý là: “Điều 4. Nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước
… 4. Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; thúc đẩy xã hội hóa hoạt động cung cấp dịch vụ công; có chính sách về giá phù hợp với khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và các trường hợp theo quy định tại Luật khác có liên quan.”
3. Khoản 1 Điều 4 đã quy định rõ là: “Điều 4. Nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước
1. Quản lý, điều tiết giá theo cơ chế thị trường; bảo đảm công khai, minh bạch, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.”
4. Việc phân công phân cấp gắn với quản lý ngành, lĩnh vực để nâng cao hiệu quả, trách nhiệm quản lý của cơ quan, đơn vị.
5. Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo
6. Tiếp thu và chỉnh lý tại dự thảo Luật: Chỉ quy định nguyên tắc và giao Chính phủ quy định chi tiết.
|
(3) Bộ Giáo dục vả Đào tạo
1. Tại dự thảo Tờ trình Luật Giá (sửa đổi) (trang 12); Bộ Tài chính đề xuất giao thẩm quyền quy định danh mục chi tiết hàng hóa, dịch vụ định giascho Chính phủ và gắn với đó là việc phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện.
Bộ GDĐT đề nghị việc định giá trực tiếp các dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo thuộc thẩm quyền định giá của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để đảm bảo đồng bộ với các quy định hiện hành và thống nhất trong công tác quản lý giá.
2. Khoản 4 Điều 8, khoản 3 Điều 10 và khoản 2 Điều 30 của dự thảo Luật chưa thống nhất về cơ quan có thẩm quyền quy định và điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; danh mục hàng hóa dịch vụ bình ổn giá, kê khai giá.
|
|
(3) Hội thẩm định giá Việt Nam
Hội Thẩm định giá Việt Nam (TĐGVN) cho rằng Dự thảo sửa đổi cần phải nhất quán quán triệt nguyên tắc: Kế thừa những nội dung còn phù hợp của Luật Giá hiện hành, chỉ bổ sung những nội dung mới hợp lý mà Luật Giá hiện hành chưa đề cập. Từ nguyên tắc đó, đối chiếu với nội dung Luật Giá sửa đổi, Hội TĐGVN cho rằng chỉ nên xây dựng “Luật Giá sửa đổi, bổ sung Luật Giá số 11/2012/QH13”, không cần thiết phải xóa bỏ hoàn toàn Luật Giá hiện hành để sửa đổi thành Luật hoàn toàn mới
|
Với khối lượng các vấn đề sửa đổi thì việc ban hành Luật giá thay thế là cần thiết.
|
2
|
Về sự phù hợp, thống nhất của nội dung dự thảo Luật với quy định của các Bộ luật, Luật có liên quan
|
Liên quan đến Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Dự án Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2022) cùng thời điểm trình dự án Luật Giá (sửa đổi). Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát quy định về quyền, nghĩa vụ của tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh (Điều 12 dự thảo Luật và quy định quyền, nghĩa vụ của người tiêu dùng (Điều 13 dự thảo Luật) để đảm bảo thống trong 02 dự án Luật khi trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua.
(Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
|
Đã rà soát 2 dự thảo để thống nhất các nội dung
|
4
|
Tờ trình Chính phủ
|
Đề nghị làm rõ đánh giá tại trang 6 (Chồng chéo trong vấn đề ban hành phương pháp định giá. Tại Luật giá quy định: “Bộ Tài chính quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ; Các bộ, Cơ quan ngang bộ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của mình”) của Bộ, ngành nào?
(Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Đã tiếp thu, chỉnh lý tại Điều quy định về phương pháp và tại Danh mục
|
Đề nghị xem xét lại đánh giá đối với quy định về “quản lý thẩm định giá” (trang 6,7) (Bộ Tài nguyên và môi trường)
|
Bộ Tư pháp đã có báo cáo rà soát và Chính phủ đã có chỉ đạo xử lý vướng mắc.
|
5
|
Bố cục Luật
|
Luật Giá hiện hành đã bố cục làm nổi bật đầu tiên và trước hết là khẳng định quyền tự chủ về giá, tức tự định giá, cạnh tranh về giá của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh trên thị trường rồi mới đến vai trò điều tiết của Nhà nước đối với các hoạt động đó.
Nay Dự thảo Luật không đi theo hướng tách riêng như trên mà lại chú trọng nhấn rất mạnh và có thể coi chủ yếu là vai trò của Nhà nước điều tiết giá cả dẫn đến chúng tôi có cảm nhận là vai trò của thị trường mà chủ thể của nó là các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh chiếm vị trí khá mờ (bố cục lẫn trong rất nhiều quyền của chính quyền Nhà nước các cấp).
Chính vì vậy, bố cục của Dự thảo cần được cân nhắc, xem xét lại.
(Hội thẩm định giá Việt Nam)
|
Bố cục Luật cũng đã được chỉnh lý thành 2 chương quyền người tiêu dùng, trách nhiệm của nhà nước
|
STT
|
Danh mục xin ý kiến rộng rãi
|
Ý kiến tham gia
|
Ý kiến tiếp thu, giải trình
|
1
|
Giá bán lẻ điện
|
(1) Ủy ban dân tộc
Đề nghị giữ như quy định hiện hành, theo đó Thủ tướng Chính phủ quy định khung giá và mức bán lẻ điện bình quân, Tập đoàn điện lực Việt Nam tự định giá cụ thể.
(2) Bộ Công Thương
- Về khung giá của mức bán lẻ điện bình quân: Dự thảo Luật đề xuất Bộ Công Thương quy định khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, là mức giá cụ thể trong phạm vi khung giá áp dụng cho Tập đoàn điện lực Việt Nam. Việc này không phù hợp với vai trò quản lý nhà nước của Bộ khi Bộ Công Thương vừa là đơn vị xây dựng cơ chế, chính sách (khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân) vừa là đơn vị quyết định giá điều hành cụ thể của doanh nghiệp (mức giá bán lẻ điện bình quân).
- Về cơ chế điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân: Đề xuất bổ sung một khoản tại điều 8 dự thảo Luật quy định thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ trong việc ban hành cơ chế điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân để làm căn cứ thực hiện điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân, phù hợp với thực tiễn khách quan và việc quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
- Về mức giá bán lẻ điện bình quân: Căn cứ quy định tại Khoản 13 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực, Bộ Công Thương đề xuất Tập đoàn Điện lực Việt Nam được quyết định mức giá bán lẻ điện bình quân đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành và không quy định nội dung Bộ Công Thương quy định mức giá bán lẻ bình quân trong dự thảo Luật.
- Về mức giá bán lẻ điện cụ thể cho các nhóm khách hàng: Dự thảo đang đề xuất “Tập đoàn Điện lực Việt Nam tự định giá cụ thể”, nội dung này không phù hợp với thực trạng bán lẻ điện hiện nay vì ngoài Tập đoàn Điện lực Việt Nam còn có rất nhiều các đơn vị phân phối và bán lẻ điện khác. Vì vậy, Bộ Công Thương đề nghị sửa đổi quy định theo hướng “Đơn vị bán lẻ điện tự định giá cụ thể”.
|
Tiếp thu ý kiến các đơn vị và ý kiến thành viên Chính phủ, đã chỉnh lý lại dự thảo theo hướng kế thừa các quy định hiện hành;
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ quyết định giá đối với mặt hàng chiến lược, đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô và đời sống người dân; như vậy việc định giá đối với cơ cấu, biểu giá bán lẻ điện và khung giá của mức giá bán lẻ điện là phù hợp
|
2
|
Vật liệu nổ công nghiệp
|
Bộ Công Thương
Đề nghị không đưa vào danh mục Định giá. Do hiện nay trong nước chủ yếu sản xuất được các loại thuốc nổ hầm lò thông thường, nhiều loại VLNCN dùng trong các lĩnh vực khác nhau vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài, do đó việc định giá, quy định giá tối đa rất khó thực hiện và không khả thi. Bên cạnh đó, VLNCN thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước sản xuất kinh doanh theo Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ với tính chất ảnh hưởng đến an ninh, an toàn xã hội, không phải hàng hóa, dịch vụ quan trọng thiết yếu, ảnh hưởng toàn diện đến kinh tế - xã hội, đời sống người dân và sản xuất kinh doanh.
|
Tiếp thu ý kiến của Bộ Công Thương, không bổ sung mặt hàng này vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá
|
3
|
Dịch vụ cất cánh, hạ cánh;
Dịch vụ điều hành bay đi, đến;
Dịch vụ hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay;
Dịch vụ soi chiếu an ninh;
Dịch vụ bảo đảm an ninh hàng không và dịch vụ điều hành bay qua vùng thông báo bay do Việt Nam quản lý.
|
Bộ Giao thông vận tải
- Bổ sung danh mục: “Dịch vụ phục vụ hành khách”
- Đưa ra khỏi danh mục:
+ Dịch vụ hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay;
+ Dịch vụ soi chiếu an ninh.
|
Tiếp thu ý kiến của Bộ Giao thông vận tải và đã chỉnh lý lại tại dự thảo
|
4
|
Dịch vụ thuê mặt bằng cảng hàng không, sân bay;
Dịch vụ thiết yếu tại cảng hàng không sân bay
|
(1) Ủy ban dân tộc
Đề nghị giữ như quy định hiện hành, theo đó Bộ GTVT quy định khung giá, các đơn vị tự quy định giá cụ thể trong khung giá. Không đưa dịch vụ này ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
(2) Hiệp hội xăng dầu
Đề xuất quy định như hiện hành để minh bạch giá thuê mặt bằng, theo đó Bộ GTVT quy định khung giá và các đơn vị tự quy định giá cụ thể trong khung giá.
(3) Bộ Giao thông vận tải
- Đối với Dịch vụ thuê mặt bằng cảng hàng không, sân bay: Đề nghị bổ sung cơ sở đề xuất bỏ mặt hàng này ra khỏi danh mục
- Đối với dịch vụ thiết yếu tại cảng hàng không, sân bay: Làm rõ những dịch vụ thiết yếu là dịch vụ nào để quy định phù hợp với Điều 21 dự thảo Luật.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý lại tại dự thảo
|
5
|
Dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa tuyến độc quyền
|
Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị Bộ Tài chính bổ sung cơ sở đề xuất và đánh giá ảnh hưởng đến giá Dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa ngoài các tuyến độc quyền.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý lại tại dự thảo
|
6
|
Dịch vụ vận tải hành khách trên đường sắt đô thị
|
Ủy ban dân tộc
Đề nghị quy định Bộ GTVT quy định giá tối đa, UBND cấp tỉnh quy định giá cụ thể.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý lại tại dự thảo
|
7
|
Dịch vụ sử dụng đò, phà được đầu tư bằng nguồn vốn NSNN
|
Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị có đánh giá tác động khi điều chỉnh "Dịch vụ sử dụng đò, phà được đầu tư hoàn toàn từ nguồn vốn NSNN".
|
Đã bổ sung đánh giá cụ thể
|
8
|
Dịch vụ cầu bến phao neo
Dịch vụ hoa tiêu
|
Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị điều chỉnh tên dịch vụ: “cầu bến phao neo” thành “sử dụng cầu, bến, phao neo”.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý lại tại dự thảo
|
9
|
Dịch vụ lai dắt thuộc khu vực cảng biển
|
Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị Bộ Tài chính bổ sung cơ sở và đánh giá tác động đến việc thay đổi giá dịch vụ lai dắt thuộc khu vực cảng biển đối với đề xuất đưa ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý lại tại dự thảo
|
10
|
Dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh (BOT)
|
(1) Ủy ban dân tộc
Đề nghị giữ như quy định hiện hành, theo đó Bộ GTVT quy định giá tối đa đối với các dự án đường quốc lộ, cao tốc, UBND tỉnh quy định giá tối đa đối với các dự án đường bộ do địa phương quản lý. Không đưa dịch vụ này ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
(2) Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành (vẫn do nhà nước định giá) để đảm bảo tính ổn định trong cơ chế, chính sách đang áp dụng đối với các dự án đầu tư xây dựng dự án đường bộ theo hình thức BOT. Trường hợp Bộ Tài chính giữ nguyên quan điểm đề xuất đưa ra khỏi Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá đề nghị phải có đánh giá cụ thể tác động đối với các dự án BOT đang trong quá trình kinh doanh khai thác và cả các dự án BOT thực hiện sau này.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý vẫn giữ việc định giá mặt hàng này tại dự thảo, chỉ chỉnh lý về mặt nguyên tắc đối với tên“Dịch vụ sử dụng đường bộ gồm đường quốc lộ, đường cao tốc; đầu tư để kinh doanh”
|
11
|
Dịch vụ đường cao tốc do Nhà nước đầu tư và giao cho đơn vị khai thác
|
Bộ Giao thông vận tải
Bộ GTVT tiếp tục đề xuất tổ chức thu theo cơ chế phí đối với toàn bộ các tuyến đường bộ cao tốc do nhà nước sở hữu, quản lý. Sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết, Chính phủ chỉ đạo triển khai xây dựng hoàn thiện các quy định pháp luật thì việc thu phí có thể triển khai sớm theo những hình thức khai thác tài sản đã được quy định tại Luật quản lý tài sản công, Nghị định 33/2019/NĐ-CP trong đó trường hợp Chính phủ có chỉ đạo chuyển nhượng có thời hạn quyền khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (đối với tuyến đường cụ thể) để thu trước khoản phí thì Bộ GTVT sẽ chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan lập Đề án khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý lại tại dự thảo, hiện chưa quy định tại Danh mục. Trường hợp Chính phủ, Quốc hội quyết định phương án sẽ chỉnh lý lại cho phù hợp
|
12
|
Dịch vụ kết nối viễn thông;
Dịch vụ viễn thông, bưu chính công ích;
Dịch vụ phát hành báo chí công ích.
|
Bộ Thông tin và Truyền thông
Đề nghị hiệu chỉnh “dịch vụ phát hành báo chí công ích” thành “dịch vụ công ích trong hoạt động phát hành báo chí”.
|
Tiếp thu ý kiến và đã chỉnh lý lại tại dự thảo
|
13
|
Dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải
|
Bộ Xây dựng
Đối với khu công nghiệp thì giá dịch vụ thoát nước không phải do UBND tỉnh quy định giá cụ thể; do đó, việc quy định UBND cấp tỉnh quy định giá cụ thể cho dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải như Dự thảo chưa hoàn toàn phù hợp.
|
Tiếp thu và chỉnh lý lại phạm vi định giá mặt hàng này.
|
14
|
Một số nội dung của thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất
|
Ủy ban dân tộc
Đề nghị giữ như quy định hiện hành, theo đó UBND cấp tỉnh quy định giá. Không đưa dịch vụ này ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
|
Không tiếp thu, đây là phần gia tăng của dịch vụ công của nhà nước, thuộc danh mục phí, lệ phí theo quy định tại Luật phí, lệ phí, không cần thiết quy định định giá nhà nước.
|
15
|
Đất đai
|
Bộ Tài nguyên và Môi trưởng
Giá đất đai, mặt nước (số thứ tự 17 trong danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá) được đề xuất thực hiện theo quy định Luật Đất đai (đang thực hiện sửa đổi). Như vậy sẽ mâu thuẫn với quy định tại Điều 3 của dự thảo.
|
Đã chinh lý quy định tại tại Danh mục (cập nhật theo quy định tại Luật đất đai).
|
16
|
Mặt nước
|
|
|
17
|
Nước sạch sinh hoạt
|
(1) Bộ Xây dựng
Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay không còn hình thức Thông tư liên tịch. Nghị định quy định Bộ Tài chính ban hành khung giá nước sạch. Đề nghị rà soát về thẩm quyền hướng dẫn phương pháp định giá nước sạch
(2) Thừa Thiên Huế
Việc đề xuất như hiện nay là chưa phù hợp với tình hình thực tế và linh hoạt trong phương án hoạt động hay cơ chế tự quyết định giá của đơn vị cấp nước đối với giá nước sạch cho các mục đích sử dụng khác hay giá bán buôn bảo đảm phù hợp với phương án giá nước đã được UBND cấp tỉnh phê duyệt. Do vậy, đề nghị nghiên cứu quy định cho phù hợp.
|
Theo quy định tại Điều 24 dự thảo thì Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Bộ Xây dựng để ban hành phương pháp
|
18
|
Dịch vụ quy hoạch
|
(1) Bộ Xây dựng
Định nghĩa "Dịch vụ quy hoạch" không có trong Luật Quy hoạch; đề nghị rà soát lại nội dung này
|
Đã chỉnh lý, đưa ra khỏi danh mục
|
19
|
Học phí tại các Cơ sở đào tạo giáo dục công lâp
|
(1) Ủy ban dân tộc
Đề nghị giữ như quy định hiện hành, theo đó Chính phủ quy định khung giá, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định giá tối đa, mức giá cụ thể.
(2) Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đề nghị tiếp tục phân cấp theo quy định hiện hành
- Chính phủ quy định trần học phí giáo dục đại học công lập; Khung học phí (mức sàn – mức trần) giáo dục mầm non và phổ thông công lập
- UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh phê duyệt khung học phí, mức học phí mầm non, phổ thông công lập cụ thể tại địa phương.
|
Qua rà soát, mặt hàng này mặc dù cũng có ảnh hưởng rộng nhưng thực tế có tính tương đồng với dịch vụ khám chữa bệnh (hiện đã chuyển thẩm quyền xuống Bộ Y tế); Việc giao thẩm quyền của cấp Bộ định giá với dịch vụ có tính chuyên môn rất cao cũng là phù hợp
|
20
|
Dịch vụ giáo dục nghề nghiệp tại đơn vị công lập
|
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
- Đề nghị đổi tên thành: Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
- Dịch vụ đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và dưới 3 tháng: Các Bộ, ngành, địa phương quyết định giá cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định đặt hàng của mình.
2. Đề nghị bổ sung một số dịch vụ sau với hướng quy định: Các Bộ, ngành, địa phương quyết định giá cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định đặt hàng của mình. Đồng thời bổ sung quy định cụ thể tên các nhóm dịch vụ thuộc lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (theo ý kiến tham gia cụ thể)
|
1. Không tiếp thu do các dịch vụ này thực tế đã được quy định tại Luật Giáo dục nghề nghiệp và thực tiễn áp dụng không có vướng mắc
2. Các dịch vụ này là sản phẩm, dịch vụ công (dịch vụ sự nghiệp và sản phẩm, dịch vụ công ích) trong danh mục được cấp có thẩm quyền ban hành, sử dụng ngân sách nhà nước và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng; không cần thiết quy định danh mục quá cụ thể tại Luật giá và thực hiện theo Quyết định ban hành danh mục của Bộ Lao động
|
21
|
Dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục của nhà trường
|
Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục cấp mầm non, phổ thông (trong đó gồm dịch vụ cấp phát các loại phôi bằng, chứng chỉ; dịch vụ tuyển sinh): Đưa vào Danh mục dịch vụ do Nhà nước định giá. UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh phê duyệt mức giá cụ thể.
- Dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục bậc cao đẳng sư phạm và bậc giáo dục đại học (trong đó gồm dịch vụ cấp phát các loại phôi bằng, chứng chỉ; dịch vụ tuyển sinh): Không đưa vào danh mục định giá. Các cơ sở giáo dục xác định mức thu bù đắp chi phí trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật. Thực hiện công khai, niêm yết giá theo quy định.
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
|
22
|
Dịch vụ cấp phát các loại phôi bằng, chứng chỉ giáo dục phổ thông;
|
|
|
23
|
Dịch vụ tuyển sinh các cấp tại các cơ sở giáo dục nhà nước
|
|
|
24
|
Sách giáo khoa
|
Bộ Giáo dục và đào tạo
Đề nghị quy định: Chính phủ quy định giá sách giáo khoa trên cơ sở để xuất của Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Tài chính
Bộ Thông tin và Truyền thông
Đề nghị nghiên cứu đối với dự thảo Luật Giá sửa đổi về đề xuất quy định Bộ Giáo dục và đào tạo quy định giá tối đa cho Sách giáo khoa; Nhà xuất bản tự quyết định giá cụ thể” nhằm tránh xung đột với quy định hiện hành tại điểm i, khoản 1. Điều 18 Luật Xuất bản năm 2012 (quy định Tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản có nhiệm vụ và quyền hạn “Định giá, điều chỉnh giá bán lẻ xuất bản phẩm theo quy định của pháp luật”), đảm bảo thuận lợi cho việc thực hiện Luật Xuất bản và Luật Giá.
|
Trên cơ sở đánh giá chi tiết, đã chỉnh lý lại dự thảo theo hướng giao Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định giá cụ thể
|
25
|
Giá mua nhà làm nhà ở công vụ;
Giá cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công vụ được chi từ nguồn NSNN, nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.
|
(1) Bộ Xây dựng
Giá cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công vụ được chi từ nguồn NSNN, nhà ở thuộc sở hữu nhà nước (STT 36): Đề nghị rà soát việc quy định khung giá, giá tối đa cho phù hợp với Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn
(2) Thừa Thiên Huế
Để đảm bảo hiệu quả chi phí đầu tư và chi phí quản lý, vận hành nhà ở, đề nghị nghiên cứu phân cấp quản lý NSNN quy định giá tối thiểu.
|
Tiếp thu và đã chỉnh lý tại dự thảo
|
26
|
Giá thuê công trình hạ tầng kỹ thuật dùng chung do nhà nước đầu tư
|
Bộ Xây dựng
Đề nghị làm rõ thẩm quyền ban hành phương pháp xác định giá thuê công trình hạ tầng kỹ thuật dùng chung do nhà nước đầu tư (theo Luật ban hành VBQPPL không còn hình thức Thông tư liên tịch)
|
Việc xác định giá này phụ thuộc vào phạm vi quản lý của đơn vị được giao quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật dùng chung
|
27
|
Tác quyền sở hữu trí tuệ, bản ghi âm, ghi hình
|
(1) Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch
Đề nghị sửa thành: "Tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình trong trường hợp giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ". Theo quy định tại điểm a, Khoản 4 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ đã được QH thông qua ngày 16/6/2022, có hiệu lực từ 01/01/2023.
Khoản 4 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định giao Chính phủ quy định khung giá và mức giá đối với loại hàng hóa, dịch vụ này. Do đó, đề xuất cân nhắc quy định thẩm quyền định giá tại danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước ban hành theo Luật giá (sửa đổi) là: Chính phủ quy định khung giá và mức giá tiền bản quyền khai thác, sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình trong trường hợp giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
|
Tiếp thu đối với tên hàng hóa; Riêng đối với thẩm quyền và hình thức định giá vẫn giữ hướng quy định giao Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch quy định theo định hướng chung của Chính phủ
|
28
|
Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước tính giá theo lộ trình thu của người sử dụng dịch vụ.
|
Bộ Xây dựng
Việc quy định các Bộ, ngành theo lĩnh vực quy định giá tối đa là chưa phù hợp với các lĩnh vực do Bộ Xây dựng quản lý (ví dụ giá dịch vụ thoát nước Bộ Xây dựng chỉ ban hành phương pháp định giá; việc quy định giá cụ thể theo lộ trình thu do UBND cấp tỉnh quyết định). Đề nghị nghiên cứu lại nội dung này cho phù hợp với Luật chuyên ngành
|
Việc định giá mặt hàng nào là căn cứ theo danh mục do các Bộ chuyên ngành quy định tại Quyết định về dịch vụ sự nghiệp công
|
29
|
Dịch vụ sự nghiệp công, hàng hóa, dịch vụ công ích nhà nước đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước
|
(1) Bộ Thông tin và Truyền thông
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bổ sung quy định về mối quan hệ trong quản lý định giá của Bộ, Cơ quan ngang Bộ quản lý nhà nước lĩnh vực, phạm vi chuyên ngành quản lý (trong thực hiện điểm b khoản 3 Điều 22) với cơ quan có thẩm quyền đặt hàng.
(2) Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, quy định cụ thể danh mục đối với dịch vụ này tại Luật Giá sửa đổi (trong lĩnh vực GTVT gồm có: Sản phẩm, dịch vụ công ích trong lĩnh vực quản lý, bảo trì đường sắt quốc gia, đường bộ, đường thủy nội địa, hàng hải) và bổ sung hình thức giao nhiệm vụ và đấu thầu.
(3) Thừa Thiên Huế
Đề nghị nêu rõ địa phương quyết định giá cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định đặt hàng của mình, cụ thể là UBND cấp tỉnh hay UBND các cấp và Sở Quản lý ngành, lĩnh vực.
|
Việc định giá mặt hàng nào là căn cứ theo danh mục do các Bộ chuyên ngành quy định tại Quyết định về dịch vụ sự nghiệp công; Đã chỉnh lý lại tên mặt hàng cho phù hợp là “Sản phẩm, dịch vụ công (dịch vụ sự nghiệp và sản phẩm, dịch vụ công ích) trong danh mục được cấp có thẩm quyền ban hành, sử dụng ngân sách nhà nước và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng”
|
30
|
Hàng dự trữ quốc gia
|
Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị quy định cụ thể danh mục Hàng dự trữ quốc gia trong dự thảo Luật Giá
|
Danh mục cụ thể sẽ thực hiện theo Luật dự trữ quốc gia
|
31
|
Xăng dầu
|
(1) Ủy ban dân tộc
Đề nghị giữ như quy định hiện hành, theo đó Bộ Công thương phối hợp với Bộ Tài chính ban hành giá cơ sở, doanh nghiệp được bán không vượt quá mức giá do cơ quan quản lý công bố.
(2) Bộ Công Thương
Đề nghị bỏ mặt hàng xăng dầu ra khỏi Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và chỉ để mặt hàng xăng dầu vào danh mục mặt hàng thực hiện bình ổn giá (nếu bỏ quỹ bình ổn giá xăng dầu).
|
Không đưa vào danh mục do Bỏ quỹ ở Luật và riêng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu thì tiếp tục thực hiện theo cơ chế đặc thù được củng cố nguyên tắc tại 1 Điều riêng
|
32
|
Giá than
|
Bộ Công Thương
Theo quy định tại Quyết định số 2233/QĐ-TTg ngày 28/12/2020 của Thủ tướng; đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất hình thức quản lý chỉ với giá than nhập khẩu.
Tại mục 49 chưa quy định cụ thể thẩm quyền quản lý nhà nước về giá. Do vậy, trường hợp quy định thẩm quyền quản lý nhà nước đề nghị bổ sung cụ thể thẩm quyền quản lý nhà nước về giá đối với mặt hàng than là Bộ Tài chính để phù hợp thực tiễn quản lý, các quy định hiện hành.
|
Tiếp thu các nội dung tuy nhiên nội dung này sẽ được quy định tại dự thảo Nghị định
|
33
|
Một số dịch vụ cước viễn thông của doanh nghiệp (theo dự thảo Luật viễn thông sửa đổi)
|
Bộ Thông tin và Truyền thông
Đối với các dịch vụ liên quan đến viễn thông bao gồm: dịch vụ kết nối viễn thông, dịch vụ viễn thông công ích, một số dịch vụ cước viễn thông của doanh nghiệp viễn thông (theo dự thảo Luật Viễn thông (sửa đổi)), đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu quy định “Bộ Thông tin và Truyền thông quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu, giá tham chiếu, giá cụ thể (tuỳ dịch vụ)”. Mặt khác, do viễn thông là ngành có tính đặc thù và gắn liền với sự phát triển, thường xuyên thay đổi của công nghệ, dịch vụ viễn thông mới cũng ra đời. Do tính chất của từng dịch vụ viễn thông khác nhau nên định giá một dịch vụ viễn thông là hết sức phức tạp. Để tạo điều kiện cho Bộ TTTT thực hiện quản lý giá dịch vụ viễn thông kịp xu hướng quản lý viễn thông trên thế giới, đề nghị Bộ Tài chính xem xét và mở rộng công cụ định giá dịch vụ viễn thông.
|
Việc quy định thẩm quyền và hình thức định giá cần phải có quy định cụ thể. Đối với một số dịch vụ cước viễn thông khác có thể xem xét áp dụng phương thức giá tham chiếu.
|
34
|
Giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi
|
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Danh mục nhà nước định giá chưa có giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi, nếu thực hiện theo mục số 41 thì không đủ cơ sở để triển khai đối với thủy lợi. Do đó, đề nghị bổ sung giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi thành mục riêng trong danh mục nhà nước định giá. Trường hợp giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi gắn với tiền hỗ trợ sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi (như hiện nay) thì đề nghị quy định giá tối đa do Bộ Tài chính quyết định, giá cụ thể do Bộ Nông nghiệp và PTNT, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định (không cần thông qua Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để giảm quy trình thủ tục).
|
Tiếp thu ý kiến của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đã chỉnh lý lại dự thảo
|
35
|
Giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác
|
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Đề nghị quy định rõ loại hình giá này thực hiện như thế nào nếu đề xuất bỏ ra khỏi danh mục
|
Tiếp thu ý kiến của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đã chỉnh lý lại dự thảo vẫn giữ mặt hàng này
|
Danh mục các Bộ, ngành đề xuất bổ sung
|
1
|
Dịch vụ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Cung cấp thông tin, dữ liệu đất đai; Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính về đất đai theo nhu cầu về thời gian và địa điểm của người yêu cầu cung cấp dịch vụ
|
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Ở địa phương thì thực hiện Dịch vụ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính về đất đai theo nhu cầu về thời gian và địa điểm của người yêu cầu cung cấp dịch vụ; ở Trung ương thì thực hiện Dịch vụ Cung cấp thông tin, dữ liệu đất.
|
Không tiếp thu vì đây là phần gia tăng của dịch vụ công của nhà nước, thuộc danh mục phí, lệ phí theo quy định tại Luật phí, lệ phí, không cần thiết quy định định giá nhà nước.
|
2
|
Hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng an ninh thực hiện đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh sản xuất, cung ứng
|
Bộ Quốc phòng
Do các hàng hóa, dịch vụ này phù hợp nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 21
|
Tiếp thu và đã bổ sung mặt hàng này
|
3
|
- Khí thiên nhiên khai thác trong nước
- Cước phí vận chuyển, phân phối khí
|
Bộ Công Thương
- Khí thiên nhiên khai thác trong nước (phù hợp với quy định về định giá đối với nguồn tài nguyên quan trọng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 19 Luật giá)
- Cước phí vận chuyển, phân phối khí (có tính chất độc quyền tự nhiên) gắn với giá điện do nhà nước định giá.
|
Không bổ sung do Bộ Công Thương sau đó đã có ý kiến khác tại Phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ
|
4
|
Dịch vụ sân bay, dịch vụ sử dụng đường sắt chuyên dụng, dịch vụ sử dụng đường cao tốc
|
Bộ Công Thương
- Đề nghị xem xét, bổ sung: Dịch vụ sân bay, dịch vụ sử dụng đường sắt chuyên dụng, dịch vụ sử dụng đường cao tốc.
|
Không bổ sung do không có đánh giá chi tiết, cụ thể.
|
5
|
Phổ tần số vô tuyến điện
|
Bộ Thông tin và Truyền thông
Đề nghị bổ sung để phù hợp với nguyên tắc xác định danh mục của Luật Giá và quy định có liên quan về “Tài nguyên quan trọng” tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và Luật Viễn thông hiện hành.
|
Việc xác định giá sẽ thực hiện theo phương thức thẩm định giá của nhà nước.
|
6
|
Dịch vụ chia sẻ dữ liệu phương tiện giao thông vận tải
|
Bộ Giao thông vận tải
Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, bổ sung “Dịch vụ chia sẻ dữ liệu phương tiện giao thông vận tải”
|
Không tiếp thu vì đây là phần gia tăng của dịch vụ công của nhà nước, thuộc danh mục phí, lệ phí theo quy định tại Luật phí, lệ phí, không cần thiết quy định định giá nhà nước.
|
BẢNG SO SÁNH LUẬT GIÁ 2012 VÀ LUẬT GIÁ (SỬA ĐỔI)
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A1415-Bang-so-sanh-Luat-Gia-2012-va-Luat-sua-doi---20221003020834-1-.docx
Luật giá (sửa đổi)
|
Luật giá 2012
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân, người tiêu dùng trong lĩnh vực giá; hoạt động quản lý, điều tiết giá của nhà nước; hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường; hoạt động thẩm định giá; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá.
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giá; hoạt động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước.
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; người tiêu dùng; cơ quan nhà nước; tổ chức, cá nhân khác liên quan đến hoạt động trong lĩnh vực giá, thẩm định giá trên lãnh thổ Việt Nam.
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh; người tiêu dùng; cơ quan nhà nước; tổ chức, cá nhân khác liên quan đến hoạt động trong lĩnh vực giá trên lãnh thổ Việt Nam.
|
Điều 3. Áp dụng Luật giá và các Luật có liên quan
1. Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật giá và Luật khác được ban hành trước ngày Luật giá có hiệu lực thì thực hiện theo Luật giá, trừ trường hợp sau đây:
a) Thẩm quyền, hình thức, căn cứ, phương pháp và việc ban hành quyết định giá đất thực hiện theo Luật đất đai;
b) Căn cứ, phương pháp định giá và việc ban hành quyết định giá điện thực hiện theo quy định tại Luật điện lực; dịch vụ khám chữa bệnh thực hiện theo quy định tại Luật khám bệnh, chữa bệnh; dịch vụ giáo dục thực hiện theo quy định tại Luật giáo dục, Luật giáo dục nghề nghiệp; tiền bản quyền khi khai thác, sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình trong trường hợp giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan và các bên không thỏa thuận được giá bản quyền thực hiện theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
2. Trường hợp Luật khác ban hành sau ngày Luật giá có hiệu lực thi hành cần quy định đặc thù về quản lý, điều tiết giá khác với quy định tại Luật giá thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định của Luật giá, nội dung thực hiện theo quy định của Luật khác đó.
3. Trường hợp Luật khác ban hành sau ngày Luật giá có hiệu lực thi hành có quy định bổ sung thêm hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì phải đáp ứng các tiêu chí quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật này và quy định rõ về thẩm quyền, hình thức định giá của hàng hóa dịch vụ đó. Đồng thời phải xác định cụ thể nội dung về căn cứ, phương pháp, việc ban hành quyết định giá thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định tại Luật giá, nội dung thực hiện theo quy định của Luật khác đó.
|
Điều 3. Áp dụng luật
1. Các hoạt động trong lĩnh vực giá trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này.
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
|
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hàng hóa là tài sản có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm các loại động sản và bất động sản.
2. Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ trong hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật.
3. Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu là những hàng hóa, dịch vụ không thể thiếu cho sản xuất, đời sống, kinh tế, quốc phòng, an ninh; bao gồm: nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, dịch vụ chính phục vụ sản xuất, lưu thông; sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người, nhu cầu phát triển kinh tế và quốc phòng, an ninh.
4. Giá thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch khách quan và độc lập được hình thành do các yếu tố chi phối và vận động của thị trường quyết định tại một thời điểm, địa điểm nhất định.
5. Mặt bằng giá thị trường là mức giá bình quân của hàng hóa, dịch vụ hoặc nhóm hàng hóa, dịch vụ trên thị trường trong một thời kỳ tại một không gian nhất định và được phản ánh bằng chỉ số giá tiêu dùng.
6. Giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ là giá thành tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, bao gồm:
a) Giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ; giá mua hàng hoá, dịch vụ đối với tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại;
b) Chi phí lưu thông để đưa hàng hoá, dịch vụ bán ra thị trường.
7. Yếu tố hình thành giá gồm giá thành toàn bộ thực tế hợp lý, hợp lệ tương ứng với chất lượng của hàng hóa, dịch vụ; lợi nhuận (nếu có); các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; giá trị vô hình của thương hiệu.
8. Bình ổn giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm ổn định giá hàng hóa, dịch vụ trong một khoảng thời gian.
9. Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quyết định giá của hàng hóa, dịch vụ.
10. Phương án giá hàng hóa, dịch vụ là bản thuyết minh về sự cần thiết, các căn cứ định giá hoặc điều chỉnh giá, yếu tố hình thành giá, dự kiến tác động của mức giá đến đời sống người dân và kinh tế xã hội.
11. Hiệp thương giá là phương thức thỏa thuận giữa các doanh nghiệp về giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm trung gian hỗ trợ các bên thỏa thuận theo quy định của Luật này.
12. Kê khai giá là việc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục kê khai giá gửi thông báo mức giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận sau khi định giá, điều chỉnh giá.
13. Niêm yết giá là hình thức công khai mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ đến người tiêu dùng.
14. Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị bằng tiền của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
15. Thông đồng về giá, thẩm định giá là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi thỏa thuận, cấu kết với khách hàng, người có liên quan nhằm làm sai lệch mức giá hàng hóa, dịch vụ hoặc kết quả thẩm định giá tài sản để trục lợi.
|
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hàng hóa là tài sản có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm các loại động sản và bất động sản.
2. Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ trong hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật.
3. Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu là những hàng hóa, dịch vụ không thể thiếu cho sản xuất, đời sống, quốc phòng, an ninh, bao gồm: nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, dịch vụ chính phục vụ sản xuất, lưu thông; sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người và quốc phòng, an ninh.
4. Giá thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ hình thành do các nhân tố chi phối và vận động của thị trường quyết định tại một thời điểm, địa điểm nhất định.
5. Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ.
6. Niêm yết giá là việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thông báo công khai bằng các hình thức thích hợp, rõ ràng và không gây nhầm lẫn cho khách hàng về mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng Đồng Việt Nam bằng cách in, dán, ghi giá trên bảng, trên giấy hoặc trên bao bì của hàng hóa hoặc bằng hình thức khác tại nơi giao dịch hoặc nơi chào bán hàng hóa, dịch vụ để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của khách hàng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
7. Hiệp thương giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức và làm trung gian cho bên mua và bên bán thương lượng về mức giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ thỏa mãn điều kiện hiệp thương giá theo đề nghị của một trong hai bên hoặc cả hai bên mua, bán hoặc khi có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh).
8. Đăng ký giá là việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lập, phân tích việc hình thành mức giá và gửi biểu mẫu thông báo giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi định giá, điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá trong thời gian Nhà nước áp dụng biện pháp bình ổn giá.
9. Kê khai giá là việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gửi thông báo mức giá hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi định giá, điều chỉnh giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện phải kê khai giá.
10. Bình ổn giá là việc Nhà nước áp dụng biện pháp thích hợp về điều hòa cung cầu, tài chính, tiền tệ và biện pháp kinh tế, hành chính cần thiết khác để tác động vào sự hình thành và vận động của giá, không để giá hàng hóa, dịch vụ tăng quá cao hoặc giảm quá thấp bất hợp lý.
11. Yếu tố hình thành giá là giá thành toàn bộ thực tế hợp lý tương ứng với chất lượng hàng hóa, dịch vụ; lợi nhuận (nếu có); các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; giá trị vô hình của thương hiệu.
12. Giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ là giá thành tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, bao gồm:
a) Giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ; giá mua hàng hoá, dịch vụ đối với tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại;
b) Chi phí lưu thông để đưa hàng hoá, dịch vụ đến người tiêu dùng.
13. Mặt bằng giá là mức trung bình của các mức giá hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế ứng với không gian, thời gian nhất định và được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng.
14. Giá biến động bất thường là giá hàng hóa, dịch vụ tăng quá cao hoặc giảm quá thấp bất hợp lý khi các yếu tố hình thành giá không thay đổi lớn hoặc trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hoả hoạn, dịch bệnh.
15. Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.
16. Báo cáo kết quả thẩm định giá là văn bản do doanh nghiệp thẩm định giá lập, trong đó nêu rõ quá trình thẩm định giá, kết quả thẩm định giá và ý kiến của doanh nghiệp thẩm định giá về giá trị của tài sản được thẩm định để khách hàng và các bên liên quan có căn cứ sử dụng cho mục đích ghi trong hợp đồng thẩm định giá.
17. Chứng thư thẩm định giá là văn bản do doanh nghiệp thẩm định giá lập để thông báo cho khách hàng và các bên liên quan về những nội dung cơ bản của báo cáo kết quả thẩm định giá.
18. Mức giá bán lẻ điện bình quân là giá bán điện được xác định theo nguyên tắc tính tổng chi phí sản xuất, kinh doanh và mức lợi nhuận hợp lý bình quân cho 01 kWh điện thương phẩm trong từng thời kỳ, được sử dụng cùng với cơ cấu biểu giá bán lẻ điện để tính giá bán lẻ điện cụ thể cho từng đối tượng khách hàng sử dụng điện.
19. Khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân là khoảng cách giữa mức giá tối thiểu và mức giá tối đa của mức giá bán lẻ điện bình quân.
20. Cơ cấu biểu giá bán lẻ điện là bảng kê các mức giá cụ thể hoặc tỷ lệ phần trăm (%) của mức giá bán lẻ điện bình quân để tính giá bán lẻ điện cụ thể cho từng đối tượng khách hàng sử dụng điện.
|
Điều 5. Nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của Nhà nước
1. Quản lý, điều tiết giá theo cơ chế thị trường; bảo đảm công khai, minh bạch, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.
2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.
3. Định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ.
4. Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; thúc đẩy xã hội hóa hoạt động cung cấp dịch vụ công; có chính sách về giá phù hợp với khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và các trường hợp theo quy định tại Luật khác có liên quan.
|
Điều 5. Nguyên tắc quản lý giá
1. Nhà nước thực hiện quản lý giá theo cơ chế thị trường; tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
2. Nhà nước thực hiện điều tiết giá theo quy định của Luật này để bình ổn giá; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.
3. Nhà nước có chính sách về giá nhằm hỗ trợ khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
4. Nhà nước quy định nguyên tắc, phương pháp xác định giá đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá phù hợp với nguyên tắc của nền kinh tế thị trường.
|
Điều 6. Công khai thông tin về giá, thẩm định giá
1. Cơ quan nhà nước thực hiện công khai:
a) Chủ trương, đề án, báo cáo, biện pháp quản lý, điều tiết giácủa cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Các văn bản quyết định giá hàng hóa, dịch vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Danh sách doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá, người có Thẻ thẩm định viên về giá; danh sách doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; danh sách người bị tước, thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá và một số thông tin về hoạt động thẩm định giá của doanh nghiệp theo quy định của Bộ Tài chính.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện công khai:
a) Giá cụ thể hàng hóa, dịch vụ do các tổ chức, cá nhân quyết định trong khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định;
b) Giá hàng hóa, dịch vụ kê khai;
c) Giá hàng hóa, dịch vụ niêm yết giá.
3. Việc công khai thông tin không áp dụng đối với các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước và các trường hợp không được phép công khai theo quy định của pháp luật; đảm bảo chính xác, khách quan, trung thực.
4. Các hình thức công khai gồm: đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, phát hành ấn phẩm hoặc gửi văn bản đến các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan hoặc các hình thức phù hợp khác. Đối với các nội dung công khai quy định tại điểm b, c Khoản 1 Điều này phải được cập nhật lên cơ sở dữ liệu về giá.
5. Cơ quan thông tin, truyền thông có trách nhiệm thông tin, tuyên truyền, đưa tin về chính sách pháp luật về giá, cơ chế quản lý, điều hành giá chính xác, khách quan, trung thực và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin theo quy định của pháp luật.
|
Điều 6. Công khai thông tin về giá
1. Cơ quan nhà nước thực hiện công khai chủ trương, chính sách, biện pháp quản lý, điều tiết, quyết định về giá của Nhà nước bằng một hoặc một số hình thức như họp báo, đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc hình thức thích hợp khác.
2. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện công khai thông tin về giá hàng hóa, dịch vụ gắn với thông số kinh tế - kỹ thuật cơ bản của hàng hóa, dịch vụ đó bằng hình thức niêm yết giá. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá, Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh lựa chọn thêm một hoặc một số hình thức như họp báo, đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc hình thức thích hợp khác.
3. Cơ quan thông tin, truyền thông có trách nhiệm đưa tin về giá chính xác, khách quan, trung thực và chịu trách nhiệm về việc đưa tin theo quy định của pháp luật.
4. Việc công khai thông tin về giá quy định tại Điều này không áp dụng đối với trường hợp thông tin không được phép công khai theo quy định của pháp luật.
|
Điều 7. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Đối với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá; cán bộ, công chức thuộc cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá:
a) Can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật vào quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng trong lĩnh vực giá và tổ chức, cá nhân hoạt động thẩm định giá;
b) Tiết lộ, sử dụng thông tin do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp không đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Thông đồng về giá dưới mọi hình thức để trục lợi.
2. Đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ:
a) Bịa đặt, loan tin, đưa tin không đúng sự thật, không chính xác về tình hình thị trường, giá hàng hóa, dịch vụ;
b) Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết trong các giao dịch mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, phương thức vận chuyển, thanh toán, chất lượng; số lượng, tính năng, công dụng, hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ;
c) Lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, chính sách của nhà nước và điều kiện bất thường khác để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý không phù hợp với biến động của yếu tố hình thành giá so với trước khi điều chỉnh giá;
d) Các hành vi thông đồng về giá, thẩm định giá dưới mọi hình thức để trục lợi.
3. Đối với doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Tranh giành khách hàng dưới hình thức ngăn cản, đe dọa, lôi kéo, mua chuộc; hạ giá dịch vụ để cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật về cạnh tranh; thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá;
b) Thông đồng về giá, thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá để trục lợi;
c) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thoả thuận trong hợp đồng;
d) Cung cấp dịch vụ thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá là người có liên quan theo quy định của Luật doanh nghiệp;
đ) Kê khai không chính xác, không trung thực, giả mạo hồ sơ đăng ký cấp, cấp lại giấy chứng nhận đủ kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá.
4. Đối với thẩm định viên về giá:
a) Thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá;
b) Thông đồng về giá, thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá để trục lợi;
c) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thoả thuận trong hợp đồng;
d) Giả mạo, cho thuê, cho mượn Thẻ thẩm định viên về giá; sử dụng Thẻ thẩm định viên về giá trái với quy định tại Luật này và pháp luật có liên quan;
đ) Phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá với tư cách cá nhân;
e) Ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá không đúng với lĩnh vực, nơi làm việc được thông báo hành nghề;
g) Thực hiện thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá là người có liên quan theo quy định của Luật doanh nghiệp.
5. Đối với thành viên Hội đồng thẩm định giá:
a) Thông đồng về giá, thẩm định giá với người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá để trục lợi;
b) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá;
6. Đối với khách hàng thẩm định giá:
a) Cung cấp không chính xác, trung thực, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến tài sản cần thẩm định giá;
b) Mua chuộc, hối lộ, thông đồng với thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giá để trục lợi;
c) Sử dụng Chứng thư thẩm định giá đã hết thời gian hiệu lực; sử dụng Chứng thư thẩm định giá không theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá.
7. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đưa ra các hình thức, điều kiện nhằm hạn chế hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá trái với quy định tại Luật này.
|
Điều 10. Hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá
1. Đối với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá; cán bộ, công chức thuộc cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá:
a) Can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật vào quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giá;
b) Ban hành văn bản không đúng thẩm quyền; không đúng trình tự, thủ tục;
c) Tiết lộ, sử dụng thông tin do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh cung cấp không đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nhiệm vụ để vụ lợi.
2. Đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh:
a) Bịa đặt, loan tin, đưa tin không đúng sự thật về tình hình thị trường, giá hàng hóa, dịch vụ;
b) Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, chất lượng hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ;
c) Lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và điều kiện bất thường khác; lợi dụng chính sách của Nhà nước để định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý;
d) Các hành vi chuyển giá, thông đồng về giá dưới mọi hình thức để trục lợi.
3. Đối với doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Tranh giành khách hàng dưới hình thức ngăn cản, đe dọa, lôi kéo, mua chuộc, thông đồng với khách hàng và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác; thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá;
b) Thông đồng với khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá làm sai lệch kết quả thẩm định giá;
c) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thoả thuận trong hợp đồng;
d) Giả mạo, cho thuê, cho mượn; sử dụng Thẻ thẩm định viên về giá trái với quy định của pháp luật về giá;
đ) Tiết lộ thông tin về hồ sơ, khách hàng thẩm định giá và tài sản được thẩm định giá, trừ trường hợp được khách hàng thẩm định giá đồng ý hoặc pháp luật cho phép;
e) Gây trở ngại hoặc can thiệp vào công việc điều hành của tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá khi họ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
4. Đối với thẩm định viên về giá hành nghề, ngoài các quy định tại khoản 3 Điều này, không được thực hiện các hành vi sau:
a) Hành nghề thẩm định giá với tư cách cá nhân;
b) Đăng ký hành nghề thẩm định giá trong cùng một thời gian cho từ hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên;
c) Thực hiện thẩm định giá cho đơn vị được thẩm định giá mà thẩm định viên về giá có quan hệ về góp vốn, mua cổ phần, trái phiếu hoặc có bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột là thành viên trong ban lãnh đạo hoặc kế toán trưởng của đơn vị được thẩm định giá.
5. Đối với tổ chức, cá nhân có tài sản được thẩm định giá và tổ chức, cá nhân liên quan đến việc sử dụng kết quả thẩm định giá:
a) Chọn tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá để ký hợp đồng thẩm định giá;
b) Cung cấp không chính xác, không trung thực, không đầy đủ, không kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến tài sản cần thẩm định giá;
c) Mua chuộc, hối lộ, thông đồng với thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá để làm sai lệch kết quả thẩm định giá.
|
Điều 8. Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
1. Tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
2. Quyết định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh mà Nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu.
3. Tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh trên cơ sở căn cứ giá tham chiếu được công bố.
4. Đấu thầu, đấu giá, thoả thuận giá, hiệp thương giá và cạnh tranh về giá dưới các hình thức khác theo quy định của pháp luật khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ.
5. Áp dụng nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá do Nhà nước quy định để định giá hàng hóa, dịch vụ.
6. Điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh phù hợp với biến động của yếu tố hình thành giá.
7. Hạ giá bán hàng hóa, dịch vụ mà không bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh tranh và pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu, đồng thời phải niêm yết công khai tại nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời hạn hạ giá đối với các trường hợp sau:
a) Hàng tươi sống;
b) Hàng hóa tồn kho;
c) Hàng hóa, dịch vụ theo mùa vụ;
d) Hàng hóa, dịch vụ để khuyến mại theo quy định của pháp luật;
đ) Hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, giải thể; thay đổi địa điểm, ngành nghề sản xuất, kinh doanh;
e) Hàng hóa, dịch vụ khi thực hiện chính sách bình ổn giá của Nhà nước.
8. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
9. Tiếp cận thông tin về chính sách giá của Nhà nước; các biện pháp quản lý, điều tiết giá của Nhà nước và các thông tin công khai khác.
10. Khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá; yêu cầu tổ chức, cá nhân bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 11. Quyền của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
1. Tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
2. Quyết định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh mà Nhà nước quy định khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu.
3. Đấu thầu, đấu giá, thoả thuận giá, hiệp thương giá và cạnh tranh về giá dưới các hình thức khác theo quy định của pháp luật khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ.
4. Áp dụng nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá do Nhà nước quy định để định giá hàng hóa, dịch vụ.
5. Điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh phù hợp với biến động của yếu tố hình thành giá.
6. Hạ giá bán hàng hóa, dịch vụ mà không bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh tranh và pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu, đồng thời phải niêm yết công khai tại nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời hạn hạ giá đối với các trường hợp sau:
a) Hàng tươi sống;
b) Hàng hóa tồn kho;
c) Hàng hóa, dịch vụ theo mùa vụ;
d) Hàng hóa, dịch vụ để khuyến mại theo quy định của pháp luật;
đ) Hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, giải thể; thay đổi địa điểm, ngành nghề sản xuất, kinh doanh;
e) Hàng hóa, dịch vụ khi thực hiện chính sách bình ổn giá của Nhà nước.
7. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
8. Tiếp cận thông tin về chính sách giá của Nhà nước; các biện pháp quản lý, điều tiết giá của Nhà nước và các thông tin công khai khác.
9. Khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá; yêu cầu tổ chức, cá nhân bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 9. Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
1. Lập phương án giá hoặc báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để triển khai các biện pháp quản lý, điều tiết giá.
2. Chấp hành quyết định về giá, biện pháp bình ổn giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Kê khai giá bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.
4. Niêm yết giá bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.
5. Công khai thông tin về giá hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.
6. Cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ số liệu, tài liệu có liên quan theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp Nhà nước định giá, áp dụng biện pháp bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ của mình.
7. Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ để xem xét định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục kê khai giá.
8. Giải quyết kịp thời các khiếu nại về giá hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh; bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 12. Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
1. Lập phương án giá hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.
2. Chấp hành quyết định về giá, biện pháp bình ổn giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Đăng ký giá bán hoặc giá mua đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện phải đăng ký giá và chịu trách nhiệm về tính chính xác của mức giá đã đăng ký theo quy định của pháp luật.
4. Kê khai giá bán hoặc giá mua hàng hóa, dịch vụ và chịu trách nhiệm về tính chính xác của mức giá đã kê khai đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện phải kê khai giá theo quy định của Chính phủ.
5. Niêm yết giá:
a) Đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải niêm yết đúng giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và mua, bán đúng giá niêm yết;
b) Đối với hàng hóa, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì niêm yết theo giá do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quyết định và không được mua, bán cao hơn giá niêm yết.
6. Công khai thông tin về giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của mình theo quy định của Luật này.
7. Cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ số liệu, tài liệu có liên quan theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp Nhà nước định giá, áp dụng biện pháp bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh.
8. Giải quyết kịp thời mọi khiếu nại về giá hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh. Bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 10. Quyền của người tiêu dùng
1. Lựa chọn, thỏa thuận về giá khi mua hàng hóa, dịch vụ.
2. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá, chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
3. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về giá, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ; được cung cấp hóa đơn bán hàng theo quy định của pháp luật.
4. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ đã mua không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuât, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng gắn với giá hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, cam kết.
5. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi.
6. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá theo quy định của Luật này, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quy định của pháp luật khác có liên quan.
|
Điều 13. Quyền của người tiêu dùng
1. Lựa chọn, thỏa thuận và góp ý về giá khi mua hàng hóa, dịch vụ.
2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về giá, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ.
3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ đã mua không đúng tiêu chuẩn chất lượng, số lượng, giá hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, cam kết.
4. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi.
5. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
|
Điều 11. Nghĩa vụ của người tiêu dùng
1. Thanh toán theo mức giá thỏa thuận, mức giá đã lựa chọn hoặc mức giá do Nhà nước quy định khi mua hàng hóa, dịch vụ.
2. Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan khi phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá.
|
Điều 14. Nghĩa vụ của người tiêu dùng
1. Thanh toán theo mức giá thỏa thuận, mức giá đã lựa chọn hoặc mức giá do Nhà nước quy định khi mua hàng hóa, dịch vụ.
2. Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan khi phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về giá.
|
Điều 12. Nội dung quản lý nhà nước về giá
1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giá, thẩm định giá.
2. Thực hiện hoạt động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước.
3. Thực hiện hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường; xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về giá.
4. Quản lý hoạt động thẩm định giá; tổ chức hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.
5. Quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về giá, thẩm định giá.
6. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về giá, thẩm định giá.
7. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực giá, thẩm định giá.
8. Hợp tác quốc tế về giá, thẩm định giá.
9. Nội dung khác theo quy định pháp luật có liên quan.
|
Điều 7. Nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá
1. Nghiên cứu, xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực giá phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giá.
3. Định giá hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; thẩm định giá tài sản của Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được pháp luật quy định.
4. Thu thập, tổng hợp, phân tích và dự báo giá thị trường trong nước và thế giới để xây dựng cơ sở dữ liệu về giá phục vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá.
5. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá; quản lý thi, cấp và thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá, Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
6. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực giá.
7. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giá.
|
Điều 13. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
1. Thống nhất quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá.
2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá, thẩm định giá theo thẩm quyền.
3. Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá.
4. Quy định Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá; Danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá và giá tham chiếu.
5. Phân công, phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm tiếp nhận kê khai giá, thực hiện bình ổn giá, trách nhiệm xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về giá và các nhiệm vụ khác thuộc thẩm quyền.
|
Điều 8. Thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá trên phạm vi cả nước.
2. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá trong lĩnh vực được pháp luật quy định.
4. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá tại địa phương theo quy định của pháp luật.
|
Điều 14. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài chính
1. Là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá.
2. Xây dựng, trình Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về giá, thẩm định giá.
3. Trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
4. Trình Chính phủ ban hành, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, kê khai giá và giá tham chiếu.
5. Trình Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương bình ổn giá trên phạm vi vùng hoặc cả nước; tổ chức thực hiện bình ổn giá theo phân công của Chính phủ.
6. Định giá đối với các hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền; quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá và hướng dẫn thực hiện phương pháp.
7. Tiếp nhận kê khai giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền và hướng dẫn thực hiện kê khai giá.
8. Tổ chức hiệp thương giá hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực, phạm vi quản lý.
9. Tổ chức triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường; xây dựng, vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
10. Quản lý hoạt động thẩm định giá:
a) Ban hành hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
b) Quy định về đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức nghiệp vụ thẩm định giá;
c) Quy định về việc thi, cấp, quản lý, tước có thời hạn và thu hồi thẻ thẩm định viên về giá;
d) Cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; đình chỉ hoạt động kinh doanh thẩm định giá;
đ) Quản lý hoạt động hành nghề của thẩm định viên về giá;
e) Quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá, hội nghề nghiệp về thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
11. Tổ chức hoạt động thẩm định giá của Nhà nước thuộc lĩnh vực phạm vi quản lý theo quy định pháp luật.
12. Thực hiện hợp tác quốc tế về giá, thẩm định giá.
13. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về giá, thẩm định giá.
14. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực giá, thẩm định giá thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật.
15. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan.
|
Điều 15. Nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, Cơ quan ngang Bộ
1. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá trong lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật.
2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá theo thẩm quyền.
3. Đề xuất và phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
4. Đề xuất và phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, kê khai giá, áp dụng giá tham chiếu.
5. Đề xuất và phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ chủ trương bình ổn giá; tổ chức thực hiện bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực.
6. Định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng, ban hành phương pháp định giá riêng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định tại Luật này và Luật chuyên ngành.
7. Tiếp nhận kê khai giá theo phân công của Chính phủ.
8. Tổ chức hiệp thương giá hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực, phạm vi quản lý.
9. Cập nhật thông tin, dữ liệu về giá vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá theo quy định của Chính phủ.
10. Tổ chức hoạt động thẩm định giá của Nhà nước thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định.
11. Kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về giá, hoạt động thẩm định giá của Nhà nước trong lĩnh vực, phạm vi quản lý.
12. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực giá, hoạt động thẩm định giá của Nhà nước thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật.
13. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan.
|
Điều 16. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh giao Thường trực Hội đồng nhân dân có ý kiến về Quyết định giá hàng hóa dịch vụ trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình xin ý kiến theo quy định của pháp luật.
|
Điều 17. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
1. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá tại địa phương theo quy định của pháp luật.
2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giá trên địa bàn theo thẩm quyền.
3. Thực hiện bình ổn giá trên địa bàn tỉnh theo quy định.
4. Định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền.
5. Tổ chức phân công, phân cấp việc tiếp nhận kê khai giá trên địa bàn tỉnh; hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường; xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương và kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá theo quy định của Chính phủ.
6. Đề xuất với Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá.
7. Đề xuất với Bộ Tài chính trong việc trình Chính phủ ban hành, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, kê khai giá.
8. Tổ chức hiệp thương giá hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn quản lý của địa phương.
9. Tổ chức hoạt động thẩm định giá của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo quy định.
10. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá thuộc phạm vi quản lý của địa phương.
11. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giá, thẩm định giá thuộc phạm vi quản lý của địa phương.
|
Điều 18. Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá
1. Bộ trưởng Bộ Tài chính giao cơ quan quản lý giá thuộc Bộ giúp Bộ trưởng:
a) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá quy định tại Điều 14 của Luật này;
b) Trực tiếp xây dựng, vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá; cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; đình chỉ hoạt động kinh doanh thẩm định giá; quản lý hoạt động hành nghề của thẩm định viên về giá.
2. Căn cứ vào tổ chức, bộ máy hiện có, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ giao cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá của Nhà nước quy định tại Điều 15 của Luật này.
3. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao:
a) Cơ quan tài chính cùng cấp giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá quy định tại Điều 17 của Luật này; Trực tiếp xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương và kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
b) Các Sở, ngành giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá theo lĩnh vực quản lý.
|
|
Điều 19. Hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá
1. Hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá phải đáp ứng đồng thời các tiêu chí sau:
a) Là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu;
b) Có tác động ảnh hưởng toàn diện đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
2. Chính phủ ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá. Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Chính phủ ban hành, điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá. Việc trình Chính phủ điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá do Bộ Tài chính chủ trì thực hiện trên cơ sở đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
3. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp, công bố dịch, thiệt hại do thiên tai; trên cơ sở đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương và biện pháp bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá trong thời hạn nhất định.
|
Điều 15. Hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá
1. Hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá là hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho sản xuất, đời sống được quy định theo các tiêu chí sau:
a) Nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và dịch vụ chính cho sản xuất và lưu thông;
b) Hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người.
2. Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá bao gồm:
a) Xăng, dầu thành phẩm;
b) Điện;
c) Khí dầu mỏ hóa lỏng;
d) Phân đạm; phân NPK;
đ) Thuốc bảo vệ thực vật theo quy định của pháp luật;
e) Vac-xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm;
g) Muối ăn;
h) Sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi;
i) Đường ăn, bao gồm đường trắng và đường tinh luyện;
k) Thóc, gạo tẻ thường;
l) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá được quy định tại khoản 2 Điều này, Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
4. Căn cứ vào Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá được quy định tại khoản 2 Điều này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định tại Điều 18 của Luật này quyết định loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể để áp dụng biện pháp bình ổn giá phù hợp trong từng thời kỳ.
|
Điều 20. Nguyên tắc, các trường hợp và biện pháp bình ổn giá
1. Nguyên tắc bình ổn giá:
a) Thực hiện công khai, minh bạch;
b) Phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên và bối cảnh kinh tế xã hội, mục tiêu kiểm soát lạm phát;
c) Xác định rõ thời hạn và phạm vi thực hiện trên phạm vi vùng, cả nước, tại địa phương.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định bình ổn giá trong các trường hợp sau đây:
a) Giá của hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá tăng quá cao hoặc giảm quá thấp trong một khoảng thời gian gây ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh, mặt bằng giá thị trường;
b) Khi cơ quan có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp, công bố dịch, thiệt hại do thiên tai.
3. Các biện pháp bình ổn giá có thời hạn:
a) Điều hòa, kiểm soát cung cầu bao gồm: điều hòa sản xuất hàng hóa trong nước, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; điều hòa hàng hóa giữa các vùng, các địa phương trong nước thông qua việc tổ chức lưu thông hàng hóa; mua vào hoặc bán ra hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ lưu thông;
b) Các biện pháp về tài chính, tiền tệ phù hợp với quy định của pháp luật;
c) Quy định giá cụ thể, giá tối đa, giá tối thiểu hoặc khung giá phù hợp với tính chất của từng loại hàng hóa, dịch vụ và thời hạn áp dụng mức giá; việc quy định giá hàng hóa, dịch vụ được thực hiện theo các nguyên tắc, căn cứ, phương pháp quy định tại Mục 2 Chương này;
d) Áp dụng biện pháp hỗ trợ về giá phù hợp với quy định của pháp luật và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
|
Điều 16. Trường hợp thực hiện bình ổn giá
1. Việc bình ổn giá được thực hiện trong các trường hợp sau:
a) Khi giá hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật này có biến động bất thường;
b) Khi mặt bằng giá biến động ảnh hưởng đến ổn định kinh tế - xã hội.
2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 17. Biện pháp bình ổn giá
Áp dụng có thời hạn một hoặc một số biện pháp sau để thực hiện bình ổn giá phù hợp với các trường hợp được quy định tại Điều 16 của Luật này:
1. Điều hòa cung cầu hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; hàng hoá giữa các vùng, các địa phương trong nước thông qua việc tổ chức lưu thông hàng hóa; mua vào hoặc bán ra hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ lưu thông;
2. Các biện pháp về tài chính, tiền tệ phù hợp với quy định của pháp luật;
3. Trong trường hợp cần thiết, lập quỹ bình ổn giá đối với mặt hàng cần bình ổn giá thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá nhằm mục tiêu hỗ trợ cho bình ổn giá; sử dụng quỹ bình ổn giá khi giá của hàng hóa, dịch vụ đó biến động bất thường hoặc tác động xấu đến nền kinh tế và đời sống. Quỹ bình ổn giá được lập từ các nguồn sau:
a) Trích từ giá hàng hóa, dịch vụ;
b) Tự nguyện đóng góp của tổ chức, cá nhân;
c) Viện trợ của nước ngoài;
d) Các nguồn tài chính hợp pháp khác.
Chính phủ quy định chi tiết về mặt hàng được lập quỹ bình ổn giá, việc lập, quản lý và sử dụng quỹ bình ổn giá;
4. Đăng ký giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện bình ổn giá. Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh chỉ thực hiện đăng ký giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện bình ổn giá trong thời gian Nhà nước áp dụng biện pháp bình ổn giá;
5. Kiểm tra yếu tố hình thành giá; kiểm soát hàng hoá tồn kho; kiểm tra số lượng, khối lượng hàng hóa hiện có;
6. Áp dụng biện pháp hỗ trợ về giá phù hợp với quy định của pháp luật và cam kết quốc tế;
7. Định giá cụ thể, giá tối đa, giá tối thiểu hoặc khung giá phù hợp với tính chất của từng loại hàng hóa, dịch vụ theo các nguyên tắc, căn cứ, phương pháp quy định tại Luật này.
|
Điều 21. Thực hiện bình ổn giá
1. Việc thực hiện bình ổn giá trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 20 được triển khai như sau:
a) Căn cứ lĩnh vực, phạm vi quản lý, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đánh giá mức độ biến động của giá hàng hóa, dịch vụ, xác định phạm vi bình ổn giá; trên cơ sở đó có văn bản gửi Bộ Tài chính tổng hợp để trình Chính phủ quyết định chủ trương bình ổn giá;
b) Trên cơ sở chủ trương bình ổn giá của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm hướng dẫn, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh triển khai thực hiện: kiểm tra yếu tố hình thành giá; kiểm soát hàng hoá tồn kho; đánh giá cung cầu hàng hóa, dịch vụ để xác định nguyên nhân, làm cơ sở cho việc lựa chọn áp dụng biện pháp bình ổn giá phù hợp. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức triển khai, báo cáo kết quả và đề xuất biện pháp bình ổn giá kịp thời;
c) Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành Quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bình ổn giá và thời hạn, phạm vi áp dụng bình ổn giá; tổ chức triển khai, hướng dẫn thực hiện Quyết định và báo cáo kết quả bình ổn giá gửi Bộ Tài chính tổng hợp vào báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường.
2. Việc thực hiện bình ổn giá trong trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 20 được triển khai như sau:
a) Trường hợp bình ổn giá trên phạm vi vùng hoặc cả nước, Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý ngành, lĩnh vựcđánh giá diễn biến thực tế, phối hợp với Bộ Tài chính để trình Chính phủ quyết định chủ trương, biện pháp, thời hạn, phạm vi bình ổn giá phù hợp; trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện theo phân công của Chính phủ;
b) Trường hợp bình ổn giá tại phạm vi địa phương, Sở quản lý ngành, lĩnh vực đánh giá diễn biến thực tế phát sinh trên địa bàn và phối hợp với Sở Tài chính trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định chủ trương, biện pháp, thời hạn, phạm vi bình ổn giá phù hợp. Các Sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện theo phân công của Ủy ban nhân dân tỉnh.Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo kết quả bình ổn giá gửi Bộ Tài chính tổng hợp vào báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường.
3. Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong các giai đoạn nhằm ổn định giá cả thị trường.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
Điều 18. Thẩm quyền và trách nhiệm quyết định áp dụng biện pháp bình ổn giá
1. Chính phủ quyết định chủ trương và biện pháp bình ổn giá đối với các trường hợp quy định tại Điều 16 và Điều 17 của Luật này.
2. Bộ Tài chính, các bộ, cơ quan ngang bộ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và phân công của Chính phủ hướng dẫn và tổ chức thực hiện biện pháp bình ổn giá do Chính phủ quyết định.
3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức triển khai thực hiện biện pháp bình ổn giá do Chính phủ quyết định và hướng dẫn của Bộ Tài chính, các bộ, cơ quan ngang bộ; trong trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn bất ngờ, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương quyết định biện pháp bình ổn giá cụ thể tại địa phương.
4. Cơ quan ban hành quyết định áp dụng biện pháp bình ổn giá chịu trách nhiệm quyết định thời hạn áp dụng biện pháp bình ổn giá.
5. Cơ quan, cá nhân quyết định áp dụng biện pháp bình ổn giá chịu trách nhiệm về quyết định của mình theo quy định của pháp luật.
6. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
Điều 22. Quỹ bình ổn giá
1. Quỹ bình ổn giá là quỹ tài chính không nằm trong cân đối ngân sách nhà nước được trích lập từ giá hàng hóa, dịch vụ và các nguồn tài chính hợp pháp khác và chỉ được sử dụng cho mục đích bình ổn giá. Chính phủ quy định chi tiết hàng hóa, dịch vụ chiến lược thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá được lập quỹ bình ổn giá và việc quản lý, sử dụng quỹ bình ổn giá.
2. Doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng được lập quỹ bình ổn giá phải thực hiện các quy định về trích lập, sử dụng, quản lý quỹ bình ổn giá theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 23. Nguyên tắc định giá
2. Bảo đảm hài hòa quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng.
3. Kịp thời xem xét điều chỉnh giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi.
|
Điều 20. Nguyên tắc định giá của Nhà nước
1. Bảo đảm bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý, có lợi nhuận phù hợp với mặt bằng giá thị trường và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.
2. Kịp thời điều chỉnh giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi.
|
Điều 24. Căn cứ và phương pháp định giá
1. Căn cứ định giá:
a) Yếu tố hình thành giá của hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm định giá;
b) Quan hệ cung cầu của hàng hóa, dịch vụ và sức mua của đồng tiền; khả năng thanh toán của người tiêu dùng;
c) Giá thị trường trong nước, thế giới và khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm quyết định giá.
2. Phương pháp định giá:
a) Phương pháp định giá là cách thức, quy trình để xác định giá hàng hóa, dịch vụ. Bộ Tài chính ban hành phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; trường hợp hàng hóa, dịch vụ có yếu tố hình thành giá cần hướng dẫn chi tiết, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành văn bản hướng dẫn;
b) Đối với một số hàng hóa, dịch vụ mà Luật khác quy định về phương pháp định giá riêng, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành phương pháp để thực hiện.
|
Điều 21. Căn cứ, phương pháp định giá
1. Căn cứ định giá:
a) Giá thành toàn bộ, chất lượng của hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm định giá; mức lợi nhuận dự kiến;
b) Quan hệ cung cầu của hàng hóa, dịch vụ và sức mua của đồng tiền; khả năng thanh toán của người tiêu dùng;
c) Giá thị trường trong nước, thế giới và khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm định giá;
2. Phương pháp định giá:
a) Bộ Tài chính quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ;
b) Các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của mình.
|
Điều 25. Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá
1. Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá phải đáp ứng một trong các tiêu chí sau đây:
a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước sản xuất, kinh doanh theo quy định tại Luật thương mại và các Luật khác;
b) Tài nguyên quan trọng;
c) Hàng dự trữ quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước;
d) Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu có tính chất độc quyền trong mua bán hoặc có thị trường cạnh tranh hạn chế và ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Các hình thức định giá:
a) Giá cụ thể là mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải mua, bán theo đúng giá quy định;
b) Giá tối thiểu là mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân không được định giá, mua, bán hàng hóa, dịch vụ thấp giá hơn giá quy định;
c) Giá tối đa là mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân không được định giá, mua, bán hàng hóa, dịch vụ cao hơn giá quy định;
d) Khung giá là khoảng giới hạn mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ được định giá, mua, bán hàng hóa dịch vụ không thấp hơn giá tối thiếu và không cao hơn giá tối đa của khoảng giới hạn mức giá quy định.
3. Thẩm quyền, trách nhiệm định giá:
a) Thủ tướng Chính phủ định giá đối với hàng hóa, dịch vụ chiến lược, đặc biệt quan trọng, có tác động lớn đến kinh tế vĩ mô, đời sống người dân;
b) Bộ Tài chính định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý; hàng hóa dịch vụ thuộc nhiều ngành, lĩnh vực quản lý và ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước;
c) Bộ, cơ quan ngang Bộ định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực, phạm vi chuyên ngành quản lý theo quy định pháp luật;
d) Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá đối với hàng hóa, dịch vụ có tính địa bàn theo phạm vi quản lý.
4. Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, hình thức định giá và thẩm quyền, trách nhiệm định giá được ban hành thống nhất tại Phụ lục kèm theo Luật này.
5. Trường hợp phát sinh phải điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập đề nghị điều chỉnh gửi Bộ Tài chính tổng hợp, trình Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Hàng hóa, dịch vụ đề nghị bổ sung vào Danh mục do Nhà nước định giá phải đáp ứng tiêu chí được quy định tại khoản 1 Điều này.
|
Điều 19. Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá
1. Nhà nước định giá đối với:
a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước sản xuất, kinh doanh;
b) Tài nguyên quan trọng;
c) Hàng dự trữ quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.
2. Các hình thức định giá:
a) Mức giá cụ thể;
b) Khung giá;
c) Mức giá tối đa, mức giá tối thiểu.
3. Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá được quy định như sau:
a) Định mức giá cụ thể đối với:
- Các dịch vụ hàng không, bao gồm: dịch vụ cất cánh, hạ cánh; điều hành bay đi, đến; hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay; soi chiếu an ninh;
- Dịch vụ kết nối viễn thông;
- Điện: giá truyền tải điện; giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện;
b) Định khung giá đối với: giá phát điện; giá bán buôn điện; mức giá bán lẻ điện bình quân; dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa tuyến độc quyền;
c) Định khung giá và mức giá cụ thể đối với:
- Đất, mặt nước, nước ngầm, rừng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và nước sạch sinh hoạt;
- Giá cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công vụ được xây dựng chi từ nguồn ngân sách nhà nước; giá bán hoặc giá cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;
- Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và dịch vụ giáo dục, đào tạo tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở giáo dục, đào tạo của Nhà nước;
d) Định giá tối đa hoặc giá tối thiểu đối với:
- Hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia; hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch sản xuất, kinh doanh; sản phẩm, dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, trừ dịch vụ được quy định tại điểm c khoản 3 Điều này;
- Sản phẩm thuốc lá điếu sản xuất trong nước;
- Giá cho thuê đối với tài sản nhà nước là công trình kết cấu hạ tầng.
4. Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Điều 22. Thẩm quyền và trách nhiệm định giá
1. Chính phủ quy định:
a) Khung giá đất;
b) Khung giá cho thuê mặt nước;
c) Khung giá cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công vụ.
2. Thủ tướng Chính phủ quy định khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện.
3. Bộ trưởng Bộ Tài chính, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá hàng hóa, dịch vụ quy định tại Điều 19 của Luật này theo sự phân công, phân cấp của Chính phủ.
4. Cơ quan, cá nhân quyết định định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật.
|
Điều 26. Ban hành văn bản quyết định giá
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền định giá xem xét ban hành văn bản quyết định giá trên cơ sở phương án giá hàng hóa, dịch vụ do đơn vị chuyên môn hoặc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lập, đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thẩm định theo quy định tại Luật này. Hình thức văn bản quyết định giá hàng hóa, dịch vụ là văn bản hành chính và không được đưa nội dung cơ chế, chính sách giá vào văn bản quyết định giá.
2. Đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 18 Luật này thẩm định phương án giá để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền định giá xem xét, ban hành văn bản quyết định giá.
3. Cơ quan, đơn vị có trách nhiệm lập phương án giá tiếp thu, giải trình các ý kiến thẩm định để hoàn thiện phương án giá và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền định giá xem xét, ban hành văn bản quyết định giá.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
|
Điều 27. Hàng hóa, dịch vụ hiệp thương giá
Hàng hóa, dịch vụ hiệp thương giá phải đảm bảo các tiêu chí sau:
1. Không thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.
2. Có tính chất độc quyền mua hoặc độc quyền bán mà bên mua, bên bán phụ thuộc nhau khó có thể thay thế được.
|
Điều 23. Trường hợp tổ chức hiệp thương giá
1. Hiệp thương giá thực hiện đối với hàng hóa, dịch vụ đáp ứng các điều kiện sau:
a) Hàng hoá, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá;
b) Hàng hoá, dịch vụ quan trọng được sản xuất, kinh doanh trong điều kiện đặc thù hoặc có thị trường cạnh tranh hạn chế; có tính chất độc quyền mua hoặc độc quyền bán hoặc bên mua, bên bán phụ thuộc nhau không thể thay thế được.
|
Điều 28. Nguyên tắc hiệp thương giá
1. Các đối tượng đề nghị hiệp thương giá phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện mua, bán hàng hóa, dịch vụ đáp ứng tiêu chí quy định tại Điều 27 Luật này.
2. Việc tiếp nhận, tổ chức hiệp thương giá được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; cả bên mua và bên bán phải có văn bản đề nghị hiệp thương giá.
3. Quá trình hiệp thương giá phải đảm bảo khách quan, công khai, minh bạch, tôn trọng quyền tự quyết định giá của các bên đề nghị hiệp thương giá.
|
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức hiệp thương giá đối với hàng hóa, dịch vụ được quy định tại khoản 1 Điều này trong các trường hợp sau:
a) Khi có đề nghị của bên mua hoặc bên bán hoặc cả hai bên mua và bán;
b) Khi có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
|
Điều 29. Thẩm quyền và trách nhiệm cơ quan hiệp thương giá
1. Bộ quản lý ngành, lĩnh vực hiệp thương giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý và đối tượng đề nghị hiệp thương giá là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13.
2. Sở quản lý ngành, lĩnh vực hiệp thương giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý và với đối tượng đề nghị hiệp thương giá không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp các đối tượng đề nghị hiệp thương giá có trụ sở chính đóng tại hai địa phương khác nhau, bên mua và bên bán có trách nhiệm thống nhất đề nghị một trong hai địa phương tổ chức hiệp thương giá; trường hợp không thống nhất được thì Sở quản lý ngành, lĩnh vực nơi bên bán đóng trụ sở chính có trách nhiệm hiệp thương giá.
|
Điều 24. Thẩm quyền và trách nhiệm tổ chức hiệp thương giá
1. Bộ Tài chính chủ trì tổ chức hiệp thương giá theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ.
2. Sở Tài chính chủ trì tổ chức hiệp thương giá theo yêu cầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khi có đề nghị của bên mua hoặc bên bán hoặc cả hai bên mua và bán có trụ sở đóng trên địa bàn. Trường hợp bên mua và bên bán có trụ sở đóng tại hai tỉnh khác nhau cùng đề nghị hiệp thương thì hai bên thống nhất đề nghị một trong hai Sở Tài chính chủ trì hiệp thương; trường hợp không thống nhất được thì Sở Tài chính nơi bên bán đóng trụ sở chủ trì hiệp thương.
3. Cơ quan tổ chức hiệp thương giá chịu trách nhiệm tổ chức việc hiệp thương theo quy định của pháp luật.
|
Điều 30. Tổ chức hiệp thương giá
1. Khi nhận được văn bản đề nghị hiệp thương giá của cả bên mua, bên bán hàng hóa, dịch vụ; cơ quan tiếp nhận rà soát đánh giá để làm rõ tiêu chí của hàng hóa, dịch vụ đề nghị hiệp thương giá quy định tại Điều 27 Luật này. Trường hợp chưa rõ, cơ quan tiếp nhận yêu cầu các bên có văn bản bổ sung các thông tin về hàng hóa dịch vụ.
2. Cơ quan hiệp thương giá xác định làm rõ người đại diện của bên mua và bên bán; tổ chức hội nghị hiệp thương giá để bên mua và bên bán thương lượng với nhau về mức giá trên cơ sở hợp tác, hài hòa lợi ích giữa các bên.
3. Tại hội nghị hiệp thương giá, cơ quan hiệp thương giá có vai trò trung gian, tạo điều kiện để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; không được can thiệp vào mức giá thương lượng giữa bên mua và bên bán.
4. Khi bên mua và bên bán thỏa thuận được với nhau về mức giá thì hội nghị hiệp thương giá kết thúc; cơ quan hiệp thương giá lập biên bản để các bên ký ghi nhận kết quả hiệp thương. Mức giá hiệp thương chỉ được áp dụng cho đúng vụ việc mua, bán và khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được các bên thống nhất tại văn bản đề nghị hiệp thương giá; mức giá hiệp thương không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác. Bên mua và bên bán chịu trách nhiệm về mức giá hiệp thương.
5. Trong trường hợp bên mua và bên bán không thương lượng thỏa thuận được mức giá và tiếp tục đề nghị cơ quan hiệp thương giá quyết định giá hiệp thương thì cơ quan hiệp thương giá lập biên bản để các bên ký ghi nhận nội dung hội nghị hiệp thương giá. Bên bán có trách nhiệm lập phương án giá hiệp thương, lấy ý kiến bên mua để tổng hợp gửi cơ quan hiệp thương giá xem xét, quyết định giá hiệp thương. Việc ban hành Quyết định giá hiệp thương được thực hiện như việc ban hành Quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá. Các đơn vị có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu để cơ quan hiệp thương thực hiện định giá theo quy định. Quyết định giá hiệp thương chỉ được áp dụng một lần cho đúng đối tượng đề nghị hiệp thương, theo đúng vụ việc mua, bán, khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được các bên thống nhất tại văn bản đề nghị và không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác.
|
Điều 25. Kết quả hiệp thương giá
1. Cơ quan tổ chức hiệp thương giá thông báo bằng văn bản về mức giá được thỏa thuận cho các bên sau khi hiệp thương.
2. Trường hợp đã tổ chức hiệp thương giá nhưng các bên chưa thống nhất được mức giá thì cơ quan tổ chức hiệp thương giá quyết định giá tạm thời để hai bên thi hành.
Quyết định giá tạm thời do cơ quan tổ chức hiệp thương công bố có hiệu lực thi hành tối đa là 06 tháng. Trong thời gian thi hành quyết định giá tạm thời, các bên tiếp tục thương thảo về giá. Nếu các bên thống nhất được giá thì thực hiện theo giá đã thống nhất và có trách nhiệm báo cáo cơ quan tổ chức hiệp thương biết giá đã thống nhất, thời gian thực hiện.
Hết thời hạn 06 tháng, nếu các bên không thỏa thuận được giá thì cơ quan có thẩm quyền tổ chức hiệp thương giá lần hai. Nếu các bên vẫn không đạt được thỏa thuận về giá thì quyết định giá tạm thời vẫn tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi đạt được thỏa thuận về mức giá.
|
Điều 31. Kê khai giá
1. Hàng hóa, dịch vụ thực hiện kê khai giá bao gồm: hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bình ổn giá; hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp quyết định theo giá tham chiếu; một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống người dân.
2. Nội dung kê khai giá gồm mức giá gắn với tên, chủng loại, nước sản xuất (nếu có), chỉ tiêu chất lượng (nếu có) và nguyên nhân điều chỉnh giá bán giữa các lần kê khai.
3. Các trường hợp kê khai:
a) Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chỉ thực hiện bán buôn thì kê khai giá bán buôn;
b) Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vừa thực hiện bán buôn, vừa thực hiện bán lẻ thì kê khai cả giá bán buôn và giá bán lẻ; trừ trường hợp hàng hóa, dịch vụ đặc thù thì thực hiện kê khai giá bán lẻ và được quy định cụ thể tại Danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá;
c) Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đơn vị nhập khẩu, đồng thời là nhà phân phối độc quyền thì kê khai giá bán buôn;
d) Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là nhà phân phối độc quyền thì kê khai giá bán buôn, giá bán lẻ; tổng đại lý có quyền quyết định giá và điều chỉnh giá thì kê khai giá bán buôn, giá bán lẻ; đại lý có quyền quyết định giá và điều chỉnh giá thì thực hiện kê khai giá bán lẻ;
đ) Tổ chức, cá nhân có quyền quyết định giá theo quy định của Luật chuyên ngành.
4. Đối tượng kê khai giá và cơ quan tiếp nhận kê khai giá:
a) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền tiếp nhận kê khai rà soát, ban hành danh sách đối tượng kê khai giá tại Bộ, cơ quan ngang Bộ;
b) Căn cứ danh sách kê khai giá của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức rà soát ban hành danh sách đối tượng kê khai giá tại địa phương;
c) Tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng kê khai giá tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ và có trách nhiệm kê khai giá lần đầu và kê khai lại giá ngay sau khi quyết định giá theo quy định. Cơ quan tiếp nhận kê khai có trách nhiệm cập nhật thông tin giá kê khai trên cơ sở dữ liệu về giá; được sử dụng mức giá kê khai trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường theo quy định; được yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá báo cáo một số yếu tố hình thành giá gây tác động đến việc điều chỉnh giá để làm cơ sở thực hiện các biện pháp quản lý, điều tiết giá.
5. Chính phủ quy định chi tiết Danh mục hàng hóa, dịch vụ, thẩm quyền, trách nhiệm tiếp nhận kê khai giá; quy trình, thời gian thực hiện kê khai giá và tổ chức tiếp nhận kê khai giá.
|
|
Điều 32. Niêm yết giá
1. Giá niêm yết là giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh quyết định bằng Đồng Việt Nam, trừ các trường hợp thực hiện theo quy định của pháp luật về ngoại hối.
2. Việc niêm yết được thực hiện bằng các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế tại địa điểm bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ hoặc trên các trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ; giá niêm yết phải gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ cụ thể, khuyến khích in trực tiếp lên bao bì của sản phẩm.
3. Các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có giao dịch trực tiếp và trực tuyến với khách hàng tại địa điểm kinh doanh hoặc tại địa điểm khác theo quy định thực hiện niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ và không được bán cao hơn giá niêm yết; đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải niêm yết đúng giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Trường hợp có thỏa thuận với người tiêu dùng/khách hàng thì không được bán cao hơn giá đã niêm yết.
4. Người tiêu dùng có quyền khiếu nại, tố cáo với các cơ quan có thẩm quyền về việc các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ niêm yết giá không đúng quy định. Có quyền thỏa thuận về giá với các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh (nếu có).
5. Chính phủ quy định chi tiết về cách thức niêm yết giá.
|
|
Điều 33. Giá tham chiếu
1. Giá tham chiếulà mức giá đại diện của giá hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế được tổ chức có thẩm quyền công bố để các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng làm căn cứ quyết định giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tự quyết định giá bán hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở giá tham chiếu, chịu trách nhiệm về quyết định giá của mình.
3. Chính phủ quy định chi tiết hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công bố hoặc thông tin về giá tham chiếu, cơ chế áp dụng giá tham chiếu.
|
|
Điều 34. Mục đích, yêu cầu kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Kiểm tra yếu tố hình thành giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện để rà soát, đánh giá về tính hợp lý, hợp lệ của các yếu tố hình thành giá, cung cầu của hàng hóa, dịch vụ nhằm nhận diện các yếu tố tác động đến giá hàng hóa, dịch vụ để xem xét, quyết định thực hiện các giải pháp, biện pháp quản lý, điều tiết giá phù hợp.
2. Việc kiểm tra yếu tố hình thành giá thực hiện trong các trường hợp sau:
a) Giá hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bình ổn giá, kê khai giá có biến động bất thường, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống người dân, mặt bằng giá thị trường;
b) Giá hàng hóa, dịch vụ khác có biến động bất thường, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống người dân, mặt bằng giá thị trường theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trương cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
|
Điều 26. Trường hợp kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ quy định tại khoản 2 Điều này trong các trường hợp sau:
a) Khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định bình ổn giá, định giá;
b) Khi giá có biến động bất thường và theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
2. Hàng hoá, dịch vụ phải kiểm tra yếu tố hình thành giá bao gồm:
a) Hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá;
b) Hàng hoá, dịch vụ thực hiện bình ổn giá;
c) Hàng hoá, dịch vụ khác khi giá có biến động bất thường theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
|
Điều 35. Thẩm quyền, trách nhiệm kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá theo thẩm quyền, trách nhiệm quản lý, điều tiết giá quy định tại Luật này; chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực được Chính phủ phân công.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá theo thẩm quyền, trách nhiệm quản lý, điều tiết giá quy định tại Luật này; theo chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các trường hợp phát sinh khác trên địa bàn.
|
Điều 27. Thẩm quyền và trách nhiệm kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra yếu tố hình thành giá đối với:
a) Hàng hoá, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính;
b) Hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá được quy định tại Điều 15 của Luật này.
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra yếu tố hình thành giá đối với:
a) Hàng hoá, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
b) Hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.
|
Điều 36. Thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Việc thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá phải đảm bảo công khai, minh bạch; xác định rõ đối tượng và không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân. Kết thúc kiểm tra, cơ quan kiểm tra có báo cáo kết quả kiểm tra yếu tố hình thành giá.
2. Thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá:
a) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra yếu tố hình thành giá có văn bản thông báo về việc kiểm tra gửi đến tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
b) Tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng kiểm tra yếu tố hình thành giá có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các thông tin, hồ sơ, tài liệu, chứng từ liên quan đến yếu tố hình thành giá;
c) Thời gian kiểm tra yếu tố hình thành giá tối đa không quá 30 ngày làm việc, việc kiểm tra được tiến hành trực tiếp tại trụ sở của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Trường hợp cần thiết kéo dài thời gian kiểm tra, cơ quan kiểm tra có trách nhiệm thông báo đến đối tượng kiểm tra, thời gian kéo dài không quá 15 ngày làm việc;
d) Kết thúc kiểm tra, cơ quan kiểm tra có báo cáo kết quả kiểm tra yếu tố hình thành giá; báo cáo kết quả kiểm tra yếu tố hình thành giá bao gồm các nội dung về mục đích, yêu cầu, đối tượng kiểm tra, kết quả kiểm tra, nguyên nhân và đề xuất các biện pháp quản lý, điều tiết giá;
đ) Việc kiểm tra không được ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân.
3. Trong quá trình kiểm tra, trường hợp phát hiện hành vi vi phạm, cơ quan kiểm tra có trách nhiệm xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 37. Hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
1. Tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường là việc thu thập, tổng hợp thông tin, số liệu về giá trong một thời kỳ/chu kỳ để phân tích, đánh giá và dự báo về xu hướng biến động của giá, xây dựng kịch bản điều hành giá và đề ra phương hướng, giải pháp, biện pháp quản lý, điều tiết giá.
2. Nội dung công tác tổng hợp, phân tích, dự báo mặt bằng giá thị trường
a) Tổ chức thu thập, phân tích giá các tài sản, hàng hóa, dịch vụ trên thị trường;
b) Xây dựng báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường trong từng giai đoạn, thời kỳ gắn với mục tiêu kiểm soát lạm phát;
c) Đề xuất mục tiêu kiểm soát lạm phát hàng năm và đề xuất các giải pháp về quản lý, điều hành giá nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô;
d) Xây dựng cơ sở dữ liệu về giá và tổ chức hoạt động cung cấp, công bố thông tin về giá.
|
|
Điều 38. Nguyên tắc tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
1. Được thực hiện thường xuyên, liên tục, kịp thời.
2. Việc tổng hợp, phân tích số liệu phải bảo đảm đầy đủ, chính xác trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin.
3. Việc dự báo giá thị trường phải được thực hiện khoa học, gắn với yêu cầu công tác quản lý, điều tiết giá.
|
|
Điều 39. Báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
1. Báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường bao gồm các nội dung sau đây:
a) Tổng hợp mặt bằng giá chung và diễn biến giá hàng hóa, dịch vụ trong nước và thế giới phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về giá; phân tích các nguyên nhân biến động giá; đánh giá tác động của biến động kinh tế, chính trị trong và ngoài nước đến công tác quản lý, điều hành giá;
b) Kịch bản điều hành giá;
c) Phương hướng, giải pháp, biện pháp quản lý, điều tiết giá.
2. Kịch bản điều hành giá là dự báo về diễn biến lạm phát và các giải pháp, biện pháp điều hành giá trong một giai đoạn nhất định.
3. Bộ Tài chính quy định về chế độ báo cáo tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường.
|
|
Điều 40. Trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị thực hiện công tác tổng hợp, phân tích, dự báo
1. Bộ Tài chính là đầu mối của tổ tư vấn về điều hành giá cho Thủ tướng Chính phủ, có trách nhiệm tổ chức triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính để triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường trong lĩnh vực, phạm vi quản lý.
3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường trên địa bàn theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
|
|
Điều 41. Cơ sở dữ liệu về giá
1. Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được xây dựng phục vụ công tác quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá và các nhu cầu của xã hội do Bộ Tài chính thống nhất quản lý. Các Bộ, ngành có trách nhiệm cập nhật thông tin vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
2. Cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương được xây dựng phục vụ công tác quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá trên địa bàn. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương. Cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương phải bảo đảm kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
3. Việc thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ và khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về giá phải ứng dụng công nghệ thông tin đảm bảo đầy đủ, nhanh chóng, chính xác theo yêu cầu của công tác quản lý nhà nước; tổ chức, cá nhân có nhu cầu về thông tin tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được đề nghị cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu cung cấp và thanh toán chi phí theo quy định của Bộ Tài chính.
4. Chính phủ quy định chi tiết về xây dựng, vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu về giá.
|
|
Điều 42. Kinh phí bảo đảm công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường
1. Kinh phí hỗ trợ hoạt động tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường và hoạt động quản lý, điều hành giá được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước của các cơ quan, đơn vị được giao thực hiện nhiệm vụ. Bộ Tài chính quy định về nội dung, định mức chi, dự toán và quyết toán theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
2. Kinh phí xây dựng cơ sở dữ liệu về giá:
a) Kinh phí đầu tư xây dựng, duy trì, nâng cấp, quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước theo phân cấp và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật;
b) Hằng năm, cơ quan xây dựng cơ sở dữ liệu về giá, Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá có trách nhiệm lập dự toán ngân sách phục vụ cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu về giá trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật ngân sách nhà nước. Kinh phí được bố trí trong dự toán ngân sách hằng năm của đơn vị theo quy định của pháp luật.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết điều này.
|
|
Điều 43. Hoạt động thẩm định giá
1. Hoạt động thẩm định giá gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá và hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.
2. Hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện, được giao kết bằng hợp đồng dân sự; hoạt động thẩm định giá của Nhà nước do Hội đồng thẩm định giá thực hiện theo quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
3. Tài sản thẩm định giá là tài sản quy định tại Bộ luật dân sự, được cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá theo nhu cầu hoặc các trường hợp pháp luật quy định phải thẩm định giá.
|
Điều 28. Hoạt động thẩm định giá
1. Tổ chức đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật này được hoạt động thẩm định giá.
2. Cá nhân không được hoạt động thẩm định giá độc lập.
3. Hoạt động thẩm định giá phải tuân thủ quy định về thẩm định giá của Luật này.
|
Điều 44. Nguyên tắc hoạt động thẩm định giá
1. Tuân thủ pháp luật, tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
2. Độc lập, khách quan, trung thực.
3. Chịu trách nhiệm về hoạt động thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 29. Nguyên tắc hoạt động thẩm định giá
1. Tuân thủ pháp luật, tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
2. Chịu trách nhiệm về hoạt động thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
3. Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, tính trung thực, khách quan của hoạt động thẩm định giá và kết quả thẩm định giá.
4. Bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
|
Điều 45. Hội nghề nghiệp về thẩm định giá
1. Hội nghề nghiệp về thẩm định giá được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về hội, có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật về giá và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Hội nghề nghiệp về thẩm định giá được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về thẩm định giá, cấp chứng chỉ hoàn thành khóa học và thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hoạt động thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 33. Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá
1. Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về hội và quy định của pháp luật về thẩm định giá.
2. Tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá được tổ chức đào tạo, cấp chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ về thẩm định giá và thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hoạt động thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 46. Thẻ thẩm định viên về giá
1. Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp cấp cho người đạt yêu cầu tại kỳ thi thẩm định viên về giá.
2. Người tham dự kỳ thi thẩm định viên về giá phải có đủ các điều kiện sau:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các nhóm ngành về kinh tế, kỹ thuật, luật theo quy định của pháp luật;
c) Có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giáphù hợp với lĩnh vực chuyên môn dự thi do cơ quan, tổ chức có chức năng đào tạo về thẩm định giá cấp,trừ trường hợp có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá.
3. Bộ Tài chính quy định về thi, cấp, quản lý, thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá.
|
Điều 34. Tiêu chuẩn thẩm định viên về giá
1. Có năng lực hành vi dân sự.
2. Có phẩm chất đạo đức, liêm khiết, trung thực, khách quan.
3. Tốt nghiệp đại học chuyên ngành liên quan đến nghiệp vụ thẩm định giá.
4. Có thời gian công tác thực tế theo chuyên ngành đào tạo từ 36 tháng trở lên sau khi có bằng tốt nghiệp đại học theo chuyên ngành quy định tại khoản 3 Điều này.
5. Có chứng chỉ đã qua đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá do cơ quan có thẩm quyền cấp.
6. Có Thẻ thẩm định viên về giá theo quy định của Bộ Tài chính.
|
Điều 47. Đăng ký hành nghề thẩm định giá
1. Điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá của người có Thẻ thẩm định viên về giá:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn đang có hiệu lực với doanh nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về lao động;
c) Có thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá từ 36 tháng trở lên;
d) Có giấy chứng nhận cập nhật kiến thức về thẩm định giá theo lĩnh vực chuyên môn trừ trường hợp Thẻ thẩm định viên về giá được cấp dưới 01 năm tính đến thời điểm đăng ký hành nghề;
đ) Không thuộc đối tượng tại khoản 2 Điều này.
2. Đối tượng không được hành nghề thẩm định giá:
a) Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
b) Người đang bị cấm hành nghề thẩm định giá theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; người đang trong thời gian bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; người đã bị kết án một trong các tội về kinh tế, chức vụ liên quan đến tài chính, giá, thẩm định giá mà chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người đang bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc;
c) Người đang bị tước Thẻ thẩm định viên về giá.
3. Người có Thẻ thẩm định viên về giá thực hiện đăng ký hành nghề với Bộ Tài chính thông qua doanh nghiệp thẩm định giá để được công nhận là thẩm định viên về giá. Người có Thẻ thẩm định viên về giá không được đăng ký hành nghề đồng thời tại hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên, không được ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá với vai trò thẩm định viên về giá khi không là thẩm định viên về giá; trường hợp vi phạm thì bị thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá.
4. Bộ Tài chính tiếp nhận đăng ký hành nghề thẩm định giá, rà soát, ban hành thông báo danh sách thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp đối với trường hợp đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều này.
5. Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục đăng ký hành nghề thẩm định giá.
|
Điều 48. Thẩm định viên về giá
1. Thẩm định viên về giá là người có tên trong danh sách thẩm định viên về giá theo lĩnh vực chuyên môn do Bộ Tài chính thông báo, đồng thời duy trì điều kiện đăng ký hành nghề quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật này.
2. Định kỳ trước ngày 31/12 hằng năm, Bộ Tài chính thực hiện rà soát, cập nhật và thông báo danh sách thẩm định viên về giá kể từ ngày 01/01 của năm tiếp theo. Trường hợp trong năm thực hiện có biến động điều chỉnh về thẩm định viên, doanh nghiệp có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản gửi Bộ Tài chính xem xét, điều chỉnh kịp thời. Định kỳ hằng tháng, trên cơ sở báo cáo của doanh nghiệp thẩm định giá, Bộ Tài chính xem xét, thông báo điều chỉnh danh sách thẩm định viên về giá. Trường hợp biến động thẩm định viên về giá do cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá thì danh sách thẩm định viên về giá được điều chỉnh tại ngày cấp, cấp lại.
3. Thẩm định viên về giá vi phạm nghiêm trọng Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam bị thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá theo quy định của Bộ Tài chính.
|
Điều 35. Thẩm định viên về giá hành nghề
1. Thẩm định viên về giá hành nghề là người đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 34 của Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá.
2. Quyền và nghĩa vụ của Thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá được quy định tại Điều 37 của Luật này.
|
Điều 49. Quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá
1. Quyền của thẩm định viên về giá:
a) Ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá theo lĩnh vực tài sản được phép hành nghề mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ, điều kiện chuyên môn khác với quy định tại Luật này;
b) Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ;
c) Yêu cầu khách hàng phối hợp trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến tài sản thẩm định giá và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá; không chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá khi khách hàng thẩm định giá cung cấp thông tin không chính xác về tài sản thẩm định giá;
d) Từ chối thực hiện thẩm định giá nếu xét thấy không đủ hồ sơ, tài liệu để thực hiện thẩm định giá;
đ) Tham gia tổ chức nghề nghiệp về thẩm định giá trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật;
e) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của thẩm định viên về giá:
a) Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;
b) Chịu trách nhiệm về chuyên môn trong quá trình thực hiện và đưa ra kết quả thẩm định giá;
c) Giải trình hoặc bảo vệ kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với khách hàng thẩm định giá hoặc bên thứ ba được sử dụng kết quả thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá khi có yêu cầu; giải trình kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật;
d) Tham gia các chương trình cập nhật kiến thức về thẩm định giá theo quy định;
đ) Lập hồ sơ về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
e) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 50. Doanh nghiệp thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp và được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của Luật này.
2. Trường hợp doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được sử dụng cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp.
|
Điều 38. Điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp thẩm định giá được hoạt động khi Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
|
Điều 51. Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp phải có ít nhất 5 người có Thẻ thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 47 Luật này đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp đồng thời phải đáp ứng các điều kiện tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp như sau:
a) Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân; Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 53 Luật này. Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên hợp danh công ty hợp danh phải là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp.
b) Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 53 Luật này, đồng thời phải đáp ứng các điều kiện sau: Có ít nhất 02 thành viên góp vốn, 02 cổ đông phải là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp; trường hợp thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện của tổ chức góp vốn phải là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, tổng phần vốn góp của tổ chức tối đa 35% vốn điều lệ. Tổng số vốn góp của các thành viên, cổ đông là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp.
2. Trường hợp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá bị mất, rách hoặc các thông tin về doanh nghiệp thẩm định giá có thay đổi so với Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá phải làm thủ tục cấp lại.
3. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
Điều 39. Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
b) Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó phải có thành viên là chủ sở hữu;
c) Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
b) Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó tối thiểu phải có 02 thành viên góp vốn;
c) Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp;
d) Phần vốn góp của thành viên là tổ chức không được vượt quá mức vốn góp do Chính phủ quy định. Người đại diện của thành viên là tổ chức phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
3. Công ty hợp danh khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
b) Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó tối thiểu phải có 02 thành viên hợp danh;
c) Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty hợp danh phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
4. Doanh nghiệp tư nhân khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
b) Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó có 01 thẩm định viên là chủ doanh nghiệp tư nhân;
c) Giám đốc doanh nghiệp tư nhân phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
5. Công ty cổ phần khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật;
b) Có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, trong đó tối thiểu phải có 02 cổ đông sáng lập;
c) Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của công ty cổ phần phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp;
d) Phần vốn góp của thành viên là tổ chức không được vượt quá mức vốn góp do Chính phủ quy định. Người đại diện của thành viên là tổ chức phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
6. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
Điều 52. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
1. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp và có tên trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đối với các hợp đồng thẩm định giá do chi nhánh ký kết với khách hàng thẩm định giá.
2. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có ít nhất 03 người có Thẻ thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 47 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá độc lập với trụ sở chính và các chi nhánh khác của doanh nghiệp thẩm định giá, trong đó phải bao gồm người đứng đầu chi nhánh.
3. Doanh nghiệp thẩm định giá chịu trách nhiệm về hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của chi nhánh.
|
Điều 41. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
1. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thẩm định giá, có nhiệm vụ thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá theo sự uỷ quyền bằng văn bản của doanh nghiệp thẩm định giá.
2. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật và phải có ít nhất 02 thẩm định viên về giá, trong đó Giám đốc chi nhánh phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá đã thành lập chi nhánh đó.
3. Doanh nghiệp thẩm định giá phải chịu trách nhiệm về hoạt động của chi nhánh thẩm định giá do doanh nghiệp thành lập.
|
Điều 53. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
1. Yêu cầu đối với người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Có đủ 36 tháng là thẩm định viên về giá;
b) Đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp và duy trì điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật này;
c) Không thuộc các trường hợp đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời gian 12 tháng tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
2. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có tên trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá cấp cho doanh nghiệp thẩm định giá.
|
|
Điều 54. Điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
1. Được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đồng thời phải bảo đảm duy trì các điều kiện quy định tại Điều 51 và Điều 52 Luật này.
2. Doanh nghiệp thẩm định giá phải báo cáo Bộ Tài chính khi không đáp ứng một trong các điều kiện quy định tại Điều 51, Điều 52 nhưng không thuộc quy định tại Điều 56 Luật này, đồng thời khắc phục trong thời hạn tối đa 03 tháng kể từ ngày không đủ điều kiện. Trong thời gian khắc phục, hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện như sau:
a) Trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp hoặc không còn đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật này thì doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá; trường hợp giám đốc chi nhánh không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp hoặc không còn đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật này thì chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá;
b) Trường hợp không đủ số lượng thẩm định viên tối thiểu nhưng không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá với những hợp đồng thẩm định giá đã ký kết nhưng không được ký kết thêm hợp đồng dịch vụ thẩm định giá.
3. Sau thời hạn 03 tháng, doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không khắc phục các điều kiện hoạt động thẩm định giá thì bị xóa tên chi nhánh tại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và doanh nghiệp bị đình chỉ hoặc thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định tại Điều 56 Luật này.
|
|
Điều 55. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá
1. Quyền của doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo quy định tại Luật này;
b) Tham gia tổ chức nghề nghiệp trong nước và ngoài nước về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
c) Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp hồ sơ, tài liệu, số liệu có liên quan đến tài sản thẩm định giá và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá; không chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá khi khách hàng thẩm định giá cung cấp thông tin không chính xác về tài sản thẩm định giá;
d) Từ chối thực hiện dịch vụ thẩm định giá đối với yêu cầu của khách hàng;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này;
b) Cung cấp Báo cáo kết quả thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá theo đúng lĩnh vực chuyên môn được phép thực hiện;
c) Chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá trong giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá;
d) Thực hiện thẩm định giá theo đúng hợp đồng thẩm định giá; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá và trong trường hợp kết quả thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá;
đ) Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động thẩm định giá hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp;
e) Quản lý, giám sát hoạt động của thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp;
g) Thực hiện đầy đủ các quy định về chế độ báo cáo theo quy định của pháp luật;
h) Lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá theo quy định;
i) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
|
Điều 42. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá
1. Quyền của doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Cung cấp dịch vụ thẩm định giá;
b) Nhận thù lao dịch vụ thẩm định giá theo giá thỏa thuận với khách hàng đã ghi trong hợp đồng;
c) Thành lập chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá;
d) Đặt cơ sở kinh doanh dịch vụ thẩm định giá ở nước ngoài;
đ) Tham gia tổ chức nghề nghiệp trong nước và ngoài nước về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
e) Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp hồ sơ, tài liệu, số liệu có liên quan đến tài sản thẩm định giá;
g) Từ chối thực hiện dịch vụ thẩm định giá đối với yêu cầu của khách hàng;
h) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này và Luật doanh nghiệp;
b) Cung cấp Báo cáo kết quả thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá cho khách hàng và bên thứ ba sử dụng kết quả thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá đã ký kết;
c) Chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá;
d) Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động thẩm định giá hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp;
đ) Bồi thường thiệt hại cho khách hàng theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá và trong trường hợp kết quả thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá;
e) Quản lý hoạt động nghề nghiệp của thẩm định viên về giá thuộc quyền quản lý;
g) Thực hiện chế độ báo cáo;
h) Lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá;
i) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
|
Điều 56. Đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong các trường hợp sau:
a) Không đáp ứng một trong các điều kiện quy định tại Điều 51 của Luật này trong 03 tháng liên tục;
b) Phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá do người không phải là thẩm định viên về giá ký với vai trò thẩm định viên về giá;
c) Các trường hợp đình chỉ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật xử lý vi phạm hành chính.
2. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Kê khai không đúng hoặc gian lận, giả mạo hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
b) Không phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá trong thời hạn 1 năm;
c) Không khắc phục được vi phạm quy định tại điểm a khoản 1 Điều này trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày bị đình chỉ;
d) Bị giải thể, phá sản hoặc tự chấm dứt hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
đ) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.
3. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải chấm dứt việc kinh doanh dịch vụ thẩm định giá kể từ ngày quyết định thu hồi có hiệu lực thi hành. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá tại thời điểm bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá quy định tại điểm h khoản 2 Điều 55 Luật này.
4. Chính phủ quy định chi tiết việc đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
|
Điều 40. Đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Không bảo đảm một trong các điều kiện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 39 của Luật này trong 03 tháng liên tục;
b) Có sai phạm nghiêm trọng về chuyên môn hoặc vi phạm tiêu chuẩn thẩm định giá.
2. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Kê khai không đúng hoặc gian lận, giả mạo hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
b) Không kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong 12 tháng liên tục;
c) Không khắc phục được vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày bị đình chỉ;
d) Bị giải thể, phá sản hoặc tự chấm dứt hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
đ) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.
3. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải chấm dứt việc kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, kể từ ngày quyết định thu hồi có hiệu lực thi hành.
4. Chính phủ quy định chi tiết việc đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
|
Điều 57. Kết quả thẩm định giá
1. Kết quả thẩm định giá được thể hiện bằng hình thức Chứng thư thẩm định giá kèm theo Báo cáo kết quả thẩm định giá.
a) Báo cáo kết quả thẩm định giá là văn bản do thẩm định viên về giá lập, trong đó nêu rõ quá trình thẩm định giá, ý kiến của thẩm định viên về giá trị của tài sản thẩm định giá và được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá xem xét, phê duyệt;
b) Chứng thư thẩm định giá là văn bản do doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phát hành để thông báo cho khách hàng và các bên liên quan về những nội dung cơ bản của Báo cáo kết quả thẩm định giá.
2. Kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp được sử dụng làm một trong những cơ sở để khách hàng, người có liên quan được ghi tại hợp đồng thẩm định giá xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá của tài sản. Thời gian có hiệu lực của kết quả thẩm định giá được quy định tại tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Kết quả thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời gian hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá. Kết quả thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước.
3. Trường hợp Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đã được phát hành nhưng chưa được sử dụng, doanh nghiệp thẩm định giá hoặc thẩm định viên về giá phát hiện thông tin phục vụ thẩm định giá có sai sót thì được thu hồi theo quy định của Bộ Tài chính.
|
Điều 32. Kết quả thẩm định giá
1. Kết quả thẩm định giá được sử dụng làm một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc có quyền sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật và các bên liên quan xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá đối với tài sản.
2. Việc sử dụng kết quả thẩm định giá phải đúng mục đích ghi trong hợp đồng thẩm định giá hoặc văn bản yêu cầu thẩm định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Kết quả thẩm định giá chỉ được sử dụng trong thời hạn có hiệu lực được ghi trong báo cáo kết quả thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá.
|
Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng thẩm định giá
1. Quyền của khách hàng thẩm định giá:
a) Lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật để giao kết hợp đồng thẩm định giá;
b) Yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp thông tin trong hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá và thông tin về thẩm định viên về giá;
c) Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu không liên quan đến tài sản thẩm định giá;
d) Đề nghị thay thế thẩm định viên tham gia cuộc thẩm định giá khi có căn cứ cho rằng thẩm định viên đó vi phạm nguyên tắc hoạt động độc lập, khách quan trong quá trình thực hiện thẩm định giá;
đ) Yêu cầu bồi thường trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá gây thiệt hại;
e) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ của khách hàng thẩm định giá:
a) Cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực, kịp thời, khách quan thông tin, tài liệu cần thiết theo yêu cầu của thẩm định viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu đã cung cấp;
b) Phối hợp, tạo điều kiện cho thẩm định viên về giá thực hiện thẩm định giá;
c) Thông báo kịp thời, đầy đủ các vi phạm pháp luật và vi phạm hợp đồng thẩm định giá trong hoạt động thẩm định giá của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
d) Thanh toán giá dịch vụ thẩm định giá theo thỏa thuận trong hợp đồng;
đ) Sử dụng kết quả thẩm định giá trong thời gian hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá;
e) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 59. Đánh giá hoạt động dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá có trách nhiệm tự đánh giá dịch vụ thẩm định giá tại doanh nghiệp theo quy định của Bộ Tài chính.
2. Bộ Tài chính có trách nhiệm tổ chức triển khai đánh giá dịch vụ thẩm định giá của các doanh nghiệp thẩm định giá.
|
|
Điều 60. Giá dịch vụ thẩm định giá
Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý theo quy định của pháp luật về thuế để thực hiện các công việc theo tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam; lợi nhuận (nếu có) phù hợp với mặt bằng thị trường, cung cầu của dịch vụ thẩm định giá và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá; trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
|
|
Điều 61. Cơ chế giải quyết tranh chấp về kết quả thẩm định giá giữa doanh nghiệp thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá
1. Thương lượng, hòa giải trên cơ sở những cam kết đã ghi trong hợp đồng thẩm định giá.
2. Giải quyết bằng trọng tài thương mại.
3. Khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 62. Phạm vi thẩm định giá của Nhà nước
1. Việc thẩm định giá của Nhà nước do Hội đồng thẩm định giá thực hiện nhằm giúp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt giá tài sản.
2. Thẩm định giá của Nhà nước thực hiện trong các trường hợp sau:
a. Bán, cho thuê, liên doanh, liên kết tài sản công mà pháp luật quản lý sử dụng tài sản công quy định phải thẩm định giá của Nhà nước;
b. Các trường hợp mua, đi thuê tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phê duyệt giá theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, đấu thầu lựa chọn phương thức thẩm định giá của nhà nước trong các phương thức được quy định làm căn cứ xác định giá;
c. Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp Luật khác quy định phải thẩm định giá của Nhà nước.
|
Điều 44. Phạm vi hoạt động thẩm định giá của Nhà nước
Hoạt động thẩm định giá của Nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trong các trường hợp sau:
1. Mua, bán, thanh lý, cho thuê tài sản nhà nước hoặc đi thuê tài sản phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
2. Không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá;
3. Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước;
4. Mua, bán tài sản nhà nước có giá trị lớn mà sau khi đã thuê doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan hoặc người có thẩm quyền phê duyệt thấy cần thiết phải có ý kiến thẩm định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
Điều 63. Hội đồng thẩm định giá
1. Hội đồng thẩm định giá do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc được giao nhiệm vụ bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê hoặc được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu thành lập.
2. Hội đồng thẩm định giá phải có tối thiểu 03 thành viên, trong đó phải có thành viên có một trong các chứng nhận chuyên môn sau:
a) Bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá, thẩm định giá;
b) Thẻ thẩm định viên về giá;
c) Chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ về thẩm định giá;
d) Chứng chỉ bồi dưỡng thẩm định giá nhà nước.
3. Hội đồng thẩm định giá có quyền:
a) Yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu, nguồn lực cần thiết phục vụ cho việc thẩm định giá;
b) Thuê tổ chức có chức năng thực hiện giám định tình trạng kinh tế-kỹ thuật, chất lượng của tài sản; thuê doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá; quyết định việc sử dụng kết quả của đơn vị tư vấn;
c) Báo cáo cấp có thẩm quyền về việc không có đủ thông tin, tài liệu để kết luận về giá;
d) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
4. Hội đồng thẩm định giácó nghĩa vụ:
a) Tuân thủ tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
b) Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ; tính trung thực, khách quan trong quá trình thẩm định giá tài sản và chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá tài sản;
c) Chịu trách nhiệm về việc sử dụng kết quả của đơn vị tư vấn;
d) Bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật;
đ) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
5. Chính phủ quy định chi tiết về Hội đồng thẩm định giá.
|
Điều 45. Phương thức hoạt động thẩm định giá của Nhà nước
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập Hội đồng thẩm định giá khi cần thiết để thẩm định giá đối với các trường hợp quy định tại Điều 44 của Luật này. Hội đồng thẩm định giá giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
2. Hội đồng thẩm định giá có trách nhiệm thẩm định giá theo quy định của Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của kết quả thẩm định giá.
Điều 46. Trình tự, thủ tục thẩm định giá của Nhà nước
Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục thẩm định giá của Nhà nước.
|
Điều 64. Kết quả thẩm định giá
1. Kết quả thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá được thể hiện bằng hình thức Kết luận của Hội đồng thẩm định giá. Hội đồng thẩm định giá có trách nhiệm xác định thời gian hiệu lực của kết quả thẩm định giá phù hợp với đặc điểm của tài sản, mục đích, yêu cầu thẩm định giá.
2. Kết quả thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, quyết định giá hoặc phê duyệt giá tài sản phục vụ cho các mục đích về quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật. Thời gian có hiệu lực của kết quả thẩm định giá được quy định tại tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Kết quả thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời gian hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng loại tài sản, số lượng tài sản tại văn bản giao nhiệm vụ thẩm định giá. Kết quả thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước.
|
|
Điều 65. Chi phí thẩm định giá
1. Chi phí phục vụ cho việc thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá được trang trải bằng kinh phí từ ngân sách nhà nước của cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng thẩm định giá. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể chi phí phục vụ cho việc thẩm định giá của Hội đồng thẩm định giá.
2. Riêng đối với trường hợp thẩm định giá khi mua sắm, bán, thanh lý, liên doanh, liên kết bằng tài sản công thì chi phí phục vụ cho việc thẩm định giá thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về đấu thầu và pháp luật khác có liên quan.
|
|
Điều 66. Hồ sơ thẩm định giá của Nhà nước
1. Hồ sơ thẩm định giá gồm có các tài liệu sau đây:
a) Văn bản giao nhiệm vụ bán, cho thuê, liên doanh, liên kết, mua, đi thuê hoặc văn bản được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu;
b) Thông tin, tài liệu về tài sản cần thẩm định giá;
c) Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá;
d) Các tài liệu do Hội đồng thẩm định giá thu thập, phân tích trong quá trình thẩm định giá; các báo cáo chuyên gia, chứng thư thẩm định giá kèm báo cáo kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá (nếu có);
đ) Biên bản họp và kết luận của Hội đồng thẩm định giá về kết quả thẩm định giá;
e) Các tài liệu khác có liên quan đến việc thẩm định giá.
2. Cơ quan thành lập Hội đồng thẩm định giá có trách nhiệm bảo quản, lưu giữ hồ sơ thẩm định giá theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
|
|
Điều 67. Mục tiêu, yêu cầu
1. Đôn đốc, hướng dẫn, giám sát các cơ quan đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giá, thẩm định giá.
2. Góp phần nâng cao kỷ luật, kỷ cương, đem lại tác động tích cực trong công tác quản lý điều hành giá, thẩm định giá.
3. Nắm bắt tồn tại, hạn chế để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về giá, thẩm định giá
|
|
Điều 68. Nguyên tắc kiểm tra
1. Công tác kiểm tra được thực hiện theo kế hoạch hoặc theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyển; khách quan, công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
2. Không trùng lặp, chồng chéo với hoạt động kiểm tra cùng lĩnh vực đối với một đơn vị trong cùng thời kỳ kiểm tra; Không gây cản trở, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng được kiểm tra.
|
|
Điều 69. Nội dung, trách nhiệm kiểm tra
1. Kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý, điều tiết giá; các quy định về hoạt động thẩm định giá, việc tuân thủ tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Nội dung kiểm tra phải được thể hiện tại kế hoạch kiểm tra do cấp có thẩm quyền phê duyệt hằng năm.Kết thúc kiểm tra phải có kết luận rõ ràng, nếu phát hiện có sai phạm phải được xử lý, khắc phục kịp thời.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá theo quyền hạn, trách nhiệm quy định tại Luật này; theo dõi, đôn đốc, giám sát việc thực hiện kết luận kiểm tra, kiến nghị, quyết định xử lý về kiểm tra.
3. Bộ Tài chính quy định về trình tự, thủ tục kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá.
|
|
Điều 70. Bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật có liên quan
1. Bãi bỏ điểm d khoản 2 Điều 78 của Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH14.
2. Bãi bỏ nội dung thứ tựthứ 4, Phụ lục số 2 về danh mục các sản phẩm, dịch vụ chuyển từ phí sang giá dịch vụ do nhà nước định giá ban hành kèm theo Luật Phí, lệ phí số 97/2015/QH13.
3. Bãi bỏ điểm b khoản 6 Điều 55 Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14.
4. Bãi bỏ khoản 3 Điều 22 và khoản 4 Điều 23 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số 69/2020/QH14.
5. Bãi bỏ khoản 2 Điều 67 của Luật Công chứng số 53/2014/QH13.
6. Bãi bỏ, sửa đổi một số Điều của Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 như sau:
a) Bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 58;
b) Sửa đổi Khoản 2 Điều 61 như sau:
“2. Đối với nhà ở xã hội do hộ gia đình, cá nhân đầu tư xây dựng thì chủ đầu tư tự xác định giá thuê, giá thuê mua, giá bán.”
7. Bãi bỏ cụm từ thẩm định giá tại điểm b khoản 2 Điều 47; bãi bỏ quy định tại khoản 2 Điều 48 tại Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14.
|
|
Điều 71. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2024.
Luật giá số 11/2012/QH13 hết hiệu lực từ ngày Luật này có hiệu lực.
|
|
Điều 72. Quy định chuyển tiếp
1. Trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, các doanh nghiệp thẩm định giá đã được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định tại Luật giá số 11/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2013 phải bảo đảm điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá quy định tại Luật này.
2. Trước ngày 15 tháng 12 năm 2023, các trường hợp nộp đủ hồ sơ thì được cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của Luật giá số 11/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2013.
3. Thẻ thẩm định viên về giá được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thì công nhận là thẻ thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản và thẩm định giá doanh nghiệp.
4. Các văn bản quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi có văn bản khác thay thế.
|
|
THUYẾT MINH DANH MỤC HÀNG HÓA, DỊCH VỤ DO NHÀ NƯỚC ĐỊNH GIÁ
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A1414-Bang-thuyet-minh-danh-muc-dinh-gia---20221003020834.docx
STT
|
Rà soát hiện hành
|
Đề xuất điều chỉnh
|
|
|
1
|
Điện
|
|
Điện bán lẻ
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật điện lực; theo đó, Thủ tướng Chính phủ quy định khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện; Bộ Công Thương quyết định mức giá bán lẻ điện bình quân)
|
- Thủ tướng Chính phủ quyết định khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện;
- Bộ Công Thương quyết định mức giá bán lẻ điện bình quân;
- Đơn vị bán lẻ điện quyết định mức giá cụ thể.
|
|
Điện bán buôn
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật điện lực; theo đó, Bộ Công Thương quy định khung giá)
|
- Bộ Công Thương quyết định khung giá;
- Doanh nghiệp quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ phát điện
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật điện lực; theo đó, Bộ Công Thương quy định khung giá)
|
- Bộ Công Thương quyết định khung giá;
- Doanh nghiệp quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ truyền tải điện; dịch vụ phụ trợ hệ thống điện; dịch vụ điều độ vận hành hệ thống điện; dịch vụ điều hành giao dịch thị trường điện lực; dịch vụ phân phối điện.
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật điện lực; theo đó, Bộ Công Thương quy định giá cụ thể.)
|
Bộ Công Thương quyết định giá cụ thể.
|
|
2
|
Dịch vụ điều hành giao thông vận tải đường sắt do nhà nước đầu tư.
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Điều 67 Luật Đường sắt và Thông tư 11/2019/TT-BGTVT; theo đó, Bộ Giao thông vận tải quy định giá tối đa.)
|
- Bộ Giao thông vận tải quyết định giá tối đa;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
3
|
Dịch vụ sử dụng đường bộ gồm đường quốc lộ, đường cao tốc các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015; theo đó, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá đối với dự thuộc quản lý)
|
Chỉnh lý tên: Dịch vụ sử dụng đường bộ của các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh
- Bộ Giao thông vận tải quyết định giá tối đa đối với các dự án đường bộ do Trung ương quản lý.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá tối đa đối với các dự án đường bộ do quản lý địa phương.
|
|
4
|
Dịch vụ sử dụng đò, phà được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015; theo đó, Bộ Giao thông vận tải quy định khung giá các bến đò, phà do Bộ quản lý; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định khung giá các bến đò, phá do địa phương quản lý)
|
Chỉnh lý tên: Dịch vụ sử dụng đò, phà được đầu tư hoàn toàn từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
- Bộ Giao thông vận tải quyết định giá cụ thể các bến đò, phà do Trung ương quản lý;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể các bến đò, phà do địa phương quản lý.
|
|
5
|
Dịch vụ tại cảng biển (bao gồm dịch vụ sử dụng cầu, bến, phao neo, dịch vụ bốc dỡ container, dịch vụ lai dắt thuộc khu vực cảng biển)
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015 và được quy định tại Khoản 2 và khoản 3 Điều 90 Bộ Luật Hàng hải Việt Nam; theo đó, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định định khung giá)
|
Chỉnh lý tên: Dịch vụ tại cảng biển (bao gồm dịch vụ sử dụng cầu, bến, phao neo, dịch vụ bốc dỡ container, dịch vụ lai dắt tàu biển)
- Bộ Giao thông vận tải quyết định khung giá;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
6
|
Dịch vụ sử dụng cảng, nhà ga (bao gồm cảng, bến thủy nội địa, cảng cá) được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015 và tại Khoản 2 và khoản 3 Điều 90 Bộ Luật Hàng hải Việt Nam; theo đó, Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân quy định giá tối đa)
|
- Bộ Giao thông vận tải quyết định giá tối đa tại cảng, nhà ga do Trung ương quản lý;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá tối đa tại cảng, nhà ga do địa phương quản lý;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
7
|
Dịch vụ hoa tiêu;
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015 và tại Khoản 2 và khoản 3 Điều 90 Bộ Luật Hàng hải Việt Nam; theo đó, Bộ Giao thông vận tải quy định giá tối đa)
|
Chỉnh lý tên: Dịch vụ hoa tiêu hàng hải
- Bộ Giao thông vận tải quyết định giá tối đa;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
8
|
Dịch vụ hàng không
|
|
Dịch vụ cất cánh, hạ cánh; dịch vụ điều hành bay đi, đến; dịch vụ bảo đảm an ninh hàng không và dịch vụ điều hành bay qua vùng thông báo bay do Việt Nam quản lý; dịch vụ phục vụ hành khách tại cảng hàng không.
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Điều 1 Luật Hàng không dân dụng sửa đổi; theo đó, Bộ Giao thông vận tải quy định giá cụ thể)
|
Bộ Giao thông vận tải quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ thuê sân đậu tàu bay; dịch vụ thuê quầy làm thủ tục hành khách; dịch vụ cho thuê băng chuyền hành lý; dịch vụ thuê cầu dẫn khách lên, xuống máy bay; dịch vụ phục vụ kỹ thuật thương mại mặt đất trọn gói tại các cảng hàng không, sân bay (đối với các cảng hàng không còn áp dụng phương thức trọn gói); dịch vụ phân loại tự động hành lý đi; dịch vụ tra nạp xăng dầu hàng không; dịch vụ sử dụng hạ tầng hệ thống tra nạp ngầm cung cấp nhiên liệu tại cảng hàng không, sân bay; Nhượng quyền khai thác dịch vụ hàng không, bao gồm các dịch vụ nhượng quyền: nhà ga hành khách; nhà ga, kho hàng hóa; phục vụ kỹ thuật thương mại mặt đất; sửa chữa, bảo dưỡng phương tiện, trang thiết bị hàng không; kỹ thuật hàng không; cung cấp suất ăn hàng không; cung cấp xăng dầu hàng không.
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Điều 1 Luật hàng không dân dụng Việt Nam, Thông tư 36/2015/TT-BGTVT; theo đó, Bộ Giao thông vận tải quy định khung giá và các đơn vị cung cấp dịch vụ quy định giá cụ thể trong khung giá)
|
Bộ Giao thông vận tải quyết định khung giá;
Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ thuê mặt bằng cảng hàng không, sân bay; Dịch vụ thiết yếu tại cảng hàng không, sân bay;
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Điều 1 Luật hàng không dân dụng Việt Nam và Thông tư số 36/2015/TT-BGTVT; theo đó, Bộ Giao thông vận tải quy định khung giá)
|
Bộ Giao thông vận tải quyết định khung giá;
Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa tuyến độc quyền
(Được quy định tại Luật Giá và Luật Hàng không dân dụng; theo đó, tại Luật giá quy định “Dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa tuyến độc quyền”, tại Luật hàng không dân dụng quy định “Dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa”; Thẩm quyền Bộ Giao thông vận tải quy định khung giá)
|
Chỉnh lý tên gọi: Dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa
- Bộ Giao thông vận tải quyết định giá tối đa;
- Hãng hàng không quyết định giá cụ thể.
|
|
9
|
Dịch vụ kiểm định phương tiện vận tải (bao gồm dịch vụ đăng kiểm phương tiện, thiết bị giao thông vận tải và các công trình khai thác, vận chuyển dầu khí biển).
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Tài chính quy định giá cụ thể)
|
Chỉnh lý tên gọi: Dịch vụ kiểm định phương tiện vận tải (bao gồm dịch vụ đăng kiểm phương tiện giao thông, các tổng thành, hệ thống, linh kiện phụ tùng của phương tiện giao thông; phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác, vận chuyển trên biển; phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công chuyên dùng; máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động trong giao thông vận tải và trang bị, thiết bị kỹ thuật chuyên dùng).
- Bộ Giao thông vận tải quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ kiểm định kỹ thuật máy móc, thiết bị, vật tư và các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động.
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Lao động – thương binh và xã hội quy định giá cụ thể)
|
- Bộ Lao động – Thương binh và xã hội quyết định khung giá;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ kiểm định kỹ thuật máy móc, thiết bị, vật tư và các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn đặc thù chuyên ngành công nghiệp.
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Công Thương quy định giá cụ thể)
|
- Bộ Công Thương quyết định khung giá;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
10
|
Dịch vụ kết nối viễn thông (Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá và Nghị định 25/2011/NĐ-CP quy định Luật Viễn thông; theo đó, Bộ Thông tin và truyền thông quy định giá cụ thể.)
|
Bộ Thông tin và truyền thông quyết định giá cụ thể.
|
|
11
|
Dịch vụ viễn thông công ích
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá và Nghị định 25/2011/NĐ-CP quy định Luật Viễn thông; theo đó, Bộ Thông tin và truyền thông quy định giá tối đa)
|
- Bộ Thông tin và truyền thông quyết định giá tối đa;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ bưu chính công ích, dịch vụ bưu chính dành riêng, dịch vụ bưu chính phục vụ cơ quan đảng, Nhà nước và dịch vụ công ích trong hoạt động phát hành báo chí.
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá và Nghị định 25/2011/NĐ-CP quy định Luật Viễn thông; theo đó, Bộ Thông tin và truyền thông quy định giá tối đa)
|
- Bộ Thông tin và truyền thông quyết định giá tối đa;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
12
|
Tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình trong trường hợp giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ
(Quy định hiện hành: Đây là mặt hàng được đưa vào danh mục nhà nước định giá theo Luật sở hữu trí tuệ 2022; theo đó, Chính phủ quy định khung giá và mức giá cụ thể)
|
Bộ Văn hóa, thể thao, du lịch quyết định khung giá và mức giá cụ thể.
|
|
13
|
Rừng (bao gồm rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất thuộc sở hữu toàn dân)
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật lâm nghiệp; theo đó, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định khung giá)
|
- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quyết định khung giá rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng thuộc sở hữu toàn dân;
|
|
Rừng thuộc phạm vi quản lý của địa phương
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật lâm nghiệp; theo đó, Ủy ban nhân dân quy định khung giá)
|
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định khung giá rừng trên địa bàn quản lý.
|
|
14
|
Sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP và Luật Thủy lợi; Bộ Tài chính quy định giá tối đa; Bộ NNPTNT, UBND quy định giá cụ thể)
|
- Bộ Tài chính quyết định giá tối đa;
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý.
|
|
15
|
Sản phẩm, dịch vụ thủy lợi khác
(Quy định hiện hành: được quy định tại Luật Thủy lợi; Bộ Tài chính quy định giá khung giá; Bộ NNPTNT, UBND quy định giá cụ thể)
|
- Bộ Tài chính quyết định khung giá.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý.
|
|
16
|
Dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán đối với dịch vụ do Sở giao dịch chứng khoán và Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Tài chính quy định khung giá, giá tối đa; mức giá cụ thể tùy dịch vụ)
|
- Bộ Tài chính quyết định khung giá; giá tối đa; mức giá cụ thể (tùy dịch vụ).
- Sở giao dịch chứng khoán và Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam quyết định giá cụ thể;
|
|
17
|
Nước sạch sinh hoạt
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Nghị định 117/NĐ-CP; theo đó, Bộ Tài chính quy định khung giá, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá cụ thể.)
|
Chỉnh lý tên gọi: Nước sạch
- Bộ Tài chính quyết định khung giá;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
18
|
Hàng dự trữ quốc gia
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật Giá, Luật Dự trữ quốc gia; theo đó, Bộ Tài chính quyết định giá mua tối đa, giá bán tối thiểu (trừ hàng dự trữ quốc gia thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh); Bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia quyết định giá cụ thể; Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quyết định giá hàng dự trữ quốc gia thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.)
|
- Bộ Tài chính quyết định giá mua tối đa, giá bán tối thiểu (trừ hàng dự trữ quốc gia thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh);
- Bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia quyết định giá cụ thể;
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quyết định giá hàng dự trữ quốc gia thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
|
|
19
|
Sản phẩm, dịch vụ công (dịch vụ sự nghiệp và sản phẩm, dịch vụ công ích) trong danh mục được cấp có thẩm quyền ban hành, sử dụng ngân sách nhà nước và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng
(Quy định hiện hành: Dịch vụ được quy định tại Luật giá, Nghị định 149/2016/NĐ-CP, Nghị định 32/2019/NĐ-CP; theo đó, Bộ Tài chính quy định giá tối đa, Bộ quản lý ngành ban hành giá cụ thể,)
|
- Bộ Tài chính quyết định giá tối đa
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ theo thẩm quyền đặt hàng.
|
|
20
|
Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của nhà nước, trừ dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu
(Quy định hiện hành: Dịch vụ được quy định tại Luật giá, Luật khám chữa bệnh, Luật bảo hiểm y tế và Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Y tế quy định giá cụ thể dịch vụ khám chữa bệnh thuộc phạm vi quỹ bảo hiểm y tế áp dụng trên cả nước.)
|
- Bộ Y tế quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của nhà nước
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật khám chữa bệnh, Nghị định 149/2016/NĐ-CP, Nghị định 85/2012/NĐ-CP; theo đó, Bộ Y tế quy định khung giá, cơ sở khám chữa bệnh tự quy định giá cụ thể.)
|
- Bộ Y tế quy định phương pháp định giá,
- Các cơ sở khám chữa bệnh quy định giá cụ thể trên cơ sở phương pháp
(Do không quy định giá nên không cập nhật tại Danh mục)
|
|
21
|
Dịch vụ kiểm dịch y tế, y tế dự phòng tại cơ sở y tế công lập
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Tài chính quy định giá tối đa, Bộ Y tế quy định giá cụ thể.)
|
- Bộ Y tế quyết định giá tối đa;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
22
|
Dịch vụ tiêm phòng, tiêu độc, khử trùng cho động vật, chẩn đoán thú y
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Tài chính quy định khung giá, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định giá cụ thể.)
|
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định khung giá
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
23
|
Máu toàn phần và chế phẩm máu đạt tiêu chuẩn
(Quy định hiện hành: Được quy định tại thông tư 17/2020/TT-BYT; theo đó, Bộ Y tế quy định giá tối đa, tổ chức, cá nhân mua bán tự định giá cụ thể.)
|
- Bộ Y tế quyết định giá tối đa;
- Tổ chức mua, bán quyết định giá cụ thể.
|
|
24
|
Dịch vụ kiểm nghiệm mẫu thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc dùng cho người sử dụng ngân sách nhà nước
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Y tế quy định Khung giá, thủ trương các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền quy định giá cụ thể.)
|
- Bộ Y tế quyết định khung giá;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
25
|
Sách giáo khoa
(Đây là mặt hàng được Bộ Giáo dục và đào tạo đề nghị bổ sung tại văn bản số 115/BGDĐT-KHTC ngày 14/01/2020 và công văn số 319/BGDĐT-KHTC ngày 07/02/2020, công văn số 774/BGD ĐT-KHTC ngày 11/3/2020 về giá sách giáo khoa theo quy định tại Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội; hiện mặt hàng này thuộc danh mục kê khai giá)
|
- Bộ Giáo dục và đạo tạo quyết định giá cụ thể.
|
|
26
|
Dịch vụ giáo dục tại cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập;
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật Giáo dục; theo đó, Chính phủ quy định khung giá chung, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định khung giá tại địa phương;Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể)
|
- Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định khung giá chung trên cả nước;
- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định khung giá tại địa phương;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
Dịch vụ giáo dục tại cơ sở giáo dục đại học công lập
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật Giáo dục; theo đó, Chính phủ quy định khung giá; cơ sở giáo dục quyết định giá cụ thể)
|
- Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định giá tối đa;
- Cơ sở giáo dục quyết định giá cụ thể;
|
|
Dịch vụ giáo dục tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập
(Dịch vụ được quy định tại Luật giá, Luật giáo dục nghề nghiệp; theo đó, Chính phủ quy định khung giá; Ủy ban nhân dân quy định giá tối đa.)
|
- Bộ Lao động, Thương binh – Xã hội quyết định giá tối đa;
- Cơ sở giáo dục quyết định giá cụ thể;
|
|
27
|
Nhà ở xã hội, nhà ở công vụ được xây dựng chi từ nguồn ngân sách nhà nước
(Được quy định tại Luật giá, Luật Nhà ở; theo đó, Bộ Xây dựng, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo phân cấp quản lý NSNN quy định khung giá.)
|
- Bộ Xây dựng quyết định giá thuê, thuê mua nhà ở công vụ, nhà ở xã hội được đầu tư bằng nguồn vốn trung ương;
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quyết định giá thuê, thuê mua nhà ở do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đầu tư;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá thuê, thuê mua nhà ở được đầu tư bằng nguồn vốn của địa phương và nhà ở được giao quản lý trên địa bàn.
|
|
28
|
Hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh thực hiện đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh
(Đây là hàng hóa, dịch vụ mới được đề nghị bổ sung theo đề nghị của Bộ Quốc phòng)
|
Bộ Quốc phòng quyết định giá cụ thể
|
|
29
|
Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước tính giá theo lộ trình thu của người sử dụng dịch vụ.
(Dịch vụ được quy định tại Luật giá, Luật chuyên ngành, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước tính giá theo lộ trình; theo đó, các Bộ quy định giá tối đa hoặc giá cụ thể.)
|
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ theo lĩnh vực quyết định giá tối đa;
- Đơn vị cung ứng dịch vụ quy định giá cụ thể.
|
|
30
|
Dịch vụ đo đạc, lập bản đồ địa chính
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất mới hoặc cho phép thực hiện việc chuyển mục đích sử dụng đất ở những nơi chưa có bản đồ địa chính có tọa độ.
|
|
31
|
Dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật Nhà ở, theo đó Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định khung giá)
|
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định khung giá áp dụng đối với nhà chung cư thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn; nhà chung cư trong trường hợp không thỏa thuận được giá dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư;
- Đơn vị cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
32
|
Dịch vụ ra, vào bến xe ô tô.
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Điều 83 Luật giao thông đường bộ; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá, tuy nhiên chưa có quy định về hình thức định giá.)
|
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá tối đa;
- Tổ chức cung ứng dịch vụ quyết định giá cụ thể.
|
|
33
|
Đất
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá, Luật đất đai; Theo đó, Chính phủ quy định khung giá (Bộ Tài nguyên môi trường xây dựng phương án giá, Bộ Tài chính thẩm định); UBND quy định bảng giá đất cụ thể và hệ số điều chỉnh giá đất (Sở Tài nguyên xây dựng phương án giá, Sở Tài chính thẩm định).)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định bảng giá đất và giá đất cụ thể.
(Cập nhật theo quy định tại dự thảo Luật Đất đai sửa đổi)
|
|
34
|
Dịch vụ vận tải hành khách trên đường sắt đô thị
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Điều 56 Luật Đường sắt; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá, tuy nhiên chưa có quy định về hình thức định giá.)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
35
|
Dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá; Tuy nhiên, tại nghị định 149/2016/NĐ-CP thì hình thức định giá là giá tối đa; tại Luật bảo vệ môi trường thì hình thức định giá là giá cụ thể)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
36
|
Dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Điều 38 Nghị định số 80/2014/NĐ-CP; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá cụ thể.)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
37
|
Dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục của nhà trường
(Quy định hiện hành: Dịch vụ được quy định tại Luật giáo dục; theo đó, Hội đồng nhân dân quy định giá, tuy nhiên chưa có quy định cụ thể về hình thức định giá.)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
38
|
Dịch vụ trông giữ xe
(Quy định hiện hành: Dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật phí, lệ phí 2015, Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể
|
|
39
|
Dịch vụ thuê công trình hạ tầng kỹ thuật dùng chung do nhà nước đầu tư
(Quy định hiện hành: được quy định tại Nghị định 72/2012/NĐ-CP; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cho thuê.)
|
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá cụ thể.
|
|
40
|
Dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục mầm non, phổ thông (trong đó gồm dịch vụ cấp phát phôi bằng, chứng chỉ, dịch vụ tuyển sinh)
(Dịch vụ được quy định tại Nghị định 81/2021/NĐ-CP; Quyết định 186/2016/QĐ-TTg về danh mục dịch vụ sự nghiệp công giáo dục đào tạo; theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh quy định giá cụ thể.)
|
Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định giá cụ thể;
|
|
HÀNG HÓA, DỊCH VỤ ĐƯA RA KHỎI DANH MỤC
|
STT
|
Rà soát hiện hành
|
Lý do đưa ra khỏi danh mục
|
1
|
Dịch vụ hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay, dịch vụ soi chiếu an ninh.
(Được quy định tại Điều 1 Luật hàng không dân dụng Việt Nam và Thông tư số 36/2015/TT-BGTVT; theo đó, Bộ Giao thông vận tải quy định khung giá và Các đơn vị tự quy định giá cụ thể trong khung giá.)
|
Hiện được quy định tại Luật hàng không dân dụng sửa đổi; qua rà soát cho thấy dịch vụ hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay (như dịch vụ thông báo tin tức hàng không, dịch vụ khí tượng) không còn phát sinh trong thực tiễn; dịch vụ soi chiếu an ninh thực tế đã nằm trong trong dịch vụ bảo đảm an ninh hành khách, hành lý và không cần thiết quy định riêng.
|
2
|
Một số nội dung của thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
(Được quy định tại Nghị định 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của CP; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá)
|
Hiện được quy định tại Nghị định 148/2020/NĐ-CP, là phần gia tăng của dịch vụ công của nhà nước, thuộc danh mục phí, lệ phí theo quy định tại Luật phí, lệ phí, không cần thiết quy định định giá nhà nước.
|
3
|
Dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán do các tổ chức cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực chứng khoán cung cấp (trừ dịch vụ do nhà nước cung cấp)
(Được quy định tại Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, Bộ Tài chính quy định khung giá, giá tối đa; mức giá cụ thể tùy dịch vụ)
|
Thuộc nhóm dịch vụ chuyển từ phí sang giá theo Luật Phí, lệ phí; Qua rà soát cho thấy nhóm dịch vụ này đã có sự cạnh tranh từ nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ nên không cần thiết phải định giá nhà nước.
|
4
|
Thuốc lá điếu sản xuất trong nước
(Được quy định tại Luật giá; theo đó, Bộ Tài chính định giá tối thiểu)
|
Qua rà soát cho thấy việc quyết định giá tối thiểu của thuốc lá điếu sản xuất trong nước là nhằm hạn chế tiêu dùng; tuy nhiên, thuốc lá điếu cũng là sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, nên việc sử dụng công cụ giá là không còn phù hợp.
|
5
|
Thù lao dịch vụ đấu giá
(Được quy định tại Luật đấu giá; theo đó, Bộ Tài chính quy định khung thù lao dịch vụ đấu giá)
|
Qua rà soát cho thấy dịch vụ đấu giá tài sản có tính tương đồng với một số dịch vụ như kiểm toán, thẩm định giá và có tính cạnh tranh thị trường cao nên áp dụng định giá nhà nước là không còn phù hợp.
|
6
|
Dịch vụ quy hoạch
(Được quy định tại Luật quy hoạch; theo đó, Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể)
|
Qua rà soát cho thấy bản chất của vấn đề là việc phải quy định các yếu tố chi phí của việc lập, xây dựng quy hoạch để tính toán, xây dựng dự toán (có tính chất tương tự đối với một số hoạt động khác có sử dụng ngân sách nhà nước) không thuộc phạm vi điều chỉnh của biện pháp định giá nhà nước.
|
7
|
Thù lao môi giới, dịch vụ đưa người lao động đi nước ngoài làm việc
(Được quy định tại Luật đưa người lao động đi làm việc nước ngoài; theo đó, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội quy định giá tối đa)
|
Qua rà soát cho thấy dịch vụ có tính cạnh tranh thị trường cao nên áp dụng cơ chế định giá nhà nước là không phù hợp.
|
8
|
Thù lao công chứng
(Được quy định tại Luật công chứng 2014; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định mức trần thù lao)
|
Qua rà soát cho thấy dịch vụ có tính cạnh tranh thị trường cao nên áp dụng cơ chế định giá nhà nước là không phù hợp.
|
9
|
Dịch vụ cho thuê, chuyển nhượng có thời hạn quyền khai thác tài sản nhà nước là công trình kết cấu hạ tầng
(Được quy định tại Luật giá, Luật quản lý, sử dụng tài sản công; theo Luật giá thì Bộ Tài chính và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh định giá tối thiểu, theo Luật quản lý, sử dụng tài sản công thì áp dụng hình thức đấu giá)
|
Qua rà soát cho thấy việc xác định giá của dịch vụ này sẽ thực hiện theo phương thức thẩm định giá của nhà nước là phù hợp với bản chất của việc cho thuê, chuyển nhượng quyền khai thác tài sản công.
|
10
|
Nước ngầm
(Được quy định tại Luật giá; theo đó, tại Luật giá quy định hình thức là khung giá và mức giá cụ thể)
|
Qua rà soát cho thấy hiện mặt hàng được quy định thu tiền sử dụng tại Luật tài nguyên nước, tương đồng với các quy định về thu thuế tài nguyên, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật giá.
|
11
|
Dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ
(Dịch vụ này thuộc nhóm dịch vụ chuyển từ phí sang giá được quy định tại Nghị định 149/2016/NĐ-CP; theo đó, tỉnh quy định giá cụ thể.)
|
Qua rà soát cho thấy dịch vụ này không đáp ứng các tiêu chí đề ra đối với các hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục định giá nhà nước, đến nay không cần thiết thực hiện theo cơ chế định giá nhà nước.
|
12
|
Nhà ở xã hội do cá nhân, hộ gia đình xây dựng
(Được quy định tại Luật Nhà ở; theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định khung giá)
|
Qua rà soát cho thấy việc quản lý nhà ở xã hội do cá nhân, hộ gia đình đầu tư, xây dựng cần có sự thống nhất với việc quản lý giá nhà ở xã hội cho doanh nghiệp đầu tư, xây dựng hiện thực hiện theo việc quy định các chi phí, lợi nhuận định mức, phương pháp tính giá là phù hợp, việc quy định khung giá là không phù hợp. Mặt khác mặt hàng này cũng không phù hợp với các tiêu chí xác định hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá đề ra tại Luật.
|
13
|
Dịch vụ sử dụng khu vực biển
(Quy định hiện hành: Dịch vụ được quy định tại Luật thủy sản, Nghị định 11/2021/NĐ-CP; theo đó, Chính phủ quy định khung giá.)
|
2 nội dung này thực tế là cơ chế tài chính đối với việc giao, cho thuê tài sản công (mặt nước, mặt biển là các tài sản công) – tương tự với việc tính tiền cho thuê, sử dụng đất hoặc các tài sản công khác. Do đó không thuộc phạm vi điều chỉnh của lĩnh vực giá.
|
14
|
Mặt nước (không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đất đai)
(Quy định hiện hành: Được quy định tại Luật giá; Luật đất đai; Nghị định 46/2014/NĐ-CP; theo đó, Chính phủ quy định khung giá, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định giá cụ thể.)
|
BÁO CÁO RÀ SOÁT LUẬT GIÁ VỚI CÁC CAM KẾT, THỎA THUẬN QUỐC TẾ
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A1413-bc-ra-soat-dieu-uoc-quoc-te---20221003020834.docx
Việc hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giá và thẩm định giá là việc làm cần thiết để phát triển kinh tế-xã hội và phát triển nghề thẩm định giá tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới – WTO từ năm 2006, tham gia các hiệp định tự do thương mại FTA trong khu vực và thế giới theo các hình thức song phương và đa phương; cũng như việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội thẩm định giá các nước ASEAN (AVA) và Hội đồng Tiêu chuẩn Thẩm định giá quốc tế - IVSC. Qua đó, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý giá và thẩm định giá cũng như hiệu quả công tác hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu rà soát, đánh giá và đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về giá để bảo đảm ngày càng phù hợp và tiếp cận với các yêu cầu trong các thỏa thuận và điều ước quốc tế.
1. Cam kết khi tham gia WTO
Đối với chính sách giá khi gia nhập WTO đã cam kết thực hiện chính sách quản lý giá theo hướng tăng cường tính tự chủ và quyền tự định giá của doanh nghiệp căn cứ trên cơ sở nguyên tắc thị trường; Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì việc công bố danh mục các hàng hóa và dịch vụ chịu sự kiểm soát giá của Nhà nước cũng như bất kỳ thay đổi nào đối với danh mục sau khi gia nhập WTO.
Theo định kỳ, Bộ Tài chính đã phối hợp với các đơn vị có liên quan tham gia báo cáo Rà soát chính sách thương mại trong khuôn khổ WTO và trả lời các câu hỏi có liên quan khi có yêu cầu. Đánh giá chung về việc thực hiện các cam kết như sau:
1.1. Đối với lĩnh vực quản lý, điều hành giá
Sau khi Luật Giá số 11/2012/QH13 được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật giá được các cấp có thẩm quyền xây dựng, hoàn thiện và được ban hành theo hướng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, của người tiêu dùng trong lĩnh vực giá. Nguyên tắc quản lý giá là Nhà nước tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hoạt động, sản xuất kinh doanh tại Việt Nam (trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác) theo đúng pháp luật. Doanh nghiệp được quyền quyết định giá bán hàng hóa, dịch vụ sản xuất ra phù hợp với đặc điểm kinh doanh của đơn vị mình, phù hợp với giá cả trên thị trường, Nhà nước không can thiệp vào việc định giá bán hàng hóa, dịch vụ, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục do Nhà nước định giá.Nhà nước sử dụng các biện pháp cần thiết (chủ yếu là các biện pháp kinh tế, điều hòa cung cầu, tài chính, tiền tệ…) theo quy định của pháp luật để bình ổn giá. Từ đó, góp phần hữu hiệu vào bình ổn giá thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô; khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng và ổn định đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chủ trương xóa bao cấp qua giá như: Trợ giá, bù lỗ, hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước và thực hiện chính sách một giá là giá thị trường.
Đối với một số ít hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền Nhà nước sản xuất, kinh doanh; hàng dự trữ quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng Ngân sách nhà nước, Nhà nước thực hiện can thiệp trực tiếp vào giá cả ở mức độ nhất định thông qua hình thức định giá như xác định mức giá cụ thể hoặc khung giá, mức giá tối đa hoặc mức giá tối thiểu. Thực hiện công khai thông tin về giá, quán triệt thực hiện công khai minh bạch trong quản lý, điều hành giá và kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ quan trọng thiết yếu đối với đời sống kinh tế, xã hội.
Đánh giá: Chính sách quản lý và điều hành giá hiện hành của Việt Nam theo quy định của Luật giá hoàn toàn tuân thủ các quy định của WTO, phù hợp với các nguyên tắc thị trường và định hướng phát triển kinh tế thị trường dài hạn của Việt Nam.
1.2. Đối với lĩnh vực thẩm định giá
Kể từ ngày 01/01/2013 khi Luật giá có hiệu lực cùng với hệ thống các văn bản hướng dẫn về thẩm định giá tương đối hoàn thiện, nghề thẩm định giá Việt Nam đánh dấu một bước chuyển mình trong hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định mang tính chuyên nghiệp, minh bạch và phát triển mạnh mẽ.
Qua quá trình hoạt động, doanh nghiệp thẩm định giá đã góp phần tích cực vào việc xác định giá trị đất đai, tài nguyên, tài sản làm căn cứ để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu tư trong nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, dự toán cấp phát kinh phí mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước,... Ngoài ra, việc cung cấp dịch vụ tư vấn thẩm định giá của các doanh nghiệp đã và đang góp phần xác định đúng giá trị thị trường của tài sản, phục vụ cho việc trao đổi, giao dịch về tài sản, hàng hóa trên thị trường để góp phần ngăn ngừa hoạt động của “thị trường ngầm”, tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí qua giá; đề cao trách nhiệm thực hiện pháp luật của mọi người dân, mọi doanh nghiệp. Sự tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá đáng kể trong những năm gần đây.
Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam hiện nay đã được ban hành tương đối đầy đủ với tổng số là 13 tiêu chuẩn thẩm định giá và tương đối phù hợp với các tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế của Hội đồng thẩm định giá quốc tế IVSC. Các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam như về quy tắc đạo đức hành nghề thẩm định giá; về quy trình thẩm định giá, báo cáo kết quả thẩm định giá; về thẩm định giá bất động sản, tài sản vô hình, giá trị doanh nghiệp,...
Đánh giá: Hệ thống pháp luật về thẩm định giá, Hệ thống Tiêu chuẩn thẩm định giá hiện hành của Việt Nam theo quy định của Luật giá hoàn toàn tuân thủ các quy định của WTO, phù hợp với các nguyên tắc thị trường và định hướng phát triển kinh tế thị trường dài hạn của Việt Nam.
2. Về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
Đối chiếu với nội dung các Điều khoản liên quan đến điều kiện cấp phép và thủ tục cấp phép trong Bản quy định trong nước thuộc lời văn về Thương mại dịch vụ, Đầu tư và Thương mại điện tử (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU) cho thấy: Về cơ bản, các quy định hiện hành đối với việc cấp và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đã đáp ứng các yêu cầu về tính minh bạch, đơn giản, rõ ràng, công khai, khách quan, được ban hành và công bố rộng rãi, dễ tiếp cận như đề nghị của phía EU. Cụ thể:
Căn cứ các quy định của Điều 38 và 39 Luật Giá; Điều 13, 14, 15 và 16 Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 12/2021/NĐ-CP ngày 24/2/2021); và Điều 4 Thông tư số 38/2014/TT-BTC ngày 28/3/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP;
Doanh nghiệp thẩm định giá được hoạt động khi Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật. Chính phủ và Bộ Tài chính đã quy định cụ thể về các điều kiện, trình tự, thủ tục (hồ sơ, thời hạn, lệ phí) của cấp và cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
Riêng đối với các tổ chức thẩm định giá nước ngoài chỉ được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại Việt Nam nếu đáp ứng được các yêu cầu về góp vốn với doanh nghiệp thẩm định giá Việt Nam đế thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần để kinh doanh dịch vụ TĐG tại Việt Nam (Điều 43 Luật Giá, Điều 21 và 22 Nghị định số 89/2013/NĐ-CP). Lý do: Việt Nam không có cam kết quốc tế cụ thể trong lĩnh vực thẩm định giá, việc quy định như trên là cần thiết nhằm tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động thẩm định giá của các tổ chức thẩm định giá nước ngoài tại Việt Nam; điều đó cũng phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về thương mại dịch vụ và đầu tư. Ngoại trừ quy định về hình thức, phạm vi cung cấp dịch vụ thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tại Việt Nam nói trên, các nội dung quy định về điều kiện thành lập, hoạt động và hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá không có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tại Việt Nam và doanh nghiệp thẩm định giá trong nước.
3. Về Hiệp định thương mại CPTPP
a) Điều 9.3: Quan hệ với các Chương khác
- Nội dung: “2. Yêu cầu của một Bên về việc nhà cung cấp dịch vụ của Bên khác phát hành bảo lãnh hoặc hình thức bảo đảm tài chính khác làm điều kiện cung cấp dịch vụ qua biên giới không tự nó tạo ra nghĩa vụ áp dụng Chương này đối với các biện pháp do Bên đó ban hành hoặc duy trì liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ qua biên giới. Chương này áp dụng đối với các biện pháp được ban hành hoặc duy trì bởi Bên liên quan đến khoản bảo lãnh hoặc bảo đảm tài chính được phát hành, trong phạm vi khoản bảo lãnh hoặc bảo đảm tài chính đó là đầu tư theo Hiệp định này.”
Cho phép Chính phủ ban hành quy định yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ của Bên khác phát hành bảo lãnh hoặc hình thức đảm bảo tài chính khác khi muốn cung cấp dịch vụ qua biên giới.
Rà soát, đánh giá: Phù hợp cam kết vì Luật Giá và Nghị định số 89/2013/NĐ-CP về thẩm định giá không quy định nội dung về phát hành bảo lãnh hoặc hình thức đảm bảo tài chính khi muốn cung cấp dịch vụ thẩm định giá.
b) Điều 9.4. Đối xử quốc gia, Chương 9. Đầu tư:
- Nội dung:
“1. Mỗi Bên sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên khác đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư của mình, trong điều kiện tương tự, đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, và bán hoặc định đoạt đầu tư theo cách khác trên lãnh thổ của mình.
2. Mỗi Bên sẽ dành cho bảo lãnh đầu tư theo Hiệp định này đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho đầu tư của nhà đầu tư của mình trên lãnh thổ nước mình, trong điều kiện tương tự, đối với việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, và bán hoặc định đoạt đầu tư theo cách khác.”
Tương tự cam kết trong WTO: không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư/khoản đầu tư của một bên với nhà đầu tư/khoản đầu tư trong nước.
Rà soát, đánh giá: Nội dung về hình thức cung cấp dịch vụ thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tại Việt Nam có quy định hạn chế hình thức góp vốn và số vốn góp của tổ chức nước ngoài đã được đưa vào bảo lưu tại Phụ lục I, Ngành: Dịch vụ kinh doanh; phân ngành: Định giá tài sản. Điều này đảm bảo Quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam phù hợp các cam kết của Hiệp định TPP. Vì: (i) Điều 38, 39 của Luật Giá quy định doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập theo quy định của Luật doanh và quy định điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá. (ii) Điều 21 của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP quy định tổ chức nước ngoài chỉ được góp vốn thành lập Công ty TNHH hai thành viên trở lên và công ty cổ phần để kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại Việt Nam.
c) Điều 9.10: Yêu cầu thực hiện
- Nội dung: “3. (a) không có quy định nào tại khoản 2 được hiểu là để ngăn cản một Bên đưa ra điều kiện về việc hưởng hay tiếp tục hưởng ưu đãi, đối với đầu tư của nhà đầu tư của một Bên hoặc của bên không phải là Bên ký kết Hiệp định trên lãnh thổ của mình, phải tuân thủ yêu cầu lựa chọn địa điểm sản xuất, cung cấp dịch vụ, đào tạo hay tuyển dụng lao động, xây dựng hay mở rộng cơ sở vật chất, hoặc tiến hành hoạt động nghiên cứu, phát triển trên lãnh thổ của mình.”
Việt Nam được phép yêu cầu các nhà đầu tư phải tuân thủ yêu cầu lựa chọn địa điểm sản xuất, cung cấp dịch vụ, đào tạo hay tuyển dụng lao động, xây dựng hay mở rộng cơ sở vật chất, hoặc tiến hành hoạt động nghiên cứu, phát triển trên lãnh thổ của mình nếu muốn được hưởng ưu đãi hoặc tiếp tục được hưởng ưu đãi. Các yêu cầu này phải đảm bảo đáp ứng nghĩa vụ không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài và giữa các nước khác nhau.
Rà soát, đánh giá: Phù hợp cam kết vì Luật Giá và Nghị định số 89/2013/NĐ-CP và Nghị định 21/2021/NĐ-CP về thẩm định giá không quy định nội dung này.
d) Điều 9.11: Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị
- Nội dung:
“1. Không Bên nào được yêu cầu một doanh nghiệp của Bên đó là đầu tư theo Hiệp định này phải bổ nhiệm thể nhân có quốc tịch nhất định vào vị trí quản lý cấp cao.
2. Mỗi Bên có thể yêu cầu đa số nhân sự của hội đồng quản trị, hoặc bất kỳ ủy ban nào thuộc hội đồng quản trị của doanh nghiệp của Bên đó là đầu tư theo Hiệp định này có quốc tịch cụ thể, hoặc thường trú tại lãnh thổ của mình, với điều kiện yêu cầu đó không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng của nhà đầu tư thực hiện kiểm soát đầu tư của mình.”
1. Việt Nam không được ban hành các quy định trong đó yêu cầu các nhân sự nắm giữ vị trí quản lý cấp cao phải có một quốc tịch nhất định (ví dụ như phải có quốc tịch Việt Nam)
2. Việt Nam có thể ban hành các quy định về tỷ lệ nhân sự của hội đồng quản trị hoặc ủy ban thuộc hội đồng quản trị của một doanh nghiệp có một quốc tịch nhất định hoặc phải thường trú tại Việt Nam với điều kiện quy định này không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng của nhà đầu tư thực hiện kiểm soát đầu tư của mình.
Rà soát, đánh giá: Phù hợp cam kết vì Luật Giá và Nghị định số 89/2013/NĐ-CP và Nghị định 21/2021/NĐ-CP về thẩm định giá không quy định nội dung về nhân sự quản lý cấp cao, tỷ lệ nhân sự của hội đồng quản trị hoặc ủy ban thuộc hội đồng quản trị.
e) Điều 9.14: Thủ tục riêng biệt và Yêu cầu thông tin
- Nội dung: “1. Không quy định nào tại Điều 9.4 (Đối xử Quốc gia) được hiểu là cản trở một Bên ban hành hoặc duy trì biện pháp tạo ra các thủ tục riêng biệt liên quan đến đầu tư theo Hiệp định này, như yêu cầu thường trú khi đăng ký hoặc yêu cầu đầu tư theo Hiệp định này được thành lập hợp pháp theo quy định pháp luật của Bên đó, với điều kiện những thủ tục đó không ảnh hưởng đáng kể đến việc bảo hộ mà một Bên dành cho nhà đầu tư của Bên khác và đầu tư theo Hiệp định phù hợp với Chương này.”
Cho phép Chính phủ ban hành quy định nhà cung cấp dịch vụ của Bên khác đáp ứng yêu cầu thường trú khi đăng ký hoặc thành lập theo quy định của pháp luật trong nước.
Rà soát, đánh giá: Có quy định hạn chế hình thức góp vốn và số vốn góp của tổ chức nước ngoài: Nội dung này đã được bảo lưu tại Phụ lục I. Vì:
Điều 21 Nghị định 89/2013/NĐ-CP quy định về hình thức cung cấp dịch vụ thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tại Việt Nam như sau:
1. Tổ chức thẩm định giá nước ngoài được thành lập, hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá hợp pháp tại nước sở tại thì được góp vốn với doanh nghiệp thẩm định giá Việt Nam để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần để kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại Việt Nam. Tỷ lệ vốn góp của tổ chức thẩm định giá nước ngoài và người đại diện của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tham gia góp vốn thực hiện theo quy định tại Điều 18 Nghị định này.
2. Điều kiện thành lập, hoạt động và hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá có tổ chức thẩm định giá nước ngoài góp vốn thực hiện theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, Khoản 2 và Khoản 5 Điều 39, Điều 43 của Luật giá và quy định của Nghị định này.
Điều 18. Thành viên là tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần thẩm định giá (Nghị định 89/2013/NĐ-CP)
1. Thành viên là tổ chức được góp tối đa 35% vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn thẩm định giá hai thành, viên trở lên. Cổ đông sáng lập là tổ chức được góp tối đa 35% vốn điều lệ của công ty cổ phần thẩm định giá. Trường hợp có nhiều tổ chức góp vốn thì tổng số vốn góp của các tổ chức tối đa bằng 35% vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn thẩm định giá hai thành viên trở lên, công ty cổ phần thẩm định giá.
2. Người đại diện của thành viên là tổ chức quy định tại Khoản 1 Điều này phải là thẩm định viên về giá và phải đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá mà tổ chức tham gia góp vốn; đồng thời không được tham gia góp vốn vào doanh nghiệp thẩm định giá đó với tư cách cá nhân, không được là đại diện của tổ chức góp vốn thành lập doanh nghiệp thẩm định giá khác.
g) Khoản 2 và khoản 6 Điều 10.8. Quy định trong nước, Chương 10. Dịch vụ xuyên biên giới: Nội dung về điều kiện thành lập doanh nghiệp thẩm định giá và tổ chức kỳ thi thẩm định viên về giá đảm bảo phù hợp cam kết của Hiệp định TPP.
h) Chương 10 của Hiệp định về Thương mại dịch vụ xuyên biên giới: Tại Phụ lục I của Hiệp định bảo lưu quy định về dịch vụ thẩm định giá theo quy định hiện hành của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP, trong đó bảo lưu quy định tổ chức nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ thẩm định giá trường hợp phải là tổ chức được thành lập, hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá tại nước sở tại và cá nhân nước ngoài không được cung cấp dịch vụ thẩm định giá. Căn cứ nội dung tại Chương 10 quy định thương mại dịch vụ xuyên biên giới hay cung cấp dịch vụ xuyên biên giới không bao gồm việc cung cấp dịch vụ trong lãnh thổ của một Bên từ một khoản đầu tư, theo đó sẽ không có hình thức cung cấp dịch vụ qua biên giới đối với dịch vụ thẩm định giá.
i) Phụ lục I -Việt Nam - 36
- Nội dung:
“Ngành: Dịch vụ kinh doanh
Phân ngành: Định giá tài sản
Nghĩa vụ liên quan:Đối xử quốc gia (Điều 9.4)
Cấp chính phủ: Quốc gia
Biện pháp: Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 6 tháng 8 năm 2013 hướng dẫn việc thực thi một số điều của Luật về Giá thẩm định giá
Mô tả: Đầu tư
Tổ chức nước ngoài không được cung cấp dịch vụ định giá tài sản ngoại trừ:
(a) trường hợp họ là tổ chức được thành lập, hoạt động cung cấp dịch vụ định giá hợp pháp tại nước sở tại, và
(b) thông qua hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần với doanh nghiệp Việt Nam.”
Việt Nam bảo lưu quyền ban hành các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Tổ chức nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ định giá tài sản ngoại nếu họ là tổ chức được thành lập, hoạt động cung cấp dịch vụ định giá hợp pháp tại nước sở tại, và phải hợp tác với doanh nghiệp VN để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần
Cá nhân nước ngoài không được cung cấp dịch vụ định giá tài sản.
Cá nhân nước ngoài không được cung cấp dịch vụ định giá tài sản.
Rà soát, đánh giá: Phụ lục I phù hợp quy định hiện hành của Luật Giá và Nghị định 89/2013/NĐ-CP và Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá.
4. Danh mục bảo lưu của Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)
Dịch vụ thẩm định giá thuộc 03 mục cam kết nền/theo phân ngành cần rà soát:
a) Cam kết về Người quản lý doanh nghiệp:
- Loại nghĩa vụ bảo lưu: Đối xử quốc gia và Nhân sự Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị.
- Nội dung: Đối xử quốc gia và Nhân sự Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị sẽ không áp dụng đối với bất kỳ biện pháp nào liên quan đến tuyển dụng chuyên gia. Các hạn chế có thể được áp dụng đối với số lượng hay tỷ lệ, các mức lương tối thiểu, thời hạn và loại hình chuyên gia được tuyển dụng.
Các hạn chế này bao gồm nhưng không giới hạn ở: (i) Trong trường hợp người quản lý, nhân viên và chuyên gia, tối thiểu 20% tổng số người này phải là người mang quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, trong một doanh nghiệp có thể cho phép tối thiểu 3 người quản lý, nhân viên và chuyên gia không phải là người mang quốc tịch Việt Nam. (ii) Đại diện pháp lý của một doanh nghiệp có thể thường trú tại Việt Nam theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005.
b) Cam kết Cấp phép đầu tư, hình thức đầu tư, sở hữu cổ phần, thời hạn đầu tư, thủ tục đầu tư:
- Loại nghĩa vụ bảo lưu: Đối xử quốc gia, nhân sự Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị.
- Nội dung: Đối xử quốc gia và Nhân sự quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị sẽ không áp dụng đối với bất kỳ biện pháp nào liên quan tới việc thành lập, mua lại, tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc dự án có vốn đầu tư nước ngoài; bao gồm nhưng không giới hạn ở việc cấp giấy phép/giấy cho phép, hình thức pháp lý, sở hữu cổ phần, tổ chức, quản lý và thời hạn của khoản đầu tư.
Để minh họa, biện pháp này có thể bao gồm nhưng không giới hạn ở: (i) Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam phải có dự án và thực thi các thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đầu tư. (ii) Về hình thức pháp lý, nhà đầu tư nước ngoài không được thành lập hợp tác xã.
- Về quản lý, báo cáo tài chính đối với nhà đầu tư tối đa của các dự án đầu tư nước ngoài là 50 năm.
c) Cam kết Đối xử quốc gia, nhân sự Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị:
- Loại nghĩa vụ bảo lưu: Đối xử quốc gia, nhân sự Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị.
- Nội dung: Căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ và phù hợp với những nghĩa vụ tại các hiệp ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, và các điều kiện áp dụng đối với việc thành lập tổ chức kinh tế, hình thức đầu tư, và mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đầu tư trong các lĩnh vực không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện, nhưng trong quá trình hoạt động, lĩnh vực đầu tư được bổ sung vào Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư vấn được tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực đó vô điều kiện.
Vậy, đối với cam kết bảo lưu ngành, dịch vụ thẩm định giá là lĩnh vực ngành nghề cần được bổ sung vào danh mục bảo lưu do đã có Luật Giá, Luật Đầu tư và Nghị định số 89/2013/NĐ-CP, Nghị định số 12/2021/NĐ-CP quy định. Trong đó, loại nghĩa vụ bảo lưu là Đối xử quốc gia có quy định phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài (là tổ chức) về hình thức pháp lý thành lập doanh nghiệp. Về tỷ lệ góp vốn của thành viên là tổ chức không phân biệt nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước nên không cần đưa vào bảo lưu nghĩa vụ Đối xử quốc gia.
5. Hiệp định Thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA)
- Tại Điều 9 (Hiện diện tại nước sở tại): Đề nghị quy định hiện hành trong lĩnh vực thẩm định giá về việc doanh nghiệp nước ngoài muốn cung cấp dịch vụ thẩm định giá tại Việt Nam được góp vốn với doanh nghiệp thẩm định giá Việt Nam để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần để kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại Việt Nam.
Lý do: Căn cứ khoản 1 Điều 21 Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá (quy định về hình thức cung cấp dịch vụ thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tại Việt Nam) quy định: “1. Tổ chức thẩm định giá nước ngoài được thành lập, hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá hợp pháp tại nước sở tại thì được góp vốn với doanh nghiệp thẩm định giá Việt Nam để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần để kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại Việt Nam. Tỷ lệ vốn góp của tổ chức thẩm định giá nước ngoài và người đại diện của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tham gia góp vốn thực hiện theo quy định tại Điều 18 Nghị định này”.
- Tại Điều 16 (Các quy định trong nước): Đề nghị bổ sung nội dung trong lĩnh vực thẩm định giá như sau:
* Quy định về cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá:
+ Về hồ sơ xin cấp phép: Điều 14 Nghị định số 89/2013/NĐ-CP quy định doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thẩm định giá phải nộp 01 bộ hồ sơ (Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận bản gốc, các tài liệu kèm theo chấp thuận bản sao công chứng, trừ cấp lại giấy thì phải nộp bản gốc đã được cấp lần kề trước).
+ Về yêu cầu trực tiếp đến nộp hồ sơ: Doanh nghiệp nộp qua đường bưu điện hoặc trực tiếp tại Bộ Tài chính.
+ Về khả năng chấp thuận đơn cấp phép dạng điện tử: Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tài chính tại Thông báo số 131/TB-BTC ngày 07/3/2017, Cục Quản lý giá đang đăng ký triển khai Dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, dự kiến quý IV/2017 (doanh nghiệp khai báo, gửi trực tuyến các mẫu và vẫn phải nộp hồ sơ giấy khi đến nhận kết quả trực tiếp tại Cục Quản lý giá ).
+ Về phí cấp phép: Bù đắp chi phí quản lý.
* Quy định về thi cấp thẻ thẩm định viên về giá và thi sát hạch đối với người có chứng chỉ hành nghề thẩm định giá của nước ngoài:
+ Về hồ sơ đăng ký dự thi và thi sát hạch: Điều 8 Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá và Điều 5,6, 12, 13 Thông tư 46/2014/TT-BTC ngày 16/4/2014 của Bộ Tài chính quy định về việc thi, quản lý, cấp và thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá đã quy định người đăng ký dự thi phải nộp 01 bộ hồ sơ (các mẫu đơn kê khai bản gốc, các văn bằng, chứng chỉ chấp thuận bản sao công chứng).
+ Về yêu cầu trực tiếp đến nộp hồ sơ: Người dự thi nộp trực tuyến hoặc qua đường bưu điện hoặc trực tiếp tại Bộ Tài chính.
+ Về khả năng chấp thuận đơn cấp phép dạng điện tử: Hiện nay, Cục Quản lý giá đã triển khai Dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3 bắt đầu từ kỳ thi thẻ thẩm định viên về giá tháng 8/2017 (người đăng ký dự thi khai báo, gửi trực tuyến các mẫu và vẫn phải nộp hồ sơ giấy khi đến nhận kết quả trực tiếp tại Cục Quản lý giá).
+ Về lệ phí dự thi: Bù đắp chi phí quản lý.
BÁO CÁO KINH NGHIỆM QUỐC TẾ PHỤC VỤ XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT GIÁ SỬA ĐỔI
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A1412-bc-kinh-nghiem-quoc-te-ve-Luat-Gia---20221003020834.docx
Thông qua việc khảo sát, thu thập, đánh giá về công tác quản lý, điều hành giá của một số quốc gia trên thế giới cho thấy hầu hết giá cả các hàng hóa dịch vụ đều vận động theo cơ chế giá thị trường; Chỉ có một số ít giá hàng hóa dịch vụ có sự quản lý điều tiết của Nhà nước, chủ yếu là các mặt hàng quan trọng thiết yếu như giá điện, giá xăng dầu, giá khí, sản phẩm dịch vụ công ích... với nguyên tắc đầu tiên là bù đắp được các chi phí thực tế phát sinh và mức lợi nhuận phù hợp; Nhà nước sẽ không bù lỗ và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Nhà nước thực hiện công tác quản lý giá tại các mức độ nhất định thông qua các biện pháp kinh tế vĩ mô (tài chính, tiền tệ, đầu tư, xuất nhập khẩu…) cũng như chính sách pháp luật về giá.
Đến nay đã có nhiều quốc gia ban hành luật có nội dung điều chỉnh trong lĩnh vực giá như Trung Quốc ban hành Luật giá năm 1997; Thái Lan ban hành Đạo Luật cạnh tranh trong kinh doanh 1999; Hàn Quốc ban hành Luật Bình ổn giá cuối năm 1975; Austrailia ban hành Đạo Luật kiểm soát giá cả năm 1983; Malaysia ban hành Đạo luật kiểm soát giá cả năm 1946; Singapore ban hành Đạo luật Kiểm soát giá năm 1950. Một số đạo luật về giá chỉ thực hiện trong những thời điểm nhất định, tuy nhiên, đa số các đạo luật vẫn đang được thi hành cùng với những sửa đổi, bổ sung phù hợp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Các biện pháp quản lý giá thường được áp dụng tại các nước này bao gồm: định giá, hướng dẫn tính giá một số loại hàng hóa dịch vụ thiết yếu, quan trọng; thực hiện bình ổn giá như điều hòa cung cầu, kiểm soát yếu tố hình thành giá, thúc đẩy cạnh tranh, thông tin về giá; xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật về giá; áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu.
1.1. Trung Quốc
Hệ thống pháp luật về quản lý, điều hành giá tại Trung Quốc bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Luật giá của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 29/12/1997 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/5/1998; Luật giá bao gồm 7 chương và 48 điều xác định mục tiêu xây dựng Luật với một tiêu chuẩn của hành vi giá để tăng cường vai trò của giá trong việc bố trí hợp lý các nguồn lực, ổn định mức giá chung của thị trường, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và lợi ích của người tiêu dùng và các nhà sản xuất kinh doanh và sau đó là thúc đẩy sự phát triển lành mạnh nền kinh tế thị trường xã hội. Trong đó, cụ thể quy định trong từng chương: về những nguyên tắc chung; hoạt động định giá của các doanh nghiệp, hoạt động định giá của Chính phủ, kiểm soát và điều chỉnh mặt bằng giá, kiểm soát và thanh tra giá, trách nhiệm pháp lý, một số quy định bổ sung
- Một số văn bản hướng dẫn luật bao gồm: Quy định tạm thời về xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm giá cả, Quy định về cấm hành vi thổi phồng giá cả, Các biện pháp thực thi liên quan đến xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm giá cả, Các thủ tục hành chính liên quan đến xử phạt hành vi vi phạm giá cả, Quy định về vấn đề trình báo đối với các hành vi vi phạm giá cả, Quy định về niêm yết giá cả,
Tại Trung Quốc hệ thống giá có 3 loại:
+ Giá do Chính phủ quy định: Nhà nước định giá trực tiếp đối với một số hàng hoá, dịch vụ quan trọng như giá điện, giá nước sạch, giá thuốc chữa bệnh cho người, giá xe buýt, giá gas tiêu dùng và gas công nghiệp…Đối với mặt hàng giá nước sạch, các cơ quan quản lý trung ương không quy định mức giá cụ thể mà để các tỉnh tự quy định khung giá.
+ Giá chỉ đạo của Chính phủ: Nhà nước đưa ra mức giá trung bình và cho phép doanh nghiệp điều chỉnh ở mức cụ thể theo tỷ lệ quy định. Đối với giá xăng dầu: doanh nghiệp được điều chỉnh 5-8% so với giá nhà nước quy định. Đối với mặt hàng nông sản như lúa mì, lúa gạo, Nhà nước quy định giá sàn. Về cơ bản, nhà nước không có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp thu mua lương thực khi giá cả có sự biến động mà tập trung vào các chính sách khuyến khích và trợ cấp cho nông dân trồng lương thực.
+ Giá do thị trường tự điều tiết: hình thành dựa trên quan hệ cung cầu nhưng có sự giám sát của nhà nước. Giá do Chính phủ quy định và chỉ đạo hiện chỉ chiếm khoảng 5% tổng giá các hàng hoá dịch vụ cả nước, còn lại là giá do thị trường tự điều tiết.
Bình ổn giá cả thị trường là một mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô của Trung Quốc. Nhà nước căn cứ vào nhu cầu phát triển của nền kinh tế và năng lực tiếp nhận của xã hội để điều chỉnh mục tiêu và khống chế tổng mức giá cả thị trường, đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, vận dụng các biện pháp tài chính, tiền tệ, đầu tư và xuất nhập khẩu để thực hiện. Chính phủ thành lập quỹ dự trữ hàng hoá quan trọng, quỹ bình ổn giá để điều tiết giá cả, ổn định thị trường; thiết lập cơ chế giám sát giá cả và tiến hành giám sát đối với sự biến động của giá cả hàng hoá, dịch vụ quan trọng như giá gas, giá điện, giá khí đốt tự nhiên. Còn đối với các loại hàng hoá khác hầu như đã vận động theo cơ chế giá thị trường.
Khi giá mua vào của thị trường lương thực và các nông sản phẩm quan trọng quá thấp thì Chính phủ có thể tiến hành bảo hộ giá cả trong quá trình thu mua, đồng thời áp dụng những biện pháp tương ứng để đảm bảo tính khả thi.
Khi giá của những hàng hoá và dịch vụ quan trọng tăng cao rõ rệt hoặc dự báo có thể tăng cao rõ rệt, Quốc Vụ Viện và Chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương có thể áp dụng tỷ lệ giá chênh lệch hoặc tỷ lệ lợi nhuận hạn định đối với một bộ phận giá cả, quy định giá hạn định, thực hiện các biện pháp can thiệp như cơ chế thông báo tăng giá và cơ chế lập hồ sơ điều chỉnh giá. Chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương khi áp dụng những biện pháp can thiệp như đã quy định ở trên phải trình báo Quốc Vụ Viện để lưu hồ sơ.
Trong trường hợp tổng mức giá cả thị trường biến động mạnh hay những tình huống bất thường khác, Quốc Vụ Viện có thể áp dụng biện pháp quy định giá tạm thời và đưa ra những giải pháp khẩn cấp đối với một bộ phận hoặc toàn bộ giá cả tại một địa điểm nhất định hoặc trên phạm vi cả nước. Sau khi giá cả bình ổn trở lại, những biện pháp can thiệp và những giải pháp khẩn cấp này phải được tháo dỡ kịp thời.
1.2. Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, giá cả của hầu hết hàng hóa, dịch vụ được quyết định bởi các lực lượng thị trường. Chính phủ Hàn Quốc chỉ quản lý trực tiếp giá một số hàng hóa và dịch vụ công cũng như điều tiết một số mặt hàng quan trọng, thiết yếu. Nhà nước thực hiện việc điều hành giá chủ yếu thông qua các chính sách pháp luật và biện pháp kinh tế vĩ mô (nhất là chính sách tiền tệ, thúc đẩy cạnh tranh). Cơ quan Chính phủ chịu trách nhiệm chính về chính sách giá là Bộ Tài chính và Chiến lược (Cục Chính sách kinh tế - Price Policy Division). Cơ quan này quy định và hướng dẫn chung về chính sách giá; tham gia vào hội đồng chính sách tiền tệ để tham vấn điều hành lạm phát. Bên cạnh đó, các Bộ ngành khác tham gia quản lý giá trong phạm vi chức năng và ngành hàng của mình (ví dụ: Bộ Đất đai - Giao thông và Hàng hải quản lý về giá vé tàu; Bộ Kinh tế và Tri thức quản lý giá điện và gas).
Trong hệ thống cơ chế chính sách, văn bản quy phạm pháp luật cao nhất về giá hiện nay là Luật bình ổn giá (Price stabilization Act). Luật này được ban hành nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng; góp phần vào sự bình ổn và nâng cao mức sống của người dân thông qua ổn định giá cả. Cùng với Luật bình ổn giá là các nghị định quy định đã được sửa đổi bổ sung, nhiều lần bởi Tổng thống Hàn Quốc qua các năm từ 1995 đến 2016 để đảm bảo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế đất nước và định hướng phát triển nền kinh tế thị trường.
Theo quy định của Luật bình ổn giá, Bộ Tài chính và chiến lược được phép thành lập Ban Bình ổn giá – bộ phận chức năng có thẩm quyền quyết định các vấn đề liên quan đến bình ổn giá cả.
- Quy định về danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá và quy trình tính giá: Theo quy định hiện hành của Hàn Quốc, Chính phủ quyết định giá 11 loại hàng hóa, dịch vụ công, bao gồm: điện, vé đường sắt, vé xe buýt nội thành, giá dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ cáp truyền hình, dịch vụ hàng không, nước, gas, vé xe buýt tốc hành...
Riêng đối với các sản phẩm nông nghiệp, Chính phủ không quy định giá mà chủ yếu bình ổn giá cả thông qua các biện pháp vĩ mô như điều chỉnh dự trữ (ổn định nguồn cung), trợ cấp thu nhập, tăng cường hiệu quả của công tác dự báo...Đặc biệt, giá mục tiêu (target price) áp dụng cho mặt hàng lương thực được xác lập; trường hợp giá thị trường xuống thấp hơn mức giá mục tiêu đó, nhà nước sẽ tiến hành các biện pháp trợ cấp thu nhập phù hợp cho nông dân; đồng thời, thực hiện mua vào để góp phần cân đối cung – cầu trên thị trường.
- Áp dụng giá trần: Chính phủ có thể quy định giá trần đối với những hàng hóa đặc biệt quan trọng, ví dụ tiền thuê bất động sản hoặc phí dịch vụ. Những mức giá trần này có thể được quy định cho mỗi khu vực, và mỗi giai đoạn marketing (tiếp thị) như là giai đoạn sản xuất, giai đoạn bán buôn và bán lẻ.
- Niêm yết giá: Bộ trưởng có thể ra lệnh niêm yết giá hàng hóa hoặc dịch vụ đối với những người liên quan đến hoạt động sản xuất, bán hàng hoặc kinh doanh các mặt hàng, hoặc những người tham gia kinh doanh cung cấp dịch vụ.
- Bình ổn giá: Trong trường hợp giá cả tăng cao hoặc khan hiếm hàng hóa, gây ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và nền kinh tế, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp điều hòa cung cầu khẩn cấp đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, vận chuyển, dự trữ hàng hóa dịch vụ liên quan trong thời gian 5 tháng hoặc theo quy định cụ thể khác. Các biện pháp điều hòa cung cầu bao gồm:điều chỉnh kế hoạch sản xuất; tăng nguồn cung và phân phối hàng từ kho dự trữ; điều chỉnh xuất, nhập khẩu; vận chuyển, dự trữ; các biện pháp liên quan đến hệ thống marketing (đơn giản hóa quá trình marketing, cải thiện các phương tiện marketing).
Các biện pháp nói trên khi áp dụng phải có sự phê duyệt của Tổng thống Hàn Quốc.
- Quyết định về dịch vụ công cộng và phí: Bộ trưởng Bộ Tài chính và chiến lược sẽ được tham mưu khi có đề xuất về quyết định giá hoặc thay đổi giá liên quan tới phí dịch vụ công cộng. Khi đó, Bộ trưởng sẽ thành lập Hội đồng Tư vấn phí dịch vụ công cộng, để nghe tư vấn về mức phù hợp của tính toán chi phí, chi trả của người tiêu dùng, tác động đến nền kinh tế, v.v...
Nhìn chung, nền kinh tế Hàn Quốc nhất quán phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường; trong đó, nhà nước quản lý giá cả và điều hành lạm phát chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế và chính sách vĩ mô. Trừ một số hàng hóa, dịch vụ công do Chính phủ quy định, giá các mặt hàng còn lại do thị trường quyết định. Các Pháp luật về giá ở Hàn Quốc khá tương đồng với các quy định của Luật giá Việt Nam hiện tại.
1.3. Singapore:
Luật quản lý giá của Singapore (Chương 244) quy định như sau:
a) Về cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý giá: Luật quy định Bộ trưởng bổ nhiệm Kiểm soát giá trưởng và Phó kiểm soát giá trưởng, các Trợ lý Kiểm soát giá. Nhằm mục đích điều hành, Kiểm soát giá trưởng, đến lượt mình, có thể bổ nhiệm Thanh tra trưởng về giá, các thanh tra viên về giá để hỗ trợ mình thực hiện công việc. Bộ trưởng cũng có thể bổ nhiệm các Ủy ban tư vấn để tư vấn Kiểm soát giá trưởng trong việc ra quyết định về giá hoặc kiểm soát các hàng hóa cụ thể.
b) Ấn định giá hàng hóa và dịch vụ: Luật này giao quyền cho Kiểm soát trưởng về giá để khi cần thiết ra lệnh đăng tải trên Công báo để ấn định giá hoặc phí tối đa đối với bất kỳ hàng hóa hoặc dịch vụ nào.
Kiểm soát giá trưởng, được sự đồng ý trước của Bộ trưởng, có thể ra lệnh công bố trên Công báo: Quyết định các hàng hóa bị kiểm soát; Cấm việc mua hoặc bán, hoặc nhập khẩu, hoặc xuất khẩu bất kỳ mặt hàng bị kiểm soát nào nhằm mục đích bán lại hoặc xuất khẩu; Cấm hoặc kiểm soát lưu thông của mặt hàng chịu kiểm soát giữa các vùng xác định…Ngay khi lệnh được công bố trên Công báo, số Công báo sẽ được đệ trình lên Quốc hội (cơ quan lập pháp của chính phủ) ngay sau khi phát hành.
c) Về hành vi vi phạm: Luật quy định những người bán hàng, người bán tài sản không chấp hành những lệnh trên sẽ bị coi là vi phạm phạm luật trong những tình huống sau: Bất kỳ người nào kinh doanh các hàng hóa quy định giá phải trưng bày (niêm yết) danh sách giá tối đa hiện tại của các mặt hàng quy định giá mà anh ta kinh doanh; Bất kỳ người nào bán các hàng hóa quy định giá hoặc thực hiện các dịch vụ tại mức giá vượt mức giá tối đa ấn định; Bất kỳ người nào thực hiện kinh doanh trong thời điểm những mặt hàng quy định giá thường được bán và từ chối bán những hàng hóa này với một số lượng hợp lý.
d) Kiểm tra, thanh tra giá: Kiểm soát trưởng về giá hoặc những người được Kiểm soát trưởng về giá ủy quyền được phép: Vào và khám xét bất kỳ nơi nào trong phạm vi kiểm soát của người buôn bán, nhà máy, người sản xuất… Kiểm tra bất kỳ sổ sách, tài khoản hoặc các tài liệu liên quan đến việc mua bán, kinh doanh của người buôn bán, nhà máy, người sản xuất…Yêu cầu bất kỳ người buôn bán, nhà máy, người sản xuất, đại lý ủy quyền, … cung cấp thông tin bằng lời nói hoặc văn bản liên quan tới việc buôn bán hoặc kinh doanh của mình; Yêu cầu bất kỳ người buôn bán, nhà máy, người sản xuất, đại lý ủy quyền… đưa ra hàng mẫu của những mặt hàng đang kinh doanh.
Thanh tra viên về giá, cảnh sát viên hoặc cán bộ hải quan nếu được Kiểm soát trưởng về giá ủy quyền bằng văn bản có thể: Bắt giữ mà không cần lệnh những người bị tình nghi là vi phạm Luật này. Thu giữ hàng hóa bị coi là cần giữ làm chứng cớ cấu thành tội danh. Bất kỳ ai cản trở những người được Luật này trao quyền thực hiện việc khám xét bất kì địa điểm nảo hoặc các sổ sách, tài khoản hoặc tài liệu khác… sẽ bị coi là có hành vi vi phạm pháp luật.
e) Xử lý vi phạm: Luật này quy định xử phạt trong trường hợp cấu thành tội danh như sau:
- Những người bao gồm cả giám đốc hoặc lãnh đạo công ty có hành vi vi phạm pháp luật theo Luật này sẽ phải chịu khoản phạt không quá 2.000 đô la, hoặc bị tù giam không quá 2 năm, hoặc chịu cả hai hình phạt trên; và trong trường hợp tái phạm thì mức phạt không quá 20.000 đô la, hoặc không quá 5 năm tù giam, hoặc cả hai hình phạt.
- Những tổ chức kinh doanh vi phạm Luật này sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với việc bị xử phạt một khoản không quá 10.000 đô la, và trong trường hợp tái phạm, khoản phạt sẽ không quá 20.000 đô la.
Bộ trưởng có thể đôi khi đưa ra các quy định để thực thi các điều khoản của Luật này như sau: Yêu cầu giữ sổ kế toán và các bản ghi dữ liệu liên quan tới bất kỳ vụ việc kinh doanh, buôn bán nào trong thời gian các mặt hàng bị quy định giá hoặc bị kiểm soát giá được đem bán; Quy định cách những sổ sách hoặc bản ghi này sẽ bị loại bỏ hoặc bảo quản; Quy định những hóa đơn cần cấp cho người mua bởi người bán các hàng hóa quy định giá hoặc kiểm soát giá; Quy định nhãn, dấu cần dán, gắn với hàng quy định giá hoặc kiểm soát giá, v.v…
f. Đạo luật kiểm soát giá của Singapore được ban hành vào năm 1950 để hạn chế trục lợi và đến thời điểm này vẫn được áp dụng. Trong lịch sử (tính từ năm 1950 đến 2017), đạo luật này được sử dụng 2 lần đó là vào năm 1973 để đối phó với việc mua gạo hoảng loạn liên quan đến cuộc khủng hoảng dầu mỏ quốc tế và năm 1990 do sự tập trung của thị trường thịt lợn.
Theo đó, đạo luật này đã được áp dụng rất hiệu quả. Và một lần nữa, đạo luật này đã được áp dụng một cách phù hợp, hiệu quả tại thời điểm tháng 2/2020, khi đại dịch Covid-19 xảy ra làm cho nhu cầu về mặt nạ phẫu thuật và các vật dụng y tế khác tăng cao. Một số nhà bán lẻ đã coi sự bùng phát là một cơ hội để kiếm lời. Bộ Thương mại và Công nghiệp (The Ministry of Trade and Industry – MTI) đã dựa theo thẩm quyền tại Đạo luật kiểm soát giá để yêu cầu một số nhà bán lẻ giải thích về cơ sở giá bán, chi phí và tỷ suất lợi nhuận đồng thời gửi thư tới cho các nhà bán lẻ để nhắc nhở sau những khiếu nại từ công chúng về mặt nạ được bán giá cao từ họ.
Tuy mặt hàng mặt nạ phẫu thuật không thuộc danh mục do Nhà nước kiểm soát giá, nhưng dựa và điều khoản cho phép yêu cầu giải thích khi có sự biến động bất thường về giá đã giúp cho việc kiểm soát giá mặt hàng này tại Singapore.
Đối với hầu hết các quốc gia khác, hệ thống pháp luật về giá sẽ được xây dựng đối với từng mặt hàng cụ thể; tùy thuộc vào nhu cầu quản lý giá các mặt hàng của các nước đó.
2.1. Nhật Bản
Tại Nhật Bản, giá cả hàng hóa, dịch vụ vận động theo cơ chế giá thị trường. Đối với một số ít giá hàng hóa Nhà nước quy định (điện, khí thiên nhiên – chủ yếu là LNG,...), nguyên tắc đầu tiên là bù đắp được các chi phí thực tế hợp lý phát sinh và mức lợi nhuận phù hợp; Nhật Bản không bù lỗ và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với các mặt hàng Nhà nước phê duyệt giá (điện, LNG), cơ cấu giá chủ yếu gồm hai thành phần chính: thành phần giá cố định và thành phần thay đổi do biến động giá nhiên liệu. Theo đó, thành phần giá cố định được Nhà nước (METI) phê duyệt trên cơ sở tổng chi phí sản xuất kinh doanh và lợi nhuận hợp lý (kết hợp tham khảo chi phí thực tế hợp lý các năm trước, dự kiến kế hoạch cung ứng – vận hành các năm tiếp theo và các yếu tố khác); thành phần giá thứ hai được tự động tính toán và cập nhật bằng hệ thống Fuel Cost Adjustment System. Cơ sở tính toán, hướng dẫn tính tổng chi phí thay đổi do mức giá thay đổi được hầu hết các doanh nghiệp công khai trên website.
Nhật Bản không có cơ chế hỗ trợ cho các đối tượng chính sách qua giá. Thay vào đó, quốc gia này thực hiện chính sách an sinh xã hội thông qua các quỹ phúc lợi; đồng thời, hỗ trợ người tiêu dùng bằng hệ thống cơ sở dữ liệu về giá; công khai, minh bạch chính sách điều hành.
Tại Nhật Bản, cơ quan có thẩm quyền rà soát, phê duyệt giá điện là METI. Tương tự như Việt Nam, Bộ được giao chức năng quản lý nhà nước về giá điện có trách nhiệm tổng hợp, thẩm định và phê duyệt. Tuy nhiên, thay vì xin ý kiến Bộ Tài chính, METI phải lấy ý kiến rộng rãi (tổ chức hội thảo, gửi văn bản xin ý kiến,...) về phương án giá điện. Mặt khác, METI có quyền phê duyệt mà không phải xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ.
Nếu như tại Việt Nam, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính chỉ thẩm định phương án giá điện của 01 đơn vị là EVN; giá điện sẽ áp dụng chung cho cả nước (united tariff), thì tại Nhật Bản, việc phê duyệt giá điện tại Nhật Bản được áp dụng cho từng Tổng công ty điện lực; mức điều chỉnh và thời gian điều chỉnh không nhất thiết phải bằng hoặc trùng nhau.
Nhật Bản không quy định giá bán xăng, dầu; giá các sản phẩm này do các yếu tố thị trường quyết định. Trong trường hợp khẩn cấp, Nhà nước có thể áp dụng những biện pháp nhất định theo quy định tại Luật Điều chỉnh cung cầu xăng dầu (Petrolium Supply and Demand Adjustment Act), Luật các biện pháp khẩn cấp để ổn định đời sống (Act on Emergency Measures for Stabilization of National Life).
Giá thuốc tại Nhật Bản: Ở Nhật Bản đã có một cuộc cải cách giá thuốc mới đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân và thị trường thuốc tại Nhật. Giá của một loại thuốc theo toa tại Nhật Bản được Chính phủ xác định theo cách thống nhất bất kể là thuốc mới hay thuốc hiện có.
Khi một tổ chức y tế được ủy quyền hoặc nhà thuốc hoạt động theo chương trình bảo hiểm y tế đưa ra yêu cầu bảo hiểm, phí thuốc sẽ được tính dựa về giá quy định trong Tiêu chuẩn giá thuốc Bảo hiểm y tế quốc gia (NHI). Tiêu chuẩn giá thuốc NHI quy định số lượng thuốc có thể yêu cầu được sử dụng trong chăm sóc sức khỏe không được bảo hiểm và có chức năng như một bảng giá. Giá thuốc là giá chính thức cho Bảo hiểm y tế và là một mức thống nhất trên toàn quốc. Tại Nhật Bản, việc xác định giá thuốc này được gọi là việc niêm yết theo tiêu chuẩn định giá thuốc. Sau khi có sự chấp thuận sản xuất của một loại thuốc theo toa, giá thuốc kê đơn cho bệnh nhân của một đơn vị y tế được xác định trong 2 đến 3 tháng theo nguyên tắc 70% giá sẽ do Bảo hiểm y tế chịu còn 30% còn lại do bệnh nhân chịu. Sau khi thuốc xuất hiện trên thị trường, các cơ chế thị trường được sử dụng mà không phân biệt thuốc gốc và được điều chỉnh cứ sau 2 năm.
2.2. Mỹ
Tại Mỹ, giá các hàng hóa, dịch vụ hầu hết đã vận động theo cơ chế giá thị trường ngoại trừ một số mặt hàng như điện, giá khí đốt tự nhiên, xăng dầu,… vẫn có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước nhưng cũng đang dần dần được tự do hóa.
Mặt hàng khí tự nhiên: Trong giai đoạn đầu của ngành công nghiệp khí đốt của Mỹ, giá cả không được quy định. Điều này đã thay đổi với Đạo luật về khí đốt tự nhiên năm 1938 bắt đầu đưa ra quy định, đặc biệt là về giá gas. Bốn thập kỷ tiếp theo cho đến năm 1978 chứng kiến sự tăng trưởng lũy tiến của việc giám sát giá khí. Quyết định Phillips của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ năm 1954 dẫn đến một quy định về giá cả kéo dài đến năm 1978.
Tự do hóa đã thay đổi cấu trúc của ngành công nghiệp khí đốt của Mỹ. Trước đây, quy định mạnh được áp dụng đến các giai đoạn khác nhau, từ sản xuất đến truyền tải đến phân phối, và lâu dài hợp đồng giữa các nhà sản xuất, các công ty đường ống liên bang và các công ty phân phối.
Tự do hóa bắt đầu từ năm 1985 đã dẫn đến việc tạo ra thị trường gas bán buôn cạnh tranh và một loại hình công ty mới xuất hiện - nhà tiếp thị gas, đó là mối liên kết giữa các nhà sản xuất ở một bên và các công ty phân phối cũng như phần lớn người tiêu dùng ở phía bên kia. Tự do hóa tiếp thị gas và giá gas bán buôn thu hút nhiều công ty mới và tạo ra sự cạnh tranh giữa các công ty tiếp thị và khí đốt nhà sản xuất, làm tăng áp lực lên giá khí bán buôn. Hiện tại, giá gas được thiết lập theo số dư cung / cầu nhưng vẫn phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường dầu mỏ.
Mặt hàng điện: Giá điện tại Mỹ đang được thực hiện trên mô hình kiểm soát độc quyền kết hợp với mô hình cạnh tranh trong điều tiết giá điện tại Mỹ.
- Cơ chế điều tiết giá điện tại Mỹ
Thị trường điện năng của Mỹ hiện nay được hình thành theo một cơ chế phức hợp với các quy định, luật lệ, công nghệ đan xen với 2 mô hình chủ yếu là Mô hình kiểm soát độc quyền (chính quyền một số bang quản lý các công ty cung cấp điện theo ngành dọc và điều tiết giá điện) và Mô hình cạnh tranh (các nhà sản xuất điện có thể tiếp cận với hạ tầng truyền tải điện và tự do tham gia vào thị trường bán buôn điện -> giá điện được hình thành theo cơ chế thị trường – thị trường điện cạnh tranh hiện cung cấp điện cho 2/3 khách hàng tại Mỹ)
- Cơ chế hình thành giá điện bán buôn và bán lẻ
+ Mức giá điện bán buôn được giám sát bởi Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang (FERC) trong đó quy định nguyên tắc hình thành mức giá bán buôn điện cho các giao dịch liên bang cần phải ở mức hợp lý và không có sự phân biệt đối xử không chính đáng. Trong một số trường hợp khi thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, FERC có thể thẩm định phương án giá điện được xây dựng theo phương pháp thị trường theo đề nghị của đơn vị điện năng tại một địa điểm nhất định. Đồng thời, FERC có thể phê duyệt mức giá và điều kiện bán điện thông qua phương pháp chi phí nhưng chỉ áp dụng trong trường hợp đặc biệt do phương pháp chi phí ít thông dụng hơn phương án giá thị trường. Ngoài ra, FERC còn quản lý giá điện của 4 công ty tiếp thị điện liên bang (PMAs) vận hành hệ thống điện và tiếp thị, bán lượng điện được sản xuất từ các đập thủy điện sở hữu bởi chính quyền liên bang tại 33 bang.
+ Mức giá điện bán lẻ tại một số bang do Hội đồng dịch vụ công của bang hoặc các chính quyền địa phương phê duyệt trên cơ sở mức giá đăng kí của các công ty điện. Quy trình xét duyệt giá điện như sau: đơn vị bán điện đăng kí một mức giá thay đổi lên Hội đồng dịch vụ công, trên cơ sở đó Hội có thể chấp thuận, từ chối hoặc tổ chức một cuộc họp điều trần. Chính quyền cũng quy định giá điện nếu thay đổi trong phạm vi nhỏ sẽ được tự động áp dụng mà không cần phải có thẩm định của các nhà quản lý.
- Tại một số bang của Mỹ có quy định chế tài mạnh đối với hành vi nâng giá cơ hội khi xảy ra thiên tai, thảm họa xảy ra và chính quyền ban bố tình trạng khẩn cấp.
Tại Mỹ, khi thiên tai hoặc thảm họa ập tới, nếu người bán hàng lợi dụng nhu cầu tăng đột biến (thường đi cùng khan hiếm về nguồn hàng) và ra giá quá cao cho mặt hàng nhu yếu phẩm, sẽ bị coi là "nâng giá cơ hội". Hành vi tăng giá "vô lương tâm" từ 10% với hàng hóa là nhu yếu phẩm khi tình trạng khẩn cấp được tổng thống ban bố sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù.
Tại 34 trên tổng số 51 bang và đặc khu, hành vi nâng giá cơ hội khi chính quyền ban bố tình trạng khẩn cấp bị pháp luật coi là vi phạm Luật chống hành vi thương mại bất công hoặc lừa dối. Mức xử lý có thể là phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Mức giá "quá cao" hoặc "vô lương tâm" thường được xác định bằng cách so sánh mức giá trung bình tại vùng bị ảnh hưởng với mức giá trong khoảng thời gian nhất định trước khi tình trạng khẩn cấp được ban bố. Nếu giá hiện tại cao hơn 10-15% (một số bang có mức trần cao hơn), người bán sẽ bị coi là có hành vi nâng giá cơ hội.
Ví dụ, điều 50-6,106 của luật chung bang Kansas quy định người cung cấp "hàng hóa hoặc dịch vụ thiết yếu" với giá bán cao hơn 25% so với giá trước khi tình trạng khẩn cấp được ban bố có thể bị phạt 10.000 USD với mỗi lần vi phạm. Trong đó, "tình trạng khẩn cấp" được hiểu là khoảng thời gian được quyết định dựa trên công bố của tổng thống hoặc thống đốc bang khi có thảm họa hoặc thiên tai như bão, lốc xoáy, động đất, bạo loạn, hoặc các tình thế cực kỳ nguy hiểm khác. Mức phạt sẽ được tăng lên thành 20.000 USD nếu nạn nhân là người cao tuổi. Ngoài ra, hành vi rao bán nhu yếu phẩm với giá cao không cần phải đi kèm giao dịch thực tế mới bị coi là vi phạm.
Tại bang Florida, điều 501.160 thuộc Bộ quy định quản lý thương mại, kinh doanh, và đầu tư xác định "nhu yếu phẩm" là những mặt hàng như nước uống, thức ăn, hóa chất, xăng dầu, gỗ, chỗ ở... Người nào có hành vi bán nhu yếu phẩm với mức giá "vô lương tâm" (lớn hơn nhiều so với giá trung bình trong 30 ngày trước tình trạng khẩn cấp) có thể bị phạt 1.000 USD và 60 ngày tù giam. Nếu vi phạm nhiều lần trong một ngày, mức phạt tăng lên 25.000 USD.
Trong các bang có luật chống nâng giá cơ hội, Oklahoma và Louisiana là hai bang có mức phạt nặng nhất. Người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt lên tới 10 năm tù, nếu hành vi nâng giá cơ hội gây hậu quả nghiêm trọng (như có người chết).
Tuy nhiên, không phải việc tăng giá nào cũng bị coi là nâng giá cơ hội. Nếu chủ hàng chứng minh được do chi phí đầu vào tăng, hoặc phải tính thêm chi phí trả cho nhân viên (như lương ngoài giờ, thuê thêm nhân viên, đảm bảo an ninh,...) và chi phí vận chuyển vì tình trạng khẩn cấp (ví dụ, hàng hóa phải được vận chuyển bằng trực thăng) thì sẽ được xem xét.
2.3. Peru
Giá mặt hàng nông sản: Một hệ thống phạm vi giá nông nghiệp (PRS) nhằm mục đích ổn định giá nội địa trong một nền kinh tế mở thông qua việc sử dụng thuế nhập khẩu thay đổi theo giá quốc tế đang được áp dụng tại Peru.
PRS cung cấp một cơ chế để chính phủ áp đặt một nghĩa vụ bổ sung để hỗ trợ nông dân trong nước. Nó bao gồm 45 sản phẩm nông nghiệp, được chia thành bốn loại chung: sữa, ngô vàng, gạo và đường. PRS hoạt động như sau:
- Trong mỗi danh mục, có một dòng thuế được chỉ định là sản phẩm đánh dấu và tất cả những sản phẩm khác được chỉ định là các sản phẩm liên kết với nhau.
- Giá sàn và trần được xác định cho từng sản phẩm đánh dấu trên cơ sở giá fob trung bình hàng tháng (cước vận chuyển trên tàu) trong 60 tháng qua trên thị trường tham chiếu quốc tế cho sản phẩm đánh dấu đó. Giá này đã được cập nhật nửa năm và chuyển đổi sang sàn và trần giá cif (chi phí, bảo hiểm và vận chuyển hàng hóa)
- Ngoài ra, giá tham chiếu được tính hai tuần một lần, phản ánh giá thị trường quốc tế trung bình cho sản phẩm.
- Giá tham chiếu sau đó được so sánh với giá sàn và giá trần để xác định liệu có nên đánh thuế bổ sung biến đổi hay không.
PRS của Peru đóng vai trò là một ví dụ điển hình của một quốc gia đang phát triển và Chính phủ sử dụng một công cụ để bảo vệ chống lại biến động giá không mong muốn gắn liền với tự do hóa thương mại nông nghiệp tăng lên. Bộ Kinh tế và Tài chính của Peru lưu ý rằng PRS nhằm bảo vệ cả người sản xuất và người tiêu dùng trong nước, thông qua việc thiết lập giá sàn và trần để tính thuế bổ sung thay đổi hoặc giảm thuế, khi cần thiết, để thực hiện các mục tiêu ổn định và cạnh tranh khác nhau của nó.
2.4. Nauy
Về cơ bản, Na Uy thực hiện theo cơ chế thị trường, các mặt hàng, dịch vụ đều được thị trường tự điều tiết và định giá theo quan hệ cung cầu. Tuy nhiên, nhà nước vẫn thực hiện điều chỉnh giá đối với một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, quan trọng như: y tế, nông nghiệp, ngư nghiệp, viễn thông, giáo dục, sách vở văn hóa, tài liệu chuyên ngành. Trách nhiệm về việc điều chỉnh giá, quyết định giá mỗi mặt hàng tại các Bộ chuyên ngành. Đối với các mặt hàng sản xuất, về cơ bản cơ chế quản lý giá tại Na Uy được thực hiện trên cơ sở Nhà nước kiểm soát nguồn cung và mức giá thu mua của người sản xuất. Đối với mức giá bán ra thị trường được điều tiết thông qua thuế và quan hệ cung cầu thị trường. Cụ thể đối với một số lĩnh vực như sau:
a) Trong lĩnh vực Y tế: Toàn bộ dịch vụ y tế, khám chữa bệnh tại các bệnh viên công tại Na Uy được miễn phí dành cho người dân, Bộ Y tế chỉ định giá đối với giá thuốc chữa bệnh được kê theo toa của bác sĩ. Giá cả của việc đến khám hoặc chữa bệnh của bác sĩ gia đình sẽ được thương lượng (hiệp thương giá) giữa Bộ Y tế, Hội đồng bác sĩ và chính quyền địa phương. Khi đã có sự thương lượng thì mức giá này sẽ được ấn định trong một văn bản quy phạm pháp luật. Từ trước đến nay, chưa bao giờ có tình huống các bên không thương lượng được mức giá này.
b) Giá dịch vụ giáo dục: Việc học tại các trường công, giáo dục phổ thông tại Na Uy là miễn phí cho tất cả các công dân Na Uy. Chỉ có các trường đại học tư nhân mới thu học phí và đưa ra mức giá theo sự ấn định của các trường đó.
Nhà nước chỉ quy định mức giá tối đa đối với dịch vụ giáo dục mầm non, nhà trẻ. Cả nhà trẻ công và tư nhân đều được nhận trợ cấp của nhà nước nên nhà nước quy định mức giá tối đa được thu tại tất cả các cơ sở. Mức giá tối đa này cũng sẽ được xem xét, điều chỉnh thông qua mức gia tăng lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng) hàng năm. Mức trợ cấp của nhà nước được trích từ ngân sách hàng năm cho tất cả các đơn vị công hoặc tư và do Bộ Giáo dục trình Quốc hội ấn định.
c) Trong lĩnh vực dầu mỏ và năng lượng:
- Dầu mỏ và gas chiếm tỉ trọng lớn nhất trong xuất khẩu của Na Uy, hiện nay, ngành này chiếm trên 50% tổng giá trị xuất khẩu của Na Uy. Nhà nước kiểm soát các nguồn tài nguyên dầu mỏ trên cơ sở sở hữu nhà nước với các công ty khai thác chính tại các giếng dầu Na Uy. Đồng thời, Chính phủ Na Uy đưa các khoản thu (từ thuế, cổ tức, cấp phép, bán hàng) đối với mặt hàng dầu mỏ vào “Quỹ tài sản quốc gia”. Quỹ này nhằm mục đích hỗ trợ cho phúc lợi xã hội, quỹ hưu trí, các chương trình giáo dục, đầu tư cơ sở hạ tầng và được phát triển thêm bằng các nguồn thu từ dầu mỏ hàng năm và đầu tư vào các thị trường tài chính phát triển bên ngoài Na Uy.
Tuy nhiên, đối với giá xăng dầu thành phẩm trong nước, Na Uy không thực hiện bất kì biện pháp trợ giá, bình ổn giá nào.
Đối với ngành điện, Nhà nước làm chủ các công ty điện lực và truyền tải điện. Giá điện do Cục Điện lực ấn định và Nhà nước cũng đưa ra các chính sách để giá điện ổn định trong một thời gian dài.
d) Đối với giá sữa: Giá sữa được bán trên thị trường cơ bản theo quy luật cung cầu thị trường; Nhà nước chỉ thực hiện quản lý giá sữa thông qua việc quản lý nguồn cung sữa. Giá thu mua sữa của người nông dân sẽ được ấn định hàng năm dựa trên cơ sở hiệp thương giữa Bộ nông nghiệp và Hội nông dân.
Các sản phẩm nông nghiệp khác: Giá cả các sản phẩm nông nghiệp khác khi thu mua từ người nông dân cũng cơ bản được ấn định thông qua thỏa thuận giữa các người mua, Sở nông nghiệp trên cơ sở điều tiết thị trường về sản xuất. Còn giá bán ra thị trường đến tay người tiêu dùng sẽ theo quy luật cung cầu thị trường.
a) Giá bán lẻ xăng dầu ở Braxin thực hiện theo cơ chế thị trường và được quyết định bởi nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ, trong cơ cấu giá sẽ có thuế bang và liên bang.
Chính phủ không can thiệp vào quá trình hình thành giá, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tự xây dựng giá bán của mình. Chính phủ chỉ tham gia vào việc đảm bảo môi trường minh bạch và cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Văn phòng Quốc gia về Dầu, khí gas (ANP) giám sát việc liên kết, thao túng thị trường, giám sát yếu tố ảnh hưởng đến giá từ sản xuất đến người tiêu dùng.
Tuy nhiên, Braxin vẫn duy trì cơ chế bình ổn giá xăng thông qua Hội đồng Quản trị (có sự tham gia của Chính phủ) tại doanh nghiệp Nhà nước (Petrobras). Theo đó, Petrobras theo dõi biến động giá xăng dầu trong nước và thế giới hàng ngày nhằm duy trì mức giá ổn định giá bán xăng mặc dù giá nhập khẩu biến động. Đồng thời, hàng tháng, Hội đồng quản trị họp để xem xét việc điều chỉnh giá để phù hợp với tình hình kinh tế.
Bên cạnh đó, Chính phủ còn sử dụng một số biện pháp gián tiếp khác để điều tiết giá như: Quy định % Ethanol trong xăng (hiện nay là 25%); Điều chỉnh mức thuế Bang và liên Bang; Sử dụng kho dự trữ nhiên liệu. Công bố giá bình quân nhiên liệu theo ngày trên trang điện tử của Bộ Mỏ và Năng lượng là cơ quan hoạch định chính sách đối với các vấn đề liên quan đến Dầu mỏ, Khí gas và Văn phòng Quốc gia về Dầu, khí gas (ANP) chịu trách nhiệm triển khai, giám sát các chính sách này.
b) Đối với mặt hàng điện, Tại Brazil xuất hiện hiện tượng độc quyền tự nhiên trong truyền tải và phân phối điện. Tuy nhiên cũng có sự cạnh tranh nhất định trong giá điện khi Chính phủ xây dựng các đường truyền tải mới (cho phép các doanh nghiệp tư nhân tham gia). Thị trường điện được chia làm 02 mảng thị trường : Thị trường được điều tiết-ACR (chiếm 75% nhu cầu điện) và thị trường tự do-ACL (chiếm 25% thị phần). Thị trường có điều tiết tập trung các nhà phân phối điện và người tiêu thụ điện cố định (Hợp đồng dài hạn). Đối với thị trường tự do có sự tham gia các doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp nhà nước. Tại thị trường này, người mua và bán ký hợp đồng ngắn hạn, giá do 02 bên tự đàm phán. Văn phòng quốc gia về Năng lượng Điện (ANEEL) là cơ quan chịu trách nhiệm chính về điều tiết, đảm bảo chất lượng điện cũng như quy định giá cuối cùng cho người tiêu dùng
Năm 2003, Chính phủ Brazil tiến hành cải cách mô hình mới trong lĩnh vực điện. Mô hình này phải đảm bảo các yếu tố: Bình ổn về giá điện; Đảm bảo an ninh năng lượng điện; Hoạch định, nghiên cứu thị trường; Hợp đồng dài hạn đã ký; Điều tiết thị trường.
Sau đó, Chính phủ sẽ thực hiện đấu thầu Điện (đấu thầu nguồn điện có sẵn, nguồn năng lượng mới, thay thế..). Bộ Mỏ và Năng lượng đưa ra quy định về đấu thầu (quy định về nguồn điện) và ANEEL cũng tham gia vào quá trình này. Các doanh nghiệp tham gia đấu thầu sẽ gửi đề xuất lên Bộ Mỏ và Năng lượng để xem xét. Thông qua đấu thầu nhằm đảm bảo cạnh tranh để đạt mức giá tối ưu nhất cho người tiêu dùng (chiếm 75% thị phần). Ngoài ra, người tiêu dùng cũng có thể tiếp cận với giá điện tốt nhất thông qua hợp đồng ngắn hạn tại thị trường tự do.
Cơ cấu giá điện gồm 02 phần: Phần chi phí A là chi phí cố định và Phần chi phí B là chi phí biến đổi của doanh nghiệp, chi phí này bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình phân phối. ANEEL chỉ căn cứ vào phần chi phí trong trong quá trình phân phối để xem xét điều chỉnh giá. Trong trường hợp các yếu tố chi phí cấu thành nên Phần B giảm thì ANEEL có thế yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh giảm giá điện. Sau 4 năm, ANEEL có thể xem xét để điều chỉnh Phần chi phí B để điều chỉnh giá điện (lạm phát, mất giá đồng tiền...). Bên cạnh việc xem xét điều chỉnh Phần chi phí B, ANEEL còn đánh giá các nhà phân phối điện đang thực hiện có hiệu quả không.
Quỹ phát triển năng lượng (CDE): Đây là Quỹ của Chính phủ hỗ trợ giá điện trực tiếp cho các hộ nông nghiệp, năng lượng tái sinh và người có thu nhập thấp; nghiên cứu khoa học; cung cấp nguồn lực để duy trì hoạt động của các Văn phòng Quốc gia ANEEL,... Nguồn Quỹ CDE được hình thành từ: (i) nguồn ngân sách nhà nước, (ii) thu từ giá điện và (iii) nguồn từ việc thu tiền phạt của ANEEL (tuy nhiên nguồn này rất nhỏ, không đáng kể).
c) Đối với dịch vụ khám chữa bệnh, Braxin thực hiện phổ cập y tế, rất nhiều bệnh viện công được mở ra. Chi phí hoạt động của các bệnh viện này lấy từ nguồn ngân sách. Người dân được miễn phí các dịch vụ của bệnh viện. Song song với việc phổ cập y tế, Chính phủ xây dựng 02 hệ thống phụ trợ đó là hệ thống y tế phụ trợ và hệ thống bảo hiểm y tế nhằm hỗ trợ việc phát triển không đồng đều của hệ thống y tế. Về vấn đề bảo hiểm, Chính phủ tập trung kiểm soát giá bảo hiểm cá nhân, tránh liên kết độc quyền.
Sau một thời gian thực hiện việc kiểm soát giá, để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xuất do hạn chế của việc kiểm soát giá gây ra, Chính phủ Niu di-lân đã xóa bỏ Luật kiểm soát giá và cho đến hiện nay việc quản lý giá của Chính phủ vẫn được duy trì một phần ở các mức độ khác nhau tại các luật chuyên ngành và chủ yếu sử dụng pháp luật về cạnh tranh. Hiện nay, Niu di-lân thực hiện cơ chế giá thị trường, Nhà nước chỉ kiểm soát một số giá như: điện, khí đốt, viễn thông, các dịch vụ lớn ở sân bay; các loại thuốc thiết yếu mua theo đơn bác sĩ, thuốc trợ cấp của Nhà nước. Đối với sản phẩm nông nghiệp, chỉ quản lý giá sữa nguyên liệu đối với khối lượng 5% tổng sản lượng khi công ty cung ứng bán cho các nhà máy chế biến… Đồng thời, Chính phủ có các văn bản hướng dẫn quy trình xác định giá, phương pháp tính giá cho các doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp và người kinh doanh đều phải công khai mức giá của mình bằng cách này hay cách khác (chủ yếu là thực hiện niêm yết giá). Năm 1996, Niu di-lân ban hành các luật chuyên ngành để điều tiết và kiểm soát giá đối với một số hàng hoá, dịch vụ do Chính phủ định giá, cụ thể: Luật Bưu chính, viễn thông; Luật điện; Luật Khí đốt. Các cơ quan tham gia vào việc điều tiết giá, cạnh tranh là Bộ Phát triển kinh tế, Bộ Thương mại, Uỷ ban Thương mại, Toà án tối cao (cơ quan độc lập với Chính phủ) là cơ quan phán xét các hành vi vi phạm về giá, cạnh tranh; xử lý khiếu nại khi các đối tượng bị xử lý không đồng ý với xử lý của Uỷ ban thương mại.
Như vậy, với cơ chế kinh tế thị trường hiện nay mà Niu di-lân theo đuổi là không có cơ quan điều tiết, kiểm soát giá cả độc lập; việc điều tiết, kiểm soát giá cả do các Bộ chuyên ngành đảm nhiệm theo các quy định của pháp luật thương mại và pháp luật chuyên ngành. Ở Niu di-lân có Bộ Người tiêu dùng; Bộ này có chức năng bảo vệ người tiêu dùng.
Điển hình như cơ chế giá điện: Giá điện do Ủy ban điện lực và Ủy ban thương mại điều tiết thống nhất trong cả nước đối với giá truyền tải điện, giá phân phối còn giá phát điện và giá bán lẻ là giá cạnh tranh. Cả nước tổ chức một công ty truyền tải điện thuộc sở hữu nhà nước hoạt động theo hợp đồng với Ủy ban điện lực, 29 doanh nghiệp phân phối chịu sự điều tiết của Ủy ban điện lực và Ủy ban thương mại. Do chỉ có một công ty truyền tải nên cân bằng được giữa vùng gần, vùng xa. Điện ở Niu di-lân có cơ cấu nguồn gồm 60% là thủy điện, còn lại là nguồn khác (trong đó khí là chính). Do có cạnh tranh nên giá bán lẻ điện có khác nhau, giá có quy định theo giờ cao điểm và giờ thấp điểm, nhưng không quy định theo hình thức giá lũy tiến. Đối với mức giá Nhà nước kiểm soát: Nhà nước quy định giá khởi điểm trong vòng 5 năm và quy định tỷ lệ thay đổi giá trong 5 năm đó; doanh nghiệp căn cứ vào đó để quy định giá bán lẻ cho người tiêu dùng.
2.7. Úc
Qua khảo sát, thể chế pháp luật về giá được quy định lồng ghép với các quy định về bảo vệ người tiêu dùng tại đạo Luật Cạnh tranh và Tiêu dùng 2010 (Phần VIIA – Giám sát giá cả). Theo đó, đối với Chính phủ Australia, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng là ưu tiên tiên quyết, các vấn đề về giá cả được thực hiện theo nguyên tắc thị trường tự do; do đó, phạm vi các quy định giám sát về giá khá tại Luật khá hạn chế.
Tại phần VIIA đạo luật Cạnh tranh và tiêu dùng quy định cơ quan chịu trách nhiệm thống nhất các nội dung giám sát giá của nhà nước là ACCC (Australia Competition & Consumer Comission - Ủy ban về cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng). Đây cũng là một điểm đặc biệt so với mô hình quản lý giá tại Việt Nam khi hiện nay chức năng về quản lý giá được phân công, phân cấp cho nhiều Bộ, ngành, đơn vị theo lĩnh vực quản lý ngành hàng; tuy nhiên điều này cũng xuất phát từ quan điểm về ưu tiên thực hiện các vấn đề giá cả theo quy luật kinh tế thị trường.
Theo đó tại Luật, ACCC có chức năng thực hiện các biện pháp giám sát về giá gồm:
- Khảo sát về giá cả: ACCC tổ chức các cuộc khảo sát (điều tra) về giá theo yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Ngân khố và cung cấp cho Bộ trưởng báo cáo về kết quả của mỗi cuộc điều tra về giá.
- Thông báo giá: ACCC được quyền xem xét về việc thay đổi giá bán của một số hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền hoặc thuộc lĩnh vực hạ tầng (dùng chung hoặc độc quyền). Theo đó, các đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ phải gửi “thông báo giá” cho ACCC để đề nghị xem xét cho phép tăng giá; Trên cơ sở xem xét các yếu tố chi phí, giá thành, ACCC có quyền cho phép tăng giá hoặc không. Đây cũng là một trong những biện pháp giám sát giá chủ yếu của ACCC.
- Giám sát về giá cả chung: ACCC có trách nhiệm theo dõi giá cả, chi phí và lợi nhuận trong bất kỳ ngành công nghiệp hoặc doanh nghiệp nào mà Bộ trưởng Bộ Ngân khố chỉ đạo Ủy ban theo dõi và phải báo cáo cho Bộ trưởng về kết quả giám sát đó.
Về cơ bản, khi thực hiện quyền hạn và thực hiện các chức năng giám sát giá của mình, ACCC phải tuân theo các yêu cầu về việc xem xét kĩ các nội dung nhu cầu duy trì đầu tư và việc làm, bao gồm cả ảnh hưởng của khả năng sinh lời đối với đầu tư và việc làm; khả năng lợi dụng vị thế độc quyền (hoặc chi phối thị trường) để định giá hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân; yêu cầu về việc kiểm soát lạm phát chung (thể hiện qua chi phí sinh hoạt).
a. Khảo sát về giá
Trên cơ sở yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Ngân khố hoặc theo đề xuất của ACCC về việc điều tra một vấn đề giá cả cụ thể nào đó. Mặt khác, Bộ trưởng cũng có quyền chọn một đơn vị thực hiện điều tra, khảo sát giá khác nhưng phải nêu rõ lý do cho việc lựa chọn đó để báo cáo tại Hạ viện.
Trên cơ sở đó, ACCC (hoặc cơ quan được chỉ định) sẽ đưa ra thông báo điều tra: gồm mô tả chi tiết về hàng hóa, dịch vụ; các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sẽ được thực hiện khảo sát, điều tra; khoảng thời gian điều tra và trách nhiệm hoàn thành, gửi báo cáo cho Bộ trưởng Bộ Ngân khố.
Nội dung khảo sát, điều tra về giá chủ yếu liên quan đến các nội dung về chi phí, giá thành sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ gắn với điều khoản, điều kiện cung cấp cụ thể và cung cấp tại địa phương.
b Thông báo giá
Các điều khoản về thông báo giá được quy định trong Phần VIIA của Đạo luật Cạnh tranh và Tiêu dùng 2010 và chỉ áp dụng cho “các dịch vụ được thông báo” và “các công ty đã thông báo”. Mục tiêu của các quy định này là chỉ áp dụng giám sát giá đối với những thị trường mà theo Bộ trưởng Bộ Ngân khố, áp lực cạnh tranh không đủ để đạt được mức giá hiệu quả và bảo vệ người tiêu dùng.
Danh mục các hàng hóa, dịch vụ áp dụng thông báo giá do Bộ trưởng quyết định trên cơ sở đánh giá tính cạnh tranh, vị thế độc quyền và bối cảnh thực tế. Việc điều chỉnh hàng hóa, dịch vụ cũng do Bộ trưởng quyết định trên cơ sở đề xuất của ACCC hoặc các cơ quan liên quan.
Một công ty đã được thông báo phải thực hiện thông báo giá cho ACCC sẽ phải gửi văn bản đến ACCC về việc đề xuất tăng giá hàng hóa hoặc dịch vụ đã thông báo trong một số trường hợp nhất định. ACCC sau đó phải đánh giá giá đề xuất và có quyền chấp thuận hoặc không chấp thuận việc đề nghị tăng giá.
Việc chấp thuận hay không sẽ phụ thuộc vào việc đánh giá các nguyên nhân đề xuất tăng giá, đánh giá các báo cáo chi phí, giá thành trước đó cũng như mặt bằng chung về giá thị trường (thể hiện qua CPI).
Biện pháp này có phần tương đồng với biện pháp “đăng ký giá” hiện đang quy định tại Luật giá của Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay biện pháp đăng ký giá chỉ thực hiện khi Chính phủ áp dụng bình ổn giá đối với một hàng hóa, dịch vụ nào đó.
c. Giám sát chung về giá:
Chính phủ Australia giao ACCC thực thi trách nhiệm giám sát chung về giá cả, xử lý các khiếu nại, thắc mắc về giá của các tổ chức, cá nhân, người tiêu dùng và lập báo cáo gửi Bộ trưởng Bộ Ngân khố theo thẩm quyền. Đây cũng là một phần trong việc kiểm soát lạm phát chung bên cạnh các báo cáo về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa chung.
d. Tăng cường cơ chế giám sát về giá trong bối cảnh dịch Covid 19
Trong bối cảnh dịch Covid 19 tác động ảnh hưởng lớn đến kinh tế, đời sống người dân, giá cả tiêu dùng chung có xu hướng tăng cao tại Australia; trong đó đặc biệt là giá các hàng hóa, vật tư y tế thiết yếu như khẩu trang, nước sát khuẩn, bộ test covid – 19. Do đó, Chính phủ Australia đã trình Quốc hội ban hành một đạo Luật đặc biệt nhằm áp giá trần (bán buôn) đối với một số hàng hóa, dịch vụ đặc thù phục vụ phòng, chống dịch bệnh. Đạo luật được áp dụng từ tháng 6/2020 đến nay.
3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm một số nước
3.1. Qua tìm hiểu những kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong bối cảnh của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay, các nước đều trong xu hướng tự do hóa giá cả, theo đuổi mô hình kinh tế thị trường; cùng với đó việc kiểm soát, quản lý giá của Chính phủ cũng được thay đổi theo hướng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường mà chuyển sang các hình thức gián tiếp hơn bằng các công cụ tài chính, cạnh tranh, thuế,…Tuy nhiên, cho đến hiện nay, thực tế cho thấy một tất yếu là dù là quốc gia nào với chế độ chính trị khác nhau, chiến lược phát triển kinh tế khác nhau thì đều hướng tới việc thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước về giá ở các mức độ khác nhau bởi cần khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường (như độc quyền tự nhiên, công ích) và sự khác nhau này được tạo bởi điều kiện hạ tầng kinh tế-chính trị-xã hội của mỗi quốc gia là khác nhau nên sẽ phải lựa chọn chính sách quản lý giá đảm bảo phù hợp với mục tiêu phát triển quốc gia trên nhiều khía cạnh. Bên cạnh đó, việc nhà nước quản lý, bình ổn giá cũng được quy định trong các trường hợp xảy ra thiên tai, dịch bệnh…dẫn đến khủng hoảng, bất ổn giá cả thị trường gây mất trật tự an toàn, an sinh xã hội.
Khi các nước theo đuổi mô hình nền kinh tế thị trường thì khi xây dựng chính sách về quản lý giá đều có sự đánh giá và lựa chọn quản lý giá tập trung theo đặc tính mặt hàng như mặt hàng dễ phát sinh tính chất độc quyền hoặc ảnh hưởng lớn đến anh ninh quốc gia, kinh tế vĩ mô (điện, xăng dầu, nước) hoặc mặt hàng có tính chất công ích hoặc không hấp dẫn các nhà đầu tư nên Chính phủ phải tham gia vào bằng nhiều chính sách trong đó có chính sách giá (bao gồm cả sử dụng các quỹ tài chính) để đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội (như dịch vụ khám bệnh chữa bệnh, dịch vụ giáo dục). Nguyên tắc quản lý giá của các nước đều là tôn trọng quyền tự định giá của các tổ chức, cá nhân; đồng thời tùy vào từng đối tượng sử dụng hàng hóa, dịch vụ, Chính phủ sẽ có thể đưa ra các chính sách can thiệp về giá khác nhau, nhưng trọng tâm vẫn là có sự hỗ trợ, can thiệp về giá của Chính phủ đối với các đối tượng dễ bị tổn thương về an sinh xã hội hoặc nơi vùng sâu vùng xa. Ví dụ như dịch vụ giáo dục cho mầm non, dịch vụ y tế cho người nghèo,…
3.2. Luật quản lý giá ở Việt Nam và các nước nhìn chung không có những khác biệt lớn đối với những mặt hàng do Nhà nước quản lý, điều tiết. Điển hình như Trung Quốc với đặc điểm kinh tế tương đồng như Việt Nam đã có những bước tiến giảm đáng kể trong việc kiểm soát giá tuy vẫn giữ các Bộ Luật về quản lý giá và Chính phủ vẫn quản lý giá các mặt hàng như khí đốt, xăng dầu.
Kinh nghiệm từ quản lý giá tại Hàn Quốc đã thể hiện nhu cầu phải có Hội đồng có thẩm quyền lớn để quy định những phương hướng và chỉ dẫn đối với công tác bình ổn giá.
Tuy Nhật Bản không có cơ chế hỗ trợ cho các đối tượng chính sách qua giá, chúng ta có thể học hỏi về việc thực hiện chính sách an sinh xã hội thông qua các quỹ phúc lợi của quốc gia này để hỗ trợ giá cho người tiêu dùng; đồng thời cần phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu về giá; công khai, minh bạch chính sách điều hành.
Trong công tác quản lý giá điện ở Việt Nam có thể học hỏi mô hình điều tiết giá điện tại Mỹ đang được kết hợp giữa mô hình kiểm soát độc quyền với mô hình cạnh tranh. Có thể áp dụng những biện pháp để kiểm soát nguồn cung, quy hoạch diện tích nuôi trồng, quản lý giá sữa,… của Na Uy, đảm bảo giữ giá ở mức có lợi nhuận cho người dân.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 biến động phức tạp, nhu cầu một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, thuốc, vật tư y tế có thể tăng cao trong giai đoạn bùng phát dịch đẩy giá cả hàng hóa những mặt hàng này tăng cao nếu nguồn cung không đáp ứng kịp thời, đặc biệt trong thời gian giãn cách xã hội. Những kinh nghiệm của Mỹ và Singapore về xây dựng chế tài đối với hành vi nâng giá cơ hội, lợi dụng nhu cầu tăng đột biến và tình trạng khan hiếm tạm thời về nguồn hàng để tăng giá trục lợi có thể được nghiên cứu xem xét hoàn thiện cơ chế bình ổn giá trong thời kỳ dịch bệnh.
BẢN ĐÁNH GIÁ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA DỰ ÁN LUẬT GIÁ (SỬA ĐỔI)
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu đính kèm Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A1411-bc-danh-gia-TTHC-trong-DA-Luat-Gia---20221003020834.doc
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ TỔNG QUAN
1. Cơ sở pháp lý thực hiện đánh giá thủ tục hành chính
1.1. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
1.2. Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ).
1.3. Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 của Chính phủ và Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ).
1.4. Thông tư số 03/2022/TT-BTP ngày 10/02/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
2. Bối cảnh đánh giá thủ tục hành chính
Luật giá số 11/2012/QH13 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013; đồng bộ với đó là các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành được ban hành kịp thời đã tạo khung pháp lý đầy đủ cho công tác quản lý, điều hành giá của Nhà nước. Luật giá được ban hành thay thế Pháp lệnh giá năm 2002 đã tiếp tục thể hiện tư duy đổi mới phương thức quản lý giá trong nền kinh tế thị trường theo hướng khuyến khích cạnh tranh về giá, tôn trọng quyền tự định giá của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan chi phối sự hình thành và vận động của giá cả thị trường; đồng thời bảo đảm vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với các cam kết quốc tế.
Trong thời gian qua, công tác điều hành, quản lý giá đã góp phần kiểm soát lạm phát hàng năm theo mục tiêu, ổn định kinh tế vĩ mô; hệ thống giá điện, nước sạch cho sinh hoạt, xăng dầu, dịch vụ công từng bước được điều hành theo cơ chế thị trường có lộ trình; thu hẹp danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá (chỉ định giá đối với một số hàng hóa, dịch vụ quan trọng, tác động lớn đến kinh tế - xã hội); không thực hiện bù lỗ, bù giá, bao cấp qua giá; phát triển nghề thẩm định giá theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch hơn... Theo đó, đã góp phần thúc đẩy sự chuyển biến tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động theo các tín hiệu về cung cầu, giá cả thị trường; tạo điều kiện huy động, phân bổ và vận dụng hợp lý hơn các nguồn lực của đất nước; góp phần tạo nên tốc độ phát triển cao của nền kinh tế, cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn sau 9 năm thi hành Luật cũng đã phát sinh một số tồn tại, hạn chế nhất định; nội dung một số Điều, Khoản còn có cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho áp dụng thực hiện; hoặc một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn; hoặc hiện đã có một số vấn đề mới phát sinh đòi hỏi phải được thể chế tại Luật.
Chẳng hạn, về bình ổn giá, trong thực tiễn cho thấy trong trường hợp đặt ra vấn đề phải sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, định giá thì các thủ tục trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định phải có đủ thời gian để thực hiện quy trình hiện hành; do đó, sẽ khó đáp ứng được ngay yêu cầu quản lý phát sinh từ thực tiễn. Phạm vi và biện pháp bình ổn giáchưa linh hoạt, hiệu quả chưa cao khi có phát sinh biến động giá của những mặt hàng thiết yếu, quan trọng đối với đời sống nhân dân và toàn xã hội, nhất là trong điều kiện thiên tai, dịch bệnh, khó khăn trong việc quyết định triển khai bình ổn giá.
Về hoạt động định giá Nhà nước, việc định giá theo 2 phương pháp chủ đạo hiện hành là phương pháp so sánh và phương pháp chi phí còn khó khăn khi áp dụng đối với một số trường hợp định giá các dịch vụ (như dịch vụ khám chữa bệnh, giáo dục...); việc định giá trong một số trường hợp cũng cần tính đến các yếu tố về điều kiện kinh tế - xã hội hoặc đời sống nhân dân nên cần thiết phải bổ sung nguyên tắc về lộ trình triển khai cơ chế giá thị trường tại Luật.
Về công tác kiểm tra, thanh tra giá:Tại Luật giá chưa có các quy định cụ thể về công tác kiểm tra chấp hành pháp luật về giá; một số chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực giá và thẩm định giá vẫn còn chưa đủ chặt chẽ, đảm bảo theo kịp với sự phát triển, thay đổi không ngừng của kinh tế xã hội nói chung cũng như từng ngành nghề nói riêng. Do vậy, công tác kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá luôn gặp khó khăn nhất định; nhất là khi phát sinh các yêu cầu về đánh giá nắm bắt chi phí giá thành, công tác định giá của doanh nghiệp để phục vụ triển khai các giải pháp điều hành, bình ổn giá thị trường.
Về thẩm định giá, việc phát triển nóng về số lượng các doanh nghiệp thẩm định giá trong thời gian gần đây dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp thay đổi người đại diện theo pháp luật liên tục trong thời gian ngắn hoặc thẩm định viên về giá có hiện tượng không làm toàn thời gian tại doanh nghiệp dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý nhà nước cũng như làm giảm hiệu quả hoạt động, trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp. Hiện Luật giá chưa có quy định chặt chẽ để đảm bảo tính ổn định về nhân sự của doanh nghiệp thẩm định giá, nhất là người đại diện theo pháp luật; chưa có quy định định tính về chất lượng hành nghề của thẩm định viên trong trường hợp phải đình chỉ hành nghề khi không đảm bảo chất lượng. Các quy định về đình chỉ, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp chưa bao quát đầy đủ các trường hợp trong thực tiễn phát sinh hoặc chưa cụ thể. Các quy định về đình chỉ, thu hồi Thẻ thẩm định viên còn thiếu và chưa rõ nên khó khăn cho khâu thực hiện....
Ngoài ra, một số Bộ Luật, Luật chuyên ngành như Luật Đất đai, Luật Giao thông đường bộ, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Viễn thông... đang có quy định trùng lặp hoặc mở rộng hơn, thậm chí chồng chéo, mâu thuẫn với Luật Giá hiện hành.
Căn cứ vào các nội dung trên, khắc phục những tồn tại, hạn chế sau hơn 9 năm thi hành Luật Giá và bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật dân sự kinh tế liên quan nhằm củng cố hành lang pháp lý đồng bộ, tạo thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện; thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022 của Quốc hội, Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp xây dựng Dự án Luật Giá (sửa đổi).
Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật Giá (sửa đổi), Bộ Tài chính đã rất quan tâm tới công tác cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính nhằm tạo thuận lợi nhất cho các tổ chức, cá nhân trong thực hiện. Theo đó, trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, các quy định về thủ tục hành chính được yêu cầu thực hiện:
- Đánh giá tác động của thủ tục hành chính: tập trung vào sự cần thiết, tính hợp lý, tính hợp pháp của thủ tục hành chính cũng như rà soát, tính toán các chi phí mà tổ chức, cá nhân (nếu có) phải bỏ ra khi thực hiện thủ tục hành chính dự kiến ban hành để cân nhắc, lựa chọn phương án, giải pháp tối ưu cho việc ban hành thủ tục hành chính.
- Tính chi phí tuân thủ thủ tục hành chính: Bộ Tài chính đã chú trọng vào việc lượng hóa các chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi thực hiện TTHC đã ban hành hoặc dự kiến ban hành, qua đó đưa ra các giải pháp triển khai thực hiện TTHC phù hợp với trình độ quản lý và điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật của các bên có liên quan, đảm bảo chi phí mà tổ chức, cá nhân phải bỏ ra là thấp nhất.
3. Các thủ tục hành chính được đánh giá tác động
Qua rà soát nội dung, dự thảo Luật Giá (sửa đổi) quy định 3 TTHC thuộc đối tượng phải đánh giá tác động thủ tục hành chính gồm:
(1) Đăng ký tham dự kỳ thi thẩm định viên về giá (Điều 46 dự thảo Luật);
(2) Đăng ký hành nghề thẩm định giá (Điều 47 dự thảo Luật);
(3) Cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá (Điều 51, Điều 52, Điều 53 dự thảo Luật);
Cụ thể:
3.1. Những thủ tục hành chính dự kiến ban hành mới: Đăng ký hành nghề thẩm định giá (Điều 47 dự thảo Luật)
Việc đăng ký hành nghề thẩm định giá của các thẩm định viên về giá đã được quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục tại Thông tư số 38/2014/TT-BTC ngày 28/3/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá và Thông tư số 60/2021/TT-BTC ngày 21/7/2021 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 38/2014/TT-BTC; tuy nhiên chưa được công bố là thủ tục hành chính. Sau khi quy định về đăng ký hành nghề thẩm định giá được đưa vào dự thảo Luật Giá (sửa đổi), qua rà soát cho thấy việc công bố thủ tục trên là thủ tục hành chính là cần thiết nhằm tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, trong đó có các thẩm định viên về giá thực hiện đăng ký hành nghề, bảo đảm tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Chi phí tuân thủ thủ tục hành chính trên được lượng hóa từ thực tiễn quản lý hành nghề thẩm định giá của các thẩm định viên trong thời gian qua.
3.2. Những thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung: Các TTHC này đều đã được quy định tại Luật giá hiện hành và dự thảo Luật giao Chính phủ/Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định cụ thể.
- Đăng ký tham dự kỳ thi thẩm định viên về giá (Điều 46 dự thảo Luật);
- Cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá (Điều 51, Điều 52, Điều 53 dự thảo Luật);
Các thủ tục hành chính nói trên được sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật Giá (sửa đổi) nhằm bảo đảm thuận lợi về hồ sơ, trình tự, thủ tục cho các tổ chức, cá nhân có liên quan (doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá) khi thực hiện các thủ tục hành chính về đăng ký tham dự thi cấp Thẻ thẩm định viên về giá, về cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định. Chi phí tuân thủ thủ tục hành chính trên được lượng hóa từ kết quả thực hiện các thủ tục hành chính trên trong thời gian qua và dự kiến kết quả đạt được khi thực hiện các thủ tục này sau khi đã sửa đổi, bổ sung. Kết quả cho thấy chi phí tuân thủ thủ tục hành chính sau khi được sửa đổi, bổ sung đều được cắt giảm so với chi phí hiện hành, qua đó góp phần giảm gánh nặng hành chính lên các đối tượng chịu tác động.
3.3.Những thủ tục hành chính đã được bãi bỏ so với hiện hành
- Đăng ký giá của các doanh nghiệp thuộc danh sách đăng ký giá tại Bộ Tài chính:Thủ tục hành chính được bãi bỏ do dự thảo Luật giá không còn quy định về đăng ký giá.
- Quyết định giá thuộc thẩm quyền cấp tỉnh: được bãi bỏ do đây là quy định về việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, không phải là công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân như định nghĩa về thủ tục hành chính quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ.
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỪNG THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
BỘ TÀI CHÍNH
BIỂU MẪU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
DỰ KIẾN BAN HÀNH MỚI TRONG DỰ ÁN, DỰ THẢO VĂN BẢN
Tên dự án, dự thảo văn bản: Luật Giá (sửa đổi)
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: Đăng ký hành nghề thẩm định giá (Điều 47 dự thảo Luật Giá sửa đổi)
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TẠI DỰ ÁN, DỰ THẢO VĂN BẢN
|
|
1. Nội dung cụ thể trong ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần quản lý hoặc các biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương?
|
a) Nội dung cụ thể trong ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần quản lý hoặc các biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương:
Quy định về việc đăng ký hành nghề thẩm định giá cho người có thẻ Thẩm định viên về giá tại các doanh nghiệp thẩm định giá
b) Nêu rõ lý do Nhà nước cần quản lý hoặc ban hành các biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương:
Để đảm bảo yêu cầu về quản lý nhà nước đối với việc hành nghề của các thẩm định viên và hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của các doanh nghiệp thẩm định giá.
|
|
2. Nội dung quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cụ thể của cá nhân, tổ chức cần được bảo đảm?
|
a) Nội dung quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cụ thể của cá nhân, tổ chức cần được bảo đảm:
Tại dự thảo Luật Giá quy định cấm thẩm định viên về giá hành nghề thẩm định giá với tư cách cá nhân, mà phải hành nghề qua doanh nghiệp thẩm định giá.
b) Nêu rõ lý do Nhà nước cần quy định:
Để bảo đảm các thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật khi hành nghề thẩm định giá
|
|
3. Lý do lựa chọn biện pháp quy định thủ tục hành chính để thực hiện yêu cầu quản lý nhà nước hoặc thực hiện các biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và bảo đảm quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức?
|
a) Lý do quy định thủ tục hành chính:
Để hướng dẫn cụ thể về việc hành nghề của các thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp thẩm định giá, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với việc đăng ký hành nghề của các thẩm định viên, ngăn chặn hành vi hành nghề thẩm định giá với tư cách cá nhân.
b) Nêu rõ điều, khoản quy định thủ tục hành chính tại dự án, dự thảo văn bản:
Điều 47 dự thảo Luật Giá (sửa đổi).
|
|
4. Có biện pháp nào khác có thể sử dụng mà không phải bằng quy định thủ tục hành chính không?
|
Có Không
Nếu Có, nêu rõ biện pháp:……………………………………………………………………………………
Trường hợp Có, nhưng vẫn lựa chọn biện pháp quy định thủ tục hành chính thì nêu rõ lý do:……………..
………………………………………………………………………………………………………………...
Nếu Không, nêu rõ lý do:
Quy định thủ tục hành chính sẽ yêu cầu bắt buộc người có Thẻ thẩm định viên về giá phải thực hiện việc đăng ký hành nghề khi muốn hành nghề thẩm định giá và chỉ được phép hành nghề khi Bộ Tài chính thong báo đủ điều kiện hành nghề theo quy định.
|
|
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP PHÁP CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
|
|
1. Có được ban hành theo đúng thẩm quyền không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính
|
|
2. Có mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không phù hợp, thống nhất với quy định tại các văn bản khác không?
|
- Với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:
+ Tên bộ phận tạo thành: ……………………………………………………………………………………..
+ Nêu rõ điều, khoản, tên văn bản tương ứng:………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
+ Đề xuất cách thức giải quyết để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật hoặc lý do vẫn quy định như tại dự án, dự thảo …………………………………………………………………...................
………………………………………………………………………………………………………………...
- Với văn bản của cơ quan khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:
+ Tên bộ phận tạo thành: ……………………………………………………………………………………..
+ Nêu rõ điều, khoản, tên văn bản tương ứng: ……………………………………………………………….
+ Đề xuất cách thức giải quyết để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật hoặc lý do vẫn quy định như tại dự án, dự thảo …………………………………………………………………...................
………………………………………………………………………………………………………………...
- Với điều ước quốc tế có liên quan mà CHXHCN Việt Nam là thành viên: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:
+ Tên bộ phận tạo thành: ……………………………………………………………………………………..
+ Nêu rõ điều, khoản, điều ước quốc tế tương ứng: …………………………………………………………
+ Đề xuất cách thức giải quyết để đảm bảo tính tương thích với điều ước quốc tế hoặc lý do vẫn quy định như tại dự án, dự thảo ………………………………………………………………………………………..
|
|
III. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
|
|
1. Tên thủ tục hành chính
|
|
Có được quy định rõ ràng, cụ thể và phù hợp không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Nhằm tạo thuận lợi cho việc nhận biết và thực hiện thủ tục hành chính
|
|
2. Trình tự thực hiện
|
|
a) Có được quy định rõ ràng và cụ thể về các bước thực hiện không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Nhằm tạo điều kiện cho người có thẻ thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện; cũng như sự quản lý của cơ quan nhà nước.
|
|
b) Có được quy định, phân định rõ trách nhiệm và nội dung công việc của cơ quan nhà nước và cá nhân, tổ chức khi thực hiện không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Đã phân định rõ trách nhiệm và nội dung công việc của cơ quan nhà nước, người có Thẻ thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá nhằm tạo điều kiện cho người có Thẻ thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá đều nắm rõ được trách nhiệm và nhiệm vụ của từng việc mình làm; từng khâu thực hiện để đạt được kết quả cao
|
|
c) Có áp dụng cơ chế liên thông không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Đây là TTHC độc lập nên không cần phải áp dụng cơ chế liên thông
|
|
d) Có quy định việc kiểm tra, đánh giá, xác minh thực tế của cơ quan nhà nước không?
|
Có Không
Nếu Có, nêu rõ nội dung quy định:…………………………………………………………………………..
Lý do quy định:……………………………………………………………………………………………….
- Các biện pháp có thể thay thế: Có Không
Nếu Có, nêu rõ lý do vẫn quy định như tại dự án, dự thảo: ………………………………..………………..
|
|
3. Cách thức thực hiện
|
|
|
a) Nộp hồ sơ:
Trực tiếp
Bưu chính
Điện tử
b) Nhận kết quả:
Trực tiếp
Bưu chính
Điện tử
|
- Có được quy định rõ ràng, cụ thể không? Có Không
Nêu rõ lý do: Dự kiến quy định cho phép nộp hồ sơ và nhận kết quả trực tiếp hoặc qua bưu chính tại văn bản hướng dẫn
- Có được quy định phù hợp và tạo thuận lợi, tiết kiệm chi phí cho cơ quan nhà nước,
cá nhân, tổ chức khi thực hiện không? Có Không
Nêu rõ lý do: Dự kiến quy định cho phép nộp hồ sơ và nhận kết quả trực tiếp hoặc qua bưu chính tại văn bản hướng dẫn nhằm tạo thuận lợi và tiết kiệm chi phí cho cơ quan nhà nước và doanh nghiệp thẩm định giá
|
|
4. Thành phần, số lượng hồ sơ: Tại Khoản 5 Điều 47 Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) quy định giao Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục đăng ký hành nghề thẩm định giá, do đó nội dung này sẽ được quy định chi tiết tại văn bản hướng dẫn
|
|
a) Tên thành phần hồ sơ 1: Chưa quy định
|
- Nêu rõ lý do quy định: ………………………………………………………………….…………………..
- Yêu cầu về hình thức: …………………………..…………………………………………………………..
Lý do quy định: …………..…………………………………………………………………………………..
|
|
b) Tên thành phần hồ sơ n: Chưa quy định
|
- Nêu rõ lý do quy định: ………………………………………………………………….…………………..
- Yêu cầu về hình thức: …………………………..…………………………………………………………..
Lý do quy định: …………..…………………………………………………………………………………..
|
|
c) Các giấy tờ, tài liệu để chứng minh việc đáp ứng yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính có được quy định rõ ràng, cụ thể ở thành phần hồ sơ của thủ tục hành chính không?
|
Có Không
Nêu rõ:………………………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
|
|
d) Số lượng bộ hồ sơ: Chưa quy định
|
Lý do (nếu quy định từ 02 bộ hồ sơ trở lên):
|
|
5. Thời hạn giải quyết: Tại Khoản 5 Điều 47 Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) quy định giao Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục đăng ký hành nghề thẩm định giá, do đó nội dung này sẽ được quy định chi tiết tại văn bản hướng dẫn
|
|
a) Có được quy định rõ ràng, cụ thể và phù hợp không?
|
- Có Không
- Nêu rõ thời hạn giải quyết thủ tục hành chính:……………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………..
Lý do quy định: ………………..……………………………………………………………………………..
|
|
b) Trong trường hợp một thủ tục hành chính do nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đã quy định rõ ràng, đầy đủ thời hạn giải quyết của từng cơ quan và thời hạn chuyển giao hồ sơ giữa các cơ quan?
|
Có Không
Lý do quy định: ………………………...…………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………..
|
|
6. Đối tượng thực hiện
|
|
|
a) Đối tượng thực hiện:
|
- Tổ chức: Trong nước Nước ngoài
Mô tả rõ: Doanh nghiệp thẩm định giá
Lý do quy định: Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) quy định doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện đăng ký hành nghề cho người có thẻ thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp của mình.
- Cá nhân: Trong nước Nước ngoài
Mô tả rõ: Người có thẻ thẩm định viên về giá
Lý do quy định: Nhằm yêu cầu người có thẻ thẩm định viên về giá phải đăng ký hành nghề qua doanh nghiệp thẩm định giá, ngăn ngừa tình trạng hành nghề độc lập.
- Có thể mở rộng/ thu hẹp đối tượng thực hiện không?:
Có Không
Nêu rõ lý do: Vì thủ tục này phải do chính các doanh nghiệp thẩm định giá và người có thẻ thẩm định viên về giá thực hiện nên không thể mở rộng hay thu hẹp phạm vi.
|
|
b) Phạm vi áp dụng:
|
- Toàn quốc Vùng Địa phương
- Nông thôn Đô thị Miền núi
- Biên giới, hải đảo
- Lý do quy định: Để đảm bảo tính công bằng, minh bạch cho tất cả các doanh nghiệp thẩm định giá và người có Thẻ thẩm định viên về giá có nhu cầu và đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Có thể mở rộng/ thu hẹp phạm vi áp dụng không?:
Có Không
Nêu rõ lý do: Vì thủ tục này áp dụng cho lĩnh vực thẩm định giá trên toàn lãnh thổ Việt Nam nên không thể mở rộng hay thu hẹp phạm vi.
|
|
Dự kiến số lượng đối tượng thực hiện/1 năm: 1.800 người có thẻ thẩm định viên về giá
|
|
7. Cơ quan giải quyết
|
|
a) Có được quy định rõ ràng, cụ thể về cơ quan giải quyết thủ tục hành chính không?
|
Có Không
Lý do quy định: Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm của cơ quan giải quyết thủ tục hành chính
|
|
b) Có thể mở rộng ủy quyền hoặc phân cấp thực hiện không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Tại dự thảo Luật Giá đã giao Bộ Tài chính thực hiện xem xét, điều chỉnh dnah sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề khi có biến động thông qua việc tiếp nhận đăng ký hành nghề của người có thẻ thẩm định viên về giá, nên không thể mở rộng ủy quyền hoặc phân cấp thực hiện.
|
|
8. Phí, lệ phí và các chi phí khác (nếu có): Tại Khoản 5 Điều 47 Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) quy định giao Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục đăng ký hành nghề thẩm định giá, do đó nội dung này (nếu có) sẽ được quy định chi tiết tại văn bản hướng dẫn
|
|
a) Có quy định về phí, lệ phí và các chi phí khác (nếu có) không? Chưa quy định
|
- Lệ phí: Không Có
Nếu Có, nêu rõ lý do: ……………………………..…………………………………………………………
- Phí: Không Có
Nếu Có, nêu rõ lý do: ……………………………..………………………………………………………….
- Chi phí khác: Không Có
Nếu Có, nêu rõ lý do: ……………………………..………………………………………………………….
- Nêu rõ mức phí, lệ phí hoặc chi phí khác (nếu được quy định tại dự án, dự thảo):
+ Mức phí (hoặc đính kèm biểu phí): …………………………..……………………………………………
+ Mức lệ phí (hoặc đính kèm biểu lệ phí): …………………………………………………………………..
+ Mức chi phí khác:…………………………………………………………………………………………..
+ Mức phí, lệ phí và các chi phí khác (nếu có) có phù hợp không: Có Không
Lý do: ……………………………………………………..………………………………………………….
- Nếu mức phí, lệ phí hoặc chi phí khác (nếu có) chưa được quy định tại dự án, dự thảo thì nêu rõ lý do: …
………………………………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
|
|
b) Quy định về cách thức, thời điểm nộp phí, lệ phí và các chi phí khác (nếu có) có hợp lý không? Chưa quy định
|
Có Không
Nội dung quy định: ………………………..…………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………...
Lý do quy định:……………………………………………………………………………………………….
|
|
9. Mẫu đơn, tờ khai: Tại Khoản 5 Điều 47 Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) quy định giao Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục đăng ký hành nghề thẩm định giá, do đó nội dung này sẽ được quy định chi tiết tại văn bản hướng dẫn
|
|
a) Có quy định về mẫu đơn, tờ khai không? Chưa quy định
|
Có Không
Lý do: ………………………………………………………………………………………………………...
|
|
b) Tên mẫu đơn, tờ khai 1: Chưa quy định
|
- Nêu rõ những nội dung (nhóm) thông tin cần cung cấp trong mẫu đơn, tờ khai:
+ Nội dung thông tin 1: ....................................................................................................................................
Lý do quy định: ...............................................................................................................................................
+ Nội dung thông tin n: ....................................................................................................................................
Lý do quy định: ..............................................................................................................................................
- Có quy định việc xác nhận tại đơn, tờ khai không? Có Không
Nếu Có, nêu rõ nội dung xác nhận, người/cơ quan có thẩm quyền xác nhận: ……………………………
……………………………………………………………………………………………………………….
Lý do quy định: …………………………………………………………………………………………….
|
|
c) Tên mẫu đơn, tờ khai n: Chưa quy định
|
- Nêu rõ những nội dung (nhóm) thông tin cần cung cấp trong mẫu đơn, tờ khai:
+ Nội dung thông tin 1: ....................................................................................................................................
Lý do quy định: ...............................................................................................................................................
+ Nội dung thông tin n: ....................................................................................................................................
Lý do quy định: ..............................................................................................................................................
- Có quy định việc xác nhận tại đơn, tờ khai không? Có Không
Nếu Có, nêu rõ nội dung xác nhận, người/cơ quan có thẩm quyền xác nhận: ……………………………
……………………………………………………………………………………………………………….
Lý do quy định: …………………………………………………………………………………………….
|
|
d) Ngôn ngữ: Chưa quy định
|
- Tiếng Việt Song ngữ Nêu rõ loại song ngữ:………………………………………
Lý do quy định (trong trường hợp mẫu đơn song ngữ): …………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
|
|
10. Yêu cầu, điều kiện
|
|
|
Có quy định yêu cầu, điều kiện không?
|
Có Không
Lý do quy định: Để bảo đảm chặt chẽ và đáp ứng các yêu cầu, tình huống trong thực tiễn đăng ký hành nghề của người có thẩm định viên về giá và các doanh nghiệp thẩm định giá
|
|
a) Yêu cầu, điều kiện 1: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
|
- Lý do quy định: Để đảm bảo thống nhất với pháp luật về dân sự. Theo đó, cá nhân tham gia giao dịch dân sự phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:……………………………………………………………………………………...
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ): Không
|
|
b) Yêu cầu, điều kiện 2: Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn đang có hiệu lực với doanh nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về lao động
|
- Lý do quy định: Đáp ứng yêu cầu quản lý hành nghề của thẩm định viên về giá phải là người lao động có Hợp đồng lao đồng không xác định thời hạn tại các doanh nghiệp thẩm định giá
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:……………………………………………………………………………………...
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ): Không
|
|
c) Yêu cầu, điều kiện 3: Có thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá từ 36 tháng trở lên
|
- Lý do quy định: Đáp ứng yêu cầu về kinh nghiệm thực tế làm việc của thẩm định viên về giá tại các doanh nghiệp thẩm định giá
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:……………………………………………………………………………………...
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ): Không
|
|
d) Yêu cầu, điều kiện 4:
Có giấy chứng nhận cập nhật kiến thức về thẩm định giá theo lĩnh vực chuyên môn trừ trường hợp Thẻ thẩm định viên về giá được cấp dưới 01 năm tính đến thời điểm đăng ký hành nghề
|
- Lý do quy định: Đáp ứng yêu cầu quản lý hành nghề của thẩm định viên về giá tại các doanh nghiệp thẩm định giá đối với người được cấp Thẻ thẩm định viên về trên 01 năm tính đến ngày đăng ký hành nghề
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ: ……………………………………………………………………………………...
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ): Không
|
|
d) Yêu cầu, điều kiện 5:
Không thuộc đối tượng tại khoản 2 Điều này
|
- Lý do quy định: Để phù hợp với quy định của pháp luật về các trường hợp không được đăng ký hành nghề thẩm định giá (quy định tại Khoản 2 Điều 47 dự thảo Luật)
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ: ……………………………………………………………………………………...
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ): Không
|
|
11. Kết quả thực hiện
|
|
a) Hình thức của kết quả thực hiện thủ tục hành chính là gì?
|
- Giấy phép
- Giấy chứng nhận
- Giấy đăng ký
- Chứng chỉ
- Thẻ
- Quyết định hành chính
- Văn bản xác nhận/chấp thuận
- Loại khác: Đề nghị nêu rõ:
Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Bản giấy Bản điện tử
|
|
b) Kết quả thực hiện thủ tục hành chính có được mẫu hóa phù hợp không?
|
Có Không
Lý do: TTHC đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về số hóa hồ sơ về thủ tục hành chính
|
|
c) Quy định về thời hạn có giá trị hiệu lực của kết quả thực hiện thủ tục hành chính có hợp lý không (nếu có)?
|
Có Không
- Nếu Có, nêu thời hạn cụ thể: Người có thẻ thẩm định viên về giá được hành nghề khi Bộ Tài chính thông báo đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá
- Nếu Không, nêu rõ lý do:……………………………………………………….………………………...
………………………………………………………………………………………………………………...
|
|
d) Quy định về phạm vi có hiệu lực của kết quả thực hiện thủ tục hành chính có hợp lý không (nếu có)?
|
Toàn quốc Địa phương
Lý do: Việc đăng ký hành nghề thẩm định giá và Thông báo của Bộ Tài chính về danh sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề có phạm vi áp dụng trên toàn lãnh thổ Việt Nam
|
|
IV. THÔNG TIN LIÊN HỆ
|
|
Họ và tên người điền: Nguyễn Thị Hồng Liên
Điện thoại cố định: 024.22202828 (4002); Di động: 0936.864.556;
|
|
BIỂU MẪU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG DỰ ÁN, DỰ THẢO VĂN BẢN
Tên dự án, dự thảo văn bản: Luật Giá (sửa đổi)
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: Đăng ký tham dự kỳ thi thẩm định viên về giá
I. CĂN CỨ PHÁP LÝ
(Nêu rõ điều, khoản, điểm và tên văn bản quy định)
|
1. Khoản 2 Điều 46 Luật Giá (sửa đổi)
|
|
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ CỦA TỪNG BỘ PHẬN TẠO THÀNH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
(Đối với bộ phận thủ tục hành chính được quy định chi tiết hoặc được sửa đổi, bổ sung thì đánh giá; bộ phận thủ tục hành chính không được quy định chi tiết hoặc không sửa đổi, bổ sung thì không đánh giá và xóa bỏ khỏi Biểu mẫu)
|
1. Tên thủ tục hành chính
|
Có được quy định rõ ràng, cụ thể và phù hợp không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Tên của TTHC đã rõ ràng, thể hiện hành động cụ thể của cá nhân, tổ chức kết hợp với sự việc mà cá nhân, tổ chức mong muốn đạt được.
|
6. Đối tượng thực hiện
|
|
a) Đối tượng thực hiện:
|
- Tổ chức: Trong nước Nước ngoài
Mô tả rõ:………………………………………………………………………………………………….
Lý do quy định:…………………………………………………………………………………………..
- Cá nhân: Trong nước Nước ngoài
Mô tả rõ: Cá nhân đáp ứng các yêu cầu, điều kiện theo quy định tại khoản 2, Điều 48
Lý do quy định: Để đảm bảo công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thẩm định giá được hiệu quả.
- Có thể mở rộng/ thu hẹp đối tượng thực hiện không?:
Có Không
Nêu rõ lý do: Có quy định TTHC riêng dành cho đối tượng được mở rộng là cá nhân nước ngoài tại Khoản 3 Điều 48
|
b) Phạm vi áp dụng:
|
- Toàn quốc Vùng Địa phương
- Nông thôn Đô thị Miền núi
- Biên giới, hải đảo
- Lý do quy định: Để đảm bảo tính công bằng, minh bạch cho tất cả các cá nhân có nhu cầu và đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Có thể mở rộng/ thu hẹp phạm vi áp dụng không?:
Có Không
Nêu rõ lý do: Phạm vị áp dụng rộng và hoàn toàn phù hợp, do đó không thể mở rộng thêm hay thu hẹp.
|
Dự kiến số lượng đối tượng thực hiện/1 năm: 700-800
|
10. Yêu cầu, điều kiện
|
|
Có quy định yêu cầu, điều kiện không?
|
Có Không
Lý do quy định: Để đảm bảo công tác quản lý nhà nước về thẩm định giá được hiệu quả.
|
a) Yêu cầu, điều kiện 1: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
|
- Lý do quy định: Để đảm bảo thống nhất với pháp luật về dân sự. Theo đó, cá nhân tham gia giao dịch dân sự phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ: Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân phải chứng minh bằng Lý lịch tư pháp. Theo đó, cá nhân phải thực hiện thủ tục đề nghị cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, nội dung chi tiết này sẽ được quy định tại Văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giá (sửa đổi)
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ):…………………………………………………………………….
|
b) Yêu cầu, điều kiện 2:
Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các nhóm ngành về kinh tế, kỹ thuật, luật theo quy định của pháp luật
|
- Lý do quy định: Đây là điều kiện quan trọng để xác minh trình độ chuyên môn của người đăng ký dự thi, là căn cứ để thẩm định hồ sơ thi, giúp cơ quan quản lý phân loại, sàng lọc hồ sơ, đảm bảo đúng đối tượng.
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:………………………………………………………………………………….
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ):…………………………………………………………………….
|
c) Yêu cầu, điều kiện 3:
Có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá do cơ quan, tổ chức có chức năng đào tạo về thẩm định giá cấp, trừ trường hợp có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên về chuyên ngành giá hoặc thẩm định giá
|
- Lý do quy định: Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận về chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp cho người đạt yêu cầu tại kỳ thi sát hạch. Do đó, quy định về yêu cầu, điều kiện này là cần thiết để đảm bảo công tác quản lý và tổ chức kỳ thi đúng đối tượng, đạt hiệu quả cao.
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác: Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:………………………………………………………………………………….
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ):…………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………
|
IV. THÔNG TIN LIÊN HỆ
|
Họ và tên người điền: Nguyễn Thị Hồng Liên
Điện thoại cố định: 024 22202828 (Máy lẻ 4002); Di động: 09336864556
|
BIỂU MẪU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG DỰ ÁN, DỰ THẢO VĂN BẢN
Tên dự án, dự thảo: Dự thảo Luật Giá (sửa đổi)
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: Cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
|
I. CĂN CỨ PHÁP LÝ
(Nêu rõ điều, khoản, điểm và tên văn bản quy định)
|
1. Điều 51, Điều 52 và Điều 53 dự thảo Luật Giá (sửa đổi)
|
|
|
n.
|
|
|
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ CỦA TỪNG BỘ PHẬN TẠO THÀNH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
(Đối với bộ phận thủ tục hành chính được quy định chi tiết hoặc được sửa đổi, bổ sung thì đánh giá; bộ phận thủ tục hành chính không được quy định chi tiết hoặc không sửa đổi, bổ sung thì không đánh giá và xóa bỏ khỏi Biểu mẫu)
|
|
|
1. Tên thủ tục hành chính
|
|
|
Có được quy định rõ ràng, cụ thể và phù hợp không?
|
Có Không
Nêu rõ lý do: Tên của TTHC bao gồm tên kết quả của TTHC kết hợp với lĩnh vực cụ thể.
|
|
|
6. Đối tượng thực hiện
|
|
|
|
a) Đối tượng thực hiện:
|
- Tổ chức: Trong nước Nước ngoài
Mô tả rõ: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần.
Lý do quy định: Đảm bảo thống nhất với quy định của Luật Doanh nghiệp
- Cá nhân: Trong nước Nước ngoài
Mô tả rõ:………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………
Lý do quy định:…………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………
- Có thể mở rộng/ thu hẹp đối tượng thực hiện không?:
Có Không
Nêu rõ lý do: Đối tượng thực hiện TTHC đã bao gồm đầy đủ các loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
|
|
|
b) Phạm vi áp dụng:
|
- Toàn quốc Vùng Địa phương
- Nông thôn Đô thị Miền núi
- Biên giới, hải đảo
- Lý do quy định: Để đảm bảo tính công bằng, minh bạch cho tất cả các tổ chức có nhu cầu và đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Có thể mở rộng/ thu hẹp phạm vi áp dụng không?:
Có Không
Nêu rõ lý do: Phạm vị áp dụng rộng và hoàn toàn phù hợp, do đó không thể mở rộng thêm hay thu hẹp.
|
|
|
Dự kiến số lượng đối tượng thực hiện/1 năm: 90-100 lần cấp, cấp lại
|
|
|
10. Yêu cầu, điều kiện
|
|
|
|
Có quy định yêu cầu, điều kiện không?
|
Có Không
Lý do quy định: Dịch vụ thẩm định giá là loại hình dịch vụ tư vấn đòi hỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu và chỉ những cá nhân được cấp Thẻ thẩm định viên về giá mới được thực hiện thẩm định giá; ngoài ra, kinh doanh dịch vụ thẩm định giá là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư; việc quy định yêu cầu, điều kiện khi cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá là cần thiết để đảm bảo công tác quản lý nhà nước về thẩm định giá được hiệu quả.
|
|
|
a) Yêu cầu, điều kiện 1:
Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân
1. Phải có ít nhất 5 người có Thẻ thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 47 Luật này đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
2. Chủ doanh nghiệp, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân; Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 53 Luật này:
- Có đủ 36 tháng là thẩm định viên về giá;
- Đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp và duy trì điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật này;
- Không thuộc các trường hợp đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời gian 12 tháng tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
3. Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên hợp danh công ty hợp danh phải là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp.
4. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có ít nhất 03 người có Thẻ thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 47 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá độc lập với trụ sở chính và các chi nhánh khác của doanh nghiệp thẩm định giá, trong đó phải bao gồm người đứng đầu chi nhánh.
|
- Lý do quy định:
Dự thảo Luật cơ bản kế thừa Luật giá năm 2012, đưa các quy định về điều kiện đối với chủ doanh nghiệp, người đại diện pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá hiện đang được quy định tại Nghị định lên dự thảo Luật, đồng thời sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành để củng cố một số yêu cầu đối với doanh nghiệp thẩm định giá là Công ty TNHH một thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân nhằm tăng cường các quy định về điều kiện trong khâu cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, nhất là trong quá trình hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá; qua đó, siết chặt quản lý hoạt động thẩm định giá nhằm một mặt đáp ứng yêu cầu đặt ra trong việc củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá, góp phần chống tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, lợi ích nhóm trong lĩnh vực giá; một mặt bảo đảm tính tương đồng đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính tương tự.
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác:
Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:……………………………………
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước:
Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ): Không
|
|
|
b) Yêu cầu, điều kiện 2:
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần:
1. Phải có ít nhất 5 người có Thẻ thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 47 Luật này đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp.
2. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 53 Luật này:
- Có đủ 36 tháng là thẩm định viên về giá;
- Đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp và duy trì điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật này;
- Không thuộc các trường hợp đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời gian 12 tháng tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
3. Có ít nhất 02 thành viên góp vốn, 02 cổ đông phải là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp; trường hợp thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện của tổ chức góp vốn phải là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, tổng phần vốn góp của tổ chức tối đa 35% vốn điều lệ. Tổng số vốn góp của các thành viên, cổ đông là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp.
4. Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá phải có ít nhất 03 người có Thẻ thẩm định viên về giá đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 47 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá độc lập với trụ sở chính và các chi nhánh khác của doanh nghiệp thẩm định giá, trong đó phải bao gồm người đứng đầu chi nhánh.
|
- Lý do quy định:
Dự thảo Luật cơ bản kế thừa Luật giá năm 2012, đưa các quy định về điều kiện đối với chủ doanh nghiệp, người đại diện pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá hiện đang được quy định tại Nghị định lên dự thảo Luật, đồng thời sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành để củng cố một số yêu cầu đối với doanh nghiệp thẩm định giá là công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần nhằm tăng cường các quy định về điều kiện trong khâu cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, nhất là trong quá trình hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá; qua đó, siết chặt quản lý hoạt động thẩm định giá nhằm một mặt đáp ứng yêu cầu đặt ra trong việc củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định giá, góp phần chống tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, lợi ích nhóm trong lĩnh vực giá; một mặt bảo đảm tính tương đồng đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính tương tự.
- Để đáp ứng yêu cầu, điều kiện này, cá nhân, tổ chức cần:
+ Có kết quả từ một thủ tục hành chính khác:
Có Không
Nếu Có, đề nghị nêu rõ:………………………………………
+ Đáp ứng được sự kiểm tra, xác minh, đánh giá của cơ quan nhà nước: Có Không
+ Thực hiện công việc khác (nêu rõ): Không
|
|
|
11. Kết quả thực hiện
|
|
|
a) Hình thức của kết quả thực hiện thủ tục hành chính là gì?
|
- Giấy phép
- Giấy chứng nhận
- Giấy đăng ký
- Chứng chỉ
- Thẻ
- Quyết định hành chính
- Văn bản xác nhận/chấp thuận
- Loại khác: Đề nghị nêu rõ:…………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………
Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Bản giấy Bản điện tử
|
|
|
b) Kết quả giải quyết thủ tục hành chính có được mẫu hóa phù hợp không?
|
Có Không
Lý do: TTHC đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về số hóa hồ sơ về thủ tục hành chính
|
|
|
c) Quy định về thời hạn có giá trị hiệu lực của kết quả thực hiện thủ tục hành chính có hợp lý không (nếu có)?
|
Có Không
- Nếu Có, nêu thời hạn cụ thể: Doanh nghiệp chỉ được phép kinh doanh dịch vụ thẩm định giá sau khi Bộ Tài chính cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
- Nếu Không, nêu rõ lý do:………………………………………………
|
|
|
d) Quy định về phạm vi có hiệu lực của kết quả thực hiện thủ tục hành chính có hợp lý không (nếu có)?
|
Toàn quốc Địa phương
Lý do: Việc cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá được có phạm vi áp dụng trên toàn lãnh thổ Việt Nam
|
|
|
IV. THÔNG TIN LIÊN HỆ
|
|
|
Họ và tên người điền: Nguyễn Thị Hồng Liên
Điện thoại cố định: 024 22202828 (Máy lẻ 4002); Di động: 09336864556
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CHI PHÍ TUÂN THỦ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG DỰ ÁN, DỰ THẢO VĂN BẢN
|
|
|
|
I. CHI PHÍ TUÂN THỦ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH DỰ KIẾN BAN HÀNH MỚI
TÊN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: Đăng ký hành nghề thẩm định giá
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
STT
|
Các công việc
khi thực hiện TTHC
|
Các hoạt động/ cách thức thực hiện cụ thể
|
Thời gian thực hiện (giờ)
|
Mức TNBQ/ 01 giờ làm việc (đồng)
|
Mức chi phí thuê tư vấn, dịch vụ (đồng)
|
Mức phí, lệ phí, chi phí khác (đồng)
|
Số lần thực hiện/ 01 năm
|
Số lượng đối tượng tuân thủ/01 năm
|
Chi phí thực hiện TTHC (đồng)
|
Tổng chi phí thực hiện TTHC/
01 năm (đồng)
|
Ghi chú
|
|
1
|
Chuẩn bị hồ sơ
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.1
|
Thành phần HS 1
|
Chuẩn bị các hồ sơ, tài liệu chứng minh cá nhân đáp ứng đủ điều kiện được đăng ký hành nghề
|
5
|
30.535
|
|
|
1
|
1.800
|
152.675
|
274.815.000
|
|
|
|
|
Hoạt động n
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.n
|
Thành phần HS n
|
Hoạt động 1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động n
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
|
Nộp hồ sơ
|
Trực tiếp
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bưu chính
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Điện tử
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
|
Nộp phí, lệ phí, chi phí khác
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.1
|
Phí
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.2
|
Lệ phí
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.3
|
Chi phí khác (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
|
Chuẩn bị, phục vụ việc kiểm tra, đánh giá của cơ quan có thẩm quyền (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động 1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động 2
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5
|
Công việc khác (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Nhận kết quả
|
Trực tiếp
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bưu chính
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Điện tử
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
TỔNG
|
|
|
|
|
|
|
152.675
|
274.815.000
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
II. CHI PHÍ TUÂN THỦ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
1. TÊN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: Đăng ký tham dự kỳ thi Thẩm định viên về giá
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
STT
|
Các công việc
khi thực hiện TTHC
|
Các hoạt động/ cách thức thực hiện cụ thể
|
Thời gian thực hiện (giờ)
|
Mức TNBQ/ 01 giờ làm việc (đồng)
|
Mức chi phí thuê tư vấn, dịch vụ (đồng)
|
Mức phí, lệ phí, chi phí khác (đồng)
|
Số lần thực hiện/ 01 năm
|
Số lượng đối tượng tuân thủ/01 năm
|
Chi phí thực hiện TTHC (đồng)
|
Tổng chi phí thực hiện TTHC/
01 năm (đồng)
|
Ghi chú
|
|
1
|
Chuẩn bị hồ sơ
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.1
|
Thành phần HS 1
|
Chuẩn bị hồ sơ, tài liệu chứng minh cá nhân đáp ứng đủ yêu cầu, điều kiện đăng ký tham dự kỳ thi theo quy định
|
8
|
30.535
|
|
|
1
|
700
|
244.280
|
170.996.000
|
|
|
|
|
Hoạt động n
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.n
|
Thành phần HS n
|
Hoạt động 1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động n
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
|
Nộp hồ sơ
|
Trực tiếp
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bưu chính
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Điện tử
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
|
Nộp phí, lệ phí, chi phí khác
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.1
|
Phí
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.2
|
Lệ phí
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.3
|
Chi phí khác (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
|
Chuẩn bị, phục vụ việc kiểm tra, đánh giá của cơ quan có thẩm quyền (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động 1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động 2
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5
|
Công việc khác (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Nhận kết quả
|
Trực tiếp
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bưu điện
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Điện tử
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
TỔNG
|
|
|
|
|
|
|
244.280
|
170.996.000
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2. TÊN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: Cấp, cấp lại cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
STT
|
Các công việc
khi thực hiện TTHC
|
Các hoạt động/ cách thức thực hiện cụ thể
|
Thời gian thực hiện (giờ)
|
Mức TNBQ/ 01 giờ làm việc (đồng)
|
Mức chi phí thuê tư vấn, dịch vụ (đồng)
|
Mức phí, lệ phí, chi phí khác (đồng)
|
Số lần thực hiện/ 01 năm
|
Số lượng đối tượng tuân thủ/01 năm
|
Chi phí thực hiện TTHC (đồng)
|
Tổng chi phí thực hiện TTHC/
01 năm (đồng)
|
Ghi chú
|
1
|
Chuẩn bị hồ sơ
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.1
|
Thành phần HS 1
|
Chuẩn bị hồ sơ, tài liệu chứng minh cá nhân đáp ứng đủ yêu cầu, điều kiện đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
|
8
|
30.535
|
|
|
1
|
90
|
244.280
|
21.985.200
|
|
|
|
Hoạt động n
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.n
|
Thành phần HS n
|
Hoạt động 1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động n
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
|
Nộp hồ sơ
|
Trực tiếp
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bưu chính
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Điện tử
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
|
Nộp phí, lệ phí, chi phí khác
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.1
|
Phí
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.2
|
Lệ phí
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.3
|
Chi phí khác (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
|
Chuẩn bị, phục vụ việc kiểm tra, đánh giá của cơ quan có thẩm quyền (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động 1
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hoạt động 2
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5
|
Công việc khác (nếu có)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Nhận kết quả
|
Trực tiếp
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bưu điện
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Điện tử
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
TỔNG
|
|
|
|
|
|
|
244.280
|
21.985.200
|
|
III. SO SÁNH CHI PHÍ: (Đơn vị: đồng)
1. Thủ tục Đăng ký hành nghề thẩm định giá
2. Thủ tục Đăng ký tham dự kỳ thẩm định viên về giá
3. Thủ tục Cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
Nghị Định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá, phí, lệ phí và hóa đơn
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A14103-dt-Nghi-dinh-xu-phat-vi-pham-lv-gia---20221003020834.doc
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;2012;
Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 26 tháng 11 năm 2014;
Căn cứ Luật giá (sửa đổi) ngày tháng năm 2023;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá, phí, lệ phí và hóa đơn; Nghị định số 49/2016/NĐ-CP ngày 27 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ.
“Điều 5. Hành vi vi phạm quy định về bình ổn giá
1. Hành vi chậm báo cáo, cung cấp tài liệu so với yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ công tác bình ổn giá:
a) Phạt cảnh cáo đối với hành vi chậm báo cáo, cung cấp tài liệu trong thời hạn dưới 05 ngày làm việc.
b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi báo cáo, cung cấp tài liệu quy định tại điểm a Khoản 1 Điều này trong thời hạn từ 05 ngày làm việc đến 10 ngày làm việc.
c) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi không nộp báo cáo cung cấp tài liệu theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều này sau 10 ngày làm việc.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện không đúng một trong những biện pháp bình ổn giá do cơ quan có thẩm quyền quy định.
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện một trong những biện pháp bình ổn giá do cơ quan có thẩm quyền quy định.”
2. Sửa đổi điều 6 Nghị Định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 6. Hành vi vi phạm chính sách trợ giá, trợ cước
1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi khai sai, khai khống hồ sơ thanh toán để nhận tiền trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hóa và các khoản tiền hỗ trợ để thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước; hành vi sử dụng không đúng mục đích, không đúng đối tượng được sử dụng tiền trợ giá, tiền trợ cước vận chuyển hàng hóa và các khoản tiền hỗ trợ để thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp vào ngân sách nhà nước toàn bộ số tiền có được do khai man, khai khống hồ sơ thanh toán tiền trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hóa, thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước;
b) Buộc nộp vào ngân sách nhà nước toàn bộ số tiền do không sử dụng đúng mục đích, đối tượng được sử dụng tiền trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hóa và các khoản tiền hỗ trợ để thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước.”
3. Sửa đổi, bổ sung Điều 7 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 7. Hành vi vi phạm quy định về hiệp thương giá
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định về giá tạm thời trong hiệp thương giá đã được cơ quan tổ chức hiệp thương giá quyết định:
1. Từ chối mua, bán hàng hóa, dịch vụ theo giá tạm thời trong hiệp thương giá;
2. Đã thống nhất được giá và thực hiện theo giá thống nhất nhưng không báo cáo với cơ quan tổ chức hiệp thương theo quy định.
3. Sử dụng mức giá tạm thời trong hiệp thương giá để làm căn cứ mua bán hoặc kiến nghị mua bán với các thương vụ giao dịch khác..”
4. Sửa đổi, bổ sung Điều 8 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 8. Hành vi không chấp hành đúng giá do cơ quan, người có thẩm quyền Quyết định
1.Phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ không đúng với mức giá do cơ quan, người có thẩm quyền quyết định.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc trả lại cho khách hàng toàn bộ tiền chênh lệch do bán cao hơn mức giá quy định và mọi chi phí phát sinh do hành vi vi phạm gây ra tại Khoản 1 Điều này, trong trường hợp khó hoặc không xác định được khách hàng để trả lại thì nộp toàn bộ số tiền chênh lệch vào ngân sách nhà nước”
5. Sửa đổi, bổ sung Điều 9 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 9. Hành vi vi phạm quy định về lập phương án giá hàng hóa, dịch vụ
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi chậm nộp báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ 5 ngày làm việc đến 10 ngày làm việc sau thời hạn.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi không nộp báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau thời hạn từ 10 ngày làm việc”
6. Sửa đổi, bổ sung Điều 10 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 10. Hành vi vi phạm quy định về giá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy định của Chính phủ
1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không báo cáo giá mua thóc gạo xuất khẩu, gạo trong nước, với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
2. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với hành vi xuất khẩu gạo thấp hơn giá sàn gạo xuất khẩu do cơ quan có thẩm quyền công bố hoặc quy định.”
7. Bổ sung điều 11b Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau
“Điều 11b. Hành vi vi phạm quy định về giá đối với Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của Chính phủ
1. Chậm báo cáo về Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
a) Phạt cảnh cáo đối với hành vi chậm báo cáo trong thời hạn dưới 05 ngày làm việc so với yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi chậm báo cáo quy định tại khoản 1 Điều này quá 05 ngày làm việc.
c) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi chậm
báo cáo quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn từ 05 ngày làm việc đến 10 ngày làm việc.
d) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi chậm báo cáo quy định tại khoản 1 Điều này quá 10 ngày làm việc.
2. Hạch toán; trích lập; chi sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu không đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
a) Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi trích lập; chi sử dụng hoặc hạch toán Quỹ bình ổn giá xăng dầu không đúng quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
b) Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi không trích lập; chi sử dụng hoặc hạch toán Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Chậm chuyển nộp; chuyển nộp không đủ; không chuyển nộp số tiền Quỹ bình ổn giá xăng dầu vào tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu tại ngân hàng nơi thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu mở tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
a) Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với hành vi chậm chuyển nộp, chuyển nộp không đủ số tiền Quỹ bình ổn giá xăng dầu vào tài khoản Quỹ bình ổn giá tại ngân hàng nơi thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu mở tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quá 05 ngày làm việc.
b) Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi chậm chuyển nộp, chuyển nộp không đủ số tiền Quỹ bình ổn giá xăng dầu vào tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu tại ngân hàng nơi thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu mở tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn từ 05 ngày làm việc đến 10 ngày làm việc.
c) Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi chậm chuyển nộp, chuyển nộp không đủ số tiền Quỹ bình ổn giá xăng dầu vào tài khoản Quỹ bình ổn giá tại ngân hàng nơi thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu mở tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quá 10 ngày làm việc.
d) Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với hành vi không chuyển nộp số tiền Quỹ bình ổn giá xăng dầu vào tài khoản Quỹ bình ổn giá tại ngân hàng nơi thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu mở tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với hành vi chậm chuyển nộp toàn bộ số dư Quỹ bình ổn giá tại doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước trong trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi giấy xác nhận đủ điều kiện làm thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, hoặc không làm thủ tục cấp mới khi giấy xác nhận đủ điều kiện làm thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu hết hạn, hoặc thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu chủ động đăng ký không tiếp tục làm thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, hoặc doanh nghiệp là thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu bị phá sản, giải thể, theo quy định hoặc yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
5. Đối với hành vi không công khai, công khai không đầy đủ về Quỹ bình ổn giá theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
a) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi công khai không đầy đủ về Quỹ bình ổn giá theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
b) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi chậm công khai về Quỹ bình ổn giá theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
c) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi không công khai về Quỹ bình ổn giá theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
6. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp vào Quỹ bình ổn giá xăng dầu toàn bộ số tiền do hạch toán, trích lập, chi sử dụng không đúng quy định và khoản lãi suất ngày 0,03% tính trên số tiền do hạch toán, trích lập, chi sử dụng không đúng quy định tại Khoản 2 Điều này;
b) Buộc nộp vào Quỹ bình ổn giá xăng dầu toàn bộ số tiền chưa chuyển nộp, chuyển nộp không đủ, không chuyển nộp và khoản lãi suất ngày 0,03% tính trên số tiền chưa chuyển nộp vào Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định tại Khoản 3 Điều này;
c) Buộc chuyển nộp vào tài khoản Quỹ bình ổn giá xăng dầu đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này.
d) Buộc chuyển nộp vào ngân sách nhà nước toàn bộ số dư Quỹ bình ổn giá tại doanh nghiệp và khoản lãi suất ngày 0,03% tính trên toàn bộ số dư Quỹ bình ổn giá trong thời gian chậm nộp theo quy định tại khoản 4 Điều này.”
8. Sửa đổi, bổ sung Điều 12 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 12. Hành vi vi phạm quy định về kê khai giá hàng hóa, dịch vụ
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi kê khai không đủ các nội dung của văn bản kê khai giá sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận kê khai giá đã có văn bản nhắc nhở, yêu cầu nộp lại văn bản kê khai giá.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi không thông báo bằng văn bản về mức giá Điều chỉnh tăng hoặc giảm cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các trường hợp phải thực hiện thông báo giá theo quy định của pháp luật về giá;
3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Không kê khai giá đúng thời hạn kể từ ngày định giá, điều chỉnh giá.
b) Không kê khai giảm giá phù hợp với biến động giảm giá của yếu tố hình thành giá theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
c) Kê khai không đúng mẫu theo quy định;
d) Không thực hiện báo cáo theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn quy định.
4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi bán không đúng giá kê khai với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
5. Đối với hành vi không kê khai giá với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định:
a) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi không kê khai giá từ 01 đến 10 hàng hóa, dịch vụ cụ thể thuộc diện kê khai giá;
b) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản này trong trường hợp vi phạm nhiều lần, tái phạm; hành vi không kê khai giá từ 11 đến 20 hàng hóa, dịch vụ cụ thể thuộc diện kê khai giá;
c) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản này trong trường hợp vi phạm nhiều lần, tái phạm; hành vi không kê khai giá từ 21 hàng hóa, dịch vụ cụ thể thuộc diện kê khai giá trở lên;
d) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với hành vi không kê khai giá từ 21 hàng hóa, dịch vụ cụ thể thuộc diện kê khai giá trở lên trong trường hợp vi phạm nhiều lần, tái phạm.
6. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện kê khai hoặc đăng ký đối với mức giá đang áp dụng theo quy định đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 3, Khoản 4, Khoản 5 và Khoản 6 Điều này”.
9. Sửa đổi, bổ sung Điều 13 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 13. Hành vi vi phạm quy định về niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ
1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ tại địa Điểm phải niêm yết giá theo quy định của pháp luật;
b) Niêm yết giá không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng.
c) Niêm yết giá không đúng giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp vi phạm nhiều lần; tái phạm;
3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi bán cao hơn giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân định giá không thuộc Khoản 4 Điều này.
4.Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi bán cao hơn giá niêm yết đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục bình ổn giá, hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện.
5. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc trả lại cho khách hàng số tiền đã thu cao hơn giá niêm yết đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này, trường hợp không xác định được khách hàng để trả lại thì nộp vào ngân sách nhà nước.”
10. Sửa đổi, bổ sung Điều 15 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 15. Hành vi đưa tin thất thiệt của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh về thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi bịa đặt, loan tin, đưa tin không đúng sự thật về tình hình thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ gây tâm lý hoang mang trong xã hội và bất ổn thị trường.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; buộc đính chính, cải chính thông tin tại nơi đã đăng tải do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 Điều này.”
11. Sửa đổi, bổ sung Điều 18 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 18. Hành vi gian lận về giá
1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi gian lận bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết trong các giao dịch mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, phương thức vận chuyển, thanh toán, chất lượng; số lượng, tính năng, công dụng, hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc trả lại cho khách hàng mọi chi phí phát sinh do hành vi vi phạm hành chính gây ra.”
12. Sửa đổi, bổ sung Điều 19 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP như sau:
“PHẦN NỘI DUNG VỀ THẨM ĐỊNH GIÁ
Điều 20. Hành vi vi phạm quy định đối với doanh nghiệp thẩm định giá
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với các hành vi không thông báo bằng văn bản cho Bộ Tài chính sau thời gian 15 ngày làm việc trong các trường hợp sau:
a) Không bảo đảm một trong các điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo quy định pháp luật về giá;
b) Có sự thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
c) Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá bị mất, bị rách, bị cháy hoặc bị hủy hoại do thiên tai, địch họa hoặc lý do bất khả kháng khác;
d) Thay đổi về danh sách thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp;
đ) Doanh nghiệp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức sở hữu;
e) Doanh nghiệp bị giải thể, phá sản, tạm ngừng kinh doanh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về phá sản; tự chấm dứt kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; thay đổi cổ đông hoặc thành viên góp vốn là thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp;
g) Doanh nghiệp có thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp: bị cấm hành nghề thẩm định giá theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; bị truy cứu trách nhiệm hình sự; bị kết án một trong các tội về kinh tế, chức vụ liên quan đến tài chính, giá, thẩm định giá bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; bị kết án về tội kinh tế từ nghiêm trọng trở lên; có hành vi vi phạm pháp luật về tài chính bị xử phạt vi phạm hành chính.
h) Doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Không gửi Báo cáo giải pháp khắc phục sai sót và thực hiện kiến nghị của Đoàn kiểm tra của Bộ Tài chính sau thời gian 05 ngày làm việc kể từ ngày cuối cùng phải gửi báo cáo theo quy định;
b) Không thông báo bằng văn bản cho Bộ Tài chính sau thời gian 35 ngày làm việc kể từ ngày đặt cơ sở hoặc chấm dứt hoạt động của cơ sở kinh doanh dịch vụ thẩm định giá ở nước ngoài;
c) Không thực hiện báo cáo, cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật về hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá sau thời gian 05 ngày làm việc kể từ ngày phải báo cáo, cung cấp thông tin về hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá;
d) Không cung cấp chứng thư thẩm định giá, báo cáo kết quả thẩm định giá hoặc các tài liệu có liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau thời gian 05 ngày làm việc kể từ ngày phải báo cáo, cung cấp thông tin về hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá.
3. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Thực hiện thẩm định giá mà không có hợp đồng cung cấp dịch vụ thẩm định giá;
b) Phát hành Chứng thư thẩm định giá hoặc Báo cáo thẩm định giá không có đủ các thông tin cơ bản theo hướng dẫn tại Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
c) Ký kết hợp đồng dịch vụ thẩm định giá trong thời gian doanh nghiệp thẩm định giá không bảo đảm một trong các điều kiện tương ứng loại hình doanh nghiệp quy định tại Luật Giá nhưng chưa bị đình chỉ hoạt động thẩm định giá.
d) Trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp không đúng mức trích lập theo quy định;
e) Không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, đồng thời không trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp.
4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Lưu trữ không đầy đủ hồ sơ thẩm định giá theo quy định của pháp luật về thẩm định giá;
b) Lưu trữ hồ sơ thẩm định giá không đúng theo thời hạn quy định của pháp luật.
c) Sửa chữa, thay đổi nội dung hồ sơ thẩm định giá đang được lưu;
d) Không ban hành và niêm yết biểu giá dịch vụ thẩm định giá theo quy định;
đ) Trốn tránh hoặc trì hoãn thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng thẩm định giá trong trường hợp do lỗi của doanh nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
e) Không thực hiện tự đánh giá dịch vụ thẩm định giá tại doanh nghiệp theo quy định của Bộ Tài chính.
5. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Tranh giành khách hàng dưới hình thức ngăn cản, đe dọa, lôi kéo, mua chuộc, hành vi hạ giá dịch vụ bất hợp lý và cạnh tranh không lành mạnh khác;
b) Thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá.
6. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Không thực hiện đúng hướng dẫn về khảo sát thực tế, thu thập thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định giá;
b) Không thực hiện đúng cách tiếp cận và phương pháp thẩm định giá theo hướng dẫn tại Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
c) Không áp dụng đủ các phương pháp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về giá.
7. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Giả mạo, thuê, mượn Thẻ thẩm định viên về giá;
b) Giả mạo hồ sơ đăng ký cấp, cấp lại giấy chứng nhận đủ kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá;
c) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thỏa thuận trong hợp đồng.
8. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Thực hiện thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá là người có liên quan theo quy định của Luật doanh nghiệp;
b) Phát hành chứng thư thẩm định giá hoặc báo cáo kết quả thẩm định giá được ký bởi người không phải thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá tại thời điểm phát hành hoặc bởi thẩm định viên về giá chưa được Bộ Tài chính thông báo về việc đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá;
c) Phát hành chứng thư thẩm định giá hoặc báo cáo kết quả thẩm định giá trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá chưa được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
d) Phát hành chứng thư thẩm định giá hoặc báo cáo kết quả thẩm định giá trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá đã được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá nhưng đang bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá;
đ) Phát hành chứng thư thẩm định giá hoặc báo cáo kết quả thẩm định giá trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá đã được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá nhưng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, giám đốc chi nhánh không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp.
9. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi thông đồng về giá, thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá để trục lợi.
10. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Đình chỉ có thời hạn từ 30 ngày đến 40 ngày hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 6 Điều này;
b) Đình chỉ có thời hạn từ 40 ngày đến 50 ngày hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 8 và Khoản 9 Điều này.
11. Biện pháp khắc phục hậu quả: Hủy kết quả thẩm định giá do hành vi vi phạm hành chính tại Khoản 8 và Khoản 9 Điều này.
Điều 21. Hành vi vi phạm quy định đối với thẩm định viên về giá
1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá.
2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Không thực hiện đúng hướng dẫn về khảo sát thực tế, thu thập thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định giá;
b) Không thực hiện đúng cách tiếp cận và phương pháp thẩm định giá theo hướng dẫn tại Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
c) Không áp dụng đủ các phương pháp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về giá.
3. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thoả thuận trong hợp đồng.
4. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Giả mạo, cho thuê, cho mượn Thẻ thẩm định viên về giá; sử dụng Thẻ thẩm định viên về giá trái với quy định tại Luật này và pháp luật có liên quan;
b) Phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá với tư cách cá nhân;
c) Ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá không đúng với lĩnh vực, nơi làm việc được thông báo hành nghề;
d) Thực hiện thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá là người có liên quan theo quy định của Luật doanh nghiệp.
5. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với hành vi thông đồng về giá, thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá để trục lợi.
6. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tước có thời hạn từ 30 ngày đến 50 ngày Thẻ thẩm định viên về giá đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều này;
b) Tước có thời hạn từ 50 ngày đến 70 ngày Thẻ thẩm định viên về giá đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 4 Điều này;
c) Tước có thời hạn từ 70 ngày đến 90 ngày Thẻ thẩm định viên về giá đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 5 Điều này.
7. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp vào ngân sách nhà nước khoản tiền do thông đồng với khách hàng, khoản tiền thu lợi bất chính (nếu có) đối với hành vi vi phạm tại Khoản 3, Điểm a Khoản 4 và Khoản 5 Điều này;
b) Hủy kết quả thẩm định giá do hành vi vi phạm hành chính tại Khoản 4 và Khoản 5 Điều này.
Điều 22. Hành vi vi phạm quy định đối với khách hàng thẩm định giá
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đối với hành vi lựa chọn tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá để ký hợp đồng thẩm định giá.
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đối với một trong các hành vi sau:
a) Sử dụng Chứng thư thẩm định giá đã hết thời gian hiệu lực;
b) Sử dụng Chứng thư thẩm định giá không theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá.
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đối với hành vi cung cấp không chính xác, không trung thực, không đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến tài sản cần thẩm định giá.
4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đối với hành vi mua chuộc, hối lộ, thông đồng với thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giá để trục lợi.
5. Biện pháp khắc phục hậu quả: Hủy kết quả thẩm định giá do hành vi vi phạm hành chính tại Khoản 4 Điều này.
Điều 23. Hành vi vi phạm đối với đơn vị tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với đơn vị tổ chức đào tạo, bồi dưỡng có một trong các hành vi sau:
a) Không gửi thông báo mở khóa học, lớp học kèm theo hồ sơ tài liệu theo quy định trước khi mở khóa học, lớp học;
b) Tổ chức một lớp học quá số học viên theo quy định;
c) Thực hiện không đúng việc lấy ý kiến đánh giá của học viên trên Phiếu đánh giá chất lượng khóa học theo quy định.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với đơn vị tổ chức đào tạo, bồi dưỡng có một trong các hành vi sau:
a) Không đảm bảo về nội dung, chương trình, thời lượng tối thiểu của khóa học, lớp học theo quy định;
b) Không thực hiện việc lấy ý kiến đánh giá của học viên trên Phiếu đánh giá chất lượng khóa học theo quy định.
c) Không báo cáo kết quả tổ chức khóa học, lớp học kèm theo hồ sơ, tài liệu theo quy định sau khi kết thúc khóa học, lớp học;
d) Không báo cáo một năm tình hình hoạt động đào tạo, bồi dưỡng;
đ) Bố trí giảng viên không đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định;
e) Biên soạn và sử dụng tài liệu đào tạo, bồi dưỡng không đúng so với quy định;
g) Thực hiện kiểm tra đánh giá kết quả học tập không đúng so với quy định;
h) Cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận không đúng so với mẫu chứng chỉ, giấy chứng nhận theo quy định của Bộ Tài chính;
i) Lưu trữ hồ sơ liên quan đến tổ chức đào tạo, bồi dưỡng không đầy đủ, không đúng thời gian theo quy định.
3. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với đơn vị tổ chức đào tạo, bồi dưỡng có một trong các hành vi sau:
a) Cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận cho học viên không đạt yêu cầu khóa học, lớp học theo quy định của pháp luật về thời gian học và kết quả kiểm tra;
b) Cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận cho những người thực tế không tham gia học.
4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với đơn vị tổ chức đào tạo, bồi dưỡng có một trong các hành vi sau:
a) Mở khóa học, lớp học khi không đủ điều kiện theo quy định của Bộ Tài chính;
b) Mở khóa học, lớp học khi chưa được Bộ Tài chính chấp thuận;
c) Mở khóa học, lớp học khi không có tên trong danh sách các đơn vị được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng theo quy định của Bộ Tài chính.
5. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Đình chỉ hoạt động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian từ 01 tháng đến 03 tháng kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực đối với hành vi vi phạm tại Khoản 2 và Điểm a Khoản 3 Điều này;
b) Đình chỉ hoạt động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian từ 03 tháng đến 06 tháng kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực đối với hành vi vi phạm tại Điểm b Khoản 3 Điều này;
c) Đình chỉ hoạt động tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian từ 06 tháng đến 09 tháng kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực đối với hành vi vi phạm tại Điểm a Khoản 4 Điều này.
6. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc báo cáo cho Bộ Tài chính nội dung về tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 1 và Điểm c và d Khoản 2 Điều này.
b) Buộc cấp lại chứng chỉ, giấy chứng nhận đào tạo, bồi dưỡng cho các học viên tham gia học đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm h Khoản 2 Điều này;
c) Buộc thu hồi và không công nhận chứng chỉ, giấy chứng nhận đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời buộc nộp vào ngân sách nhà nước số tiền thu lợi do hành vi vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều này;
d) Buộc thu hồi và không công nhận chứng chỉ, giấy chứng nhận đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời buộc hoàn trả chi phí đào tạo, bồi dưỡng cho các học viên tham gia học đối với hành vi vi phạm quy định Khoản 4 Điều này.”
Điều 2. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực từ ngày tháng năm 2023 và bãi bỏ Điều 5, Khoản 2 Điều 7, Điều 8, khoản 4 và khoản 6 Điều 12, điểm b khoản 2, khoản 4 và khoản 6 Điều 13, Điều 14, khoản 2 Điều 15, Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều 21 của Nghị Định Nghị định số 109/2013/NĐ-CP;
2. Việc xử lý đối với hành vi vi phạm về giá đã xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng theo quy định tại Nghị định này mà áp dụng quy định xử lý vi phạm tại thời Điểm xảy ra hành vi vi phạm đó.
Trường hợp mức xử phạt đối với cùng một hành vi quy định tại Nghị định này nhẹ hơn mức xử phạt quy định tại các Nghị định trước thì áp dụng mức xử phạt theo quy định của Nghị định này, kể cả trường hợp xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, đã bị lập biên bản, nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định xử lý hoặc đã ra quyết định xử lý nhưng đang trong thời hạn giải quyết khiếu nại thì xem xét, ra quyết định theo mức xử phạt quy định tại Nghị định này.
3. Các quy định khác về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giá không nêu tại Nghị định được thực hiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính
Điều 3: Tổ chức thực hiện
1. Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định này.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
Nghị Định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá.
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A14102-dt-Nghi-dinh-ve-tham-dinh-gia---20221003020834.doc
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật giá số /2023/QH15 ngày tháng 6 năm 2023;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá
Chương I
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá, bao gồm: đăng ký hành nghề thẩm định giá; trình tự, thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; hội đồng thẩm định giá.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Nghị định này áp dụng đối với: thẩm định viên về giá; doanh nghiệp thẩm định giá; thành viên hội đồng thẩm định giá; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động thẩm định giá.
Chương II
QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Mục 1
ĐĂNG KÝ HÀNH NGHỀ THẨM ĐỊNH GIÁ
Điều 3. Hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá
1. Giấy đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp theo quy định của Bộ Tài chính;
2. Bản sao Thẻ thẩm định viên về giá;
3. Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền cấp trong thời hạn không quá sáu (06) tháng tính đến ngày nộp hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá;
4. Bản sao Giấy cập nhật kiến thức về thẩm định giá;
5. Bản sao chứng thực Giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp có thời gian phù hợp với thời hạn lao động tại hợp đồng lao động đối với trường hợp người có Thẻ thẩm định viên về giá là người nước ngoài trừ trường hợp pháp luật lao động Việt Nam quy định không cần phải có giấy phép lao động;
6. Bản sao chứng thực hoặc sao y bản chính Hợp đồng lao động tại doanh nghiệp thẩm định giá của người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề, ghi rõ nơi làm việc, thời gian làm việc và công việc phải làm phù hợp với nội dung đăng ký hành nghề thẩm định giá;
7. Tài liệu chứng minh thời gian làm việc tại doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá từ 36 tháng trở lên của người có Thẻ thẩm định viên về giá theo quy định của Bộ Tài chính.
Điều 4. Trình tự, thủ tục đăng ký, thay đổi nơi làm việc, chấm dứt hành nghề thẩm định giá
1. Trường hợp đăng ký hành nghề thẩm định giá
a) Người có Thẻ thẩm định viên về giá phải lập 01 bộ hồ sơ theo quy định tại Điều 3 Thông tư này gửi đến Bộ Tài chính thông qua doanh nghiệp thẩm định giá. Các văn bằng, chứng chỉ nếu bằng tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch bằng tiếng Việt đã được công chứng hoặc chứng thực bởi cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Người có Thẻ thẩm định viên về giá phải chịu trách nhiệm về các thông tin đã kê khai trong hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá. Doanh nghiệp thẩm định giá và tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc xác nhận thông tin trong hồ sơ đăng ký hành nghề phải chịu trách nhiệm liên đới về tính trung thực của thông tin đã xác nhận.
b) Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá chịu trách nhiệm xem xét, rà soát hồ sơ bảo đảm người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ điều kiện đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp mình và ký xác nhận trên Giấy đăng ký hành nghề thẩm định giá của từng người có Thẻ thẩm định viên về giá.
c) Hồ sơ gửi trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện đến Bộ Tài chính.
d) Trường hợp cần làm rõ các thông tin trong hồ sơ đăng ký hành nghề, Bộ Tài chính có quyền yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá giải trình hoặc cung cấp tài liệu phục vụ cho việc kiểm tra, đối chiếu, xác minh quá trình làm việc và các thông tin khác trong hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá.
đ) Bộ Tài chính ban hành Thông báo công bố Danh sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá định kỳ chậm nhất vào ngày làm việc cuối cùng hàng tháng đối với các doanh nghiệp thẩm định giá đã nộp đủ hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá cho người có Thẻ thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp trước ngày 20 hàng tháng (theo dấu công văn đến), riêng tháng 12 là trước ngày 10 của tháng (theo dấu công văn đến).
2. Trường hợp thay đổi nơi làm việc của thẩm định viên về giá từ trụ sở chính về chi nhánh hoặc ngược lại, giữa các chi nhánh, doanh nghiệp thẩm định giá gửi văn bản đến Bộ Tài chính (Cục Quản lý giá) đề nghị thay đổi nơi làm việc tại doanh nghiệp kèm theo tài liệu chứng minh. Trường hợp người có Thẻ thẩm định viên về giá không muốn tiếp tục hành nghề hoặc không còn duy trì đủ điều kiện đăng ký hành nghề quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật giá, doanh nghiệp thẩm định giá có trách nhiệm báo cáo Bộ Tài chính xóa tên ra khỏi danh sách thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp kèm theo tài liệu chứng minh.
Bộ Tài chính ban hành Thông báo điều chỉnh thông tin tại Danh sách thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá định kỳ chậm nhất vào ngày làm việc cuối cùng hàng tháng đối với các doanh nghiệp thẩm định giá đã nộp đủ hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá cho người có Thẻ thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp trước ngày 20 hàng tháng (theo dấu công văn đến), riêng tháng 12 là trước ngày 10 của tháng (theo dấu công văn đến).
Mục 2
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC CẤP, CẤP LẠI GIẤY CHỨNG NHẬN ĐỦ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ THẨM ĐỊNH GIÁ
Điều 5. Hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Hồ sơ đề nghị cấp gồm:
a) Đơn đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá theo Mẫu do Bộ Tài chính quy định;
b) Bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
c) Hồ sơ đăng ký hành nghề theo quy định của ít nhất 05 người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp;
d) Danh sách xác nhận của doanh nghiệp về vốn góp của các thành viên trong trường hợp không có thông tin về danh sách thành viên góp vốn, danh sách cổ đông tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
2. Hồ sơ đề nghị cấp lại gồm:
a) Tài liệu tại điểm a và b khoản 1 Điều này;
b) Bản gốc Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đã được cấp trong trường hợp đề nghị cấp lại do thay đổi thông tin doanh nghiệp tại Giấy chứng nhận hoặc Giấy chứng nhận bị rách; xác nhận của Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan công an cấp xã, phường tại nơi Giấy chứng nhận bị mất trong trường hợp đề nghị cấp lại do Giấy chứng nhận bị mất;
c) Tài liệu chứng minh cho việc thay đổi thông tin doanh nghiệp tại Giấy chứng nhận trong trường hợp đề nghị cấp lại do thay đổi thông tin doanh nghiệp tại Giấy chứng nhận.
Điều 6. Thời hạn cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, Bộ Tài chính xem xét cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá hoặc trả lại hồ sơ để doanh nghiệp thực hiện bổ sung hồ sơ trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hoặc thông tin kê khai trong hồ sơ cần làm rõ.
2. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày hồ sơ bị trả lại, doanh nghiệp có trách nhiệm nhận lại hồ sơ. Quá thời hạn trên, Bộ Tài chính không có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ này.
Điều 7. Trách nhiệm nộp phí khi đề nghị cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp phí thẩm định cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trước khi nhận Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
2. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
Mục 3
ĐÌNH CHỈ KINH DOANH DỊCH VỤ THẨM ĐỊNH GIÁ,
THU HỒI GIẤY CHỨNG NHẬN ĐỦ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
DỊCH VỤ THẨM ĐỊNH GIÁ
Điều 8. Đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1.Doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 59 của Luật Giá.
2. Thời điểm đình chỉ là thời điểm doanh nghiệp vi phạm, trường hợp vi phạm trong quá khứ thì thời điểm đình chỉ là thời điểm Bộ Tài chính phát hiện hoặc tiếp nhận thông tin về vi phạm của doanh nghiệp. Thời gian đình chỉ tối đa 60ngày kể từ thời điểm đình chỉ.
3. Bộ Tài chính quyết định đình chỉ hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tối đa không quá 05 ngày làm việc kể từ thời điểm đình chỉ.
4. Trong thời gian bị đình chỉ, doanh nghiệp phải có báo cáo bằng văn bản gửi Bộ Tài chính về việc xử lý và khắc phục vi phạm của đơn vị kèm theo các tài liệu chứng minh liên quan, đồng thời đề nghị cho phép tiếp tục hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trừ trường hợp đình chỉ theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Căn cứ tình hình báo cáo của doanh nghiệp, Bộ Tài chính xem xét có thông báo bằng văn bản cho phép doanh nghiệp tiếp tục hoạt động thẩm định giá theo Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đã được cấp hoặc xử lý thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp.
5. Trong thời gian bị đình chỉ hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá phải chịu trách nhiệm về các hợp đồng thẩm định giá đã ký với khách hàng, hợp đồng lao động đã ký với thẩm định viên, nhân viênvà các nghĩa vụ pháp lý khác theo quy định, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
6. Bộ Tài chính đăng tải công khai trên trang Thông tin điện tử của Bộ Tài chính danh sách doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, danh sách doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện tiếp tục hoạt động thẩm định giá sau khi bị đình chỉ.
Điều 9. Thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
1. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 59 của Luật Giá.
2. Thời điểm bị thu hồi là thời điểm doanh nghiệp vi phạm, trường hợp vi phạm trong quá khứ thì thời điểm bị thu hồi là thời điểm Bộ Tài chính phát hiện, tiếp nhận thông tin về vi phạm của doanh nghiệp.
3. Bộ Tài chính quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tối đa không quá 05 ngày làm việc kể từ thời điểm thu hồi; đăng tải công khai danh sách doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; xóa tên khỏi Danh sách công khai doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá trên trang Thông tin điện tử của Bộ Tài chính.
3. Doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải chấm dứt việc kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, kể từ ngày Quyết định thu hồi có hiệu lực.
Mục 4
HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH GIÁ
Điều 10. Nguyên tắc hoạt động của Hội đồng thẩm định giá
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thành lập Hội đồng thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 63 Luật giá quyết định thành phần tham gia Hội đồng thẩm định giá trong số người lao động thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng bảo đảm nguyên tắc quy định tai khoản 2 Điều 63 Luật giá.
2. Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Hội đồng thẩm định giá quyết định thành lập Tổ giúp việc.
3. Hội đồng thẩm định giá làm việc theo nguyên tắc tập thể. Phiên họp thẩm định giá chỉ được tiến hành khi có mặt ít nhất 2/3 số lượng thành viên của Hội đồng thẩm định giá nhà nước trở lên tham dự. Trường hợp Hội đồng thẩm định giá chỉ có 03 thành viên thì phiên họp phải có mặt đủ 03 thành viên. Chủ tịch Hội đồng thẩm định giá điều hành phiên họp thẩm định giá. Trước khi tiến hành phiên họp thẩm định giá, những thành viên vắng mặt phải có văn bản gửi tới Chủ tịch Hội đồng thẩm định giá nêu rõ lý do vắng mặt và có ý kiến độc lập của mình về các vấn đề liên quan đến giá của tài sản cần thẩm định.
Hội đồng thẩm định giá kết luận về giá của tài sản theo ý kiến đa số đã được biểu quyết và thông qua của thành viên Hội đồng có mặt tại phiên họp. Trong trường hợp có ý kiến ngang nhau thì bên có biểu quyết của Chủ tịch Hội đồng là ý kiến quyết định. Thành viên của Hội đồng thẩm định giá có quyền bảo lưu ý kiến của mình nếu không đồng ý với kết luận về giá của tài sản do Hội đồng quyết định; ý kiến bảo lưu đó được ghi vào Biên bản phiên họp thẩm định giá tài sản.
4. Hội đồng thẩm định giá tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều này chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ quy định tại Quyết định thành lập Hội đồng. Các trường hợp phát sinh sau khi Hội đồng thẩm định giá chấm dứt hoạt động sẽ do cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng chủ trì xử lý.
5. Hội đồng thẩm định giá được sử dụng con dấu của cơ quan quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá tài sản.
Điều 11. Quyền, nghĩa vụ của thành viên Hội đồng thẩm định giá
1. Thành viên của Hội đồng thẩm định giá có quyền:
a) Tiếp cận thông tin, tài liệu có liên quan phục vụ cho việc thẩm định giá tài sản;
b) Đưa ra nhận định, đánh giá của mình trong quá trình thẩm định giá;
c) Biểu quyết để xác định giá của tài sản; trường hợp có ý kiến khác thì có quyền bảo lưu ý kiến của mình và được ghi vào biên bản họp Hội đồng;
d) Được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật về thẩm định giá và quy định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Thành viên của Hội đồng thẩm định giá có nghĩa vụ:
a) Tuân thủ trình tự thẩm định giá tài sản theo quy định;
b) Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ; tính trung thực, khách quan trong quá trình thẩm định giá tài sản và chịu trách nhiệm trước pháp luậtvề ý kiến nhận định, đánh giá của mình quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều này;
c) Bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật;
d) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Chương III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 12. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày tháng năm 2024.
2. Bãi bỏ Nghị định 89/2013/NĐ-CP ngày 06 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật giá về thẩm định giá, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định 12/2021/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2021.
3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Nghị Định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá về quản lý, điều tiết giá.
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A14101-dt-Nghi-dinh-ve-quan-ly-dieu-tiet-gia---20221003020834.doc
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật giá số 11/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2012;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá về hoạt động quản lý, điều tiết giá của nhà nước.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; người tiêu dùng; cơ quan nhà nước; tổ chức, cá nhân khác liên quan đến hoạt động trong lĩnh vực giá, thẩm định giá trên lãnh thổ Việt Nam.
Chương II
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ, ĐIỀU TIẾT GIÁ CỦA NHÀ NƯỚC
Mục 1
BÌNH ỔN GIÁ
Điều 3. Hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá
1. Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá đáp ứng các tiêu chí theo quy định tại Điều 19 của Luật Giá, bao gồm:
a) Xăng, dầu thành phẩm;
b) Sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi;
c) Thóc, gạo tẻ thường;
d) Phân urê; phân NPK;
đ) Thức ăn chăn nuôi;
e) Vac – xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm;
g) Thuốc bảo vệ thực vật theo quy định của pháp luật;
h) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
i) Trang thiết bị, vật tư y tế.
2. Các bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan hướng dẫn chi tiết mặt hàng thực hiện bình ổn giá phù hợp với từng thời kỳ đối với hàng hóa, dịch vụ quy định tại khoản 1 Điều này. Nội dung hướng dẫn chi tiết gồm các chủng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể của mặt hàng gắn với các tiêu chuẩn, đặc điểm kỹ thuật và tên gọi của chủng loại hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật quản lý chuyên ngành về hàng hóa, dịch vụ đó. Trách nhiệm hướng dẫn của các bộ như sau:
a) Bộ Công Thương chủ trì hướng dẫn chi tiết đối với mặt hàng quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều này.
b) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì hướng dẫn chi tiết đối với mặt hàng quy định tại điểm c, điểm d, điểm đ, điểm e, điểm g khoản 1 Điều này.
c) Bộ Y tế chủ trì hướng dẫn chi tiết đối với mặt hàng quy định tại điểm h, điểm i khoản 1 Điều này.
Điều 4. Trình tự trình và ban hành điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá
1. Các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề xuất điều chỉnh bổ sung vào hoặc loại bỏ khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý trên cơ sở phân tích bối cảnh, đánh giá sự cần thiết hoặc không còn cần thiết bình ổn giá đối với mặt hàng đó.
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi đề xuất điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá đến Bộ Tài chính gồm các tài liệu như sau:
a) Công văn đề xuất điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, trong đó nêu rõ tên mặt hàng;
b) Báo cáo phân tích bối cảnh, đánh giá sự cần thiết hoặc không còn cần thiết bình ổn giá đối với mặt hàng đó theo các tiêu chí quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật giá và đánh giá tác động về việc bổ sung vào hoặc loại bỏ mặt hàng đó khỏi vào danh mục bình ổn giá;
c) Các tài liệu liên quan khác.
3. Bộ Tài chính chủ trì trình Chính phủ ban hành điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá theo trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
4. Trong trường hợp khẩn cấp do thiên tai, dịch bệnh hoặc các trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; đối với hàng hóa, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá quy định tại Điều 3 Nghị định này thì trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh, Bộ Tài chính chủ trì trình Chính phủ quyết định ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn tạm thời theo hình thức Nghị quyết của Chính phủ. Trách nhiệm đề xuất hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá tạm thời của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
Điều 5. Thực hiện bình ổn giá
1. Việc thực hiện bình ổn giá trên phạm vi vùng hoặc cả nước được triển khai theo trình tự như sau:
a) Bộ quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ đang có dấu hiệu biến động giá cần xem xét thực hiện bình ổn giá thực hiện tổng hợp thông tin giá cả, thị trường của hàng hóa, dịch vụ để đánh giá sơ bộ về tình hình biến động giá của hàng hóa, dịch vụ đó theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật giá trên phạm vi vùng là từ 2 tỉnh trở lên hoặc phạm vi cả nước. Trên cơ sở đánh giá sơ bộ, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có văn bản đề xuất thực hiện bình ổn giá gửi Bộ Tài chính kèm theo báo cáo đánh giá sơ bộ và đề xuất mức độ, phạm vi bình ổn giá.
b) Bộ Tài chính là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo điều hành giá có trách nhiệm tổng hợp báo cáo đề xuất thực hiện bình ổn giá của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và báo cáo khác của các bộ, cơ quan ngang bộ, tổ chức có liên quan theo yêu cầu của Bộ Tài chính. Trong 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề xuất thực hiện bình ổn giá của bộ, cơ quan ngang bộ, Bộ Tài chính tham mưu, báo cáo Trưởng ban Ban chỉ đạo điều hành giá chỉ đạo tổ chức họp Ban chỉ đạo điều hành giá.
c) Trên cơ sở báo cáo đề xuất của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính, Ban chỉ đạo điều hành giá tiến hành họp bàn về chủ trương bình ổn giá bao gồm phạm vi bình ổn là vùng hoặc cả nước, danh sách lựa chọn một số biện pháp bình ổn giá, thời hạn bình ổn giá và phân công trách nhiệm cho Bộ quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá, các bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan theo quy định tại điểm b khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 21 Luật giá. Căn cứ kết quả cuộc họp Ban chỉ đạo điều hành giá, Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá quyết định và ban hành Thông báo về chủ trương bình ổn giá.
d) Bộ quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá có trách nhiệm triển khai kiểm tra yếu tố hình thành giá, kiểm soát hàng hoá tồn kho, kiểm tra số lượng, khối lượng hàng hóa hiện có theo phân công tại Thông báo của Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá và quy định tại điểm b khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 21 Luật giá.
đ) Trong 3 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc kiểm tra các nội dung nêu tại điểm d khoản 1 Điều này, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá có trách nhiệm ban hành Quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bình ổn giá theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 21 Luật giá và phù hợp với chủ trương bình ổn giá tại Thông báo của Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá.
2. Việc thực hiện bình ổn giá tại một địa phương khi xảy ra thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn bất ngờ được triển khai theo trình tự như sau:
a) Sở quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ đang có dấu hiệu biến động giá cần xem xét thực hiện bình ổn giá thực hiện tổng hợp thông tin giá cả, thị trường của hàng hóa, dịch vụ để đánh giá sơ bộ về tình hình biến động giá của hàng hóa, dịch vụ đó theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 Luật giá trên phạm vi địa phương. Trên cơ sở đánh giá sơ bộ, bộ, Sở quản lý ngành, lĩnh vực có văn bản đề xuất thực hiện bình ổn giá gửi Sở Tài chính kèm theo báo cáo đánh giá sơ bộ và đề xuất mức độ, phạm vi bình ổn giá.
b) Sở Tài chính có trách nhiệm tổng hợp báo cáo đề xuất thực hiện bình ổn giá của Sở quản lý ngành, lĩnh vực và báo cáo khác của các sở, ban, ngành, tổ chức có liên quan theo yêu cầu của Sở Tài chính. Trong 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề xuất thực hiện bình ổn giá của Sở quản lý ngành, lĩnh vực, Sở Tài chính trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét và quyết định chủ trương bình ổn giá bao gồm phạm vi bình ổn cụ thể trong phạm vi địa phương, danh sách lựa chọn một số biện pháp bình ổn giá, thời hạn bình ổn giá và phân công trách nhiệm cho Sở quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá, các sở, ban, ngành có liên quan.
c) Sở quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá có trách nhiệm triển khai kiểm tra yếu tố hình thành giá, kiểm soát hàng hoá tồn kho, kiểm tra số lượng, khối lượng hàng hóa hiện có theo phân công tại Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21, Điều 33 Luật giá trong thời gian tối đa không quá 10 ngày kể từ ngày nhận được Quyết định chủ trương bình ổn giá của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
d) Trong 2 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc kiểm tra các nội dung nêu tại điểm c khoản 2 Điều này, Sở quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá có trách nhiệm trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp bình ổn giá theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 Luật giá và phù hợp với chủ trương bình ổn giá của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành.
đ) Sở quản lý ngành, lĩnh vực về hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá tổ chức triển khai thực hiện bình ổn giá; định kỳ hàng tuần gửi báo cáo tình hình tổ chức thực hiện bình ổn giá, kiểm tra thực hiện biện pháp bình ổn giá đến Sở Tài chính để tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc báo cáo đột xuất gửi Sở Tài chính theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
e) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi báo cáo về việc quyết định chủ trương và báo cáo định kỳ hàng tuần về tình hình tổ chức triển khai bình ổn giá đến Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Ban chỉ đạo điều hành giá theo dõi, giám sát.
3. Căn cứ tình hình thực tế, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và áp dụng chương trình bình ổn giá thị trường trên địa bàn tỉnh trong các giai đoạn cần thiết trong năm nhằm ổn định giá cả thị trường; trình tự thực hiện chương trình bình ổn giá theo quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ cần xem xét thực hiện bình ổn giá chưa phân định rõ thuộc lĩnh vực quản lý của các bộ, sở quản lý ngành, lĩnh vực thì Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo giao một bộ, sở quản lý ngành, lĩnh vực để thực hiện bình ổn giá theo trình tự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
5. Tổ chức, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bình ổn giá đã được Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá, Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định và hướng dẫn của các bộ, sở. Trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Mục 2
ĐỊNH GIÁ
Điều 6. Trình tự, thủ tục đề nghị điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá
1. Các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề xuất điều chỉnh bổ sung vào hoặc loại bỏ khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực quản lý trên cơ sở phân tích bối cảnh, đánh giá sự cần thiết hoặc không còn cần thiết định giá đối với mặt hàng đó theo các tiêu chí quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật giá và đánh giá tác động về việc bổ sung vào hoặc loại bỏ mặt hàng đó khỏi vào danh mục định giá.
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi đề xuất điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá đến Bộ Tài chính gồm các tài liệu như sau:
a) Công văn đề xuất điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, trong đó nêu rõ tên mặt hàng;
b) Báo cáo phân tích bối cảnh, đánh giá sự cần thiết hoặc không còn cần thiết định giá đối với mặt hàng đó theo các tiêu chí quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật giá và đánh giá tác động về việc bổ sung vào hoặc loại bỏ mặt hàng đó khỏi vào danh mục định giá;
c) Các tài liệu liên quan khác.
3. Trong 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề xuất điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, Bộ Tài chính chủ trì tổng hợp, trình Chính phủ xem xét, quyết định.
Điều 7. Trình tự, thời hạn ban hành Quyết định giá
1. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá Bộ, cơ quan ngang Bộ:
a) Đơn vị chức năng thuộc Bộ lập phương án giá; đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ có trách nhiệm thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình Bộ trưởng quyết định.
b) Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Bộ trưởng Bộ Tài chính và thuộc lĩnh vực quản lý của các Bộ: Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm tổ chức lập phương án giá, có văn bản gửi Bộ Tài chính đề nghị định giá; đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định;
c) Đối với việc định giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước đặt hàng hoặc định giá khi mua hàng dự trữ quốc gia theo phương thức chỉ định thầu, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm lập phương án giá gửi Bộ quản lý ngành, lĩnh vực thẩm định; đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý giá thuộc Bộ có trách nhiệm thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình Bộ trưởng quyết định.
d) Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền định giá của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an do Bộ trưởng các bộ này quy định việc lập, thẩm định phương án giá và trình Quyết định giá.
2. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định giá của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Sở quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm tổ chức lập phương án giá trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định sau khi có ý kiến thẩm định của Sở Tài chính. Riêng đối với định giá đất, việc lập, thẩm định phương án giá và trình Quyết định giá thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Đơn vị được giao trách nhiệm lập phương án giá của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức khảo sát thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh tại một số đơn vị; diễn biến cung cầu; mặt bằng giá thị trường để xây dựng phương án giá và đánh giá tác động của mức giá đến kinh tế xã hội, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân. Các Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở biến động yếu tố hình thành giá chủ động rà soát, đánh giá hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền định giá lập phương án giá hoặc báo cáo đánh giá chi tiết về các yếu tố hình thành giá gửi cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định giá hàng hóa, dịch vụ.
4. Thời hạn thẩm định phương án giá và thời hạn ban hành Quyết định giá
a) Cơ quan, đơn vị có thẩm quyền thẩm định phương án giá quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản về nội dung phương án giá chậm nhất là 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ Hồ sơ phương án giá theo quy định; trường hợp cơ quan, đơn vị có thẩm quyền thẩm định phương án giá cũng là cơ quan lập hồ sơ trình cấp có thẩm quyền quyết định giá thì thời gian thẩm định phương án giá và lập hồ sơ trình cấp có thẩm quyền không quá 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ Hồ sơ phương án giá.
b) Kể từ ngày nhận được phương án giá đã có ý kiến của cơ quan có liên quan và văn bản thẩm định của cơ quan có thẩm quyền, thời hạn ban hành Quyết định giá đối với giá hàng hóa, dịch vụ do các Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định tối đa không quá 10 ngày làm việc.
c) Trường hợp cần thiết phải kéo dài thêm thời gian thẩm định phương án giá, quyết định giá thì cơ quan, đơn vị có thẩm quyền thẩm định phương án giá hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định giá phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do phải kéo dài cho cơ quan trình phương án giá biết; thời gian kéo dài không quá 15 ngày làm việc.
5. Bộ Tài chính quy định về Hồ sơ phương án giá.
Mục 3
HIỆP THƯƠNG GIÁ
Điều 8. Thành phần tham gia hiệp thương giá
Thành phần tham gia hiệp thương giá hàng hóa, dịch vụ bao gồm: cơ quan tổ chức hiệp thương giá theo quy định tại Điều 30 Luật Giá; đại diện bên mua, bên bán; đại diện cơ quan có liên quan theo yêu cầu của cơ quan tổ chức hiệp thương giá.
Điều 9. Tổ chức thực hiện hiệp thương giá
1. Trường hợp tổ chức hiệp thương giá, thẩm quyền và trách nhiệm tổ chức hiệp thương giá theo quy định tại Điều 29 của Luật Giá.
2. Trình tự, thủ tục tổ chức hiệp thương giá thực hiện như sau :
a) Bên mua và bên bán gửi Hồ sơ đề nghị hiệp thương giá đến cơ quan tổ chức hiệp thương giá bao gồm các nội dung về tên hàng hóa, dịch vụ, mức giá kèm theo thông tin về chủng loại, quy cách, số lượng của hàng hóa, dịch vụ và các nội dung khác theo mẫu quy định;
b) Khi nhận được Hồ sơ đề nghị hiệp thương giá, trong thời gian tối đa 10 ngày làm việc, cơ quan tổ chức hiệp thương giá rà soát sơ bộ thành phần Hồ sơ đề nghị hiệp thương giá đủ theo quy định thì gửi thông báo bằng văn bản cho các bên tham gia hiệp thương giá về thời gian tổ chức hiệp thương. Trường hợp Hồ sơ đề nghị hiệp thương giá không đúng quy định, cơ quan tổ chức hiệp thương giá thông báo bằng văn bản cho các bên tham gia hiệp thương giá biết để hoàn chỉnh theo quy định trước khi tổ chức hiệp thương; các bên tham gia hiệp thương hoàn chỉnh Hồ sơ hiệp thương trong thời gian tối đa 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của cơ quan tổ chức hiệp thương và gửi lại cơ quan tổ chức hiệp thương tiếp tục rà soát sơ bộ theo quy định;
c) Tại Hội nghị hiệp thương giá, khi bên mua và bên bán thỏa thuận được với nhau về mức giá thì cơ quan tổ chức hiệp thương giá lập biên bản họp hội nghị hiệp thương gồm các nội dung về thông tin bên mua, bên bán, cơ quan tổ chức hiệp thương và các cơ quan có liên quan được mời dự họp (tên, địa chỉ, người đại diện được cử tham gia hội nghị hiệp thương), mức giá hai bên tự thỏa thuận thành công kèm theo thông tin về chủng loại, quy cách, số lượng của hàng hóa, dịch vụ đã nêu tại văn bản đề nghị hiệp thương của bên mua, bên bán và các nội dung khác (nếu có). Sau khi biên bản được lập và bên mua, bên bán, cơ quan tổ chức hiệp thương và cơ quan có liên quan ký xác nhận biên bản ngay tại Hội nghị thì Hội nghị hiệp thương kết thúc. Mức giá hiệp thương chỉ được áp dụng cho đúng vụ việc mua, bán và khối lượng hàng hóa, dịch vụ đã được các bên thỏa thuận thống nhất tại biên bản họp Hội nghị hiệp thương và văn bản đề nghị hiệp thương; mức giá hiệp thương không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác. Các bên chịu trách nhiệm về mức giá hiệp thương, việc tổ chức thực hiện mức giá hiệp thương.
d) Trường hợp bên mua và bên bán không thương lượng thỏa thuận được mức giá tại Hội nghị hiệp thương giá thì cơ quan hiệp thương lập biên bản để ghi nhận nội dung hội nghị và tiến hành trình tự, thủ tục ban hành Quyết định mức giá hiệp thương như việc ban hành Quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá quy định tại Điều 24, Điều 25, Điều 26 của Luật giá. Các đơn vị có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu để cơ quan hiệp thương thực hiện định giá theo quy định và tổ chức thực hiện mức giá hiệp thương tại Quyết định giá của cơ quan tổ chức hiệp thương. Quyết định giá hiệp thương chỉ được áp dụng cho đúng đối tượng đề nghị hiệp thương và không có giá trị để áp dụng cho các trường hợp khác.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về Hồ sơ đề nghị hiệp thương giá và hồ sơ phương án giá của các bên mua, bên bán phải gửi cơ quan tổ chức hiệp thương xem xét, ra quyết định mức giá khi hai bên không thương lượng thỏa thuận được mức giá tại Hội nghị hiệp thương giá.
Mục 4
KÊ KHAI GIÁ
Điều 10. Hàng hóa, dịch vụ kê khai giá
1. Danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá, thẩm quyền, trách nhiệm tiếp nhận kê khai giá được ban hành thống nhất tại phụ lục kèm theo Nghị định này.
2. Căn cứ vào tình hình thực tế, trường hợp cần điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá thì Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Chính phủ điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá. Trình tự trình và ban hành điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ kê khai giá thực hiện tương tự như trình tự trình và ban hành điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá quy định tại Điều 4 của Nghị định này.
Điều 11. Đối tượng kê khai giá
1. Bộ, cơ quan ngang Bộ tiếp nhận kê khai đối với đối tượng kê khai là cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bán buôn.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp nhận kê khai đối với đối tượng kê khai là cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bán lẻ.
Điều 12. Tổ chức tiếp nhận kê khai giá
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hàng hóa, dịch vụ thuộc diện kê khai giá có trách nhiệm gửi văn bản kê khai giá chậm nhất 02 ngày đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận kê khai giá.
2. Các cơ quan tiếp nhận kê khai giá có trách nhiệm tổ chức tiếp nhận kê khai giá bằng các hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến hoặc các hình thức khác phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo thuận lợi cho tổ chức cá nhân thực hiện kê khai.
Điều 13. Quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kê khai giá
1. Đối với cơ quan tiếp nhận kê khai:
a) Được sử dụng mức giá kê khai trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường theo quy định; trường hợp cần thiết để phục vụ công tác quản lý, điều hành giá, có thể yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá báo cáo một số yếu tố hình thành giá gây tác động đến việc điều chỉnh giá;
b) Tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị kê khai thực hiện theo các hình thức trực tuyến.
2. Đối với tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá:
a) Được lựa chọn phương thức kê khai giá phù hợp;
b) Thực hiện báo cáo theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Mục 5
NIÊM YẾT GIÁ
Điều 14. Địa điểm niêm yết giá
1. Siêu thị, trung tâm thương mại, chợ theo quy định của pháp luật, cửa hàng, cửa hiệu, ki-ốt, quầy hàng, nơi giao dịch thực hiện việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
2. Hội chợ triển lãm có bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
3. Trang thông tin điện tử hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
4. Các địa điểm khác theo quy định của pháp luật.
Điều 15. Cách thức niêm yết giá
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện niêm yết giá tại tối đa sản phẩm, dịch vụ các địa điểm quy định.
2. Việc niêm yết giá phải kịp thời ngay sau khi có quyết định giá của cơ quan có thẩm quyền hoặc của tổ chức, cá nhân và theo các hình thức thích hợp, rõ ràng và không gây nhầm lẫn cho khách hàng về mức giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bằng cách in, dán, ghi giá trên bảng, trên giấy hoặc trên bao bì của hàng hóa hoặc bằng hình thức khác tại nơi giao dịch hoặc nơi chào bán hàng hóa, dịch vụ để thuận tiện cho việc quan sát, nhận biết của khách hàng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Giá niêm yết là giá hàng hóa, dịch vụ đã bao gồm các loại thuế, phí và lệ phí (nếu có) của hàng hóa, dịch vụ đó.
Mục 6
GIÁ THAM CHIẾU
Điều 16. Nguyên tắc xây dựng, áp dụng giá tham chiếu
1. Giá tham chiếu được xây dựng trên cơ sở bình quân các mức giá điều tra, khảo sát trên thị trường hoặc tính toán từ chi phí, giá thành bình quân của hàng hóa, dịch vụ;
2. Cơ quan có thẩm quyền công bố, thông tin về giá tham chiếu quy định về phương pháp, cách thức xác định, công bố và nguyên tắc áp dụng giá tham chiếu phù hợp với tính chất của hàng hóa, dịch vụ đảm bảo công khai, minh bạch.
3. Cá nhân, tổ chức kinh doanh tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ của mình trên cơ sở tham khảo giá tham chiếu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố.
Điều 17. Danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện giá tham chiếu và thẩm quyền công bố, thông tin về giá tham chiếu
1. Giá tham chiếu xăng, dầu thành phẩm là giá cơ sở do Bộ Công Thương xây dựng, công bố theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu; giá cơ sở xăng dầu được xác định theo giá xăng dầu thế giới được giao dịch trên thị trường quốc tế và các yếu tố hình thành giá tổng hợp từ các nguồn xăng dầu sản xuất trong nước, nhập khẩu.
2. Giá tham chiếu khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) do Bộ Công Thương xây dựng, công bố trên theo quy định Nghị định của Chính phủ về kinh doanh khí; giá tham chiếu khí dầu mỏ hóa lỏng được xác định theo thế giới được giao dịch trên thị trường quốc tế và các yếu tố hình thành giá tổng hợp từ các nguồn xăng dầu sản xuất trong nước, nhập khẩu.
3. Giá tham chiếu than nhập khẩu do Bộ Tài chính xây dựng, công bố trên cơ sở giá thế giới được giao dịch trên thị trường quốc tế và các yếu tố hình thành giá tổng hợp từ các nguồn kinh doanh than trong nước và nhập khẩu.
4. Giá tham chiếu dịch vụ viễn thông do Bộ Thông tin và truyền thông xây dựng, công bố theo quy định của pháp luật về viễn thông; giá tham chiếu dịch vụ viễn thông được xác định trên cơ sở khảo sát, tổng hợp giá bình quân trên thị trường trong nước.
5. Trường hợp cần thiết, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực báo cáo Chính phủ để bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện giá tham chiếu và chủ trì hướng dẫn việc xác định, áp dụng giá tham chiếu.
Mục 7
KIỂM TRA YẾU TỐ HÌNH THÀNH GIÁ
Điều 18. Thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Trình tự kiểm tra yếu tố hình thành giá:
a) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra yếu tố hình thành giá có văn bản yêu cầu kiểm tra yếu tố hình thành giá và gửi đến tổ chức, cá nhân được yêu cầu kiểm tra các yếu tố hình thành giá;
b) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra yếu tố hình thành giá có văn bản yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu cần thiết phục vụ kiểm tra yếu tố hình thành giá;
c) Tiến hành kiểm tra yếu tố hình thành giá;
d) Thông báo kết luận kiểm tra yếu tố hình thành giá.
2. Thời hạn kiểm tra các yếu tố hình thành giá:
a) Thời gian một lần kiểm tra tối đa là 30 ngày làm việc, kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền ra quyết định kiểm tra các yếu tố hình thành giá. Trường hợp cần thiết phải kéo dài thêm thời gian kiểm tra thì cơ quan có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do phải kéo dài cho tổ chức, cá nhân được kiểm tra; thời hạn kiểm tra kéo dài không quá 15 ngày làm việc;
b) Trong thời hạn tối đa là 15 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra các yếu tố hình thành giá, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm ban hành và gửi văn bản thông báo kết luận kiểm tra đến tổ chức, cá nhân và các cơ quan liên quan.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Điều này.
Điều 19. Các biện pháp xử lý vi phạm trong kiểm tra yếu tố hình thành giá
1. Căn cứ kết quả kiểm tra, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện xử lý hành vi vi phạm theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giá.
2. Trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, cơ quan kiểm tra chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Chương III
CƠ SỞ DỮ LIỆU QUỐC GIA VỀ GIÁ
Điều 20. Đối tượng xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá
1. Cơ quan quản lý nhà nước về giá ở trung ương bao gồm Bộ Tài chính và bộ quản lý ngành, lĩnh vực; ở địa phương là Sở Tài chính các tỉnh có trách nhiệm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về giá phục vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngành, địa phương.
2. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia về giá. Trung tâm dữ liệu quốc gia về giá là đầu mối kết nối các hệ thống cơ sở dữ liệu về giá của các bộ, ngành và địa phương; cung cấp thông tin về giá phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước và theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
Điều 21. Nội dung, nguồn thông tin của cơ sở dữ liệu quốc gia về giá
1. Nội dung cơ sở dữ liệu quốc gia về giá bao gồm:
a) Giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá;
b) Giá hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký giá, kê khai giá;
c) Giá thị trường hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục báo cáo giá thị trường theo quy định của Bộ Tài chính;
d) Giá thị trường hàng hóa, dịch vụ cần thiết khác phục vụ công tác dự báo và quản lý nhà nước về giá;
đ) Các thông tin liên quan đến lĩnh vực thẩm định giá: Doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá, thi và quản lý cấp thẻ thẩm định viên về giá, thông tin về giá trị các tài sản được thẩm định và các thông tin khác theo quy định của pháp luật về giá và thẩm định giá;
e) Giá giao dịch, giá thị trường bất động sản;
g) Văn bản quản lý nhà nước về giá và các báo cáo tổng hợp;
h) Các thông tin khác phục vụ công tác quản lý giá theo quy định của pháp luật.
2. Nguồn thông tin và trách nhiệm đối với thông tin cung cấp phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá:
a) Thông tin do cơ quan quản lý nhà nước về giá tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập và do các cơ quan quản lý nhà nước cung cấp;
b) Thông tin do cơ quan quản lý nhà nước về giá mua từ các đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin;
c) Thông tin do Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp theo quy định tại Khoản 7 Điều 12 của Luật giá và các trường hợp phục vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực giá theo quy định;
d) Các tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với dữ liệu do mình cung cấp.
Điều 22. Khai thác và sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về giá
1. Thông tin lưu giữ trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được sử dụng vào các mục đích quy định tại khoản 1
Điều 43 của Luật giá. Cơ quan được giao khai thác dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá ở cấp nào được phép sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu về giá thuộc phạm vi quản lý của cấp đó. Cơ quan được giao quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá được phép cung cấp thông tin, dữ liệu về giá; cung cấp dịch vụ về tư vấn, hỗ trợ khi kết nối, tích hợp dữ liệu, truy cập thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin.
2. Đối tượng được khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật về hội, các tổ chức, cá nhân và đối tượng khác có nhu cầu liên quan đến việc quản lý, khai thác các thông tin về giá.
3. Các hình thức khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá:
a) Kết nối trực tiếp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá;
b) Tra cứu thông tin về giá được công khai trên Cổng (Trang) thông tin điện tử có nhiệm vụ công khai thông tin về cơ sở dữ liệu quốc gia về giá;
c) Theo văn bản yêu cầu được cơ quan, người có thẩm quyền chấp thuận.
4. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể Điều này.
Điều 23. Trách nhiệm và kinh phí xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá
1. Bộ Tài chính có trách nhiệm:
a) Quy định cụ thể về cơ sở dữ liệu quốc gia về giá;
b) Xây dựng, khai thác và quản lý vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá đảm bảo tính tương thích, khả năng tích hợp, chia sẻ thông tin và khả năng mở rộng, phát triển, kết nối được với các hệ thống cơ sở dữ liệu về giá của các bộ ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân khác;
c) Hướng dẫn việc thu thập, cập nhật, kết nối, cung cấp thông tin về giá và thẩm định giá phục vụ xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật; thực hiện chế độ bảo mật thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá theo quy định của pháp luật;
d) Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và đơn vị liên quan kết nối, chia sẻ, cung cấp thông tin thuộc Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá;
đ) Chủ trì hướng dẫn cụ thể về xây dựng, khai thác, quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
2. Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm: Phối hợp với Bộ Tài chính kết nối, chia sẻ, cung cấp thông tin thuộc cơ sở dữ liệu về giá trong phạm vi quản lý của bộ quản lý ngành, lĩnh vực vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
3. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, tổ chức, cá nhân có liên quan xây dựng, khai thác và quản lý vận hành cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương; phối hợp với đơn vị quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá để kết nối, chia sẻ thông tin từ cơ sở dữ liệu về giá tại địa phương với Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.
4. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể Điều này.
Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 24. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày tháng năm .
2. Bãi bỏ Nghị định số 177/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 149/2016/NĐ-CP ngày 11/11/2016 của Chính phủ.
Điều 25. Trách nhiệm thi hành Nghị định
1. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thi hành Nghị định này.
2. Các Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- Ban Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp;
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
- Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP,
Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KTTH (3b).
|
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Phạm Minh Chính
|
|
|
(Ban hành kèm theo Nghị định số /2023/NĐ-CP)
|
|
STT
|
Hàng hóa, dịch vụ
|
Cơ quan tiếp nhận kê khai giá
|
1
|
Xăng, dầu thành phẩm
|
Bộ TC/Bộ Công Thương/địa phương
|
2
|
Khí dầu mỏ hóa lỏng
|
Bộ TC/Bộ Công Thương/địa phương
|
3
|
Sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi
|
Bộ Công Thương/địa phương
|
4
|
Thực phẩm chức năng cho trẻ em dưới 06 tuổi theo quy định của Bộ Y tế
|
Bộ Công Thương/địa phương
|
5
|
Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật
|
Bộ Y tế/địa phương
|
6
|
Trang thiết bị, vật tư y tế
|
Bộ Y tế/địa phương
|
7
|
Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh cho người tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân; khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của nhà nước
|
Bộ Y tế/địa phương
|
8
|
Xi măng
|
Bộ Xây dựng/địa phương
|
9
|
Thép xây dựng
|
Bộ Xây dựng/địa phương
|
10
|
Than
|
Bộ Tài chính/địa phương
|
11
|
Thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm và thủy sản
|
Bộ TC/Bộ NNPTNT/địa phương
|
12
|
Thóc, gạo tẻ thường
|
Bộ TC/Bộ NNPTNT/địa phương
|
13
|
Phân urê, phân NPK
|
Bộ TC/Bộ NNPTNT/địa phương
|
14
|
Thuốc bảo vệ thực vật (thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh, thuốc trừ cỏ)
|
Bộ TC/Bộ NNPTNT/địa phương
|
15
|
Đường ăn, bao gồm đường trắng và đường tinh luyện
|
Bộ TC/Bộ NNPTNT/địa phương
|
16
|
Vac-xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm
|
Bộ TC/Bộ NNPTNT/địa phương
|
17
|
Thuốc thú y để tiêu độc, sát trùng, tẩy trùng, trị bệnh cho gia súc, gia cầm và thủy sản
|
Bộ TC/Bộ NNPTNT/địa phương
|
18
|
Dịch vụ tại cảng biển
|
Bộ TC/Bộ GTVT/địa phương
|
19
|
Dịch vụ vận chuyển bằng đường biển và phụ thu
|
Bộ GTVT/địa phương
|
20
|
Một số dịch vụ cước viễn thông của doanh nghiệp (theo dự thảo Luật viễn thông sửa đổi)
|
Bộ Thông tin Truyền Thông
|
21
|
Cước vận chuyển hành khách bằng đường sắt loại ghế ngồi cứng, ghế ngồi mềm
|
Địa phương
|
22
|
Cước vận tải hành khách tuyến cố định bằng đường bộ
|
Địa phương
|
23
|
Cước vận tải hành khách bằng taxi
|
Địa phương
|
24
|
Trang thiết bị dạy học
|
Địa phương
|
25
|
Dịch vụ lưu trú tại khách sạn, nhà nghỉ
|
Địa phương
|
26
|
Giá dịch vụ khai thác cảng, bến tàu du lịch
|
Địa phương
|
27
|
Dịch vụ giá vé tham quan các điểm du lịch, khu du lịch
|
Địa phương
|
28
|
Dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ
|
Địa phương
|
29
|
Cát xây dựng
|
Địa phương
|
30
|
Dịch vụ giáo dục mầm non và phổ thông đối với cơ sở ngoài công lập (gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở, giáo dục trung học phổ thông)
|
Địa phương
|
31
|
Dịch vụ kinh doanh vận tải hàng hóa
|
Địa phương
|
Báo Cáo Về việc rà soát các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến dự thảo Luật giá (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A1409-bc-ra-soat-van-ban-QPPL-lien-quan-Luat-Gia---20221003020834.doc
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Bộ Tài chính đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan tiến hành rà soát các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến dự thảo Luật giá (sửa đổi). Bộ Tài chính xin báo cáo kết quả rà soát như sau:
I. VỀ RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH TẠI DỰ THẢO LUẬT
1. Về sửa đổi các quy định về phạm vi điều chỉnh và bỏ các quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật
1.1. Các văn bản được rà soát
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13;
- Luật Điều ước quốc tế số 108/2016/QH13;
- Luật bảo vệ người tiêu dùng số 59/2010/QH12;
1.2. Kết quả rà soát
- Việc sửa đổi, làm rõ các nội dung cụ thể tại phạm vi điều chỉnh của Luật không ảnh hưởng đến các quy định tại pháp luật hiện hành có liên quan: Đối với quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng sẽ chỉ giới hạn trong các vấn đề về lĩnh vực giá và không mâu thuẫn với quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng được quy định tại Luật bảo vệ người tiêu dùng số 59/2010/QH12 cũng như dự thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội.
- Việc bỏ quy định về áp dụng pháp luật tại Luật giá “1. Các hoạt động trong lĩnh vực giá trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này. 2. Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.” là nhằm đảm bảo tránh trùng lặp với các nguyên tắc áp dụng pháp luật đã được quy định rõ tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Điều ước quốc tế.
2. Về giải thích từ ngữ
2.1. Các văn bản được rà soát:
- Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13;
- Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13;
- Luật Thương mại số 36/2005/QH11;
- Luật Ngân sách số 83/2015/QH13;
- Luật Đấu thấu số 43/2013/QH13;
2.2. Kết quả rà soát
- Quy định về khái niệm hàng hóa được quy định tại Luật giá và Luật thương mại 2005; theo đó, tại Luật giá quy định “Hàng hóa là tài sản có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm các loại động sản và bất động sản”; tại Luật thương mại 2005 quy định “Hàng hóa bao gồm a) tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lại; b) Những vật gắn kèm với đất đai”. Về cơ bản khái niệm hàng hóa tại 2 Luật là tương đồng. Ngoài ra rà soát với Bộ Luật dân sự (Điều 107) có quy định bất động sản bao gồm đất đai; theo Luật giá thì đất đai không phải tài sản được trao đổi, mua bán nên cũng không phải là hàng hóa, do vậy nội dung giải thích từ ngữ tại Luật giá (sửa đổi) được kế thừa từ Luật hiện hành cũng không mâu thuẫn với các quy định tại Luật dân sự, Luật Thương mại.
- Khái niệm về thông đồng về giá, thẩm định giá phù hợp với các quy định về thông đồng trong các lĩnh vực khác tại Bộ Luật Hình sự;
- Việc sửa đổi các giải thích từ ngữ đối với bình ổn giá, định giá, hiệp thương giá, kê khai giá, niêm yết giá và bổ sung giải thích từ ngữ đối với giá tham chiếu không mâu thuẫn xung đột và không làm điều chỉnh các nội dung tại các Luật có liên quan do đây là các từ ngữ có tính chuyên ngành riêng trong lĩnh vực giá
- Việc sửa đổi giải thích từ ngữ “thẩm định giá” theo hướng quy định rõ đây là hoạt động có tính chất “tư vấn” phù hợp với các quy định tại Luật Ngân sách, Luật đấu thầu và các pháp luật có liên quan khi quy định hình thức thẩm định giá là một trong các căn cứ để tư vấn cho người có thẩm quyền quyết định giá.
3. Về sửa đổi nội dung nguyên tắc quản lý, điều tiết giá của nhà nước
3.1. Các văn bản được rà soát:
- Luật Thương mại số 36/2005/QH11;
- Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14;
- Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14;
- Luật bảo vệ người tiêu dùng số 59/2010/QH12;
3.2. Kết quả rà soát
- Các quy định sửa đổi bổ sung nguyên tắc “Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững; thúc đẩy xã hội hóa hoạt động cung cấp dịch vụ công; có chính sách về giá phù hợp với khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và các trường hợp theo quy định tại Luật khác có liên quan.” phù hợp với các quy định tại Luật bảo vệ môi trường về các vấn đề về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.
- Nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật “Quản lý, điều tiết giá theo cơ chế thị trường; bảo đảm công khai, minh bạch, tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật” cơ bản được kế thừa từ Luật giá hiện hành, phù hợp với các quy định tại Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh về nguyên tắc kinh tế thị trường, quyền tự cạnh tranh của các doanh nghiệp.
- Nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.” không mâu thuẫn với các quy định về quyền lợi của người tiêu dùng nói chung được quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (dự thảo Luật này cũng đang được trình sửa đổi).
4. Về công khai thông tin về giá, thẩm định giá
4.1. Các văn bản được rà soát:
- Luật tiếp cận thông tin số 104/2016/QH13;
- Luật Bảo vệ bí mật nhà nước số 29/2018/QH14;
4.2. Kết quả rà soát
- Việc sửa đổi quy định về công khai thông tin về giá, thẩm định giá phù hợp với các quy định tại Luật tiếp cận thông tin về nội dung các thông tin phải công khai.
- Phù hợp với các quy định tại Luật Bảo vệ bí mật nhà nước khi đã quy định “Việc công khai thông tin tại Khoản 1 Điều nay không áp dụng đối với các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước và các trường hợp không được phép công khai theo quy định của pháp luật.” .
5. Sửa đổi nội dung quản lý nhà nước về giá, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước
5.1. Các văn bản được rà soát:
- Luật tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13;
- Luật tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13;
5.2. Kết quả rà soát:
- Việc sửa đổi một số quy định về nội dung quản lý nhà nước về giá không mâu thuẫn, chồng chéo với các Luật có liên quan về ngân sách, tài chính nói chung.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực giá được quy định tại Điều 12 dự thảo Luật phù hợp với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được quy định tại các Điều 7, Điều 8 Luật tổ chức Chính phủ (về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong hoạch định chính sách và trình dự án luật, pháp lệnh, trong quản lý và phát triển kinh tế).
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ được quy định tại Điều 13, Điều 14 dự thảo Luật không mâu thuẫn với các quy định tại Chương V Luật tổ chức Chính phủ.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định tại dự thảo Luật phù hợp với các quy định về phân cấp quản lý tại Điều 25 Luật tổ chức Chính phủ và các quy định tại Luật tổ chức chính quyền địa phương.
6. Về sửa đổi quy định về bình ổn giá
6.1. Các văn bản rà soát:
- Luật tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13;
- Luật Thương mại số 36/2005/QH11;
- Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14.
6.2. Kết quả rà soát:
- Việc sửa đổi quy định về thẩm quyền ban hành và điều chỉnh Danh mục bình ổn giá cho Chính phủ ban hành (so với hiện hành là ban hành tại Luật) là nội dung chính sách đã được phê duyệt, không mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong quản lý và phát triển kinh tế.
- Các biện pháp bình ổn giá phù hợp với các quy định có liên quan về cung, cầu, giá cả tại Luật Thương mại.
- Biện pháp “biện pháp hỗ trợ về giá phù hợp với quy định của pháp luật và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên” đảm bảo không mâu thuẫn với các quy định tại Luật Quản lý ngoại thương;
- Việc bổ sung, củng cố các quy định về thực hiện bình ổn giá phù hợp với các quy định về phân cấp quản lý tại Luật Tổ chức Chính phủ.
7. Về sửa đổi quy định về định giá
7.1. Các văn bản rà soát:
- Bộ Luật Hàng hải số 95/2015/QH13;
- Luật Điện lực 2014;
- Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH14;
- Luật Phí, lệ phí số 97/2015/QH13
- Luật Hàng không dân dụng Việt Nam số 66/2006/QH11, đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật Hàng không dân dụng Việt Nam số 61/2014/QH13.
- Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14;
- Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số 69/2020/QH14;
- Luật Chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14;
- Luật Công chứng số 53/2014/QH13;
- Luật Nhà ở số 65/2014/QH13;
- Luật dự trữ quốc gia số 22/2012/QH13;
- Luật Viễn thông số 41/2009/QH12;
- Luật Bưu chính số 49/2010/QH12;
- Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14;
- Luật Thủy sản số 18/2017/QH14;
- Luật Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12;
- Luật Đường sắt số 06/2017/QH14;
- Luật Khám chữa bệnh số 40/2009/QH12;
- Luật Dược số 105/2016/QH13;
- Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14;
- Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12, Luật số 42/2019/QH14, Luật số 07/2022/QH15;
- Luật chứng khoán số 54/2019/QH14;
- Luật Đất đai số 45/2013/QH13;
- Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13;
- Luật Giáo dục số 43/2019/QH14;
- Luật Giáo dục đại học sửa đổi số 34/2018/QH14;
- Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13;
- Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14;
7.2. Kết quả rà soát
a. Việc bổ sung quy định về tiêu chú hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá là “Hàng hóa, dịch vụ thiết yếu có tính chất độc quyền trong mua bán hoặc có thị trường cạnh tranh hạn chế và ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh.” không chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định tại Luật thương mại, hướng đến bảo vệ người tiêu dùng và chỉ điều chỉnh với một số ít hàng hóa, dịch vụ.
b. Việc quy định danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thống nhất tại Luật sẽ ảnh hưởng đến các quy định có liên quan về hàng hóa, dịch vụ định giá tại một số Luật và được xử lý như sau:
- Đối với các hàng hóa, dịch vụ được đưa ra khỏi danh mục (gồm 15 nhóm hàng hóa, dịch vụ) thì tại Luật giá quy định cụ thể việc bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật có liên quan nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất.
+ Đối với việc bỏ dịch vụ đấu giá tài sản, cần sửa đổi tại Luật Đấu giá tài sản theo hướng bãi bỏ điểm d khoản 2 Điều 78 của Luật.
+ Đối với một số loại phí chuyển sang giá sẽ được bãi bỏ, cần sửa đổi Phụ lục số 2 tại Luật Phí, lệ phí:
“a) Bãi bỏ các nội dung tại số thứ tự thứ 4;
c) Sửa đổi nội dung tên giá sản phẩm, dịch vụ tại số thứ tự thứ 6 như sau:
“Dịch vụ sử dụng đò, phà được đầu tư hoàn toàn từ nguồn vốn ngân sách nhà nước”;”
+ Việc bỏ dịch vụ quy hoạch khỏi Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá được xử lý theo hướng bãi bỏ điểm b khoản 6 Điều 55 Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14;
+ Việc bỏ dịch vụ công chứng ra khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá được xử lý theo hướng bãi bỏ khoản 2 Điều 67 của
Luật Công chứng số 53/2014/QH13.
+ Việc bỏ nhà ở xã hội do hộ gia đình, cá nhân đầu tư xây dựng khỏi danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá được xử lý theo hướng:
“a) Bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 58;
b) Sửa đổi Khoản 2 Điều 61 như sau:
+ Một số dịch vụ khác như “một số nội dung của thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” do hiện được quy định tại cấp văn bản Nghị định nên không cần bãi bỏ tại Luật giá sửa đổi (không thuộc danh mục tại phụ lục thì sẽ không định giá).
c. Việc sửa đổi thẩm quyền của một số mặt hàng sẽ được quy định cụ thể tại phụ lục kèm theo Luật giá sửa đổi và thực hiện theo nguyên tắc áp dụng pháp luật tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy không cần thiết phải sửa đổi các Luật khác có liên quan và vẫn đảm bảo khả năng áp dụng.
- Thẩm quyền về quy định giá điện các loại sẽ có sự thay đổi (từ cấp Thủ tướng Chính phủ xuống cấp Bộ, cụ thể là Bộ Công Thương) sẽ phủ các quy định Luật Điện lực.
- Thẩm quyền về quy định giá tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình trong trường hợp giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan có sự thay đổi từ cấp Chính phủ cho cấp Bộ, cụ thể là Bộ Văn hóa.
- Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; dịch vụ giáo dục; đất cũng có sự thay đổi thẩm quyền từ cấp Chính phủ cho các cấp Bộ chuyên ngành.
- Các dịch vụ khác có sự thay đổi về thẩm quyền như (i) sản phẩm, dịch vụ thủy lợi; (ii) dịch vụ kiểm định phương tiện vận tải; (iii) Nhà ở xã hội, nhà ở công vụ được xây dựng chi từ nguồn ngân sách nhà nước; (iv) Hàng dự trữ quốc gia (v) Dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt cũng có sự thay đổi về thẩm quyền theo hướng tăng cương phân công, phân cấp cho các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.
8. Về sửa đổi các nội dung kê khai giá
8.1. Các văn bản rà soát
- Luật Thương mại số 36/2005/QH11;
- Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13;
8.2. Kết quả rà soát
Việc điều chỉnh thời điểm thực hiện kê khai giá từ trước khi quyết định giá sang sau khi quyết định giá phù hợp với các quy định về quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh tại Luật thương mại cũng như đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện, tăng cường quyền dân sự của các chủ thể kinh tế.
9. Về sửa đổi nội dung hiệp thương giá
9.1. Các văn bản rà soát
- Luật Thương mại số 36/2005/QH11;
- Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13;
- Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13;
9.2. Kết quả rà soát
- Việc sửa đổi chỉ thực hiện hiệp thương giá giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh là phù hợp với quan hệ kinh tế, thương mại theo quy định tại Luật Thương mại, Luật dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp giao dịch thương mại bình thường thì việc thỏa thuận giá là quyền dân sự của các bên nên tại Luật chỉ điều chỉnh đối với một số trường hợp đặc thù mới áp dụng hiệp thương là phù hợp.
- Các trường hợp mua sắm từ nguồn ngân sách (với một bên bán hoặc bên mua là cơ quan nhà nước) thì thực hiện theo pháp luật về đấu thầu là phù hợp với phạm vi áp dụng của Luật Đấu thầu.
10. Về nội dung điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
10.1. Các văn bản rà soát
- Luật Đất đai số 45/2013/QH13;
- Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13;
- Luật Chuyển giao công nghệ
10.2. Kết quả rà soát
- Việc quy định rõ kết quả thẩm định giá chỉ mang tính chất tư vấn, là một trong các căn cứ để người có quyền quyết định giá của tài sản là phù hợp với các quy định hiện hành tại Luật dân sự về quyền sở hữu, định đoạt, định giá tài sản.
- Tại dự thảo Luật vẫn tiếp tục kế thừa các quy định về việc doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện chế độ báo cáo gửi về Bộ Tài chính. Các báo cáo này đã gồm toàn diện kết quả về thẩm định giá công nghệ, do vậy cần xử lý, sửa đổi quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47 Luật Chuyển giao công nghệ. Tại Điều 70 dự thảo cũng đã bãi bỏ quy định này để tạo sự thống nhất, tránh phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp.
Trên đây là báo cáo rà soát các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến nội dung dự thảo Luật giá (sửa đổi)./.
Báo cáo của Bộ Tài chính đánh giá tác động các chính sách đề nghị xây dựng Luật giá (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo lấy ý kiến nhân dân trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, 06-2022)
2.-Bao-cao-tac-dong-30.12.pdf
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm