BẢNG TỔNG HỢP VÀ GIẢI TRÌNH Ý KIẾN CỦA CÁC BỘ, NGÀNH VỀ DỰ THẢO LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN (SỬA ĐỔI)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0709-Tong-hop-GTTT-yk-Bo-nganh-doi-voi-dt-Luat-PCRTsd---20220927082905.doc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ((NHNN) được giao chủ trì xây dựng dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) theo Phụ lục số 4 ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2022 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2022. Đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là dự thảo Luật) đã được Chính phủ thông qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội bổ sung dự thảo Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022 (theo Thông báo số 906/TB-TTKQH) và thông qua tại Kỳ họp thứ IV vào tháng 10/2022.
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung), NHNN đã gửi xin ý kiến góp ý đối với hồ sơ dự thảo Luật của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; các Bộ, Cơ quan ngang Bộ (Công văn số 3751/NHNN-PC ngày 3/6/2022); đăng tải hồ sơ dự thảo Luật trên Cổng thông tin điện tử của NHNN và gửi Cổng thông tin điện tử của Chính phủ đăng tải để lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân (Công văn số 3753/NHNN-PC ngày 03/6/2022).
Tính đến ngày 12/7/2022, NHNN đã nhận được văn bản tham gia ý kiến của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Toà án nhân dân tối cao; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; 14 Bộ, Cơ quan ngang Bộ. Trong đó, tổng số có 173 ý kiến góp ý (128 ý kiến cơ quan chủ trì soạn thảo đã tiếp thu và chỉnh sửa tại dự thảo Luật; 45 ý kiến cơ quan chủ trì soạn thảo giải trình nội dung quy định tại dự thảo Luật). Về cơ bản các bộ, ngành đồng ý với các nội dung tiếp thu, giải trình.
STT
|
ĐIỀU
|
ĐƠN VỊ GÓP Ý
|
NỘI DUNG Ý KIẾN
|
Ý KIẾN TIẾP THU, GIẢI TRÌNH CỦA CƠ QUAN CHỦ TRÌ SOẠN THẢO
|
I
|
ĐƠN VỊ GÓP Ý
|
NHẤT TRÍ VỚI DỰ THẢO LUẬT
|
1
|
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
|
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có ý kiến tham gia đối với nội dung dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).
|
2
|
Thanh tra Chính phủ
|
Nhất trí với việc sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền (PCRT) để phù hợp với thực tiễn tình hình mới, kịp thời bổ sung quy định để điều chỉnh một số hoạt động phát sinh như chuyển tiền điện tử, tài sản ảo, cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ; việc đáp ứng, tuân thủ các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF)...
|
3
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|
Việc NHNN chủ trì xây dựng dự án Luật PCRT (sửa đổi) nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn và đáp ứng yêu cầu khuyến nghị của FATF về phòng, chống rửa tiền là cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền; xây dựng hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế, nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác phòng, chống rửa tiền thời gian tới.
|
4
|
Bộ Ngoại giao
|
Nhất trí với sự cần thiết xây dựng và ban hành Luật PCRT (sửa đổi) giúp khắc phục các hạn chế đã bộc lộ qua hơn 8 năm thực hiện Luật PCRT năm 2012, đồng thời, đáp ứng các tiêu chuẩn theo 40 Khuyến nghị và 11 mục tiêu trực tiếp của FATF và Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG).
|
II
|
Ý KIẾN CỤ THỂ ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT
|
1
|
Điều 1
|
Bộ Quốc phòng
|
Khoản 2: Đề nghị bổ sung cụm từ “tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt” vào sau cụm từ “khủng bố”, để phù hợp với khuyến nghị của FATF.
|
Tiếp thu và đã bổ sung tại khoản 2 Điều 1 dự thảo Luật.
|
2
|
Điều 2
|
Bộ Tư pháp
|
Về đối tượng áp dụng:
Khoản 3 Điều 2 dự thảo Luật quy định đối tượng áp dụng là “tổ chức, cá nhân Việt Nam; người nước ngoài, người không quốc tịch; tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ có các giao dịch với tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014 thì người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam. Do vậy, nội hàm người nước ngoài đã bao gồm người không quốc tịch, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc bỏ nội dung sửa đổi này.
|
Tiếp thu và đã bỏ cụm từ “người không quốc tịch” tại khoản 3 Điều 2 dự thảo Luật.
|
3
|
Điều 3
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Đề nghị chỉnh sửa Điều 3 dự thảo Luật như sau: “Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định tại Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp” để phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016.
|
Tiếp thu theo hướng bỏ Điều 3 dự thảo Luật, việc áp dụng Luật PCRT, các luật có liên quan và điều ước quốc tế được thực hiện theo quy định hiện hành của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung) và Luật Điều ước quốc tế năm 2016.
|
Bộ Tư pháp
|
Về áp dụng Luật Phòng, chống rửa tiền, các luật có liên quan và điều ước quốc tế:
Điều 3 dự thảo Luật về áp dụng Luật Phòng, chống rửa tiền, các luật có liên quan và điều ước quốc tế có bổ sung quy định “Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định tại Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.” Tuy nhiên, nội dung quy định này đã được quy định tại Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016, do vậy đề nghị không quy định tại Luật này.
|
4
|
Điều 4
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Đề nghị bổ sung nội dung về giải thích cụm từ “ngân hàng vỏ bọc”.
|
Tiếp thu và bổ sung quy định giải thích từ ngữ về “ngân hàng vỏ bọc” tại khoản 14 Điều 3 dự thảo Luật.
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|
Đề nghị bổ sung làm rõ nội hàm khái niệm, nội dung đối với cụm từ “ngân hàng vỏ bọc” nêu tại Khoản 5, Điều 16.
|
Bộ Công an
|
Điểm b khoản 1: Đề nghị sửa thành: “Giúp sức hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm”.
|
Theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung), cụm từ “giúp sức” được mô tả cho hành vi đồng phạm. Trong khi đó, đối với những hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự đã được nêu tại điểm a khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật.
Mặt khác, khái niệm rửa tiền tại dự thảo Luật được quy định trên cơ sở kế thừa quy định tại Luật PCRT năm 2012 và phù hợp với khuyến nghị của FATF.
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Điểm c Khoản 1: Đề nghị sửa đổi như sau: “Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản mà biết hay có cơ sở để biết tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có”.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại điểm c khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật.
|
Đề nghị bổ sung khoản 2 (mới) sau khoản 1 như sau: “Tài sản do phạm tội mà có là: Tất cả tài sản liên quan hoặc có nguồn gốc từ tài sản do phạm tội mà có, bao gồm cả phần thu nhập hay lợi nhuận sinh ra từ tài sản do phạm tội mà có”.
|
Tiếp thu một phần và đã bổ sung khoản 2 tại Điều 3 dự thảo Luật như sau: “Tài sản do phạm tội mà có là tài sản có được trực tiếp hoặc gián tiếp, từ hoạt động phạm tội; phần thu nhập, lợi nhuận sinh ra từ tài sản có được từ hoạt động phạm tội”.
|
Bộ Nội vụ
|
Quy định tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép hoạt động theo quy định của pháp luật, điểm d có “tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo”. Tuy nhiên, đến nay pháp luật Việt Nam chưa có các quy định về tài sản ảo, tiền ảo; việc cấp phép hoạt động, đăng ký, phương thức hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo chưa có quy định quản lý. Do đó, việc bổ sung “cung cấp dịch vụ tài sản ảo” tại khoản 3 là chưa phù hợp.
Đề nghị làm rõ khái niệm về “tài sản ảo” là gồm những gì và cân nhắc không đưa khái niệm “tài sản ảo” vào dự thảo Luật.
|
- Về tài sản ảo; tổ chức được cấp phép thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ:
Trên cơ sở ý kiến góp ý của các bộ, ngành, NHNN đề xuất 02 Phương án về việc bổ sung hoặc không bổ sung đối tượng báo cáo nêu trên để xin ý kiến Thành viên Chính phủ, cụ thể như sau:
- Phương án 1: Quy định tại điểm c, d khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật, bổ sung đối tượng báo cáo là tổ chức được cấp phép hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ. Luật PCRT (sửa đổi) không quy định việc cấp phép, quản lý đối với các hoạt động này. Hoạt động và phạm vi hoạt động của các đối tượng này thực hiện theo các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.
- Phương án 2: Chưa bổ sung các quy định về đối tượng báo cáo là tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi).
Căn cứ Nghị quyết Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 7 năm 2022 số 95/NQ-CP ngày 01/8/2022 của Chính phủ, NHNN đã chỉnh sửa nội dung quy định tại Điều 4 dự thảo Luật về đối tượng báo cáo theo hướng không quy định hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
Đồng thời, bổ sung vào khoản 3 Điều 4 dự thảo Luật quy định “Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo ngoài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.”; bổ sung vào khoản 1 Điều 7 dự thảo Luật nội dung: “Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.”. Theo đó, trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền đối với hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, Chính phủ sẽ xem xét để có quy định bổ sung hoạt động mới của đối tượng báo cáo ngoài hoạt động quy định tại Điều 4 dự thảo Luật, sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Về chủ sở hữu hưởng lợi: Đã có khái niệm tại khoản 8 Điều 3 dự thảo Luật.
- Về dịch vụ trung gian thanh toán: Đã được giải thích tại khoản 10 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010: “10. Dịch vụ trung gian thanh toán là hoạt động làm trung gian kết nối, truyền dẫn và xử lý dữ liệu điện tử của các giao dịch thanh toán giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng dịch vụ thanh toán”.
|
Bộ Tài nguyên và Môi trường
|
Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định quản lý “tiền ảo” trong dự án Luật Phòng, chống rửa tiền, trên thực tế mặc dù không phải là sản phẩm công nghệ mới, thế nhưng với lợi thế dễ dàng trao đổi trên phạm vi toàn cầu, tiền ảo là một kênh hữu hiệu để tội phạm lợi dụng rửa tiền, tài trợ khủng bố. Trong đó, các đối tượng tội phạm có thể dễ dàng chuyển đổi các khoản tiền thu được thông qua những hoạt động bất hợp pháp thành tiền “sạch” hoặc chuyển các khoản tài trợ khủng bố thông qua việc mua bán, trao đổi đồng tiêng ảo ở các quốc gia khác nhau.
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
Đề nghị cân nhắc quy định điểm d khoản 3 Điều 4 của dự thảo Luật, vì hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về nội dung này.
|
Bộ Công thương
|
Rà soát cơ sở pháp lý đối với các hoạt động: “Cung cấp dịch vụ tài sản ảo”; “tiền điện tử” đang được đưa vào dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền.
|
Bộ Tư pháp
|
Về vấn đề mở rộng đối tượng báo cáo:
Điểm d và đ khoản 3 Điều 4 dự thảo Luật, cơ quan chủ trì có bổ sung một số đối tượng báo cáo trong đó có các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ và tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo. Vấn đề cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ và dịch vụ tài sản ảo là những vấn đề mới, chưa được thừa nhận chính thức trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, theo tiêu đề của khoản 3 điều này thì các tổ chức được quy định tại điều khoản này là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định pháp luật. Do vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc đối với việc bổ sung các đối tượng này là đối tượng báo cáo trong dự thảo Luật.
|
Bộ Công an
|
Tại khoản 3 dự thảo Luật quy định tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép hoạt động theo quy định của pháp luật, điểm d có “tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo”. Tuy nhiên, đến nay pháp luật Việt Nam chưa có các quy định về tài sản ảo, tiền ảo; việc cấp phép hoạt động, đăng ký, phương thức hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo chưa có quy định quản lý. Do đó, việc bổ sung “cung cấp dịch vụ tài sản ảo” tại khoản 3 là chưa phù hợp.
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Dự thảo Luật đưa hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay trên nền tảng công nghệ mà tổ chức thực hiện hoạt động đó phải thực hiện báo cáo (điểm c, d khoản 3 Điều 4). Tuy nhiên, dự thảo Tờ trình có phân tích đây là những hoạt động mới và khung pháp lý điều chỉnh cho các hoạt động này hiện mới đang trong giai đoạn nghiên cứu hoàn thiện (tại tiểu mục b, mục 2 phần IV, trang 8 dự thảo Tờ trình). Vì thế để bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với chế độ pháp luật hiện hành đề nghị cân nhắc đưa nội dung này vào dự thảo Luật.
|
Bộ Tài chính
|
Về nội dung tài sản ảo trong dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi):
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa quy định hay có cách hiểu chính thức về tài sản ảo; các thuật ngữ tài sản ảo/tài sản mã hóa, nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo/tài sản mã hoá chưa được ghi nhận trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào tại Việt Nam. Mặt khác, với quy định tại Khoản 2 Điều 4 trong Dự thảo, chưa thể khẳng định tài sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự có bao gồm tài sản ảo hay không. Do vậy, đề nghị xem xét quy định về tài sản ảo và các dịch vụ liên quan hoặc làm rõ nội hàm của các hoạt động này trong dự thảo Luật.
|
Thanh tra Chính phủ
|
Đề nghị quy định cụ thể hơn về tiền điện tử, tài sản ảo, dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ, các vấn đề liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, tính khả thi của dự thảo Luật và hiệu quả phòng ngừa rủi ro về rửa tiền.
|
Bộ Quốc phòng
|
Đề nghị quy định chi tiết, cụ thể về tiền điện tử, tài sản ảo để đảm bảo thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tiễn
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|
Quy định tại điểm c Khoản 3“dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ”, tại điểm d Khoản 3 “dịch vụ tài sản ảo”,tại điểm đ Khoản 4 “dịch vụ ủy thác (tín thác)” và tại Khoản 10 “chủ sở hữu hưởng lợi”: Đây là những khái niệm mới, do đó đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm rõ nội hàm khái niệm, nội dung; bổ sung đánh giá tác động của việc đề xuất nội dung này.
|
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
|
Đề nghị bổ sung việc giải thích từ ngữ đối với một số thuật ngữ sau: dịch vụ tài sản ảo; dịch vụ trung gian thanh toán.
|
Khoản 2: Đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa khái niệm “tài sản” tại khoản 2 Điều 4 với quy định về “tài sản ảo" tại điểm d khoản 3 Điều 4. Vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 2 dự thảo, khái niệm “tài sản" được dẫn chiếu theo quy định tại Bộ luật Dân sự, bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy nhiên, dự thảo Luật có bổ sung hoạt động mới là “dịch vụ tài sản ảo". Vì vậy, đề nghị làm rõ “tài sản ảo" có được xem là 1 loại tài sản theo quy định Bộ luật Dân sự không. Nếu không được xem là một loại tài sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự, đề nghị xem lại từ ngữ về tài sản tại khoản 2 Điều 4.
|
Khái niệm “tài sản” tại dự thảo Luật được xây dựng phù hợp với khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) và phù hợp với khái niệm tài sản tại Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tại Báo cáo 255/BC-BTP, Báo cáo số 74/BC-BTP của Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ có nội dung về khái niệm tài sản tại BLDS năm 2015 như sau: Theo quy định tại Điều 105 BLDS 2015, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Căn cứ vào những đặc trưng của tài sản mã hóa, có thể thấy đây đều là những “tài sản” không có đặc tính vật lý (được hình thành từ các thông tin tồn tại dưới dạng các đoạn mã máy tính), được trị giá bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Như vậy, ít nhất quyền đối với tài sản mã hóa là một loại quyền tài sản theo quy định của BLDS năm 2015. Như vậy, khái niệm tài sản tại BLDS 2015 đã bao hàm “tài sản ảo”.
Tuy nhiên, trên cơ sở Nghị quyết số 95/NQ-CP của Chính phủ, NHNN đã chỉnh sửa nội dung quy định tại Điều 4 dự thảo Luật theo hướng không quy định bổ sung hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo.
Đồng thời, đề đảm bảo thống nhất với khái niệm về tài sản tại Bộ luật Dân sự quy định giải thích từ ngữ về tài sản tại khoản 3 Điều 3 dự thảo Luật được sửa đổi lại như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.”.
|
Bộ Tài chính
|
Hiện nay, chưa có pháp luật quy định về cơ quan quản lý chính thức việc phát hành và giao dịch tiền ảo, tài sản ảo. Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái tại Công văn số 1798/VPCP-KTTH ngày 23/3/2022 của Văn phòng Chính phủ, hiện nay Bộ Tài chính đang phối hợp với các Bộ, ngành xác định cụ thể các văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới gắn với cơ quan chủ trì và thời gian thực hiện cụ thể để nhằm hoàn thiện khung khổ pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền ảo, tài sản mã hoá, tiền mã hoá. Trên cơ sở trao đổi thống nhất với các Bộ ngành, Bộ Tài chính sẽ có Tờ trình Thủ tướng Chính phủ về việc phân công thực hiện nhiệm vụ cụ thể đối với vấn đề này. Do đó, việc quy định các nội dung về thanh tra, giám sát, triển khai các hoạt động phòng, chống rửa tiền liên quan đến tài sản ảo tại Điều 44 (Trách nhiệm của Bộ Tài chính) là chưa phù hợp.
|
Tiếp thu và tại dự thảo Luật đã không còn quy định về hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, theo đó đã bỏ quy định về thanh tra, giám sát, triển khai các hoạt động phòng, chống rửa tiền liên quan đến tài sản ảo của Bộ Tài chính tại dự thảo Luật.
|
Bộ Công an
|
Đề nghị bổ sung khoản 20 giải thích từ ngữ sau: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định pháp luật về Tố tụng hình sự, Cục phòng, chống rửa tiền và các cơ quan khác theo quy định pháp luật”.
|
Cụm từ “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền” là cụm từ thường được sử dụng thông dụng trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để chỉ các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước sẽ được quy định tại dự thảo Luật và các văn bản có liên quan.
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
Đề nghị chỉnh lý “thư ký cho doanh nghiệp” tại điểm đ khoản 4 Điều 4 dự thảo Luật “thư ký giám đốc của doanh nghiệp”.
|
Thư ký công ty cho bên thứ ba quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật là người chuyên thực hiện các công việc liên quan đến công tác hỗ trợ việc quản lý, điều hành trong văn phòng của doanh nghiệp, không chỉ là thư ký giám đốc của doanh nghiệp. Thuật ngữ này phù hợp với nội hàm được nêu tại khuyến nghị của FATF.
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
Đề nghị cân nhắc thay thế cụm từ “các chức năng khác” bằng cụm từ “các nhiệm vụ khác” tại khoản 19 Điều 4 dự thảo Luật.
|
Tiếp thu theo hướng bỏ các quy định về đơn vị đầu mối tại dự thảo Luật.
|
Bộ Thông tin và Truyền thông
|
Khoản 19: Đề nghị sửa “Cục Phòng, chống rửa tiền" thành “cơ quan chuyên môn về phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam".
|
Trên cơ sở Nghị quyết số 95/NQ-CP và tiếp thu ý kiến góp ý của các bộ, ngành, NHNN không quy định về đơn vị đầu mối về PCRT tại dự thảo Luật.
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
Khoản 19 Điều 4 dự thảo Luật quy định Cục PCRT là đơn vị thuộc NHNN. Do đó, cần làm rõ vấn đề này, để đảm bảo thống nhất pháp luật. Việc xác định cơ cấu, tổ chức cơ quan của Chính phủ thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ.
|
Đề nghị cân nhắc lại việc quy định trực tiếp Cục PCRT được thực hiện các nhiệm vụ quy định tại các Điều 25, 33, 34, 35, 36, 37, 43 của dự thảo Luật, vì đây là chức năng, nhiệm vụ của NHNN. Cục PCRT chỉ là đơn vị thuộc NHNN và nếu có việc phân công nhiệm vụ thì phải được quy định trong Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN.
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|
Tại Khoản 19 dự thảo Luật quy định: “Cục Phòng, chống rửa tiền là đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước”: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chính phủ ban hành Nghị định để quy định “... nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ”. Do đó, đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rà soát lại nội dung này.
|
Bộ Nội vụ
|
Đề nghị không quy định cụ thể là Cục Phòng, chống rửa tiền tại các Điều 33 đến Điều 37 dự thảo Luật, nên để là “cơ quan có thẩm quyền”.
|
Đề nghị sửa khoản 19 Điều 4 dự thảo Luật như sau: “Cục Phòng, chống rửa tiền là đơn vị thuộc Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam …”.
|
Bộ Tư pháp
|
Về vấn đề chức năng, nhiệm vụ Cục Phòng, chống rửa tiền:
Tại khoản 19 Điều 4 dự thảo Luật, cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất bổ sung quy định: “Cục Phòng, chống rửa tiền là đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng phòng, chống rửa tiền, thu thập, phân tích và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền và các chức năng khác được quy định tại Luật này”. Bên cạnh đó, tại dự thảo Luật, cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung một số quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Cục Phòng, chống rửa tiền về giao dịch chuyển tiền điện tử (Điều 26); cung cấp thông tin phòng, chống rửa tiền (Điều 33); tiếp nhận, thu thập và xử lý thông tin về phòng, chống rửa tiền (Điều 34); chuyển giao và trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền (Điều 35, Điều 36); giám sát và chuyển giao thông tin giám sát về phòng, chống rửa tiền (Điều 37); đồng thời tại Điều 43 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của Bộ Công an phối hợp với Cục Phòng, chống rửa tiền trong thực hiện các nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền, cụ thể như sau: “Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin về tội phạm liên quan đến rửa tiền từ thông tin do Cục Phòng, chống rửa tiền chuyển giao và thông tin do đối tượng báo cáo cung cấp theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền; thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Cục Phòng, chống rửa tiền” (khoản 1).
Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc không quy định Cục Phòng, chống rửa tiền là một đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước và sửa đổi, bổ sung các nhiệm vụ của Cục Phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật để bảo đảm phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
- Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đề ra nhiệm vụ, giải pháp như sau: “Không lồng ghép các quy định về tổ chức bộ máy, biên chế vào các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước; trường hợp cần thiết thì phải có quy trình thẩm định, thẩm tra, đánh giá tác động chặt chẽ để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có cơ sở xem xét, quyết định”.
- Tại Điều 7 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 quy định: “Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước do Chính phủ quy định” (khoản 2); “Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 49 của Luật này” (khoản 3). Đồng thời, tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 123/2016 ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 của Chính phủ) quy định bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm trình Chính phủ: “Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bộ và của cơ quan thuộc Chính phủ được phân công quản lý” (điểm a); “Quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các cơ quan, tổ chức thuộc bộ, gồm: Tổng cục và tổ chức tương đương (sau đây gọi chung là tổng cục), vụ và tổ chức tương đương (sau đây gọi chung là vụ), cục và tổ chức tương đương (sau đây gọi chung là cục)” (điểm b).
Căn cứ vào quy định pháp luật nêu trên, Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền quy định cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và quyết định thành lập cục thuộc Bộ mà không phải là thẩm quyền của Quốc hội. Tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cũng đã yêu cầu: “Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy không được tăng thêm đầu mối và biên chế; trường hợp đặc biệt cần tăng thêm đầu mối từ cấp vụ, cục hoặc tương đương trở lên phải có ý kiến của Bộ Chính trị”. Đồng thời, việc đề xuất Cục Phòng, chống rửa tiền là một đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước cũng phải bảo đảm đáp ứng tiêu chí thành lập theo quy định tại Nghị định số 101/2020/NĐ-CP.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước (thay thế cho Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ). Dự thảo Nghị định đang được lấy ý kiến Thành viên Chính phủ. Tại dự thảo Nghị định xin ý kiến Thành viên Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước không đề xuất bổ sung Cục Phòng, chống rửa tiền là đơn vị trong cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước.
- Ngoài ra, khoản 1 Điều 10 Quy chế làm việc của Chính phủ (ban hành kèm theo Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01/10/2016 của Chính phủ) quy định quan hệ công tác của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ như sau: “Hướng dẫn, kiểm tra và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực được phân công”. Do đó, đề nghị cân nhắc việc sửa đổi quy định về trách nhiệm phối hợp của các Bộ, ngành với Ngân hàng Nhà nước trong thực hiện các nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền thành phối hợp với Cục Phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật.
|
Bộ Tư pháp
|
Về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền (Mục 3 dự thảo):
Tên của mục 3 dự thảo Luật là về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền, tuy nhiên nội dung tại mục này chỉ quy định chức năng, nhiệm vụ của Cục Phòng, chống rửa tiền. Bộ cho rằng nội dung tại mục này cần chỉnh lý theo hướng quy định các nội dung về cơ chế thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền của các bộ, ngành có liên quan. Bên cạnh đó, theo như các lý do được nêu tại ý kiến về chức năng, nhiệm vụ Cục Phòng, chống rửa tiền nêu trên, việc quy định chức năng, nhiệm vụ của đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ tại văn bản Luật là không phù hợp. Do vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc chỉnh lý nội dung tại mục này.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa quy định về thu thập, xử lý, phân tích, trao đổi, cung cấp và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền tại Mục 3 Chương II dự thảo Luật cho phù hợp.
Đồng thời, dự thảo Luật thay thế cụm từ Cục PCRT thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong toàn dự thảo Luật.
|
Bộ Xây dựng
|
Điểm b Khoản 4 Điều 4: Đề nghị sửa đổi bổ sung như sau: “Chủ đầu tư dự án bất động sản; kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động sản”.
|
Tiếp thu theo hướng quy định: “Kinh doanh bất động sản, trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản” tại điểm b khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật. Theo các quy định tại Luật kinh doanh bất động sản và văn bản liên quan, hoạt động kinh doanh bất động sản đã bao gồm hoạt động của chủ đầu tư dự án bất động sản. Việc bổ sung cụm từ “chủ đầu tư dự án bất động sản” không phù hợp do dự thảo Luật đang quy định về hoạt động, không phải đối tượng.
|
Bộ Tài chính
|
- Điểm l, m, n Khoản 3 Điều 4 (Giải thích từ ngữ): Liên quan đến tổ chức tài chính là đối tượng báo cáo trong lĩnh vực chứng khoán: để đảm bảo thống nhất với Luật Chứng khoán, đề nghị sửa như sau: “3. Tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
.....
l) Môi giới chứng khoán, Tư vấn đầu tư chứng khoán và Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
m) Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán;...”.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại điểm i, điểm k khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật.
|
- Tại điểm p khoản 3 Điều 4: Đề nghị sửa đổi như sau: “p) Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ gắn với hoạt động đầu tư”. Đồng thời, rà soát, điều chỉnh tương ứng tại các nội dung có liên quan tương ứng tại dự thảo Luật. Lý do:
a) Tại dự thảo Tờ trình dự thảo Luật PCRT (trang 7), Ngân hàng nhà nước giải trình lý do bổ sung thêm các đối tượng báo cáo theo khuyến nghị của FATF và đáp ứng kiến nghị của APG gồm: tổ chức được cấp phép thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, kinh doanh dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ (không có tổ chức được cấp phép cung ứng dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ gắn với hoạt động đầu tư);
b) Phù hợp hướng dẫn tại Khuyến nghị của FATF về đánh giá đa phương về PCRT trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ; hướng dẫn tại Nguyên tắc bảo hiểm (ICP 22) của IAIS; kinh nghiệm của một số nước về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Theo đó, đối tượng báo cáo về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực bảo hiểm là các doanh nghiệp cung ứng bảo hiểm nhân thọ và các loại hình bảo hiểm liên quan đến đầu tư.
c) Theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật số 61/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm 24/2000/QH10 có quy định về nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm: Bảo hiểm trọn đời; Bảo hiểm sinh kỳ; Bảo hiểm tử kỳ; Bảo hiểm hỗn hợp; Bảo hiểm trả tiền định kỳ; Bảo hiểm liên kết đầu tư; Bảo hiểm hưu trí. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư.
d) Theo quy định tại Nghị định số 80/2019/NĐ-CP của Chính phủ, đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố trong lĩnh vực bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại điểm l khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật.
|
Điểm a Khoản 4 Điều 4 (Giải thích từ ngữ): Liên quan đến kinh doanh trò chơi có thưởng, đề nghị bổ sung giải thích thuật ngữ đảm bảo thống nhất do Khoản 6 Điều 25 dự thảo Luật thì trò chơi có thưởng gồm: trò chơi điện tử có thưởng, xổ số, đặt cược. Hiện nay, Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xổ số, đặt cược, casino, trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài. Theo khoản 2 Điều 2 Nghị định số 03/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 về kinh doanh casino thì trò chơi có thưởng là các trò chơi may rủi hoặc trò chơi kết hợp giữa may rủi và kỹ năng được tổ chức trên máy trò chơi điện tử có thưởng hoặc trên bàn trò chơi có thưởng mà người chơi bỏ tiền để tham gia và có thể trúng thưởng bằng tiền hoặc hiện vật. Đối với các loại hình trò chơi có thưởng khác như game bài trên mạng internet, đề nghị NHNN tham khảo thêm ý kiến của Bộ Thông tin và Truyền thông.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa tại điểm a khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật theo hướng làm rõ một số loại hình kinh doanh trò chơi có thưởng, cụ thể: “a) Kinh doanh trò chơi có thưởng bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược;”.
|
Bộ Công an
|
Đề nghị bổ sung nội dung “trò chơi được xây dựng trên nền tảng chuỗi khối (blockchain)” vào điểm a khoản 4 Điều 3
|
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật có liệt kê hoạt động kinh doanh trò chơi có thưởng bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng, trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược. Đây là các hoạt động đã được quy định tại Luật Đầu tư và Nghị định của Chính phủ. Đối với hoạt động trò chơi được xây dựng trên nền tảng chuỗi khối (blockchain) hiện chưa được quy định tại một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.
Trường hợp tiếp tục đề xuất nội dung này, Bộ Công an cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát để xác định cụ thể loại hình này.
Mặt khác, blockchain chỉ là một giải pháp công nghệ, trong khi quy định tại dự thảo Luật cần phải mang tính bao quát tới hoạt động tiềm ẩn rủi ro là các hoạt động kinh doanh trò chơi có thưởng.
|
5
|
Điều 6
|
Bộ Tư pháp
|
Về chính sách của Nhà nước trong phòng, chống rửa tiền:
Điều 6 dự thảo Luật quy định một trong những chính sách của Nhà nước trong phòng, chống rửa tiền là “Tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống rửa tiền được Nhà nước khen thưởng”, tuy nhiên, Bộ Tư pháp cho rằng bên cạnh chính sách khen thưởng đối với tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống rửa tiền, thì cần có chính sách về xử phạt, chế tài đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm trong công tác phòng, chống rửa tiền. Do vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc bổ sung.
|
Tiếp thu theo hướng tại dự thảo Luật đã bỏ quy định về chính sách khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác PCRT. Theo đó, quy định về thi đua, khen thưởng thực hiện theo pháp luật về thi đua, khen thưởng, không cần thiết quy định tại dự thảo Luật. Đồng thời, bổ sung nguyên tắc “các hành vi rửa tiền phải được xử lý nghiêm minh” tại khoản 2 Điều 5 dự thảo Luật và các quy định về việc xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm tại Điều 46 dự thảo Luật
|
6
|
Điều 7
|
Bộ Xây dựng
|
Khoản 2 Điều 7:Đề nghị sửa đổi nội dung như sau: “Trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định”.
|
Tiếp thu và sửa đổi quy định về đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Điều 7 dự thảo Luật như sau:
“ 1. Định kỳ 05 năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá. Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.
2. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm:
a) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định;
b) Thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền, kế hoạch thực hiện sau cập nhật.
3.Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.”.
|
Bộ Tư pháp
|
Về đánh giá rủi ro về rửa tiền:
Điều 7 dự thảo Luật quy định về đánh giá rủi ro quốc gia và rủi ro ngành về rửa tiền, Bộ Tư pháp cho rằng nên chuyển nội dung này sang Chương II về Biện pháp phòng, chống rửa tiền. Đồng thời, cơ quan chủ trì soạn thảo có thể cân nhắc thiết kế một mục riêng về đánh giá rủi ro rửa tiền bao gồm đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, rủi ro ngành, rủi ro lĩnh vực và đánh giá rủi ro của các đối tượng báo cáo. Theo đó, có thể gộp Điều 7 và Điều 13 vào một mục và bổ sung quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro đối với từng nội dung đánh giá quốc gia, ngành, lĩnh vực và tại đối tượng báo cáo để đảm bảo minh bạch, thống nhất và toàn diện trong quá trình thực hiện đánh giá tại các bộ, ngành cũng như tại các đối tượng báo cáo.
|
Nội dung Chương II của dự thảo Luật về biện pháp phòng, chống rửa tiền bao gồm các quy định liên quan đến trách nhiệm của đối tượng báo cáo. Điều 7 dự thảo quy định trách nhiệm của NHNN và các bộ, ngành có liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền. Vì vậy, không thể gộp Điều 7 vào Chương II.
Về tiêu chí đánh giá rủi ro,.
tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp, dự thảo Luật bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền (khoản 3 Điều 7) và giao Thống đốc NHNN hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền. của đối tượng báo cáo (khoản 3 Điều 15) để đảm bảo tính khả thi và thống nhất trong quá trình thực hiện.
|
7
|
Điều 8
|
Bộ Công an
|
Khoản 1: Đề nghị sửa cụm từ “trợ giúp” thành cụm từ “giúp sức”.
|
Việc sử dụng cụm từ này để đảm bảo thống nhất với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật
|
Khoản 2: Đề nghị chỉnh sửa, bổ sung thành: “Thiết lập, duy trì, sử dụng tài khoản vô danh hoặc tài khoản đăng ký bằng giấy tờ giả mạo, giấy tờ của người, tổ chức khác, giấy tờ không do cơ quan có thẩm quyền cấp”.
|
Tài khoản sử dụng tên giả đã bao gồm trường hợp chủ tài khoản đăng ký mở tài khoản bằng giấy tờ giả mạo; giấy tờ của người khác, tổ chức khác.
|
Khoản 4: Đề nghị chỉnh sửa, bổ sung thành: “Cung cấp trái phép dịch vụ nhận, gửi tiền mặt, chuyển tiền điện tử, séc, công cụ tiền tệ khác…tại một địa điểm khác”.
|
Nội dung quy định tại khoản 4 Điều 8 dự thảo Luật đã bao gồm cả việc cấm chuyển tiền điện tử trái phép (nhận tiền mặt và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng).
|
Khoản 6: Đề nghị chỉnh sửa, bổ sung thành: “Cản trở, không hợp tác, chậm trễ trong việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền”.
|
Điều 8 dự thảo Luật quy định về các hành vi nghiêm trọng và bị cấm. Việc “chậm trễ” phải căn cứ vào tình huống cụ thể, có thể là do các nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, do vậy, không thuộc phạm vi hành vi bị cấm, mà sẽ xử lý theo hình thức khác phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
|
Bộ Tư pháp
|
Về các hành vi bị cấm
Tại khoản 6 Điều 8 dự thảo Luật bổ sung hành vi bị cấm “không hợp tác trong việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền”, tuy nhiên, Bộ Tư pháp cho rằng hành vi không hợp tác rất khó xác định trên thực tế, do vậy đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc đối với quy định này.
|
Tiếp thu và bỏ cụm từ “không hợp tác trong” tại khoản 6 Điều 8 dự thảo Luật.
|
8
|
Điều 9
|
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
|
Dự thảo Luật có bổ sung hoạt động kinh doanh mới tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền rủi ro về rửa tiền là “cung cấp dịch vụ tài sản ảo”; “cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ”, vì vậy đề nghị nghiên cứu xem xét bổ sung một số trường hợp mà tổ chức tài chính phải áp dụng biện pháp nhận biết khách hàng đối với các hoạt động mới bổ sung này.
|
Hiện nay, dự thảo Luật đã bỏ quy định về các đối tượng này đồng thời giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo, ngoài các hoạt động quy định khoản 1, khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật, sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 2 Điều 9: Đề nghị xem xét quy định tại mục d và đ do đang có quy định trùng lặp đối với tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ ủy thác, tín thác, dịch vụ điều hành, quản lý doanh nghiệp.
|
Tiếp thu và đã rà soát, chỉnh sửa quy định tại điểm d, điểm đ khoản 3 Điều 9 dự thảo Luật để tránh trùng lặp.
|
Bộ Tư pháp
|
Điểm c khoản 1 Điều 9 dự thảo Luật về nhận biết khách hàng quy định Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp có nghi ngờ giao dịch, các giao dịch liên quan hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý lại nội dung điều khoản này đảm bảo súc tích, dễ hiểu, tránh lặp nội dung, lặp từ, đảm bảo kỹ thuật lập pháp.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa tại điểm c khoản 2 Điều 9 dự thảo như sau:“c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;”.
|
9
|
Điều 10
|
Bộ Nội vụ
|
Khoản 1 Điều 10 và khoản 2 Điều 15: Đề nghị chỉnh sửa bố cục theo điều, khoản, điểm (không sử dụng i, ii, iii); rà soát tiêu đề của Mục 2 và các Điều tại Mục 2 dự thảo Luật nhằm bảo đảm tính thống nhất và đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
|
Tiếp thu và đã rà soát, chỉnh sửa dự thảo đảm bảo phù hợp quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
|
Bộ Tài chính
|
Điểm d Khoản 1 Điều 10: Đề nghị sửa đổi từ ngữ “thông tin về người thành lập, người đại diện” thành “thông tin về người thành lập doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật” để phù hợp với Luật Doanh nghiệp.
|
Tiếp thu một phần và chỉnh sửa quy định tại điểm e khoản 2 Điều 10 dự thảo Luật thành “...thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức..." do dự thảo Luật điều chỉnh cả những tổ chức không chỉ bao gồm riêng doanh nghiệp.
|
Bộ Tư pháp
|
Tại điểm a khoản 1 Điều 10 dự thảo Luật về thông tin nhận biết khách hàng, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo không sử dụng đề mục (i), (ii), (iii).
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa dự thảo Luật.
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
Đề nghị bổ sung thêm thông tin về “cơ quan, tổ chức hoặc nơi làm việc” sau “nghề nghiệp, chức vụ” khách hàng đối với tất cả các điểm i,ii, iii tại điểm a khoản 1 Điều 10 dự thảo Luật.
|
Tiếp thu theo hướng quy định tại khoản 3 Điều 16 dự thảo Luật về việc để Ngân hàng Nhà nước đưa vào quy định hướng dẫn về biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
|
10
|
Điều 12
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Khoản 3: Đề nghị sửa đổi cụm từ “và đối tượng báo cáo chịu trách nhiệm” thành “và phải chịu trách nhiệm”.
|
Tiếp thu một phần theo hướng quy định rõ tại khoản 2 Điều 13 dự thảo Luật đối tượng báo cáo phải đảm bảo “tổ chức được thuê bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức được thuê”, để tránh nhầm lẫn “tổ chức được thuê” phải chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng. Nội dung quy định tại khoản 3 Điều 12 dự thảo Luật được xây dựng thành một Điều mới (Điều 13 dự thảo Luật).
|
Bộ Công an
|
Khoản 3: Đề nghị bổ sung cụm từ “được cấp phép” vào sau cụm từ “Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác”.
|
Tiếp thu một phần theo hướng bổ sung quy định: "...tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật" tại khoản 1 Điều 13 dự thảo Luật. Quy định cụ thể về việc thành lập, cấp phép hoạt động của các đối tượng này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT. Nội dung quy định tại khoản 3 Điều 12 dự thảo Luật được xây dựng thành một Điều mới (Điều 13 dự thảo Luật).
|
Bộ Nội vụ
|
Điểm a Khoản 1: đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung: “...và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp cho người Việt Nam, người nước ngoài” để đảm bảo thống nhất với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 10 dự thảo Luật.
|
Tại khoản 2 Điều 10 dự thảo Luật đã quy định rõ khách hàng cá nhân trong đó bao gồm người quốc tịch Việt Nam, người nước ngoài. Do đó, tại điểm này không cần thiết bổ sung theo đề nghị của Bộ Nội vụ.
|
Bộ Tài chính
|
Điểm b Khoản 1: Đề nghị cân nhắc bổ sung thông tin về người đại diện theo pháp luật khi xác minh thông tin nhận biết khách hàng là tổ chức.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại điểm b khoản 1 Điều 12 dự thảo Luật.
|
11
|
Điều 13
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Khoản 1: Đề nghị quy định cụ thể về cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành văn bản đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
|
Tại khoản 1 Điều 15 dự thảo Luật quy định: “…Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.”, theo đó trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức việc phê duyệt được thực hiện theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo cho phù hợp với loại hình của đối tượng báo cáo.
|
Bộ Công an
|
Đề nghị bổ sung cụm từ “tài trợ khủng bố” sau cụm từ “rửa tiền”.
|
Tiếp thu, đã quy định tại điểm a khoản 2 Điều 63 dự thảo Luật.
|
12
|
Điều 14
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Đề nghị bổ sung quy định về các tiêu chí để phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền, các loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền.
|
Tiếp thu và bổ sung theo hướng đưa vào quy định tại khoản 1 Điều 16 dự thảo Luật yêu cầu đối tượng báo cáo phải xây dựng “quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền” trong đó “phải bao gồm việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao…”.
|
Bộ Tư pháp
|
Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền:
Khoản 1 Điều 14 dự thảo Luật quy định “căn cứ kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền, đối tượng báo cáo phải thực hiện phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo và thông tin nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng”. Như vậy, trước khi xác định và phân loại cấp độ rủi ro của khách hàng, thì đối tượng báo cáo phải dựa trên thông tin nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng. Tuy nhiên, tại điểm b, c khoản 2 điều này quy định các biện pháp áp dụng đối với các khách hàng có rủi ro rửa tiền trung bình và cao bao gồm các biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng. Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo quy định rõ việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng được thực hiện trước hay sau khi phân loại khách hàng, nếu được thực hiện ở cả hai giai đoạn trước và sau phân loại khách hàng thì việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng ở hai giai đoạn khác nhau như thế nào.
|
Việc thực hiện nhận biết khách hàng được thực hiện theo quy định tại Điều 9 dự thảo Luật, theo đó được thực hiện trước khi đối tượng báo cáo phân loại khách hàng.
Tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp, để đảm bảo rõ ràng, điểm a khoản 2 Điều 16 dự thảo Luật quy định như sau: “Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;”.
|
Cơ quan chủ trì soạn thảo xác định cách phân loại khách hàng theo ba cấp độ là khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp; khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình và khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao. Tuy nhiên, trong điều luật chưa thể hiện rõ sự khác biệt về việc thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng giữa khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp và nhóm khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình như thế nào. Do vậy, đề nghị nghiên cứu, làm rõ nội dung này.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa nội dung quy định tại khoản 1 Điều 16 dự thảo Luật để đảm bảo rõ ràng hơn, như sau: “Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiềntại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng”.
Đồng thời, tại khoản 3 Điều 16 dự thảo Luật hiện đang giao Thống đốc NHNN quy định chi tiết các biện pháp tăng cường (bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường) và nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ.
|
Tại điểm a khoản 2 quy định đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng ở mức độ giảm nhẹ, còn điểm b quy định đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, 11 của Luật này. Như vậy có thể hiểu là đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp thì không cần phải thu thập thông tin đầy đủ theo Điều 10 hoặc thực hiện việc cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo Điều 11. Tuy nhiên Bộ Tư pháp cho rằng những thông tin cơ bản tại Điều 10 cần được đảm bảo áp dụng đối với cả khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp. Do vậy đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo quy định cụ thể hơn đối với các nội dung này.
|
Tiếp thu, để đảm bảo rõ ràng, điểm a khoản 2 Điều 16 dự thảo Luật quy định như sau: “a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;”.
|
13
|
Điều 15
|
Bộ Công an
|
Đây là vấn đề nhạy cảm về chính trị, đề nghị NHNN cân nhắc kỹ và cần xin ý kiến của cơ quan có thẩm quyền trước khi đưa vào dự thảo Luật.
|
Dự thảo Luật đã bổ sung đối tượng PEP của tổ chức quốc tế theo khuyến nghị 12 của FATF.
Tại Nghị quyết số 95/NQ-CP của Chính phủ, Chính phủ đã quyết nghị thống nhất với đề xuất của NHNN về vấn đề này.
|
Bộ Quốc phòng
|
Giải trình đối với việc quy định hay không quy định các cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP) theo Khuyến nghị 12 của FATF bởi Luật quy định áp dụng đối với cả người nước ngoài do đó không nên phân biệt cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người nước ngoài hay trong nước. Đối với các đối tượng này đều phải thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền như nhau.
|
Bộ Tư pháp
|
Khoản 1 Điều 15 dự thảo Luật quy định khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức hữu quan của nước ngoài và tổ chức quốc tế. Theo như quy định này thì khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị chỉ là khách hàng là người nước ngoài. Tại giai đoạn đề nghị xây dựng luật tại Chính sách 03, cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất cần quy định và nhận diện cả những cá nhân khách hàng người Việt Nam là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, không phân biệt giữa người Việt Nam và nước ngoài. Do vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc việc mở rộng phạm vi của điều luật này để đảm bảo phù hợp với đề nghị khi xác định chính sách trong giai đoạn đề nghị xây dựng Luật.
Bên cạnh đó, việc quy định cá nhân có ảnh hưởng chính trị cũng là người Việt Nam thì cần xác định rõ tiêu chí. Đồng thời cần bổ sung vào dự thảo hồ sơ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia có quy định về vấn đề này để cơ quan có thẩm quyền có căn cứ xem xét, quyết định.
|
Bộ Nội vụ
|
Khoản 1 Điều 10 và Khoản 2 Điều 15: Đề nghị chỉnh sửa bố cục theo điều, khoản, điểm (không sử dụng i, ii, iii); rà soát tiêu đề của Mục 2 và các Điều tại Mục 2 dự thảo Luật nhằm bảo đảm tính thống nhất và đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa dự thảo Luật.
|
Bộ Tư pháp
|
Khoản 2 Điều 15 dự thảo Luật quy định các biện pháp áp dụng đối với nhóm đối tượng là khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, theo đó đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị; tuy nhiên, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung quy định về có biện pháp giám sát trong suốt quá trình giao dịch, cung ứng dịch vụ cho nhóm khách hàng này.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa điểm c khoản 2 Điều 17 dự thảo Luật như sau: “Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo;…”.
|
Điều 15 dự thảo Luật quy định về khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, tuy nhiên khoản 3 điều này quy định các đối tượng khách hàng không phải là cá nhân có ảnh hưởng chính trị như cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột và bất kỳ người nào có các mối quan hệ với cá nhân khác với cá nhân có ảnh hưởng chính trị, như vậy để đảm bảo thống nhất giữa tên điều luật và nội dung điều luật, cơ quan chủ trì soạn thảo có thể cân nhắc đổi tên điều luật thành “Cá nhân có ảnh hưởng chính trị”.
|
Tiếp thu ý kiến, dự thảo đã chỉnh sửa tên Điều 17 cho phù hợp. Cụ thể, tên Điều 17 được chỉnh sửa như sau:
“Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị”.
|
Bộ Tài chính
|
Điều 15: Đề nghị sửa lại tiêu đề là “Khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị” để phù hợp với nội dung nêu trong điều này.
|
14
|
Điều 16
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Đề nghị bố cục khoản 3 xuống dưới khoản 5 và sửa đổi như sau: “Việc thiết lập ngân hàng đại lý của đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của Tổng Giám đốc (Giám đốc) hoặc người được ủy quyền”.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa lại bố cục của Điều 18 dự thảo Luật về Quan hệ ngân hàng đại lý.
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 3 Điều 16: Đề nghị sửa đổi như sau: “…phải được sự chấp thuận của người đại diện theo pháp luật hoặc người được uỷ quyền của đối tượng báo cáo trước khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý”.
|
Quy định như tại dự thảo để cụ thể hóa người có thẩm quyền của đối tượng báo cáo sẽ chấp thuận việc thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý của đối tượng báo cáo, đồng thời kế thừa quy định tại Luật PCRT năm 2012. Trên cơ sở đó, khoản 3 Điều 18 dự thảo Luật đã được sửa đổi thành: “Việc thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý của đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, hoặc người được Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của đối tượng báo cáo ủy quyền”
|
15
|
Điều 17
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Khoản 2: Đề nghị quy định cụ thể nội dung của quy trình nội bộ mà đối tượng báo cáo phải ban hành (quy trình nội bộ để thực hiện công việc gì?)
|
Tiếp thu một phần:
Để đảm bảo rõ ràng, NHNN đã thay thế cụm từ “quy trình nội bộ” bằng cụm từ “chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền” tại khoản 1 Điều 19 dự thảo Luật, đây là một trong các nội dung nằm trong quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền của đối tượng báo cáo ban hành (quy định tại điểm c khoản 1 Điều 24 dự thảo Luật).
|
16
|
Điều 18
|
Bộ Tài chính
|
Điểm b Khoản 2 Điều 18: Đề nghị bổ sung thời hạn gửi báo cáo các giao dịch đáng ngờ khi phát hiện có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch trong quá trình giám sát đặc biệt một số giao dịch.
|
Quy định về thời hạn báo cáo giao dịch đáng ngờ đã được nêu chi tiết tại khoản 2 Điều 37 dự thảo Luật.
|
17
|
Điều 19
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Đề nghị gộp vào Điều 12 dự thảo Luật, vì Điều 12 dự thảo Luật đã có quy định về việc nhận biết khách hàng thông qua tổ chức, cá nhân khác.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa khoản 2 Điều 12 như sau: “2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 củaLuật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.”.
Điều 14 dự thảo Luật quy định cụ thể các yêu cầu đối với bên thứ ba và trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba.
|
Bộ Tư pháp
|
Về nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba:
Điều 19 khoản 1 dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo có thể nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba, tuy nhiên không nêu điều kiện về tiêu chí và trường hợp nào có thể thông qua bên thứ ba để nhận biết khách hàng. Quy định này có thể hiểu mọi trường hợp đối tượng báo cáo có thể nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp cho rằng cần giới hạn những trường hợp nhất định mới thông qua bên thứ ba, còn lại vẫn đảm bảo đối tượng báo cáo tự mình thực hiện việc nhận biết khách hàng.
|
Theo Khuyến nghị 19 của FATF, các đối tượng báo cáo có thể nhận biết khách hàng qua bên thứ ba với điều kiện phải đảm bảo các yêu cầu đối với bên thứ ba, không giới hạn các trường hợp được nhận biết thông qua bên thứ ba. Các yêu cầu, điều kiện đối với bên thứ ba như: bên thứ ba phải là tổ chức tài chính, tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có thiết lập quan hệ với khách hàng; bên thứ ba phải tuân thủ các yêu cầu nhận biết, xác minh thông tin khách hàng…. Đồng thời, dự thảo Luật cũng bổ sung các quy định về điều kiện đối với bên thứ ba là tổ chức tài chính và có công ty mẹ là tổ chức tài chính thì công ty mẹ cũng cần phải tuân thủ các điều kiện được quy định tại dự thảo Luật. Trong thực tế, quy định chặt chẽ về điều kiện của bên thứ ba cũng là một trong các cách thức để qua đó hạn chế việc nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba mà không hạn chế quyền tự do kinh doanh của đối tượng báo cáo.
Mặt khác, dự thảo Luật đã quy định đối tượng báo cáo khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng qua bên thứ ba thì vẫn phải chịu trách nhiệm đối với kết quả nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng, đồng thời đảm bảo bên thứ ba phải thực hiện bảo mật thông tin khách hàng theo quy định pháp luật.
Với các quy định nêu trên, không cần thiết phải bổ sung tiêu chí và giới hạn các trường hợp được nhận biết khách hàng qua bên thứ 3 để đảm bảo phù hợp với Khuyến nghị 19, nâng mức tuân thủ khuyến nghị này của Việt Nam.
|
18
|
Điều 20
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Khoản 1: Đề nghị sửa đổi cụm từ “lưu giữ” thành “lưu trữ” (tương tự với điểm a khoản 1 Điều 21; điểm e khoản 1 Điều 23 dự thảo Luật); sửa đổi cụm từ “Các cơ quan này phải lưu giữ thông tin nêu trên tối thiểu 05 năm” thành “Các thông tin nêu trên phải lưu trữ tối thiểu 05 năm”.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại dự thảo Luật.
|
Khoản 3: Đề nghị quy định rõ về nội dung thông tin yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp (tương tự đối với khoản 3 Điều 21 dự thảo Luật).
|
Đối tượng báo cáo cung cấp thông tin theo yêu cầu cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nội dung thông tin yêu cầu phụ thuộc vào việc thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền; điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong từng thời điểm, vụ việc… của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định như dự thảo Luật để đảm bảo tính khả thi. Đồng thời, nội dung này thực hiện theo khuyến nghị 24.10 của FATF.
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|
Khoản 1 Điều 20 (Về minh bạch thông tin của pháp nhân):
Các thông tin cơ bản của công ty cần được thu thập và lưu giữ của 01 công ty gồm có: tên công ty, bằng chứng về sự thành lập, hình thức và tình trạng pháp lý, địa chỉ văn phòng đăng ký…đã có trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của các doanh nghiệp đăng ký thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp hoặc Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp đăng ký thành lập theo quy định các luật chuyên ngành. Do đó, đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để nghiên cứu sửa đổi như sau: “Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu giữ thông tin cơ bản, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân bao gồm: thông tin trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp ...”.
|
Quy định tại Điều 21 dự thảo Luật là quy định chung về minh bạch thông tin của pháp nhân, bao gồm cả pháp nhân thương mại (được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp) và pháp nhân phi thương mại (gồm Hội, Quỹ, tổ chức phi chính phủ nước ngoài, tổ chức tôn giáo…được thành lập và hoạt động theo các văn bản pháp lý khác nhau như Nghị định 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện, Nghị định 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Nghị định 12/2012/NĐ-CP ngày 01/3/2012 về đăng ký quản lý hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài…). Do đó, quy định tại Điều 21 cần đưa ra những quy định chung nhất, áp dụng đối với cả hai loại hình pháp nhân này.
Như vậy, việc quy định các thông tin cơ bản về pháp nhân gồm “thông tin trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp ...” không phù hợp đối với pháp nhân phi thương mại.
|
Bộ Tư pháp
|
Về minh bạch thông tin của pháp nhân:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2 Điều này cung cấp thông tin. Tuy nhiên những thông tin này ảnh hưởng đến quyền của cá nhân, tổ chức và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, Bộ Tư pháp cho rằng, cần quy định rõ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là những cơ quan nào được phép yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin.
|
Tiếp thu và sửa đổi khoản 3 Điều 21 dự thảo Luật để làm rõ về các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như sau:
“3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan, pháp nhân cung cấp thông tinquy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”
|
19
|
Điều 21
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Khoản 1: Đề nghị bổ sung cụm từ “Trách nhiệm của” trước cụm từ “người nhận ủy thác”; bỏ từ “phải” tại tên gọi của khoản 1 Điều 21 dự thảo Luật.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại khoản 1 Điều 22 dự thảo Luật như sau: “Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệmsau đây:”.
|
20
|
Điều 24
|
Bộ Xây dựng
|
Khoản 1: Đề nghị sửa đổi, bổ sung nội dung như sau: “Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Cục phòng, chống rửa tiền và cơ quan quản lý chuyên ngành khi thực hiện giao dịch có giá trị lớn”.
|
Các giao dịch đáng ngờ và giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo chỉ được báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo thông tin được tập trung, phân tích, xử lý nhất quán với mục đích sử dụng cho công tác PCRT. Quy định này cũng phù hợp với khuyến nghị số 29 của FATF về đơn vị tình báo tài chính có chức năng, thẩm quyền tiếp nhận các thông tin báo cáo giao dịch giá trị lớn và giao dịch đáng ngờ.
Về cơ chế chia sẻ thông tin của NHNN cho các bộ, ngành liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ về PCRT, dự thảo Luật đã quy định rõ trách nhiệm của NHNN, như sau:
- Khoản 2 Điều 42 dự thảo Luật quy định: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm..”.
- Khoản 12 Điều 48 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của NHNN: “Giám sát đối tượng báo cáo trong việc thực hiện báo cáo theo quy định tại cácđiều 25, 26 và 34 của Luật này; phối hợp cung cấp thông tin giám sát cho cơ quan thanh tra các bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền”.
Như vậy, các bộ, ngành vẫn được tiếp cận các nguồn thông tin liên quan đến giao dịch có giá trị lớn, giao dịch đáng ngờ cùng với nguồn thông tin sẵn có từ công tác quản lý của bộ, ngành để thực hiện nhiệm vụ quản lý về PCRT, đánh giá rủi ro ngành trong các lĩnh vực có liên quan.
|
21
|
Điều 25
|
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
|
Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định về các dấu hiệu đáng ngờ đối với hoạt động “cung cấp tài sản ảo”, “cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ”.
|
Hiện nay dự thảo Luật đã bỏ quy định về các đối tượng này, đồng thời giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khoản 3 Điều 4 dự thảo Luật).
Hơn nữa, tại khoản 3 Điều 26 dự thảo quy định: “Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu nêu tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này, đối tượng báo cáo, các bộ, ngành có liên quan thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ hướng dẫn và bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực”. Theo đó, khi Chính phủ quy định bổ sung đối tượng thực hiện các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền là đối tượng báo cáo, căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời ký, Chính phủ xem xét, quyết định việc bổ sung các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ tương ứng đối với các hoạt động này.
|
Bộ Tư pháp
|
Về báo cáo giao dịch đáng ngờ:
Khoản 2 và 3 Điều 25 dự thảo Luật giữ nguyên quy định các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản và dấu hiệu đáng ngờ theo từng lĩnh vực hoạt động của đối tượng báo cáo theo Luật Phòng, chống rửa tiền 2012.
Tại giai đoạn đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền, cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất tại Chính sách 03 về Hoàn thiện các quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo, theo đó một trong những giải pháp thực hiện chính sách này là sửa đổi, bổ sung quy định về báo cáo giao dịch đáng ngờ, mở rộng các dấu hiệu cảnh báo về giao dịch đáng ngờ đến các lĩnh vực hoạt động khác của đối tượng báo cáo (ví dụ, đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, kế toán, luật sư,...). Như vậy đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung quy định về các dấu hiệu cảnh báo về giao dịch đáng ngờ trong các lĩnh vực hoạt động đã được xác định có thể phát sinh giao dịch đáng ngờ như lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý, công chứng, kế toán, dịch vụ pháp lý, dịch vụ ủy thác v.v…
|
Tiếp thu một phần và Cơ quan chủ trì soạn thảo đã rà soát bổ sung dấu hiệu giao dịch đáng ngờ đối với hoạt động trung gian thanh toán (Điều 29 dự thảo Luật) là hoạt động kinh doanh mới và là đối tượng báo cáo được bổ sung tại dự thảo Luật; hoạt động kinh doanh bất động sản tại Điều 33 dự thảo Luật. Đồng thời rà soát làm rõ một số dấu hiệu (ví dụ như dấu hiệu đáng ngờ quy định tại khoản 11 Điều 28 dự thảo Luật được sửa thành: “Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không đầy đủ, không chính xác”), điều chỉnh một số dấu hiệu cho chính xác (ví dụ dấu hiệu đáng ngờ tại khoản 11 Điều 28, khoản 4 Điều 33 dự thảo Luật).
Đối với dấu hiệu đáng ngờ thuộc lĩnh vực khác (luật sư, công chứng…): Trong quá trình lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật, các bộ, ngành quản lý trong các lĩnh vực công chứng, luật sư không đề xuất bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ (Bộ Tài chính có đề xuất bổ sung dấu hiệu đáng ngờ đối với “dịch vụ kế toán”, tuy nhiên không đề xuất cụ thể các dấu hiệu này).
Do đó, để đảm bảo tính khả thi, khoản 2 Điều 26 dự thảo Luật quy định: “Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu nêu tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này, đối tượng báo cáo, các bộ, ngành có liên quan thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ hướng dẫn và bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực”. Theo đó, trong trường hợp cần thiết bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ (ví dụ bộ, ngành có đề xuất), NHNN sẽ trình Chính phủ bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ này.
Tại đề xuất chính sách, cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành hướng dẫn, bổ sung các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu, xây dựng dự thảo và theo một số ý kiến góp ý xây dựng, cơ quan chủ trì soạn thảo nhận thấy việc bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ do sẽ thuộc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau nên quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ để phù hợp hơn.
|
Bộ Công an
|
Bổ sung quy định báo cáo giao dịch liên quan đến đối tượng thuộc Danh sách đen và cách thức xử lý các giao dịch liên quan đến các đối tượng này.
|
Nội dung này đã được quy định tại Điều 44 dự thảo Luật về biện pháp trì hoãn giao dịch. Theo đó, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch ngay khi phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen và phải báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và NHNN. Quy định này cũng phù hợp với quy định của pháp luật về phòng, chống khủng bố.
|
Bổ sung quy định báo cáo giao dịch đối với đối tượng đang là bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự đang trong quá trình tiến hành tố tụng theo yêu cầu của cơ quan điều tra có thẩm quyền để kịp thời phát hiện các hành vi rửa tiền.
|
Tiếp thu và tại điểm a khoản 1 Điều 26 dự thảo Luật đã có quy định về nội dung này, cụ thể như sau:
“1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có đủ các yếu tố sau:
a) Giao dịch được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;...”.
|
Cần nghiên cứu, xây dựng Điều 25 dự thảo Luật theo hướng quy định các dấu hiệu đáng ngờ đặc trưng, rõ nét của tội phạm rửa tiền; không nên quy định dàn trải các dấu hiệu đáng ngờ trong các lĩnh vực để tiết kiệm nguồn lực, thời gian, chi phí tài chính của các đối tượng báo cáo và các cơ quan thực thi pháp luật; đồng thời nâng cao hiệu quả công tác xác minh, điều tra, xử lý đối với tội phạm rửa tiền.
|
- Các dấu hiệu đáng ngờ quy định từ Điều 27 đến Điều 33 dự thảo Luật chỉ mang tính chất gợi ý tham khảo cho đối tượng báo cáo. Các dấu hiệu này được xây dựng tổng hợp từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới được chia sẻ trong các báo cáo mô hình của APG. Đối tượng báo cáo phải báo cáo giao dịch đáng ngờ khi có nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền.
- Nội dung điều khoản này được kế thừa từ Luật PCRT hiện hành,và có bổ sung dấu hiệu giao dịch đáng ngờ đối với hoạt động trung gian thanh toán (Điều 29 dự thảo Luật) là đối tượng báo cáo được bổ sung tại dự thảo Luật.
|
Bổ sung dấu hiệu giao dịch đáng ngờ tại khoản 3:
“Tài khoản ngân hàng có thay đổi về thiết bị đăng nhập, thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử vào ban đêm, địa chỉ IP nước ngoài”.
|
Tiếp thu một phần, bổ sung khoản 14 Điều 28 như sau: “Các giao dịch trực tuyến qua tài khoản liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập, địa chỉ giao thức Internet (địa chỉ IP) ở nước ngoài”.
|
Bộ Xây dựng
|
Khoản 1 Điều 25: Đề nghị sửa đổi, bổ sung nội dung như sau: “Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Cục phòng, chống rửa tiền và cơ quan quản lý chuyên ngành khi nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền”.
|
Các giao dịch đáng ngờ và giao dịch có giá trị lớn chỉ được báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo thông tin được tập trung, phân tích, xử lý nhất quán với mục đích sử dụng cho công tác PCRT. Quy định này cũng phù hợp với khuyến nghị số 29 của FATF về đơn vị tình báo tài chính có chức năng, thẩm quyền tiếp nhận các thông tin báo cáo giao dịch giá trị lớn và giao dịch đáng ngờ.
Bên cạnh đó, tại dự thảo Luật quy định trách nhiệm chia sẻ thông tin từ NHNN cho các bộ, ngành, cụ thể:
- Khoản 2 Điều 42 dự thảo Luật quy định: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm...”.
- Khoản 12 Điều 48 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của NHNN: “Giám sát đối tượng báo cáo trong việc thực hiện báo cáo theo quy định tại cácđiều 25, 26 và 34 của Luật này; phối hợp cung cấp thông tin giám sát cho cơ quan thanh tra các Bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền”.
Như vậy, các bộ, ngành vẫn được tiếp cận các nguồn thông tin liên quan đến giao dịch có giá trị lớn, giao dịch đáng ngờ cùng với nguồn thông tin sẵn có từ công tác quản lý của bộ, ngành để thực hiện nhiệm vụ quản lý về PCRT, đánh giá rủi ro ngành trong các lĩnh vực có liên quan.
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 5 Điều 25: Về các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán:
+ Đề nghị bỏ khoản b do theo quy định pháp luật, các giao dịch chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống giao dịch của Sở Giao dịch chứng khoán đều phải được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Lưu ký chứng khoán chấp thuận.
+ Điểm đ Khoản 5: Đề nghị sửa “Khách hàng thường xuyên bán danh mục đầu tư và đề nghị công ty chứng khoán thanh toán bằng tiền mặt hoặc séc” thành “Khách hàng thường xuyên bán tất cả cổ phiếu trong danh mục đầu tư và đề nghị công ty chứng khoán ký uỷ nhiệm chi để khách hàng rút tiền mặt từ ngân hàng thương mại”. Lý do: Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Thông tư 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 quy định về hoạt động của công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán không được trực tiếp nhận và chi trả tiền mặt để giao dịch chứng khoán của khách hàng mà phải thực hiện qua ngân hàng thương mại.
+ Điểm d Khoản 5: Đề nghị xem xét sửa lại như sau: “Người không cư trú chuyển số tiền lớn từ tài khoản giao dịch chứng khoán hoặc thanh lý các hợp đồng uỷ thác đầu tư chứng khoán để chuyển tiền ra khỏi Việt Nam”;
+ Điểm e Khoản 5: Đề nghị xem xét sửa lại như sau “e) Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán không có lợi trong khoảng thời gian ngắn”.
+ Đề nghị xem xét bổ sung hành vi giao dịch đáng ngờ: “Nhà đầu tư nước ngoài cư trú ở quốc gia, vùng lãnh thổ có rủi ro cao về rửa tiền góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán tại Việt Nam”.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại dự thảo Luật.
|
Tại Điều 25 dự thảo Luật quy định về dấu hiệu đáng ngờ cơ bản, dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, trò chơi có thưởng, casino, kinh doanh bất động sản, không quy định cụ thể dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực tài sản ảo, dịch vụ kế toán, đề nghị rà soát, bổ sung để thống nhất trong triển khai thực tế.
|
- Về tài sản ảo: Hiện nay dự thảo Luật đã bỏ quy định về các đối tượng này.
- Về dịch vụ kế toán: Dấu hiệu đáng ngờ cơ bản tại Điều 27 dự thảo Luật được áp dụng chung cho các lĩnh vực, bao gồm cả “dịch vụ kế toán”.
Đồng thời, tại khoản 3 Điều 26 dự thảo Luật cũng quy định: “Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu nêu tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này, đối tượng báo cáo, các bộ, ngành có liên quan thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ hướng dẫn và bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực”. Theo đó, trong trường hợp cần thiết, căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền, Chính phủ xem xét, quyết định việc bổ sung các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ đối với các lĩnh vực, trong đó bao gồm cả dấu hiệu dáng ngờ trong lĩnh vực dịch vụ kế toán.
|
22
|
Điều 27
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 1: Để đảm bảo việc áp dụng thống nhất, tạo thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong thực thi pháp luật về phòng chống rửa tiền (trong đó có lực lượng Hải quan), đề nghị làm rõ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” là những cơ quan, đơn vị nào được quy định trường hợp trên định mức phải khai hải quan của cá nhân xuất nhập cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng.
|
Việc giao cơ quan, đơn vị nào được quy định trường hợp trên định mức phải khai hải quan của cá nhân xuất nhập cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng thực hiện theo các quy định tại các văn bản có liên quan.
|
Khoản 2: Đề nghị làm rõ nội dung quy định về “thu thập, lưu trữ các thông tin tại khoản 1 Điều 27” để hạn chế việc phát sinh các yêu cầu, thủ tục không đảm bảo tính khả thi trên thực tế áp dụng đối với cơ quan liên quan trong thu thập, cung cấp thông tin.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa làm rõ tại khoản 2 Điều 35 dự thảo Luật theo hướng bổ sung cụm từ “khai báo” sau cụm từ “thông tin” để đảm bảo không làm phát sinh thêm chi phí, thủ tục.
|
Khoản 2: Để đảm bảo tuân thủ quy định về bảo mật thông tin thu thập được, cũng như hạn chế việc các cơ quan chức năng yêu cầu và sử dụng thông tin do cơ quan Hải quan thu thập được không đúng mục đích, thẩm quyền, đề nghị chỉ rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào được yêu cầu cơ quan Hải quan cung cấp thông tin này, lý do, mục đích yêu cầu cung cấp thông tin.
Đối với việc cung cấp thông tin nêu tại Điều 27 dự thảo Luật, ngoài việc tuân thủ theo Luật Phòng, chống rửa tiền, còn phải tuân theo quy định của Luật Hải quan, pháp luật bảo vệ bí mật nhà nước… Cụ thể, đối với việc thu thập, cung cấp thông tin hải quan ở trong nước, cơ quan Hải quan thực hiện theo Điều 95 Luật Hải quan 2014.
|
Tiếp thu và thay thế cụm từ “cơ quan có thẩm quyền” thành “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” tại khoản 2 Điều 35 dự thảo Luật.
|
23
|
Điều 29
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Khoản 2: Đề nghị bỏ cụm từ “hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh báo cáo hoặc”, vì khoản này quy định thời hạn báo cáo đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ.
|
Tại khoản 2 Điều 37 dự thảo Luật quy định báo cáo “trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh giao dịch hoặc 01 ngày làm việc kể từ ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được giao dịch đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ”, không quy định “...kể từ thời điểm phát sinh báo cáo”.
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 2 Điều 29: Đề nghị quy định cụ thể thời hạn đối tượng báo cáo phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay cho quy định “báo cáo ngay” để có cơ sở làm rõ trách nhiệm của đối tượng báo cáo.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa khoản 2 Điều 37 dự thảo Luật thành đối tượng báo cáo phải báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền “trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm phát hiện”.
|
24
|
Điều 31
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Khoản 1: Đề nghị xem lại quy định trích dẫn, vì Điều 30 dự thảo Luật không có khoản 1.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa quy định tại khoản 1 Điều 39 dự thảo Luật như sau: "1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này cho ..."..
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Khoản 1: Đề nghị rà soát, chỉnh sửa khoản 1 Điều 31 Dự thảo Luật như sau: “Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời thông tin, tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu theo quy định của Luật này.”, vì qua đối chiếu Điều 30 của Dự thảo Luật không quy định khoản của điều luật.
|
Bộ Quốc phòng
|
Khoản 1: Đề nghị rà soát để đảm bảo thống nhất với Điều 30 dự thảo Luật.
|
Bộ Xây dựng
|
Đề nghị sửa đổi, bổ sung nội dung như sau: “Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời thông tin, tài liệu theo quy định tại Điều 30 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu theo quy định của Luật này và pháp luật khác có liên quan”.
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Để bảo đảm quy định của Luật có thể được áp dụng ngay sau khi có hiệu lực và phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), đề nghị rà soát, quy định rõ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” mà đối tượng báo cáo phải cung cấp thông tin, tài liệu (tại khoản 1 Điều 31) bao gồm những cơ quan nào? Hiện nay, nội dung này đã được quy định cụ thể tại Điều 17 Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa quy định tại khoản 1 Điều 39 dự thảo Luật như sau: “...cho Ngân hàng Nhà nước Việt nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ”.
|
25
|
Điều 32
|
Bộ Quốc phòng
|
Khoản 2: Bổ sung cụm từ “và các cơ quan có thẩm quyền” vào cuối của khoản để thống nhất với các nội dung các điều khác về cung cấp thông tin.
|
Như đã giải trình tại số thứ tự 20 về giải trình ý kiến góp ý của Bộ Xây dựng (trang 38, 39 Bảng tổng hợp), báo cáo giao dịch đáng ngờ chỉ báo cáo cho NHNN, do đó dự thảo không quy định “và các cơ quan có thẩm quyền khác”.
|
26
|
Điều 34
|
Bộ Công an
|
Đề nghị bổ sung khoản 2 thành: “Cục phòng, chống rửa tiền có trách nhiệm thiết lập hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ cho việc trao đổi, thu thập, phân tích, xử lý thông tin hiệu quả”.
|
Việc thiết lập hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ cho việc trao đổi, thu thập và xử lý thông tin thuộc nội dung đầu tư trang thiết bị, hệ thống công nghệ thông tin, công cụ lao động thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao chung của NHNN hoặc của mỗi Bộ, ngành và thực hiện theo quy định của pháp luật về chi tiêu ngân sách nhà nước trong việc đầu tư trang thiết bị, mua sắm công cụ lao động. Do vậy, không cần thiết phải quy định cụ thể điều khoản này vào Luật PCRT.
Bên cạnh đó, hiện nay dự thảo Luật đã bỏ quy định về “Cục PCRT”.
|
27
|
Điều 35
|
Bộ Công an
|
- Đề nghị bổ sung cụm từ “xác minh” vào trước cụm từ “điều tra, truy tố, xét xử” tại khoản 1, khoản 2 Điều 35 dự thảo Luật để quy định rõ các giao dịch đáng ngờ được chuyển giao từ NHNN đến các cơ quan có thẩm quyền là thông tin ban đầu, cần được xác minh làm rõ, chưa phải là tin báo tố giác tội phạm.
|
Tiếp thu và bổ sung cụm từ "xác minh" trước cụm từ "điều tra, truy tố, xét xử" tại khoản 1 Điều 42 dự thảo Luật.
|
Đề nghị bổ sung khoản 1 cụm từ “chậm nhất trong 10 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận giao dịch đáng ngờ của đối tượng báo cáo” vào sau cụm từ “chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền”.
Thực tiễn công tác đánh giá đa phương của APG đối với Việt Nam cho thấy: Nhiều STR được chuyển giao sang cơ quan Công an để xác minh hành vi thực hiện STR đã xảy ra khá lâu (có STR đã xảy ra cách thời điểm chuyển giao trên 02 năm) gây khó khăn cho công tác xác minh, truy vết, cá nhân thực hiện STR có thể đã chết hoặc chuyển ra nước ngoài… dẫn đến công tác xác minh, đấu tranh với tội phạm rửa tiền chưa đạt hiệu quả. Một số STR được chuyển giao đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, chưa đảm bảo yếu tố nghiệp vụ, yếu tố xử lý vi phạm trong công tác phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm rửa tiền nói riêng.
|
Tiếp thu và bổ sung quy định khoản 1 Điều 42 dự thảo Luật như sau:
“1. Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, trong thời hạn 10 ngày làm việc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.”
Tại khoản 4 Điều 42 dự thảo Luật giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung trao đổi, cung cấp, chyển giao thông tin PCRT với cơ quan trong nước. Dự kiến tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết sẽ hướng dẫn nội dung về xác định cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền.
|
28
|
Điều 37
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 2 Điều 37: Đề nghị sửa “Cục phòng, chống rửa tiền có trách nhiệm cung cấp thông tin, giám sát công tác phòng, chống rửa tiền của đối tượng báo cáo cho các đơn vị được giao nhiệm vụ làm đầu mối về công tác phòng, chống rửa tiền tại các Bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền”. Lý do: Để đảm bảo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị được giao nhiệm vụ làm đầu mối trong công tác phòng, chống rửa tiền tại các Bộ, ngành trong việc kiểm tra, giám sát các đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ, ngành.
|
- Tiếp thu một phần theo hướng bổ sung cụm từ “kiểm tra” tại khoản 12 Điều 48 dự thảo Luật về trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước.
- Không tiếp thu nội dung giao các đơn vị làm đầu mối vì thông tin giám sát công tác PCRT của đối tượng báo cáo để phục vụ cho công tác thanh tra, do vậy, thông tin này cần được chuyển giao trực tiếp cho các đơn vị thanh tra của các bộ, ngành.
|
29
|
Điều 38
|
Bộ Công an
|
Bổ sung khoản 1 thành:
“Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch ngay khi phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc danh sách cảnh báo nhưng không thể thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 9, 10 của Luật này và thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng tăng cường hoặc có căn cứ để xác định tài khoản liên quan tới giao dịch là tài khoản vô danh, tài khoản đăng ký bằng giấy tờ giả mạo, giấy tờ của người, tổ chức khác, giấy tờ không do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội hoặc tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ tội phạm và phải báo cáo ngay bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
|
Biện pháp trì hoãn giao dịch thực chất là biện pháp phong tỏa tài khoản mang tính chất tạm thời. Việc áp dụng các biện pháp này cần phải có sự cẩn trọng và trong các trường hợp hạn chế theo quy định của pháp luật do việc áp dụng biện pháp này có thể gây ra những thiệt hại rất lớn về kinh tế cho khách hàng do không thực hiện được giao dịch.
- Đối với trường hợp liên quan đến danh sách đen: Tại điểm a khoản 1 Điều 44 dự thảo Luật đã quy định: Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội.
- Đối với trường hợp danh sách cảnh báo: Tại khoản 2 Điều 20 dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải áp dụng: Các biện pháp tăng cường; Kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó (không áp dụng ngay biện pháp trì hoãn giao dịch do danh sách cảnh báo chỉ nhằm mục đích cảnh báo các cá nhân, tố chức có rủi ro cao về rửa tiền).
- Đối với trường hợp đối tượng báo cáo không thể thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng hoặc có căn cứ để xác định tài khoản liên quan tới giao dịch là tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả:
+ Khoản 1 Điều 9 Dự thảo Luật quy định tổ chức tài chính (TCTC) phải nhận biết khách hàng trong trường hợp khách hàng lần đầu mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với TCTC, do đó, nếu TCTC không thể nhận biết, xác minh, cập nhật thông tin khách hàng thì sẽ không thực hiện mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với khách hàng.
+ Khoản 2 Điều 8 dự thảo Luật đã có quy định cấm thiết lập, duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả (đã bao gồm trường hợp tài khoản đăng ký bằng giấy tờ giả mạo, giấy tờ của người, tổ chức khác, giấy tờ không do cơ quan có thẩm quyền cấp).
Do đó, việc trì hoãn giao dịch trong các trường hợp này là không cần thiết.
|
Thực tiễn trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao trong thời gian vừa qua cho thấy, các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản sau khi bị hại chuyển tiền vào tài khoản thì nhanh chóng rút tiền hoặc chuyển khoản đến nhiều tài khoản khác nhau; nhưng hiện nay chưa có quy định về trì hoãn giao dịch đối với các trường hợp này, do đó ảnh hưởng đến công tác đấu tranh với loại tội phạm này và việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt gặp rất nhiều khó khăn. Đề nghị cần bổ sung quy định về việc thực hiện trì hoãn giao dịch theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo hướng: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền yêu cầu trì hoãn giao dịch trong giai đoạn thực hiện điều tra, truy tố, xét xử tội phạm”.
|
Điểm b khoản 1 Điều 44 dự thảo Luật như sau:
“1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch trong các trường hợp sau:
…
b) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan.”.
Do nội dung về trì hoãn giao dịch liên quan đến quyền con người nên việc áp dụng phải được quy định tại luật.
(Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”).
Hiện nay, các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự được áp dụng tại từng giai đoạn tố tụng cụ thể, cũng như có quy định rõ ràng về thẩm quyền, thời điểm áp dụng, trình tự, thủ tục áp dụng.
Trong khi đó, phạm vi Luật PCRT chỉ quy định về việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền. Theo phạm vi này, Luật PCRT không thể quy định việc áp dụng một biện pháp ngăn chặn cho các hành vi phạm tội nói chung. Bên cạnh đó, trong phạm vi Luật PCRT không thể quy định về trình tự, thủ tục tố tụng, do đó cũng không thể quy định rõ về thẩm quyền, thời điểm, cách thức áp dụng biện pháp này.
Vì những các lý do nêu trên, NHNN đề nghị giữ nguyên quy định tại dự thảo Luật. Quy định này sẽ đảm bảo trong trường hợp luật liên quan có quy định, đối tượng báo cáo sẽ phải thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 1 Điều 38: Đề nghị quy định cụ thể thời hạn đối tượng báo cáo phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay cho quy định “báo cáo ngay” để có cơ sở làm rõ trách nhiệm của đối tượng báo cáo.
|
Quy định như tại khoản 2 Điều 44 dự thảo Luật nhằm đảm bảo tính kịp thời trong việc áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch và báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho NHNN.
|
30
|
Điều 39
|
Bộ Tài chính
|
Điều 38, Điều 39: Đề nghị xem xét lại quy định này do một số đối tượng báo cáo của dự thảo Luật (công ty dịch vụ kế toán...) không có thẩm quyền cũng như khả năng thực hiện việc trì hoãn, phong tỏa tài khoản... của khách hàng khi phát hiện giao dịch đáng ngờ.
|
Việc lựa chọn các biện pháp này tùy thuộc phạm vi hoạt động, cũng như phù hợp với chức năng của từng đối tượng báo cáo.
|
Bộ Tư pháp
|
Về phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản:
Điều 39 dự thảo Luật cơ bản giữ nguyên quy định của Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 về phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản, theo đó, đối tượng báo cáo phải thực hiện phong tỏa tài khoản hoặc áp dụng biện pháp niêm phong hoặc tạm giữ tài sản của các cá nhân, tổ chức khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên tại Tờ trình số 03/TTr-BTP ngày 25/2/2021 của Bộ Tư pháp về Báo cáo Nghiên cứu, đề xuất xây dựng biện pháp tịch thu tài sản không qua thủ tục kết tội và đề xuất hoàn thiện pháp luật liên quan, một trong những đề xuất sửa đổi hoàn thiện pháp luật nhằm ngăn chặn sớm việc tẩu tán tài sản và tăng cường hiệu quả việc thu hồi tài sản phạm tội trong pháp luật về phòng, chống rửa tiền là cùng với biện pháp trì hoãn giao dịch, bổ sung thẩm quyền cho đối tượng báo cáo được áp dụng các biện pháp tạm thời khi phát hiện giao dịch đáng ngờ như phong toả tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản trong thời gian xác minh để chuyển sang cơ quan điều tra. Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo các bộ, ngành liên quan nghiên cứu tiếp thu những đề xuất được nêu tại báo cáo nghiên cứu, do vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu thêm về vấn đề này.
|
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các biện pháp tạm thời gồm phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản phải được thực hiện theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ theo các quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ Luật Tố tụng dân sự…
Về đề xuất của Bộ Tư pháp, Luật PCRT đã quy định cho đối tượng báo cáo được áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch, về bản chất đây cũng là biện pháp phong tỏa tài khoản tạm thời trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền xác minh. Do đó, quy định này đã xử lý được một phần đề xuất của Bộ Tư pháp.
|
31
|
Điều 40
|
Bộ Công an
|
Theo dự thảo Điều 40, cá nhân vi phạm quy định của Luật này tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại tại Điều 76 Bộ luật hình sự, trong đó có Tội rửa tiền (Điều 324).
Do đó, để thống nhất, đề nghị chỉnh sửa đoạn 1 “Tổ chức vi phạm các quy định của Luật này thì bị xử phạt vi phạm hành chính” thành đoạn:
“Tổ chức vi phạm các quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
|
Tiếp thu và chính sửa quy định tại Điều 46 dự thảo Luật về xử lý vi phạm như sau:
"Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.".
|
Bộ Tư pháp
|
Về xử lý vi phạm:
Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung hình thức xử lý vi phạm hình sự đối với tổ chức để đảm bảo thống nhất với khoản 6 Điều 324 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
|
Tòa án nhân dân tối cao
|
Đề nghị bổ sung đối tượng là tổ chức (pháp nhân thương mại) ngoài việc vi phạm bị xử lý hành chính còn có thể bị truy cứu TNHS tại Điều 40 của dự thảo Luật cho phù hợp với Điều 324 của Bộ luật Hình sự.
|
32
|
Điều 42
|
Bộ Công an
|
Qua thực tiễn công tác đánh giá đa phương của APG cho thấy, thông tin giao dịch đáng ngờ (STR) được Cục Phòng, chống rửa tiền - NHNN chuyển giao đến các cơ quan có thẩm quyền còn chưa đầy đủ, thông tin chưa rõ ràng gây khó khăn cho công tác xác minh, điều tra.
Thực tiễn công tác đánh giá đa phương của APG đối với Việt Nam cho thấy, số lượng giao dịch đáng ngờ NHNN chuyển giao sang cơ quan có thẩm quyền (trong đó có Bộ Công an) hàng năm rất lớn (hàng nghìn giao dịch). Tuy nhiên, hầu hết các STR đều chưa được thu thập đầy đủ thông tin và chưa được đánh giá chi tiết về dấu hiệu hành vi vi phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân thực hiện STR. Do vậy, hầu hết STR do NHNN chuyển giao đến Bộ Công an đều chưa rõ dấu hiệu tội phạm, các STR mới chỉ là nguồn tin ban đầu để xác minh có hoặc không có dấu hiệu tội phạm.
Do đó, đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của NHNN tại Điều 42 nội dung: “Yêu cầu các đối tượng báo cáo được quy định tại Luật này báo cáo cụ thể, chi tiết về các giao dịch đáng ngờ, giao dịch có giá trị lớn; phân tích, đánh giá cụ thể giao dịch đáng ngờ trước khi chuyển giao vụ việc sang cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền”.
|
Khoản 6 Điều 4 Luật PCRT năm 2012 quy định: “Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ hoạt động tội phạm hoặc liên quan tới rửa tiền.”. Theo đó, trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ, thông tin, tài liệu cần thiết trong báo cáo giao dịch đáng ngờ thuộc trách nhiệm của đối tượng báo cáo được quy định trong dự thảo Luật và dự kiến trong các văn bản hướng dẫn.
Ngoài ra, cơ sở để đưa ra góp ý chưa hợp lý, dựa trên nhận định một chiều. Những nhận định góp ý liên quan đến thực tiễn chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ, hiệu quả chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ cần dựa trên Tổng kết hiệu quả tiếp nhận và xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ để xác định các kết quả, hạn chế của công tác này của Bộ Công an và NHNN.
Hiện nay, việc chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ cho các cơ quan thuộc Bộ Công an của NHNN được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Nghị định 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT. Theo quy định này, các thông tin được chuyển giao cho Bộ Công an là các thông tin đáng ngờ có liên quan đến rửa tiền hoặc rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố (mà không phải hoàn toàn là các thông tin về hành vi vi phạm pháp luật). Dưới góc độ NHNN chỉ tiếp nhận và phân tích thông tin từ các đối tượng báo cáo hoặc cá nhân, tổ chức có liên quan, cán bộ Cục PCRT không được đào tạo và không có kinh nghiệm về điều tra nên việc xác định rõ dấu hiệu tội phạm trước khi chuyển giao cho Bộ Công an là không thực hiện được.
|
33
|
Điều 42
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 12 Điều 42: Về trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, đề nghị sửa như sau: “12. Chủ trì, thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 Luật này.”
|
Tiếp thu và làm rõ trách nhiệm của NHNN trong thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại khoản 10 Điều 48 dự thảo Luật.
|
34
|
Điều 43
|
Bộ Tư pháp
|
Về trách nhiệm của Bộ Công an
Điều 43 quy định tại khoản 1: Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin về tội phạm liên quan đến rửa tiền từ thông tin do Cục phòng, chống rửa tiền chuyển giao và thông tin do đối tượng báo cáo cung cấp theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền; thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Cục phòng, chống rửa tiền.
Tuy nhiên, trách nhiệm của Bộ Công an là tiếp nhận và xử lý nguồn Tin báo, tố giác tội phạm từ các nguồn mà không chỉ là từ NHNN hay đối tượng báo cáo. Do vậy đề nghị giữ nguyên như quy định cũ của Luật Phòng, chống rửa tiền 2012.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa khoản 1 Điều 49 dự thảo Luật như sau: “Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền; thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt nam”.
|
35
|
Điều 44
|
Bộ Tài chính
|
Khoản 4 Điều 44: Về trách nhiệm của Bộ Tài chính, đề nghị sửa như sau: “Phối hợp thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, trò chơi có thưởng, casino, tài sản ảo và dịch vụ kế toán theo quy định tại Điều 7 Luật này.”
|
Tiếp thu một phần và đã chỉnh sửa khoản 3 Điều 51 dự thảo Luật như sau: “Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 củaLuật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính theo quy định tại khoản 2 Điều 7 củaLuật này.”.
|
Khoản 2 Điều 44: Đề nghị bổ sung cụm từ “kiểm tra” để đảm bảo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ Tài chính trong việc kiểm tra, giám sát đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tài chính (các đơn vị không có chức năng thanh tra chuyên ngành), cụ thể: “Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành/lĩnh vực và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với các đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ gắn với hoạt động đầu tư, chứng khoán, trò chơi có thưởng, casino, tài sản ảo và dịch vụ kế toán”.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại khoản 2 Điều 51 dự thảo Luật.
|
36
|
Điều 45
|
Bộ Xây dựng
|
Khoản 2 Điều 45: Đề nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau: “Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành/lĩnh vực và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản bao gồm: Chủ đầu tư dự án bất động sản; kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động”.
|
- Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại khoản 2 Điều 52 dự thảo Luật như sau: “Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sảntrừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản.”.
- Về việc bổ sung cụm từ “chủ đầu tư dự án bất động sản”:Theo các quy định tại Luật kinh doanh bất động sản và văn bản liên quan, hoạt động kinh doanh bất động sản đã bao gồm hoạt động của chủ đầu tư dự án bất động sản. Việc bổ sung cụm từ “chủ đầu tư dự án bất động sản” không phù hợp do dự thảo Luật đang quy định về hoạt động, không phải đối tượng.
|
Khoản 3 Điều 45: Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: “Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam định kỳ thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản; kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động sản theo quy định tại Điều 7 Luật này”.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa quy định tại khoản 3 Điều 52 dự thảo Luật như sau: “Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này;thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sảntheo quy định tại khoản 2 Điều 7của Luật này. ”.
|
37
|
Điều 46
|
Bộ Tư pháp
|
Về trách nhiệm của Bộ Tư pháp:
Đề nghị bổ sung trách nhiệm “Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền” của Bộ Tư pháp tại điều này để đảm bảo thống nhất với các quy định của dự thảo Luật.
|
Tiếp thu và đã bổ sung nội dung nhiệm vụ về hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền của Bộ Tư pháp tại khoản 5 Điều 53 dự thảo Luật.
|
38
|
Điều 47
|
Bộ Công thương
|
Bỏ quy định trách nhiệm của Bộ Công Thương tại Điều 47 dự thảo Luật, vì:
- Việc quản lý tổ chức, cá nhân kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức, mỹ nghệ theo quy định thuộc trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong khi hầu hết các tổ chức cá nhân kinh doanh vàng miếng, vàng trang sức, mỹ nghệ thì cũng sẽ có ngành nghề kinh doanh kim loại quý, đá quý.
- Giai đoạn đoạn trước năm 2018, Bộ Công Thương thực hiện việc quản lý đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý là do có Tổng công ty khoáng sản thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) do Bộ Công Thương là cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Sau giai đoạn này, Bộ Công Thương đã bàn giao quyền sở hữu TKV sang Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Vì vậy, Bộ Công Thương không quản lý đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý (Bộ Công Thương đã có nhiều văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
- Bộ Công Thương không cấp phép cho hoạt động đối với các cá nhân, tổ chức doanh kim loại quý, đá quý (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và không có đầy đủ thông tin về các cá nhân, tổ chức trên (cá nhân, doanh nghiệp chỉ thực hiện chế độ báo cáo cho cơ quan chủ sở hữu, cơ quan thống kê, cơ quan tài chính). Vì vậy, việc giao trách nhiệm cho Bộ Công Thương quản lý đối tượng báo cáo trên là không phù hợp và thực tế hàng năm Bộ Công Thương không có cơ sở để tổng hợp số liệu báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Cơ sở pháp lý về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Công thương đối với kim loại quý, đá quý:
Theo quy định tại Điều 23 Nghị định 65-CP ngày 13/10/1995, Chính phủ đã giao “Bộ Thương mại phối hợp với Tổng cục hải quan và các cơ quan Nhà nước có liên quan khác ban hành quy định việc quản lý thị trường và xuất khẩu, nhập khẩu đá quý sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ”. Tuy nhiên “hiện không có căn cứ để xác định Nghị định số 65-CP ngày 13/10/1995 … thuộc các trường hợp hết hiệu lực theo quy định tại Điều 154 Luật BHVBQPPL” (ý kiến của Bộ Tư pháp tại Công văn số 1853/BTP-KTrVB). Trên cơ sở ý kiến của Bộ Tư pháp, NHNN đã có Công văn số 7500/NHNN-TTGSNH ngày 13/10/2020 đề nghị Bộ Công thương rà soát hiệu lực của Nghị định 65-CP và báo cáo Chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, NHNN chưa nhận được kết quả phản hồi đối với đề xuất này.
Bên cạnh đó, điểm e khoản 7 Điều 26 Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 4/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT đã quy định “Bộ Công Thương quản lý các đối tượng báo cáo thực hiện hoạt động kinh doanh kim loại quý và đá quý”.
Như vậy, quy định pháp luật hiện hành đang giao Bộ Công thương quản lý đối với hoạt động kinh doanh kim loại quý, đá quý.
Các nội dung liên quan đến trách nhiệm của Bộ Công thương đã được NHNN báo cáo trong quá trình lập đề nghị xây dựng Luật PCRT (sửa đổi). Tại Nghị quyết 152/NQ-CP ngày 03/12/2021 của phiên họp Chính phủ về xây dựng pháp luật tháng 11 năm 2021, Chính phủ đã quyết nghị: “Rà soát chính sách về trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác phòng chống rửa tiền theo hướng phân định rõ vai trò, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý liên quan đến tiền và vàng, các bộ, ngành quản lý các tài sản vật chất, hàng hóa khác;...”.
Với cơ sở pháp lý và nhiệm vụ quản lý của các bộ, ngành đã được Chính phủ thống nhất nêu trên, NHNN đề xuất giữ quy định về trách nhiệm của Bộ Công thương về quản lý hoạt động kinh doanh kim loại quý, đá quý như dự thảo Luật.
|
39
|
Điều 49
|
Bộ Nội vụ
|
Tại Điều 49 dự thảo Luật quy định nhiệm vụ của Bộ Nội vụ là quá rộng, không rõ, bởi tổ chức phi lợi nhuận trong nước gồm cả cơ quan nhà nước, trong khi đó, Bộ Nội vụ chỉ quản lý hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức tôn giáo. Do đó đề nghị sửa Điều 49 dự thảo Luật thành: “1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và tổ chức tôn giáo; 2. Phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài”.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại khoản 1, khoản 3 Điều 56 dự thảo Luật.
|
38
|
Điều 50
|
Bộ Nội vụ
|
Đề nghị làm rõ “tổ chức phi lợi nhuận nước ngoài” là những tổ chức nào?
|
Tiếp thu và đã thay thế “tổ chức phi lợi nhuận nước ngoài” thành “tổ chức phi Chính phủ nước ngoài” tại khoản 1 Điều 57 dự thảo Luật..
|
Bộ Ngoại giao
|
Hiện nay pháp luật VN chỉ mới quy định về “tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam”, chưa có quy định về “tổ chức phi lợi nhuận”. Đồng thời, khoản 22 Điều 2 Nghị định số 980/VBHN-BNG ngày 30/3/2021 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao, hiện nay Bộ Ngoại giao chỉ được giao là cơ quan đầu mối quản lý các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam, không được giao quản lý các tổ chức phi lợi nhận. Do đó đề nghị nghiên cứu, điều chỉnh nội dung đề cập tới tổ chức phi lợi nhuận nước ngoài tại Điều 50 dự thảo Luật cho phù hợp.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại khoản 1 Điều 57 dự thảo Luật là “tổ chức phi Chính phủ nước ngoài” theo trách nhiệm của Bộ Ngoại giao quy định tại Nghị định số 12/2021/NĐ-CP quy định về tổ chức và quản lý hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài
|
Đề nghị cơ quan chủ trì sửa đổi Điều 48 dự thảo Luật theo hướng:
Điều 48. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao
1. Phối hợp với UB Công tác về các Tổ chức phi chính phủ nước ngoài và các cơ quan liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; phối hợp với UB Công tác về các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài và các cơ quan liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
|
- Về trách nhiệm của Bộ Ngoại giao:
Điều 24 Nghị định 12/2012/NĐ-CP quy định trách nhiệm Bộ ngoại giao là “Cơ quan đầu mối quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài” bao gồm các nhiệm vụ như chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam; cấp, thu hồi giấy đăng ký của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài; thực hiện các nhiệm vụ về thanh tra thực hiện các quy định pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao (trong đó có nhiệm vụ thanh tra về tổ chức phi chính phủ nước ngoài) được quy định tại khoản 22, khoản 26 Điều 2 Nghị định 26/2017/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao và Điều 14, 15 Nghị định 17/2014/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động thanh tra ngoại giao (đã được sửa đổi, bổ sung).
- Về việc giao trách nhiệm cho Ủy ban Công tác các tổ chức phi chính phủ nước ngoài:
Tại Điều 25 Nghị định 12/2012/NĐ-CP quy định “Ủy ban Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giải quyết những vấn đề liên quan đến các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam”. Tại cuộc họp thẩm định, Bộ Tư pháp có nêu quan điểm: Ủy ban Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài không phải là cơ quan quản lý nhà nước, do đó không có chức năng quản lý ngành. Việc quản lý vẫn phải do một Bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện.
Trên quy định nêu trên, NHNN đề xuất tiếp tục giữ quy định về trách nhiệm của Bộ Ngoại giao về quản lý đối với tổ chức phi chính phủ nước ngoài như dự thảo Luật.
|
Đề nghị cơ quan chủ trì bổ sung thêm điều khoản mới quy định trách nhiệm của UB Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài như sau:
Điều …. Trách nhiệm của UB Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài.
|
39
|
Điều 51
|
Bộ Tài nguyên và Môi trường
|
Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xem lại quy định về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền, thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh kim loại quý và đá quý, vì theo quy định tại Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 4/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường không có chức năng này.
|
Tiếp thu và đã bỏ Điều khoản quy định về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại dự thảo Luật. Theo đó, trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường được thực hiện theo quy định tại Điều 59 về trách nhiệm của bộ, ngành khác dự thảo Luật.
|
39
|
Điều 52
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Đề nghị cân nhắc bỏ Điều 52 dự thảo Luật, vì các Bộ, ngành có liên quan đến công tác quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền đã được quy định tại Điều 41 đến Điều 51 dự thảo Luật.
|
Từ Điều 48 đến Điều 58 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của các bộ, ngành có chức năng quản lý nhà nước đối với các đối tượng báo cáo cụ thể trong công tác phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên, các bộ, ngành khác cũng có trách nhiệm liên quan, đặc biệt trong công tác thực hiện đánh giá rủi ro về phòng, chống rửa tiền. Vì vậy, cần thiết quy định một điều, khoản như tại dự thảo Luật.
|
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
|
Khoản 2: Đề nghị bỏ quy định tại khoản 2 Điều 52 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của các Bộ, ngành khác “chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền”.
|
Tiếp thu một phần chỉnh sửa khoản 2 Điều 59 dự thảo Luật thành: “Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý…“.
|
40
|
Điều 57
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Khoản 4: Đề nghị chỉnh sửa như sau: “Quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền…các quy định khác của pháp luật có liên quan và hoặc được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại” để đảm bảo tính chính xác.
|
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Bộ Ngoại giao, dự thảo Luật đã bỏ cụm từ “và được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại” tại khoản 4 Điều 6 dự thảo Luật.
|
Bộ Ngoại giao
|
Khoản 4: Đề nghị điều chỉnh theo hướng các hoạt động hợp tác quốc tế quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 57 (xác định, phong tỏa, niêm phong, tịch thu tài sản của người phạm tội, tương trợ tư pháp và hợp tác dẫn độ tội phạm) chỉ thực hiện theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
|
Tiếp thu và đã quy định cụ thể nội dung này tại tại khoản 4 Điều 6 dự thảo Luật:
"Quy trình, thủ tục, phương thức liên quan đến hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, các quy định khác của pháp luật có liên quan."
|
41
|
Điều 58
|
Bộ Công an
|
Theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, Bộ Công an là cơ quan trung ương của Việt Nam trong hoạt động dẫn độ tội phạm. Do đó, đề nghị chỉnh lý khoản 3 Điều 58 theo hướng bổ sung Bộ Công an nhiệm vụ thực hiện hoạt động dẫn độ tội phạm rửa tiền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
|
Điều 1 Luật Tương trợ tư pháp quy định “Luật này quy định nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp”. Như vậy, hoạt động tương trợ tư pháp đã bao gồm hoạt động dẫn độ tội phạm.
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Khoản 3: Đề nghị chỉnh sửa như sau: “Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vị nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về và tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền” để đảm bảo sự phù hợp.
|
Hợp tác quốc tế trong Luật PCRT đối với Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chỉ trong phạm vi tương trợ tư pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền. Nếu sửa theo đề xuất của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thì phạm vi hợp tác quốc tế của 03 cơ quan này là rất rộng.
|
42
|
Điều 59
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Đề nghị rà soát bỏ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 59 dự thảo Luật vì không phù hợp với nội dung về hiệu lực thi hành.
|
Khoản 1 Điều 72 Nghị định 34/2016/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung quy định: “Trường hợp văn bản được ban hành có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm, cụm từ, từ của các văn bản khác thì các nội dung này được trình bày tại chương hoặc điều quy định về điều khoản thi hành. Nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ có thể bố cục thành điều, khoản, điểm tùy theo phạm vi và mức độ sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ”.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính khoa học, Cơ quan chủ trì soạn thảo tách thành hai Điều về sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền (Điều 63) và Hiệu lực thi hành (Điều 64).
|
43
|
Điều 60
|
Bộ Tư pháp
|
Về quy định dẫn chiếu:
Điều 60: Quy định về các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được áp dụng cho đối tượng báo cáo theo các Điều 34, 35 của Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 ngày 12 tháng 06 năm 2013 và Điều 22 Nghị định số 81/2019/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2019 có dẫn chiếu tới các quy định của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 được thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 32, Mục 1, 2 Chương II về các biện pháp phòng, chống rửa tiền của Luật này.
Tuy nhiên, hiện nay Luật Phòng, chống khủng bố đang được tổng kết, có thể được sửa đổi, bổ sung trong tương lai dẫn đến các quy định của Luật Phòng, chống khủng bố và các văn bản liên quan sẽ được sửa đổi theo, do đó việc dẫn chiếu cụ thể nêu trên có thể bị lỗi thời trong tương lai, do vậy cơ quan chủ trì soạn thảo có thể cân nhắc điều chỉnh quy định này theo hướng: “Các quy định của Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012 được dẫn chiếu tại các văn bản quy phạm pháp luật khác được sửa đổi tương ứng theo quy định của Luật này.”.
|
Nội dung Điều này để sửa đổi các quy định có liên quan tại Luật Phòng, chống khủng bố để đáp ứng khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG. Đây cũng là đề xuất của Bộ Công an tại Công văn số 2219/BCA-ANKT ngày 27/6/2022 về việc tham gia ý kiến dự án Luật PCRT (sửa đổi) và Công văn nêu ý kiến khác của Bộ trưởng Bộ Công an kèm theo Phiếu lấy ý kiến Thành viên Chính phủ số 214/PLYK/2022. Trong quá trình xây dựng Luật, Bộ Công an và NHNN sẽ bổ sung các hồ sơ cần thiết.
Để đảm bảo rõ ràng, khoản 2 Điều 63 dự thảo về sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố được chỉnh sửa như sau:
“a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền.
2. Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Định kỳ 05 năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá”.
b) Sửa đổi, bổ sung Điều 35 như sau:
“Điều 35. Kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới Việt Nam theo quy định tại Điều 24 của Luật này và Điều 35 của Luật Phòng, chống rửa tiền có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi lợi dụng các hoạt động này để tài trợ khủng bố.”.
|
Bộ Công an
|
Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 34, Điều 35 của Luật Phòng, chống khủng bố như sau:
“Điều 34. Nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 33 của Luật Phòng, chống rửa tiền.”.
2. Khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, đơn vị chức năng thuộc NHNN và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Định kỳ 05 năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá
b) Sửa đổi, bổ sung Điều 35 như sau:
“Điều 35. Kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đã quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới Việt Nam theo quy định tại Điều 24 của Luật này và Điều 28 của Luật PCRT có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi lợi dụng các hoạt động này để tài trợ khủng bố”.
|
Tiếp thu và NHNN đã chỉnh sửa các nội dung tại khoản 2 Điều 63. Tuy nhiên để tên gọi phù hợp với nội dung Chương 2 của dự thảo Luật, NHNN Việt Nam sửa như sau: “Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố”.
|
44
|
Điều 61
|
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
|
Đề nghị bổ sung cụm từ “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” sau từ “Chính phủ”.
|
Dự thảo Luật đã bỏ nội dung này vì không cần thiết.
|
III
|
MỘT SỐ Ý KIẾN BỔ SUNG
|
1
|
Bộ Thông tin và Truyền thông
|
Đề nghị phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan chuyên môn về phòng, chống rửa tiền thuộc NHNN Việt Nam (về nghiệp vụ) và cơ quan chuyên môn về phòng, chống rửa tiền thuộc Bộ Công an (về tội phạm và xử lý tội phạm về rửa tiền).
|
Đã rà soát tại dự thảo Luật chỉ quy định chức năng phòng, chống rửa tiền của NHNN, nhiệm vụ về phòng, chống tội phạm về rửa tiền của Bộ Công an thực hiện theo quy định của Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phòng, chống rửa tiền…
|
2
|
Bộ Công an
|
Đề nghị cân nhắc tiếp tục kế thừa các quy định còn giá trị của Luật PCRT năm 2012 như: Điều 30 (Báo cáo hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố)…
|
Tiếp thu và dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật PCKB tại Khoản 2 Điều 63 dự thảo Luật, theo đó, đối với các giao dịch đáng ngờ liên quan đến khủng bố, đối tượng báo cáo phải có trách nhiệm báo cáo cho cơ quan phòng, chống khủng bố (Điều 26).
Đồng thời, tiếp thu ý kiến của Bộ Công an, dự thảo đã sửa đổi khoản 2 Điều 63, trong đó bổ sung thêm khoản 2 vào Điều 34 Luật PCKB, cụ thể: “Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền”.
(Hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố là một phần của hành vi tài trợ khủng bố. Do các nội dung về báo cáo đã được bổ sung tại Điều 34, 35 Luật PCKB như nêu trên, do đó dự thảo bỏ Điều 30.)
|
Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), “khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn bản phải đồng thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới đó”. Để đáp ứng các cam kết quốc tế, Bộ Công an đề nghị đưa các kiến nghị sửa đổi của Luật Phòng, chống khủng bố liên quan đến tài trợ khủng bố vào dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền sửa đổi lần này để đáp ứng thời hạn phải hoàn thành trong dự thảo Kế hoạch trình Thủ tướng Chính phủ (trước tháng 3 năm 2023), cụ thể:
+ Đề nghị bổ sung cụm từ “tài trợ khủng bố” sau cụm từ “rửa tiền” tại Điều 7, Điều 13 dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).
+ Đề nghị bổ sung quy định về sửa đổi Điều 34 Luật Phòng, chống khủng bố theo hướng bổ sung quy định về đánh giá rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố và đánh giá rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại đối tượng báo cáo.
+ Đề nghị bổ sung quy định việc đối tượng báo cáo có nghĩa vụ báo cáo hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố đến Cơ quan phòng, chống khủng bố và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (như điều 30 Luật PCRT năm 2012). Đồng thời, bổ sung quy định tại dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền về sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật Phòng, chống khủng bố để bảo đảm thống nhất.
+ Hiện nay, dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền đã bổ sung các quy định về: Cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP), chuyển khoản và các công nghệ mới bao gồm cả các yêu cầu đối với tài sản ảo (ví dụ như bitcoin...) và nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo. Đề nghị bổ sung quy định về sửa đổi Điều 34 Luật Phòng, chống khủng bố để viện dẫn đến các quy định liên quan đến Luật Phòng, chống rửa tiền.
|
Tiếp thu các ý kiến và đã sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 34 Luật PCKB tại điểm a khoản 2 Điều 63 dự thảo Luật như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền.
2. Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Định kỳ 05 năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá”.
|
Theo quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ. Do đó, tại Mục 3 Chương 2 dự thảo Luật, đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của các đối tượng báo cáo, trách nhiệm của Cục Phòng, chống rửa tiền trong thực hiện các yêu cầu cung cấp thông tin của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự. Đồng thời, cần quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn cung cấp thông tin để phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
|
Tiếp thu phần lớn và tại các điều khoản của dự thảo Luật đã quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong hoạt động PCRT có trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bao gồm cả cơ quan tiến hành tố tụng), cụ thể:
- Khoản 1 Điều 39 tại dự thảo Luật quy định trách nhiệm cung cấp thông tin của đối tượng báo cáo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: “1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, thông tin, báo cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ.”;
- Khoản 2 Điều 42 quy định: “2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.”;
- và khoản 5 Điều 48 quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, trong đó: “5. Hợp tác, trao đổi, cung cấp thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền.”.
Về các quy định chi tiết trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền trong giai đoạn tố tụng thì các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự và không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật này.
|
Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) bổ sung một số nhóm đối tượng báo cáo như tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ; dịch vụ trung gian thanh toán. Tuy nhiên, việc yêu cầu các tổ chức này thực hiện các nghĩa vụ giống như với các tổ chức tài chính là chưa phù hợp vì các tổ chức này không thiết lập quan hệ trực tiếp cũng như không quản lý hồ sơ khách hàng (Điều 38, Điều 39 dự thảo)
|
- Đối với dịch vụ trung gian thanh toán: Thiết lập quan hệ trực tiếp với khách hàng trong trường hợp tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TCTGTT) mở Ví điện tử cho khách hàng. Khoản 1 Điều 9 Thông tư 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về hồ sơ mở Ví điện tử. Khoản 3, 4 Điều 9 Thông tư này cũng quy định về việc thực hiện thu thập, xác thực thông tin khách hàng mở Ví điện tử của tổ chức trung gian thanh toán.
Đối với dịch vụ cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ, như đã giải trình tại phần trên, dự thảo Luật không còn quy định nội dung này.
|
Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) còn có lỗi về thể thức, cách trình bày văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến là nhiều câu, chữ còn để chế độ phông chữ nghiêng xen lẫn với chữ đứng chưa phù hợp:
- Đề nghị những từ ngữ nào cần giải thích nên thống nhất đưa vào Điều 4 (giải thích từ ngữ) để không phải giải thích thêm bằng cách để trong dấu () hoặc để phông chữ nghiêng, như tại điểm đ, khoản 4, Điều 4 (Trang 3 dự thảo Luật): “cung cấp dịch vụ ủy thác (tín thác)”.
- Đề nghị dùng thống nhất cụm từ “Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền” trong dự thảo Tờ trình và dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); làm rõ nghĩa cụm từ “tổ chức hữu quan” tại Khoản 1, Điều 15 dự thảo và chỉnh sửa Khoản 1, Điều 31 cụm từ “khoản 1, Điều 30” do không có khoản này; Khoản 4, Điều 43 đề nghị chỉnh sửa cụm từ “khoản 12, Điều 4” thành “khoản 13, Điều 4”.
- Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) sử dụng nhiều từ ngữ mang tính định tính, chưa mang tính định lượng (rất lớn, rủi ro cao, giao dịch có giá trị lớn,...), gây khó khăn cho việc áp dụng. Đề nghị có quy định cụ thể hơn.
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại dự thảo luật.
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại dự thảo Tờ trình và dự thảo Luật.
Tiếp thu theo hướng các mức để xác định “giá trị lớn”, “giao dịch tiền mặt có giá trị lớn” sẽ được quy định tại Nghị định, Quyết định của Thủ tướng chính phủ (như hiện nay Nghị định 116/2013/NĐ-CP, Quyết định 20/2013/QĐ-TTg đang hướng dẫn).
|
3
|
Bộ Xây dựng
|
Về dự thảo Tờ trình: Tại mục 1.2 (trang 2) những mặt tồn tại, hạn chế. Đề nghị bổ sung nội dung tồn tại về việc các pháp luật hiện hành không có quy định bắt buộc tất cả các giao dịch mua, bán, cho thuê bất động sản phải thanh toán bằng hình thức qua Ngân hàng, không dùng tiền mặt.
|
Tại Tờ trình chỉ đánh giá các nội dung tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của Luật PCRT. Tại dự thảo Luật PCRT cũng không đề xuất chính sách liên quan đến việc thanh toán các giao dịch bất động sản. Do đó, đối với hạn chế như Bộ Xây dựng đề xuất cần đưa vào khó khăn, vướng mắc liên quan đến Luật Kinh doanh bất động sản.
|
4
|
Bộ Nội vụ
|
- Đề nghị cơ quan soạn thảo dự án Luật rà soát, chỉnh sửa các lỗi kỹ thuật.
- Đề nghị bổ sung nhiệm vụ của Bộ Khoa học và Công nghệ. Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý về hơn 2000 tổ chức khoa học công nghệ được thành lập theo Luật Khoa học và Công nghệ (là các Trung tâm. Viện nghiên cứu…)
|
- Tiếp thu và đã rà soát chỉnh sửa tại dự thảo Luật.
- Các tổ chức khoa học công nghệ có các hoạt động nhận viện trợ của tổ chức, cá nhân chủ yếu phục vụ cho hoạt động đào tạo và chuyển giao công nghệ, do vậy, yếu tố rủi ro về tài trợ khủng bố hầu như không có hoặc không đáng kể. Trên thực tế, khi thực hiện đánh giá rủi ro về tài trợ khủng bố do Bộ Công an là đơn vị đầu mối đã thực hiện, các đối tượng là tổ chức khoa học công nghệ cũng đã được loại trừ không đánh giá do xét yếu tố rủi ro là thấp. Vì vậy, tại dự thảo Luật không quy định về trách nhiệm của Bộ Khoa học và công nghệ trong một điều khoản riêng quy định về quản lý đối tượng là các tổ chức khoa học công nghệ. Mặt khác, Điều 50 dự thảo luật đã quy định về trách nhiệm của các Bộ, ngành khác trong đó có Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiệ chỉ đâọ, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
5
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|
Để hoàn thiện hồ sơ dự án Luật PCRT (sửa đổi), đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu bổ sung một số nội dung sau:
- Báo cáo đánh giá việc thực hiện Luật PCRT thời gian qua. Trong đó, bổ sung số liệu cụ thể về kết quả triển khai Luật Phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng, các hoạt động khác của nền kinh tế.
- Báo cáo đánh giá tác động của các chính sách, nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật sửa đổi, trong đó nêu rõ các thủ tục hành chính phát sinh và những tồn tại, hạn chế giữa Luật Phòng, chống rửa tiền với các Luật chuyên ngành.
- Một số nội dung được bổ sung tại dự thảo Luật theo khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF), tuy nhiên cần nghiên cứu, rà soát để phù hợp với tình hình thực tế về phát triển kinh tế - xã hội, pháp luật của Việt Nam.
|
Tiếp thu và cơ quan chủ trì soạn thảo đã thực hiện xây dựng Báo cáo tổng kết, Báo cáo đánh giá tác động chính sách trong quá trình lập đề nghị xây dựng Luật.
Tiếp thu và đã rà soát và nghiên cứu trong quá trình xây dựng nội dung dự thảo Luật
Tiếp thu và đã nghiên cứu, rà soát trong quá trình xây dựng dự thảo Luật.
|
6
|
Bộ Tài chính
|
Về quy định để hướng dẫn về nhận biết khách hàng (CDD) đối với các tổ chức tài chính theo khuyến nghị của APG: Ngày 16/5/2022, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 3206/VPCP-KTTH về việc đề nghị các đơn vị Bộ, ngành liên quan tham gia ý kiến về dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền của APG do Ngân hàng nhà nước đang trình Chính phủ ban hành. Tại dự thảo Quyết định có quy định liên quan đến hai khuyến nghị 10.12 (c) và 10.13 tại Hành động số 48, trang 15, Phụ lục kế hoạch thực hiện khuyến nghị hành động APG như sau: “Sửa đổi quy định pháp luật để đảm bảo bao gồm: … - Các yêu cầu đối với các FIs để thực hiện CDD liên tục; - Xác định và xác minh đối với những người thụ hưởng được chỉ định của hợp đồng bảo bảo hiểm nhân thọ hoặc các hợp đồng bảo hiểm liên quan đến đầu tư khác” Kết quả cần đạt được: Luật sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền. 3 Đơn vị chủ trì: Ngân hàng nhà nước. Đơn vị phối hợp: Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp. Thời gian thực hiện: Tháng 3/2023.
Vì vậy, đề nghị Ngân hàng nhà nước nghiên cứu bổ sung yêu cầu nêu trên của APG để bảo đảm việc thực hiện Kế hoạch hành động hiệu quả.
|
- Đối với việc các FIs để thực hiện CDD liên tục:
Điều 11 dự thảo Luật quy định: “Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.”, quy định này đã đảm bảo CDD liên tục. Liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm thì Bộ Tài chính cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các nội dung theo kế hoạch (nếu có).
- Đối với việc xác định và xác minh đối với những người thụ hưởng được chỉ định của hợp đồng bảo bảo hiểm nhân thọ hoặc các hợp đồng bảo hiểm liên quan đến đầu tư khác:
Tiếp thu theo hướng chỉnh sửa điểm a, điểm c khoản 2 Điều 17 dự thảo Luật như sau:
“2. Đối tượng báo cáo phải đảm bảo:
a) Có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị; người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
…
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
|
Liên quan đến quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền tại từng tổ chức và việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo, đây là các quy định hoàn toàn mới, do vậy, đề nghị NHNN có đánh giá tác động về tính khả thi của biện pháp này đảm bảo các đối tượng náp cáo là các tổ chức tài chính phi ngân hàng có thể thực hiện được
|
Đây là chính sách mới của Luật PCRT và đã được đánh giá tác động trong quá trình lập đề nghị xây dựng Luật để trình Chính phủ thông qua.
|
7
|
Bộ Quốc Phòng
|
Đề nghị bổ sung nội dung dự thảo Tờ trình Chính phủ những nội dung sau:
- Nội dung đánh giá Luật PCRT 2012 là nền tảng cơ bản cho việc triển khai 40 Khuyến nghị của FATF.
- Nhấn mạnh kết quả của đánh giá đa phương và yếu tố rủi ro nếu Việt Nam bị đưa vào danh sách xám của APG, trong đó có việc không ban hành được Luật PCRT (sửa đổi). Đây là nội dung quan trọng mà Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành, địa phương phải hoàn thiện, khắc phục những thiếu hụt được APG đặt ra.
|
Tiếp thu và đã bổ sung tại dự thảo Tờ trình Chính phủ.
Tiếp thu và đã bổ sung tại dự thảo Tờ trình Chính phủ.
|
Về việc gửi báo cáo, đề nghị quy định thống nhất về cơ quan nhận, vì tại các Điều 27, 29, 31, 33, 36 quy định cơ quan nhận là Ngân hàng Nhà nước hoặc Cục PCRT
|
Tiếp thu và chỉnh sửa các Điều 35, 39, 40 dự thảo Luật về cơ quan tiếp nhận báo cáo là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Về trách nhiệm của các cơ quan, đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Quốc Phòng liên quan đến PCRT; phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt theo khuyến nghị của FATF.
|
Tiếp thu và bổ sung Điều 50 tại dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của Bộ Quốc phòng trong PCRT; phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
8
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
|
Đề nghị rà soát, chỉnh sửa dự thảo Tờ trình theo hướng thuyết minh chi tiết những nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật. Trong đó nêu rõ những vấn đề lớn theo từng chương, nêu rõ lý do có sửa đổi, bổ sung; nêu rõ những vấn đề có ý kiến khác nhau (nếu có). Chẳng hạn như các nội dung mới được bổ sung tại các điểm b, c khoản 3 Điều 57 dự thảo Luật quy định về nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền nhưng trong dự thảo Tờ trình lại không đề cập đến vấn đề này.
|
Tiếp thu và đã rà soát, chỉnh sửa tại nội dung dự thảo Tờ trình.
|
Về kỹ thuật, hình thức:
1. Về Kỹ thuật:
Nhằm đảm bảo tính khoa học, tránh trùng lặp, đề nghị chỉnh sửa Mục 3 Dự thảo Luật từ Điều 33 đến Điều 37 theo hướng sửa tên điều luật và làm rõ nội dung về trách nhiệm, thẩm quyền của Cục Phòng, chống rửa tiền trong việc thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền. Ví dụ:
“Điều 35. Trách nhiệm của Cục phòng, chống rửa tiền trong việc chuyển giao, trao đổi thông tin phòng, chống rửa tiền trong nước
1. Chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền.
2. Phối hợp, trao đổi thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền.
3. Trao đổi thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
Điều 36. Thẩm quyền của Cục phòng, chống rửa tiền trong việc chuyển giao, trao đổi thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
1. Gửi yêu cầu tới cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác để thu thập, bổ sung thông tin phục vụ cho việc xử lý, phân tích và chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền; tiếp nhận thông tin phản hồi, thông tin chuyển giao của cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác và xử lý thông tin nhận được theo quy định của luật này.
2. Tiếp nhận yêu cầu đề nghị cung cấp thông tin từ cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác với mục đích phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền; cung cấp thông tin phản hồi, thông tin chuyển giao của cơ quan phòng, chống rửa tiền hoặc cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác theo quy định của luật này.”
2. Về hình thức:
Đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát lỗi kỹ thuật và không viết tắt trong toàn bộ dự thảo Luật. Cụ thể tại các Điều 4, Điều 9 và Điều 56.
|
Tiếp thu theo hướng thiết kế lại kết cấu của Mục này tại dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến và đã rà soát, chỉnh sửa trong dự thảo luật.
|
9
|
Bộ Ngoại giao
|
Đề nghị cân nhắc một số nội tại dự thảo Tờ trình Chính phủ:
- Về Đánh giá đa phương (Mục I.3) về các điều ước quốc tế và cam kết quốc tế của Việt Nam, dự thảo Tờ trình hiện có đề cập tới tình hình kết quả vòng Đánh giá đa phương hiện nay, tuy nhiên chưa nêu quá trình Việt Nam gia nhập và cam kết thực hiện hệ thống các Khuyến nghị và mục tiêu trực tiếp của FATF, cũng như chưa giải thích vì sao Việt Nam phải đáp ứng khuyến nghị. Đề nghị bổ sung nột cách vắn tắt để cơ quan có thẩm quyền nắm được thông thông tin cơ bản.
- Đề nghị bổ sung danh mục các VBQPPL của Việt Nam làm căn cứ xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), trong đó bao gồm văn bản QPPL quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các Bộ, ngành có liên quan, văn bản quy định về việc quản lý hoạt động của các tổ chức báo cáo về rửa tiền thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT (sửa đổi).
- Đề nghị bổ sung đánh giá tác động chính sách của việc giao các Bộ, ngành đánh giá, cập nhật rủi ro rửa tiền tại từng ngành thuộc phạm vi mà các Bộ, ngành quản lý, trong đó nêu rõ tác động về kinh phí, nhân sự phát sinh và phương án giải quyết.
|
Tiếp thu và đã bổ sung tại dự thảo Tờ trình Chính phủ.
|
Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020. thủ tục hành chính không được ban hành bằng Thông tư, Thông tư liên tịch, trừ trường hợp được Luật, Nghị quyết của Quốc hội giao. Hiện nay, chưa có quy định về quy trình, thủ tục đánh giá rủi ro rửa tiền với nhóm đối tượng là tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Do đó, đề nghị xem xét bổ sung điều khoản giao Chính phủ quy định chi tiết quy trình đánh giá rủi ro rửa tiền theo từng ngành, nhóm đối tượng báo cáo.
|
Tiếp thu và bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 7 dự thảo Luật về việc giao Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tương báo cáo để đảm bảo sự phù hợp và tính khả thi trong thực tiễn.
|
10
|
Bộ Tư pháp
|
Khoản 2 Điều 55 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: “Tờ trình dự án, dự thảo phải nêu rõ sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết; mục đích, quan điểm xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết; quá trình xây dựng dự án, dự thảo; bố cục, nội dung cơ bản của dự thảo văn bản; tính thống nhất của dự thảo văn bản với các văn bản quy phạm pháp luật trong cùng lĩnh vực và các lĩnh vực có liên quan đến nội dung dự án, dự thảo; tính tương thích của dự thảo văn bản với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” Tuy nhiên dự thảo Tờ trình chưa nêu nội dung về tính thống nhất của dự thảo văn bản với các văn bản quy phạm pháp luật trong cùng lĩnh vực và các lĩnh vực có liên quan đến nội dung dự án, dự thảo; tính tương thích của dự thảo văn bản với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, do đó đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung để đảm bảo nội dung Tờ trình theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
|
Tiếp thu và đã bổ sung vào dự thảo Tờ trình.
|
Đối với mục I về sự cần thiết ban hành văn bản, tại trang 5 dự thảo Tờ trình, cơ quan chủ trì soạn thảo có nêu một trong những yêu cầu của việc sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền là do “khi đánh giá về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam so với 40 Khuyến nghị của FATF, hiện quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn những thiếu hụt, không đáp ứng hoặc mới đáp ứng được một phần của các yêu cầu tại 27/40 Khuyến nghị của FATF,…và Việt Nam cần cải thiện các thiếu hụt trọng yếu”. Tuy nhiên, dự thảo Tờ trình chưa nêu được những thiếu hụt trọng yếu là những thiếu hụt nào cần được khắc phục trong Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi). Do vậy đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung.
|
Tiếp thu và đã bổ sung vào dự thảo Tờ trình.
|
Tại dự thảo Luật còn có một số điều khoản còn chung chung như “các biện pháp thích hợp” tại điểm c khoản 2 Điều 15; “các biện pháp cần thiết” tại điểm c khoản 2 Điều 17; “các biện pháp tăng cường” tại điểm a khoản 1 Điều 18, đề nghị quy định cụ thể các biện pháp này là những biện pháp nào nhằm đảm bảo tính minh bạch, đồng thời tạo điều kiện áp dụng thống nhất trên thực tiễn.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa như sau:
- Về các biện pháp tăng cường tại khoản 2 Điều 20 dự thảo Luật đã làm rõ theo hướng các đối tượng báo cáo phải thực hiện “biện pháp tăng cường theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này”. Và tại điểm c khoản 2 Điều 16 dự thảo Luật đã cụ thể biện pháp tăng cường bao gồm: “nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch”.
- Về các quy định “biện pháp thích hợp”, “biện pháp cần thiết”: Để đảm bảo tính khả thi theo từng loại hình đối tượng báo cáo, dự thảo Luật không quy định các biện pháp cụ thể mà chỉ yêu cầu đối tượng báo cáo chủ động áp dụng các biện pháp để phải đảm bảo xác minh nguồn gốc tài sản (điểm c khoản 2 Điều 17) và giảm thiểu rủi ro về rửa tiền (khoản 2 Điều 19) phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng báo cáo.
|
BÁO CÁO TÓM TẮT KẾT QUẢ ĐGĐP CỦA APG VÀ YÊU CẦU XỬ LÝ CÁC THIẾU HỤT CỦA VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN PCRT
Cơ quan ban hành: Khác
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0717-Tom-tat-ket-qua-DGDP-cua-APG-va-yeu-cau-xl-thieu-hut-lien-quan-PCRT---20220927082905-1-.docx
1. Tóm tắt kết quả đánh giá đa phương (ĐGĐP) của APG
1.1. Về đánh giá tuân thủ kỹ thuật (đánh giá tính đầy đủ về khuôn khổ pháp lý):
- Việt Nam có 27/40 Khuyến nghị (KN) bị xếp hạng Tuân thủ một phần (PC) hoặc Không tuân thủ (NC), 19/27 KN này liên quan đến sự thiếu hụt trong các quy định về biện pháp phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL) và các chế tài xử phạt vi phạm hành chính về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL; 8/27 Khuyến nghị liên quan đến thiếu hụt quy định trong Bộ luật Hình sự về tài trợ khủng bố, quy định về cấp phép thành lập pháp nhân; thanh tra, giám sát; các quản lý các tài sản ảo và nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo…
- 5/6 Khuyến nghị cốt lõi (KN 3, 5, 6, 10, 11, 20) xếp hạng Tuân thủ một phần (PC) trong đó có 01 Khuyến nghị cốt lõi (KN3 – Hình sự hoá tội rửa tiền) liên quan đến thiếu hụt trong quy định của Bộ luật Hình sự về hành vi rửa tiền; 04 Khuyến nghị cốt lõi (KN6 – Trừng phạt tài chính mục tiêu hoạt động khủng bố và tài trợ khủng bố; KN10 - Cập nhật và theo dõi thông tin khách hàng (CDD); KN11 – Lưu giữ hồ sơ và KN20 – Cơ chế báo cáo giao dịch đáng ngờ) liên quan đến thiếu hụt trong quy định về biện pháp PCRT/TTKB và các chế tài xử phạt vi phạm hành chính về PCRT/TTKB.
1.2. Về đánh giá tính hiệu quả thực thi (đánh giá hiệu quả thực thi khuôn khổ pháp lý):
2/11 Mục tiêu trực tiếp (IO) được đánh giá hiệu quả Khá liên quan đến công tác tịch thu, thu hồi tài sản (IO8) và chống tài trợ khủng bố (IO9); 2/11 IO được đánh giá là hiệu quả Trung bình liên quan đến Hiểu biết về rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố (RT/TTKB) (IO1) và Hợp tác quốc tế (IO2); 7 IO bị đánh giá hiệu quả Thấp liên quan đến công tác thanh tra, giám sát về RT/TTKB/TTPBVKHDHL, các biện pháp phòng ngừa của các đối tượng báo cáo, pháp nhân và thoả thuận pháp lý, tình báo tài chính, điều tra và truy tố tội rửa tiền, các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu và chống TTPBVKHDHL.
Theo kết quả báo cáo ĐGĐP của Việt Nam, với những thiếu hụt về khung pháp lý và hiệu quả thực thi trong thực tế còn hạn chế, thiếu đồng bộ ở các ngành, các lĩnh vực, Việt Nam đã được đưa vào quy trình rà soát tăng cường sau ĐGĐP của APG và rơi vào quy trình rà soát của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) sau khi báo cáo ĐGĐP của Việt Nam được công bố tại Hội nghị toàn thể của FATF vào tháng 3/2022.
Trong một năm kể từ khi rơi vào quy trình rà soát của FATF (từ tháng 3/2022 – 3/2023), Việt Nam sẽ phải làm việc thường xuyên với APG/FATF để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong báo cáo ĐGĐP theo quy trình theo dõi tăng cường của APG, khoảng thời gian này sẽ được coi là “giai đoạn quan sát”. Sau một năm quan sát, nếu Việt Nam không thể hiện được sự tiến bộ đối với 09 IO đang bị xếp hạng ở mức Thấp hoặc Trung bình và không đáp ứng các yêu cầu về cải thiện khuôn khổ pháp lý, Việt Nam sẽ rơi vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHLHDHL (gọi tắt là Danh sách Xám) – Danh sách công khai toàn cầu của FATF và chịu sự giám sát tăng cường của FATF.
2. Các phát hiện chính tại báo cáo ĐGĐP của Việt Nam
a) Kể từ sau đợt đánh giá đa phương năm 2009, mặc dù Việt Nam đã có cải thiện về khuôn khổ pháp lý nhưng một số những thiếu hụt đáng kể vẫn cần phải được xử lý để đảm bảo tính hiệu quả cho cơ chế PCRT/TTKB/TTPBVKHDHLHDHL của Việt Nam trong việc chống lại các mối đe dọa và các thiếu hụt nghiêm trọng trong hoạt động rửa tiền.
b) Việt Nam có nhận thức ngày càng cao về rủi ro RT và TTKB. Trong năm 2019, Việt Nam đã hoàn thành báo cáo Đánh giá rủi ro quốc gia (NRA) đầu tiên, và sau đó đã bổ sung các đánh giá rủi ro về các tổ chức phi lợi nhuận (NPO), pháp nhân và đánh giá rủi ro về TTPBVKHDHLHDHL. Các báo cáo đánh giá này đã cho thấy sự phối kết hợp tốt giữa các cơ quan chức năng của Việt Nam và nhìn chung đã cải thiện được sự nhận thức về rủi ro. Tuy nhiên, vẫn còn những thiếu xót trong nhận thức về rủi ro của Việt Nam, bao gồm các nội dung liên quan đến tài sản ảo (VA) và nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo (VASP); các công ty tín thác nước ngoài; và các loại hình tội phạm nguồn như tội phạm có tổ chức và hoạt động mại dâm. Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHLHDHL của Việt Nam vẫn chưa tập trung vào các rủi ro RT/TTKB đã được nhận diện. Ở cấp chính sách, việc điều phối được thực hiện tốt thông qua các Ban chỉ đạo quốc gia về PCRT và TTKB, tuy nhiên công tác điều phối ở cấp thực chưa thực sự hiệu quả.
c) Việc phát triển và vận dụng thông tin tình báo tài chính ở Việt Nam còn rất hạn chế. Các cơ quan thực thi pháp luật (LEA) sử dụng rất ít thông tin tình báo tài chính khi lần theo dấu vết tội phạm, điều tra RT/TTKB và các hành vi tội phạm nguồn có liên quan. Đơn vị tình báo tài chính (FIU) của Việt nam – Cục Phòng chống Rửa tiền (Cục PCRT) thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện rất hạn chế các phân tích hoạt động và chủ yếu tập trung vào các tội phạm nguồn. Những thách thức liên quan tới sự sẵn có của và chất lượng các STR và những điểm yếu trong hệ thống và năng lực phân tích làm hạn chế số lượng và chất lượng các sản phẩm phân tích của FIU. Có rất ít các thông tin do Cục PCRT cung cấp đã giúp dẫn đến việc phát triển thông tin tình báo tài chính hoặc điều tra tài chính bởi LEA. Việc trao đổi thông tin tình báo tài chính giữa Cục PCRT và các cơ quan có thẩm quyền khác, ngoại trừ Bộ Công An, chỉ ở mức tối thiểu.
d) Việt Nam đã hình sự hóa phần lớn tội RT theo các tiêu chuẩn quốc tế và các LEA cũng có thẩm quyền và trách nhiệm trong việc điều tra và truy tố tội RT nhưng Việt Nam không điều tra và truy tố tội rửa tiền phù hợp với mức độ rủi ro tại Việt Nam. Có rất ít các vụ truy tố về tội rửa tiền tương quan với số lượng lớn các vụ điều tra tội phạm nguồn tạo ra tiền/tài sản của Việt Nam. Sự hợp tác giữa các LEA trong quá trình điều tra thường tập trung vào các tội phạm nguồn mà ít theo đuổi các cuộc điều tra tài chính song song liên quan đến RT.
e) Hệ thống tịch thu, thu hồi tài sản của Việt Nam dựa trên bản án đã đạt được những kết quả nhất định phản ánh rủi ro về RT, đặc biệt liên quan đến các tội phạm nguồn có rủi ro cao như tham ô, đánh bạc và buôn bán ma túy. Việt Nam thực hiện kê biên hay tịch thu tiền, tài sản hay công cụ phạm tội nhằm đảm bảo thực hiện thu hồi số tiền theo bản án (đại diện cho thiệt hại phát sinh từ một hành vi phạm tội). Tuy nhiên, còn có những thách thức trong việc truy tìm và xác định tài sản, đặc biệt liên quan đến các loại tội phạm phức tạp và những yếu kém trong việc xác định mục tiêu, phát hiện và điều tra về tiền tệ và công cụ chuyển nhượng (BNIs) được vận chuyển trái phép qua biên giới.
f) Hoạt động thanh tra giám sát về PCRT/TTKB tại Việt Nam còn rất hạn chế và những đợt thanh tra giám sát đã thực hiện cũng không dựa trên cơ sở rủi ro. Chỉ có lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và ở mức độ hạn chế hơn là lĩnh vực kinh doanh trò chơi có thưởng chịu sự giám sát về PCRT/TTKB. Tuy nhiên, phạm vi thanh tra giám sát này hẹp và các vi phạm bị phát hiện chưa được theo dõi tiếp hoặc xử phạt. Các giám sát viên về PCRT/TTKB ở các lĩnh vực khác thiếu năng lực thực hiện. Việc thực hiện các biện pháp kiểm soát thích hợp cũng như sự hiểu biết về rủi ro RT/TTKB giữa các giám sát viên không được toàn diện.
g) Mức độ hiểu biết về rủi ro RT/TTKB và về các nghĩa vụ liên quan đến PCRT/TTKB cũng như việc thực hiện báo cáo và triển khai các biện pháp phòng ngừa còn có sự khác biệt giữa các đối tượng báo cáo. Các ngân hàng, công ty bảo hiểm và chứng khoán và các công ty chuyển tiền chứng minh được một số hiểu biết và hoạt động triển khai nhất định về các nghĩa vụ nhưng chủ yếu dựa trên các quy tắc tuân thủ thay vì dựa trên cơ sở rủi ro. Trong số các tổ chức tài chính (FI) khác và các tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính được chỉ định (DNFBP) thì hầu như thiếu sự hiểu biết và thực thi, trong khi các đơn vị cung cấp dịch vụ tài sản ảo (VASP) không chịu sự điều chỉnh của quy định về PCRT/TTKB. Những thiếu sót quan trọng về tuân thủ kỹ thuật ở một chuỗi các biện pháp mang tính phòng ngừa làm giảm hiệu quả thực thi về PCRT/TTKB.
h) Dù có rủi ro thấp, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã thể hiện cam kết phòng chống khủng bố và TTKB cũng như có khả năng nhận diện và điều tra hoạt động TTKB. Hiện nay còn có những bất cập trong khuôn khổ pháp lý về TTKB của Việt Nam để thực hiện các biện pháp xử phạt tài chính mục tiêu (TFS) liên quan đến hoạt động khủng bố và TTKB. Tuy nhiên, do trước đây Việt Nam chưa phải đối mặt với rủi ro khủng bố xuyên quốc gia hoặc rủi ro TTKB, việc thiếu các vụ truy tố về TTKB cũng như phong tỏa tài sản liên quan đến khủng bố là phù hợp với hồ sơ rủi ro của Việt Nam.
i) Việt Nam đã ban hành khung pháp lý để áp dụng các biện pháp TFS liên quan đến hoạt động TTPBVKHDHLHDHL vào tháng 11/2019. Tuy nhiên, khuôn khổ này vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả thực thi trong giai đoạn đánh giá tại chỗ do thiếu các biện pháp xử phạt đối với hành vi không tuân thủ, đồng thời cũng không chứng minh được hiệu quả thực thi. Việt Nam vẫn chưa xác định hoặc phong tỏa bất cứ tài sản nào liên quan tới các cá nhân và tổ chức bị chỉ định, bất chấp những rủi ro liên quan tới hành động trốn tránh trừng phat trong khu vực.
j) Việt Nam có khuôn khổ pháp lý phù hợp để minh bạch thông tin cơ bản liên quan đến pháp nhân thương mại, nhưng còn thiếu sót trong việc thu thập và cung cấp thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi. Nguồn chính của thông tin chủ sở hữu hưởng lợi về pháp nhân và các thỏa thuận pháp lý là thông tin do các đối tượng báo cáo thu thập theo nghĩa vụ thẩm định khách hàng của các đối tượng này.
k) Việt Nam có phản hồi các yêu cầu hợp tác quốc tế chính thức và không chính thức và cũng tìm kiếm sự hợp tác liên quan đến các tội phạm nguồn. Tuy nhiên, số lượng các yêu cầu gửi đi liên quan đến RT là chưa tương xứng với hồ sơ rủi ro của Việt Nam và việc này cho thấy sự thiếu chủ động trong hoạt động điều tra về RT. Hoạt động hợp tác quốc tế của Cục PCRT là rất hạn chế và thanh tra giám sát cũng không tìm kiếm cơ hội hợp tác.
3. Các hành động ưu tiên phải thực hiện
a) Việt Nam cần tiếp tục tăng cường nhận thức về các rủi ro RT/TTKB thông qua việc thực hiện bỏ sung các đánh giá rủi ngành và trên cơ sở các mối nguy cơ để hiểu rõ hơn các rủi ro chính.
b) Dựa trên các phát hiện của đánh giá rủi ro hiện tại và trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các chính sách tổng thể ở cấp quốc gia cũng như xây dựng các kế hoạch cấp bộ ngành về PCRT/TTKB theo loại hình rủi ro đã được xác định trong NRA. Hợp tác và phối hợp ở cấp thực thi cần được tăng cường với trọng tâm là các lĩnh vực có rủi ro cao đã xác định.
c) Hợp tác và phối hợp ở cấp thực thi cần được tăng cường với trọng tâm là các lĩnh vực có rủi ro cao đã xác định.
d) Cục PCRT thuộc NHNN cần nỗ lực cải thiện nhiều hơn nữa chất lượng và số lượng các sản phẩm tình báo tài chính của mình, đồng thời cần tập trung hơn vào hoạt động RT thay vì chỉ chú trọng tội phạm nguồn. Cục PCRT cần được tăng cường nguồn lực, năng lực phân tích và chia sẻ thông tin với các LEA khác ngoài Bộ Công an, đồng thời chủ động cung cấp thông tin tình báo tài chính để hỗ trợ điều tra.
e) Bộ Công an và các LEA khác cần ưu tiên các hành động để chủ động tìm kiếm và tăng cường phát triển, sử dụng thông tin tình báo tài chính cho cả hoạt động điều tra song song và độc lập về RT theo loại hình rủi ro của Việt Nam. Điều này cần được phản ánh trong việc phân bổ nguồn lực cho các cuộc điều tra tài chính, được hỗ trợ bởi các chính sách, thủ tục và hướng dẫn để tăng cường nhận thức cũng như thúc đẩy công tác điều tra và truy tố tội phạm RT.
f) Việt Nam nên tăng cường sử dụng thông tin tình báo tài chính của LEA để theo dõi các vụ án, điều tra, truy tìm và tiếp tục xem xét, sửa đổi các chính sách và các chiến lược ở cả cấp quốc gia và vận hành để thực hiện được việc kê biên, thu hồi tài sản, đặc biệt đối với các nhóm tội phạm có rủi ro cao.
g) Việt Nam cần xây dựng và thực hiện chiến lược giám sát dựa trên rủi ro, đồng thời cần tăng cường đáng kể nguồn lực và hoạt động giám sát đối với tất cả các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý, bao gồm cả hoạt động thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa toàn diện trên cơ sở rủi ro về RT/TTKB. Trường hợp phát hiện có vi phạm thì phải theo dõi và áp dụng các chế tài xử phạt tương xứng và có tính răn đe.
h) Việt Nam cần sửa đổi khung pháp lý để giải quyết các lỗ hổng về tuân thủ kỹ thuật liên quan đến các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là liên quan đến thẩm định khách hàng (CDD), cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP), chuyển tiền điện tử và các công nghệ mới, trong đó bao gồm VASP, và đảm bảo rằng tất cả các quy định này cũng được áp dụng cho cả hoạt động TTKB, bao gồm nghĩa vụ nộp báo cáo STR có liên quan đến TTKB.
i) Các cơ quan có thẩm quyền nên tăng cường khả năng tiếp cận đến tất cả các đối tượng báo cáo ngoài ngân hàng và bao gồm các DNFBP để nâng cao nhận thức về rủi ro RT/TTKB và các nghĩa vụ PCRT/TTKB, cũng như để hỗ trợ chuyển đổi từ tuân thủ sang tiếp cận trên cơ sở rủi ro.
j) Việt Nam cần phát triển sự hiểu biết toàn diện hơn về các đặc điểm của các loại pháp nhân dễ bị lạm dụng cho mục đích RT/TTKB. Các yêu cầu về quyền sở hữu hưởng lợi lợi nên được mở rộng cho tất cả các pháp nhân và các thỏa thuận pháp lý nước ngoài khi được công nhận.
k) Việt Nam cần sửa đổi khung pháp lý để yêu cầu tuân thủ toàn diện các nghĩa vụ TFS liên quan đến TTPBVKHDHLHDHL, bao gồm việc áp dụng các biện pháp xử phạt phù hợp và có tính răn đe đối với việc không tuân thủ; Việt Nam nên ưu tiên thực hiện hiệu quả chế độ TFS liên quan đến TTPBVKHDHLHDHL mới, kể cả tăng cường năng lực của các cơ quan có thẩm quyền và thực hiện tiếp cận theo mục tiêu đối với khu vực tư nhân.
l) Việt Nam cần chủ động và tăng cường tìm kiếm sự hợp tác cả chính thức và không chính thức liên quan đến hoạt động RT phù hợp với loại hình rủi ro của mình. Các hoạt động này cần bao gồm cả tương trợ tư pháp đa phương (MLA) để tìm kiếm và cung cấp các bằng chứng hỗ hoạt động kê biên và tịch thu tài sản cũng như truy tố tội phạm RT và tội phạm nguồn.
m) Việt Nam cần sửa đổi khung pháp lý để khắc phục những thiếu hụt trong việc hình sự hóa hành vi TTKB và sửa đổi các chính sách truy tố nhằm đảm bảo rằng hành vi TTKB có thể bị truy tố một cách có hiệu quả.
n) Việt Nam cần sửa đổi khung pháp lý nghĩa vụ TFS liên quan đến TTKB theo hướng quy định tất cả các thể nhân và pháp nhân phải phong tỏa tiền và các tài sản khác của cá nhân hoặc tổ chức được chỉ định một cách không chậm trễ và không cần thông báo trước, đồng thời phải có chế tài xử phạt cho việc không tuân thủ các nghĩa vụ TFS (phong tỏa và ngăn chặn) để có thể được thi hành đối với mọi thể nhân và pháp nhân và các hình phạt là tương xứng và có tính răn đe.
4. Bảng các thiếu hụt về khuôn khổ pháp lý theo Khuyến nghị của FATF
Tuân thủ các khuyến nghị của FATF
|
Khuyến nghị
|
Xếp hạng
|
Các yếu tố thiếu hụt
|
1. Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro
|
Tuân thủ một phần
|
· NRA không xem xét một số loại tội phạm được chỉ định của FATF hoặc ủy thác nước ngoài và một số lĩnh vực quan trọng khác (c.1.1).
· Kết quả đánh giá thiếu phân tích sâu và cần phạm vi dữ liệu rộng hơn (c.1.1).
· Các đánh giá rủi ro không được cập nhật do Việt Nam không thực hiện đánh giá các mối đe dọa cụ thể khác hoặc đánh giá theo ngành một cách thường xuyên để bổ sung cho quá trình thực hiện NRA (c.1.3)
· Kế hoạch Hành động hậu NRA sử dụng các phát hiện của NRA trong một phạm vi hạn chế để giải quyết các rủi ro đã xác định mà không áp dụng cách tiếp cận dựa trên rủi ro để phân bổ nguồn lực và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro về RT/TTTKB mà NRA đã xác định (c.1.5).
· Không có yêu cầu đối với tất cả các Đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp nâng cao để quản lý và giảm thiểu rủi ro đối với các lĩnh vực rủi ro cao hơn đã được NRA xác định (c.1.7)
· Không rõ liệu việc xác định hoặc đánh giá khách hàng có rủi ro thấp có phù hợp với NRA hay không (c.1.8)
· Ngoài các biện pháp CDD được đơn giản hóa đối với các khách hàng có rủi ro thấp hơn, Việt Nam chưa cho phép các biện pháp đơn giản hóa đối với các lĩnh vực có rủi ro thấp hơn khác (c.1.8)
· Những yếu kém về công tác giám sát và thiếu các yêu cầu đối với RE để tăng cường các biện pháp kiểm soát áp dụng cho quản lý rủi ro (c.1.9)
· Không có yêu cầu đối với RE phải tăng cường kiểm soát để phù hợp với rủi ro các tổ chức đó (c.1.11)
|
2. Hợp tác và điều phối quốc gia
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Các kế hoạch và chính sách hành động được ban hành chưa cung cấp đầy đủ thông tin về rủi ro RT / TTKB đã được xác định (c.2.1).
· Không có quy định cho phép các cơ quan và các bộ liên quan phối hợp và trao đổi thông tin trong các tình huống không có Biên bản ghi nhớ (c.2.3).
|
3. Tội rửa tiền
|
Tuân thủ một phần
|
· Tội rửa tiền không bao gồm tất cả các hình thức chuyển giao và chuyển đổi tiền thu được từ tội phạm (c.3.1).
· Có thiếu hụt đối với các khía cạnh của phạm vi tội phạm nguồn (c.3.2)
· Không rõ rằng các tội danh RT có mở rộng đến cả tài sản thể hiện gián tiếp cho số tiền do phạm tội mà có hay không (c.3.4)
· Các mức phạt hiện có là không tương xứng hoặc không có tính răn đe (c.3.9)
· Trách nhiệm hình sự của pháp nhân không áp dụng đối với số tiền thu được của một số tội danh và đối với tất cả các hình thức pháp nhân (c.3.10)
|
4. Tịch thu và các biện pháp dự phòng
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Không có điều khoản nào cho phép các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các bước để vô hiệu hoặc ngăn chặn các hành động làm phương hại đến khả năng đóng băng, thu giữ hoặc thu hồi tài sản bị tịch thu của Việt Nam (c.4.2).
· Có hạn chế các quy định pháp luật liên quan đến việc quản lý tài sản bị phong tỏa, bị thu giữ hoặc bị tịch thu (c.4.4).
|
5. Tội phạm tài trợ khủng bố
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Việc hình sự hóa tội tài trợ cho các hành động khủng bố bị giới hạn không được đề cập rõ ràng (c.5.1)
· Thiếu hụt trong việc hình sự hóa các hành động tài trợ cho hoạt động khủng bố (c.5.2)
· Hành vi tài trợ cho việc đi lại của các đối tượng khủng bố nước ngoài không bị hình sự hóa (c.5.2 bis)
· Trong trường hợp không hình sự hóa rõ ràng việc tài trợ cho các hành động khủng bố, thì không có các biện pháp trừng phạt liên quan đối với thể nhân hoặc pháp nhân (c.5.6 và c.5.7).
• Các hình phạt đối với pháp nhân doanh nghiệp không tương xứng và không có tính răn đe (c.5.7).
• Các tội chuẩn bị và cố gắng phạm tội không áp dụng cho việc tài trợ cho các hành vi tài trợ khủng bố (c.5.8).
|
6. Xử phạt tài chính mục tiêu liên quan đến khủng bố và tài trợ khủng bố
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có tiêu chuẩn bằng chứng chứng minh khi quyết định liệu có hoặc không đưa vào danh sách chỉ định, cũng như Việt Nam không đưa ra bất kỳ điều gì khác tài liệu đề cập đến các tiêu chuẩn chứng minh cho quá trình này (c.6.1).
· Không rõ liệu các đối tượng được sở hữu hoặc bị kiểm soát, hoặc những người thay mặt hoặc theo chỉ đạo của những người và các tổ chức bị chỉ định có thể bị chỉ định trong nước hay không (c.6.2)
· Tiêu chuẩn chứng minh về bằng chứng với “cơ sở hợp lý” hoặc “căn cứ hợp lý” không được quy định trong luật (c.6.2).
· Có những thiếu hụt trong nghĩa vụ đóng băng không chậm trễ và không cần thông báo trước (c.6.5)
· Nghĩa vụ đóng băng chỉ có hiệu lực đối với các ngân hàng, không phải với tất cả các thể nhân và pháp nhân (c.6.5)
· Lệnh cấm không áp dụng đối với việc cung cấp tiền, tài sản, dịch vụ hoặc nguồn lực cho các đối tượng được sở hữu hoặc bị kiểm soát, hoặc những người và tổ chức thay mặt hoặc theo chỉ đạo của những người và tổ chức bị chỉ định(c.6.5).
· Các đối tượng báo cáo không nhận được bất cứ một thông báo nào khi có chỉ định hoặc khi được đưa ra khỏi danh sách.
· Các nghĩa vụ báo cáo chỉ có hiệu lực đối với các ngân hàng (c.6.5).
· Không có hướng dẫn về đóng băng / bãi bỏ việc đóng băng (c.6.5 & c.6.6).
· Không có thông báo nào được đưa ra cho các RE khi việc chỉ định hoặc hủy chỉ định được thực hiện (c.6.6).
· Không có quy trình thủ tục công khai nào về các cảnh báo giả (c.6.6)
|
7. Các Biện pháp Xử phạt Tài chính Mục tiêu liên quan đến phổ biến vũ khí
|
Không tuân thủ
|
· • Khung pháp lý về TFS liên quan đến TTPBVKHDHLHDHL không được thực hiện đầy đủ khi kết thúc đánh giá tại chỗ (c.7.1.).
· Các nghĩa vụ đóng băng không có hiệu lực thi hành (c.7.2)
· Không có lệnh cấm có hiệu lực thi hành nào được áp dụng trực tiếp cho các cá nhân hoặc tổ chức (c.7.2)
· Các nghĩa vụ báo cáo không có hiệu lực thi hành (c.7.2).
· Cơ chế thông báo chỉ định và hủy danh sách chỉ định chưa được thiết lập (c.7.2 và c.7.4).
· Không có hướng dẫn về đóng băng /bãi bỏ việc đóng băng (c.7.2 and c.7.4).
· Không bị phạt dân sự, hành chính hoặc hình sự nếu không tuân thủ các nghĩa vụ về TFS liên quan đến TTPBVKHDHLHDHL. (c.7.3)
· Không có quy trình công khai nào đối với các yêu cầu đưa ra khỏi danh sách chỉ định hoặc các cảnh báo giả (c.7.4).
|
8. Tổ chức Phi lợi nhuận
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Đánh giá tính dễ bị tổn thương TTKB là cơ bản và không bao gồm bất kỳ phân tích nào về rủi ro TTKB trong khu vực (c.8.1.).
· Hầu hết các hoạt động tiếp cận với các NPO có rủi ro cao không liên quan đến tính dễ bị tổn thương TTKB và các biện pháp để bảo vệ chống lại lạm dụng NPO cho mục đích TTKB (c.8.2)
· Không giám sát NPO dựa trên rủi ro (c.8.3)
· Các biện pháp xử phạt không tương xứng và không có tính răn đe(c.8.4)
· Thiếu sự rõ ràng về quy trình chia sẻ báo cáo của Bộ Công an cho Cơ quan An ninh Điều tra của Bộ Công an để điều tra các NPO nghi ngờ là lạm dụng hoặc đồng lõa thực hiện (c.8.5).
· Không có cơ chế rõ ràng để đáp ứng các yêu cầu quốc tế về thông tin liên quan đến các NPO trong nước (c.8.6)
|
9. Pháp luật về bảo mật đối với các tổ chức tài chính
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Không có điều khoản rõ ràng nào nâng cao các yêu cầu bảo mật đối với các báo cáo liên quan đến TTKB hoặc việc chia sẻ thông tin giữa các FI trong khi những điều này được quy định tại KN. 13, 16 hoặc 17 (c.9.1)
|
10. Xác minh thông tin khách hàng
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có yêu cầu nào rõ ràng đối với các FI khi thực hiện các biện pháp về CDD trong trường hợp mà các giao dịch không thường xuyên được thực hiện thành nhiều lần và các lần này dường như có liên quan đến nhau hoặc khi có nghi ngờ RT trong các hoàn cảnh khác ngoài giao dịch hoặc khi nghi ngờ có dấu hiệu TTKB (c.10.2)
· Không có biện pháp xác minh bắt buộc nào bao gồm yêu cầu sử dụng tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin từ nguồn độc lập, đáng tin cậy khi FI đang xác minh danh tính của khách hàng (c.10.3).
· Không có yêu cầu bắt buộc nào đối với FI, ngoại trừ các công ty chứng khoán, để xác định và xác minh thông tin những người đại diện cho khách hàng (c.10.4)
· Không có quy định cụ thể nào cho FI sử dụng thông tin hoặc dữ liệu liên quan thu được từ một nguồn đáng tin cậy khi xác minh danh tính của chủ sở hữu hưởng lợi (c.10.5).
· Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để có được thông tin về bản chất dự kiến của mối quan hệ kinh doanh (c.10.6)
· Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để xem xét kỹ lưỡng các giao dịch được thực hiện trong suốt quá trình quan hệ kinh doanh hoặc trên cơ sở liên tục dựa trên hồ sơ khách hang (c.10.7)
· Không có yêu cầu cụ thể nào đối với FI để cập nhật thông tin về khách hàng có “rủi ro cao” hoặc thực hiện việc xem xét các hồ sơ hiện có (c.10.7).
· Ngoài các công ty bảo hiểm, không có yêu cầu bắt buộc nào đối với các FI khác để hiểu bản chất công việc kinh doanh của khách hàng (c.10.8).
· Không yêu cầu FI phải hiểu bản chất công việc kinh doanh của khách hàng là pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý (c.10.8).
· Các biện pháp xác minh thông tin của pháp nhân không có hiệu lực thực thi đối với FI (c.10.9).
· Không có yêu cầu bắt buộc thực hiện các biện pháp hợp lý để xác minh danh tính của chủ sở hữu hưởng lợi (c.10.10).
· Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để xác định chủ sở hữu hưởng lợi kiểm soát pháp nhân bằng các phương thức khác, khi có nghi ngờ về quyền sở hữu được hưởng lợi hoặc khi không có thể nhân nào kiểm soát thông qua lợi ích sở hữu (c.10.10).
· Thiếu sự rõ ràng trong các biện pháp xác định quyền sở hữu có lợi của pháp nhân trong mối quan hệ với “chủ doanh nghiệp tư nhân” và bất kỳ cá nhân nào khác thực sự chi phối và kiểm soát pháp nhân và thể nhân giữ chức vụ quan chức quản lý cấp cao (c10 .10).
· Không có quy định rõ ràng về việc phải xác định người chuyển nhượng và người bảo hộ của ủy thác (c.10.11).
· Trong trường hợp một người thụ hưởng được chỉ định theo các đặc điểm nhất định, theo thứ hạng hoặc bằng các phương tiện khác, không có yêu cầu cụ thể về việc thu thập đầy đủ thông tin về người thụ hưởng nhằm có thể xác định được danh tính tại thời điểm chi trả (c.10.12).
· Tuy nhiên, đối với các chính sách bảo hiểm nhân thọ và đầu tư khác, trường hợp người thụ hưởng được chỉ định bởi các đặc điểm hoặc theo tầng lớp hoặc bằng các phương tiện khác, không có yêu cầu cụ thể về việc phải xác minh danh tính của người thụ hưởng (c.10.12).
· Không có điều khoản nào yêu cầu xác minh danh tính một cách rõ ràng tại thời điểm thanh toán (c.10.12).
· Không có yêu cầu cụ thể nào đối với các FI có liên quan để bao gồm người thụ hưởng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ như một yếu tố rủi ro liên quan trong việc xác định xem các biện pháp CDD nâng cao có được áp dụng hay không (c.10.13).
· Không có yêu cầu cụ thể để thực hiện các biện pháp nâng cao, bao gồm các biện pháp hợp lý để xác định và xác minh danh tính của chủ sở hữu thực sự của người thụ hưởng, tại thời điểm thanh toán (c.10.13).
· Thiếu sự bao quát toàn diện về các điều kiện để được áp dụng xác minh danh tính khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi sau, không làm gián đoạn hoạt động kinh doanh thông thường (c.10.14).
· Không có điều khoản nào yêu cầu FI phải áp dụng các thủ tục quản lý rủi ro liên quan đến điều kiện mà khách hàng có thể sử dụng mối quan hệ kinh doanh trước khi xác minh (c.10.15).
· Không có quy định cụ thể nào liên quan đến khách hàng hiện tại và không có nghĩa vụ đối với FI phải áp dụng các yêu cầu CDD đối với khách hàng hiện tại dựa trên tính trọng yếu và rủi ro và vào những thời điểm thích hợp (c.10.16).
· Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để thực hiện các biện pháp nâng cao khi rủi ro TTKB cao hơn hoặc trong các trường hợp khác bất kể mức độ rủi ro của khách hàng là bao nhiêu (c.10.17).
· Không có yêu cầu cụ thể nào đối với Việt Nam hoặc FI để tiến hành phân tích đầy đủ các rủi ro cho mục đích của KN.10 (c.10.18)
· Không có điều khoản rõ ràng nào nói rằng các biện pháp đơn giản hóa không được chấp nhận khi có nghi ngờ về RT/TTKB hoặc áp dụng các tình huống rủi ro cao hơn cụ thể (c.10.18).
· Không có nghĩa vụ đối với FI không được mở tài khoản, bắt đầu quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện giao dịch, hoặc chấm dứt quan hệ kinh doanh khi CDD không thể hoàn thành và Không có nghĩa vụ phải nộp STR trong các trường hợp được nêu ở trên (c.10.19).
· Không có điều khoản rõ ràng nào cho phép các FI không theo đuổi quy trình CDD khi có nghi ngờ về RT hoặc TTKB và có nguy cơ quy trình CDD sẽ làm tiết lộ thông tin khách hàng (c.10.20).
|
11. Lưu giữ Hồ sơ
|
Tuân thủ một phần
|
· không rõ liệu việc hoàn thành giao dịch và liệu tất cả các hồ sơ và tài liệu cần thiết của các giao dịch quốc tế có được tính đến trong yêu cầu lưu giữ hồ sơ giao dịch của khách hàng hay không (c.11.1)
· Không có yêu cầu cụ thể nào về việc lưu giữ tất cả thông tin CDD, tất cả kết quả của bất kỳ phân tích nào đã thực hiện và các thư tín kinh doanh (c.11.2)
· Không có yêu cầu cụ thể về hình thức duy trì hồ sơ giao dịch và thông tin liên quan khác đủ để cho phép xây dựng lại các giao dịch riêng lẻ nhằm cung cấp bằng chứng cho việc truy tố tội phạm nếu cần thiết (c.11.3)
· Thiếu sự rõ ràng về FIs để đảm bảo rằng tất cả thông tin CDD và hồ sơ giao dịch được cung cấp nhanh chóng cho các cơ quan có thẩm quyền (c.11.4).
|
12. Cá nhân có Ảnh hưởng Chính trị
|
Không tuân thủ
|
· Thiếu sự bao quát toàn diện về PEP nước ngoài và các nghĩa vụ cho các đối tượng này (c.12.1).
· Không yêu cầu RE phải được sự chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập (hoặc tiếp tục, đối với khách hàng hiện tại) các mối quan hệ kinh doanh với các PEP nước ngoài (c.12.1).
· Không yêu cầu các RE xác định nguồn gốc tài sản của khách hàng khi chủ sở hữu hưởng lợi là PEP nước ngoài (c.12.1).
· Không có yêu cầu đối với RE để tiến hành giám sát nâng cao liên tục (c.12.1).
· RE không có nghĩa vụ phải thực hiện các yêu cầu cụ thể đối với các PEP trong nước và các cá nhân được tổ chức quốc tế tin tưởng giao cho một chức năng công vụ nổi bật (c.12.2)
· Không có nghĩa vụ để áp dụng các biện pháp kiểm soát đối với các cộng sự thân thiết của tất cả các loại PEP (c.12.3)
· Không kiểm soát người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể là PEP (c.12.4).
|
13. Quan hệ ngân hàng đại lý
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có yêu cầu trực tiếp đối với FI xác định chất lượng của hoạt động giám sát đó, bao gồm cả việc liệu ngân hàng đại lý đó có đang bị điều tra về RT/TTKB hoặc vướng vào vấn đề pháp lý nào không (c.13.1)
· Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI về việc phải hiểu rõ ràng các trách nhiệm PCRT/TTKB tương ứng của mỗi tổ chức (d.13.1)
· Không có yêu cầu nào đối với các FI phải đảm bảo được rằng các ngân hàng đối tác không cho phép tài khoản của họ được sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc (c.13.3)
|
14. Dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị (MVTS)
|
Tuân thủ một phần
|
• Không không có thông tin nào được cung cấp về các hành động cụ thể được thực hiện đối với các MVTS bất hợp pháp và các biện pháp xử phạt đối với hành vi cung cấp dịch vụ trái phép là chưa tương xứng và chưa đủ sức răn đe vì các khoản phạt có thể được áp dụng là rất thấp bao gồm cả đối với thế nhân (c.14.2).
· Các thiếu sót liên quan đến kiểm tra và giám sát cho các mục đích TTKB được áp dụng (c.14.3).
· Không rõ liệu thể nhân có thể trở thành đại lý cho các nhà cung cấp MVTS hay không (c.14.4)
· Không có yêu cầu rõ ràng đối với MVTS để bao gồm các đại lý của họ trong các chương trình tuân thủ PCRT / TTKB (c.14.5).
|
15. Công nghệ mới
|
Không tuân thủ
|
· Không có đánh giá rủi ro RT/TTKB có thể phát sinh liên quan đến việc phát triển các sản phẩm mới và phương thức kinh doanh mới của Việt Nam và đánh giá rủi ro RT/TTKB của FI chỉ bao gồm các giao dịch không gặp mặt trực tiếp (c.15.1).
· Không rõ liệu các FI có được yêu cầu thực hiện đánh giá rủi ro trước khi tung ra hoặc sử dụng các sản phẩm, công nghệ đó hay không và giới hạn về phạm vi áp dụng của các loại công nghệ mới (c.15.2)
· Các bước còn hạn chế trong việc đánh giá rủi ro RT/TTKB phát sinh từ VA/VASP và không có đánh giá cụ thể về rủi ro RT/TTKB phát sinh từ hoạt động VA/VASP và các hoạt động hoặc vận hành của VASP (c.15.3).
· Các quy định cấm có giới hạn đối với các VA và không có nghĩa vụ đối với các VASP phải thực hiện các bước thích hợp để xác định, đánh giá và giảm thiểu rủi ro RT/TTKB của họ (c.15.3).
· Không có biện pháp hoặc yêu cầu nào về việc cấp phép hoặc đăng ký VASP, và ngăn chặn tội phạm hoặc cộng sự của chúng nắm giữ, hoặc là chủ sở hữu thực sự, hoặc kiểm soát, hoặc nắm giữ vị trí quản lý trong VASP (c.15.4).
· Không có hành động nào để thực thi lệnh cấm một phần hoặc xác định thể nhân hoặc pháp nhân thực hiện các hoạt động VASP mà không có giấy phép hoặc đăng ký cần thiết, và áp dụng các biện pháp trừng phạt thích hợp (c.15.5)
· Không có biện pháp hoặc yêu cầu nào liên quan đến việc giám sát VASP (c.15.6).
· Không áp dụng các biện pháp xử phạt hoặc yêu cầu đối với VASP liên quan đến các yêu cầu tại KN 10 - 21 (c.15.7-c.15.9).
· Các khiếm khuyết liên quan đến TFS được áp dụng và không rõ liệu nghĩa vụ giám sát danh sách đen của Bộ Công an có áp dụng cho VASP (c15.10) hay không.
· Không áp dụng các biện pháp hoặc yêu cầu đối với VASP liên quan đến nghĩa vụ báo cáo (c15.10)
· Không có cơ sở pháp lý để các giám sát viên trao đổi thông tin với các đối tác nước ngoài về VASP (c15.11).
|
16. Chuyển tiền điện tử
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có quy định về việc phải có thông tin chính xác và bắt buộc về người khởi tạo đi kèm giao dịch chuyển tiền điện tử xuyên biên giới từ USD/EUR 1000 trở lên, bao gồm thông tin người khởi tạo và người thụ hưởng được yêu cầu và chính xác đi kèm với chuyển tiền điện tử xuyên biên giới (c.16.1).
· Không có yêu cầu cụ thể cho chuyển tiền điện tử theo lô xuyên biên giới (c.16.2)
· Không có yêu cầu cụ thể cho chuyển tiền điện tử xuyên biên giới với giá trị dưới 1000 USD (c.16.3)
· Không yêu cầu xác minh đối với chuyển tiền xuyên biên giới dưới 1000 USD khi có nghi ngờ về RT/TTKB (c.16.4)
· Không rõ liệu tất cả các thông tin về người khởi tạo và người thụ hưởng thu thập được có phải được duy trì bởi tổ chức đặt lệnh hay không. Hơn nữa, các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán khác (bao gồm các tổ chức thanh toán, các tổ chức chuyển tiền và chuyển đổi ngoại tệ, v.v.), những người có thể thực hiện chuyển khoản ngân hàng cũng không thuộc đối tượng duy trì các thông tin này (c.16.7).
· Không có điều khoản nào quy định rằng FI đặt lệnh không được phép thực hiện chuyển khoản nếu không tuân thủ các yêu cầu tại tiêu chí 16.1 đến 16.7 (c.16.8).
· Không có yêu cầu rõ ràng đối với các tổ chức trung gian để đảm bảo tất cả thông tin người khởi tạo và người thụ hưởng đi kèm với chuyển khoản xuyên biên giới được lưu giữ (c.16.9).
· Không có điều khoản rõ ràng nào bao gồm các trường hợp mà các giới hạn kỹ thuật khiến các thông tin yêu cầu không đi kèm giao dịch chuyển tiền điện tử đó (c.16.10).
· Không có quy định cụ thể nào để các tổ chức trung gian thực hiện các biện pháp hợp lý phù hợp với quy trình xử lý điện tử (straight-through processing) để xác định các giao dịch chuyển tiền điện tử qua biên giới thiếu thông tin người khởi tạo hoặc thông tin người thụ hưởng (c.16.11).
· Không có yêu cầu rõ ràng liên quan đến hành động tiếp theo của các FI trung gian sau khi từ chối hoặc trì hoãn giao dịch hoặc áp dụng các biện pháp giám sát sau giao dịch (c16.12).
· Không có yêu cầu rõ ràng nào liên quan đến hành động tiếp theo của các FI thụ hưởng sau khi từ chối hoặc trì hoãn giao dịch hoặc áp dụng các biện pháp giám sát sau giao dịch trong trường hợp giao dịch thiếu thông tin về chuyển tiền và người thụ hưởng (c.16.15).
· Không rõ liệu các đại lý cung cấp dịch vụ chuyển tiền ngoại tệ có được yêu cầu tuân thủ KN.16 hay không khi họ cung cấp các giao dịch chuyển tiền hoặc giá trị (c16.16).
· Không có yêu cầu cụ thể nào đối với MVTS kiểm soát cả bên đặt lệnh và bên thụ hưởng của của một giao dịch chuyển tiền điện tử, để xem liệu có phải lập một báo cáo STR không cũng như có phải tạo STR ở bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi giao dịch chuyển tiền điện tử đáng ngờ hoặc cung cấp thông tin giao dịch có liên quan cho FIU (c16.17).
|
17. Dựa vào bên thứ ba
|
Tuân thủ một phần
|
· Các thiếu sót về CDD và lưu trữ hồ sơ được áp dụng và không có yêu cầu đối với FI để lấy ngay thông tin CDD cần thiết từ các bên thứ ba (c.17.1).
· Không yêu cầu các tập đoàn tài chính thực hiện các chương trình toàn diện để PCRT/TTKB và các thiếu hụt liên quan đến CDD, lưu trữ hồ sơ và những cá nhân có ảnh hưởng chính trị được áp dụng (c.17.3).
|
18. Kiểm soát nội bộ, chi nhánh nước ngoài và công ty con
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có điều khoản cụ thể nào bao gồm các thủ tục sàng lọc để đảm bảo các tiêu chuẩn cao khi tuyển dụng nhân viên (c.18.1).
· Các tập đoàn tài chính không có nghĩa vụ phải thực hiện các chương trình toàn tập đoàn, bao gồm các cơ chế chia sẻ thông tin theo tiêu chí 18.1 và 18.2 (a) - (c) (c.18.2).
· Không có yêu cầu cụ thể nào đối với FIs để đảm bảo các chi nhánh nước ngoài và các công ty con do họ sở hữu đa số áp dụng các biện pháp PCRT/TTKB phù hợp với các yêu cầu của nước sở tại và không yêu cầu các tập đoàn tài chính áp dụng các biện pháp bổ sung thích hợp để quản lý rủi ro RT/TTKB và thông báo cho cơ quan giám sát ở quốc gia mẹ trong tình huống nước sở tại không cho phép thực hiện các biện pháp PCRT/TTKB thích hợp theo yêu cầu của quốc gia mẹ (c.18.3).
|
19. Các quốc gia có rủi ro cao
|
Tuân thủ một phần
|
• Phạm vi của các biện pháp thẩm định nâng cao sẽ được áp dụng bởi FI đối với các thể nhân và
pháp nhân từ các quốc gia được FATF kêu gọi nhưng chỉ bao gồm các “giao dịch”, không bao gồm các mối quan hệ kinh doanh (c.19.1).
• Không có quy định cụ thể nào để Việt Nam áp dụng các biện pháp đối phó tương xứng đối với các nước có rủi ro cao hơn (c.19.2).
• Không có biện pháp cụ thể nào để đảm bảo FI được tư vấn về những lo ngại về điểm yếu trong hệ thống PCRT/TTKB của các quốc gia khác trên cơ sở đang thực hiện (c.19.3).
|
20. Báo cáo giao dịch đáng ngờ
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có yêu cầu rõ ràng để báo cáo các STR liên quan đến TTKB cho Cục PCRT (c.20.1).
· Yêu cầu báo cáo về các giao dịch có ý định thực hiện không áp dụng cho các giao dịch liên quan đến TTKB (c.20.2).
|
21. Rò rỉ thông tin và bảo mật
|
Tuân thủ một phần
|
• Không có quy định cụ thể nào để bảo vệ FI, giám đốc, cán bộ và nhân viên của họ khỏi trách nhiệm hành chính, dân sự hoặc hình sự nếu họ thực hiện báo cáo STR (c.21.1).
· Không có quy định rõ ràng cấm các giám đốc, cán bộ và nhân viên của các FI tiết lộ về các STR hoặc các thông tin liên quan đã được báo cáo cho FIU (c.21.2).
|
22. Các DNFBP: Theo dõi cập nhật thông tin khách hàng
|
Tuân thủ một phần
|
• Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ CDD, tuy nhiên, các thiếu hụt được chỉ ra trong KN.10 cũng áp dụng cho DNFBP (c.22.1).
• Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ, tuy nhiên, các thiếu hụt quy định trong KN.11 cũng áp dụng cho các DNFBP (c.22.2)
• Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ PEP hạn chế và các thiếu hụt quy định trong KN.12 áp dụng cho các DNFBP (c.22.3)
• Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ công nghệ mới, tuy nhiên các thiếu hụt quy định trong KN15 cũng áp dụng cho các DNFBP (c.22.4)
• Tất cả các DNFBP có liên quan đều có thể dựa vào các bên thứ ba trung gian để thực hiện CDD, tuy nhiên, các thiếu hụt nêu trong KN.17 cũng áp dụng cho các DNFBP (c.22.5)
|
23. DNFBPs: Các biện pháp khác
|
Tuân thủ một phần
|
· Các thiếu hụt liên quan đến KN.18, 19, 20 và 21 cũng áp dụng tương tự cho DNFBP.
|
24. Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân
|
Tuân thủ một phần
|
· Thông tin liên quan đến việc thành lập và các loại pháp nhân phi thương mại chỉ được công bố công khai trong văn bản quản lý/cấp phép của họ (c.24.1).
· Thiếu sót trong việc đánh giá rủi ro của các loại pháp nhân khác nhau, bao gồm thiếu hụt với một số pháp nhân phi lợi nhuận (c.24.2).
· Thông tin cơ bản được công bố công khai không bao hàm đầy đủ thẩm quyền điều hành cơ bản vì điều lệ của công ty không được công bố rộng rãi (c.24.3).
· Thiếu hụt quy định để đảm bảo rằng công ty đó có được thông tin về quyền sở hữu có lợi của một công ty và có sẵn tại một địa điểm cụ thể ở quốc gia của họ; hoặc có thể được xác định một cách kịp thời bởi cơ quan có thẩm quyền (c.24.4).
· Không có nghĩa vụ phải cập nhật thông tin liên quan đến thẩm quyền điều hành cơ bản (c.24.5)
· Không có yêu cầu rõ ràng về việc các RE phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi kiểm soát pháp nhân bằng các biện pháp khác khi có nghi ngờ về quyền sở hữu hưởng lợi hoặc khi không có thể nhân nào kiểm soát quyền lợi sở hữu (c.24.6).
· Không có quy định cụ thể nào yêu cầu thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi do RE thu thập phải “chính xác” và cập nhật (c.24.7).
· Không có yêu cầu hoặc nghĩa vụ cụ thể nào đối với thể nhân hoặc DNFBP để thay mặt pháp nhân hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền (c.24.8).
· Thiếu hụt với liên quan đến các khía cạnh của nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ (c.24.9).
· Một số điểm yếu trong quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp cận kịp thời với tất cả các thông tin cơ bản và công khai về quyền sở hữu hưởng lợi (c.24.10).
· Không có chế tài cụ thể trong trường hợp không tuân thủ các nghĩa vụ thông tin chủ sở hữu hưởng lợi liên quan đến tính minh bạch của pháp nhân (c.24.13)
· Không rõ liệu có bất kỳ cơ chế rõ ràng nào để các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thay mặt các đối tác nước ngoài thu thập thông tin về quyền sở hữu có lợi hay không (c.24.14).
· Việt Nam không theo dõi chất lượng hỗ trợ nhận được từ các quốc gia khác khi phản hồi các yêu cầu cung cấp thông tin cơ bản và chủ sở hữu hưởng lợi hoặc các yêu cầu hỗ trợ trong việc xác định chủ sở hữu hưởng lợi cư trú ở nước ngoài (c.24.15).
|
25. Minh bạch và sở hữu hưởng lợi tại các thỏa thuận pháp lý
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có yêu cầu nào mà người được ủy thác của quỹ tín thác nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải duy trì thông tin cần thiết theo khuyến nghị này (c.25.1).
· Không có yêu cầu đối với người được ủy thác để đảm bảo hồ sơ chính xác và cập nhật. Tuy nhiên, trong những trường hợp hạn chế của những người được ủy thác chuyên nghiệp hoạt động với khả năng của họ như RE, có nghĩa vụ tuân thủ các yêu cầu của CDD để thu thập và cập nhật thông tin (c.25.2).
· Không có nghĩa vụ đối với những người được ủy thác tiết lộ trạng thái của họ cho các FI và DNFBP khi hình thành mối quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện các giao dịch không thường xuyên (c.25.3).
· Không có điều khoản nào cho phép truy cập kịp thời vào thông tin do người được ủy thác nắm giữ cụ thể tại Việt Nam (c.25.5).
· Không rõ liệu có bất kỳ cơ chế rõ ràng nào để các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thay mặt các đối tác nước ngoài lấy thông tin về quyền sở hữu có lợi hay không (c.25.6).
· Không có quy định rõ ràng nào về các biện pháp xử phạt đối với những người được ủy thác hoạt động tại Việt Nam khi không công bố họ là người được ủy thác tới các FI và DNFBP, trước khi hình thành mối quan hệ kinh doanh (c.25.7).
· Không có quy định nào cho các biện pháp xử phạt cụ thể đối với những người được ủy thác vì không tiết lộ thông tin ủy thác đó cho các cơ quan có thẩm quyền vì họ không bắt buộc phải báo cáo tình trạng của mình như được xác định theo tiêu chí 25.3 (c.25.8)
|
26. Quản lý và thanh tra giám sát các tổ chức tài chính
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có cơ quan quản lý hay giám sát chỉ định về PCRT/TTKB cho các nhà cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán và tổ chức cho vay trực tuyến (c.26.1)
· Trong khi NHNN là cơ quan giám sát và quản lý TTKB, không có sự ủy quyền rõ ràng trong luật để hình thành các yêu cầu quy định và thực hiện giám sát (c.26.1).
· Không rõ ràng về cơ quan cấp phép cho các công ty quản lý quỹ hoặc các tổ chức cho vay trực tuyến phải được cấp phép hoặc đăng ký trước khi hoạt động (c.26.2).
· Có giới hạn về việc kiểm tra tính chính xác và phù hợp nhằm ngăn chặn bọn tội phạm hoặc cộng sự của chúng nắm giữ (hoặc là chủ sở hữu hưởng lợi) một lợi ích đáng kể hoặc kiểm soát, hoặc nắm giữ chức năng quản lý trong FI (c.26.3).
· Không có giám sát hợp nhất rõ ràng cho các mục đích PCRT/TTKB (c.26.4).
· Không có sự giám sát của lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt, hoặc của các tổ chức cho vay trực tuyến (c.26.4).
· Tần suất và cường độ giám sát do người giám sát thực hiện không dựa trên rủi ro RT/TTKB, chính sách, kiểm soát nội bộ và thủ tục liên quan đến tổ chức hoặc nhóm (c.26.5).
· Kiểm soát viên chưa đánh giá hồ sơ rủi ro của FI và các tập đoàn tài chính hoặc xem xét rủi ro định kỳ để ứng phó với các sự kiện lớn (c.26.6).
|
27. Thẩm quyền của cơ quan thanh tra giám sát
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có giám sát viên nào có quyền giám sát hoặc giám sát các tổ chức cho vay trực tuyến và các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán (IPSP) để tuân thủ các yêu cầu PCRT (c.27.1).
· Yêu cầu tối thiểu về TTKB đối với FI, ngoài TFS (c.27.1).
· Giám sát viên không có quyền tiến hành kiểm tra TTKB hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với việc không tuân thủ các yêu cầu của TTKB (c.27.2).
· Quyền lực của giám sát viên PCRT / TTKB trong việc bắt buộc cung cấp thông tin cho IPSP và các tổ chức cho vay trực tuyến không được đề cập rõ ràng (c.27.3).
· Các hình thức phạt do NHNN chỉ áp dụng đối với các hành vi vi phạm Luật PCRT 2012 và không bao gồm các vi phạm TTKB (c.27.4).
· Không có cơ sở pháp lý nào cho phép bất kỳ Giám sát viên PCRT/TTKB nào xử phạt các công ty thu đổi ngoại tệ, IPSP hoặc các tổ chức cho vay trực tuyến vì không tuân thủ các yêu cầu của PCRT (c.27.4).
|
28. Quản lý và thanh tra giám sát các DNFBP
|
Tuân thủ một phần
|
· Yêu cầu tương tự về kiểm tra tính chính xác và phù hợp đối với DNFBP và chủ sở hữu hưởng lợi của các tổ chức đó (c.28.1 & 28.4)
· Chỉ có các biện pháp giám sát TTKB tối thiểu đối với các sòng bạc, ngoài TFS (c.28.1)
· Không có quyền hạn rõ ràng để áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các hành vi vi phạm quy định PCRT/TTKB (c.28.1 & 28.4)
· Không có cơ quan có thẩm quyền nào được chỉ định để giám sát và đảm bảo sự tuân thủ của các DNFBP với các nghĩa vụ TTKB ngoài TFS (c.28.2)
· Thiếu hệ thống để giám sát sự tuân thủ của DNFBP với các yêu cầu PCRT/TTKB (c.28.1 & 28.3).
· Không có công cụ nào quy định cơ quan có thẩm quyền nào được chỉ định áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với DNFBP để giải quyết các trường hợp không tuân thủ các yêu cầu PCRT (c.28.4).
· Việc giám sát DNFBP không được thực hiện trên cơ sở rủi ro (c.28.5).
|
29. Đơn vị tình báo tài chính
|
Tuân thủ một phần
|
· Thiếu sót trong R.20 và R.23 liên quan đến việc thiếu nghĩa vụ báo cáo rõ ràng các STR liên quan đến TTKB tương tự tại Khuyến nghị này (c.29.1 & c.29.2).
· Không có quyền truy cập thông tin liên quan đến TTKB (c.29.3).
· Phân tích chiến lược do Cục PCRT thực hiện hạn chế (c.29.4).
· Không sử dụng các kênh chuyên dụng, an toàn và được bảo mật để chuyển giao thông tin tình báo (c.29.5).
· Không có quy trình kiểm tra an ninh đối với nhân viên của Cục PCRT hoặc chính sách an ninh. (c.29.6)
|
30. Trách nhiệm cơ quan điều tra và LEA
|
Tuân thủ
|
· Khuyến nghị được đáp ứng đầy đủ.
|
31. Thẩm quyền của các cơ quan điều tra và thực thi pháp luật
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Không có quyền bắt buộc thể nhân xuất trình hồ sơ nếu không có lệnh khám xét (c.31.1).
· Không có quyền để sắp xếp con người xâm nhập vào các tổ chức tội phạm(ngoại trừ trong trường hợp liên quan đến tội phạm ma tuý) (c.31.2).
· "Các phương pháp điều tra đặc biệt" khác chỉ có thể được sử dụng cho các tội danh cụ thể (c.31.2).
|
32. Vận chuyển tiền mặt
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Các hình phạt hành chính không tương xứng, vì hình phạt khi nhập cảnh vào Việt Nam thấp hơn nhiều so với hình phạt khi xuất cảnh khỏi Việt Nam, tuy nhiên, các hình thức xử phạt ở mức cao hơn của thang đo, chiếm 50% giá trị liên quan đến hành vi phạm tội được coi là không mang tính răn đe (c.32.5).
· Quyền tịch thu tiền tệ hoặc BNI phản ánh một số thiếu hụt được xác định trong KN.4 (c.32.11).
|
33. Số liệu Thống kê
|
Tuân thủ
|
· Khuyến nghị được đáp ứng đầy đủ.
|
34. Hướng dẫn và phản hồi
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có hướng dẫn nào được ban hành cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng (NBFI) và DNFBP và không có hướng dẫn cho các ngân hàng đối với các vấn đề TTKB (c.34.1).
· Hướng dẫn hạn chế đã được đưa ra về việc thực hiện CDD và TFS (c.34.1)
|
35. Xử phạt
|
Không tuân thủ
|
· Đối với KN.6 - không có chế tài xử lý đối với việc không phong tỏa ngay lập tức đối với các thể nhân và pháp nhân khác, hoặc bất kỳ biện pháp xử phạt nào vì vi phạm lệnh cấm đối với người hoặc tổ chức trong phạm vi tài phán của họ cung cấp quỹ hoặc tài sản, tài nguyên hoặc dịch vụ khác cho người và tổ chức được chỉ định. Không có chế tài đối với các FI hoặc DNFBP khác khi không báo cáo. (c.35.1).
· Đối với KN.8 - Không có hình thức xử phạt nào ngoài việc đình chỉ hoặc giải thể có sẵn đối với các vi phạm của NPO. Với phạm vi hạn chế và thiếu hình thức xử phạt, các biện pháp xử phạt hiện tại không được coi là tương xứng và mang tính răn đe (c.35.1).
· Đối với KN.9-23 - có những điểm yếu với hàng loạt các biện pháp trừng phạt chưa tương xứng và phù hợp để xử lý các thể nhân hoặc pháp nhân không tuân thủ các yêu cầu về các biện pháp ngăn chặn và không có biện pháp trừng phạt nào đối với DNFBP và một số FI (c. 35.1).
· Chế tài xử phạt hạn chế đối với giám đốc và quản lý cấp cao của ngân hàng; không có chế tài đối với giám đốc và quản lý cấp cao của NBFI và DNFBP (c.35.2).
|
36. Các thỏa thuận, thỏa ước quốc tế
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Việt Nam không bị ràng buộc bởi các điều khoản liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với Công ước Merida và cũng không coi Công ước này làm cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ (c.36.1).
· Những thiếu hụt nhỏ trong việc thực hiện các điều khoản liên quan của cả 4 Công ước (TTKB, Merida, Vienna, Palermo) (c.36.2).
|
37. Tương trợ tư pháp đa phương
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Không có nghĩa vụ rõ ràng là phải cung cấp hỗ trợ pháp lý song phương/đa phương một cách ‘nhanh chóng’ (c.37.1).
· Quy trình ưu tiên và thực hiện MLA không toàn diện vì chỉ tập trung vào việc giảm thời gian xử lý trong các trường hợp cụ thể (c.37.2).
· Luật pháp không yêu cầu các công chức Việt Nam tại các cơ quan liên quan đến MLA có nghĩa vụ phải duy trì tính bảo mật của các yêu cầu MLA (c.37.5).
· Tội phạm kép là bắt buộc cho dù yêu cầu có liên quan đến hành động cưỡng chế hay không (c.37,6).
· Luật Tương trợ tư pháp 2007 không quy định về việc liệu hành vi phạm tội ở 2 quốc gia có được thỏa mãn hay không bất kể loại và hình thức phạm tội với điều kiện cả hai quốc gia đều hình sự hóa hành vi cơ bản (c.37.7).
· Sự thiếu hụt trong quyền hạn và kỹ thuật điều tra theo KN.31 cũng tác động đến tiêu chí này (c.37.8).
|
38. Tương trợ tư pháp đa phương: phong tỏa và tịch thu
|
Tuân thủ một phần
|
· Không có thẩm quyền cung cấp hỗ trợ xử lý tài sản theo yêu cầu MLA không trên cơ sở bị kết án (c.38.2).
· Không có thỏa thuận cụ thể để phối hợp bắt giữ hoặc tịch thu (c.38.3).
· Không có cơ chế quản lý và xử lý tài sản bị phong tỏa, tạm giữ hoặc tịch thu theo yêu cầu MLA khi cần thiết (c.38.4).
|
39. Dẫn độ
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Việt Nam có thể từ chối các yêu cầu liên quan đến công dân Việt Nam, mặc dù trong những trường hợp này, các yêu cầu đó có thể được giải quyết trong nước (c.39.1).
· Có những thiếu hụt nhỏ liên quan đến các thủ tục đơn giản hóa để dẫn độ (c.39.4)
|
40. Các hình thức hợp tác quốc tế khác
|
Tuân thủ phần lớn
|
· Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền không có các cơ chế rõ ràng và kênh an toàn để tạo điều kiện hợp tác, trao đổi thông tin (c.40.2).
· Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền không có quy trình ưu tiên thực hiện các yêu cầu quốc tế cho các cơ quan có thẩm quyền khác (c.40.2).
· Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền không cung cấp phản hồi cho các đối tác nước ngoài về việc sử dụng và tính hữu ích của thông tin nhận được theo yêu cầu hợp tác quốc tế (c.40.4).
· Không hạn chế việc sử dụng thông tin ngoài phạm vi đã được quy định tại MOU (c.40.6).
· Không có quy định nào của pháp luật hoặc MOU cho phép Việt Nam từ chối cung cấp thông tin nếu cơ quan yêu cầu cung cấp thông tin không thể bảo vệ thông tin (c.40.7).
· Không có quyền hạn rõ ràng để thực hiện các yêu cầu thay mặt cho các đối tác nước ngoài (c.40.8).
· Không có cơ sở pháp lý rõ ràng nào để NHNN (Cục PCRT) hợp tác quốc tế đối với các hành vi vi phạm TTKB (ngoại trừ thông qua Bộ Công an) hoặc RT (c.40.9).
· Cục PCRT chỉ cung cấp phản hồi một lần cho đối tác nước ngoài (FIU Malaysia) (c.40.10).
· Một số thiếu hụt trong quyền hạn rõ ràng để Cục PCRT trao đổi thông tin liên quan đến TTKB với đối tác nước ngoài (c.40.11).
· Luật và hầu hết các MOU về hợp tác giám sát không đề cập rõ ràng về hợp tác PCRT/TTKB (c.40.12).
· Không có giới hạn về các loại thông tin sẵn có trong nước có thể được trao đổi (c.40.13)
· Chỉ một số MOU yêu cầu giám sát viên phải có sự cho phép trước trước khi phổ biến thông tin đã trao đổi (c.40.16).
· Không có thẩm quyền rõ ràng về mặt pháp lý cho các LEA hợp tác trong việc xác định và truy tìm các khoản tiền thu được cũng như công cụ phạm tội (c.40.17).
· Không có thẩm quyền rõ ràng cho các LEA sử dụng quyền hạn của họ để thực hiện các yêu cầu và thu thập thông tin thay mặt cho các đối tác nước ngoài (c.40.18).
|
5. Bảng các thiếu hụt về hiệu quả thực thi theo Khuyến nghị của FATF
Hiệu quả thực thi các Mục tiêu trực tiếp của FATF
|
Mục tiêu trực tiếp
|
Xếp hạng
|
Các yếu tố thiếu hụt
|
1. Rủi ro & Chính sách, phối hợp
|
Trung bình
|
· Việt Nam có sự hiểu biết gia tăng về các rủi ro RT/TTKB, chủ yếu thông qua Báo cáo ffánh giá rủi ro quốc gia (NRA) mới hoàn thành gần đây. Quy trình liên ngành trong việc thực hiện NRA và các hoạt động chia sẻ kết quả của NRA phản ánh sự phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng của Việt Nam và NRA đóng vai trò là nền tảng tốt cho sự hiểu biết của Việt Nam về rủi ro RT/TTKB của mình. Nhìn chung các quy trình này đã cải thiện sự hiểu biết về rủi ro RT/TTKB của khu vực công và khu vực tư nhân ở một mức độ nhất định, tuy nhiên vẫn cần cải thiện đáng kể sự hiểu biết của các cơ quan chức năng về rủi ro RT đặc biệt là ngoài NRA. Nhận thức của các khu vực tư nhân về rủi ro RT/TTKB giữa các FI và các DNFBP nhỏ hơn cũng cần cải thiện đáng kể.
· Các phát hiện của NRA năm 2019 có vẻ hợp lý, mặc dù có một số thiếu hụt trong phạm vi của NRA như không bao gồm tất cả các loại tội được FATF chỉ định bao gồm tội phạm có tổ chức, bóc lột tình dục và tội phạm môi trường (bao gồm cả đánh bắt cá bất hợp pháp), và kết luận về một số tội phạm nguồn và các lĩnh vực cần được xem xét kỹ lưỡng hơn. Đánh giá rủi ro đối với tổ chức phi lợi nhuận (NPO), pháp nhân và tài trợ phổ biến vũ khí (PF) vào cuối năm 2019 bổ sung cho NRA, nhưng không có đánh giá rủi ro được thực hiện đối với tài sản ảo (VA) và nhà cung cấp dịch vụ VA (VASP), cơ quan thực thi pháp luật (LEA) và các cơ quan chức năng khác không thường xuyên đưa ra các đánh giá về mối đe dọa và các đánh giá khác về rủi ro RT/TTKB.
· Rủi ro khủng bố và TTKB ở Việt Nam được coi là thấp, điều này có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, chưa rõ liệu những rủi ro liên quan đến việc Việt Nam có thể trở thành quốc gia trung chuyển TTKB có được các cơ quan chức năng của Việt Nam nhận thức đầy đủ hay không, lưu ý rằng Việt Nam đang phân bổ các nguồn lực để tiến hành phân tích sâu hơn về các mối đe dọa bên ngoài của TTKB.
· Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT/TTKB hậu NRA (Kế hoạch hành động PCRT/TTKB hậu NRA), trong đó đề ra các chính sách cấp quốc gia và các chiến lược cấp cao để giải quyết các thiếu hụt về pháp lý, thể chế và năng lực. Các kế hoạch hành động cụ thể cho từng cơ quan do mỗi bộ và cơ quan xây dựng cũng bao gồm các nguyên tắc bao trùm và các biện pháp chung được áp dụng cho mục đích giải quyết các thiếu hụt về thể chế và năng lực trong các bộ và các cơ quan hơn là các rủi ro đã xác định. Mặc dù vậy, phải thừa nhận rằng việc giải quyết các thiếu hụt về pháp lý, thể chế và năng lực là một bước quan trọng để Việt Nam giải quyết tốt hơn các rủi ro RT/TTKB đã được xác định và Kế hoạch hành động hậu NRA đã khởi xướng những thay đổi đối với luật, quy định và chính sách liên quan đến PCRT/TTKB.
· Việt Nam chưa thực hiện cách tiếp cận dựa trên rủi ro toàn diện để phân bổ nguồn lực và thực hiện các biện pháp phòng ngừa hoặc giảm thiểu RT/TTKB dựa trên rủi ro được đánh giá. Mục tiêu và hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền chưa phù hợp với rủi ro RT/TTKB.
· Các biện pháp tăng cường đối với những lĩnh vực rủi ro cao đã được xác định như ngân hàng, bất động sản, ngoại hối và chuyển tiền chưa được thực hiện. Tương tự, Việt Nam chưa thực hiện các biện pháp đơn giản hóa cho những lĩnh vực rủi ro thấp hơn.
· Ở cấp chính sách, công tác điều phối và phối hợp liên ngành được thiết lập tốt thông qua hai Ủy ban Điều phối Quốc gia (NCC) về RT và TTKB. Hiện nay, một số cơ chế phối hợp cấp kỹ thuật đã được thực hiện, tuy nhiên mức độ hiệu quả của các cơ chế này chưa rõ ràng.
· Trong tháng 11/2019, Việt Nam đã chỉ định Bộ Quốc phòng (BQP) làm cơ quan đầu mối triển khai các biện pháp phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, tuy nhiên chưa có khuôn khổ hợp tác và điều phối quốc gia cụ thể cho vấn đề phòng, chống tài trợ phổ biến.
|
2. Hợp tác quốc tế
|
Trung bình
|
· Việt Nam đã chứng tỏ hiệu quả trong việc cung cấp hợp tác quốc tế chính thức, đáp ứng các yêu cầu và cung cấp MLA và dẫn độ cho các quốc gia trong một khoảng thời gian hợp lý, bao gồm cả liên quan đến RT và các tội phạm nguồn.
· Việt Nam đã tìm kiếm MLA và dẫn độ, liên quan đến các tội phạm nguồn, tuy nhiên, mới chỉ có những yêu cầu hạn chế liên quan đến RT, chứng tỏ thiếu điều tra chủ động về RT. Điều này không phù hợp với rủi ro của RT tại Việt Nam.
· Mặc dù Việt Nam tích cực theo đuổi MLA và các hình thức yêu cầu chính thức khác bao gồm dẫn độ, nhưng chất lượng yêu cầu và phản hồi chưa tương xứng. Phần lớn các yêu cầu gửi đến đều được xử lý và hoàn thành trong khoảng thời gian hợp lý. Tỷ lệ lớn các yêu cầu gửi đi không được trả lời do đó Việt Nam tiếp tục theo đuổi các vụ việc mà không có phản hồi. Yêu cầu gửi đi liên quan tới RT ít được hoàn thành, và không được hoàn thành từ năm 2016, trong đó có một số yêu cầu đã bị từ chối
· Không có yêu cầu dẫn độ và yêu cầu MLA liên quan đến TTKB còn hạn chế. Điều này phù hợp với loại hình rủi ro TTKB thấp.
· Trong khi Cục PCRT và các LEA đáp ứng các yêu cầu hợp tác quốc tế, con đường trao đổi thông tin của Cục PCRT với các FIU nước ngoài một cách nhanh chóng và an toàn còn có hạn chế. Phần lớn các yêu cầu gửi đi của Cục PCRT, liên quan đến đánh bạc có tổ chức, thay vì RT hoặc tội phạm nguồn có rủi ro cao hơn. Các LEA hợp tác thường xuyên với các đối tác nước ngoài liên quan đến tội phạm nguồn,tuy nhiên, hoạt động hợp tác quốc tế về RT còn hạn chế. Các điều tra viên và công tố viên thiếu tập trung vào việc hỗ trợ điều tra tài chính với các tội phạm có rủi ro cao với sự hỗ trợ của hợp tác quốc tế chính thức và không chính thức.
· Các cơ quan thanh tra giám sát của Việt Nam tìm kiếm và cung cấp hợp tác liên quan đến giám sát an toàn nhưng không chủ động tìm kiếm sự hợp tác liên quan đến PCRT/TTKB. Mặc dù NHNN đã cung cấp hợp tác về RT/TTKB một cách hạn chế, nhưng không có bằng chứng về việc các cơ quan thanh tra giám sát khác có thực hiện hợp tác liên quan đến chống RT/TTKB
· Thông tin cơ bản được cung cấp công khai trên Cổng thông tin đăng ký kinh doanh trực tuyến của Việt Nam, có thể truy cập bởi các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Cục PCRT đã trao đổi thông tin chủ sở hữu hưởng lợi liên quan đến pháp nhân thương mại với các đối tác nước ngoài. Mặc dù không có thông tin nào được trao đổi liên quan đến thỏa thuận pháp lý.
|
3. Thanh tra, giám sát
|
Thấp
|
· Việt Nam thiết lập hệ thống giám sát sơ bộ về PCRT/TTKB cho các FI. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra giám sát về PCRT/TTKB chưa được ưu tiên và còn rất hạn chế. Không có giám sát PCRT/TTKB từ xa và cũng rất hạn chế thanh tra tại chỗ mà phần lớn là thanh tra tuân thủ theo phương pháp dựa trên quy định.
· Tần suất và phạm vi thanh tra, giám sát về PCRT/TTKB không dựa trên rủi ro. Thanh tra, giám sát đối với các FI lớn hơn chủ yếu trên cơ sở và kết hợp với giám sát an toàn chứ không dựa trên cơ sở rủi ro RT/TTKB. Hầu hết thanh tra tại chỗ về PCRT/TTKB hạn chế về phạm vi. Thanh tra, giám sát về PCRT/TTKB gần như chỉ giới hạn trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Trong số các DNFBP chỉ có một vài công ty kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng và sòng bạc đã được thanh tra tại chỗ về PCRT/TTKB với phạm vi thanh tra hạn chế.
· BCA có trách nhiệm rộng rãi về phòng, chống khủng bố và TTKB, thẩm quyền thanh tra, kiểm tra còn chung chung và không cụ thể đối với các FI, DNFBP và/hoặc VASP. BCA chưa tiến hành thanh tra đối với các đối tượng báo cáo về tuân thủ các biện pháp TTKB. Mặc dù, NHNN là cơ quan giám sát và quản lý được chỉ định về TTKB, nhưng pháp luật không ủy quyền rõ ràng trong việc xây dựng các yêu cầu quản lý và thực hiện giám sát.
· Mặc dù tất cả các cơ quan thanh tra, giám sát đã tham gia vào quá trình xây dựng NRA, trừ CQTTGSNH của NHNN, các cơ quan thanh tra giám sát các FI phi ngân hàng và DNFBP đều thể hiện hiểu biết thấp về rủi ro RT/TTKB và cách quản lý, giảm thiếu các rủi ro này. Các cơ quan thanh tra, giám sát cũng chưa có đánh giá ở cấp độ tổ chức/ngành sau khi hoàn thành báo cáo NRA diện rộng năm 2019
· Việc thực hiện kiểm soát chính xác và phù hợp nhìn chung không toàn diện. Việc kiểm tra lý lịch hình sự của giám đốc và cổ đông thường xuyên đã được thực hiện đối với các FI chính và sòng bạc, tuy nhiên, các yêu cầu về xác định nguồn gốc tiền, sự chính xác và phù hợp về chủ sở hữu hưởng lợi không được xem xét. Đối với các FI và DNFBP còn lại, kiểm tra sự chính xác và phù hợp chủ yếu dựa vào các thủ tục đăng ký cơ bản. Các cơ quan giám sát chưa từng từ chối việc gia nhập thị trường do lý lịch hình sự hoặc có liên can đến tội phạm.
· Hoạt động thanh tra, giám sát mới chỉ phát hiện các vi phạm PCRT/TTKB hạn chế, chứ chưa được theo dõi để đảm bảo tuân thủ. Việt Nam chưa thể hiện có các hành động khắc phục. Chưa áp dụng các chế tài xử phạt hiệu quả, tương xứng và mang tính răn đe đối với các vi phạm về PCRT/TTKB. Các chế tài xử phạt chỉ dừng lại ở các thư hậu kiểm liệt kê các thiếu sót.
· Các cơ quan thanh tra, giám sát đã tổ chức các khóa đào tạo và hội thảo để tăng cường hiểu biết của các RE về RT/TTKB và các nghĩa vụ PCRT/TTKB. Tuy nhiên, tiếp cận của đào tạo còn hạn chế, hiệu quả của việc hướng dẫn quản lý là thấp, thể hiện ở việc hướng dẫn không theo rủi ro RT/TTKB, không theo mục tiêu hay không cụ thể cho từng ngành nghề.
|
4. Các biện pháp phòng ngừa
|
Thấp
|
· Các nghĩa vụ về PCRT/TTKB được áp dụng cho tất cả các FI và DNFBP nhưng chưa áp dụng cho các tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo (VASP). Các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán mới chỉ được đưa vào nghĩa vụ thực hiện PCRT/TTKB tại thời điểm đánh giá tại chỗ. Thiếu hụt kỹ thuật bao gồm các biện pháp phòng ngừa liên quan đến TTKB và việc thiếu sự giám sát để củng cố các nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tuân thủ.
· Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa không được thể hiện tốt và đạt được ở mức độ không đáng kể. Các biện pháp phòng ngừa được các FI áp dụng dựa theo quy định thay vì dựa trên các nguyên tắc cơ bản và không tính đến yếu tố rủi ro RT/TTKB của Việt Nam. NRA được hoàn thành bảy tháng trước đợt đánh giá tại chỗ.
· Mức độ hiểu biết về rủi ro RT/TTKB và các nghĩa vụ PCRT/TTKB có sự khác nhau trong khu vực tư nhân. Các FI lớn (ví dụ ngân hàng, công ty bảo hiểm và công ty chứng khoán), đặc biệt là các FI có quy mô toàn cầu có hiểu biết tương đối tốt về rủi ro và nghĩa vụ RT/TTKB và chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ đầy đủ. Các công ty chuyển tiền hiểu biết về rủi ro RT/TTKB và nghĩa vụ PCRT/TTKB ở mức độ thấp hơn. Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các cơ sở đổi tiền có hiểu biết về rủi ro RT/FT và nghĩa vụ PCRT/TTKB dường như rất ít với các thiếu hụt căn bản đã được phát hiện trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa PCRT/TTKB.
· Hiểu biết về rủi ro RT/TTKB của các DNFBP còn rất hạn chế dẫn tới việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa PCRT/TTKB là không đáng kể.
· Việc áp dụng các yêu cầu CDD nâng cao hoặc cụ thể và các yêu cầu lưu giữ hồ sơ khác nhau giữa các FI. Các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán và công ty chuyển tiền có các biện pháp CDD, lưu giữ hồ sơ và giám sát liên tục phù hợp. Tuy nhiên, CDD liên quan đến chủ sở hữu hưởng lợi là một thách thức đặc biệt khi liên quan đến các chủ sở hữu nước ngoài. Đối với các FIs khác, các quy trình CDD được xây dựng không phù hợp khi các quy trình này chỉ giới hạn ở CDD cơ bản dựa trên các tài liệu nhận dạng hoặc quy trình đánh giá tín dụng. Dường như có những điểm yếu khi thực hiện nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ và hệ thống giám sát còn thiếu hoặc không phù hợp đối với các FIs này.
· Các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán và công ty chuyển tiền ở một phạm vi nào đó đã áp dụng các biện pháp tăng cường đối với các PEP nước ngoài và các quốc gia có rủi ro cao hơn do FATF xác định và các biện pháp cụ thể về ngân hàng đại lý, công nghệ mới, chuyển khoản ngân hàng và TFS TTKB. Việc chưa có yêu cầu xác định PEP trong nước là quan ngại đáng kể mặc dù thiếu hụt này được giảm nhẹ phần nào bởi các chính sách nội bộ về PCRT/TTKB áp dụng toàn cầu của các RE quốc tế, trong đó dường như đã bao gồm cả PEP trong nước cũng như quốc tế. Các lỗ hổng cơ bản trong các lĩnh vực này cũng tồn tại đối với các FI khác.
· Ngoại trừ các công ty kế toán lớn và sòng bạc lớn, việc áp dụng các yêu cầu CDD nâng cao hoặc cụ thể, các yêu cầu lưu giữ hồ sơ và các biện pháp giám sát liên tục đối với khu vực DNFBP, bao gồm bất động sản, lĩnh vực kinh doanh vàng bạc đá quý có rủi ro cao hơn, còn rất hạn chế. Hiểu biết của tất cả các DNFBP về yêu cầu liên quan đến chủ sở hữu hưởng lợi cũng còn rất hạn chế.
· Nhìn chung, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán và công ty chuyển tiền có cơ chế báo cáo STR phù hợp mặc dù phần lớn các STR là do các ngân hàng báo cáo. Đối với các FI khác, có FI thiếu hụt cơ bản cơ chế báo cáo STR, có FI chưa có cơ chế báo cáo STR rõ ràng. Đối với các FI gửi báo cáo STR, có lỗ hổng lớn trong các báo cáo STR được gửi tới, theo đó việc gửi báo cáo không dựa trên rủi ro và không rõ các mẫu báo cáo STR phải gửi có phù hợp với rủi ro RT/TTKB của các đối tượng báo cáo hay không. Điều này được chứng minh qua việc các FI chủ yếu gửi báo cáo STR dựa trên các ngưỡng nghi ngờ và không dựa trên hành vi đáng ngờ. Không có nghĩa vụ pháp lý quy định rõ các RE phải nộp các báo cáo STR liên quan đến TTKB, và đây là một lỗ hổng căn bản. Trong khi các RE hiểu rằng phải làm điều đó, có rất ít báo cáo STR liên quan đến TTKB được nộp, điều này phù hợp với rủi ro TTKB thấp.
|
5. Pháp nhân và thỏa thuận pháp lý
|
Thấp
|
· Mặc dù thông tin về việc thành lập pháp nhân thương mại được cung cấp công khai bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh thông qua Cổng thông tin đăng ký kinh doanh trực tuyến, thông tin về việc thành lập và các loại hình pháp nhân phi thương mại không được công khai. Thông tin cơ bản về pháp nhân thương mại sẵn có ngay lập tức cho các cơ quan có thẩm quyền và công chúng. Thông tin này được xác minh và cập nhật.
· Việt Nam có một số hiểu biết về rủi ro RT/TTKB liên quan đến pháp nhân thương mại, tuy nhiên, có một số thiếu hụt trong đánh giá và kết quả vẫn chưa được hiểu biết rộng rãi. Việt Nam có hiểu biết yếu hơn về rủi ro RT và tính dễ bị tổn thương của các pháp nhân phi lợi nhuận. Các cơ quan có thẩm quyền không hiểu biết về chủ sở hữu hưởng lợi và việc kiểm soát các quỹ tín thác nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
· Có một số biện pháp nhằm tăng tính minh bạch của pháp nhân thương mại.
· Việt Nam tin tưởng sử dụng thông tin CDD có được từ các REs để cho phép các cơ quan có thẩm quyền truy cập thông tin chủ sở hữu hưởng lợi đối với các pháp nhân và quỹ tín thác.Tuy nhiên, như đã nêu ở IO.4, , có những thiếu sót trong các yêu cầu về mặt pháp lý và hầu hết các RE đều thể hiện hiểu biết và kiến thức hạn chế về khái niệm BO và cách xác định người thực hiện quyền kiểm soát cuối cùng đối với một pháp nhân. BO thường bị hiểu nhầm là chủ sở hữu hợp pháp, được xác định bằng cách kiểm tra thông tin cơ bản về pháp nhân trên Cổng thông tin đăng ký kinh doanh. Sự thiếu hiểu biết cho thấy các cơ quan thanh tra giám sát chưa có hướng dẫn đầy đủ.
· Rất hạn chế về các bằng chứng chứng minh các RE đang thu thập các thông tin BO và kiểm soát thông tin liên quan đến các quỹ tín thác nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và những thông tin này có thể được cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu.
· Các chế tài xử phạt là tương xứng nhưng số tiền phạt quá thấp nên không có tính răn đe và chỉ áp dụng cho các pháp nhân thương mại vì không tuân thủ các yêu cầu thông tin cơ bản. Không có bằng chứng về các hình thức xử phạt được áp dụng cho các RE vì không cung cấp được các thông tin BO thu thập được theo nghĩa vụ CDD khi có yêu cầu từ các cơ quan có thẩm quyền.
|
6. Đơn vị tình báo tài chính RT/TTKB
|
Thấp
|
· Các LEA không thường xuyên xây dựng, tiếp cận hoặc sử dụng thông tin tình báo tài chính và các thông tin khác để xây dựng bằng chứng của tội RT/TTKB và tội phạm nguồn, hoặc truy vết tội phạm.
· Cục PCRT của NHNN là cơ quan duy nhất cung cấp thông tin tình báo tài chính. Những thách thức về tính sẵn có và chất lượng của STR hạn chế nguồn phân tích và các sản phẩm tình báo của Cục PCRT. Số lượng STR và các báo cáo khác mà Cục PCRT nhận được nhìn chung còn thấp và chưa tạo cơ sở tốt cho việc phân tích, điều này làm giảm vai trò tình báo tài chính của Cục PCRT. Mức độ của báo cáo STR chưa phù hợp với hồ sơ rủi ro của Việt Nam, cùng với đó số lượng báo cáo của các lĩnh vực có rủi ro cao như bất động sản, sòng bạc, các công ty thu đổi ngoại tệ và chuyển tiền là không đáng kể.
· Cục PCRT thiếu công nghệ thông tin, quy trình và đội ngũ nhân viên được đào tạo để thực hiện phân tích hoạt động và chiến lược. Khả năng xây dựng thông tin tình báo tài chính hạn chế làm giảm đáng kể việc sử dụng thông tin tình báo tài chính của các cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra RT/TTKB.
· Cục PCRT xây dựng các phân tích hoạt động ở mức rất hạn chế, có chất lượng thấp. Phân tích chiến lược đã được đưa ra đối với bốn trường hợp. Những STR do Cục PCRT phổ biến cho thấy sự hạn chế về việc các STR cần được phân tích sâu hơn được để tăng cường hoặc gia tăng giá trị cho các báo cáo này.
· Thông tin tình báo tài chính do Cục PCRT cung cấp cho các LEA tập trung vào các tội phạm nguồn (thay vì tội RT). Có rất ít thông tin do Cục PCRT cung cấp góp phần vào điều tra và truy tố tội phạm RT hoặc tội phạm nguồn. Mặc dù Việt Nam đã có một số STR liên quan đến TTKB, các STR này không dẫn đến các cuộc điều tra TTKB.
· Sự trao đổi về thông tin tài chính và thông tin tình báo giữa Cục PCRT và các cơ quan có thẩm quyền khác để hỗ trợ nhu cầu làm việc là ở mức độ tối thiểu. Việc không có các thỏa thuận hợp tác được điều phối và hiệu quả ở cấp độ hoạt động cản trở đáng kể việc sử dụng thông tin tình báo tài chính và thông tin tài chính. Ngoài ra, việc không có các kênh được bảo vệ và bảo mật để phổ biến thông tin dẫn đến nguy cơ rò rỉ thông tin nhạy cảm.
|
7. Điều tra & truy tố tội RT
|
Thấp
|
· Sau khi hoàn thành báo cáo NRA vào năm 2019 và ngay trước đợt đánh giá tại chỗ, Việt Nam đã yêu cầu các LEA tăng cường hoạt động điều tra tội RT. Trong thực tế, các cuộc điều tra về RT được ưu tiên này chưa được thực hiện và hoạt động điều tra về RT không thường xuyên được thực hiện song song với các cuộc điều tra tội phạm nguồn. Việc thiếu các cuộc điều tra song song đã dẫn đến việc thiếu các vụ việc điều tra về RT.
· Việt Nam thiếu một chính sách quốc gia rõ ràng để ưu tiên việc điều tra tội RT, với sự tập trung vào điều tra song song đối với các tội phạm tạo ra tài sản rủi ro cao.
· Các LEA có các quyền hạn và trách nhiệm để điều tra và truy tố các tội phạm RT. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ đưa ra được ba ví dụ về truy tố tội RT (liên quan đến tham ô, lừa đảo và tội đánh bạc) trong 10 năm qua và chỉ có hai cuộc điều tra về RT đang diễn ra (liên quan đến lừa đảo và buôn lậu). Chưa có ví dụ về trường hợp theo đuổi hoạt động RT độc lập, các cuộc điều tra liên quan đến tội phạm nguồn nước ngoài hoặc RT thông qua pháp nhân.
· Xét theo số lượng điều tra về các tội phạm nguồn có tạo ra tiền, thì mức độ điều tra, truy tố và xét xử tội RT còn chưa tương xứng với hồ sơ rủi ro RT của Việt Nam. Đối với trường hợp có điều tra tài chính song song, thì cũng phần lớn là để hỗ trợ tịch thu được số tiền phạm tội chứ chưa phải điều tra chuyên ngành về hoạt động rửa tiền do phạm tội mà có.
· BCA không tiến hành các cuộc điều tra RT phù hợp với hồ sơ rủi ro của Việt Nam, không có nhóm điều tra RT chuyên trách để tập trung vào các hoạt động RT và có vẻ như đang thiếu nhận thức chung về các hành vi RT hoặc giá trị của việc “lần theo dấu vết đồng tiền”.
· Các LEA và các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam có thực hiện trao đổi thông tin và hợp tác trong quá trình điều tra, nhưng không tiến hành điều tra chung. Hợp tác thường tập trung vào các tội phạm nguồn mà ít tập trung vào điều tra tài chính song song cho tội RT.
· Mức độ xử phạt đủ sức răn đe và tương xứng đã được áp dụng trong chỉ 03 vụ truy tố tội RT đã hoàn thành.
|
8. Tịch thu, thu hồi tài sản
|
Khá
|
· Việt Nam đã ưu tiên việc theo đuổi việc tịch thu tiền thu được từ tội phạm, và Việt Nam đã có một số chính sách và chiến lược ở cấp quốc gia và cấp hoạt động để theo đuổi việc tịch thu. Việc ưu tiên chưa được phản ánh trong tất cả các LEA. Việt Nam đã đặt ra các mục tiêu tịch thu đầy tham vọng đối với tội phạm tài chính và tham nhũng, điều này đáng khen ngợi.
· Việt Nam tiến hành kê biên và tịch thu tiền hoặc công cụ phạm tội để đáp ứng số tiền do tòa tuyên phạt (thể hiện mức độ thiệt hại phát sinh do tội phạm hình sự gây ra).
· Ở một chừng mực nào đó, kết quả tịch thu của Việt Nam phản ánh mức độ rủi ro RT, đặc biệt liên quan đến các loại tội phạm nguồn có rủi ro cao như tham ô tài sản, tổ chức đánh bạc và buôn bán ma túy. Tuy nhiên, việc thu hồi tài sản tham nhũng liên quan đến một số tội phạm nguồn là thấp khi so sánh với các tội phạm nguồn khác. Việc tịch thu tài sản do phạm tội mà có và các công cụ liên quan chủ yếu liên quan đến các tội phạm nguồn trong nước.
· Với vai trò là những cơ quan chính chịu trách nhiệm thu hồi tài sản, BCA và SPP phải đối mặt với những thách thức trong việc xác định và truy tìm tài sản, đặc biệt liên quan tới các loại tội phạm phức tạp. Hơn nữa, khi phải đối mặt với các vấn đề phức tạp và những bị cáo tinh vi, các LEA gặp khó khăn trong việc truy tìm và liên kết tài sản với bị cáo trong quá trình tố tụng hình sự.
· Việt Nam chưa chứng minh được việc áp dụng một cách thường xuyên phương pháp kê biên các loại tài sản ở mức tối đa trong giai đoạn đầu hoặc theo yêu cầu điều tra truy tìm tài sản chi tiết. Mặc dù luật pháp cho phép kê biên không cần thông báo trước, cơ quan chức năng thường kê biên tài sản tại thời điểm khởi tố.
· Trong khi có một số hướng dẫn về quản lý tài sản, Việt Nam có thể cải thiện việc quản lý tài sản bị thu giữ để đảm bảo thu hồi được giá trị tối đa. Không có cơ quan chính phủ được chỉ định nào để quản lý tài sản bị kê biên, tạm giữ và tịch thu.
· Mặc dù luật pháp cho phép kê biên tài sản mà không cần thông báo trước, các cơ quan chức năng thường kê biên tài sản sau khi khởi tổ và như vậy (những) đối tượng bị điều tra biết được đang bị điều tra tội phạm, điều này tạo ra những thách thức đáng kể trong việc ngăn chặn việc tiêu tán tài sản trước khi kê biên.
· Tỷ lệ thu hồi tài sản theo lệnh tịch thu (giá trị tài sản thu hồi được trên số tiền phán quyết của tòa) là rất thấp và đây là một vấn đề đối với tất cả tội phạm nguồn, với tỷ lệ thu hồi bình quân xấp xỉ 29% giá trị phán quyết tài sản tịch thu được thu hồi.
· Việc tịch thu tiền giả hoặc tiền vận chuyển không khai báo hay công cụ chuyển nhượng vô danh (BNI)cũng dường như chỉ ở mức khiêm tốn. Các LEA dường như chưa ưu tiên hoặc có bất kỳ chiến lược điều tra hiệu quả đối với nguồn tiền bị tạm giữ tại biên giới, cảng biển và sân bay của Việt Nam.
|
9. Điều tra & truy tố tội TTKB
|
Khá
|
· Việt Nam đã hình sự hóa TTKB theo Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, tội TTKB độc lập chỉ hình sự hóa tài trợ cá nhân hoặc tổ chức khủng bố. Phạm vi hạn chế của tội TTKB dẫn đến việc tập trung vào tội khủng bố hơn là TTKB.
· Việt Nam đã thể hiện cam kết của mình ở cấp quốc gia, cấp bộ và cấp tỉnh trong việc chống khủng bố và TTKB. Cục An ninh Nội địa và Cơ quan An ninh Điều tra trong BCA đã chứng tỏ khả năng của họ trong việc xác định và điều tra hoạt động của Lực lượng đặc nhiệm liên quan đến các vụ khủng bố trong nước. Tuy nhiên, các cuộc điều tra của TTKB thường được sử dụng để hỗ trợ các cuộc điều tra về khủng bố, đặc biệt là các vấn đề trong nước, và không dẫn đến việc khởi tố TTKB.
· Việt Nam gần đây đã ban hành quy trình chính thức hóa quy trình điều tra TTKB, các quy trình này đã được thực hiện trong thực tế và nêu các bước và sự phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình điều tra. Tuy nhiên, không đưa ra quy trình điều tra các hành vi khủng bố tài trợ.
· Không có khởi tố hoặc kết án nào đối với TTKB ở Việt Nam, điều này nói chung là phù hợp với hồ sơ rủi ro TTKB thấp. Có hai cuộc điều tra về tội phạm TTKB ở Việt Nam đã được bắt đầu vào năm 2019 và đang diễn ra tại thời điểm đánh giá tại chỗ. Các cuộc điều tra khủng bố trong nước khác đã xác định được hoạt động TTKB nhưng các vụ việc không được theo đuổi như các cuộc khởi tố TTKB vì theo hệ thống pháp luật Việt Nam, khi tổ chức tài trợ có liên quan đến âm mưu khủng bố hoặc tổ chức khủng bố thì họ phải bị truy tố về tội khủng bố chứ không phải TTKB.
· Việc áp dụng các hình phạt hình sự chưa được kiểm tra do không có các cuộc truy tố TTKB. Ngoài ra, các chế tài đối với pháp nhân cũng không có tính răn đe.
· Việt Nam đã điều tra, truy tố và kết án những người tham gia vào các khía cạnh tài chính của tội khủng bố trong nước đối với các tội phạm khác, và đã làm triệt phá một số hoạt động TTKB tiềm ẩn. Việt Nam đã chứng tỏ khả năng xác định vai trò của nhà tài trợ trong một vụ khủng bố và lần theo dấu vết dòng tiền trong quá trình điều tra khủng bố. Mức độ hành động này đối với những người tham gia vào các hoạt động TTKB phù hợp với hồ sơ rủi ro của Việt Nam.
|
10. Các biện pháp TFS về TTKB
|
Thấp
|
· Có một vài thiếu hụt trong khuôn khổ pháp lý để đóng băng ngay lập tức tài sản của những cá nhân và pháp nhân được chỉ định theo UNSCR 1267 và UNSCR 1373, bao gồm cả việc không có hình phạt đối với việc không tuân thủ nghĩa vụ đóng băng đối với thể nhân và pháp nhân, ngoại trừ ngân hàng và vi phạm lệnh cấm cung cấp tiền, tài sản, tài nguyên hoặc dịch vụ. Không có chế tài hình sự nào đối với việc không tuân thủ các nghĩa vụ TFS và các biện pháp trừng phạt hiện có không tương xứng hoặc không phù hợp
· BCA duy trì một “danh sách đen” có sẵn công khai, bao gồm UNSC và các chỉ định trong nước, đồng thời kích hoạt các nghĩa vụ đóng băng tài sản của những cá nhân và tổ chức được chỉ định và áp dụng những điều cấm. Tuy nhiên, danh sách trừng phạt của Ủy ban UNSC năm 1988 chỉ được đưa vào danh sách đen của BCA trong đợt đánh giá tại chỗ, không cho phép có thời gian thực hiện.
· Việt Nam đã thiết lập cơ chế chỉ định trong nước đối với khủng bố và TTKB vào năm 2013. Từ thời điểm đó đến đợt đánh giá tại chỗ, Việt Nam đã chỉ định hai tổ chức và cá nhân liên quan tham gia khủng bố.
· Việc thiếu đề xuất chỉ định UNSCR 1267 phù hợp với rủi ro thấp của TTKB ở Việt Nam. Việc không đóng băng tài sản và công cụ cũng có thể nhất quán, nhưng cũng có thể là do thiếu sót trong khuôn khổ pháp lý.
· Việc thực hiện các nghĩa vụ TFS của khu vực tư nhân còn yếu và việc tiếp cận chưa toàn diện. Các thay đổi đối với danh sách UNSCR 1267 và 1988 được cung cấp cho các tổ chức báo cáo ngay lập tức nhưng chỉ một số tổ chức báo cáo chủ động theo dõi các thay đổi trên trang web. Các ngân hàng lớn hơn trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài có các quy trình để thực hiện TFS, phần lớn là do nhu cầu của họ để duy trì khả năng tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Các ngân hàng trong nước nhỏ hơn theo dõi các danh sách liên quan của Liên hợp quốc để tiến hành kiểm tra đối sánh tên đối với CDD, nhưng không áp dụng bất kỳ biện pháp giám sát nào khác. Một số TCTC phi ngân hàng và DNFBP khác thực hiện nghĩa vụ bằng cách tiến hành kiểm tra đối sánh tên để thực hiện CDD, nhưng nhiều tổ chức không nhận thức được các nghĩa vụ này. Không chứng minh được rằng các VASP thực hiện các nghĩa vụ TFS.
· Việt Nam có một khu vực NPO lớn. Hoạt động tiếp cận do các cơ quan giám sát NPO thực hiện phần lớn là hành chính, mặc dù Việt Nam gần đây đã bắt đầu một số hoạt động tiếp cận về rủi ro TTKB và các biện pháp phòng ngừa và BCA tham gia vào việc giám sát tăng cường các NPO được coi là có nguy cơ cao bị lạm dụng vào TTKB.
· BCA đã hoàn thành đánh giá rủi ro TTKB trong lĩnh vực NPO ngay trước thời điểm đánh giá tại chỗ, nhưng không đủ thời gian để cung cấp kết luận đánh giá rủi ro cho các NPO, bao gồm các NPO được coi là rủi ro cao nhất bị lạm dụng vào TTKB. Đánh giá rủi ro xác định một số NPO có nguy cơ bị lạm dụng vào TTKB cao hơn và đưa ra một số biện pháp khuyến nghị, mặc dù không có đánh giá toàn diện về rủi ro đối với lĩnh vực này ở Việt Nam.
· Cả BNV và COMINGO đều không thực hiện cách tiếp cận dựa trên rủi ro để giám sát các lĩnh vực NPO tương ứng của họ, mặc dù đã có các biện pháp chung như yêu cầu đăng ký và báo cáo thông tin tài chính.
|
11. Trừng phạt mục tiêu TTPBVKHDHLHDHLHDHL
|
Thấp
|
· Việt Nam gần đây (trong đợt đánh giá tại chỗ) đã ban hành Nghị định để thực hiện TFS liên quan đến phổ biến vũ khí. Tuy nhiên, các nghĩa vụ TFS có trong Nghị định này chưa được thực thi do thiếu hình thức xử phạt cho việc không tuân thủ và chưa đủ thời gian để Việt Nam thực hiện và chứng minh tính hiệu quả của Nghị định.
· Khung pháp lý triển khai TFS cho PF chưa được thực hiện đầy đủ tại thời điểm cuối đợt đánh giá tại chỗ, vì BQP chưa công bố các nghĩa vụ và danh sách UNSCR 1718 và các chỉ định liên quan đến PF theo yêu cầu của khuôn khổ pháp lý của Việt Nam. [1] Các cơ quan có thẩm quyền trước đây đã không thông báo về việc chỉ định liên quan đến PF cho các FI và DNFBPs.
· Cho đến nay, Việt Nam chưa xác định được bất kỳ quỹ hoặc tài sản nào liên quan đến các cá nhân hoặc tổ chức được chỉ định. Trong trường hợp các vi phạm hình phạt đã được xác định, các cơ quan có thẩm quyền đã không thực hiện các bước để xác định quỹ hoặc tài sản khác của những người và tổ chức được chỉ định và ngăn cản họ điều hành hoặc thực hiện các giao dịch liên quan đến phổ biến.
· Việt Nam đã hoàn thành đánh giá rủi ro PF vào tháng 11/2019, đánh giá này, khi được phổ biến sẽ giúp cải thiện việc tập trung thực hiện TFS của khu vực tư nhân.
· Việt Nam chưa tiến hành tiếp cận khu vực tư nhân về các nghĩa vụ TFS PF mới của họ. Các TCTC có sự hiện diện hoặc quyền sở hữu quốc tế tiến hành sàng lọc khách hàng, để xác định những khách hàng được liệt kê trong USNCR có liên quan, từ quan điểm tuân thủ toàn cầu và các tổ chức đã làm như vậy trước khi ban hành Nghị định. Tuy nhiên, các DNFBP, VASP và các TCTC khác (các ngân hàng trong nước và các NFBI nhỏ hơn) thiếu nhận thức về các nghĩa vụ TFS liên quan đến PF và không có cơ chế xác định tài sản và ngăn chặn các giao dịch tài chính liên quan đến gia tăng.
· Việt Nam chưa bắt đầu giám sát các TCTC, DNFBP hoặc VASP về nghĩa vụ PF TFS của họ. Vì không có hình phạt đối với việc không tuân thủ các nghĩa vụ TFS, các cơ quan có thẩm quyền không thể thực thi việc tuân thủ.
· Việt Nam trước đây có mối quan hệ ngoại giao và kinh doanh chặt chẽ với CHDCND Triều Tiên và đang đạt được tiến bộ trong việc hạn chế tiếp xúc với nguồn tài chính phổ biến vũ khí và trốn tránh các lệnh trừng phạt từ CHDCND Triều Tiên. Việt Nam đưa ra một số trường hợp các tàu cố gắng vận chuyển hàng hóa có xuất xứ CHDCND Triều Tiên nhưng bị quay ra khỏi lãnh hải Việt Nam hoặc bị bắt giữ. Tuy nhiên, Việt Nam đã không tiến hành bất kỳ cuộc điều tra bổ sung nào đối với các cá nhân và tổ chức đứng sau hoạt động này để xác định xem họ có được chỉ định hay áp dụng bất kỳ TFS nào hay không.
|
[1] Kể từ đợt đánh giá tại chỗ, BQP đã công bố trên trang web đường dẫn trực tiếp tới Danh sách trừng phạt của UN cũng như đường dần tới Nghị định 81/2019.
BẢNG SO SÁNH NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT PCRT SO VỚI CÁC KHUYẾN NGHỊ CỦA FATF VÀ APG
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0715-Bang-so-sanh-ndung-sdbs-Luat-PCRTsd-voi-khuyen-nghi-cua-FATF-APG---20220927082905.docx
Căn cứ yêu cầu tại Bộ chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (PCRT/TTKB/PBVKHDHL) hiện được biết đến với tên gọi 40 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), Đoàn đánh giá của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) sau khi đánh giá cơ chế PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL của Việt Nam đã đưa ra các khuyến nghị đối với Việt Nam nhằm khắc phục các thiếu hụt trong cơ chế PCRT/TTKB/PBVKHDHL tại Báo cáo đánh giá đa phương (MER) được thông qua vào tháng 3/2022. Theo đó, ngoài việc sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung nhiều quy định pháp luật có liên quan tại Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sư, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật tương trợ tư pháp, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán…, các văn bản hướng dẫn các Luật nêu trên và các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực có liên quan cũng như triển khai hàng loạt các biện pháp nhằm thúc đẩy cơ chế thực thi hoạt động có hiệu quả tại các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Để thực hiện các nội dung khuyến nghị của APG tại MER, với vai trò là đơn vị đầu mối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan có liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ và ngày 05/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 941/QĐ-TTg ban hành (Quyết định 941) Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Kế hoạch HĐQG), trong đó bao gồm Danh mục 41 hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL áp dụng cho giai đoạn 2021-2025 và Phụ lục 83 hành động phải được thực hiện đến tháng 3/2023 trước kỳ xem xét, đánh giá của FATF sau thời gian quan sát 1 năm. Các hành động này nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL để giải quyết các thiếu hụt về tuân thủ kỹ thuật đã được phát hiện trong MER và đảm bảo việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để cải thiện hiệu quả của hoạt động PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền được xác định là một trong những căn cứ quan trọng, là cơ sở để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan khác nhằm khắc phục các thiếu hụt mang tính pháp lý trong cơ chế phòng, chống rửa tiền của Việt Nam. Đây là một trong những khuyến nghị hành động quan trọng mà Việt Nam cần khẩn trương hoàn thành trước tháng 3/2023. Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả tích cực và đánh giá khả quan của APG, FATF, Việt Nam cần nỗ lực triển khai đồng bộ các khuyến nghị hành động của APG song song với việc sửa đổi Luật PCRT. Kết quả đánh giá việc thực hiện các khuyến nghị hành động sẽ phụ thuộc vào nỗ lực của Việt Nam nhưng cũng phụ thuộc vào cả ý kiến chủ quan của Đánh giá viên, rà soát viên và chính sách của FATF, APG trong từng thời kỳ.
STT
|
Các tiêu chí thiếu hụt theo KN của FATF được chỉ ra trong báo cáo MER đối với
Việt Nam
|
Điều luật tương ứng tại Dự thảo Luật PCRT sửa đổi
|
Đánh giá đáp ứng
|
1
|
KN 1. Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro (PC)
|
|
Đánh giá rủi ro quốc gia (NRA) không xem xét một số loại tội phạm được chỉ định của FATF hoặc ủy thác nước ngoài và một số lĩnh vực quan trọng khác (c.1.1).
|
|
Nội dung thiếu hụt này không liên quan đến nội dung sửa đổi tại Luật PCRT.
Việc bù đắp thiếu hụt này sẽ được thực hiện tại Báo cáo đánh giá rủi ro của Việt Nam giai đoạn 2018-2022.
|
|
Kết quả đánh giá thiếu phân tích sâu và cần phạm vi dữ liệu rộng hơn (c.1.1).
|
|
Nội dung thiếu hụt này không liên quan đến nội dung sửa đổi tại Luật PCRT.
Việc bù đắp thiếu hụt này sẽ được thực hiện tại Báo cáo đánh giá rủi ro của Việt Nam giai đoạn 2018-2022 và Kế hoạch HĐQG theo yêu cầu tại hành động số II.1 về Hiệu quả trực tiếp số 1 tại Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 được ban hành kèm theo Quyết định 941.
|
|
Các đánh giá rủi ro không được cập nhật do Việt Nam không thực hiện đánh giá các mối đe dọa cụ thể khác hoặc đánh giá theo ngành một cách thường xuyên để bổ sung cho quá trình thực hiện NRA (c.1.3)
|
1. Định kỳ 05 năm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá. Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.
2. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm:
a) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định;
b) Thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền, kế hoạch thực hiện sau cập nhật.
3. Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
|
Đáp ứng
|
|
Kế hoạch Hành động hậu NRA sử dụng các phát hiện của NRA trong một phạm vi hạn chế để giải quyết các rủi ro đã xác định mà không áp dụng cách tiếp cận dựa trên rủi ro để phân bổ nguồn lực và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro về RT/TTTKB mà NRA đã xác định (c.1.5).
|
|
Nội dung thiếu hụt này không liên quan đến nội dung sửa đổi tại Luật PCRT.
Việc bù đắp thiếu hụt này sẽ được thực hiện tại Báo cáo đánh giá rủi ro của Việt Nam giai đoạn 2018-2022 và Kế hoạch HĐQG tại điểm I.10 Danh mục kèm theo Quyết định 941.
|
|
Không có yêu cầu đối với tất cả các Đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp nâng cao để quản lý và giảm thiểu rủi ro đối với các lĩnh vực rủi ro cao hơn đã được NRA xác định (c.1.7)
|
1. Đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.
2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và bộ, ngành quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực của đối tượng báo cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro được ban hành hoặc phê duyệt. Đối tượng báo cáo phải phổ biến kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiềntại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
2. Đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b Khoản này, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết điểm a và điểm c khoản 2 Điều này.
|
Đáp ứng
Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro quy định tại Điều 15, đối tượng báo cáo phân loại mức độ rủi ro của khách hàng theo quy định tại Điều 16 dự thảo Luật.
|
|
Không rõ liệu việc xác định hoặc đánh giá khách hàng có rủi ro thấp có phù hợp với NRA hay không (c.1.8)
|
Đáp ứng
Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro quy định tại Điều 15, đối tượng báo cáo phân loại mức độ rủi ro của khách hàng theo quy định tại Điều 16 dự thảo Luật.
|
|
Ngoài các biện pháp nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng (CDD) được đơn giản hóa đối với các khách hàng có rủi ro thấp hơn, Việt Nam chưa cho phép các biện pháp đơn giản hóa đối với các lĩnh vực có rủi ro thấp hơn khác (c.1.8)
|
Đáp ứng
|
|
Những yếu kém về công tác giám sát và thiếu các yêu cầu đối với đối tượng báo cáo để tăng cường các biện pháp kiểm soát áp dụng cho quản lý rủi ro (c.1.9)
|
Điều 7 Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, Chương III (từ Điều 47 đến Điều 61) quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật có quy định: “Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước….”
|
Đáp ứng
Các quy định tại dự thảo Luật đã quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành và đơn vị liên quan trong công tác thanh tra, giám sát về PCRT. Do đó, nội dung thiếu hụt này sẽ được khắc phục.
|
|
Không có yêu cầu đối với đối tượng báo cáo phải tăng cường kiểm soát để phù hợp với rủi ro các tổ chức đó (c.1.11)
|
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
2. Đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b Khoản này, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết điểm a và điểm c khoản 2 Điều này.
|
Đáp ứng
Các quy định tại dự thảo Luật đã yêu cầu đối tượng báo cáo xây dựng quy trình quản lý rủi ro để giảm thiểu các rủi ro đã được xác định phù hợp với đối tượng báo cáo.
|
2
|
KN 2. Hợp tác và điều phối quốc gia (LC)
|
|
Các kế hoạch và chính sách hành động được ban hành chưa cung cấp đầy đủ thông tin về rủi ro RT/TTKB đã được xác định (c.2.1).
|
|
Nội dung thiếu hụt này không liên quan đến nội dung sửa đổi tại Luật PCRT.
Ngày 05/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 941 ban hành Kế hoạch HĐQG.
|
|
Không có quy định cho phép các cơ quan và các bộ liên quan phối hợp và trao đổi thông tin trong các tình huống không có Biên bản ghi nhớ (c.2.3).
|
Điều 42. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
1...
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trao đổi thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
4...
Điều 47. Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, chiến lược về phòng, chống rửa tiền.
3. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác phòng, chống rửa tiền; chỉ đạo việc phối hợp công tác phòng, chống rửa tiền và công tác phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
…
5. Hợp tác, trao đổi, cung cấp thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền theo quy định tại Điều 6 của Luật này, làm đầu mối tham gia, triển khai thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách thành viên các tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Công an
…
3. Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
…
|
Đáp ứng
Các quy định hiện tại tại dự thảo Luật không giới hạn việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan có thẩm quyền trong nước phải thực hiện qua MOU.
|
3
|
KN 6. Xử phạt tài chính mục tiêu liên quan đến khủng bố và tài trợ khủng bố (PC)
|
|
Có những thiếu hụt trong nghĩa vụ đóng băng không chậm trễ và không cần thông báo trước (c.6.5)
|
Điều 44. Trì hoãn giao dịch
1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng ngay biện pháp trì hoãn giao dịch trong các trường hợp sau:
a) Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội;
b) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan;
2. Khi thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch, đối tượng báo cáo phải báo cáo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3. Thời hạn áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu áp dụng.
4. Đối tượng báo cáo không phải chịu trách nhiệm pháp lý về những hậu quả phát sinh khi áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch theo đúng quy định tại Điều này.
5. Chính phủ quy định chi tiết điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Đối tượng báo cáo phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
|
Đáp ứng một phần
Nội dung này sẽ đáp ứng toàn bộ khi Chính phủ quy định chi tiết nội dung này và sửa đổi, bổ sung Nghị định số 122/2013/NĐ-CP ngày 11/10/2013 về tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ và xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; xác lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố theo yêu cầu tại hành động số II về Khuyến nghị số 6 và hành động số III.1 về Hiệu quả trực tiếp số 10 thuộc mục D về Tài trợ khủng bố - Quy định trừng phạt tài chính mục tiêu (TFS) và các tổ chức phi lợi nhuận (NPO) của Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 được ban hành kèm theo Quyết định 941.
|
4
|
KN 9. Pháp luật về bảo mật đối với các tổ chức tài chính (LC)
|
|
Không có điều khoản rõ ràng nào nâng cao các yêu cầu bảo mật đối với các báo cáo liên quan đến TTKB hoặc việc chia sẻ thông tin giữa các tổ chức tài chính (FI) trong khi những điều này được quy định tại KN. 13, 16 hoặc 17 (c.9.1)
|
Điều 63. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền
1…
2. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền...”.
Trong đó, Điều 40 quy định về Bảo đảm bí mật hồ sơ, thông tin, tài liệu, báo cáo đã yêu cầu đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước và bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật.
Điều 40. Bảo đảm bí mật hồ sơ, thông tin, tài liệu, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ, thông tin, tài liệu và báo cáo liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này.
2. Đối tượng báo cáo bao gồm cả người quản lý, người lao động không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan đến giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Đáp ứng một phần
|
5
|
KN 10. Xác minh thông tin khách hàng (PC)
|
|
Không có yêu cầu nào rõ ràng đối với các FI khi thực hiện các biện pháp về CDD trong trường hợp mà các giao dịch không thường xuyên được thực hiện thành nhiều lần và các lần này dường như có liên quan đến nhau hoặc khi có nghi ngờ RT trong các hoàn cảnh khác ngoài giao dịch hoặc khi nghi ngờ có dấu hiệu TTKB (c.10.2)
|
Điều 9. Nhận biết khách hàng
1...
2. Tổ chức tài chính phải nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a).....
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định; hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ của người khởi tạo, số tài khoản của người khởi tạo hoặc mã giao dịch trong trường hợp người khởi tạo không có tài khoản;
c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;
...
Điều 63. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền
1…
2. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền...”.
…
|
Đáp ứng một phần
|
|
Không có biện pháp xác minh bắt buộc nào bao gồm yêu cầu sử dụng tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin từ nguồn độc lập, đáng tin cậy khi FI đang xác minh danh tính của khách hàng (c.10.3).
|
Điều 12. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật; qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
Điều 13. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua việc thuê tổ chức khác
…
Điều 14. Nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba
…
|
Đáp ứng
Các giấy tờ, thông tin nhận dạng được quy định tại khoản 1, 2 Điều 12 đều là các biện pháp xác minh thông tin bắt buộc, trong đó có sử dụng thông tin từ nguồn độc lập, đáng tin cậy tại khoản 2.
Ngoài ra, đối tượng báo cáo (bao gồm cả FI) có thể thuê tổ chức khác hoặc thông qua bên thứ ba được quy định tại Điều 13, 14 để xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
|
|
Không có yêu cầu bắt buộc nào đối với FI, ngoại trừ các công ty chứng khoán, để xác định và xác minh thông tin những người đại diện cho khách hàng (c.10.4)
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1..
2. Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có):
...
e) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập hoặc mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế; số điện thoại liên lạc; số fax, trang thông tin điện tử (nếu có); lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại điểm a, b, c, d và đ Khoản này và các thông tin tại điểm này đối với trường hợp người thành lập là tổ chức.
Điều 12. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
|
Đáp ứng
Quy định xác minh thông tin nhận biết khách hàng đã bao gồm cả thông tin của người đại diện cho khách hàng cá nhân (nếu có)
|
|
Không có quy định cụ thể nào cho FI sử dụng thông tin hoặc dữ liệu liên quan thu được từ một nguồn đáng tin cậy khi xác minh danh tính của chủ sở hữu hưởng lợi (c.10.5).
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1...
2…
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
…
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
|
Đáp ứng
Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi được thu thập giống như thông tin thu thập đối với khách hàng. Đối tượng báo cáo thu thập thông tin theo quy định tại Điều 10 và xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 12. Theo đó, các giấy tờ, thông tin nhận dạng được quy định tại khoản 1, 2 Điều 12 đều là thông tin bắt buộc, trong đó có sử dụng thông tin từ nguồn độc lập, đáng tin cậy.
Nội dung “xác định chủ sở hữu hưởng lợi” sẽ được hướng dẫn tại Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT.
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để có được thông tin về bản chất dự kiến của mối quan hệ kinh doanh (c.10.6)
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
...
4. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để xem xét kỹ lưỡng các giao dịch được thực hiện trong suốt quá trình quan hệ kinh doanh hoặc trên cơ sở liên tục dựa trên hồ sơ khách hàng (c.10.7)
10.7.a: cập nhật thông tin thường xuyên
|
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu cụ thể nào đối với FI để cập nhật thông tin về khách hàng có “rủi ro cao” hoặc thực hiện việc xem xét các hồ sơ hiện có (c.10.7).
10.7.b: cập nhật thông tin với khách hàng có rủi ro cao
|
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1…
2. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
...
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b Khoản này, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
…
|
Đáp ứng
|
|
Ngoài các công ty bảo hiểm, không có yêu cầu bắt buộc nào đối với các FI khác để hiểu bản chất công việc kinh doanh của khách hàng (c.10.8)
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1…
2. Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có):
…
e) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập hoặc mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế; số điện thoại liên lạc; số fax, trang thông tin điện tử (nếu có); lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại các điểm a, b, c, d và đ Khoản này và các thông tin tại điểm này đối với trường hợp người thành lập là tổ chức.
3…
4. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
5…
|
Đáp ứng
|
|
Không yêu cầu FI phải hiểu bản chất công việc kinh doanh của khách hàng là pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý (c.10.8)
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1…
2. Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có)::
…
e) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập hoặc mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế; số điện thoại liên lạc; số fax, trang thông tin điện tử (nếu có); lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại các điểm a, b, c, d và đ Khoản này và các thông tin tại điểm này đối với trường hợp người thành lập là tổ chức.
3…
4. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
…
Điều 22. Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý
1…
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này và văn bản ủy thác khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng là bên nhận ủy thác.
…
|
Đáp ứng
|
|
Các biện pháp xác minh thông tin của pháp nhân không có hiệu lực thực thi đối với FI (c.10.9).
|
Điều 12. Biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
...
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu bắt buộc thực hiện các biện pháp hợp lý để xác minh danh tính của chủ sở hữu hưởng lợi (c.10.10)
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1. Thông tin nhận biết khách hàng bao gồm thông tin nhận dạng khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và mục đích, bản chất của mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng với đối tượng báo cáo.
2 Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có):
…
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi
...
Điều 12. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
|
Đáp ứng một phần
Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi được thu thập giống như thông tin thu thập đối với khách hàng. Đối tượng báo cáo thu thập thông tin theo quy định tại Điều 10 và xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 12.
Nội dung “xác định chủ sở hữu hưởng lợi” sẽ được hướng dẫn tại Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT.
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để xác định chủ sở hữu hưởng lợi kiểm soát pháp nhân bằng các phương thức khác, khi có nghi ngờ về quyền sở hữu được hưởng lợi hoặc khi không có thể nhân nào kiểm soát thông qua lợi ích sở hữu (c.10.10).
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1. Thông tin nhận biết khách hàng bao gồm thông tin nhận dạng khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và mục đích, bản chất của mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng với đối tượng báo cáo.
2. Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có):
…
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
…
Điều 12. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi Chính phủ ban hành Nghị định quy đinh chi tiết một số điều của Luật PCRT..
|
|
Thiếu sự rõ ràng trong các biện pháp xác định quyền sở hữu có lợi của pháp nhân trong mối quan hệ với “chủ doanh nghiệp tư nhân” và bất kỳ cá nhân nào khác thực sự chi phối và kiểm soát pháp nhân và thể nhân giữ chức vụ quan chức quản lý cấp cao (c10 .10).
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1. Thông tin nhận biết khách hàng bao gồm thông tin nhận dạng khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và mục đích, bản chất của mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng với đối tượng báo cáo.
2. Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có):
…
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
…
Điều 12. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật; qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi Chính phủ ban hành Nghị định quy đinh chi tiết một số điều của Luật PCRT..
|
|
Không có quy định rõ ràng về việc phải xác định người chuyển nhượng và người bảo hộ của ủy thác (c.10.11).
|
Điều 22. Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý
1. Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệm sau đây:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin nhận dạng về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác;
…
|
Đáp ứng
|
|
Thiếu sự bao quát toàn diện về các điều kiện để được áp dụng xác minh danh tính khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi sau, không làm gián đoạn hoạt động kinh doanh thông thường (c.10.14).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền bao gồm nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
…
5. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết Điều này.
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
Đáp ứng một phần
Khi Thông tư hướng dẫn của NHNN ban hành, nội dung thiếu hụt này sẽ được đáp ứng đầy đủ.
|
|
Không có điều khoản nào yêu cầu FI phải áp dụng các thủ tục quản lý rủi ro liên quan đến điều kiện mà khách hàng có thể sử dụng mối quan hệ kinh doanh trước khi xác minh (c.10.15).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền bao gồm nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
….
5. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết Điều này.
|
Đáp ứng một phần
Khi Thông tư hướng dẫn của NHNN ban hành, nội dung thiếu hụt này sẽ được đáp ứng đầy đủ.
|
|
Không có quy định cụ thể nào liên quan đến khách hàng hiện tại và không có nghĩa vụ đối với FI phải áp dụng các yêu cầu CDD đối với khách hàng hiện tại dựa trên tính trọng yếu và rủi ro và vào những thời điểm thích hợp (c.10.16).
|
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.
Điều 15. Đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.
…
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI để thực hiện các biện pháp nâng cao khi rủi ro TTKB cao hơn hoặc trong các trường hợp khác bất kể mức độ rủi ro của khách hàng là bao nhiêu (c.10.17).
|
Điều 63. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền
1…2. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền...”
Trong đó, Điều 16 dự thảo Luật đã có quy định về phân loại khách hàng. Như vậy với nội dung sửa đổi Điều 34 nêu trên, Điều 16 được áp dụng đối với vả hoạt động phòng, chống tài trợ khủng bố.
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu cụ thể nào đối với Việt Nam hoặc FI để tiến hành phân tích đầy đủ các rủi ro cho mục đích của KN.10 (c.10.18)
|
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
2. Đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b Khoản này, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết điểm a và điểm c khoản 2 Điều này.
|
Đáp ứng một phần
Khi Thông tư hướng dẫn của NHNN ban hành, nội dung thiếu hụt này sẽ được đáp ứng đầy đủ.
|
|
Không có điều khoản rõ ràng nào nói rằng các biện pháp đơn giản hóa không được chấp nhận khi có nghi ngờ về RT/TTKB hoặc áp dụng các tình huống rủi ro cao hơn cụ thể (c.10.18).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ ;
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
…
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn.
|
|
Không có nghĩa vụ đối với FI không được mở tài khoản, bắt đầu quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện giao dịch, hoặc chấm dứt quan hệ kinh doanh khi CDD không thể hoàn thành và Không có nghĩa vụ phải nộp báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR) trong các trường hợp được nêu ở trên (c.10.19).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
....
5. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết Điều này.
|
Đáp ứng
|
|
Không có điều khoản rõ ràng nào cho phép các FI không theo đuổi quy trình CDD khi có nghi ngờ về RT hoặc TTKB và có nguy cơ quy trình CDD sẽ làm tiết lộ thông tin khách hàng (c.10.20).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
....
5. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết Điều này.
|
Đáp ứng một phần
Khi Thông tư hướng dẫn của NHNN ban hành, nội dung thiếu hụt này sẽ được đáp ứng đầy đủ.
|
6
|
KN 11. Lưu giữ Hồ sơ (PC)
|
|
Không rõ liệu việc hoàn thành giao dịch và liệu tất cả các hồ sơ và tài liệu cần thiết của các giao dịch quốc tế có được tính đến trong yêu cầu lưu giữ hồ sơ giao dịch của khách hàng hay không (c.11.1)
|
Điều 38. Lưu trữ hồ sơ, thông tin, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ, thông tin, báo cáo sau đây:
a) Hồ sơ, thông tin nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
b) Kết quả phân tích, đánh giá của đối tượng báo cáo đối với khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
c) Các hồ sơ, thông tin khác liên quan đến khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
d) Báo cáo giao dịch theo quy định tại các điều 25, 26 và 34 của Luật này và các hồ sơ, thông tin kèm theo giao dịch báo cáo.
2. Thời hạn lưu trữ quy định như sau:
a) 05 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo đối với các thông tin, hồ sơ quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
b) 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với các báo cáo quy định tại điểm d khoản 1 Điều này.
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu cụ thể nào về việc lưu giữ tất cả thông tin CDD, tất cả kết quả của bất kỳ phân tích nào đã thực hiện và các thư tín kinh doanh (c.11.2)
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu cụ thể về hình thức duy trì hồ sơ giao dịch và thông tin liên quan khác đủ để cho phép xây dựng lại các giao dịch riêng lẻ nhằm cung cấp bằng chứng cho việc truy tố tội phạm nếu cần thiết (c.11.3)
|
|
Dự thảo Luật PCRT không có quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, theo quy định của Luật PCRT, đối tượng báo cáo, NHNN có trách nhiệm thu thập, phân tích, chuyển giao thông tin về RT/TTKB cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có cơ quan tiến hành tố tụng. Để có bằng chứng cho việc truy tố tội phạm (nếu cần thiết), các cơ quan tiến hành tố tụng cần có hình thức phù hợp để duy trì hồ sơ giao dịch và thông tin liên quan.
|
|
Thiếu sự rõ ràng về FIs để đảm bảo rằng tất cả thông tin CDD và hồ sơ giao dịch được cung cấp nhanh chóng cho các cơ quan có thẩm quyền (c.11.4).
|
Điều 39. Trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, thông tin, báo cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ.
…
|
Đáp ứng
|
7
|
KN 12. Cá nhân có Ảnh hưởng Chính trị (NC)
|
|
Thiếu sự bao quát toàn diện về cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP) nước ngoài và các nghĩa vụ cho các đối tượng này (c.12.1).
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
1. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức của nước ngoài và tổ chức quốc tế.
Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo.
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu sau:
a) Có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị; người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao theo quy định nội bộ trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
3. Đối tượng báo cáo phải thực hiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Đồng sở hữu với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý;
c) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý do cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này sở hữu.
|
Đáp ứng
|
|
Không yêu cầu đối tượng báo cáo (RE) phải được sự chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập (hoặc tiếp tục, đối với khách hàng hiện tại) các mối quan hệ kinh doanh với các PEP nước ngoài (c.12.1).
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
1…
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu sau:
a)…
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao theo quy định nội bộ trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
…
|
Đáp ứng
|
|
Không yêu cầu các RE xác định nguồn gốc tài sản của khách hàng khi chủ sở hữu hưởng lợi là PEP nước ngoài (c.12.1).
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
1...
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu sau:
...
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu đối với RE để tiến hành giám sát nâng cao liên tục (c.12.1).
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
1...
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu sau:
...
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
…
|
Đáp ứng
|
|
RE không có nghĩa vụ phải thực hiện các yêu cầu cụ thể đối với các PEP trong nước và các cá nhân được tổ chức quốc tế tin tưởng giao cho một chức năng công vụ nổi bật (c.12.2)
|
|
Không đáp ứng
Dự thảo Luật PCRT chưa có quy định PEP trong nước
|
|
Không có nghĩa vụ để áp dụng các biện pháp kiểm soát đối với các cộng sự thân thiết của tất cả các loại PEP (c.12.3)
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
1...
2…
3. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Đồng sở hữu với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý;
c) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý do cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này sở hữu.
|
Đáp ứng một phần đối với các tổ chức, cá nhân liên quan đến PEP nước ngoài.
|
8
|
KN 13. Quan hệ ngân hàng đại lý (PC)
|
|
Không có yêu cầu trực tiếp đối với FI xác định chất lượng của hoạt động giám sát đó, bao gồm cả việc liệu ngân hàng đại lý đó có đang bị điều tra về RT/TTKB hoặc vướng vào vấn đề pháp lý nào không (c.13.1a)
|
Điều 18. Quan hệ ngân hàng đại lý
1. Đối tượng báo cáo là ngân hàng khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải thực hiện các nội dung sau:
a) Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hoặc các vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền;
b) Đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác;
c) Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý.
...
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng đối với FI về việc phải hiểu rõ ràng các trách nhiệm PCRT/TTKB tương ứng của mỗi tổ chức (c.13.1d)
|
Điều 18. Quan hệ ngân hàng đại lý
1. Đối tượng báo cáo là ngân hàng khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải thực hiện các nội dung sau:
a)…
b)…
c) Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu nào đối với các FI phải đảm bảo được rằng các ngân hàng đối tác không cho phép tài khoản của họ được sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc (c.13.3)
|
Điều 18. Quan hệ ngân hàng đại lý
1...
…
2. Trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo; tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
…
|
Đáp ứng
|
9
|
KN 14. Dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị (MVTS) (PC)
|
|
Không có thông tin nào được cung cấp về các hành động cụ thể được thực hiện đối với các MVTS bất hợp pháp và các biện pháp xử phạt đối với hành vi cung cấp dịch vụ trái phép là chưa tương xứng và chưa đủ sức răn đe vì các khoản phạt có thể được áp dụng là rất thấp bao gồm cả đối với thể nhân (c.14.2).
|
Điều 8. Các hành vi bị cấm
1...
2…
3…
4. Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng.
|
Đáp ứng đối với các MVTS bất hợp pháp
Vấn đề xử phạt (hình thức xử phạt, mức độ xử phạt…) được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành.
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng đối với MVTS để bao gồm các đại lý của họ trong các chương trình tuân thủ PCRT/TTKB (c.14.5).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1...
2...
3. Nội dung quy định nội bộ quy định phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo.
…
|
Đáp ứng
|
10
|
KN 15. Công nghệ mới (NC)
|
|
Không có đánh giá rủi ro RT/TTKB có thể phát sinh liên quan đến việc phát triển các sản phẩm mới và phương thức kinh doanh mới của Việt Nam và đánh giá rủi ro RT / TTKB của FI chỉ bao gồm các giao dịch không gặp mặt trực tiếp (c.15.1).
|
Điều 19. Trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
2. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
|
Đáp ứng
|
|
Không rõ liệu các FI có được yêu cầu thực hiện đánh giá rủi ro trước khi đưa ra hoặc sử dụng các sản phẩm, công nghệ đó hay không và giới hạn về phạm vi áp dụng của các loại công nghệ mới (c.15.2)
|
Điều 19. Trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
2. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
|
Đáp ứng
|
|
Các bước còn hạn chế trong việc đánh giá rủi ro RT/TTKB phát sinh từ VA / VASP và không có đánh giá cụ thể về rủi ro RT / TTKB phát sinh từ hoạt động VA/VASP và các hoạt động hoặc vận hành của VASP (c.15.3).
|
Điều 7. Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền
1. Định kỳ 05 năm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá. Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.
…
|
Đáp ứng
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định về VA/VASP. Tuy nhiên, dự thảo Luật có quy định “Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền”.
|
|
Các quy định cấm có giới hạn đối với các VA và không có nghĩa vụ đối với các VASP phải thực hiện các bước thích hợp để xác định, đánh giá và giảm thiểu rủi ro RT/TTKB của họ (c.15.3).
|
Điều 4. Đối tượng báo cáo
1…
2…
3. Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo ngoài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Điều 15. Đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.
2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và bộ, ngành quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực của đối tượng báo cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro được ban hành hoặc phê duyệt. Đối tượng báo cáo phải phổ biến kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
2. Đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b Khoản này, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết điểm a và điểm c khoản 2 Điều này.
|
Đáp ứng
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định về VA/VASP. Trong trường hợp VASP trở thành đối tượng báo cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 4 thì phải thực hiện theo quy định tại các Điều 15, 16 của dự thảo Luật.
|
|
Không có biện pháp hoặc yêu cầu nào về việc cấp phép hoặc đăng ký VASP, và ngăn chặn tội phạm hoặc cộng sự của chúng nắm giữ, hoặc là chủ sở hữu thực sự, hoặc kiểm soát, hoặc nắm giữ vị trí quản lý trong VASP (c.15.4).
|
|
Luật PCRT không quy định về việc cấp phép thành lập đối với các hoạt động VA/VASP. Việc cấp phép thành lập đối với VASP được quy định bởi luật chuyên ngành.…Tuy nhiên,Hành động số I.9 về Các hành động để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Kèm theo Quyết định 941) giao các bộ, ngành theo phân công của Thủ tướng Chính phủ: “Nghiên cứu đối với lĩnh vực tài sản ảo để ngăn chặn hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”
Trách nhiệm hoàn thiện khung pháp lý về tài sản ảo được giao cho Bộ Tài chính theo Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo; Công văn số 11633/VPCP-KTTH ngày 29/11/2018, Công văn số 9721/VPCP-KTTH, Công văn số 1798/VPCP ngày 23/3/2022 của Văn phòng Chính phủ; Báo cáo số 74/BC-BTP ngày 12/4/2022 và Công văn số 2743/VPCP-PL ngày 29/4/2022 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ về kết quả nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện pháp luật của Bộ Tư pháp.
Hiện nay, Bộ Tài chính đang trình Thủ tướng Chính phủ (Tờ trình 34/TTr-BTC ngày 28/2/2022) giao: (i) BTP chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành để nghiên cứu, rà soát các quy định của pháp luật dân sự liên quan đên tài sàn ào (tài sản mã hóa) thông qua việc sửa đổi các quy định của Bộ luật dân sự 2015 và các vãn bản hướng dân; (ii) Trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến tài sản ảo, các Bộ ngành sẽ đề xuất xây dựng các quy định điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội khác liên quan đến tài sản ảo (NHNN: Nghiên cứu, đánh giá tác động và đề xuất liên quan đến tiền mã hóa (tiền ảo); Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất vê vệc huy động vốn thông qua phát hành tài sàn mã hóa và sàn giao dịch tài sản mã hóa là chứng khoán)
|
|
Không có hành động nào để thực thi lệnh cấm một phần hoặc xác định thể nhân hoặc pháp nhân thực hiện các hoạt động VASP mà không có giấy phép hoặc đăng ký cần thiết, và áp dụng các biện pháp trừng phạt thích hợp (c.15.5)
|
|
Luật PCRT không quy định về việc cấp phép thành lập đối với các hoạt động VA/VASP. Việc cấp phép thành lập đối với VASP được quy định bởi luật chuyên ngành.Tuy nhiên,Hành động số I.9 về Các hành động để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Kèm theo Quyết định 941) giao các bộ, ngành theo phân công của Thủ tướng Chính phủ: “Nghiên cứu đối với lĩnh vực tài sản ảo để ngăn chặn hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”
Trách nhiệm hoàn thiện khung pháp lý về tài sản ảo được giao cho Bộ Tài chính theo Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo; Công văn số 11633/VPCP-KTTH ngày 29/11/2018, Công văn số 9721/VPCP-KTTH, Công văn số 1798/VPCP ngày 23/3/2022 của Văn phòng Chính phủ; Báo cáo số 74/BC-BTP ngày 12/4/2022 và Công văn số 2743/VPCP-PL ngày 29/4/2022 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ về kết quả nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện pháp luật của Bộ Tư pháp.
Hiện nay, Bộ Tài chính đang trình Thủ tướng Chính phủ (Tờ trình 34/TTr-BTC ngày 28/2/2022) giao: (i) BTP chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành để nghiên cứu, rà soát các quy định của pháp luật dân sự liên quan đên tài sàn ào (tài sản mã hóa) thông qua việc sửa đổi các quy định của Bộ luật dân sự 2015 và các vãn bản hướng dân; (ii) Trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến tài sản ảo, các Bộ ngành sẽ đề xuất xây dựng các quy định điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội khác liên quan đến tài sản ảo (NHNN: Nghiên cứu, đánh giá tác động và đề xuất liên quan đến tiền mã hóa (tiền ảo); Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất vê vệc huy động vốn thông qua phát hành tài sàn mã hóa và sàn giao dịch tài sản mã hóa là chứng khoán)
|
|
Không có biện pháp hoặc yêu cầu nào liên quan đến việc giám sát VASP (c.15.6).
|
|
Việc giám sát đối với VASP được quy định bởi luật chuyên ngành và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý thực hiện theo quy định của pháp luật khi có quy định. Tuy nhiên, nội dung hành động này được quy định tại mục VII.1 Hiệu quả trực tiếp số 3 mục E Quy định và giám sát PCRT/TTKB của Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 được ban hành kèm theo Quyết định 941.
|
|
Không áp dụng các biện pháp xử phạt hoặc yêu cầu đối với VASP liên quan đến các yêu cầu tại KN 10 - 21 (c.15.7-c.15.9).
|
|
Việc xử phạt đối với hành vi vi phạm của VASP do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật khi có quy định. Tuy nhiên, hành động số I.9 về Các hành động để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Kèm theo Quyết định 941) giao các bộ, ngành theo phân công của Thủ tướng Chính phủ: “Nghiên cứu đối với lĩnh vực tài sản ảo để ngăn chăn hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”
Trách nhiệm hoàn thiện khung pháp lý về tài sản ảo được giao cho Bộ Tài chính theo Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo; Công văn số 11633/VPCP-KTTH ngày 29/11/2018, Công văn số 9721/VPCP-KTTH, Công văn số 1798/VPCP ngày 23/3/2022 của Văn phòng Chính phủ; Báo cáo số 74/BC-BTP ngày 12/4/2022 và Công văn số 2743/VPCP-PL ngày 29/4/2022 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ về kết quả nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện pháp luật của Bộ Tư pháp.
Hiện nay, Bộ Tài chính đang trình Thủ tướng Chính phủ (Tờ trình 34/TTr-BTC ngày 28/2/2022) giao: (i) BTP chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành để nghiên cứu, rà soát các quy định của pháp luật dân sự liên quan đên tài sàn ào (tài sản mã hóa) thông qua việc sửa đổi các quy định của Bộ luật dân sự 2015 và các vãn bản hướng dân; (ii) Trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến tài sản ảo, các Bộ ngành sẽ đề xuất xây dựng các quy định điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội khác liên quan đến tài sản ảo (NHNN: Nghiên cứu, đánh giá tác động và đề xuất liên quan đến tiền mã hóa (tiền ảo); Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất về việc huy động vốn thông qua phát hành tài sàn mã hóa và sàn giao dịch tài sản mã hóa là chứng khoán)
|
|
Các khiếm khuyết liên quan đến TFS được áp dụng và không rõ liệu nghĩa vụ giám sát danh sách đen của Bộ Công an có áp dụng cho VASP (c15.10) hay không.
|
|
Dự thảo Luật PCRT không điều chỉnh nội dung này.
Việc áp dụng nghĩa vụ giám sát TFS theo danh sách đen của Bộ Công an đối với VASP chỉ có thể thực hiện khi có quy định pháp luật về cấp phép thành lập VA/VASP.
(tương tự như trên)
|
|
Không áp dụng các biện pháp hoặc yêu cầu đối với VASP liên quan đến nghĩa vụ báo cáo (c15.10)
|
|
Dự thảo Luật PCRT không điều chỉnh nội dung này.
Việc áp dụng nghĩa vụ báo cáo TFS đối với VASP chỉ có thể thực hiện khi có quy định pháp luật về cấp phép thành lập VA/VASP.
(tương tự như trên)
|
|
Không có cơ sở pháp lý để các giám sát viên trao đổi thông tin với các đối tác nước ngoài về VASP (c15.11).
|
|
Dự thảo Luật PCRT không điều chỉnh nội dung này.
Cơ sở pháp lý để các giám sát viên trao đổi thông tin với các đối tác nước ngoài về VASP chỉ có thể thực hiện khi có quy định pháp luật về cấp phép thành lập VA/VASP.
(tương tự như trên)
|
11
|
KN 16. Chuyển tiền điện tử
|
|
Không có quy định về việc phải có thông tin chính xác và bắt buộc về người khởi tạo đi kèm giao dịch chuyển tiền điện tử xuyên biên giới từ 1000 USD/EUR trở lên, bao gồm thông tin người khởi tạo và người thụ hưởng được yêu cầu và chính xác đi kèm với chuyển tiền điện tử xuyên biên giới (c.16.1).
|
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Namkhi thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ sau khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện.
|
|
Không có yêu cầu cụ thể cho chuyển tiền điện tử theo lô xuyên biên giới (c.16.2)
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ sau khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện.
|
|
Không có yêu cầu cụ thể cho chuyển tiền điện tử xuyên biên giới với giá trị dưới 1.000 USD (c.16.3)
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ sau khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện.
|
|
Không yêu cầu xác minh đối với chuyển tiền xuyên biên giới dưới 1000 USD khi có nghi ngờ về RT / TTKB (c.16.4)
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ sau khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện.
|
|
Không rõ liệu tất cả các thông tin về người khởi tạo và người thụ hưởng thu thập được có phải được duy trì bởi tổ chức đặt lệnh hay không. Hơn nữa, các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán khác (bao gồm các tổ chức thanh toán, các tổ chức chuyển tiền và chuyển đổi ngoại tệ, v.v.), những người có thể thực hiện chuyển khoản ngân hàng cũng không thuộc đối tượng duy trì các thông tin này (c.16.7)
|
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Namkhi thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
Điều 38. Lưu trữ hồ sơ, thông tin, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ, thông tin, báo cáo sau đây:
a) Hồ sơ, thông tin nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
b) Kết quả phân tích, đánh giá của đối tượng báo cáo đối với khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
c) Các hồ sơ, thông tin khác liên quan đến khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
d) Báo cáo giao dịch theo quy định tại các điều 25, 26 và 34 của Luật này và các hồ sơ, thông tin kèm theo giao dịch báo cáo.
2. Thời hạn lưu trữ quy định như sau:
a) 05 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo đối với các thông tin, hồ sơ quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
b) 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với các báo cáo quy định tại điểm d khoản 1 Điều này.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ sau khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện.
|
|
Không có điều khoản nào quy định rằng FI đặt lệnh không được phép thực hiện chuyển khoản nếu không tuân thủ các yêu cầu tại tiêu chí 16.1 đến 16.7 (c.16.8).
|
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1…
2…
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng đối với các tổ chức trung gian để đảm bảo tất cả thông tin người khởi tạo và người thụ hưởng đi kèm với chuyển khoản xuyên biên giới được lưu giữ (c.16.9).
|
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1...
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
…
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ, thông tin, báo cáo sau đây:
…
c. Báo cáo giao dịch theo quy định tại điều 25, 26 và 34 của Luật này và các hồ sơ, thông tin kèm theo giao dịch báo cáo ít nhất 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch.
…
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn.
|
|
Không có điều khoản rõ ràng nào bao gồm các trường hợp mà các giới hạn kỹ thuật khiến các thông tin yêu cầu không đi kèm giao dịch chuyển tiền điện tử đó (c.16.10).
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn.
|
|
Không có quy định cụ thể nào để các tổ chức trung gian thực hiện các biện pháp hợp lý phù hợp với quy trình xử lý điện tử (straight-through processing) để xác định các giao dịch chuyển tiền điện tử qua biên giới thiếu thông tin người khởi tạo hoặc thông tin người thụ hưởng (c.16.11).
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn.
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng liên quan đến hành động tiếp theo của các FI trung gian sau khi từ chối hoặc trì hoãn giao dịch hoặc áp dụng các biện pháp giám sát sau giao dịch (c.16.12).
|
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1…
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ sau khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện.
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng nào liên quan đến hành động tiếp theo của các FI thụ hưởng sau khi từ chối hoặc trì hoãn giao dịch hoặc áp dụng các biện pháp giám sát sau giao dịch trong trường hợp giao dịch thiếu thông tin về chuyển tiền và người thụ hưởng (c.16.15).
|
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1…
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
Đáp ứng
|
|
Không rõ liệu các đại lý cung cấp dịch vụ chuyển tiền ngoại tệ có được yêu cầu tuân thủ KN.16 hay không khi họ cung cấp các giao dịch chuyển tiền hoặc giá trị (c.16.16).
|
|
Việc cung cấp dịch vụ chuyển tiền điện tử chỉ được thực hiện bởi các tổ chức tài chính bao gồm: ngân hàng, các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán. Các đại lý chuyển tiền ngoại tệ không được thực hiện dịch vụ chuyển tiền điện tử.
|
|
Không có yêu cầu cụ thể nào đối với dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị (MVTS) kiểm soát cả bên đặt lệnh và bên thụ hưởng của của một giao dịch chuyển tiền điện tử, để xem liệu có phải lập một báo cáo STR không cũng như có phải tạo STR ở bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi giao dịch chuyển tiền điện tử đáng ngờ hoặc cung cấp thông tin giao dịch có liên quan cho Đơn vị tình báo tài chính (FIU) (c.16.17).
|
1…
2. Tổ chức tài chính phải nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Khách hàng lần đầu mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với tổ chức tài chính;
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định; hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo hoặc mã giao dịch trong trường hợp người khởi tạo không có tài khoản;
…
1. Đối tượng báo cáo là ngân hàng khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải thực hiện các nội dung sau:
a) Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hoặc các vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền;
b) Đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác;
c) Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý.
2. Trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo; tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
Điều 26. Báo cáo giao dịch đáng ngờ
1. …
2. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch liên quan đến rửa tiền được xác định từ việc xem xét, thu thập và phân tích thông tin khi khách hàng, giao dịch có một hoặc nhiều dấu hiệu đáng ngờ theo quy định tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này và từ các dấu hiệu đáng ngờ khác do đối tượng báo cáo xác định.
…
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Namkhi thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
Đáp ứng một phần
Theo quy định tại dự thảo Luật, tổ chức tài chính phải thu thập thông tin về người khởi tạo, người thụ hưởng, bao gồm cả trong và ngoài nước. Do đó, đều có thể kiểm soát được các giao dịch chuyển tiền và giá trị cả bên đặt lệnh và bên thụ hưởng cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, việc báo cáo giao dịch đáng ngờ chỉ áp dụng đối với đối tượng báo cáo trong nước.
|
12
|
KN 17. Dựa vào bên thứ ba (PC)
|
|
Các thiếu sót về CDD và lưu trữ hồ sơ được áp dụng và không có yêu cầu đối với FI để lấy ngay thông tin CDD cần thiết từ các bên thứ ba (c.17.1).
|
Điều 14. Nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba
1. Đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Là tổ chức tài chính hoặc tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có thiết lập quan hệ với khách hàng, không bao gồm các mối quan hệ đại lý và thuê ngoài;
b) Thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại các điều 9, 10, 11 và 12 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức ở nước ngoài;
c) Thu thập, lưu trữ và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo khi được yêu cầu; thực hiện bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật;
d) Là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không yêu cầu các tập đoàn tài chính thực hiện các chương trình toàn tập đoàn để PCRT/TTKB và các thiếu hụt liên quan đến CDD, lưu trữ hồ sơ và những cá nhân có ảnh hưởng chính trị được áp dụng (c.17.3).
|
1. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức của nước ngoài và tổ chức quốc tế.
Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo.
…
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1...
2..
3. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo.
4. Hằng năm, đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
…
|
Đáp ứng
|
13
|
KN 18. Kiểm soát nội bộ, chi nhánh nước ngoài và công ty con (PC)
|
|
Không có điều khoản cụ thể nào bao gồm các thủ tục sàng lọc để đảm bảo các tiêu chuẩn cao khi tuyển dụng nhân viên (c.18.1).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền bao gồm nội dung chính sau đây:
...
i) Tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;
k) Kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
…
|
Đáp ứng
|
|
Các tập đoàn tài chính không có nghĩa vụ phải thực hiện các chương trình toàn tập đoàn, bao gồm các cơ chế chia sẻ thông tin theo tiêu chí 18.1 và 18.2 (a) - (c) (c.18.2).
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1...
2...
3. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo.
…
|
Đáp ứng một phần
|
|
Không có yêu cầu cụ thể nào đối với FI để đảm bảo các chi nhánh nước ngoài và các công ty con do họ sở hữu đa số áp dụng các biện pháp PCRT / TTKB phù hợp với các yêu cầu của nước sở tại và không yêu cầu các tập đoàn tài chính áp dụng các biện pháp bổ sung thích hợp để quản lý rủi ro RT / TTKB và thông báo cho cơ quan giám sát ở quốc gia mẹ trong tình huống nước sở tại không cho phép thực hiện các biện pháp PCRT/TTKB thích hợp theo yêu cầu của quốc gia mẹ (c.18.3).
|
|
Chi nhánh, công ty con của FI hoạt động ở nước ngoài phải tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bao gồm các quy định về PCRT. Pháp luật Việt Nam nói chung và Luật PCRT nói riêng không thể quy định việc thực hiện hoặc không thực hiện quy định pháp luật của nước sở tại.
|
14
|
KN 19. Các quốc gia có rủi ro cao (PC)
|
|
Phạm vi của các biện pháp thẩm định nâng cao sẽ được áp dụng bởi FI đối với các thể nhân và pháp nhân từ các quốc gia được FATF kêu gọi nhưng chỉ bao gồm các “giao dịch”, không bao gồm các mối quan hệ kinh doanh (c.19.1).
|
1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đối với các giao dịch đặc biệt sau:
a) Giao dịch có giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp theo quy định của Chính phủ;
b) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.
2. Để giám sát giao dịch đặc biệt, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
|
Đáp ứng một phần
|
|
Không có quy định cụ thể nào để Việt Nam áp dụng các biện pháp đối phó tương xứng đối với các nước có rủi ro cao hơn (c.19.2).
|
Điều 20. Giám sát một số giao dịch đặc biệt
1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đối với các giao dịch đặc biệt sau:
a) …
b) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.
2. Để giám sát giao dịch đặc biệt, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền bao gồm nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
c) Chính sách, quy trình quản lý rủi ro trong đó có các quy định tại khoản 1 Điều 16, khoản 1 Điều 19 và khoản 3 Điều 34 Luật này;
d) Quy trình báo cáo các giao dịch phải báo cáo;
đ) Quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ phải báo cáo;
…
g) Áp dụng biện pháp tạm thời, nguyên tắc xử lý trong các trường hợp trì hoãn thực hiện giao dịch;
…
k) Kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
2...
3. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo.
4. Hằng năm, đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có biện pháp cụ thể nào để đảm bảo FI được tư vấn về những lo ngại về điểm yếu trong hệ thống PCRT/TTKB của các quốc gia khác trên cơ sở đang thực hiện (c.19.3).
|
Điều 3. Giải thích từ ngữ
….
10. Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố, tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập và danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt do Bộ Quốc phòng chủ trì lập theo quy định của pháp luật.
11. Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền.
….
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
…
8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền, truyền thông về chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống rửa tiền, triển khai công tác đào tạo về phòng, chống rửa tiền.
…
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Công an
…
3. Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
…
Điều 58. Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông
…
4. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc tuyên truyền, phổ biến, truyền thông về chủ trương, chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
Đáp ứng một phần
|
15
|
KN 20. Báo cáo giao dịch đáng ngờ (PC)
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng để báo cáo các STR liên quan đến TTKB cho Cục PCRT (c.20.1).
|
Điều 3. Giải thích từ ngữ
…
7. Khách hàng là tổ chức, cá nhân đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính cung cấp.
…
Điều 63. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền
1. ...
2. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền.
2. Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
…
|
Đáp ứng
|
|
Yêu cầu báo cáo về các giao dịch có ý định thực hiện không áp dụng cho các giao dịch liên quan đến TTKB (c.20.2).
|
Đáp ứng
|
16
|
KN 21. Rò rỉ thông tin và bảo mật (PC)
|
|
Không có quy định cụ thể nào để bảo vệ FI, giám đốc, cán bộ và nhân viên của họ khỏi trách nhiệm hành chính, dân sự hoặc hình sự nếu họ thực hiện báo cáo STR (c.21.1).
|
Điều 39. Trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin, báo cáo
1...
2. Đối tượng báo cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ báo cáo hoặc cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật này không bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin.
|
Đáp ứng
|
|
Không có quy định rõ ràng cấm các giám đốc, cán bộ và nhân viên của các FI tiết lộ về các STR hoặc các thông tin liên quan đã được báo cáo cho FIU (c.21.2).
|
1...
2. Đối tượng báo cáo bao gồm cả người quản lý, người lao động không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan đến giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Đáp ứng
|
17
|
KN 22. Các tổ chức và ngành nghề phi tài chính được chỉ định (DNFBP): Theo dõi cập nhật thông tin khách hàng (PC)
|
|
Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ CDD, tuy nhiên, các thiếu hụt được chỉ ra trong KN.10 cũng áp dụng cho DNFBP (c.22.1).
|
Theo quy định tại Điều 4, đối tượng báo cáo bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan (DNFBP).
Điều 9. Nhận biết khách hàng
1...
2...
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính phải nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi cung cấp dịch vụ kinh doanh bất động sản cho khách hàng;
c) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khikhách hàng có giao dịch mua, bán kim loại quý, đá quý bằng tiền mặt có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
d) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm d khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lý tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; điều hành, quản lý công ty; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh;
đ) Tổ chức cung cấp dịch vụ quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi cung ứng các dịch vụ thành lập công ty; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký công ty cho bên thứ ba; cung cấp thỏa thuận pháp lý.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
Đáp ứng
|
|
Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ, tuy nhiên, các thiếu hụt quy định trong KN.11 cũng áp dụng cho các DNFBP (c.22.2)
|
Theo quy định tại Điều 4, đối tượng báo cáo bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan (DNFBP).
Điều 38. Lưu trữ hồ sơ, thông tin, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ, thông tin, báo cáo sau đây:
a) Hồ sơ, thông tin nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
b) Kết quả phân tích, đánh giá của đối tượng báo cáo đối với khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
c) Các hồ sơ, thông tin khác liên quan đến khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
d) Báo cáo giao dịch theo quy định tại các điều 25, 26 và 34 của Luật này và các hồ sơ, thông tin kèm theo giao dịch báo cáo.
2. Thời hạn lưu trữ quy định như sau:
a) 05 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo đối với các thông tin, hồ sơ quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
b) 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với các báo cáo quy định tại điểm d khoản 1 Điều này.
|
Đáp ứng
|
|
Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ PEP hạn chế và các thiếu hụt quy định trong KN.12 áp dụng cho các DNFBP (c.22.3)
|
Theo quy định tại Điều 4, đối tượng báo cáo bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan (DNFBP).
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
1...
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu sau:
a) Có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị; người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao theo quy định nội bộ trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
3. Đối tượng báo cáo phải thực hiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Đồng sở hữu với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý;
c) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý do cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này sở hữu.
|
Đáp ứng một phần đối với cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
|
|
Tất cả các DNFBP có liên quan đều phải tuân theo các nghĩa vụ công nghệ mới, tuy nhiên các thiếu hụt quy định trong KN15 cũng áp dụng cho các DNFBP (c.22.4)
|
Theo quy định tại Điều 4, đối tượng báo cáo bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính theo quy định của pháp luật (DNFBP).
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
2. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
|
Đáp ứng
|
|
Tất cả các DNFBP có liên quan đều có thể dựa vào các bên thứ ba trung gian để thực hiện CDD, tuy nhiên, các thiếu hụt nêu trong KN.17 cũng áp dụng cho các DNFBP (c.22.5)
|
Theo quy định tại Điều 4, đối tượng báo cáo bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính theo quy định của pháp luật (DNFBP).
Điều 14. Nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba
1. Đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Là tổ chức tài chính hoặc tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có thiết lập quan hệ với khách hàng, không bao gồm các mối quan hệ đại lý và thuê ngoài;
b) Thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại các điều 9, 10, 11 và 12 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức ở nước ngoài;
c) Thu thập, lưu trữ và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo khi được yêu cầu; thực hiện bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật;
d) Là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
2. Trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và có công ty mẹ là tổ chức tài chính, ngoài yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều này, đối tượng báo cáo phải bảo đảm công ty mẹ của bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, về khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, lưu trữ hồ sơ, thông tin giao dịch và bảo mật thông tin tài liệu báo cáo quy định tại các điều 9, 10, 11, 12, 17, 38 và 40 của Luật này hoặc các khuyến nghị liên quan của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp công ty mẹ của tổ chức tài chính là tổ chức nước ngoài;
b) Việc áp dụng các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng và lưu trữ hồ sơ, thông tin giao dịch phải được kiểm soát trong toàn hệ thống;
c) Áp dụng các chính sách để giảm thiểu rủi ro đối với các lĩnh vực có rủi ro cao về rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng của bên thứ ba.
|
Đáp ứng
|
18
|
KN 23. DNFBPs: Các biện pháp khác (PC)
|
|
Các thiếu hụt liên quan đến KN.18, 19, 20 và 21 cũng áp dụng tương tự cho DNFBP.
|
Theo quy định tại Điều 4, đối tượng báo cáo bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan (DNFBP).
KN 18: Kiểm soát nội bộ và các chi nhánh, công ty con ở nước ngoài
KN 19: Các quốc gia có rủi ro cao
KN 20: Báo cáo giao dịch đáng ngờ
KN 21: Tiết lộ thông tin và tính bảo mật
Quy định tại khoản 3 Điều 24 dự thảo Luật PCRT thực hiện KN 18;
Quy định tại điểm b khoản 1 Điều 20 dự thảo Luật PCRT thực hiện KN 19;
Quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 26 dự thảo Luật PCRT thực hiện KN 20;
Quy định tại Điều 40 dự thảo Luật PCRT thực hiện KN 21.
|
Đáp ứng
|
19
|
KN 24. Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân (PC)
|
|
Thông tin liên quan đến việc thành lập và các loại pháp nhân phi thương mại chỉ được công bố công khai trong văn bản quản lý/cấp phép của họ (c.24.1).
|
1. Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý; danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân (nếu có); các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
|
Đáp ứng một phần
Thông tin liên quan đến việc thành lập pháp nhân, công khai thông tin của pháp nhân sẽ được điều chỉnh tại các quy định pháp luật chuyên ngành về doanh nghiệp, về các pháp nhân phi thương mại (bao gồm quỹ, hội, tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ nước ngoài...), không thuộc phạm vi điều chỉnh tại Luật PCRT. Do đó, để đáp ứng tiêu chí này, cần sửa các quy định tại các luật chuyên ngành nêu trên.
Tiêu chí này sẽ được đáp ứng khi thực hiện nội dung các hành động tại Phần I (Khuyến nghị số 24, 25) và hành động II.1 (Hiệu quả trực tiếp số 5) Mục G về tính minh bạch của pháp nhân và thỏa thuận pháp lý của Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 và hành động VII.3 của Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
|
Thiếu sót trong việc đánh giá rủi ro của các loại pháp nhân khác nhau, bao gồm thiếu hụt với một số pháp nhân phi lợi nhuận (c.24.2).
|
Điều 7. Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền
1. Định kỳ 05 năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá. Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.
2. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm:
a) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định;
b) Thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền, kế hoạch thực hiện sau cập nhật.
3. Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
|
Đáp ứng
|
|
Thông tin cơ bản được công bố công khai không bao hàm đầy đủ thẩm quyền điều hành cơ bản vì điều lệ của công ty không được công bố rộng rãi (c.24.3).
|
Điều 21. Minh bạch thông tin của pháp nhân
1. Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý; danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân (nếu có); các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
|
Đáp ứng một phần
Để thực hiện đầy đủ khuyến nghị này cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp trong đó quy định việc công bố công khai điều lệ công ty.
|
|
Thiếu hụt quy định để đảm bảo rằng công ty đó có được thông tin về quyền sở hữu có lợi của một công ty và có sẵn tại một địa điểm cụ thể ở quốc gia của họ; hoặc có thể được xác định một cách kịp thời bởi cơ quan có thẩm quyền (c.24.4).
|
Điều 21. Minh bạch thông tin của pháp nhân
1…
2. Pháp nhân có trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm cả danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ; chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân.
|
Đáp ứng
Mặc dù dự thảo Luật PCRT đã quy định trách nhiệm của pháp nhân trong việc thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân nhưng để đảm bảo tính khả thi của tiêu chí này thì Luật Doanh nghiệp và các pháp luật chuyên ngành cần phải sửa đổi, bổ sung quy định liên quan tiêu chí này.
|
|
Không có nghĩa vụ phải cập nhật thông tin liên quan đến thẩm quyền điều hành cơ bản (c.24.5)
|
Điều 21. Minh bạch thông tin của pháp nhân
1. Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý; danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân (nếu có); các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu rõ ràng về việc các RE phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi kiểm soát pháp nhân bằng các biện pháp khác khi có nghi ngờ về quyền sở hữu hưởng lợi hoặc khi không có thể nhân nào kiểm soát quyền lợi sở hữu (c.24.6).
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1. Thông tin nhận biết khách hàng bao gồm thông tin nhận dạng khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và mục đích, bản chất của mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng với đối tượng báo cáo.
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
4…
5. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 và khoản 4 Điều này.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi Chính phủ ban hành Nghị định quy đinh chi tiết một số điều của Luật PCRT..
|
|
Không có quy định cụ thể nào yêu cầu thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi do RE thu thập phải “chính xác” và cập nhật (c.24.7).
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1. Thông tin nhận biết khách hàng bao gồm thông tin nhận dạng khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và mục đích, bản chất của mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng với đối tượng báo cáo.
2…
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
…
5. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 và khoản 4 Điều này.
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi Chính phủ ban hành Nghị định quy đinh chi tiết một số điều của Luật PCRT..
|
|
Thiếu hụt liên quan đến các khía cạnh của nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ (c.24.9).
|
Điều 21. Minh bạch thông tin của pháp nhân
1. Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý; danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân (nếu có); các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
2. Pháp nhân có trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm cả danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ; chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân.
…
|
Đáp ứng một phần
Trách nhiệm của pháp nhân về lưu trữ thông tin sau khi giải thể thì không được quy định trong Luật.
|
|
Một số điểm yếu trong quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp cận kịp thời với tất cả các thông tin cơ bản và công khai về quyền sở hữu hưởng lợi (c.24.10).
|
Điều 21. Minh bạch thông tin của pháp nhân
1...
2…
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan, pháp nhân cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
Đáp ứng
|
20
|
KN 25. Minh bạch và sở hữu hưởng lợi của thỏa thuận pháp lý (PC)
|
|
Không có yêu cầu nào mà người được ủy thác của quỹ tín thác nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải duy trì thông tin cần thiết theo khuyến nghị này (c.25.1).
|
Điều 22. Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý
1. Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệm sau đây:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin nhận dạng về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác. Các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau khi bên nhận ủy thác ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
b) Cung cấp các thông tin quy định tại điểm a Khoản này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ khách hàng với tổ chức, cá nhân này liên quan đến tài sản được ủy thác khi được yêu cầu.
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này và văn bản ủy thác khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng là bên nhận ủy thác.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có yêu cầu đối với người được ủy thác để đảm bảo hồ sơ chính xác và cập nhật. Tuy nhiên, trong những trường hợp hạn chế của những người được ủy thác chuyên nghiệp hoạt động với khả năng của họ như RE, có nghĩa vụ tuân thủ các yêu cầu của CDD để thu thập và cập nhật thông tin (c.25.2).
|
Điều 22. Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý
1. Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệm sau đây:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin nhận dạng về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác. Các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau khi bên nhận ủy thác ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
b) Cung cấp các thông tin quy định tại điểm a Khoản này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ khách hàng với tổ chức, cá nhân này liên quan đến tài sản được ủy thác khi được yêu cầu.
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này và văn bản ủy thác khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng là bên nhận ủy thác.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có nghĩa vụ đối với những người được ủy thác tiết lộ trạng thái của họ cho các FI và DNFBP khi hình thành mối quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện các giao dịch không thường xuyên (c.25.3).
|
1. Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệm sau đây:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin nhận dạng về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác. Các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau khi bên nhận ủy thác ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
b) Cung cấp các thông tin quy định tại điểm a Khoản này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ khách hàng với tổ chức, cá nhân này liên quan đến tài sản được ủy thác khi được yêu cầu.
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này và văn bản ủy thác khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng là bên nhận ủy thác.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có điều khoản nào cho phép truy cập kịp thời vào thông tin do người được ủy thác nắm giữ cụ thể tại Việt Nam (c.25.5).
|
Điều 22. Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý
1. Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệm sau đây:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin nhận dạng về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác. Các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau khi bên nhận ủy thác ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
b) Cung cấp các thông tin quy định tại điểm a khoản này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ khách hàng với tổ chức, cá nhân này liên quan đến tài sản được ủy thác khi được yêu cầu.
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này và văn bản ủy thác khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng là bên nhận ủy thác.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 39. Trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, thông tin, báo cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ.
…
|
Đáp ứng
|
21
|
KN 26. Quản lý và thanh tra giám sát các tổ chức tài chính (PC)
|
|
Không có cơ quan quản lý hay giám sát chỉ định nào về PCRT/TTKB cho các nhà cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán và tổ chức cho vay trực tuyến (c.26.1)
|
Điều 4. Đối tượng báo cáo
1.Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
…
b) Cho vay;
…
đ) Dịch vụ trung gian thanh toán;
...
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
...
3. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
…
|
Đáp ứng
|
|
Trong khi NHNN là cơ quan giám sát và quản lý TTKB, không có sự ủy quyền rõ ràng trong luật để hình thành các yêu cầu quy định và thực hiện giám sát (c.26.1).
|
|
Nội dung này cần được quy định tại pháp luật PCKB, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động I.3 tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941) về việc nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Luật Phòng, chống khủng bố và các văn bản hướng dẫn để xử lý những thiếu hụt liên quan đến phòng, chống tài trợ khủng bố phù hợp với khuyến nghị hành động của APG.
|
|
Không rõ ràng về cơ quan cấp phép cho các công ty quản lý quỹ hoặc các tổ chức cho vay trực tuyến phải được cấp phép hoặc đăng ký trước khi hoạt động (c.26.2).
|
Điều 4. Đối tượng báo cáo
1.Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
…
b) Cho vay;
…
đ) Dịch vụ trung gian thanh toán;
…
k) Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán;
...
|
Đáp ứng một phần
Việc cấp phép cho công ty quản lý quỹ hoặc tổ chức cho vay trực tuyến thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành, không quy định tại Luật PCRT, cụ thể:
- Đối với công ty quản lý quỹ:
Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 99/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ Tài chính hướng dẫn hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán quy định: “3. Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán, thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán.”
- Đối với cho vay nói chung:
Khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật PCRT quy định Tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định pháp luật.
|
|
Có giới hạn về việc kiểm tra tính chính xác và phù hợp nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc cộng sự của chúng nắm giữ (hoặc là chủ sở hữu hưởng lợi) một lợi ích đáng kể hoặc kiểm soát, hoặc nắm giữ chức năng quản lý trong FI (c.26.3).
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1…
2.
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
4. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
5. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 và khoản 4 Điều này.
|
Đáp ứng một phần
Việc quy định điều kiện và kiểm tra tính chính xác, phù hợp của thông tin nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc cộng sự của chúng nắm giữ một tổ chức sẽ được quy định ở pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, Luật các TCTD năm 2010 có quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh; về những trường hợp không được đảm nhiệm chức vụ…
|
|
Không có giám sát hợp nhất rõ ràng cho các mục đích PCRT/TTKB (c.26.4).
|
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
...
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
...
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo;
…
Điều 52. Trách nhiệm của Bộ Xây dựng
…
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản.
…
Điều 53. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
…
3. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với các đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, bao gồm: luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
…
Điều 54. Trách nhiệm của Bộ Công thương
1...
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền;
…
Điều 58. Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông
1...
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet.
…
Điều 59. Trách nhiệm của các bộ, ngành khác
1...
2. Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
…
|
Đáp ứng một phần
Tiêu chí này sẽ đáp ứng đầy đủ khi các văn bản quy định về trách nhiệm giám sát PCKB và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra
|
|
Không có sự giám sát của lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt, hoặc của các tổ chức cho vay trực tuyến (c.26.4).
|
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
...
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi có các quy định liên quan đến cho vay trực tuyến bao gồm cả quy định về giám sát, quản lý tại các văn bản pháp luật có liên quan
|
|
Tần suất và cường độ giám sát do người giám sát thực hiện không dựa trên rủi ro RT / TTKB, chính sách, kiểm soát nội bộ và thủ tục liên quan đến tổ chức hoặc nhóm (c.26.5).
|
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
...
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Công an
…
6. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các loại tội phạm nguồn có rủi ro cao theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
…
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
...
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo;
Và trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan khác từ Điều 52 đến Điều 59 và Điều 61.
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi có quy định về việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động I.10 về việc nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý/sổ tay hướng dẫn về thanh tra, kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đối với các tổ chức tài chính và các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan và hành động III.1 về việc nghiên cứu xây dựng và phát triển áp dụng thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đối với các lĩnh vực tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
|
Kiểm soát viên chưa đánh giá hồ sơ rủi ro của FI và các tập đoàn tài chính hoặc xem xét rủi ro định kỳ để ứng phó với các sự kiện lớn (c.26.6).
|
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
...
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
…
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Công an
…
6. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các loại tội phạm nguồn có rủi ro cao theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
…
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
...
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo;
…
Và trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan khác từ Điều 52 đến Điều 59 và Điều 61
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi có quy định về việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động I.10 về việc nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý/sổ tay hướng dẫn về thanh tra, kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đối với các tổ chức tài chính và các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan và hành động III.1 về việc nghiên cứu xây dựng và phát triển áp dụng thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đối với các lĩnh vực tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
22
|
KN 27. Thẩm quyền của cơ quan thanh tra giám sát (PC)
|
|
Không có giám sát viên nào có quyền giám sát hoặc giám sát các tổ chức cho vay trực tuyến và các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán (IPSP) để tuân thủ các yêu cầu PCRT (c.27.1).
|
Điều 4: Đối tượng báo cáo
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp giấy phép theo quy định pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
...
b) Cho vay;
…
đ) Dịch vụ trung gian thanh toán;
…
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi có quy định về tổ chức cho vay trực tuyến.
|
|
Yêu cầu tối thiểu về TTKB đối với FI, ngoài TFS (c.27.1).
|
|
Luật PCRT không điều chỉnh nội dung này. Nội dung này cần được quy định tại pháp luật PCKB.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động I.3 tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941) về việc nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Luật Phòng, chống khủng bố và các văn bản hướng dẫn để xử lý những thiếu hụt liên quan đến phòng, chống tài trợ khủng bố phù hợp với khuyến nghị hành động của APG.
|
|
Quyền lực của giám sát viên PCRT/TTKB trong việc bắt buộc cung cấp thông tin cho các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán và các tổ chức cho vay trực tuyến không được đề cập rõ ràng (c.27.3).
|
Điều 4: Đối tượng báo cáo
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp giấy phép theo quy định pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
...
b) Cho vay;
…
đ) Dịch vụ trung gian thanh toán;
…
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi có quy định về tổ chức cho vay trực tuyến.
|
|
Các hình thức phạt do NHNN chỉ áp dụng đối với các hành vi vi phạm Luật PCRT 2012 và không bao gồm các vi phạm TTKB (c.27.4).
|
Điều 46. Xử lý vi phạm
Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
|
Việc xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến quy định pháp luật về rửa tiên, tài trợ khủng bố, tài trợ PBVKHDHL được Chính phủ quy định, khôngquy định tại Luật PCRT.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động I.7 tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941) về việc nghiên cứu, đề xuất xây dựng và hoàn thiện quy định xử phạt vi phạm hành chính về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL theo trách nhiệm quản lý của bộ, ngành có liên quan.
|
|
Không có cơ sở pháp lý nào cho phép bất kỳ Giám sát viên PCRT/ TTKB nào xử phạt các công ty thu đổi ngoại tệ, IPSP hoặc các tổ chức cho vay trực tuyến vì không tuân thủ các yêu cầu của PCRT (c.27.4).
|
|
Nội dung này không quy định tại Luật PCRT, mà được quy định bởi Nghị định của Chính phủ (Nghị định 143/2021/NĐ-CP về xử phạt VPHC trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.)
|
23
|
KN 28. Quản lý và thanh tra giám sát các DNFBP (PC)
|
|
Yêu cầu tương tự về kiểm tra tính chính xác và phù hợp đối với DNFBP và chủ sở hữu hưởng lợi của các tổ chức đó (c.28.1 & 28.4)
|
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
Điều 52. Trách nhiệm của Bộ Xây dựng
Điều 53. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
Điều 54. Trách nhiệm của Bộ Công thương
Đã có quy định về trách nhiệm thanh tra, giám sát
|
Đáp ứng một phần.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, cán bộ thanh tra, giám sát thực hiện nội dung yêu cầu của tiêu chí này.
|
|
Không có công cụ nào quy định cơ quan có thẩm quyền nào được chỉ định áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với DNFBP để giải quyết các trường hợp không tuân thủ các yêu cầu PCRT (c.28.4).
|
|
Luật PCRT không điều chỉnh nội dung này. Việc xử phạt đối với DNFPB được thực hiện theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong ngành nghề, lĩnh vực liên quan.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động I.7 tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941) về việc nghiên cứu, đề xuất xây dựng và hoàn thiện quy định xử phạt vi phạm hành chính về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL theo trách nhiệm quản lý của bộ, ngành có liên quan.
|
|
Việc giám sát DNFBP không được thực hiện trên cơ sở rủi ro (c.28.5).
|
Tại các Điều từ 48-61 đã quy định trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác thanh tra, giám sát việc các đói tượng báo cáo thực hiện quy định về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL. Thanh tra trên cơ sở rủi ro là một trong các phương pháp thanh tra
|
Đáp ứng một phần
Khuyến nghị này sẽ được thực hiện đầy đủ khi có quy định về việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động I.10 về việc nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý/sổ tay hướng dẫn về thanh tra, kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đối với các tổ chức tài chính và các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan và hành động III.1 về việc nghiên cứu xây dựng và phát triển áp dụng thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đối với các lĩnh vực tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
24
|
KN 29. Đơn vị tình báo tài chính (PC)
|
|
Thiếu sót trong KN.20 và KN.23 liên quan đến việc thiếu nghĩa vụ báo cáo rõ ràng các STR liên quan đến TTKB tương tự tại Khuyến nghị này (c.29.1 & c.29.2).
|
Điều 63. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền
1. ..
2. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền.
2. Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Định kỳ 05 năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá”.
….
Trong đó, Điều 26 dự thảo Luật PCRT quy định trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ của đối tượng báo cáo
|
Đáp ứng
|
|
Phân tích chiến lược do Cục PCRT thực hiện hạn chế (c.29.4).
|
|
Phân tích chiến lược là hoạt động nghiệp vụ do NHNN thực hiện, không thuộc phạm vi quy định tại Luật PCRT.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động II.2 Hiệu quả trực tiếp số 6 về việc tăng cường số lượng và chất lượng sản phẩm phân tích chiến lược và hoạt động của Cục Phòng, chống rửa tiền tại Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
|
Không sử dụng các kênh chuyên dụng, an toàn và được bảo mật để chuyển giao thông tin tình báo (c.29.5).
|
Điều 42. Trao đổi, cung cấp, truyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
1. Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, trong thời hạn 10 ngày làm việc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Thông tin liên quan đến báo cáo giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền là thông tin mật.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trao đổi, cung cấp thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 43. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi yêu cầu tới cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để thu thập, bổ sung thông tin phục vụ cho việc xử lý, phân tích và chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền; tiếp nhận thông tin phản hồi, thông tin chuyển giao của cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và xử lý thông tin nhận được theo quy định của Luật này.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp nhận yêu cầu đề nghị cung cấp thông tin từ cơ quan có thẩm quyền nước ngoài với mục đích phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền và cung cấp thông tin phản hồi.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung cấp, chuyển giao thông tin cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài theo quy định tại Điều 6 của Luật này.
4. Thông tin liên quan đến báo cáo giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trao đổi, cung cấp, chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài là thông tin mật.
|
Đáp ứng một phần
Luật PCRT không điều chỉnh cách thức chuyển giao thông tin. Nội dung này được quy định tại văn bản chuyên ngành khác.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động II.8 Hiệu quả trực tiếp số 6 về việc xây dựng kênh trao đổi, nguyên tắc chia sẻ giữa Cục PCRT và các cơ quan có thẩm quyền liên quan tại Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
|
Không có quy trình kiểm tra an ninh đối với nhân viên của Cục PCRT hoặc chính sách an ninh. (c.29.6)
|
|
Tiêu chí này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT.
|
25
|
KN 40. Các hình thức hợp tác quốc tế khác (LC)
|
|
Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền không có các cơ chế rõ ràng và kênh an toàn để tạo điều kiện hợp tác, trao đổi thông tin (c.40.2).
|
Điều 42. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
Điều 43. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
Khoản 5 Điều 48. Trách nhiệm của NHNN
Khoản 3 Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Công an
….
Quy định trách nhiệm phối hợp, trao đổi, cung cấp thông tin giữa các cơ quan có thẩm quyền.
|
Đáp ứng một phần
Nội dung chi tiết về hợp tác, trao đổi thông tin được thực hiện cụ thể tại các bản ghi nhớ giữa các cơ quan có thẩm quyền hoặc văn bản chuyên ngành khác.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động VI.3 về nghiên cứu, đề xuất việc gia nhập các tổ chức của khu vực và quốc tế về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 và hành động II.3 Hiệu quả trực tiếp số 2 về việc trở thành thành viên của Nhóm Egmont tại Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
|
Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền không có quy trình ưu tiên thực hiện các yêu cầu quốc tế cho các cơ quan có thẩm quyền khác (c.40.2).
|
|
Ưu tiên trong hợp tác quốc tế phụ thuộc vào tính chất, phạm vi, nội dung hợp tác, do các bộ, ngành xây dựng và thực hiện, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động II.1 Hiệu quả trực tiếp số 2 về xác định các nước có rủi ro rửa tiền và tội phạm nguồn với Việt Nam để tăng cường hợp tác chính thức, không chính thức tại Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
|
Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền không cung cấp phản hồi cho các đối tác nước ngoài về việc sử dụng và tính hữu ích của thông tin nhận được theo yêu cầu hợp tác quốc tế (c.40.4)
|
Điều 6. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
1. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, các bên cùng có lợi, tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài.
Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, việc trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các nội dung như sau:
a) Việc xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền;
b) Thực hiện tương trợ tư pháp;
c) Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài liên quan đến phòng, chống rửa tiền;
d) Việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền;
đ) Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền có thể từ chối trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền trong các trường hợp sau:
a) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao có thể gây tổn hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của Việt Nam;
b) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài và các quy định khác của pháp luật Việt Nam;
c) Yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin không có đầy đủ nội dung theo quy định pháp luật;
d) Cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không cam kết hoặc không thực hiện bảo mật thông tin được cung cấp, chuyển giao theo chế độ bảo mật tương ứng với quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước của Việt Nam đối với thông tin mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cung cấp, chuyển giao.
4. Quy trình, thủ tục, phương thức liên quan đến hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, các quy định khác của pháp luật có liên quan.
5. Hằng năm hoặc khi có yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cập nhật nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Đáp ứng
|
|
Không hạn chế việc sử dụng thông tin ngoài phạm vi đã được quy định tại biên bản ghi nhớ (MOU) (c.40.6).
|
Điều 6. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
...
4. Quy trình, thủ tục, phương thức liên quan đến hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, các quy định khác của pháp luật có liên quan.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có quy định nào của pháp luật hoặc MOU cho phép Việt Nam từ chối cung cấp thông tin nếu cơ quan yêu cầu cung cấp thông tin không thể bảo vệ thông tin (c.40.7).
|
Điều 6. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
...
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền có thể từ chối trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền trong các trường hợp sau:
a) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao có thể gây tổn hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của Việt Nam;
b) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài và các quy định khác của pháp luật Việt Nam;
c) Yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin không có đầy đủ nội dung theo quy định pháp luật;
d) Cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không cam kết hoặc không thực hiện bảo mật thông tin được cung cấp, chuyển giao theo chế độ bảo mật tương ứng với quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước của Việt Nam đối với thông tin mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cung cấp, chuyển giao.
…
|
Đáp ứng
|
|
Không có quyền hạn rõ ràng để thực hiện các yêu cầu thay mặt cho các đối tác nước ngoài (c.40.8).
|
|
Việc thực hiện yêu cầu thay mặt cho đối tác nước ngoài thuộc hoạt động ủy thác giữa cơ quan trong nước và đối tác nước ngoài, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT.
|
|
Không có cơ sở pháp lý rõ ràng nào để NHNN (Cục PCRT) hợp tác quốc tế đối với các hành vi vi phạm TTKB (ngoại trừ thông qua Bộ Công an) hoặc RT (c.40.9).
|
Điều 6. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
...
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các nội dung như sau:
a) Việc xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền;
b) Thực hiện tương trợ tư pháp;
c) Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài liên quan đến phòng, chống rửa tiền;
d) Việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền;
đ) Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 48 về trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, khoản 6 Điều 49 về trách nhiệm của Bộ Công an, NHNN và Bộ Công an có thể hợp tác, trao đổi để NHNN thực hiện hợp tác quốc tế trong một số trường hợp cụ thể liên quan đến TTKB thuộc chức năng của Bộ Công an.
|
Luật PCRT chỉ quy định chung về hợp tác quốc tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của NHNN (Cục PCRT) được điều chỉnh bởi văn bản chuyên ngành khác.
|
|
Cục PCRT chỉ cung cấp phản hồi một lần cho đối tác nước ngoài (FIU Malaysia) (c.40.10).
|
|
Nội dung này liên quan đến việc thực thi công tác nghiệp vụ của Cục PCRT, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, không thuộc phạm vi quy định của Luật PCRT.
|
|
Một số thiếu hụt trong quyền hạn rõ ràng để Cục PCRT trao đổi thông tin liên quan đến TTKB với đối tác nước ngoài (c.40.11).
|
|
Phòng, chống khủng bố và TTKB thuộc chức năng của Bộ Công an, trừ trường hợp hợp tác nêu tại tiêu chí c.40.9.
|
|
Luật và hầu hết các MOU về hợp tác giám sát không đề cập rõ ràng về hợp tác PCRT / TTKB (c.40.12).
|
|
Theo quy định pháp luật, các bộ, ngành liên quan có chức năng ký MOU về hợp tác giám sát thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành mình.
Tiêu chí này có thể được đáp ứng theo hành động VI.2 về đàm phán, ký kết các Biên bản ghi nhớ phối hợp, trao đổi thông tin với đối tác nước ngoài về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL tại Danh mục các hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 và hành động II.4 Hiệu quả trực tiếp số 2 về thực hiện giám sát PCRT/TTKB (kết hợp với các cơ quan giám sát nước ngoài khi có thể) hoặc chia sẻ báo cáo giám sát tại Phụ lục các hành động thực hiện theo Kế hoạch HĐQG đến tháng 3/2023 (được ban hành kèm theo Quyết định 941).
|
|
Không có giới hạn về các loại thông tin sẵn có trong nước có thể được trao đổi (c.40.13)
|
Điều 6. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
...
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các nội dung như sau:
a) Việc xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền;
b) Thực hiện tương trợ tư pháp;
c) Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài liên quan đến phòng, chống rửa tiền;
d) Việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền;
đ) Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
…
|
Đáp ứng
|
|
Chỉ một số MOU yêu cầu giám sát viên phải có sự cho phép trước trước khi phổ biến thông tin đã trao đổi (c.40.16).
|
|
Nội dung chi tiết của MOU không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
|
|
Không có thẩm quyền rõ ràng về mặt pháp lý cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hợp tác trong việc xác định và truy tìm các khoản tiền thu được cũng như công cụ phạm tội (c.40.17).
|
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Công an
…
5. Thực hiện hợp tác quốc tế; tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.
Điều 53. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
…
5. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi, chức năng nhiệm vụ được giao về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
Điều 59. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
…
3. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
Đáp ứng
|
|
Không có thẩm quyền rõ ràng cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng quyền hạn của họ để thực hiện các yêu cầu và thu thập thông tin thay mặt cho các đối tác nước ngoài (c.40.18).
|
|
Việc thực hiện yêu cầu thay mặt cho đối tác nước ngoài thuộc hoạt động ủy thác giữa cơ quan trong nước và đối tác nước ngoài, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
|
BẢNG THUYẾT MINH DỰ THẢO LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN (SỬA ĐỔI)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0714-Thuyet-minh-dt-Luat-PCRTsd---20220927082905.docx
Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012
|
Dự thảo
Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
|
Thuyết minh lý do sửa đổi
|
Chương I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Luật này quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Luật này quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
|
2. Việc phòng, chống hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của Bộ luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố.
|
2. Việc phòng, chống hành vi rửa tiền của các tổ chức, cá nhân có mục đích tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
− Sửa khoản 2:
+ Quy định pháp luật hiện hành về phòng, chống khủng bố (Luật Phòng, chống khủng bố) và pháp luật về phòng chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (Nghị định 81/2019/NĐ-CP) đều quy định các biện pháp phòng chống khủng bố, phòng chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo các quy định dẫn chiếu đến các điều khoản của Luật PCRT năm 2012 quy định về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền của đối tượng báo cáo. Khoản 2 Điều 1 này kế thừa quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật PCRT năm 2012 và chỉnh sửa lại từ ngữ làm rõ hơn nội hàm quy định, bổ sung thêm cụm từ “tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt” để tiếp tục điều chỉnh các quy định được dẫn chiếu của pháp luật về chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
+ Thay cụm từ “Bộ luật hình sự” thành “pháp luật hình sự” để đảm bảo bao quát cả Bộ luật hình sự, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán và các văn bản hướng dẫn khác (nếu có).
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Tổ chức tài chính.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan.
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Tổ chức tài chính.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính.
|
- Bỏ cụm từ “có liên quan” do các ngành nghề có liên quan thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này đã được quy định tại khoản 2 Điều 4 về Đối tượng báo cáo.
|
3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam; người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam hoặc tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có giao dịch tài chính, giao dịch tài sản khác với tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức nước ngoài, người nước ngoài, tổ chức quốc tế có các giao dịch với tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
- Khoản 3: Bỏ cụm từ “sinh sống tại Việt Nam” để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, đồng thời nội dung này đã được quy định tại NĐ 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền 2012; bỏ cụm từ “tổ chức phi Chính phủ” do các đối tượng tại khoản 3 dự thảo đã bao gồm đối tượng tổ chức phi Chính phủ.
|
4. Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
|
4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 4: Bổ sung “cơ quan” cho phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật này.
|
Điều 3. Áp dụng Luật phòng, chống rửa tiền, các luật có liên quan và điều ước quốc tế
Việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi rửa tiền được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
|
Bỏ điều này
|
Bỏ Điều này vì nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế đã được quy định tại Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016.
|
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
|
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
|
|
|
|
|
1. Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:
|
1. Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:
|
- Khoản 1: Chỉnh sửa từ ngữ, bổ sung cụm từ “hành vi” để đảm bảo rõ các hành vi được coi là rửa tiền.
|
a) Hành vi đưi được coi là rửa tiềnnhằm hợp phá
b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;
|
a) Hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự;
b) Hành vi trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;
|
c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.
|
c) Hành vi chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản mà biết hay có cơ sở để biết tài sản đó do phạm tội mà có nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.
|
+ Sửa điểm c: thay cụm từ “đã biết rõ” bằng cụm từ “mà biết hay có cơ sở để biết” do việc xác định “đã biết rõ” gặp khó khăn trên thực tế triển khai.
|
|
2. Tài sản do phạm tội mà có là tài sản có được trực tiếp hoặc gián tiếp từ hoạt động phạm tội; phần thu nhập, lợi nhuận sinh ra từ tài sản có được từ hoạt động phạm tội.
|
- Khoản 2: bổ sung khái niệm Tài sản do phạm tội mà có để làm rõ hơn nội hàm khái niệm Rửa tiền ở khoản 1.
|
2. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.
|
3. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.
|
- Thay cụm từ “bao gồm” thành “là” để phù hợp với pháp luật dân sự.
|
3. Tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cho vay;
c) Cho thuê tài chính;
d) Dịch vụ thanh toán;
đ) Phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, lệnh chuyển tiền, tiền điện tử;
e) Bảo lãnh ngân hàng và cam kết tài chính;
g) Cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ;
h) Tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán, đại lý phân phối chứng khoán;
i) Quản lý danh mục vốn đầu tư;
k) Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán cho tổ chức, cá nhân khác;
l) Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; hoạt động đầu tư có liên quan đến bảo hiểm nhân thọ;
m) Đổi tiền.
|
|
- Kết cấu lại quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 4 Luật PCRT 2012 không phù hợp với tên điều – Giải thích từ ngữ, thành quy định tại Điều 4 của dự thảo Luật về Đối tượng báo cáo cho phù hợp.
|
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
a) Kinh doanh trò chơi có thưởng, casino;
b) Kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động sản;
c) Kinh doanh kim loại quý và đá quý;
d) Cung ứng dịch vụ công chứng, kế toán; dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư;
đ) Dịch vụ ủy thác đầu tư; dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; dịch vụ cung cấp giám đốc, thư ký giám đốc của doanh nghiệp cho bên thứ ba.
|
|
- Kết cấu lại quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 4 Luật PCRT 2012 không phù hợp với tên điều – Giải thích từ ngữ, thành quy định tại Điều 4 của dự thảo Luật về Đối tượng báo cáo cho phù hợp.
|
5. Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.
|
Bỏ khái niệm này
|
- Chuyển nội dung này về đối tượng báo cáo tại Điều 4 của dự thảo Luật.
|
6. Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ hoạt động tội phạm hoặc liên quan tới rửa tiền.
|
Bỏ khái niệm này
|
- Bỏ khoản này do nội dung giao dịch đáng ngờ đã được quy định chi tiết tại Điều 26. Báo cáo giao dịch đáng ngờ.
|
7. Giao dịch có giá trị lớn là giao dịch bằng tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt có tổng giá trị bằng hoặc vượt mức do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định, được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một ngày.
|
4. Giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo là giao dịch bằng tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một ngày, có tổng giá trị bằng hoặc vượt mức do Thủ tướng Chính phủ quy định.
|
- Khoản 4: Chỉnh sửa cụm từ “giao dịch có giá trị lớn” thành “giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo” đảm bảo rõ ràng, phân biệt với các quy định tại các điều khoản khác trong luật có đề cập tới các giao dịch có giá trị lớn khác như giao dịch có giá trị lớn bất thường mà đối tượng báo cáo phải thực hiện giám sát quy định tại Điều 20 dự thảo Luật. Đồng thời để thực hiện quy định tại Điều 25 về Báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo.
|
8. Khách hàng là tổ chức, cá nhân đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan cung cấp.
11. Người khởi tạo là chủ tài khoản hoặc người yêu cầu tổ chức tài chính thực hiện chuyển tiền điện tử trong trường hợp không có tài khoản.
|
5. Người khởi tạo là chủ tài khoản hoặc người yêu cầu tổ chức tài chính thực hiện chuyển tiền điện tử trong trường hợp không qua tài khoản.
6. Chuyển tiền điện tử là bất kỳ giao dịch nào được thực hiện theo yêu cầu của người khởi tạo thông qua tổ chức tài chính bằng phương tiện điện tử nhằm chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng tại tổ chức tài chính của người thụ hưởng. Người thụ hưởng có thể là người khởi tạo.
7. Khách hàng là tổ chức, cá nhân đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính cung cấp.
|
− Khoản 5: đưa giải thích từ ngữ về người khởi tạo tại khoản 11 Luật PCRT năm 2012 lên khoản 5 của dự thảo Luật để đảm bảo sự thống nhất với nội dung mới được bổ sung tại khoản 6 của dự thảo Luật.
− Khoản 6: bổ sung định nghĩa về “Chuyển tiền điện tử” để thống nhất về cách hiểu và áp dụng pháp luật trên thực tế.
|
9. Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một tài khoản, có quyền chi phối khi khách hàng thực hiện giao dịch cho cá nhân này hoặc cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận ủy thác đầu tư.
|
8. Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một hoặc một số tài sản, có quyền chi phối khách hàng thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản cho cá nhân này; là cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.
|
- Khoản 8: chỉnh sửa để đảm bảo rõ ràng nội hàm khái niệm “Chủ sở hữu hưởng lợi”, thay cụm từ “thỏa thuận ủy thác đầu tư” bằng cụm từ “thỏa thuận pháp lý” để thống nhất quy định tại khoản 13 Điều này.
|
10. Quan hệ ngân hàng đại lý là hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác của một ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ cho một ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác.
|
9. Quan hệ ngân hàng đại lý là quan hệ được hình thành từ việc một ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho một ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác.
|
- Khoản 9: chỉnh sửa để đảm bảo rõ ràng nội hàm khái niệm “Quan hệ ngân hàng đại lý”.
|
12. Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố và tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập theo quy định của pháp luật
|
10. Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố, tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập và danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt do Bộ Quốc phòng chủ trì lập theo quy định của pháp luật.
|
- Khoản 10: bổ sung cụm từ “danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt do Bộ Quốc phòng chủ trì lập” để phù hợp với quy định của pháp luật về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
13. Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền.
|
11. Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền.
|
|
14. Hoạt động kinh doanh qua giới thiệu là hoạt động kinh doanh với khách hàng thông qua sự giới thiệu của bên trung gian là một tổ chức tài chính khác trong cùng tập đoàn hoặc tổng công ty hoặc thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ môi giới.
|
Bỏ nội dung này.
|
- Dự thảo Luật bỏ khoản 14 Điều 4 Luật PCRT 2012 do đã thay đổi nội dung “Hoạt động kinh doanh qua giới thiệu” thành hoạt động “Nhận biết, xác minh thông tin khách hàng thông qua bên thứ ba” và được quy định tại Điều 14 của dự thảo Luật.
|
15. Lực lượng đặc nhiệm tài chính là tổ chức liên chính phủ, ban hành các chuẩn mực và thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu.
|
12. Lực lượng đặc nhiệm tài chính là tổ chức liên chính phủ, ban hành các chuẩn mực, thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu.
|
|
16. Thỏa thuận ủy quyền là thỏa thuận của tổ chức, cá nhân ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của tổ chức, cá nhân ủy quyền.
|
13. Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận dưới hình thức ủy thác hoặc hình thức khác có bản chất tương tự được xác lập theo luật pháp nước ngoài, cho phép bên nhận ủy thác được nhận chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong thỏa thuận.
|
− Khoản 13: Sửa đổi nội hàm khái niệm và tên gọi “Thỏa thuận ủy quyền” thành “Thỏa thuận pháp lý” để phù hợp với quy định tại Khuyến nghị số 25 của FATF về “Minh bạch thông tin về thỏa thuận pháp lý”, phù hợp với quy định tại Điều 2 công ước Hague về Ủy thác. Việc sửa đổi nội hàm khái niệm này cũng nhằm phân biệt với một số khái niệm quy định tại Bộ luật dân sự, Luật Chứng khoán như “ủy thác đầu tư”…
|
|
|
|
|
14. Ngân hàng vỏ bọc là ngân hàng không có sự hiện diện thực tế tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mà tại đó ngân hàng phải được thành lập và cấp phép, đồng thời không có sự liên kết hoặc kiểm soát của bất kỳ định chế tài chính nào đã được quản lý và giám sát.
|
- Khoản 14: bổ sung định nghĩa về ngân hàng vỏ bọc. Lý do:
Khoản 3 Điều 7 Luật PCRT 2012 về Hành vi bị cấm quy định cấm đối với việc: “3. Thiết lập và duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng được thành lập tại một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhưng không có sự hiện diện hữu hình tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó và không chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan quản lý có thẩm quyền.”. Nội dung quy định này chính là nội hàm của khái niệm “Ngân hàng vỏ bọc” theo định nghĩa của FATF. Do vậy, nội hàm quy định này được đưa lên phần giải thích từ ngữ về “ngân hàng vỏ bọc” để phù hợp với kỹ thuật soạn thảo các điều khoản của Luật.
|
|
15. Tổ chức phi lợi nhuận là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bao gồm: hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ nước ngoài được thành lập, đăng ký, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
- Khoản 15: bổ sung định nghĩa về tổ chức phi lợi nhuận, nội dung này đã được quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP, đồng thời, bổ sung thêm hai đối tượng mới là “hội” và “tổ chức tôn giáo” vì đây là các tổ chức có các hoạt động viện trợ, nhận viện trợ và có thể tiềm ẩn các rủi ro rửa tiền. Việc bổ sung này cũng phù hợp, tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động của các loại hình tổ chức phi lợi nhuận.
|
Điều 4. Giải thích từ ngữ
|
Điều 4. Đối tượng báo cáo
|
|
3. Tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
|
a) Nhận tiền gửi;
b) Cho vay;
|
a) Nhận tiền gửi;
b) Cho vay;
|
|
c) Cho thuê tài chính;
|
c) Cho thuê tài chính;
|
|
d) Dịch vụ thanh toán;
|
d) Dịch vụ thanh toán;
|
|
|
đ) Dịch vụ trung gian thanh toán;
|
- Điểm đ: bổ sung loại hình hoạt động “dịch vụ trung gian thanh toán” nhằm điều chỉnh các đối tượng là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Các tổ chức này cung ứng các dịch vụ tài chính có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền như dịch vụ ví điện tử, dịch vụ thu hộ, chi hộ. Việc bổ sung quy định này cũng phù hợp với khuyến nghị của FATF khi định nghĩa về tổ chức tài chính là đối tượng phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa rửa tiền bao gồm các tổ chức có hoạt động cung cấp dịch vụ chuyển tiền và giá trị (MVTS). Tại báo cáo đánh giá đa phương của APG, tiêu chí 14.1 chỉ rõ: “Tại Việt Nam, các tổ chức cung cấp MVTS là (i) tổ chức tín dụng, (ii) tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán và (iii) đại lý thu đổi ngoại tệ”.
Đồng thời, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là đối tượng phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền cũng đã được quy định tại Nghị định 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.
|
đ) Phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, lệnh chuyển tiền, tiền điện tử;
|
e) Phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, lệnh chuyển tiền, tiền điện tử;
|
|
e) Bảo lãnh ngân hàng và cam kết tài chính;
|
g) Bảo lãnh ngân hàng và cam kết tài chính;
|
|
g) Cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ;
|
h) Cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ;
|
|
h) Tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán, đại lý phân phối chứng khoán;
i) Quản lý danh mục vốn đầu tư;
k) Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán cho tổ chức, cá nhân khác;
|
i) Môi giới chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán;
k) Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán;
|
- Sửa đổi điểm h, i, k khoản 3 Điều 4 Luật PCRT 2012 thành điểm i, k khoản 1 Điều 4 tại dự thảo Luật và sửa đổi từ ngữ quy định tại các điểm này để thống nhất với quy định tại Luật Chứng khoán 2019.
|
l) Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; hoạt động đầu tư có liên quan đến bảo hiểm nhân thọ;
|
l) Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ;
|
− Sửa đổi điểm l khoản 3 Điều 4 Luật PCRT 2012 thành “Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ”, bỏ cụm từ “hoạt động đầu tư có liên quan đến bảo hiểm nhân thọ”.
Theo pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ bao gồm: Bảo hiểm trọn đời; Bảo hiểm sinh kỳ; Bảo hiểm tử kỳ; Bảo hiểm hỗn hợp; Bảo hiểm trả tiền định kỳ; Bảo hiểm liên kết đầu tư; Bảo hiểm hưu trí. Theo các quy định này, hoạt động đầu tư có liên quan đến bảo hiểm nhân thọ là một loại hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Do vậy, không cần thiết phải quy định riêng về hoạt động này tại dự thảo Luật. Bên cạnh đó, chỉ có hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ có sự tích lũy về tài sản, do đó có thể phát sinh rủi ro về rửa tiền và cần được quy định là đối tượng báo cáo tại Luật.
Đồng thời, quy định này phù hợp với chuẩn mực quốc tế về điều chỉnh hoạt động của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là hoạt động tài chính thuộc đối tượng phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa theo quy định của FATF, nguyên tắc bảo hiểm (ICP 22) của Hiệp hội quốc tế của các nhà quản lý bảo hiểm (IAIS) mà Việt Nam là thành viên.
|
m) Đổi tiền.
|
m) Đổi tiền.
|
|
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
2. Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
- Khoản 2: bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” để làm rõ đối tượng điều chỉnh là các tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính thực hiện các hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
a) Kinh doanh trò chơi có thưởng, casino;
|
a) Kinh doanh trò chơi có thưởng bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược;
|
+ Sửa đổi điểm a khoản 4 Điều 4 Luật PCRT 2012, theo đó làm rõ hoạt động kinh doanh trò chơi có thưởng, bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược, quy định này phù hợp với quy định tại Phụ lục IV Luật Đầu tư quy định các hoạt động kinh doanh có điều kiện liên quan đến “trò chơi” và Nghị định số 03/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 về kinh doanh casino.
|
b) Kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động sản;
|
b) Kinh doanh bất động sản, trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản;
|
+ Sửa đổi điểm b khoản 4 Điều 4 Luật PCRT 2012 thành: “Kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản” đề phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật kinh doanh bất động sản 2014.
|
c) Kinh doanh kim loại quý và đá quý;
|
c) Kinh doanh kim loại quý và đá quý;
|
|
d) Cung ứng dịch vụ công chứng, kế toán; dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư;
|
d) Cung cấp dịch vụ công chứng, kế toán; cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư;
|
+ Điểm d: chỉnh sửa cụm từ “cung ứng” thành “cung cấp” phù hợp với Luật công chứng.
|
đ) Dịch vụ ủy thác đầu tư; dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; dịch vụ cung cấp giám đốc, thư ký giám đốc của doanh nghiệp cho bên thứ ba.
|
đ) Cung cấp dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký công ty cho bên thứ ba; cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý.
|
+ Điểm đ: Sửa đổi cụm từ “Dịch vụ ủy thác đầu tư” thành “cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý” để phù hợp với nội hàm khái niệm tại Công ước Hague và nội dung khuyến nghị số 25 của FATF.
|
|
3. Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo ngoài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
|
- Khoản 3: bổ sung quy định giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động đã được quy định tại khoản 1, 2 Điều 4 dự thảo Luật để phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của quản lý nhà nước đối với các hoạt động mới phát sinh chưa được quy định tại Luật PCRT.
|
Điều 5. Nguyên tắc về phòng, chống rửa tiền
1. Việc phòng, chống rửa tiền phải thực hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
2. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời; các hành vi rửa tiền phải được xử lý nghiêm minh.
|
Điều 5. Nguyên tắc trong phòng, chống rửa tiền
1. Việc phòng, chống rửa tiền phải thực hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
2. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời; các hành vi rửa tiền phải được xử lý nghiêm minh.
|
- Khoản 1: bổ sung cụm từ “bảo đảm chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ” phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
|
Điều 6. Chính sách của Nhà nước về phòng, chống rửa tiền
1. Phòng, chống rửa tiền là trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan nhà nước. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống rửa tiền.
2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia phòng, chống rửa tiền.
3. Ban hành chính sách thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
4. Tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống rửa tiền được Nhà nước khen thưởng.
|
Bỏ Điều này.
|
Bỏ quy định tại Điều này do:
- Khoản 1: trách nhiệm phòng, chống rửa tiền không chỉ của Nhà nước và cơ quan nhà nước mà là trách nhiệm của Nhà nước và toàn dân.
- Khoản 2: Bảo vệ quyền và lợi ích của tổ chức và cá nhân trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội được quy định tại Hiến pháp.
- Khoản 3: Hợp tác quốc tế đã được quy định tại Điều 6 dự thảo Luật.
- Khoản 4 đã được quy định tại pháp luật về thi đua, khen thưởng.
|
Chương IV. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền
Điều 46, 47, 48
|
Điều 6. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
|
Kết cấu lại nội dung Điều 46, 47, 48 Chương IV Luật PCRT 2012 vào Điều 6 Chương I của dự thảo Luật.
Đồng thời, bổ sung vào Điều 6 mới tại dự thảo Luật các quy định về nội dung hợp tác quốc tế, các trường hợp bị từ chối, quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế … để phù hợp với Khuyến nghị 40 của FATF về Các hình thức hợp tác quốc tế khác cũng như để khắc phục các thiếu hụt đã được chỉ ra tại báo cáo của APG. Cụ thể:
|
|
1. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, các bên cùng có lợi, tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài.
|
- Khoản 1: nội dung này được quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật PCRT 2012.
|
|
Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, việc trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
|
- Bổ sung do: Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền không chỉ được thực hiện khi Việt Nam là thành viên của các điều ước quốc tế hoặc ký kết thỏa thuận quốc tế với bên ký kết nước ngoài mà còn trên cơ sở có đi có lại.
Việc bổ sung quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu Khuyến nghị số 40 của FATF, đồng thời nguyên tắc hợp tác có đi có lại cũng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tư pháp quốc tế của Việt Nam như: Điều 4 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007; Điều 465 Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) 2015.
|
|
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các nội dung như sau:
a) Việc xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền;
b) Thực hiện tương trợ tư pháp;
c) Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài liên quan đến phòng, chống rửa tiền;
d) Việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền;
đ) Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền có thể từ chối trao đổi, cung cấp, chuyển giao, thông tin về phòng, chống rửa tiền trong các trường hợp sau:
a) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao có thể gây tổn hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của Việt Nam;
b) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài và các quy định khác của pháp luật Việt Nam;
c) Yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin không có đầy đủ nội dung theo quy định pháp luật;
d) Cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không cam kết hoặc không thực hiện bảo mật thông tin được cung cấp, chuyển giao theo chế độ bảo mật tương ứng với quy định về bảo vệ bí mật nhà nước của Việt Nam đối với thông tin mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cung cấp, chuyển giao.
|
- Khoản 2, 3: Sửa đổi, bổ sung quy định Điều 47, khoản 2 Điều 48 Luật PCRT 2012 theo hướng cụ thể hơn các nội dung hợp tác quốc tế và các trường hợp từ chối theo yêu cầu Khuyến nghị 38, 39, 40 của FATF về Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền và báo cáo đánh giá đa phương của APG đối với Việt Nam. Các nội dung này cũng đã được quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCRT năm 2012.
|
|
4. Quy trình, thủ tục, phương thức liên quan đến hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, các quy định khác của pháp luật có liên quan.
|
- Khoản 4: nội dung này được kế thừa quy định tại khoản 5 Điều 47 Luật PCRT 2012.
|
|
5. Hằng năm hoặc khi có yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cập nhật nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 5: chỉnh sửa quy định tại khoản 4 Điều 48 Luật PCRT 2012: bổ sung quy định “Hằng năm hoặc khi có yêu cầu” để làm rõ hơn nội hàm của quy định.
|
Điều luật mới.
|
Điều 7. Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền
1. Định kỳ 05 năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá. Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.
2. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm:
a) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định;
b) Thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền, kế hoạch thực hiện sau cập nhật.
3. Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
|
Bổ sung điều mới về “Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền” nhằm quy phạm hóa trách nhiệm của các cơ quan của Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền. Đây được coi là một trong những trụ cột nền tảng của công tác PCRT theo Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro của FATF và báo cáo của APG. Đây cũng là cơ sở pháp lý để Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro định kỳ mà trên thực tế Việt Nam đã và đang thực hiện theo cam kết quốc tế.
Bổ sung quy định các tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền do Chính phủ hướng dẫn.
|
Điều 7. Các hành vi bị cấm
1. Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện thực hiện hành vi rửa tiền.
|
Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện, trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền.
|
− Sửa đổi tên Điều để đảm bảo rõ ràng nội dung quy định.
− Khoản 1: bổ sung cụm từ “trợ giúp” phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 3. Giải thích từ ngữ của dự thảo Luật.
|
2. Thiết lập hoặc duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả.
|
2. Thiết lập, duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả.
|
|
3. Thiết lập và duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng được thành lập tại một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhưng không có sự hiện diện hữu hình tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó và không chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
|
3. Thiết lập, duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng vỏ bọc.
|
− Khoản 3: sửa đổi do định nghĩa ngân hàng vỏ bọc đã được chuyển lên khoản 14 Điều 3. Giải thích từ ngữ của dự thảo Luật.
|
4. Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng tại một địa điểm khác.
5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
6. Cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
7. Đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền.
|
4. Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng.
5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
6. Cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
7. Đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền.
|
- Khoản 4: bỏ cụm từ “tại một địa điểm khác” để tránh cách hiểu khác nhau tại quy định này.
|
Chương II. BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Mục 1. NHẬN BIẾT KHÁCH HÀNG VÀ CẬP NHẬT THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
|
Chương II. BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Mục 1. NHẬN BIẾT KHÁCH HÀNG VÀ CẬP NHẬT, XÁC MINH THÔNG TIN NHẬN BIẾT KHÁCH HÀNG
|
- Sửa tên mục đảm bảo phù hợp quy định tại nội dung các điều được quy định tại Chương II.
|
Điều 8. Nhận biết khách hàng
|
Điều 9. Nhận biết khách hàng
1. Nhận biết khách hàng bao gồm thu thập, cập nhật, xác minh thông tin quy định tại các điều 10, 11, 12, 13 và 14 của Luật này.
|
Bổ sung khoản 1 để làm rõ nội hàm quy định về nhận biết khách hàng.
|
1. Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
|
2. Tổ chức tài chính phải thực hiện nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
|
|
a) Khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức tài chính;
|
a) Khách hàng lần đầu mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với tổ chức tài chính;
|
− Điểm a khoản 2: thay thế cụm từ “giao dịch” thành “quan hệ” để đảm bảo bất kỳ hành vi nào của khách hàng với tổ chức tài chính nhằm sử dụng dịch vụ không chỉ gồm hành vi thiết lập giao dịch đều phải thực hiện biện pháp nhận biết khách hàng. Đồng thời, bổ sung cụm từ “lần đầu” mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với tổ chức tài chính để phù hợp với thực tiễn triển khai thực hiện hoạt động nhận biết khách hàng của đối tượng báo cáo. Nội dung này cũng đã được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCRT 2012.
|
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo;
|
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định; hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo hoặc mã giao dịch trong trường hợp người khởi tạo không có tài khoản;
|
− Điểm b khoản 2: Bổ sung cụm từ “mã giao dịch trong trường hợp người khởi tạo không có số tài khoản” trong trường hợp khách hàng không có tài khoản để đáp ứng yêu cầu tiêu chí 16.7, Khuyến nghị 16 của FATF – Chuyển tiền điện tử (phần Chú giải). Quy định này cũng phù hợp với thực tiễn vì có trường hợp khách hàng giao dịch không có tài khoản và đối với mỗi giao dịch tại ngân hàng hiện nay đều có mã giao dịch để quản lý.
|
c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;
d) Có nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.
|
c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;
d) Có nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.
|
|
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm a khoản 4 Điều 4 của Luật này phải tiến hành các biện pháp nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch có giá trị lớn;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm b khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung cấp dịch vụ môi giới mua, bán và quản lý bất động sản cho khách hàng;
c) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm c khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong trường hợp khách hàng có giao dịch mua, bán kim loại quý, đá quý có giá trị lớn bằng tiền mặt;
d) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm d khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lý tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; điều hành, quản lý hoạt động công ty của khách hàng; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh;
đ) Các tổ chức cung cấp dịch vụ quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung ứng các dịch vụ thành lập công ty; cung cấp giám đốc, thư ký giám đốc của doanh nghiệp; cung cấp văn phòng đăng ký, địa chỉ hoặc địa điểm kinh doanh; cung cấp dịch vụ đại diện cho công ty; dịch vụ ủy thác đầu tư; dịch vụ cung cấp người đại diện cho cổ đông.
|
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính phải nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi cung cấp dịch vụ kinh doanh bất động sản cho khách hàng;
c) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi khách hàng có giao dịch mua, bán kim loại quý, đá quý bằng tiền mặt có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
d) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm d khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lý tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; điều hành, quản lý công ty; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh;
đ) Tổ chức cung cấp dịch vụ quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi cung ứng các dịch vụ thành lập công ty; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký công ty cho bên thứ ba; cung cấp thỏa thuận pháp lý.
|
- Khoản 3:
+ Điều chỉnh các nội dung tham chiếu tại khoản 3 để đảm bảo chính xác (do thay đổi số thứ tự các điều của dự thảo Luật).
+ Sửa cụm từ “giá trị lớn” tại điểm a và c bằng cụm từ “giá trị bằng hoặc vượt mức quy định” để đảm bảo rõ ràng và phân biệt với các trường hợp giao dịch giá trị lớn phải báo cáo và giao dịch giá trị lớn bất thường.
+ Sửa đổi từ ngữ tại điểm b, c, d, đ phù hợp với nội dung sửa đổi tại khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật.
|
|
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
Bổ sung khoản 4 giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết các trường hợp nhận biết khách hàng; ngưỡng giao dịch phải thực hiện nhận biết khách hàng.
|
Điều 9. Thông tin nhận biết khách hàng
Thông tin nhận biết khách hàng phải có các thông tin chính sau đây:
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
1. Thông tin nhận biết khách hàng bao gồm thông tin nhận dạng khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và mục đích, bản chất của mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng với đối tượng báo cáo.
|
- Bổ sung khoản 1 để làm rõ quy định tại Điều này.
|
1. Thông tin nhận dạng khách hàng:
a) Đối với khách hàng cá nhân là người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại, số chứng minh nhân dân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại.
Đối với khách hàng cá nhân là người nước ngoài: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp, thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở Việt Nam;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số điện thoại, số fax; lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông
tin về người thành lập, đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin quy định tại điểm a khoản này.
|
2. Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có):
a) Đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại liên lạc; số chứng minh nhân dân hoặc số căn cước công dân hoặc số định danh cá nhân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại khác (nếu có);
b) Đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; số thị thực nhập cảnh, trừ trường hợp được miễn thị thực theo quy định pháp luật; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ đăng ký cư trú ở Việt Nam;
c) Đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài;
d) Đối với khách hàng cá nhân là người có từ 02 quốc tịch trở lên : thông tin theo quy định tại điểm a hoặc điểm b hoặc điểm c khoản này; thông tin về các quốc tịch, các địa chỉ đăng ký cư trú tại các quốc gia mang quốc tịch;
đ) Đối với khách hàng cá nhân là người không quốc tịch: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp, chức vụ; số giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế (nếu có); số thị thực; cơ quan cấp thị thực nhập cảnh, trừ trường hợp được miễn thị thực theo quy định pháp luật; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài (nếu có), địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở Việt Nam;
e) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập hoặc mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế; số điện thoại liên lạc; số fax, trang thông tin điện tử (nếu có); lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này và các thông tin tại điểm này đối với trường hợp người thành lập là tổ chức.
|
- Khoản 2: sửa đổi, bổ sung mới một số thông tin nhận biết khách hàng nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn và phù hợp với quy định tại Luật Quốc tịch; Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Luật cư trú 2020; Luật Căn cước công dân 2014; đồng thời, khắc phục thiếu hụt được chỉ ra tại Khuyến nghị số 10 của FATF về Xác minh thông tin khách hàng.
|
2. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi:
a) Đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi;
b) Đối với khách hàng là pháp nhân hoặc khi cung ứng dịch vụ thỏa thuận ủy quyền, đối tượng báo cáo phải thu thập thông tin về quyền sở hữu và cơ cấu kiểm soát để xác định được cá nhân có lợi ích kiểm soát và chi phối hoạt động của pháp nhân hoặc thỏa thuận ủy quyền đó.
|
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
|
− Khoản 3: bỏ nội dung quy định tại điểm b khoản 2 do nội dung này sẽ được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định của Chính phủ.
|
3. Mục đích của khách hàng trong mối quan hệ với đối tượng báo cáo.
|
4. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
|
− Khoản 4: bổ sung quy định về “bản chất của mối quan hệ kinh doanh” để phù hợp với tiêu chí 10.6, Khuyến nghị 10 - Xác minh thông tin khách hàng của FATF. Nội dung này sẽ được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định của Chính phủ.
|
|
5. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 và khoản 4 Điều này.
|
- Bổ sung Khoản 5 giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết nội dung quy định tại khoản 3, 4 Điều này.
|
Điều 10. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải thường xuyên cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong suốt thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng; bảo đảm các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành thông qua đối tượng báo cáo phù hợp với những thông tin đã biết về khách hàng, về hoạt động kinh doanh, về rủi ro và về nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
Bổ sung quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo về cập nhật các thông tin nhận biết khách hàng đảm bảo phù hợp với các hồ sơ hiện có. Bỏ cụm từ “thường xuyên” và “trong suốt”, để đối tượng báo cáo chủ động cập nhật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định, phù hợp với thực tiễn hoạt động của đối tượng báo cáo.
Quy định này cũng đáp ứng được yêu cầu của APG đối với việc tuân thủ khuyến nghị của FATF tại Khuyến nghị 10 - Xác minh thông tin khách hàng.
|
Điều 11. Biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân, hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: Giấy phép hoặc quyết định thành lập; quyết định đổi tên gọi, chia tách, sáp nhập; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (Giám đốc), Kế toán trưởng.
|
Điều 12. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
|
Sửa đổi điều 11 Luật PCRT 2012 nhằm đáp ứng yêu cầu của APG đối với việc tuân thủ Khuyến nghị 10 – Xác minh thông tin khách hàng về việc đối tượng báo cáo sử dụng nguồn thông tin độc lập đáng tin cậy (giấy tờ, thông tin được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp…). Cụ thể:
− Khoản 1: sửa đổi, bổ sung tên các giấy tờ cung cấp phù hợp với Luật Căn cước công dân và Luật Doanh nghiệp; bổ sung quy định về “các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi”, “điều lệ của tổ chức” phù hợp quy định của Luật Doanh nghiệp và yêu cầu tại Khuyến nghị 10 của FATF và thống nhất với các thông tin nhận biết khách hàng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 10 dự thảo Luật.
|
2. Đối tượng báo cáo có thể thông qua tổ chức, cá nhân khác đã hoặc đang có quan hệ với khách hàng; hoặc thông qua cơ quan quản lý hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để thu thập thông tin và đối chiếu với thông tin khách hàng cung cấp.
|
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
|
− Khoản 2:
+ Bổ sung quy định “Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định của pháp luật” phù hợp với pháp luật hiện hành về việc chia sẻ thông tin trong CSDL quốc gia về cư dân cho cá nhân, tổ chức.
+ Bổ sung quy định “tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 Luật này” để phù hợp với quy định tại Điều 13, 14 của dự thảo Luật.
|
Điều 11. Biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng
|
Điều 13. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua việc thuê tổ chức khác
|
Bố cục lại khoản 3 Điều 11 Luật PCRT năm 2012 thành quy định tại Điều 13 dự thảo Luật đảm bảo đầy đủ quy định đối với trường hợp xác minh thông tin khách hàng thông qua việc thuê các tổ chức khác thực hiện. Đồng thời, bổ sung một số yêu cầu đối với hoạt động thuê tổ chức khác xác minh thông tin khách hàng, cụ thể:
|
….
3. Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Trường hợp này đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức được thuê thực hiện đúng các quy định về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật này và chịu trách nhiệm về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng.
|
1. Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để xác minh thông tin nhận biết khách hàng, trừ tổ chức là bên thứ ba quy định tại Điều 14 của Luật này. Việc thuê tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng thực hiện theo thỏa thuận của các bên và các quy định của pháp luật có liên quan.
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức được thuê bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức được thuê.
|
- Khoản 1: bổ sung quy định tổ chức khác “được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”, theo đó việc thành lập và hoạt động của các tổ chức này phải phù hợp với quy định pháp luật có liên quan. Việc thuê tổ chức khác xác minh thông tin nhận biết khách hàng thực hiện theo các quy định pháp luật có liên quan, Luật PCRT không điều chỉnh hoạt động thuê tổ chức khác của đối tượng báo cáo.
- Khoản 2: bổ sung cụm từ “bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật” để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của cá nhân và pháp nhân đối với các thông tin được thu thập.
|
Điều 17. Hoạt động kinh doanh qua giới thiệu
1. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh qua giới thiệu, đối tượng báo cáo có thể nhận biết khách hàng thông qua bên trung gian và bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a) Bên trung gian phải thu thập, lưu giữ và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo khi được yêu cầu;
b) Bên trung gian tuân thủ các yêu cầu về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên trung gian là tổ chức nước ngoài;
c) Bên trung gian phải là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
2. Việc nhận biết khách hàng thông qua bên trung gian không loại trừ trách nhiệm của đối tượng báo cáo trong việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng.
|
Điều 14. Nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba
1. Đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Là tổ chức tài chính hoặc tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có thiết lập quan hệ với khách hàng, không bao gồm các mối quan hệ đại lý và thuê ngoài;
b) Thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức ở nước ngoài;
c) Thu thập, lưu trữ và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo khi được yêu cầu; thực hiện bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật;
d) Là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
2. Trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và có công ty mẹ là tổ chức tài chính, ngoài yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều này, đối tượng báo cáo phải bảo đảm công ty mẹ của bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, lưu trữ hồ sơ, thông tin, báo cáo và bảo đảm bí mật hồ sơ, thông tin, tài liệu báo cáo quy định tại các điều 9, 17, 38 và 40 của Luật này hoặc các khuyến nghị liên quan của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp công ty mẹ của tổ chức tài chính là tổ chức nước ngoài;
b) Việc áp dụng các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng và lưu trữ hồ sơ, thông tin giao dịch phải được kiểm soát trong toàn hệ thống;
c) Áp dụng các chính sách để giảm thiểu rủi ro đối với các lĩnh vực có rủi ro cao về rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng của bên thứ ba.
|
Điều 17 Luật PCRT 2012 được xây dựng phù hợp với khuyến nghị của FATF tại thời điểm năm 2012. Tuy nhiên, hiện nay, khuyến nghị của FATF đã được sửa đổi, trong đó có nội dung sửa đổi liên quan đến khuyến nghị về việc dựa vào bên thứ ba. Do vậy, sửa đổi tại Điều 14 dự thảo Luật để chuẩn hóa từ ngữ và phù hợp với yêu cầu của khuyến nghị số 17 của FATF - Dựa vào bên thứ ba (đã được chỉnh sửa, bổ sung).
Ngoài ra, bổ sung các quy định tại khoản 3 về trách nhiệm của bên thứ ba trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và có công ty mẹ là tổ chức tài chính theo yêu cầu tại khuyến nghị của FATF.
|
Điều luật mới.
|
Điều 15. Đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.
2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và bộ, ngành quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực của đối tượng báo cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro được ban hành hoặc phê duyệt. Đối tượng báo cáo phải phổ biến kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
|
Quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu tại tiêu chí 1.10, Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro và áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro. Theo nhận định của APG về tiêu chí này, Việt Nam chưa có quy định đầy đủ về trách nhiệm thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
Đồng thời, điều luật này được thiết kế làm cơ sở cho các đối tượng báo cáo thực hiện tự đánh giá những loại rủi ro về rửa tiền trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình cũng như hỗ trợ cho hoạt động giám sát chung về PCRT của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền.
|
Điều 12. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro
1. Đối tượng báo cáo phải xây dựng quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro theo loại khách hàng, loại sản phẩm, dịch vụ khách hàng sử dụng, nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở chính của khách hàng.
|
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
|
- Khoản 1: sửa đổi làm rõ căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo xây dựng quy trình quản lý rủi ro, phân loại khách hàng phù hợp với quy định tại Điều 15 dự thảo Luật về trách nhiệm thực hiện đánh giá rủi ro rửa tiền của đối tượng báo cáo.
|
2. Đối với khách hàng có mức độ rủi ro thấp, đối tượng báo cáo có thể áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng ở mức độ thấp hơn nhưng phải bảo đảm thu thập được đầy đủ thông tin về khách hàng quy định tại Điều 9 của Luật này.
3. Đối với khách hàng, giao dịch có mức độ rủi ro cao quy định tại các điều 13, 14, 15, 16 và 17 của Luật này, ngoài việc thực hiện các biện pháp nhận biết quy định tại Điều 9 của Luật này, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp đánh giá tăng cường theo quy định của Luật này.
4. Đối với khách hàng, giao dịch khác có mức độ rủi ro cao không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, ngoài việc thực hiện các biện pháp nhận biết quy định tại Điều 9 của Luật này, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp đánh giá tăng cường theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
2. Đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này ;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b Khoản này, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
|
- Cơ cấu lại khoản 2, 3 và 4 Điều 12 của Luật PCRT năm 2012 thành khoản 2 của dự thảo Luật. Cụ thể: sửa đổi, bổ sung làm rõ yêu cầu đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp theo mức độ tương ứng trên cơ sở kết quả phân loại đánh giá rủi ro rửa tiền quy định tại khoản 1 Điều này.
Việc sửa đổi này nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro và áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro, Khuyến nghị 10 – Xác minh thông tin khách hàng và các chú giải của Khuyến nghị số 1, 10 của FATF cũng như các khuyến nghị hành động nêu tại báo cáo của APG.
|
|
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết điểm a và điểm c khoản 2 Điều này ày.
|
- Khoản 3: bổ sung quy định giao Thống đốc NHNN hướng dẫn chi tiết về các biện pháp tăng cường và biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ do nội dung này mang tính kỹ thuật.
|
Điều 13. Khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
|
- Sửa tên điều để phù hợp với nội hàm của quy định. Đối tượng điều chỉnh của Điều này bao gồm khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và các đối tượng có liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều này.
|
1. Khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức hữu quan của nước ngoài.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo danh sách khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản này trên cơ sở khuyến nghị của tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
1. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức của nước ngoài và tổ chức quốc tế.
Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo.
|
- Khoản 1:
+ Bổ sung cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị bao gồm cả người giữ chức vụ cấp cao trong các tổ chức quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 12.2 Khuyến nghị số 12 của FATF về Cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
+ Bổ sung việc đối tượng báo cáo có thể sử dụng các nguồn thông tin khác ngoài nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do NHNN thông báo để lập danh sách PEP nước ngoài áp dụng tại đối tượng báo cáo.
|
2. Đối tượng báo cáo phải có hệ thống quản lý rủi ro để xác định khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và áp dụng các biện pháp sau đây:
a) Xây dựng quy chế kiểm soát nội bộ đối với việc mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch khi khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi được xác định là cá nhân có ảnh hưởng chính trị;
b) Thực hiện các biện pháp nhằm nhận biết nguồn gốc tài sản của khách hàng;
c) Tăng cường giám sát khách hàng và quan hệ kinh doanh với khách hàng.
3. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp quy định tại khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người quy định tại khoản 1 Điều này.
|
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu sau:
a) Có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị; người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao theo quy định nội bộ trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
3. Đối tượng báo cáo phải thực hiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Đồng sở hữu với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý;
c) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý do cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này sở hữu.
|
− Sửa đổi khoản 2, 3 Luật PCRT 2012 về các quy định cụ thể mà đối tượng báo cáo phải áp dụng để xác định, nhận biết và áp dụng biện pháp giám sát chặt chẽ đối với cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và những người có liên quan.
Việc sửa đổi này nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 10.12, 10.13 Khuyến nghị số 10 – Xác minh thông tin khách hàng và đáp ứng một phần yêu cầu Khuyến nghị số 12 - Cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
|
Điều 14. Quan hệ ngân hàng đại lý
Đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với ngân hàng đối tác nước ngoài phải áp dụng các biện pháp sau đây:
1. Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và bảo đảm ngân hàng đối tác phải chịu sự giám sát, quản lý của cơ quan quản lý có thẩm quyền nước ngoài;
2. Đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác;
3. Phải được sự chấp thuận của Tổng giám đốc (Giám đốc) hoặc người được ủy quyền của đối tượng báo cáo trước khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý;
4. Trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo.
|
Điều 18. Quan hệ ngân hàng đại lý
1. Đối tượng báo cáo là ngân hàng khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải thực hiện các nội dung sau:
a) Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hoặc các vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền;
b) Đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác;
c) Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý.
2. Trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo; tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
3. Việc thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý của đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, hoặc người được Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của đối tượng báo cáo ủy quyền.
|
Chỉnh sửa quy định này nhằm làm rõ nội hàm trong quan hệ ngân hàng đại lý. Theo quy định này, trường hợp đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán, dịch vụ khác thì phải áp dụng biện pháp phù hợp.
Ngoài ra, sửa đổi, cấu trúc lại khoản 1, 3, 4 Điều 14 của Luật PCRT năm 2012 cũng như bổ sung khoản 3 Điều 18 của dự thảo Luật để đảm bảo chính xác về từ ngữ và phù hợp hơn với các yêu cầu tại Khuyến nghị 13 của FATF về Hoạt động ngân hàng đại lý; đồng thời nhằm khắc phục những thiếu hụt pháp lý được chỉ ra tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan tới Khuyến nghị số 13.
|
Điều 15. Các giao dịch liên quan tới công nghệ mới
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy trình nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng công nghệ mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng công nghệ mới và không gặp mặt trực tiếp.
2. Quy trình quy định tại khoản 1 Điều này phải bảo đảm việc cập nhật thông tin khách hàng có hiệu quả như việc cập nhật thông tin khách hàng gặp mặt trực tiếp.
|
Điều 19. Trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
2. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
|
− Sửa đổi tên điều và bổ sung khoản 1 quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng.
− Khoản 1: sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 15 của Luật PCRT 2012 phù hợp với thực tế triển khai, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới tại các tổ chức báo cáo nhằm giảm thiểu rủi ro do các loại hình sản phẩm, dịch vụ mới hoặc sản phẩm dịch vụ áp dụng công nghệ đổi mới, tiên tiến có thể tiềm ẩn các rủi ro về rửa tiền.
− Bổ sung khoản 2 quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo thực hiện các biện pháp để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
Các quy định sửa đổi điều này tại dự thảo cũng nhằm đáp ứng một phần các yêu cầu tại Khuyến nghị số 15 về Công nghệ mới của FATF và khắc phục những thiếu hụt được chỉ ra tại báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan đến Khuyến nghị số 15 về Công nghệ mới và Khuyến nghị số 22 về Các DNFBP: Theo dõi cập nhật thông tin khách hàng.
|
Điều 16. Giám sát đặc biệt một số giao dịch
|
Điều 20. Giám sát một số giao dịch đặc biệt
|
Sửa đổi tên điều để đảm bảo rõ ràng trong quy định.
Nội dung điều này nhằm đáp ứng khuyến nghị số 19 của FATF về “Các quốc gia có rủi ro cao”, phù hợp với định hướng xây dựng Luật PCRT sửa đổi (chính sách 3) về hoàn thiện các quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo.
|
1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đặc biệt đối với các giao dịch sau đây:
a) Giao dịch với giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp;
b) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.
|
1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đối với các giao dịch đặc biệt sau:
a) Giao dịch có giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp theo quy định của Chính phủ;
b) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.
|
- Điểm a khoản 1: đây là các nội dung mang tính định lượng, có thể thay đổi theo từng thời kỳ, do đó dự thảo Luật giao Chính phủ hướng dẫn nội dung này.
|
2. Đối tượng báo cáo phải kiểm tra cơ sở pháp lý và mục đích của giao dịch; trường hợp có nghi ngờ về tính trung thực, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải lập báo cáo về giao dịch đáng ngờ gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và có thể từ chối giao dịch đó.
|
2. Để giám sát giao dịch đặc biệt, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
|
− Khoản 2: bổ sung quy định yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường cập nhật thông tin khách hàng phù hợp với mức độ rủi ro nhằm đáp ứng yêu cầu Khuyến nghị 19 của FATF.
|
Điều 18. Bảo đảm tính minh bạch của pháp nhân và thỏa thuận ủy quyền
|
Điều 21. Minh bạch thông tin của pháp nhân
|
- Điều 18 Luật PCRT 2012 được tách ra thành hai phần, gồm Điều 21 dự thảo về Minh bạch thông tin của pháp nhân và Điều 22 dự thảo về Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý.
- Sửa tên Điều 21 "Minh bạch thông tin của pháp nhân" để phù hợp với tên gọi và nội dung của Khuyến nghị 24 của FATF về Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân.
|
1. Sở giao dịch chứng khoán phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp niêm yết.
2. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của các doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán.
|
1. Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý; danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân (nếu có); các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
|
- Khoản 1 và khoản 2 của Luật PCRT 2012 được cơ cấu thành khoản 1 của dự thảo Luật để sửa đổi, bổ sung, làm rõ thông tin về pháp nhân mà cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật và lưu trữ nhằm đáp ứng tiêu chí 24.1, 24.6, 24.7, 24.9 Khuyến nghị 24 - Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân.
|
3. Tổ chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ pháp lý về soạn thảo thỏa thuận ủy quyền cho khách hàng phải lưu giữ, duy trì và cập nhật thông tin về thỏa thuận ủy quyền và chủ sở hữu hưởng lợi theo thỏa thuận đó.
|
2. Pháp nhân có trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm cả danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ; chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân.
|
- Khoản 2: Bổ sung trách nhiệm của pháp nhân phải thu thập, cập nhật và lưu trữ thông tin cơ bản, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi nhằm đáp ứng tiêu chí 24.4, 24.6, 24.9 Khuyến nghị 24 - Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân.
|
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này cung cấp thông tin.
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan, pháp nhân cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
- Khoản 3: Bổ sung cụm từ “về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm” để làm rõ thẩm quyền các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin.
|
Điều 18. Bảo đảm tính minh bạch của pháp nhân và thỏa thuận ủy quyền
1. Sở giao dịch chứng khoán phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp niêm yết.
2. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của các doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán.
|
Điều 22. Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý
1. Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệm sau đây:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin nhận dạng về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác.
Các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau khi bên nhận ủy thác ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
|
Điều khoản này được tách ra từ Điều 18 Luật phòng, chống rửa tiền 2012 như đã đề cập ở trên. Điều 22 dự thảo về “Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý” nhằm đáp ứng yêu cầu tại Khuyến nghị 25 của FATF về “Tính minh bạch và quyền sở hữu hưởng lợi của thỏa thuận pháp lý”. Cụ thể:
− Điểm a Khoản 1 quy định yêu cầu người nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý phải thu thập, cập nhật và lưu giữ thông tin về các bên tham gia ủy thác, cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác nhằm đáp ứng tiêu chí 25.1a,b, 25.2 Khuyến nghị 25 của FATF.
|
|
b) Cung cấp các thông tin quy định tại điểm a khoản này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ khách hàng với tổ chức, cá nhân này liên quan đến tài sản được ủy thác khi được yêu cầu.
|
− Điểm b Khoản 1 quy định yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin theo quy định tại điểm a cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu nhằm đáp ứng tiêu chí 25.4 Khuyến nghị số 25; cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ với tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính nhằm đáp ứng tiêu chí 25.3 và các thiếu hụt được đánh giá tại tiêu chí 25.3 Khuyến nghị 25 của FATF.
|
3. Tổ chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ pháp lý về soạn thảo thỏa thuận ủy quyền cho khách hàng phải lưu giữ, duy trì và cập nhật thông tin về thỏa thuận ủy quyền và chủ sở hữu hưởng lợi theo thỏa thuận đó.
|
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này và văn bản ủy thác khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng là bên nhận ủy thác.
|
− Khoản 2 quy định việc tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền tiếp cận thông tin theo quy định tại khoản 1 khi thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng là bên nhận ủy thác nhằm đáp ứng Khuyến nghị 25 của FATF.
|
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này cung cấp thông tin.
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
− Khoản 3: Bổ sung cụm từ “về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm” để làm rõ thẩm quyền các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin.
|
Điều 19. Bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận
1. Các tổ chức phi lợi nhuận được thành lập hoặc hoạt động tại Việt Nam phải duy trì, cập nhật hồ sơ có đầy đủ các thông tin về tổ chức, cá nhân tài trợ; tổ chức, cá nhân tiếp nhận tài trợ; số tiền tài trợ và mục đích sử dụng tiền tài trợ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này phải được lưu trữ đầy đủ và cung cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu.
|
Điều 23. Minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận
1. Tổ chức phi lợi nhuận phải thu thập, cập nhật, lưu trữ hồ sơ, thông tin sau đây:
a) Thông tin về tổ chức, cá nhân tài trợ, gồm: tên đầy đủ, địa chỉ, số tiền tài trợ, phương thức tài trợ và các thông tin khác (nếu có);
b) Thông tin về tổ chức, cá nhân tiếp nhận tài trợ, gồm: tên đầy đủ, địa chỉ, số tiền nhận tài trợ, phương thức tài trợ, mục đích sử dụng tiền tài trợ và các thông tin khác (nếu có);
c) Chứng từ, tài liệu liên quan tới việc tài trợ và tiếp nhận tài trợ.
2. Tổ chức phi lợi nhuận phải lưu trữ hồ sơ, thông tin quy định tại khoản 1 Điều này ít nhất 05 năm kể từ thời điểm hoạt động tài trợ hoặc tiếp nhận tài trợ kết thúc.
3. Trường hợp tổ chức phi lợi nhuận giải thể hoặc kết thúc hoạt động, hồ sơ, thông tin nêu tại khoản 1 Điều này phải được bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền quản lý đối với tổ chức phi lợi nhuận đó.
|
- Sửa đổi, bổ sung các quy định chi tiết liên quan đến các hoạt động tiếp nhận tài trợ của tổ chức phi lợi nhuận nhằm phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Các nội dung này được luật hóa từ các quy định chi tiết tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCRT 2012.
|
|
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức phi lợi nhuận cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này.
|
- Khoản 4: Bổ sung để làm rõ thẩm quyền các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin.
|
Mục 1. NHẬN BIẾT KHÁCH HÀNG VÀ CẬP NHẬT THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
Điều 20. Xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Căn cứ vào các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây:
|
Mục 2. TRÁCH NHIỆM XÂY DỰNG QUY ĐỊNH NỘI BỘ VÀ BÁO CÁO, CUNG CẤP, LƯU TRỮ HỒ SƠ, THÔNG TIN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền bao gồm nội dung chính sau đây:
|
Sửa đổi tên mục để bao quát các điều khoản quy định tại mục này.
Sửa đổi Điều này nhằm khắc phục những thiếu hụt được chỉ ra tại báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan đến Khuyến nghị số 18 về Kiểm soát nội bộ, chi nhánh nước ngoài và công ty con của FATF. Cụ thể:
- Khoản 1: Bổ sung cụm từ “là tổ chức”, theo đó dự thảo Luật quy định đối với đối tượng báo cáo là tổ chức sẽ phải đảm bảo đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 24 dự thảo Luật.
|
a) Chính sách chấp nhận khách hàng;
|
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
|
+ Điểm a: bổ sung “nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng …’ trong chính sách chấp nhận khách hàng nhằm khắc phục thiếu hụt được chỉ ra tại báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan đến tiêu chí 10.19 Khuyến nghị số 10 của FATF về Xác minh thông tin khách hàng.
|
b) Quy trình, thủ tục nhận biết khách hàng, xác minh và cập nhật thông tin khách hàng;
|
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
|
|
|
c) Chính sách, quy trình quản lý rủi ro trong đó có các quy định tại khoản 1 Điều 16, khoản 1 Điều 19 và khoản 3 Điều 34 Luật này;
|
+ Điểm c: bổ sung quy định yêu cầu đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ có nội dung “Chính sách, quy trình quản lý rủi ro …” phù hợp với các quy định mới tại luật này yêu cầu đối tượng báo cáo thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền.
|
c) Giao dịch phải báo cáo;
d) Quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ;
đ) Lưu giữ và bảo mật thông tin;
e) Áp dụng biện pháp tạm thời, nguyên tắc xử lý trong các trường hợp trì hoãn thực hiện giao dịch;
g) Chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
|
d) Quy trình báo cáo các giao dịch phải báo cáo;
đ) Quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ phải báo cáo;
e) Lưu trữ và bảo mật thông tin;
g) Áp dụng biện pháp tạm thời, nguyên tắc xử lý trong các trường hợp trì hoãn thực hiện giao dịch;
h) Chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
|
+ Sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 20 Luật PCRT 2012 thành điểm d tại dự thảo Luật để đảm bảo rõ ràng nội dung quy định.
|
h) Bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;
|
i) Tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;
|
+ Điểm i: bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải ban hành quy định về “Tuyển dụng nhân sự; đào tạo,…” nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 18.1 Khuyến nghị 18 của FATF.
|
i) Kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
|
k) Kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
2. Đối tượng báo cáo là doanh nghiệp siêu nhỏ, cá nhân phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền có nội dung theo quy định tại các điểm a, b, c, đ, e và g khoản 1 Điều này.
|
- Bổ sung khoản 2: đối với đối tượng báo cáo là các doanh nghiệp siêu nhỏ, cá nhân, quy định nội bộ chỉ phải có một số nội dung quy định tại khoản 1 Điều 24, phù hợp với loại hình, quy mô hoạt động của các đối tượng này.
|
2. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý có hiệu quả các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được phổ biến đến từng cá nhân, bộ phận có liên quan của đối tượng báo cáo.
|
3. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo.
|
− Khoản 3: Bổ sung quy định “áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo” nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị số 18 của FATF về Kiểm soát nội bộ, chi nhánh nước ngoài và công ty con.
|
3. Đối tượng báo cáo phải thường xuyên đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung phù hợp.
|
4. Hằng năm, đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
|
− Khoản 4: bổ sung quy định về định kỳ “hằng năm” đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung phù hợp để phù hợp với yêu cầu khuyến nghị của FATF về việc nội dung quy định nội bộ cần phải được thường xuyên xem xét, cập nhật. Việc cụ thể hóa định kỳ “hằng năm” cũng đảm bảo rõ ràng, thuận lợi hơn cho quá trình triển khai, thực hiện của đối tượng báo cáo.
|
|
5. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết Điều này.
|
− Khoản 5: do các nội dung tại Điều này mang tính kỹ thuật, dự thảo Luật bổ sung quy định giao Thống đốc NHNN ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết các nội dung quy định tại Điều này.
|
Mục 2. TRÁCH NHIỆM BÁO CÁO, CUNG CẤP VÀ LƯU GIỮ THÔNG TIN
Điều 21. Báo cáo giao dịch có giá trị lớn
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi thực hiện các giao dịch có giá trị lớn.
|
Điều 25. Báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi thực hiện các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo.
|
Sửa tên điều phù hợp với tên gọi khái niệm đã được sửa đổi tại khoản 4 Điều 3 dự thảo Luật. Giải thích từ ngữ.
|
2. Theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
|
2. Thủ tướng Chính phủ quy định mức giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
|
- Khoản 2: bỏ cụm từ “Theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” vì đây là thủ tục nội bộ trong ban hành văn bản của Thủ tướng Chính phủ, không cần thiết quy định tại Luật.
|
Điều 22. Báo cáo giao dịch đáng ngờ
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền. Báo cáo giao dịch đáng ngờ được thực hiện theo mẫu do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.
|
Điều 26. Báo cáo giao dịch đáng ngờ
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có đủ các yếu tố sau:
a) Giao dịch được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;
b) Cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản hoặc tài sản có nguồn gốc từ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của cá nhân đó hoặc cá nhân, tổ chức liên quan tới cá nhân đó trong hoặc sau thời gian thực hiện hành vi phạm tội.
|
- Làm rõ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật PCRT 2012 tại khoản 1, 2 Điều 26 của dự thảo Luật theo hướng Luật hóa các quy định hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP và có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, cụ thể:
+ Khoản 1: bổ sung quy định các yếu tố mà khi có đủ các yếu tố này, đối tượng báo cáo phải báo cáo giao dịch đáng ngờ đối với các giao dịch liên quan đến tội phạm.
|
|
2. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch liên quan đến rửa tiền được xác định từ việc xem xét, thu thập và phân tích thông tin khi khách hàng, giao dịch có một hoặc nhiều dấu hiệu đáng ngờ theo quy định tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này và từ các dấu hiệu đáng ngờ khác do đối tượng báo cáo xác định.
|
+ Khoản 2 tại dự thảo Luật: nhằm quy định các trường hợp khác ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1, theo đó, khi có sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch liên quan đến rửa tiền được xác định từ việc xem xét, thu thập và phân tích thông tin khi khách hàng, giao dịch có một hoặc nhiều dấu hiệu đáng ngờ thuộc từng lĩnh vực cụ thể quy định tại các Điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và Điều 33 của Luật này và từ các dấu hiệu đáng ngờ khác do đối tượng báo cáo xác định.
|
8. Trong thực tế hoạt động, nếu phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu cơ bản nêu trên, đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ quy định bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này.
|
3. Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu nêu tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này, đối tượng báo cáo, các bộ, ngành có liên quan thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ hướng dẫn và bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực.
|
− Khoản 3: sửa đổi khoản 8 Điều 22 Luật PCRT 2012:
+ Bỏ cụm từ “cơ bản” để chuẩn hóa từ ngữ, tránh nhầm lẫn với cụm từ “các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản” theo quy định tại Điều 27 dự thảo Luật.
+ Bổ sung “các bộ, ngành có liên quan thông báo”: thông tin từ các bộ, ngành liên quan là một trong các cơ sở để NHNN trình Chính phủ bổ sung dấu hiệu giao dịch đáng ngờ mới phát sinh của các ngành, lĩnh vực bên cạnh thông tin từ các đối tượng báo cáo.
|
2. Các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản bao gồm:
a) Khách hàng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán;
b) Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính;
d) Số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan do khách hàng cung cấp không thể liên lạc được hoặc không có số này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch;
đ) Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo uỷ quyền của tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo;
e) Các giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo;
g) Các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân này;
h) Giao dịch của khách hàng thực hiện thông qua đối tượng báo cáo không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
|
Điều 27. Các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản
1. Khách hàng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán.
2. Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính.
4. Số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan do khách hàng cung cấp không thể liên lạc được hoặc không tồn tại số điện thoại này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch.
5. Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo uỷ quyền của tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo.
6. Các giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo.
7. Các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân này.
8. Giao dịch của khách hàng thực hiện thông qua đối tượng báo cáo không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
|
Kết cấu lại khoản 2 Điều 22 Luật PCRT 2012 thành Điều 27 dự thảo Luật.
|
3. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm:
a) Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không;
b) Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo;
c) Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường;
d) Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt động kinh doanh;
đ) Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; tài khoản của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn;
e) Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu;
g) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
h) Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn;
|
Điều 28. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng
1. Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không.
2. Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo.
3. Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn bất thường, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường.
4. Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt động kinh doanh.
5. Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; tài khoản của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn bất thường.
6. Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu.
7. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
8. Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn.
|
− Kết cấu lại khoản 3 Điều 22 Luật PCRT 2012 thành Điều 28:
+ Sửa đổi cụm từ “có giá trị lớn bất thường” để phân biệt đối với các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo theo quy định tại dự thảo Luật.
|
i) Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng;
|
9. Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng.
|
- Điểm i khoản 3 Điều 22 Luật PCRT 2012 chỉnh sửa, bổ sung thành khoản 9 Điều 28 dự thảo Luật để loại trừ các trường hợp đã báo cáo tại điểm a khoản 1 Điều 26 dự thảo Luật.
|
k) Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm, trừ trường hợp tổ chức tín dụng yêu cầu;
|
10. Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm, trừ trường hợp tổ chức tín dụng yêu cầu.
|
|
l) Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay, cho thuê tài chính hoặc uỷ thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch;
|
11. Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay hoặc uỷ thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch.
|
- Khoản 11: bỏ cụm từ “cho thuê tài chính” để đảm bảo tính khả thi trong thực tế triển khai của đối tượng báo cáo.
|
m) Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không rõ ràng, minh bạch.
|
12. Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không đầy đủ, không chính xác.
|
- Khoản 12: Sửa đổi cụm từ “không rõ ràng, minh bạch” thành “không đầy đủ, không chính xác” để đảm bảo rõ ràng quy định.
|
|
13. Nghi ngờ hoặc có dấu hiệu nghi ngờ sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động công ty hoặc giao dịch giúp cho đối tượng cá nhân khác.
14. Các giao dịch trực tuyến qua tài khoản liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập, địa chỉ giao thức Internet (địa chỉ IP) ở nước ngoài.
|
- Bổ sung khoản 13 và khoản 14 tại dự thảo Luật để phù hợp với thực tiễn quá trình tiếp nhận báo cáo giao dịch đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng.
|
|
Điều 29. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trung gian thanh toán
1. Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên ví điện tử; tiền nạp vào và rút ra nhanh khỏi ví điện tử; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư ví điện tử rất nhỏ hoặc bằng không.
2. Khách hàng thường xuyên thực hiện nạp tiền nhiều lần với giá trị nhỏ vào một ví điện tử, sau đó thực hiện giao dịch chuyển tiền giá trị lớn sang ví điện tử khác hoặc thực hiện giao dịch rút tiền giá trị lớn về tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ của khách hàng tại ngân hàng hoặc ngược lại.
3. Các giao dịch chuyển tiền thường xuyên có giá trị nhỏ từ nhiều ví điện tử khác nhau về một ví điện tử hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều ví điện tử và các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo; ví điện tử phát sinh nhiều giao dịch chuyển tiền cho ví điện tử khác với thời gian khởi tạo giao dịch nhanh bất thường.
4. Ví điện tử của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; ví điện tử của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền nạp vào có giá trị lớn bất thường.
5. Giao dịch nạp tiền vào ví điện tử, rút tiền ra khỏi ví điện tử hay chuyển tiền giữa các ví điện tử được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng.
6. Có cơ sở hợp lý để nghi ngờ khách hàng sử dụng ví điện tử cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động của tổ chức hoặc giao dịch thay cho đối tượng cá nhân khác.
7. Khách hàng là đơn vị chấp nhận thanh toán vẫn phát sinh giao dịch mặc dù trang thông tin điện tử chính thức hoặc trụ sở của khách hàng này qua xác minh đã ngừng hoạt động.
8. Các giao dịch trực tuyến qua ví điện tử liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ giao thức Internet (địa chỉ IP).
9. Khách hàng thường xuyên sử dụng thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ IP ở nước ngoài để truy cập vào ví điện tử hoặc thực hiện giao dịch trên ví điện tử; khách hàng thường xuyên sử dụng một thiết bị đăng nhập hoặc một địa chỉ IP để thực hiện giao dịch trên nhiều ví điện tử (không cùng một chủ ví điện tử).
|
- Bổ sung Điều 29 về Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trung gian thanh toán phù hợp với việc bổ sung đối tượng báo cáo tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật.
|
4. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
a) Khách hàng yêu cầu mua một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn hoặc yêu cầu thanh toán trọn gói phí bảo hiểm một lần đối với các sản phẩm bảo hiểm không áp dụng hình thức thanh toán trọn gói, trong khi những hợp đồng bảo hiểm hiện tại của khách hàng chỉ có giá trị nhỏ và thanh toán định kỳ;
b) Khách hàng yêu cầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với khoản phí bảo hiểm định kỳ không phù hợp với thu nhập hiện tại của khách hàng hoặc yêu cầu mua hợp đồng bảo hiểm liên quan đến công việc kinh doanh nằm ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng;
c) Người mua hợp đồng bảo hiểm và thanh toán từ tài khoản không phải là tài khoản của mình hoặc bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên;
d) Khách hàng yêu cầu thay đổi người thụ hưởng đã chỉ định hoặc bằng người không có mối quan hệ rõ ràng với người mua hợp đồng bảo hiểm;
đ) Khách hàng chấp nhận tất cả các điều kiện bất lợi không liên quan đến tuổi tác, sức khỏe của mình; khách hàng đề nghị mua bảo hiểm với mục đích không rõ ràng và miễn cưỡng cung cấp lý do tham gia bảo hiểm; điều kiện và giá trị hợp đồng bảo hiểm mâu thuẫn với nhu cầu của khách hàng;
e) Khách hàng hủy hợp đồng bảo hiểm ngay sau khi mua và yêu cầu chuyển tiền cho bên thứ ba; khách hàng thường xuyên tham gia bảo hiểm và nhượng lại hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba;
g) Khách hàng là doanh nghiệp có số lượng hợp đồng bảo hiểm cho nhân viên hoặc mức phí bảo hiểm của hợp đồng đóng phí một lần tăng bất thường;
h) Doanh nghiệp bảo hiểm thường xuyên chi trả bảo hiểm với số tiền lớn cho cùng một khách hàng.
|
Điều 30. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
1. Khách hàng yêu cầu mua một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn bất thường hoặc yêu cầu thanh toán trọn gói phí bảo hiểm một lần đối với các sản phẩm bảo hiểm không áp dụng hình thức thanh toán trọn gói, trong khi những hợp đồng bảo hiểm hiện tại của khách hàng chỉ có giá trị nhỏ và thanh toán định kỳ.
2. Khách hàng yêu cầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với khoản phí bảo hiểm định kỳ không phù hợp với thu nhập hiện tại của khách hàng hoặc yêu cầu mua hợp đồng bảo hiểm liên quan đến công việc kinh doanh nằm ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng.
3. Bên mua bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm từ tài khoản không phải là tài khoản của bên mua bảo hiểm, tài khoản của tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm ủy quyền; hoặc thanh toán bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên.
4. Khách hàng yêu cầu thay đổi người thụ hưởng đã chỉ định bằng người không có mối quan hệ rõ ràng với bên mua bảo hiểm.
5. Khách hàng chấp nhận tất cả các điều kiện bất lợi không liên quan đến tuổi tác, sức khỏe của mình; khách hàng đề nghị mua bảo hiểm với mục đích không rõ ràng và miễn cưỡng cung cấp lý do tham gia bảo hiểm; điều kiện và giá trị hợp đồng bảo hiểm mâu thuẫn với nhu cầu của khách hàng.
6. Khách hàng hủy hợp đồng bảo hiểm ngay sau khi mua và yêu cầu chuyển tiền phí bảo hiểm đã đóng cho bên thứ ba; khách hàng thường xuyên tham gia bảo hiểm và nhượng lại hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba.
7. Khách hàng là doanh nghiệp có số lượng hợp đồng bảo hiểm cho nhân viên hoặc mức phí bảo hiểm của hợp đồng đóng phí một lần tăng bất thường.
8. Doanh nghiệp bảo hiểm thường xuyên chi trả bảo hiểm với số tiền lớn cho cùng một khách hàng.
|
- Kết cấu lại khoản 4 Điều 22 Luật PCRT 2012 thành Điều 30 dự thảo Luật:
+ Sửa đổi cụm từ “có giá trị lớn bất thường” để phân biệt đối với các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo theo quy định tại dự thảo Luật.
+ Khoản 3: sửa đổi để phù hợp với thực tiễn phát sinh các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ mà NHNN qua quá trình tiếp nhận, thu thập, phân tích thông tin báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các đối tượng báo cáo có được thông tin.
|
5. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm:
a) Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số ngày do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện;
b) Khách hàng thực hiện chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà không có lý do hợp lý;
c) Công ty chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh doanh chứng khoán;
d) Người không cư trú chuyển số tiền lớn từ tài khoản giao dịch chứng khoán ra khỏi Việt Nam;
đ) Khách hàng thường xuyên bán danh mục đầu tư và đề nghị công ty chứng khoán thanh toán bằng tiền mặt hoặc séc;
e) Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán bằng tiền mặt hoặc séc trong khoảng thời gian ngắn hoặc sẵn sàng đầu tư vào các danh mục chứng khoán không có lợi;
g) Tài khoản chứng khoán của khách hàng không hoạt động trong một thời gian dài nhưng đột nhiên được đầu tư lớn không phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng;
h) Giao dịch mua, bán chứng khoán có nguồn tiền từ các quỹ đầu tư được mở ở các vùng lãnh thổ được các tổ chức quốc tế xếp loại là có nguy cơ rửa tiền cao.
|
Điều 31. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán
1. Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số ngày do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện.
2. Công ty chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh doanh chứng khoán.
3. Người không cư trú chuyển số tiền lớn từ tài khoản giao dịch chứng khoán hoặc thanh lý các hợp đồng ủy thác đầu tư chứng khoán để chuyển tiền ra khỏi Việt Nam.
4. Khách hàng thường xuyên bán tất cả cổ phiếu trong danh mục đầu tư và đề nghị công ty chứng khoán ký ủy nhiệm chi để khách hàng rút tiền mặt từ ngân hàng thương mại.
5. Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán không có lợi trong khoảng thời gian ngắn.
6. Tài khoản chứng khoán của khách hàng không hoạt động trong một thời gian dài nhưng đột nhiên được đầu tư lớn không phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng.
7. Giao dịch mua, bán chứng khoán có nguồn tiền từ các quỹ đầu tư được mở ở các quốc gia, vùng lãnh thổ có rủi ro cao về rửa tiền.
|
− Kết cấu lại khoản 5 Điều 22 Luật PCRT 2012 thành Điều 31 dự thảo Luật:
+ Bỏ điểm b, sửa đổi điểm d, đ, e khoản 5 Điều 22 Luật PCRT năm 2012 thành khoản 3, 4, 5 Điều 31 dự thảo Luật để phù hợp với thực tiễn phát sinh các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán.
|
|
8. Nhà đầu tư nước ngoài cư trú ở quốc gia, vùng lãnh thổ có rủi ro cao về rửa tiền góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán tại Việt Nam.
|
+ Bổ sung khoản 8 tại dự thảo Luật để phù hợp với quy định pháp luật về lĩnh vực chứng khoán.
|
6. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trò chơi có thưởng, casino bao gồm:
a) Khách hàng có dấu hiệu liên tục cố tình thua tại casino;
b) Khách hàng đổi số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn tại casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng nhưng không tham gia chơi hoặc chơi với số lượng rất nhỏ sau đó đổi lại thành tiền mặt hoặc séc, hối phiếu ngân hàng hoặc chuyển tiền đến tài khoản khác;
c) Khách hàng yêu cầu chuyển tiền thắng cược, trúng thưởng cho bên thứ ba không có mối quan hệ rõ ràng với khách hàng hoặc khi bên thứ ba không có nơi thường trú cùng với khách hàng;
d) Khách hàng bổ sung tiền mặt hoặc séc vào số tiền thắng cược, trúng thưởng và yêu cầu casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng chuyển thành séc có giá trị lớn;
đ) Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng đổi số lượng đồng tiền quy ước thành tiền mặt;
e) Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu bên thứ ba đổi hộ số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn và nhờ bên thứ ba chơi cá cược hộ;
g) Khách hàng nhiều lần trong một ngày mua vé xổ số, vé đặt cược, đổi đồng tiền quy ước ở gần mức giới hạn giao dịch có giá trị lớn;
h) Khách hàng mua lại vé số trúng thưởng có giá trị lớn từ người khác.
|
Điều 32. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh trò chơi có thưởng
1. Khách hàng có dấu hiệu liên tục cố tình thua tại tổ chức kinh doanh trò chơi có thưởng.
2. Khách hàng đổi số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn bất thường tại casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng nhưng không tham gia chơi hoặc chơi với số lượng rất nhỏ sau đó đổi lại thành tiền mặt hoặc séc, hối phiếu ngân hàng hoặc chuyển tiền đến tài khoản khác.
3. Khách hàng yêu cầu chuyển tiền thắng cược, trúng thưởng cho bên thứ ba không có mối quan hệ rõ ràng với khách hàng hoặc khi bên thứ ba không có nơi thường trú cùng với khách hàng.
4. Khách hàng bổ sung tiền mặt hoặc séc vào số tiền thắng cược, trúng thưởng và yêu cầu điểm kinh doanh trò chơi có thưởng chuyển thành séc có giá trị lớn bất thường.
5. Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng đổi số lượng đồng tiền quy ước thành tiền mặt.
6. Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu bên thứ ba đổi hộ số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn bất thường và nhờ bên thứ ba đặt cược hộ.
7. Khách hàng nhiều lần trong một ngày mua vé xổ số, vé đặt cược, đổi đồng tiền quy ước ở gần mức giới hạn giao dịch có giá trị lớn bất thường.
8. Khách hàng mua lại vé số trúng thưởng có giá trị lớn từ người khác.
|
− Kết cấu lại khoản 6 Điều 22 Luật PCRT 2012 thành Điều 32 dự thảo Luật:
+ Sửa đổi khoản 1 cụm từ “casino” thành “tổ chức kinh doanh trò chơi có thưởng” để phù hợp với điểm a khoản 2 Điều 4.
+ Sửa đổi cụm từ “có giá trị lớn bất thường” để phân biệt đối với các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo theo quy định tại dự thảo Luật.
|
7. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản bao gồm:
a) Các giao dịch bất động sản là giao dịch ủy quyền nhưng không có cơ sở pháp lý;
b) Khách hàng không quan tâm đến giá bất động sản, phí giao dịch phải trả;
c) Khách hàng không cung cấp được các thông tin liên quan tới bất động sản hoặc không muốn cung cấp bổ sung thông tin về nhân thân;
d) Giá thỏa thuận giữa các bên giao dịch không phù hợp giá thị trường.
|
Điều 33. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản
1. Các giao dịch bất động sản là giao dịch ủy quyền nhưng không có cơ sở pháp lý.
2. Khách hàng không quan tâm đến giá bất động sản, phí giao dịch phải trả.
3. Khách hàng không cung cấp được các thông tin liên quan tới bất động sản hoặc không muốn cung cấp bổ sung thông tin về nhân thân.
4. Giá giao dịch giữa các bên không phù hợp giá thị trường.
|
- Kết cấu lại khoản 7 Điều 22 Luật PCRT 2012 thành Điều 33 dự thảo Luật.
- Sửa điểm d khoản 7 Điều 22 Luật PCRT 2022: sửa “Giá thỏa thuận” thành “Giá giao dịch” để đảm bảo rõ ràng quy định.
|
Điều 23. Báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử
Đối tượng báo cáo khi cung ứng dịch vụ chuyển tiền điện tử có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Sửa tên điều phù hợp với nội hàm quy định.
|
|
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
|
- Bổ sung Khoản 2 tại dự thảo Luật giao Thống đốc NHNN hướng dẫn các nội dung về chuyển tiền điện tử, do các nội dung này mang tính kỹ thuật và thay đổi trong từng thời kỳ, việc giao hướng dẫn chi tiết sẽ đảm bảo được tính linh hoạt trong quá trình triển khai thực hiện, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong từng thời kỳ.
|
|
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
- Bổ sung Khoản 3 tại dự thảo Luật để khắc phục thiếu hụt được APG chỉ ra tại tiêu chí 16.1, 16.2, 16.3 Khuyến nghị 16 của FATF về Chuyển tiền điện tử.
|
Điều 24. Khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
1. Cá nhân khi nhập cảnh, xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng trên mức quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải khai báo hải quan.
|
Điều 35. Khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
1. Cá nhân khi nhập cảnh, xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng trên mức quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải khai báo hải quan hoặc khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển nơi không có cơ quan hải quan.
|
+ Khoản 1: bổ sung đơn vị có trách nhiệm tiếp nhận thông tin khai báo hải quan trong trường hợp nơi khai báo không có cơ quan hải quan thì khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển để phù hợp quy định của Luật Hải quan năm 2014.
|
2. Cơ quan Hải quan có trách nhiệm cung cấp thông tin thu thập được quy định tại khoản 1 Điều này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
2. Cơ quan hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển có trách nhiệm thu thập, lưu trữ các thông tin khai báo quy định tại khoản 1 Điều này và cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có yêu cầu hoặc khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
+ Khoản 2: quy định trách nhiệm của Hải quan, Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển phải lưu trữ thông tin thu thập được tại khoản 1 và cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Quy định này nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan hải quan là đơn vị chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của cá nhân khi xuất, nhập cảnh và có khả năng nắm giữ, thu thập được nhiều thông tin quan trọng để cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, góp phần quan trọng trong công tác phòng, chống rửa tiền. Đồng thời, việc sửa đổi này nhằm phù hợp với điểm 5c Mục C diễn giải Khuyến nghị số 32 của FATF về Vận chuyển tiền mặt.
|
Điều 25. Hình thức báo cáo
1. Đối tượng báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử hoặc báo cáo bằng văn bản khi chưa thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin tương thích phục vụ cho yêu cầu gửi tệp dữ liệu điện tử đối với các báo cáo được quy định tại các điều 21, 22 và 23 của Luật này theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Trong trường hợp cần thiết, đối tượng báo cáo có thể báo cáo qua fax, điện thoại, thư điện tử, nhưng phải bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu thông tin báo cáo và phải xác nhận lại bằng một trong hai hình thức quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải gửi kèm hồ sơ mở tài khoản đối với các giao dịch thực hiện thông qua tài khoản, thông tin nhận biết khách hàng, các chứng từ và tài liệu khác liên quan đến giao dịch đáng ngờ, các biện pháp phòng ngừa đã thực hiện.
|
Điều 36. Hình thức báo cáo
1. Đối tượng báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử hoặc báo cáo bằng văn bản khi chưa thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin tương thích phục vụ cho yêu cầu gửi tệp dữ liệu điện tử đối với các báo cáo được quy định tại các điều 25, 26 và 34 của Luật này theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Trong trường hợp cần thiết, đối tượng báo cáo có thể báo cáo qua fax, điện thoại, thư điện tử nhưng phải bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu thông tin báo cáo và phải xác nhận lại bằng một trong hai hình thức quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải gửi kèm hồ sơ mở tài khoản đối với các giao dịch thực hiện thông qua tài khoản, thông tin nhận biết khách hàng, các chứng từ và tài liệu khác liên quan đến giao dịch đáng ngờ, các biện pháp phòng ngừa đã thực hiện.
4. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn quy định tại khoản 1 Điều này.
|
- Khoản 1: Sửa các điều tham chiếu theo các điều tại dự thảo Luật mới.
- Bổ sung khoản 4 giao Thống đốc NHNN hướng dẫn chi tiết hình thức gửi báo cáo bằng tệp dữ liệu điện tử để đảm bảo rõ ràng, thống nhất trong quá trình triển khai, thực hiện.
|
Điều 26. Thời hạn báo cáo
1. Đối với giao dịch có giá trị lớn và giao dịch chuyển tiền điện tử, đối tượng báo cáo phải:
a) Báo cáo hàng ngày đối với hình thức báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử;
b) Báo cáo trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo bằng văn bản hoặc các hình thức báo cáo khác.
|
Điều 37. Thời hạn báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo và báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử quy định tại Điều 25 và Điều 34 của Luật này như sau:
a) Báo cáo hàng ngày trong trường hợp phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử;
b) Báo cáo trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo bằng văn bản.
|
− Khoản 1: bổ sung điều khoản tham chiếu tại dự thảo Luật để đảm bảo rõ ràng nội dung của quy định.
Đồng thời tại điểm a khoản 1 bổ sung cụm từ “trong trường hợp phát sinh giao dịch”, theo đó đối tượng báo cáo chỉ phải thực hiện báo cáo khi có phát sinh giao dịch.
|
2. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải báo cáo trong thời gian tối đa là 48 giờ, kể từ thời điểm phát sinh giao dịch; trường hợp phát hiện giao dịch do khách hàng yêu cầu có dấu hiệu liên quan đến tội phạm thì phải báo cáo ngay cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
2. Đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ quy định tại Điều 26 trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh giao dịch hoặc 01 ngày làm việc kể từ ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được giao dịch đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ.
Trường hợp phát hiện giao dịch đáng ngờ do khách hàng yêu cầu có dấu hiệu liên quan đến tội phạm thì đối tượng báo cáo phải báo cáo trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm phát hiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
− Khoản 2: sửa đổi quy định theo ngày làm việc thay vì theo giờ như quy định tại Luật PCRT 2012; bổ sung thời hạn báo cáo giao dịch đáng ngờ tính theo thời điểm đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được giao dịch đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ. Theo đó, khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ, đối tượng báo cáo thu thập, rà soát, phân tích thông tin tiếp theo để xác định giao dịch đáng ngờ, trên cơ sở đó thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ. Việc bổ sung cách xác định thời hạn báo cáo tạo điều kiện cho đối tượng báo cáo chủ động lựa chọn cách thức phù hợp, khắc phục khó khăn, vướng mắc trên thực tế đồng thời vẫn đảm bảo tính kịp thời trong hoạt động báo cáo giao dịch đáng ngờ.
|
Điều 27. Thời hạn lưu giữ hồ sơ, báo cáo
Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ giao dịch của khách hàng ít nhất 05 năm, kể từ ngày phát sinh giao dịch; hồ sơ về nhận biết khách hàng, chứng từ kế toán và các báo cáo quy định tại các điều 21, 22 và 23 của Luật này kèm chứng từ, tài liệu liên quan ít nhất 05 năm, kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo.
|
Điều 38. Lưu trữ hồ sơ, thông tin, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ, thông tin, báo cáo sau đây:
a) Hồ sơ, thông tin nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
b) Kết quả phân tích, đánh giá của đối tượng báo cáo đối với khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
c) Các hồ sơ, thông tin khác liên quan đến khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
d) Báo cáo giao dịch theo quy định tại các điều 25, 26 và 34 của Luật này và các hồ sơ, thông tin kèm theo giao dịch báo cáo.
2. Thời hạn lưu trữ quy định như sau:
a) 05 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo đối với các thông tin, hồ sơ quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
b) 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với các báo cáo quy định tại điểm d khoản 1 Điều này.
|
Sửa đổi, bổ sung làm rõ các loại thông tin, tài liệu cần lưu trữ, đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị số 11 của FATF về “Lưu trữ hồ sơ”.
|
Điều 28. Trách nhiệm báo cáo, cung cấp thông tin
1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, tài liệu lưu trữ và các thông tin liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật này hoặc khi được yêu cầu.
|
Điều 39. Trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, thông tin, báo cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ.
|
- Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định về các loại hồ sơ, thông tin, báo cáo được lưu giữ tại khoản 1 Điều 38 dự thảo Luật và bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết về cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ, thông tin.
|
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ báo cáo hoặc cung cấp thông tin theo quy định của Luật này không bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo đảm bí mật tiền gửi, tài sản gửi, thông tin về tài khoản, thông tin về giao dịch của khách hàng.
|
2. Đối tượng báo cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ báo cáo hoặc cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật này không bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin.
|
- Khoản 2: Sửa đổi chuẩn hóa từ ngữ
|
Điều 29. Bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo
1. Thông tin, chứng từ và tài liệu khác liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này được bảo quản theo chế độ mật và chỉ được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
|
Điều 40. Bảo đảm bí mật hồ sơ, thông tin, tài liệu, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ, thông tin, tài liệu và báo cáo liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này.
|
- Khoản 1: Sửa đổi, làm rõ quy định về bảo mật thông tin. Cụ thể, theo quy định tại khoản 25 Điều 3 Quyết định 2182/QĐ-TTg ngày 21/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục bí mật nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng: “Thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về phòng, chống rửa tiền: phòng, chống tài trợ khủng bố về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.” mới là thông tin mật. Hồ sơ thông tin và tài liệu liên quan đến thông tin nhận biết khách hàng thực hiện bảo mật theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
|
2. Đối tượng báo cáo không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
2. Đối tượng báo cáo bao gồm cả người quản lý, người lao động không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan đến giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 2: Bổ sung cụm từ “bao gồm cả người quản lý, người lao động” để bao gồm trách nhiệm của cá nhân có liên quan ngoài tổ chức báo cáo nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 21.2 Khuyến nghị số 21 của FATF về Tiết lộ thông tin và tính bảo mật.
|
Điều 30. Báo cáo hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố
1. Đối tượng báo cáo có nghĩa vụ báo cáo kịp thời cho cơ quan phòng, chống khủng bố có thẩm quyền, đồng thời gửi báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi phát hiện tổ chức, cá nhân thực hiện giao dịch nằm trong danh sách đen hoặc khi có căn cứ cho rằng tổ chức, cá nhân khác thực hiện hành vi có liên quan đến tội phạm rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố.
2. Căn cứ vào quy định của Luật này và pháp luật về phòng, chống khủng bố, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định thực hiện báo cáo tại khoản 1 Điều này.
|
Bỏ Điều này.
|
Bỏ Điều này vì dự thảo Luật khoản 3 Điều 63 đã sửa đổi các điều 34, 35 tại Luật phòng, chống khủng bố 2013 trong đó quy định nghĩa vụ các đối tượng báo cáo trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật phòng, chống rửa tiền.
|
Mục 3. THU THẬP, XỬ LÝ VÀ CHUYỂN GIAO THÔNG TIN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Điều 31. Thu thập, xử lý thông tin
|
Mục 3. THU THẬP, XỬ LÝ, PHÂN TÍCH, TRAO ĐỔI, CUNG CẤP VÀ CHUYỂN GIAO THÔNG TIN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Điều 41. Thu thập, xử lý và phân tích thông tin phòng, chống rửa tiền
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp hồ sơ, thông tin, tài liệu cần thiết cho việc phân tích, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền, hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
Sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn triển khai công tác thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền tại NHNN. Cụ thể:
− Bổ sung Khoản 1 quy định thẩm quyền yêu cầu tổ chức cá nhân liên quan cung cấp hồ sơ, thông tin, tài liệu cần thiết cho việc phân tích, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền và hợp tác quốc tế về phòng chống rửa tiền theo quy định của Luật này.
|
1. Tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông tin, tài liệu, hồ sơ về các giao dịch và các thông tin khác theo quy định của Luật này nhằm phục vụ cho việc phân tích, chuyển giao thông tin.
|
2. Tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hồ sơ, thông tin, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này.
|
- Sửa đổi khoản 1 Luật PCRT 2012 thành khoản 2 tại dự thảo Luật và chỉnh sửa phù hợp với quy định tại khoản 1 dự thảo Luật.
|
2. Thông tin có được từ việc xử lý thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều này là thông tin mật phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
|
|
- Khoản 2 Luật PCRT 2012: Nội dung khoản này đã được chỉnh sửa và đưa vào quy định tại khoản 1 Điều 42 và khoản 4 Điều 43 để đảm bảo rõ ràng và phù hợp với quy định tại khoản 25 Điều 3 Quyết định 2182/QĐ-TTg ngày 21/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục bí mật nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, “Thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về phòng, chống rửa tiền: phòng, chống tài trợ khủng bố về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.” mới là thông tin mật.
|
|
3. Chính phủ hướng dẫn việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin.
|
- Bổ sung khoản 3 nhằm giao hướng dẫn về việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin.
|
Điều 32. Chuyển giao, trao đổi thông tin
1. Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra có thẩm quyền.
|
Điều 42. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
1. Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, trong thời hạn 10 ngày làm việc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Thông tin liên quan đến báo cáo giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền là thông tin mật.
|
- Khoản 1: Bổ sung thời hạn chuyển giao thông tin là “10 ngày làm việc” khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền; sửa đổi quy định NHNN có trách nhiệm “chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm”. Việc sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT của NHNN với các cơ quan có thẩm quyền trong nước. Đồng thời, quy định này cũng nhằm đáp ứng một phần yêu cầu tại khuyến nghị số 29 của FATF về “Đơn vị tình báo tài chính”.
Bổ sung quy định về các thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền là thông tin mật để đảm bảo nhất quán với quy định tại Điều 7 Luật bảo vệ bí mật nhà nước và yêu cầu thực tiễn công tác chuyển giao thông tin của NHNN.
|
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền.
|
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
|
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trao đổi thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trao đổi, cung cấp thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
- Bổ sung khoản 4 về thẩm quyền quy định chi tiết của Chính phủ đối với các nội dung: cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền khi tiếp nhận thông tin chuyển giao từ NHNN.
|
Điều luật mới.
|
Điều 43. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi yêu cầu tới cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để thu thập, bổ sung thông tin phục vụ cho việc xử lý, phân tích và chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền; tiếp nhận thông tin phản hồi, thông tin chuyển giao của cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và xử lý thông tin nhận được theo quy định của Luật này.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp nhận yêu cầu đề nghị cung cấp thông tin từ cơ quan có thẩm quyền nước ngoài với mục đích phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền và cung cấp thông tin phản hồi.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung cấp, chuyển giao thông tin cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài theo quy định tại Điều 6 của Luật này.
4. Thông tin liên quan đến báo cáo giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trao đổi, cung cấp, chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài là thông tin mật.
|
Việc bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền tại NHNN với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Đồng thời, quy định này cũng nhằm đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị số 29 của FATF về “Đơn vị tình báo tài chính” – trong việc thực hiện các nhiệm vụ trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, góp phần hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền đang ngày càng có xu hướng gia tăng trên toàn thế giới.
|
Mục 4. ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
|
Mục 4. ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI
|
|
Điều 33. Trì hoãn giao dịch
1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch khi các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội và phải báo cáo ngay bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
Điều 44. Trì hoãn giao dịch
1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng ngay biện pháp trì hoãn giao dịch trong các trường hợp sau:
a) Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội;
|
+ Khoản 1, điểm a: bổ sung cụm từ “áp dụng ngay các biện pháp trì hoãn giao dịch” và “Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ…” để đảm bảo tính kịp thời và phù hợp với yêu cầu của tiêu chí 6.5 a Khuyến nghị 6 - Xử phạt tài chính mục tiêu liên quan đến khủng bố và tài trợ khủng bố của FATF. Đồng thời, trên thực tế việc áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch khi có liên quan đến các đối tượng thuộc danh sách đen (cá nhân, tổ chức khủng bố hoặc liên quan tới khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt) hoặc tội phạm đều là những trường hợp cần phải có các biện pháp ngay lập tức để ngăn chặn trong đó có việc phong tỏa tài khoản (trì hoãn giao dịch là biện pháp phong tỏa tài khoản tạm thời). Do vậy, đối tượng báo cáo phải thực hiện ngay các biện pháp trì hoãn giao dịch. Tại dự thảo Luật cũng đã giao Chính phủ hướng dẫn, làm rõ quy định “khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ”.
|
|
b) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan.
|
+ Điểm b: bổ sung quy định về việc thực hiện trì hoãn giao dịch theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan.
|
|
2. Khi thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch, đối tượng báo cáo phải báo cáo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 2: làm rõ trách nhiệm báo cáo của đối tượng báo cáo khi thực hiện trì hoãn giao dịch, nội dung này đã được quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 33 Luật PCRT năm 2012.
|
2. Thời hạn áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu áp dụng.
|
3. Thời hạn áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu áp dụng.
4. Đối tượng báo cáo không phải chịu trách nhiệm pháp lý về những hậu quả phát sinh khi áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch theo đúng quy định tại Điều này.
|
- Khoản 4: bổ sung quy định miễn trừ trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch theo quy định tại dự thảo Luật. Nội dung này đã được quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCRT 2012.
|
3. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam việc thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
|
5. Chính phủ quy định chi tiết điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
- Bổ sung Khoản 5 giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết quy định tại điểm a khoản 1 và chi tiết về cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này do nội dung này mang tính kỹ thuật.
|
Điều 34. Phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản
Đối tượng báo cáo phải thực hiện phong tỏa tài khoản hoặc áp dụng biện pháp niêm phong hoặc tạm giữ tài sản của các cá nhân, tổ chức khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và báo cáo việc thực hiện cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Điều 45. Phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản
Đối tượng báo cáo phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
|
Quy trình thủ tục thực hiện phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản được thực hiện theo bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự để phục vụ cho cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án. Qua thực tiễn tiếp nhận thông tin này cho thấy không có nhiều ý nghĩa trong quá trình phân tích, xử lý và chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền của NHNN. Theo đó, bỏ quy định gửi báo cáo cho NHNN nhằm giảm tải khối lượng tài liệu lưu giữ và giảm trách nhiệm báo cáo cáo của đối tượng báo cáo. Đồng thời, chỉnh sửa để đảm bảo rõ ràng nội hàm quy định.
|
Điều 35. Xử lý vi phạm
Tổ chức vi phạm các quy định của Luật này thì bị xử phạt vi phạm hành chính.
Cá nhân vi phạm các quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
|
Điều 46. Xử lý vi phạm
Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
|
Chỉnh sửa quy định về việc áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cả tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật, phù hợp với nội dung sửa đổi tại Bộ luật hình sự 2015, trong đó có quy định xử lý trách nhiệm hình sự đối với cả tổ chức là pháp nhân thương mại
|
Chương III. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
TRONG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
Chương III. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
|
Điều 36. Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, chiến lược về phòng, chống rửa tiền.
3. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác phòng, chống rửa tiền; phối hợp công tác phòng, chống rửa tiền và công tác phòng, chống tài trợ khủng bố.
|
Điều 47. Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, chiến lược về phòng, chống rửa tiền.
3. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác phòng, chống rửa tiền; chỉ đạo việc phối hợp công tác phòng, chống rửa tiền và công tác phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
- Khoản 3:
+ Sửa đổi cụm từ “bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ” để phù hợp với cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
+ Bổ sung cụm từ “tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt” để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật.
|
Điều 37. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, kế hoạch về phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 48. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, kế hoạch về phòng, chống rửa tiền.
|
Việc sửa đổi các điều khoản tại Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền, cụ thể:
|
3. Tổ chức đầu mối theo quy định của Chính phủ để thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về hành vi rửa tiền cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, hồ sơ về các giao dịch và các thông tin khác theo quy định của Luật này nhằm phục vụ việc phân tích, chuyển giao thông tin về hành vi rửa tiền.
|
3. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
|
- Khoản 3: bổ sung trách nhiệm NHNN trong phạm vi quản lý nhà nước, tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, thống nhất với nhiệm vụ các bộ, ngành, cơ quan tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền thuộc phạm vi quản lý.
|
4. Thông báo kịp thời cho cơ quan phòng, chống khủng bố có thẩm quyền thông tin về hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố theo quy định của Luật này và pháp luật về phòng, chống khủng bố.
|
Bỏ khoản này
|
− Lý do bỏ khoản 4 Luật PCRT 2012: khoản 2 Điều 42 về Chuyển giao, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước đã quy định NHNN “có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm”.
|
5. Thanh tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối.
|
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
|
− Khoản 4: sửa đổi, bổ sung để phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động PCRT trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo.
|
6. Hợp tác, trao đổi, cung cấp thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền; trao đổi thông tin với cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác theo quy định của pháp luật.
|
5. Hợp tác, trao đổi, cung cấp thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền.
|
- Khoản 5: bỏ nội dung “trao đổi thông tin với cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác theo quy định của pháp luật” tại khoản 6 Điều 37 Luật PCRT năm 2012 do đã có quy định tại khoản 2 Điều 6 dự thảo Luật.
|
7. Thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền, làm đầu mối tham gia, triển khai thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách thành viên các tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
6. Thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền theo quy định tại Điều 6 của Luật này, làm đầu mối tham gia, triển khai thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách thành viên các tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
|
8. Đào tạo đội ngũ cán bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cơ quan khác của Chính phủ, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và cá nhân, tổ chức khác về phòng, chống rửa tiền.
|
|
- Bỏ khoản 8 Điều 37 Luật PCRT 2012: do đã lồng ghép nội dung quy định tại khoản này vào Khoản 8 mới của dự thảo Luật.
|
9. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào công tác phòng, chống rửa tiền.
|
7. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào công tác phòng, chống rửa tiền.
|
|
10. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền, truyền thông về chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống rửa tiền, triển khai công tác đào tạo về phòng, chống rửa tiền.
|
− Khoản 8: bổ sung trách nhiệm của NHNN trong việc truyền thông về chủ trương, chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền do công tác truyền thông đóng vai trò quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền. Bổ sung nội dung “triển khai công tác đào tạo về phòng, chống rửa tiền”, nội dung này đã được quy định tại khoản 8 Luật PCRT 2012.
|
11. Tổng hợp thông tin, định kỳ hàng năm báo cáo Chính phủ về phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
|
9. Tổng hợp thông tin, định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
|
|
|
10. Chủ trì thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
− Khoản 10: bổ sung trách nhiệm của NHNN trong việc đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền để phù hợp với quy định tại Điều 7 của dự thảo Luật về Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
|
|
11. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành liên quan đề xuất, chủ trì đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
− Khoản 11: chuyển quy định tại khoản 1 Điều 48 Luật PCRT 2012 thành khoản 12 Điều này để đảm bảo thống nhất với kết cấu của dự thảo Luật.
|
|
12. Giám sát đối tượng báo cáo trong việc thực hiện báo cáo theo quy định tại các điều 25, 26 và 34 của Luật này; phối hợp cung cấp thông tin giám sát cho cơ quan thanh tra các bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền.
|
− Khoản 12: bổ sung nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác giám sát phòng, chống rửa tiền của NHNN. Việc giám sát phòng, chống rửa tiền giúp NHNN sớm nhận biết, nhận định được đối tượng báo cáo nào đang có nguy cơ rủi ro về rửa tiền để đưa ra các cảnh báo và phối hợp cung cấp thông tin cho cơ quan thanh tra các bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền các đối tượng báo cáo tại Điều 4 dự thảo Luật.
|
Điều 38. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Thu thập, tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm liên quan đến rửa tiền.
|
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền; thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 1: bổ sung cụm từ “đấu tranh phòng, chống tội phạm” để đảm bảo đầy đủ và cụm từ “thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” để làm rõ hơn trách nhiệm của Bộ Công an theo khuyến nghị của APG sau đánh giá đa phương và phù hợp với thực tiễn triển khai.
|
2. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm về rửa tiền.
3. Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân thuộc danh sách đen quy định tại khoản 12 Điều 4 của Luật này.
5. Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
2. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm về rửa tiền .
3. Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thuộc danh sách đen.
5. Thực hiện hợp tác quốc tế; tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.
|
- Khoản 4: bổ sung cụm từ “liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố” để làm rõ nội hàm quy định.
- Khoản 5: bổ sung thêm quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật PCRT 2012 và quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao của Bộ Công an về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
|
6. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các loại tội phạm nguồn có rủi ro cao theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
− Khoản 6: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Công an.
|
Điều luật mới
|
Điều 50. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng
1. Trao đổi thông tin, tài liệu về hoạt động rửa tiền nhằm tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt thuộc danh sách đen.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này.
|
- Việc bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Quốc phòng theo khuyến nghị của APG sau đánh giá đa phương và phù hợp với thực tiễn triển khai.
- Khoản 3: đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Quốc phòng.
|
Điều 39. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, trò chơi có thưởng, casino.
|
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
|
Việc sửa đổi, bổ sung nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Tài chính, cụ thể:
− Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động trong phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, phù hợp với đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Tài chính, phù hợp với tên gọi được sửa đổi tại Điều 4 dự thảo Luật.
|
2. Thanh tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, trò chơi có thưởng, casino.
|
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
|
− Khoản 2: sửa đổi, bổ sung phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
|
3. Chỉ đạo cơ quan hải quan cung cấp thông tin thu thập được về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới theo quy định tại Điều 24 của Luật này.
|
|
- Bỏ khoản 3 Luật PCRT 2012 do quy định tại Điều 35 dự thảo Luật đã bao gồm nội dung này.
|
|
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
− Khoản 3: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Tài chính.
|
Điều 40. Trách nhiệm của Bộ Xây dựng
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
2. Thanh tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
|
Điều 52. Trách nhiệm của Bộ Xây dựng
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
- Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung các lĩnh vực trong phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng, phù hợp với đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Xây dựng quy định tại Điều 4 dự thảo Luật.
- Khoản 2: sửa đổi, bổ sung phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng.
- Khoản 3: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Xây dựng.
|
Điều 41. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức cung ứng dịch vụ công chứng.
|
Điều 53. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
|
- Khoản 1: sửa đổi đảm bảo phù hợp với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, phù hợp với đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Tư pháp quy định tại Điều 4 dự thảo Luật.
|
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
3. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với các đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, bao gồm: luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
4. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực hành nghề luật sư; công chứng theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
- Khoản 3: bổ sung phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
- Khoản 4: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Công thương.
|
|
5. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi, chức năng nhiệm vụ được giao về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 5: chuyển quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật PCRT 2012 thành Khoản 5 điều này và quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao của Bộ Tư pháp về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
Điều luật mới.
|
Điều 54. Trách nhiệm của Bộ Công thương
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là các tổ chức, cá nhân kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ tổ chức, cá nhân kinh doanh vàng miếng và vàng, trang sức, mỹ nghệ.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ hoạt động kinh doanh vàng miếng và vàng, trang sức, mỹ nghệ.;
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ hoạt động kinh doanh vàng miếng và vàng, trang sức, mỹ nghệ theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Công thương trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý. Nội dung này được luật hóa từ quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCRT 2012.
- Khoản 2: bổ sung phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Công thương.
- Khoản 3: bổ sung nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Công thương.
|
Điều luật mới.
|
Điều 55. Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với pháp nhân được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến những hoạt động thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch Đầu tư. Nội dung này được luật hóa từ quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCRT 2012.
- Khoản 2: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
|
Điều luật mới.
|
Điều 56. Trách nhiệm của Bộ Nội vụ
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và tổ chức tôn giáo.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và tổ chức tôn giáo theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
3. Phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Nội vụ. Các quy định tại khoản 2, 3 phù hợp với quy định mới tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ.
|
Điều luật mới.
|
Điều 57. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Ngoại giao trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Ngoại giao.
- Khoản 2: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Ngoại giao.
|
Điều luật mới.
|
Điều 58. Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong hoạt động kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
Bổ sung Điều mới nhằm phù hợp với quy định trách nhiệm của Bộ Thông tin và truyền thông trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý.
- Khoản 2: bổ sung phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Khoản 3: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Thông tin và Truyền thông.
|
|
4. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc tuyên truyền, phổ biến, truyền thông về chủ trương, chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 4: bổ sung trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc tuyên truyền, phổ biến, truyền thông về chủ trương, chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền do công tác truyền thông đóng vai trò quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 42. Trách nhiệm của các cơ quan khác của Chính phủ
1. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 59. Trách nhiệm của các bộ, ngành khác
1. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành liên quan định kỳ thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 của Luật này.
|
- Khoản 3: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của các bộ ngành khác.
|
Điều 43. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi rửa tiền; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 60. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi rửa tiền; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 của Luật này.
|
- Khoản 2: bổ sung đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
|
|
3. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 3: chuyển quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật PCRT 2012 thành Khoản 3 điều này và quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 44. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
1. Thực hiện, chỉ đạo việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại địa phương.
2. Phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn đốc thực hiện các đường lối, chính sách, chiến lược, kế hoạch phòng, chống rửa tiền.
3. Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
Điều 61. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
1. Thực hiện, chỉ đạo việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại địa phương.
2. Phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn đốc thực hiện các đường lối, chính sách, chiến lược, kế hoạch phòng, chống rửa tiền, thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
3. Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
- Khoản 2: bổ sung cụm từ “thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền”, theo đó bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền. Nội dung này phù hợp với quy định mới tại Điều 7 của dự thảo Luật và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân các cấp đã được Chính phủ giao.
|
Điều 45. Bảo mật thông tin
Các cơ quan nhà nước được quy định tại các điều từ Điều 36 đến Điều 44 của Luật này có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
|
Điều 62. Trách nhiệm bảo mật thông tin
1. Các cơ quan nhà nước được quy định tại Chương III của Luật này có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
|
- Khoản 1: Sửa nội dung tham chiếu.
|
|
2. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 6 của Luật này cho các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác phải đảm bảo các thông tin cung cấp được bảo mật và sử dụng đúng mục đích đã nêu tại yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin.
|
- Khoản 2: bổ sung quy định bảo mật thông tin trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu chí 40.6, Khuyến nghị số 40 của FATF về Các hình thức hợp tác quốc tế khác.
|
Chương IV. HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
Bỏ Chương IV
|
Các nội dung tại Chương IV Luật PCRT 2012 đã được kết cấu lại và đưa vào nội dung quy định tại các Điều 6, 48, 49, 52, 59.
|
Điều 46. Nguyên tắc chung về hợp tác quốc tế
1. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi thông tin và tương trợ tư pháp về phòng, chống rửa tiền.
|
Bỏ điều này
|
Khoản 1 Điều 46 đã được đưa vào quy định tại khoản 1 Điều 6 dự thảo Luật.
|
Điều 47. Nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
1. Trao đổi thông tin, tài liệu về phòng, chống rửa tiền.
2. Xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền.
3. Thực hiện tương trợ tư pháp và hợp tác trong dẫn độ tội phạm rửa tiền.
4. Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền.
5. Quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
|
Bỏ điều này
|
Nội dung quy định tại Điều 47 Luật PCRT 2012 đã được chỉnh sửa, quy định tại Điều 6 về Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền của dự thảo Luật.
|
Điều 48. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành liên quan đề xuất, chủ trì đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác theo quy định của pháp luật; có quyền từ chối cung cấp thông tin cho cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác trong trường hợp cần thiết và theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
4. Khi có yêu cầu về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm kịp thời thông báo bằng văn bản về nội dung, thời gian, các bên liên quan và các chương trình hợp tác quốc tế khác cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoặc cho Bộ Tư pháp nếu nội dung liên quan đến tương trợ tư pháp để phối hợp thực hiện.
|
Bỏ điều này
|
− Khoản 1 Điều 48 Luật PCRT 2012 đã đưa vào quy định tại khoản 11 Điều 48 về Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại dự thảo Luật.
− Khoản 2 Điều 48 Luật PCRT 2012 đã được đưa vào quy định tại Điều 6 về Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật.
− Khoản 3 Điều 48 Luật PCRT 2012 đã đưa vào quy định tại Điều 49 về Trách nhiệm của Bộ Công an, Điều 53 về Trách nhiệm của Bộ Tư pháp và Điều 60 về Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tại dự thảo Luật.
− Khoản 4 Điều 48 Luật PCRT 2012 đã được chỉnh sửa và quy định tại khoản 5 Điều 6 về Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật.
|
Chương IV. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
|
Chương IV. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
|
|
Điều luật mới
|
Điều 63. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền
1. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 như sau:
“1. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng.”.
|
- Khoản 1: Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền”. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm tạo cơ sở để triển khai, thực hiện các yêu cầu tại khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG cũng như để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
Theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật PCRT đều giao Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền. Tại Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đang được giao thực hiện nhiệm vụ này và Cục PCRT là đơn vị thuộc Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền.
Tại khuyến nghị 29 của FATF yêu cầu mỗi quốc gia cần phải thành lập đơn vị tình báo tài chính (FIU), trong đó đơn vị tình báo tài chính cần phải được trao đầy đủ thẩm quyền để thu thập các thông tin từ các tổ chức báo cáo, truy cập một cách kịp thời các thông tin tài chính và thực thi pháp luật để thực hiện tốt 3 chức năng chính là (i) tiếp nhận, (ii) phân tích, và (iii) chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố một cách độc lập.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG năm 2022, APG đã chỉ ra việc Cục trưởng Cục Phòng, chống rửa tiền chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mọi hoạt động của Cục phòng, chống rửa tiền là chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để Cục phòng, chống rửa tiền thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự chủ; việc Cục phòng, chống rửa tiền nằm trong Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có thể dẫn đến một số quan ngại về tính độc lập trong hoạt động của đơn vị tình báo tài chính, vốn được coi trọng đặc biệt. Trên cơ sở đó, APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền và tính độc lập cho Cục phòng, chống rửa tiền để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền.
Với mô hình tổ chức, vị trí, chức năng của Cục phòng, chống rửa tiền hiện nay là một trong lý do chính mà Việt Nam chưa gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont) mặc dù đã có đơn gia nhập và đã được công nhận là quan sát viên của Nhóm Egmont từ năm 2010.
Việc sửa đổi khoản 1 Điều 49 Luật NHNN nêu trên là cơ sở để NHNN căn cứ quy định pháp luật xây dựng Đề án, trình Chính phủ, các cấp có thẩm quyền quy định đơn vị thuộc NHNN thực hiện chức năng phòng, chống rửa tiền.
|
|
2. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền.
2. Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Định kỳ 05 năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá”.
b) Sửa đổi, bổ sung Điều 35 như sau:
“Điều 35. Kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới Việt Nam theo quy định tại Điều 24 của Luật này và Điều 35 của Luật Phòng, chống rửa tiền có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi lợi dụng các hoạt động này để tài trợ khủng bố.”.
|
- Khoản 2, 3: Dự thảo Luật bổ sung quy định sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật Phòng, chống khủng bố và pháp luật về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt theo hướng tương đồng với các quy định mới được sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT. Việc sửa đổi, bổ sung này căn cứ trên các khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại báo cáo đánh giá đa phương, theo đó một số yêu cầu sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống rửa tiền cũng được khuyến nghị đồng thời với sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Với thời hạn phải báo cáo kết quả thực hiện đánh giá của APG vào tháng 3/2023, trong khi việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố, pháp luật về tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Phòng, chống khủng bố, pháp luật về tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt tại dự thảo Luật này là cần thiết.
|
|
3. Các tổ chức tài chính, tổ chức và cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật này.
|
|
Điều 49. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.
|
Điều 64. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 20232.
2. Luật Phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành./.
|
Sửa đổi, bổ sung phù hợp với Luật ban hành văn bản pháp luật.
|
Điều luật mới
|
Điều 65. Quy định chuyển tiếp
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có quyết định khác, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền theo quy định của Luật này và các Luật khác có liên quan.
|
Bổ sung điều khoản chuyển tiếp nhằm đảm bảo không tạo khoảng trống pháp lý trong công tác phòng, chống rửa tiền sau khi Luật có hiệu lực thi hành nhưng chưa kịp hoàn thành việc phân công chức năng đơn vị đầu mối về phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 50. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012.
|
Bỏ điều này.
|
Các nội dung giao Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn đã được quy định cụ thể tại từng điều khoản.
|
QUYẾT ĐỊNH QUY ĐỊNH MỨC GIÁ TRỊ CỦA GIAO DỊCH CÓ GIÁ TRỊ LỚN PHẢI BÁO CÁO
Cơ quan ban hành: Thủ tướng Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0713c-dtQD-quy-dinh-muc-gia-cua-giao-dich-cho-gia-tri-lon---20220927082905.doc
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Luật phòng, chống rửa tiền ngày … tháng … năm 2023;
Theo đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Quyết định này quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định tại
Khoản 2 Điều 25 Luật phòng, chống rửa tiền.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan theo quy định tại
Khoản 3 và Khoản 4 Điều 3 Luật phòng, chống rửa tiền.
Điều 3. Mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo
Mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo là 300.000.000 (ba trăm triệu đồng).
Điều 4. Hiệu lực thi hành
1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày … tháng … năm 2023.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 2 chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Thông Tư Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0713b-dtTT-hdan-thuc-hien-mot-so-dieu-cua-Luat-PCRTsd---20220927082905.docx
Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 16 tháng 6 năm 2010;
Căn cứ Luật Phòng, chống rửa tiền ngày … tháng … năm 2022;
Căn cứ Nghị định số …/2023/NĐ-CP ngày … tháng …. năm 2023 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền;
Căn cứ Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Theo đề nghị của Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng,
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này quy định về đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo; các biện pháp tăng cường và biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ; quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền; giao dịch chuyển tiền điện tử; mức giá trị của ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng phải khai báo hải quan hoặc khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển nơi không có cơ quan hải quan; hình thức các báo cáo.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Thông tư này áp dụng đối với các đối tượng theo quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống rửa tiền
Điều 3. Đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo
Việc đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo được thực hiện theo các tiêu chí sau:
1. Xác định, đánh giá rủi ro vốn có của tổ chức trên cơ sở tổng hợp danh mục rủi ro đặc trưng gồm rủi ro khách hàng; rủi ro sản phẩm, dịch vụ, giao dịch, kênh phân phối và rủi ro vị trí địa lý gắn với rửa tiền.
2. Đánh giá mức độ hiệu quả của các công cụ, quy trình kiểm soát rủi ro vốn có gắn với rửa tiền trên cơ sở
a) Tính đầy đủ, nhất quán, hiệu quả và chặt chẽ của công cụ, quy trình;
b) Tính hiệu quả của các chương trình đào tạo, tuyên truyền nội bộ;
c) Mức độ rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố liên quan của ngành, của quốc gia về rửa tiền.
Điều 4. Nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ tăng cường
Đối với khách hàng có mức độ rủi ro cao, ngoài việc áp dụng biện pháp nhận biết theo quy định tại Điều 9 Luật Phòng, chống rửa tiền, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp tăng cường bao gồm biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng sau:
1. Có sự phê duyệt của cấp quản lý cao hơn ít nhất một cấp so với cấp phê duyệt áp dụng đối với khách hàng thông thường khi khách hàng lần đầu thiết lập quan hệ hoặc khi khách hàng hiện tại được đánh giá là khách hàng có rủi ro cao. Đối với khách hàng hiện tại, khi đánh giá hoặc đánh giá lại được xếp loại là khách hàng có rủi ro cao, đối tượng báo cáo phải trình cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc phê duyệt lại mối quan hệ với khách hàng này và áp dụng các biện pháp tăng cường theo quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều này.
2. Thu thập bổ sung các thông tin sau:
a) Đối với khách hàng là cá nhân:
- Mức thu nhập trung bình hàng tháng trong vòng ít nhất 3 (ba) tháng gần nhất của khách hàng;
- Tên, địa chỉ, số điện thoại liên lạc của cơ quan, tổ chức hoặc chủ cơ sở nơi làm việc hoặc có thu nhập chính.
b) Đối với khách hàng là tổ chức:
- Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo doanh thu chính;
- Tổng doanh thu trong 2 (hai) năm gần nhất;
- Danh sách (họ tên, địa chỉ thường trú) thành viên Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên, thành viên Ban điều hành, Kế toán trưởng hoặc tương đương;
- Tên, địa chỉ, người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền của công ty mẹ (nếu khách hàng là công ty con) hoặc danh sách tên, địa chỉ, người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền của chi nhánh, công ty con, văn phòng đại diện (nếu khách hàng là công ty mẹ).
3. Giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng để đảm bảo giao dịch của khách hàng phù hợp với bản chất, mục đích thiết lập mối quan hệ và hoạt động của khách hàng; kịp thời phát hiện các giao dịch bất thường và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ khi có đủ cơ sở hợp lý theo quy định của pháp luật.
4. Cập nhật thông tin định kỳ ít nhất 1 (một) năm một lần hoặc khi đối tượng báo cáo biết thông tin về khách hàng đã có sự thay đổi.
Điều 5. Nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độgiảm nhẹ
Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo được áp dụng các biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ đối với những khách hàng được xác định có mức rủi ro rửa tiền thấp gồm một hoặc tất cả các biện pháp sau:
a) Không thu thập thông tin về mục đích, bản chất mối quan hệ kinh doanh nếu có cơ sở nhận biết được mục đích và bản chất từ các loại giao dịch hoặc mối quan hệ kinh doanh đã được thực hiện, thiết lập;
b) Xác thực nhận dạng khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi sau khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh;
c) Giảm tần suất cập nhật nhận dạng khách hàng;
d) Giảm mức độ theo dõi và kiểm soát giao dịch.
Đối tượng báo cáo không được áp dụng các biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ trong trường hợp nghi ngờ liên quan đến rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố.
Điều 6. Việc tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền của đối tượng báo cáo trong quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Khi tuyển dụng nhân sự, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp phòng, chống rửa tiền ban đầu như nhận biết khách hàng, sàng lọc khách hàng, đào tạo kiến thức cơ bản về phòng, chống rửa tiền trong vòng 6 (sáu) tháng kể từ ngày được tuyển dụng…, các nội dung này được đưa vào quy trình tuyển dụng nhân sự.
2. Đào tạo, bồi dưỡng về phòng, chống rửa tiền phải bao gồm các nội dung về:
a) Định kỳ hàng năm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên chuyên trách hoặc bán chuyên trách phòng, chống rửa tiền và cán bộ, nhân viên được giao nhiệm vụ liên quan đến giao dịch tiền, tài sản với khách hàng về nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;
b) Nội dung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền tối thiểu phải bao gồm: quy định của pháp luật và quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền - trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền; phương thức, thủ đoạn rửa tiền; rủi ro rửa tiền liên quan đến sản phẩm, dịch vụ, nhiệm vụ mà cán bộ, nhân viên được giao thực hiện.
Điều 7. Việc triển khai kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền của đối tượng báo cáo trong quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Hàng năm, đối tượng báo cáo phải tiến hành kiểm toán nội bộ về phòng, chống rửa tiền. Việc kiểm toán nội bộ về phòng, chống rửa tiền phải được tiến hành độc lập. Nội dung kiểm toán nội bộ bao gồm: kiểm tra rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan hệ thống kiểm soát nội bộ, việc tuân thủ quy chế nội bộ và kiến nghị, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác phòng, chống rửa tiền.
2. Chậm nhất sau sáu mươi ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính, đối tượng báo cáo phải gửi báo cáo kiểm toán nội bộ về phòng, chống rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền).
Điều 8. Trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền của đối tượng báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải phân công một thành viên Ban lãnh đạo hoặc người được Ban lãnh đạo ủy quyền chịu trách nhiệm về tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra việc tuân thủ quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại đơn vị (sau đây gọi là người phụ trách phòng, chống rửa tiền) và đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền) kèm các thông tin chi tiết như họ tên, địa chỉ nơi làm việc, số điện thoại, số fax, địa chỉ hòm thư điện tử (email) để liên lạc khi cần thiết. Khi thay đổi người phụ trách phòng, chống rửa tiền hoặc thông tin liên quan đến người này, đối tượng báo cáo phải thông báo kịp thời bằng văn bản cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền).
2. Tùy theo quy mô, phạm vi và đặc thù hoạt động, đối tượng báo cáo phải thành lập bộ phận chuyên trách (tổ, phòng, ban) hoặc chỉ định một bộ phận tại trụ sở chính chịu trách nhiệm về phòng, chống rửa tiền; tại sở giao dịch, chi nhánh (nếu có) phải phân công một hoặc một số cán bộ hoặc bộ phận chịu trách nhiệm về phòng, chống rửa tiền.
Điều 9. Hướng dẫn chi tiết về giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền) khi thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử bằng hoặc vượt mức giá trị theo quy định.
2. Loại hình chuyển tiền điện tử:
a) Giao dịch chuyển tiền điện tử trong nước là giao dịch chuyển tiền điện tử mà tổ chức phát lệnh chuyển tiền và tổ chức phục vụ người thụ hưởng ở trong cùng một quốc gia.
b) Giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế là giao dịch chuyển tiền điện tử mà tổ chức phát lệnh chuyển tiền và tổ chức phục vụ người thụ hưởng ở các quốc gia khác nhau.
3. Giao dịch chuyển tiền điện tử theo lô là các giao dịch chuyển tiền riêng lẻ được gửi đến cùng một tổ chức phục vụ người thụ hưởng cho một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức thụ hưởng khác nhau trong cùng một giao dịch.
4. Tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử bao gồm tổ chức khởi tạo, các tổ chức trung gian và tổ chức thụ hưởng.
5. Trách nhiệm của các tổ chức tham gia giao dịch chuyển tiền điện tử:
a) Tổ chức tham gia giao dịch chuyển tiền điện tử phải lưu trữ chính xác, đầy đủ thông tin về cá nhân, tổ chức chuyển tiền, cá nhân, tổ chức thụ hưởng khi thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử riêng lẻ, giao dịch theo lô và cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu.
b) Tổ chức khởi tạo phải đảm bảo thông tin đầy đủ, chính xác về giao dịch, cá nhân, tổ chức khởi tạo, cá nhân, tổ chức thụ hưởng luôn đi cùng với giao dịch chuyển tiền điện tử và lưu giữ để cung cấp cho tổ chức trung gian, tổ chức thụ hưởng.
c) Tổ chức trung gian tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải đảm bảo thông tin về cá nhân, tổ chức khởi tạo, cá nhân, tổ chức thụ hưởng đi kèm với giao dịch chuyển tiền điện tử được lưu giữ cùng với giao dịch đó đầy đủ, chính xác.
d) Tổ chức phục vụ người thụ hưởng phải lưu giữ đảm bảo thông tin về giao dịch, cá nhân, tổ chức thụ hưởng và thông tin đi kèm với giao dịch chuyển tiền điện tử được lưu giữ cùng với giao dịch đó đầy đủ, chính xác.
6. Mức giá trị của giao dịch chuyển tiền điện tử phải báo cáo.:
a) Trừ những giao dịch chuyển tiền điện tử tại điểm b khoản này, tổ chức tài chính được phép thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước, quốc tế phải báo cáo Cục Phòng, chống rửa tiền từng giao dịch chuyển tiền điện tử trong nước có mức giá trị từ 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng trở lên hoặc ngoại tệ có giá trị tương đương và giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế ra vào Việt Nam có mức giá trị từ 1.000 (một nghìn) đô la Mỹ trở lên hoặc bằng ngoại tệ khác có giá trị tương đương;
b) Các giao dịch chuyển tiền điện tử không phải báo cáo bao gồm:
- Giao dịch chuyển tiền bắt nguồn từ giao dịch sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng hoặc thẻ trả trước để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ;
- Giao dịch chuyển tiền và thanh toán giữa các tổ chức tài chính mà người khởi tạo và người thụ hưởng đều là các tổ chức tài chính.
- Giao dịch thiết yếu bao gồm: Thanh toán thuế, các loại phí; Chi trả dịch vụ sinh hoạt điện, nước, điện thoại, học phí; Giao dịch thanh toán mà cơ quan nhà nước là bên thụ hưởng.
c) Đối với các giao dịch chuyển tiền điện tử trong nước thì tổ chức tài chính khởi tạo phải báo cáo và có trách nhiệm thu thập đầy đủ thông tin về cá nhân, tổ chức phát lệnh chuyển tiền; tổ chức tài chính phục vụ người thụ hưởng có trách nhiệm thu thập đầy đủ thông tin về cá nhân, tổ chức thụ hưởng theo quy định tại điểm c khoản 7 Điều này và báo cáo Cục Phòng, chống rửa tiền. Tổ chức tài chính có trách nhiệm báo cáo Cục Phòng, chống rửa tiền bằng tệp dữ liệu điện tử theo quy định tại Điều 12 Thông tư này.
7. Nội dung báo cáo gồm các thông tin sau:
a) Tổ chức phát lệnh chuyển tiền: tên giao dịch của tổ chức hoặc điểm giao dịch; địa chỉ liên lạc; quốc gia.
b) Tổ chức phục vụ người thụ hưởng: tên giao dịch của tổ chức hoặc điểm giao dịch; địa chỉ liên lạc; quốc gia.
c) Cá nhân, tổ chức là người chuyển tiền, người thụ hưởng:
(i) Cá nhân: Họ tên; số chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân hoặc số hộ chiếu còn hiệu lực; số tài khoản (nếu có); mã số giao dịch; số tiền, loại tiền giao dịch; nội dung, mục đích giao dịch; địa chỉ liên hệ; địa chỉ thường trú; địa chỉ tạm trú; quốc gia;
(ii) Tổ chức: Tên; mã số thuế; số giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; số tài khoản; mã số giao dịch; số tiền, loại tiền giao dịch; nội dung, mục đích giao dịch; địa chỉ liên hệ; địa chỉ đặt trụ sở; quốc gia;
(iii) Đối với chuyển tiền điện tử trong nước: Nếu người chuyển tiền, người thụ hưởng là người nước ngoài, ngoài các thông tin quy định tại điểm c(i) và c(ii) Khoản này phải có thông tin về số thị thực nhập cảnh (nếu có), địa chỉ nơi cư trú ở nước ngoài và địa chỉ tại Việt Nam;
(iv) Đối với giao dịch chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài: Thông tin đối với cá nhân (số chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân hoặc số hộ chiếu còn hiệu lực) và tổ chức (mã số thuế, số giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) của người thụ hưởng là không bắt buộc;
(v) Đối với giao dịch chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam: Thông tin đối với cá nhân (số chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân hoặc số hộ chiếu còn hiệu lực); đối với tổ chức (mã số thuế, số giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) của người chuyển tiền là không bắt buộc.
8. Tổ chức trung gian phải lưu giữ hồ sơ giao dịch bao gồm các thông tin theo quy định tại khoản 7 Điều này ít nhất 5 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch và có trách nhiệm cung cấp hồ sơ đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu và không phải báo cáo các giao dịch chuyển tiền điện tử cho Cục Phòng, chống rửa tiền.
9. Đối tượng báo cáo được phép thực hiện chuyển tiền điện tử quốc tế phải xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phù hợp phục vụ cho việc báo cáo bằng tệp dữ liệu điện tử theo quy định tại Điều 12 Thông tư này và phải có hệ thống phần mềm để lọc, phân tích giao dịch nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa các rủi ro khác.
10. Đối với các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế có giá trị tương đương từ một nghìn đô la Mỹ trở lên, đối tượng báo cáo phục vụ người thụ hưởng phải xác thực, nhận dạng người thụ hưởng theo quy định tại Điều 11 Luật Phòng, chống rửa tiền và phải lưu trữ các thông tin này theo quy định.
11. Trong quá trình giao dịch và sau giao dịch, đối tượng báo cáo phục vụ người thụ hưởng phải thực hiện các biện pháp giám sát để phát hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế thiếu các thông tin về người khởi tạo lệnh chuyển tiền hoặc người thụ hưởng quy định tại điểm c khoản 7 Điều này và áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp gồm từ chối hoặc tạm dừng giao dịch hoặc các biện pháp giám sát sau giao dịch.
12. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp tạm ngừng lưu thông, phong tỏa tài khoản, niêm phong, tạm giữ tiền, tài sản và tuân thủ các quy định cấm thực hiện giao dịch với các tổ chức, cá nhân trong danh sách chỉ định của các Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố và danh sách đen do Bộ Công an chủ trì lập theo quy định của pháp luật.
Điều 10. Mức giá trị của ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng phải khai báo hải quan hoặc khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển nơi không có cơ quan hải quan
1. Mức giá trị của kim loại quý, đá quý (trừ vàng): 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng, trong đó:
a) Kim loại quý (trừ vàng) gồm: bạc, bạch kim, đồ mỹ nghệ và đồ trang sức bằng bạc, bạch kim; các loại hợp kim có bạc, bạch kim.
b) Đá quý gồm: kim cương, ruby, saphia và ê-mơ-rốt.
2. Mức giá trị các công cụ chuyển nhượng: 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng.
3. Mức giá trị của ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, mức giá trị của vàng phải khai báo hải quan hoặc bộ đội biên phòng, cảnh sát biển nơi không có cơ quan hải quan thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Điều 11. Hình thức báo cáo
1. Báo cáo bằng tệp dữ liệu điện tử là báo cáo thể hiện dưới dạng file dữ liệu được truyền qua đường truyền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Báo cáo bằng tệp dữ liệu điện tử phải theo đúng định dạng, ký hiệu, mã truyền tin, cấu trúc file theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền).
3. Đối tượng báo cáo phải lưu trữ thông tin, thường xuyên rà soát và chịu trách nhiệm về tính chính xác, đầy đủ liên quan đến giao dịch phải báo cáo.
4. Đối tượng báo cáo phải truyền tin theo quy trình do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định và có biện pháp bảo mật thông tin theo quy định tại Điều 33 Luật Phòng, chống rửa tiền.
5. Đối tượng báo cáo phải cài đặt phần mềm truyền file do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền) cung cấp.
6. Thời hạn gửi báo cáo: định kỳ cuối ngày hình làm việc, đối tượng báo cáo phải tổng hợp dữ liệu báo cáo và gửi theo quy định. Thời hạn gửi chậm nhất là đến 16 giờ ngày làm việc tiếp theo ngay sau ngày phát sinh giao dịch. Nếu ngày tiếp theo trùng với ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết hoặc ngày nghỉ cuối tuần, thì ngày gửi báo cáo là ngày làm việc tiếp theo ngay sau ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết hoặc ngày nghỉ cuối tuần đó. Trong trường hợp gửi chậm, thiếu báo cáo từ 2 (hai) ngày trở lên, đối tượng báo cáo phải giải trình về việc gửi chậm, thiếu cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền).
7. Báo cáo điện tử phải phản ánh đầy đủ, chính xác, đúng thời gian và địa điểm giao dịch phát sinh. Khi phát hiện sai sót phải báo cáo với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền) để được chấp thuận gửi lại báo cáo. Các sai sót mang tính chất cố ý hoặc gây hậu quả sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
8. Để đảm bảo tính chính xác của báo cáo điện tử, đối tượng báo cáo phải tiến hành so sánh, rà soát định kỳ hàng tháng để đề nghị bổ sung hoặc cập nhật và phải chịu trách nhiệm nếu phát hiện sai sót muộn quá ba tháng.
9. Đối tượng báo cáo phải đăng ký bằng văn bản với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Cục Phòng, chống rửa tiền) về cán bộ phụ trách báo cáo bằng tệp dữ liệu điện tử, bao gồm các thông tin: họ tên, chức vụ, địa chỉ nơi làm việc, điện thoại, địa chỉ hòm thư điện tử (email) và phải thông báo bằng văn bản khi có sự thay đổi thông tin về cán bộ phụ trách hoặc thay đổi cán bộ phụ trách khác.
Điều 12. Hiệu lực thi hành
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày …/…/…
2. Thông tư này thay thế Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền, Thông tư số 31/2014/TT-NHNN ngày 11/11/2014 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền; Thông tư số 20/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền.
Điều 13. Trách nhiệm thi hành
1. Thủ trưởng Cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật Phòng, chống rửa tiền và đối tượng báo cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư này chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Thông tư này.
2. Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề phát sinh hoặc khó khăn, vướng mắc, đối tượng báo cáo phản ánh về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (qua Cục Phòng, chống rửa tiền) để được hướng dẫn kịp thời.
Nghị Định Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0713a-dtND-quy-dinh-chi-tiet-Luat-PCRTsd---20220927082905.docx
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Luật Phòng, chống rửa tiền ngày tháng năm ;
Theo đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật Phòng, chống rửa tiền, bao gồm các nội dung về Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền; Nhận biết khách hàng; Chủ sở hữu hưởng lợi; Mục đích và bản chất mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo; Giao dịch với giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp; Trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin; Thu thập, xử lý, phân tích thông tin về phòng, chống rửa tiền; Chuyển giao, trao đổi thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước; Trì hoãn giao dịch.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Nghị định này áp dụng đối với các đối tượng theo quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống rửa tiền.
Điều 3. Tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền
Phương án 1
Việc thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 Luật Phòng, chống rửa tiền dựa vào các tiêu chí sau:
1. Đánh giá nguy cơ rửa tiền của quốc gia:
Đánh giá nguy cơ rửa tiền trong nước và nước ngoài theo các tiêu chí định lượng và định tính sau:
a) Các tiêu chí định lượng bao gồm: các thông tin, số liệu, dữ liệu về công tác phòng, chống tội phạm nguồn và tội phạm rửa tiền được thu thập từ cơ sở dữ liệu của hệ thống tư pháp, cơ quan thống kê quốc gia, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân, cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan tình báo tài chính, cơ quan chống tham nhũng, cơ quan quản lý tài sản bị tịch thu và sung công, cơ quan thuế, cơ quan hải quan và các báo cáo nghiên cứu, chuyên đề học thuật.
b) Các tiêu chí định tính bao gồm: thông tin tình báo tài chính, báo cáo của các cơ quan Chính phủ, các ấn phẩm và tài liệu nghiên cứu học thuật, ấn phẩm, báo cáo của các tổ chức quốc tế, ấn phẩm của các tổ chức phi lợi nhuận, khảo sát, phỏng vấn và các nguồn thông tin mở đáng tin cậy khác liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm nguồn và tội phạm rửa tiền.
2. Đánh giá mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền đã được thực hiện thông qua việc đánh giá tính toàn diện của khuôn khổ pháp lý và mức độ đầy đủ của các quyền hạn, thủ tục của các cơ quan có thẩm quyền, tổ chức trong việc triển khai công tác phòng, chống rửa tiền.
Phương án 2
Việc thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 Luật Phòng, chống rửa tiền dựa vào các tiêu chí sau:
1. Đánh giá nguy cơ rửa tiền trong nước theo các tiêu chí định lượng sau:
a) Tiêu chí về tội phạm nguồn bao gồm:
- Số liệu thống kê và thông tin liên quan đến các loại tội phạm nguồn phổ biến nhất của tội rửa tiền gồm: số lượng các vụ việc được phát hiện, khởi tố, điều tra và xét xử; số tiền bị kê biên, phong tỏa, tịch thu; số lượng ước tính vụ việc tội phạm nguồn và số tiền, tài sản có được nhưng chưa bị phát hiện hoặc thống kê.
- Số liệu thống kê về vụ rửa tiền đã bị phát hiện theo loại tội phạm nguồn liên quan gồm: số lượng các vụ rửa tiền được phát hiện, điều tra, khởi tố và kết tội cũng như số tiền đã bị kê biên, phong tỏa và/hoặc tịch thu; số lượng ước tính vụ việc rửa tiền và số tiền, tài sản có được nhưng chưa bị phát hiện hoặc thống kê.
b) Tiêu chí về lĩnh vực: thông tin và dữ liệu liên quan đến các vụ việc rửa tiền theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể gồm: tội phạm nguồn, tổng số tiền phát hiện tổng số tiền bị tịch thu, số người có quốc tịch liên quan, số người không có quốc tịch liên quan, quốc gia xuất xứ, quốc gia đích đến, các lĩnh vực liên quan, phương thức và kỹ thuật rửa tiền, đầu mối khởi nguồn điều tra vụ việc, kết quả điều tra.
c) Nguy cơ xuyên biên giới bao gồm: các số liệu liên quan đến các vụ việc rửa tiền mà tội phạm nguồn được thực hiện ở nước ngoài nhưng hành vi rửa tiền được thực hiện ở trong nước; các vụ việc rửa tiền mà tội phạm nguồn được thực hiện ở trong nước và hành vi rửa tiền được thực hiện ở nước ngoài và các vụ việc rửa tiền mà tội phạm nguồn diễn ra ở cả trong nước và nước ngoài, tuy nhiên không thể xác định tiền, tài sản do phạm tội mà có được tạo ra ở trong nước hay nước ngoài.
Các tiêu chí về nguy cơ xuyên biên giới gồm số vụ khởi tố, điều tra về rửa tiền, số báo cáo giao dịch đáng ngờ, số lượng hồ sơ vụ việc đơn vị đầu mối phòng, chống rửa tiền gửi cho cơ quan điều tra; tổng số tài sản bị kê biên, phong tỏa và tịch thu.
- Số lượng các yêu cầu tương trợ tư pháp, tổng số tiền liên quan đến yêu cầu gửi đi và nhận được; số lượng các vụ việc có trao đổi dữ liệu với cơ quan tình báo tài chính nước ngoài; số lượng yêu cầu trao đổi thông tin thuế gửi đi và nhận được.
- Tổng số tiền mặt khai báo khi đi qua biên giới; tổng số vụ buôn lậu tiền qua biên giới hoặc hải quan; tổng số tiền bị kê biên, tịch thu trong các vụ buôn lậu tiền mặt qua biên giới hoặc hải quan.
d) Tiêu chí về lưu chuyển tài chính ra và vào Việt Nam gồm: giá trị các dòng tiền lưu chuyển trong 05 (năm) năm qua; dòng tiền vào liên quan đến thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, dòng kiều hối.
2. Đánh giá nguy cơ rửa tiền bên ngoài theo các tiêu chí định lượng sau: Số lượng các vụ việc tội phạm nguồn xảy ra ở nước ngoài; lượng tiền, tài sản bất hợp pháp được tạo ra do các tội phạm nguồn từ nước ngoài; các yếu tố đặc trưng về địa lý, kinh tế, xã hội liên quan đến nguy cơ rửa tiền đến từ bên ngoài.
3. Đánh giá nguy cơ rửa tiền trong nước và bên ngoài theo các tiêu chí định tính gồm: thông tin tình báo tài chính, báo cáo của các cơ quan Chính phủ, các ấn phẩm và tài liệu nghiên cứu học thuật, ấn phẩm của các tổ chức quốc tế, ấn phẩm của các tổ chức phi lợi nhuận, khảo sát, phỏng vấn và các nguồn thông tin mở đáng tin cậy khác liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm rửa tiền.
4. Đánh giá mức độ phù hợp của các chính sách, biện pháp phòng, chống rửa tiền đã được thực hiện thông qua việc đánh giá tính toàn diện của khuôn khổ pháp lý và mức độ đầy đủ của các quyền hạn, thủ tục của các cơ quan có thẩm quyền, tổ chức trong việc triển khai công tác phòng, chống rửa tiền.
Chương II
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Mục I
NHẬN BIẾT, BÁO CÁO VÀ LƯU GIỮ THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
Điều 4. Nhận biết khách hàng
1. Tổ chức tài chính phải nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Khi khách hàng lần đầu mở tài khoản, bao gồm tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm, tài khoản thẻ và các loại tài khoản khác;
b) Khi khách hàng lần đầu thiết lập mối quan hệ với tổ chức tài chính nhằm sử dụng sản phẩm, dịch vụ do tổ chức tài chính cung cấp;
c) Khi khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định. Giao dịch không thường xuyên có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định là giao dịch của khách hàng không có tài khoản hoặc có tài khoản thanh toán, ví điện tử nhưng không giao dịch trong vòng 6 tháng trở lên với tổng giá trị từ 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng trở lên trong một ngày;
d) Khi thực hiện chuyển tiền điện tử nhưng thiếu một trong số thông tin về tên, địa chỉ của người khởi tạo, số tài khoản của người khởi tạo hoặc mã giao dịch trong trường hợp người khởi tạo không có tài khoản;
đ) Khi nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;
e) Khi nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng, trò chơi trên mạng viễn thông, mạng intenet, casino, xổ số và đặt cược phải nhận biết khách hàng khi khách hàng thực hiện giao dịch tài chính với tổng giá trị từ 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng trở lên trong một ngày.
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản, trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản phải nhận biết khách hàng đối với bên mua, bên bán trong hoạt động môi giới mua, bán bất động sản; đối với chủ sở hữu tài sản trong việc cung cấp dịch vụ quản lý bất động sản.
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh kim loại quý và đá quý phải nhận biết khách hàng khi khách hàng thực hiện giao dịch bằng tiền mặt mua hoặc bán kim loại quý, đá quý có giá trị từ 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng trở lên trong một ngày.
5. Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công chứng, kế toán; dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư phải nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lý tiền mặt, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; góp vốn để thành lập, điều hành hoặc quản lý doanh nghiệp của khách hàng; mua, bán các tổ chức kinh doanh.
6. Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý phải nhận biết khách hàng đối với bên ủy thác, người thụ hưởng của thỏa thuận pháp lý khi nhận tiền hoặc tài sản từ bên ủy thác để thực hiện giao dịch theo thỏa thuận pháp lý.
7. Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp phải nhận biết khách hàng khi khách hàng sử dụng hoặc yêu cầu các dịch vụ đó.
8. Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký công ty cho bên thứ ba phải nhận biết khách hàng đối với bên thứ ba và người giám đốc hoặc thư ký đó.
Điều 5. Chủ sở hữu hưởng lợi
1. Đối tượng báo cáo phải nhận biết khách hàng để xác định chủ sở hữu hưởng lợi cuối cùng của khách hàng; căn cứ theo các tiêu chí sau:
a) Cá nhân sở hữu thực tế đối với một tài khoản hoặc một giao dịch: Chủ tài khoản, đồng chủ tài khoản hoặc bất kỳ người nào chi phối hoạt động của tài khoản hoặc thụ hưởng từ giao dịch đó;
b) Cá nhân có quyền chi phối pháp nhân: Cá nhân nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp từ 25% trở lên vốn điều lệ của pháp nhân đó; chủ doanh nghiệp tư nhân; cá nhân khác thực tế chi phối, kiểm soát pháp nhân đó;
c) Cá nhân có quyền chi phối một thỏa thuận pháp lý, thỏa thuận ủy quyền: Cá nhân ủy thác, ủy quyền; cá nhân có quyền chi phối cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức ủy thác, ủy quyền;
d) Cá nhân thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hoặc hợp đồng bảo hiểm liên quan đến đầu tư tại thời điểm đáo hạn hoặc kết thúc hợp đồng bảo hiểm.
2. Nhận dạng và xác minh thông tin nhận dạng chủ sở hữu hưởng lợi được thực hiện theo quy định tại Điều 10, 11, 12 của Luật Phòng, chống rửa tiền, trừ trường hợp chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân đại diện vốn nhà nước trong các tổ chức.
Điều 6. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
1. Mối quan hệ kinh doanh là mối quan hệ được thiết lập giữa đối tượng báo cáo và khách hàng để thực hiện các giao dịch tài chính hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan đến các giao dịch tài chính.
2. Mục đích mối quan hệ kinh doanh là lý do khách hàng thiết lập mối quan hệ kinh doanh với đối tượng báo cáo.
3. Bản chất mối quan hệ kinh doanh là mục tiêu hoặc kế hoạch thực hiện mối quan hệ kinh doanh của khách hàng.
Điều 7. Giao dịch với giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp
2. Giao dịch phức tạp là giao dịch được thực hiện thông qua phương thức không phù hợp với bản chất của giao dịch như: Giao dịch được thực hiện thông qua nhiều bên trung gian, nhiều tài khoản không cần thiết; giao dịch được thực hiện giữa nhiều tài khoản khác nhau của cùng một chủ tài khoản tại các khu vực địa lý khác nhau; bất kỳ giao dịch nào do đối tượng báo cáo nhận định không bình thường và cần có sự giám sát chặt chẽ.
Điều 8. Trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin
1. Hồ sơ, tài liệu lưu trữ và thông tin liên quan chỉ được cung cấp trực tiếp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau:
b) Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân các cấp nếu giao dịch liên quan tới vụ việc và khách hàng đã có quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can. Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng các cơ quan này là người ký yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu và thông tin liên quan;
c) Cơ quan an ninh điều tra nếu giao dịch liên quan tới các đối tượng bị nghi ngờ phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ quan này là người ký yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu và thông tin liên quan;
đ) Cơ quan thanh tra nhà nước, Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành khi thực hiện nhiệm vụ theo các quyết định thanh tra, kiểm tra do cấp có thẩm quyền ban hành.
2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin kịp thời cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền khác khi được yêu cầu hoặc khi đối tượng báo cáo nhận thấy cần thiết phải báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin để phục vụ cho công tác phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biễn vũ khí hủy diệt theo quy định của pháp luật.
Mục 2
THU THẬP, XỬ LÝ VÀ CHUYỂN GIAO THÔNG TIN VỀ
PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Điều 9. Thu thập, xử lý và phân tích thông tin phòng, chống rửa tiền
1. Cục Phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm ban hành quy trình xử lý, phân tích thông tin, báo cáo nhận được. Quy trình xử lý và phân tích thông tin phải bao gồm:
a) Phân tích và xử lý thông tin dựa trên nguồn thông tin sẵn có và thu thập bổ sung để xác định các xu hướng và mô hình rửa tiền. Các thông tin phân tích này sử dụng để xác định các nguy cơ của hoạt động rửa tiền và các biện pháp phòng, chống rửa tiền được áp dụng về rửa tiền trong từng ngành, lĩnh vực và ở phạm vi toàn quốc nhằm xây dựng các chiến lược và mục tiêu phòng, chống rửa tiền trong từng giai đoạn nhất định.
b) Phân tích và xử lý thông tin dựa trên nguồn thông tin sẵn có và thu thập bổ sung để lần theo dấu giao dịch hoặc hoạt động cụ thể có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền hoặc hoạt động tội phạm khác nhằm xác định mối liên hệ của hoạt động hoặc giao dịch có liên quan tới rửa tiền hoặc hoạt động tội phạm khác.
2. Cục Phòng, chống rửa tiền có trách nhiệm thiết lập hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ cho việc phân tích, xử lý thông tin hiệu quả.
Điều 10. Chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ định Cục phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là đơn vị đầu mối có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra có thẩm quyền khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong các thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền hoặc rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố.
2. Cơ sở để nghi ngờ giao dịch nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền được coi là hợp lý khi:
a) Giao dịch liên quan đến tổ chức, cá nhân nằm trong danh sách đen;
b) Giao dịch liên quan đến tổ chức, cá nhân đang là đối tượng bị điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan chức năng của Việt Nam và của quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới;
c) Giao dịch liên quan đến tổ chức, cá nhân nằm trong danh sách cảnh báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và của quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới;
d) Giao dịch liên quan đến người bị kết án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;
đ) Giao dịch được thực hiện trong thời gian rất ngắn liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau nhưng không có cơ sở kinh tế hoặc không đủ chứng từ giao dịch;
e) Giao dịch khác mà cơ quan phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dựa trên kinh nghiệm thực tế và kinh nghiệm quốc tế nhận thấy có thể liên quan đến các hoạt động phạm tội.
3. Cơ sở để nghi ngờ giao dịch nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến tài trợ cho khủng bố, tài trợ bổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt khi:
a) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân theo danh sách trong các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về chống tài trợ khủng bố, tài trợ bổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt;
b) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân theo danh sách những tổ chức, cá nhân khủng bố và tài trợ cho khủng bố, tài trợ bổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt do tổ chức quốc tế khác hoặc quốc gia khác trên thế giới lập ra và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cảnh báo;
c) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân đã từng bị kết án về các tội khủng bố, tội tài trợ cho khủng bố tại Việt Nam;
d) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân khủng bố hoặc tài trợ khủng bố, tài trợ bổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt mà đối tượng báo cáo biết được từ các nguồn thông tin khác.
b) Giao dịch khác mà cơ quan phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dựa trên kinh nghiệm thực tế và kinh nghiệm quốc tế, nhận thấy có thể liên quan đến các hoạt động tài trợ khủng bố, tài trợ bổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền nêu tại Khoản 1 Điều này bao gồm:
a) Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an;
b) Cơ quan điều tra thuộc Bộ Quốc phòng;
c) Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
d) Cơ quan có thẩm quyền điều tra ban đầu.
5. Cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 4 Điều này khi tiếp nhận thông tin hoặc hồ sơ vụ việc theo quy định tại Khoản 1 Điều này có trách nhiệm phân loại, giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và lưu giữ các thông tin, báo cáo, tài liệu nhận được theo chế độ mật và phản hồi ngay khi có kết quả xử lý cho Cục phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Điều 11. Trao đổi thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
1. Cục Phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin theo quy định tại Điều 35 Luật Phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong các trường hợp sau:
a) Theo yêu cầu của cơ quan điều tra có thẩm quyền;
b) Theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Viện kiểm sát quân sự các cấp;
c) Theo yêu cầu của Tòa án nhân dân các cấp; Tòa án quân sự các cấp.
2. Cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều này có trách nhiệm lưu giữ các thông tin, báo cáo, tài liệu nhận được theo chế độ mật và thông báo kết quả xử lý có liên quan cho cơ quan phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động và có trách nhiệm trao đổi với các bộ, ngành, đơn vị liên quan thông tin sau:
a) Thông tin về giao dịch, tổ chức, cá nhân nghi ngờ có hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền;
b) Thông tin về những bất cập trong cơ chế, chính sách, hoạt động quản lý nhà nước nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Điều này và bộ, ngành liên quan có thể ký kết quy chế phối hợp, trao đổi thông tin để tạo điều kiện cho việc phối hợp, trao đổi thông tin được nhanh chóng, hiệu quả.
Mục 3
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI
Điều 12. Quy định chi tiết về trì hoãn giao dịch
1. Cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen bao gồm:
- Cá nhân, tổ chức có giao dịch với đối tượng báo cáo có thông tin trùng khớp toàn bộ với thông tin của tổ chức, cá nhân thuộc danh sách đen;
- Cá nhân, tổ chức có giao dịch với đối tượng báo cáo có thông tin trùng khớp một phần với thông tin của tổ chức, cá nhân thuộc danh sách đen mà đối tượng báo cáo trên cơ sở các thông tin thu thập được tin rằng cá nhân, tổ chức liên quan tới tài trợ khủng bố hoặc khủng bố.
2. Lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội, gồm:
a) Giao dịch do người bị kết án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự yêu cầu thực hiện và tài sản trong giao dịch đó có nguồn gốc từ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của cá nhân đó hoặc tài sản của tổ chức mà cá nhân đó có quyền sở hữu hoặc kiểm soát trong hoặc sau thời gian thực hiện hành vi phạm tội;
b) Giao dịch liên quan đến tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi có liên quan đến tội phạm tài trợ cho khủng bố.
3. Khi áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch, đối tượng báo cáo phải báo cáo ngay bằng văn bản và thông báo ngay bằng điện thoại cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời báo cáo bằng văn bản cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phối hợp (không báo cáo dưới dạng mẫu của báo cáo giao dịch đáng ngờ).
4. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều này bao gồm:
a) Cơ quan điều tra các cấp;
b) Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Viện kiểm sát quân sự các cấp;
c) Tòa án nhân dân các cấp, Tòa án quân sự các cấp.
5. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Khoản 3 Điều này có trách nhiệm kịp thời xử lý báo cáo về việc áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền và pháp luật về phòng, chống khủng bố.
Chương III
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 13. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày …. tháng … năm 2023.
2. Nghị định này thay thế Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền; Nghi định số 87/2019/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền.
Điều 14. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
Phụ Lục Bảng rà soát quy định của pháp luật liên quan đến Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0712a-bc-ra-soat-phap-luat-lien-quan-dt-Luat-PCRTsd-Phuluc---20220927082905.docx
QUY ĐỊNH CỦA DỰ THẢO LUẬT PCRT
(SỬA ĐỔI)
|
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH CÓ LIÊN QUAN
|
ĐÁNH GIÁ
|
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
|
|
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Luật này quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
2. Việc phòng, chống hành vi rửa tiền của các tổ chức, cá nhân có mục đích tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Tổ chức tài chính.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính.
3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức nước ngoài, người nước ngoài, tổ chức quốc tế có các giao dịch với tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:
a) Hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự;
b) Hành vi trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;
c) Hành vi chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản mà biết hay có cơ sở để biết tài sản đó do phạm tội mà có nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.
|
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
“Điều 324. Tội rửa tiền
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có;
b) Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;
c) Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó;
d) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có”.
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
2. Tài sản do phạm tội mà có là tài sản có được trực tiếp hoặc gián tiếp từ hoạt động phạm tội bao gồm cả phần thu nhập hay lợi nhuận sinh ra từ tài sản có được từ hoạt động phạm tội.
|
- Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền:
“Điều 2. Về một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự
…3. Tiền, tài sản do phạm tội mà có là tiền, tài sản có được từ hành vi phạm tội. Việc xác định hành vi phạm tội được căn cứ vào một trong các tài liệu sau đây:
a) Bản án, quyết định của Tòa án;
b) Tài liệu, chứng cứ do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp (ví dụ: Quyết định khởi tố vụ án, Kết luận điều tra, Cáo trạng...);
c) Tài liệu, chứng cứ khác để xác định hành vi phạm tội (ví dụ: tài liệu, chứng cứ của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), Lực lượng đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF), tài liệu tương trợ tư pháp về hình sự... ).
4. Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có là một trong các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
b) Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
c) Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
d) Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó) ”.
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
3. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
4. Giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo là giao dịch bằng tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một ngày, có tổng giá trị bằng hoặc vượt mức do Thủ tướng Chính phủ quy định.
|
Đây là các quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
5. Người khởi tạo là chủ tài khoản hoặc người yêu cầu tổ chức tài chính thực hiện chuyển tiền điện tử trong trường hợp không qua tài khoản.
|
Đây là các quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
6. Chuyển tiền điện tử là bất kỳ giao dịch nào được thực hiện theo yêu cầu của người khởi tạo thông qua tổ chức tài chính bằng phương tiện điện tử nhằm chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng tại tổ chức tài chính của người thụ hưởng. Người thụ hưởng có thể là người khởi tạo.
|
- Luật Giao dịch điện tử năm 2005:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…6. Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử.
7. Giao dịch điện tử tự động là giao dịch điện tử được thực hiện tự động từng phần hoặc toàn bộ thông qua hệ thống thông tin đã được thiết lập sẵn”.
- Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP và Nghị định 16/2019/NĐ-CP):
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (sau đây gọi là dịch vụ thanh toán) bao gồm dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán và một số dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng”.
- Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Thông tư này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
...7. Dịch vụ chuyển tiền là việc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện theo yêu cầu của bên trả tiền nhằm chuyển một số tiền nhất định cho bên thụ hưởng. Bên thụ hưởng có thể là bên trả tiền. Dịch vụ chuyển tiền bao gồm dịch vụ chuyển tiền qua tài khoản thanh toán và không qua tài khoản thanh toán của khách hàng”.
|
Việc bổ sung quy định liên quan đến “giao dịch chuyển tiền điện tử” tại dự thảo Luật là phù hợp với các quy định tại Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và đáp ứng kịp thời những quy định về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của NHNN.
|
7. Khách hàng là tổ chức, cá nhân đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính cung cấp.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
8. Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một hoặc một số tài sản, có quyền chi phối khách hàng thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản cho cá nhân này; là cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
9. Quan hệ ngân hàng đại lý là quan hệ được hình thành từ việc một ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho một ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
10. Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố, tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập và danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt do Bộ Quốc phòng chủ trì lập theo quy định của pháp luật.
|
Khoản 15, 16 Điều 5 Nghị định 81/2019/NĐ-CP ngày 11/11/2019 về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diện hàng loạt
Khoản 15, 16 Điều 5 quy định:
15. Tổ chức, cá nhân bị chỉ định là một nhóm người, một người, pháp nhân hoặc chủ thể tham gia vào việc phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được liệt kê trong các nghị quyết, thông báo thuộc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ban hành theo Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc hoặc do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác lập.
16. Xác lập danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam lập danh sách, đưa ra khỏi danh sách, công bố danh sách; đề nghị đưa vào danh sách, đưa ra khỏi danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định; tiếp nhận, xử lý yêu cầu của quốc gia khác về việc xác định tổ chức, cá nhân liên quan hoặc không liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Điểm a khoản 1 Điều 29 quy định trách nhiệm Bộ Quốc phòng: “a) Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan đầu mối quốc gia được quy định tại Điều 11 của Nghị định này;
Điểm g khoản 5 Điều 11 quy định trách nhiệm Cơ quan đầu mối quốc gia: “g) Tiếp nhận thông tin liên quan và phối hợp với Đơn vị đầu mối đưa vào hoặc đưa ra khỏi danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và thông báo hoặc kiến nghị lên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đưa vào danh sách, đưa ra khỏi danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định và công bố công khai danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định theo quy định;.”.
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
11. Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền.
|
Đây là các quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
12. Lực lượng đặc nhiệm tài chính là tổ chức liên chính phủ, ban hành các chuẩn mực, thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu.
|
Đây là các quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
13. Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận dưới hình thức ủy thác hoặc hình thức khác có bản chất tương tự được xác lập theo luật pháp nước ngoài, cho phép bên nhận ủy thác được nhận chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong thỏa thuận.
|
Đây là các quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
14. Ngân hàng vỏ bọc là ngân hàng không có sự hiện diện thực tế tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mà tại đó ngân hàng phải được thành lập và cấp phép, đồng thời không có sự liên kết hoặc kiểm soát của bất kỳ định chế tài chính nào đã được quản lý và giám sát.
|
Đây là các quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
15. Tổ chức phi lợi nhuận là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bao gồm: hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ nước ngoài được thành lập, đăng ký, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
- Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 quy định
“Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
… 12. Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo”.
- Nghị định số 12/2012/NĐ-CP ngày 01/3/2012 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam quy định:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1. Nghị định này quy định về đăng ký và quản lý hoạt động hỗ trợ phát triển, viện trợ nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận hoặc các mục đích khác, của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam.
2. Nghị định này áp dụng đối với các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ xã hội, quỹ tư nhân, hoặc các hình thức tổ chức xã hội, phi lợi nhuận khác, được thành lập theo luật pháp nước ngoài, có hoạt động hỗ trợ phát triển, viện trợ nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận hoặc các mục đích khác tại Việt Nam”.
“Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. “Tổ chức phi chính phủ nước ngoài” là các tổ chức nêu tại khoản 2 Điều 1 của Nghị định này.
2. “Hoạt động nhân đạo, phát triển” là các hoạt động hỗ trợ phát triển, viện trợ nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận hoặc các mục đích khác”.
- Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện quy định:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…2. Quỹ xã hội: Là quỹ được tổ chức, hoạt động với mục đích hỗ trợ và khuyến khích phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, khoa học và phát triển nông nghiệp, nông thôn, không vì mục tiêu lợi nhuận.
3. Quỹ từ thiện: Là quỹ được tổ chức, hoạt động với mục đích hỗ trợ khắc phục sự cố do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn và các đối tượng khác thuộc diện khó khăn, yếu thế cần sự trợ giúp của xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận.
4. Không vì mục tiêu lợi nhuận: Là lợi nhuận có được trong quá trình hoạt động không để phân chia mà chỉ dùng cho các hoạt động theo điều lệ của quỹ đã được công nhận.
- Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội quy định: “Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”.
|
Nội dung này hiện đang được quy định tại Nghị định số 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật PCRT. Ngoài các VBQPPL về phòng, chống rửa tiền, các văn bản quy phạm pháp luật khác chưa có định nghĩa rõ ràng về “tổ chức phi lợi nhuận”; tuy nhiên, các khái niệm về “tổ chức phi chính phủ nước ngoài”, “quỹ xã hội”, “quỹ từ thiện”, “hội”, “tổ chức tôn giáo” đã được quy định cụ thể tại các VBQPPL có liên quan.
Qua rà soát, quy định về tổ chức phi lợi nhuận tại dự thảo Luật đã nêu rõ đặc điểm “hoạt động không vì mục đích lợi nhuận” của tổ chức phi lợi nhuận và các hình thức tổ chức phi lợi nhuận cụ thể là đối tượng điều chỉnh. Quy định này đã phân biệt rõ tổ chức phi lợi nhuận và các tổ chức khác có điểm tương đồng.
|
Điều 4. Đối tượng báo cáo
1.Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cho vay;
c) Cho thuê tài chính;
d) Dịch vụ thanh toán;
đ) Dịch vụ trung gian thanh toán;
e) Phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, lệnh chuyển tiền, tiền điện tử;
g) Bảo lãnh ngân hàng và cam kết tài chính;
h) Cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ;
i) Môi giới chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán;
k) Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán;
l) Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ;
m) Đổi tiền.
2. Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
a) Kinh doanh trò chơi có thưởng bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược;
b) Kinh doanh bất động sản, trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản;
c) Kinh doanh kim loại quý và đá quý;
d) Cung cấp dịch vụ công chứng, kế toán; cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư;
đ) Cung cấp dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký công ty cho bên thứ ba; cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý.
3. Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo ngoài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
|
1. Dự thảo Luật bổ sung hoạt động “dịch vụ trung gian thanh toán” vào tổ chức tài chính để điều chỉnh các đối tượng là trung gian thanh toán. Các đối tượng này cung ứng các dịch vụ tài chính như ví điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ, dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử là các loại hình kinh doanh có các rủi ro về rửa tiền. Hiện nay, dịch vụ trung gian thanh toán đang được quy định tại:
- Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP và Nghị định 16/2019/NĐ-CP)
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
...4. Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là các tổ chức không phải là ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán”.
“Điều 15. Các dịch vụ trung gian thanh toán và điều kiện cung ứng dịch vụ này
1. Dịch vụ trung gian thanh toán bao gồm:
a) Dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử;
b) Dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán;
c) Các dịch vụ trung gian thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.”
- Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 9/12/2019 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 23/2019/TT-NHNN) quy định các loại dịch vụ trung gian thanh toán:
" Điều 2. Các loại dịch vụ trung gian thanh toán
1. Dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử, gồm:
a) Dịch vụ chuyển mạch tài chính;
b) Dịch vụ bù trừ điện tử;
c) Dịch vụ cổng thanh toán điện tử.
2. Dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán, gồm:
a) Dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ;
b) Dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử;
c) Dịch vụ Ví điện tử."
2. Dự thảo Luật quy định các tổ chức “Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ” là đối tượng phải thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền vì đây là loại hình bảo hiểm phát sinh nguy cơ bị lợi dụng để thực hiện hoạt động rửa tiền.
Các văn bản quy phạm pháp luật được rà soát liên quan bao gồm:
- Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022:
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
2. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm....
13. Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết.”
1. Liên quan đến điểm a Khoản 2:
- Nghị định 03/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 của Chính phủ về kinh doanh casino (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 151/2018/NĐ-CP) quy định:
“Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ sau đây được hiểu như sau:
1. “Kinh doanh casino” là hoạt động kinh doanh có điều kiện được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép kinh doanh các trò chơi có thưởng trên máy trò chơi điện tử có thưởng và bàn trò chơi có thưởng để phục vụ nhu cầu tham gia vui chơi giải trí cho các đối tượng được phép chơi theo quy định tại Nghị định này.
2. “Trò chơi có thưởng” là các trò chơi may rủi hoặc trò chơi kết hợp giữa may rủi và kỹ năng được tổ chức trên máy trò chơi điện tử có thưởng hoặc trên bàn trò chơi có thưởng mà người chơi bỏ tiền để tham gia và có thể trúng thưởng bằng tiền hoặc hiện vật.”
- Nghị định 121/2021/NĐ-CP ngày 27/12/2021 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài quy định:
“Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ sau đây được hiểu như sau:
1. “Trò chơi điện tử có thưởng” là các trò chơi may rủi được tổ chức trên máy trò chơi điện tử có thưởng mà người chơi bỏ tiền để tham gia và có thể trúng thưởng bằng tiền.
2. “Kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài” là hoạt động kinh doanh có điều kiện được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép kinh doanh các trò chơi có thưởng trên máy trò chơi điện tử có thưởng.”.
3. Liên quan đến điểm b Khoản 2:
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Kinh doanh bất động sản là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản; thực hiện dịch vụ môi giới bất động sản; dịch vụ sàn giao dịch bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản hoặc quản lý bất động sản nhằm mục đích sinh lợi.”.
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
Việc bổ sung quy định này cũng phù hợp với chuẩn mực quốc tế về điều chỉnh hoạt động của trung gian thanh toán là hoạt động tài chính thuộc đối tượng phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa theo quy định của FATF.
|
Điều 5. Nguyên tắc trong phòng, chống rửa tiền
1. Việc phòng, chống rửa tiền phải thực hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư¬; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
2. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời; các hành vi rửa tiền phải được xử lý nghiêm minh.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, các bên cùng có lợi, tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài.
Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, việc trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các nội dung như sau:
a) Việc xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền;
b) Thực hiện tương trợ tư pháp;
c) Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài liên quan đến phòng, chống rửa tiền;
d) Việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền;
đ) Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền có thể từ chối trao đổi, cung cấp, chuyển giao, thông tin về phòng, chống rửa tiền trong các trường hợp sau:
a) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao có thể gây tổn hại đến độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của Việt Nam;
b) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài và các quy định khác của pháp luật Việt Nam;
c) Yêu cầu trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin không có đầy đủ nội dung theo quy định pháp luật;
d) Cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không cam kết hoặc không thực hiện bảo mật thông tin được cung cấp, chuyển giao theo chế độ bảo mật tương ứng với quy định về bảo vệ bí mật nhà nước của Việt Nam đối với thông tin mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cung cấp, chuyển giao.
4. Quy trình, thủ tục, phương thức liên quan đến hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, các quy định khác của pháp luật có liên quan.
5. Hằng năm hoặc khi có yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cập nhật nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Luật Điều ước quốc tế năm 2016
“Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác.
2. Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên là điều ước quốc tế đang có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
…
4. Tổ chức quốc tế là tổ chức liên chính phủ”.
- Luật Tương trợ tư pháp năm 2007
- “Điều 4. Nguyên tắc tương trợ tư pháp
1. Tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.”
- Luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)
- “ Điều 491. Phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
1. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là việc các cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài phối hợp, hỗ trợ nhau để thực hiện hoạt động phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
2. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự gồm tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác được quy định tại Bộ luật này, pháp luật về tương trợ tư pháp và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3. Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại, theo quy định của Bộ luật này, pháp luật về tương trợ tư pháp và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan”.
|
Các quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật này phù hợp với các quy định về tương trợ tư pháp, dẫn độ, hợp tác quốc tế được quy định tại một số văn bản QPPL.
|
1. Định kỳ 05 năm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá. Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.
2. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm:
a) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định;
b) Thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền, kế hoạch thực hiện sau cập nhật.
3. Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
|
Đây là quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Đây là điều mới về “Đánh giá rủi ro quốc gia và rủi ro ngành về rửa tiền” nhằm quy phạm hóa trách nhiệm của Việt Nam (NHNN và các bộ, ngành, đơn vị liên quan) trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá rủi ro quốc gia, đánh giá rủi ro về ngành về rửa tiền được coi là một trong những trụ cột nền tảng của công tác PCRT theo Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro của FATF và báo cáo của APG. Đây cũng là cơ sở pháp lý để Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro định kỳ mà trên thực tế Việt Nam đã và đang thực hiện theo cam kết quốc tế.
|
Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện, trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền.
2. Thiết lập, duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả.
3. Thiết lập, duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng vỏ bọc.
4. Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng.
5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
6. Cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
7. Đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
|
|
|
|
|
1. Nhận biết khách hàng bao gồm thu thập, cập nhật, xác minh thông tin quy định tại các điều 10, 11, 12, 13 và 14 của Luật này.
2. Tổ chức tài chính phải nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Khách hàng lần đầu mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với tổ chức tài chính;
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định; hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo hoặc mã giao dịch trong trường hợp người khởi tạo không có tài khoản;
c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;
d) Có nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính phải nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi cung cấp dịch vụ kinh doanh bất động sản cho khách hàng;
c) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi khách hàng có giao dịch mua, bán kim loại quý, đá quý bằng tiền mặt có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
d) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm d khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lý tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; điều hành, quản lý công ty; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh;
đ) Tổ chức cung cấp dịch vụ quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 4 của Luật này phải nhận biết khách hàng khi cung ứng các dịch vụ thành lập công ty; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký công ty cho bên thứ ba; cung cấp thỏa thuận pháp lý.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
Đây là quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền, bên cạnh các quy định về thông tin, nhận biết khách hàng trong các quy định của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung) và quy định tại Thông tư 23/2014/TT-NHNN về hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Thông tin nhận biết khách hàng bao gồm: thông tin nhận dạng khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và mục đích, bản chất của mối quan hệ kinh doanh giữa khách hàng với đối tượng báo cáo.
2. Thông tin nhận dạng khách hàng bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có):
a) Đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại liên lạc; số chứng minh nhân dân hoặc số căn cước công dân hoặc số định danh cá nhân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại khác (nếu có);
b) Đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; số thị thực nhập cảnh, trừ trường hợp được miễn thị thực theo quy định pháp luật; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ đăng ký cư trú ở Việt Nam;
c) Đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài;
d) Đối với khách hàng cá nhân là người có từ 02 quốc tịch trở lên: thông tin theo quy định tại điểm a hoặc điểm b hoặc điểm c khoản này khoản này; thông tin về các quốc tịch, các địa chỉ đăng ký cư trú tại các quốc gia mang quốc tịch;
đ) Đối với khách hàng cá nhân là người không quốc tịch: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp, chức vụ; số giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế (nếu có); số thị thực; cơ quan cấp thị thực nhập cảnh, trừ trường hợp được miễn thị thực theo quy định pháp luật; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài (nếu có), địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở Việt Nam;
e) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập hoặc mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế; số điện thoại liên lạc; số fax, trang thông tin điện tử (nếu có); lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này và các thông tin tại điểm này đối với trường hợp người thành lập là tổ chức.
3. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
4. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
5. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 và khoản 4 Điều này.
|
- Luật Quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014):
Khoản 1, 2 và 5 Điều 3 quy định như sau:
“1. Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam.
2. Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài.
….
5. Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam.”
- Luật Căn cước công dân năm 2014:
Khoản 1 Điều 9 quy định như sau:
“1. Nội dung thông tin được thu thập, cập nhật gồm:
a) Họ, chữ đệm và tên khai sinh;
b) Ngày, tháng, năm sinh;
c) Giới tính;
d) Nơi đăng ký khai sinh;
đ) Quê quán;
e) Dân tộc;
g) Tôn giáo;
h) Quốc tịch;
i) Tình trạng hôn nhân;
k) Nơi thường trú;
l) Nơi ở hiện tại;
m) Nhóm máu, khi công dân yêu cầu cập nhật và xuất trình bản kết luận về xét nghiệm xác định nhóm máu của người đó;
n) Họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số Chứng minh nhân dân, quốc tịch của cha, mẹ, vợ, chồng hoặc người đại diện hợp pháp;
o) Họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số Chứng minh nhân dân của chủ hộ, quan hệ với chủ hộ;
p) Ngày, tháng, năm chết hoặc mất tích.”
- Điểm g khoản 1 Điều 15 quy định như sau:
“1. Nội dung thông tin được thu thập, cập nhật gồm:
g) Nghề nghiệp, trừ quân nhân tại ngũ;”
- Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật cư trú:
Điều 9 quy định như sau:
“Điều 9. Thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân
Thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân gồm:
1. Số hồ sơ cư trú.
2. Nơi thường trú, thời gian bắt đầu đến thường trú; lý do, thời điểm xóa đăng ký thường trú.
3. Nơi tạm trú, thời gian bắt đầu đến tạm trú, thời gian tạm trú; lý do, thời điểm xóa đăng ký tạm trú.
….
9. Số định danh cá nhân.
10. Họ, chữ đệm và tên khai sinh.
11. Ngày, tháng, năm sinh.
12. Giới tính.
13. Nơi đăng ký khai sinh.
14. Quê quán.
15. Dân tộc.
16. Tôn giáo.
17. Quốc tịch.
…
20. Họ, chữ đệm và tên, số định danh cá nhân hoặc số Chứng minh nhân dân, quốc tịch của cha, mẹ, vợ, chồng hoặc người đại diện hợp pháp.
….
22. Số Chứng minh nhân dân, ngày, tháng, năm và nơi cấp Chứng minh nhân dân; số, ngày, tháng, năm và nơi cấp thẻ Căn cước công dân.
23. Họ, chữ đệm và tên gọi khác.
24. Nghề nghiệp (trừ lực lượng vũ trang nhân dân).
…
29. Thông tin liên lạc (số điện thoại, fax, email, địa chỉ hòm thư).”
- Luật Xuất, nhập cảnh, quá cảnh của cá nhân người nước ngoài năm 2014 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019) có các Điều quy định vềnguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam; theo đó:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ quy định:
“1. Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam.”;
- Luật Doanh nghiệp năm 2020:
Khoản 13, 15, 16, 17 và 25 Điều 4 quy định như sau:
“13. Địa chỉ liên lạc là địa chỉ đăng ký trụ sở chính đối với tổ chức; địa chỉ thường trú hoặc nơi làm việc hoặc địa chỉ khác của cá nhân mà người đó đăng ký với doanh nghiệp để làm địa chỉ liên lạc.
...
15. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là văn bản bằng bản giấy hoặc bản điện tử ghi lại những thông tin về đăng ký doanh nghiệp mà Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp cho doanh nghiệp.
16. Giấy tờ pháp lý của cá nhân là một trong các loại giấy tờ sau đây: thẻ Căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, giấy tờ chứng thực cá nhân hợp pháp khác.
17. Giấy tờ pháp lý của tổ chức là một trong các loại giấy tờ sau đây: Quyết định thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, tài liệu tương đương khác.
…
25. Người thành lập doanh nghiệp là cá nhân, tổ chức thành lập hoặc góp vốn để thành lập doanh nghiệp.”
Khoản 1 Điều 28 quy định:
“Điều 28. Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
1. Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp”
- Thông tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 về hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán:
Khoản 2 Điều 1 quy định như sau:
“2. Điều 12 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 12. Hồ sơ mở tài khoản thanh toán
1. Đối với tài khoản thanh toán của cá nhân, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quy định và hướng dẫn khách hàng các loại giấy tờ trong hồ sơ mở tài khoản thanh toán nhưng phải bao gồm tối thiểu các giấy tờ sau:
a) Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán lập theo mẫu của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 13 Thông tư này;
b) Các giấy tờ tùy thân bao gồm thẻ căn cước công dân hoặc giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn hoặc giấy khai sinh (đối với cá nhân là công dân Việt Nam chưa đủ 14 tuổi và chưa có hộ chiếu); thị thực nhập cảnh còn thời hạn hoặc giấy tờ chứng minh được miễn thị thực nhập cảnh (đối với cá nhân là người nước ngoài), trừ trường hợp cá nhân là người nước ngoài mở tài khoản thanh toán theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Thông tư này;
c) Trường hợp cá nhân mở tài khoản thanh toán thông qua người giám hộ, người đại diện theo pháp luật (sau đây gọi chung là người đại diện theo pháp luật của cá nhân) thì ngoài các giấy tờ nêu tại điểm a, b khoản 1 Điều này, hồ sơ mở tài khoản thanh toán phải có thêm:
- Trường hợp người đại diện theo pháp luật là cá nhân: giấy tờ tùy thân của người đại diện theo pháp luật của cá nhân và các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của người đó đối với cá nhân mở tài khoản thanh toán;
- Trường hợp người đại diện theo pháp luật là pháp nhân: Quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật; các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của pháp nhân đó đối với cá nhân mở tài khoản thanh toán; giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện hợp pháp của pháp nhân đó.
2. Đối với tài khoản thanh toán của tổ chức, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quy định và hướng dẫn khách hàng các loại giấy tờ trong hồ sơ mở tài khoản thanh toán nhưng phải bao gồm tối thiểu các giấy tờ sau:
a) Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán lập theo mẫu của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư này;
b) Các giấy tờ chứng minh việc tổ chức mở tài khoản thanh toán được thành lập và hoạt động hợp pháp: Quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật;
c) Các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện hợp pháp kèm giấy tờ tùy thân của những người đó;
d) Quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán hoặc hợp đồng thuê dịch vụ kế toán của tổ chức mở tài khoản thanh toán (nếu có) kèm giấy tờ tùy thân của kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán.
3. Đối với tài khoản thanh toán chung, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quy định và hướng dẫn khách hàng các loại giấy tờ trong hồ sơ mở tài khoản thanh toán nhưng phải bao gồm tối thiểu các giấy tờ sau:
a) Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán lập theo mẫu của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản và phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 13 Thông tư này;
b) Giấy tờ của các chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung:
- Trường hợp chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung là cá nhân, hồ sơ mở tài khoản thanh toán bao gồm những giấy tờ như quy định tại khoản 1 Điều này;
- Trường hợp chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung là tổ chức, hồ sơ mở tài khoản thanh toán bao gồm những giấy tờ như quy định tại khoản 2 Điều này.
c) Trường hợp thỏa thuận hoặc hợp đồng (sau đây gọi tắt là thỏa thuận) mở và sử dụng tài khoản thanh toán không có nội dung về việc quản lý và sử dụng tài khoản thanh toán chung của các chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung thì phải có văn bản thỏa thuận riêng về việc quản lý và sử dụng tài khoản thanh toán chung của các chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung.”
Khoản 3 Điều 1 quy định như sau:
“3. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 13. Giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán
1. Mẫu giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán của cá nhân do ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định nhưng phải bao gồm tối thiểu những nội dung sau:
a) Đối với cá nhân là người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại; số thẻ căn cước công dân hoặc số chứng minh nhân dân hoặc số hộ chiếu còn thời hạn; ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện tại; thuộc đối tượng người cư trú hay người không cư trú; mã số thuế (nếu có);
b) Đối với cá nhân là người nước ngoài: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại; số hộ chiếu còn thời hạn, ngày cấp, nơi cấp; thị thực nhập cảnh (nếu có); địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài, nơi đăng ký cư trú tại Việt Nam; thuộc đối tượng người cư trú hay người không cư trú; mã số thuế (nếu có);
c) Trường hợp cá nhân mở tài khoản thanh toán thông qua người đại diện theo pháp luật, ngoài thông tin của chủ tài khoản theo quy định tại điểm a, b Khoản này, giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán của khách hàng phải có thêm thông tin về người đại diện theo pháp luật của khách hàng mở tài khoản, cụ thể:
- Nếu người đại diện theo pháp luật của khách hàng là cá nhân, thông tin về người đại diện theo pháp luật được thực hiện theo quy định tại điểm a, b Khoản này;
- Nếu người đại diện theo pháp luật của khách hàng là tổ chức, thông tin gồm: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt, địa chỉ đặt trụ sở chính, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax (nếu có), lĩnh vực hoạt động, kinh doanh chính và người đại diện hợp pháp của tổ chức đó.
2. Mẫu giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán của tổ chức do ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định nhưng phải bao gồm tối thiểu những nội dung sau:
a) Tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; địa chỉ giao dịch; số điện thoại; lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; mã số thuế (nếu có);
b) Thông tin về người đại diện hợp pháp của tổ chức mở tài khoản thanh toán theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều này;
c) Thông tin về kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán (nếu có) của tổ chức mở tài khoản thanh toán theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều này;
3. Mẫu giấy đề nghị mở tài khoản thanh toán chung do ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định nhưng phải bao gồm tối thiểu những nội dung sau:
a) Trường hợp chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung là cá nhân, phải có các thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Trường hợp chủ thể đứng tên mở tài khoản thanh toán chung là tổ chức, phải có các thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
|
Quy định tại dự thảo hoàn toàn phù hợp và tương thích với các quy định liên quan đến thông tin của cá nhân và tổ chức được quy định tại Luật Quốc tịch, Luật Căn cước công dân, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn liên quan.
|
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
2. Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp.
|
Luật Doanh nghiệp 2020 và một số luật chuyên ngành như: Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022… quy định về điều lệ của tổ chức, cụ thể:
Điều 24 Luật Doanh nghiệp quy định về Điều lệ công ty:
Điều 24. Điều lệ công ty
1. Điều lệ công ty bao gồm Điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp và Điều lệ được sửa đổi, bổ sung trong quá trình hoạt động.
2. Điều lệ công ty bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; tên, địa chỉ chi nhánh và văn phòng đại diện (nếu có);
b) Ngành, nghề kinh doanh;
c) Vốn điều lệ; tổng số cổ phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ phần đối với công ty cổ phần;
d) Họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch của thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của chủ sở hữu công ty, thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần. Phần vốn góp và giá trị vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Số cổ phần, loại cổ phần, mệnh giá từng loại cổ phần của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần;
đ) Quyền và nghĩa vụ của thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; của cổ đông đối với công ty cổ phần;
e) Cơ cấu tổ chức quản lý;
g) Số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; phân chia quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật;
h) Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;
i) Căn cứ và phương pháp xác định tiền lương, thù lao, thưởng của người quản lý và Kiểm soát viên;
k) Trường hợp thành viên, cổ đông có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ phần đối với công ty cổ phần;
l) Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh;
m) Trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty;
n) Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
3. Điều lệ công ty khi đăng ký doanh nghiệp phải bao gồm họ, tên và chữ ký của những người sau đây:
a) Thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh;
b) Chủ sở hữu công ty là cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu công ty là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
c) Thành viên là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
d) Cổ đông sáng lập là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của cổ đông sáng lập là tổ chức đối với công ty cổ phần.
4. Điều lệ công ty được sửa đổi, bổ sung phải bao gồm họ, tên và chữ ký của những người sau đây:
a) Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công ty hợp danh;
b) Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu hoặc người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
c) Người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty cổ phần.
|
- Nội dung khoản 1 đã cập nhật một số văn bản, giấy tờ mới theo Luật Căn cước công dân, Luật Doanh nghiệp.
- Nội dung khoản 2 được sửa đổi để phù hợp pháp luật hiện hành về việc chia sẻ thông tin trong CSDL quốc gia về cư dân cho cá nhân, tổ chức.
|
1. Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để xác minh thông tin nhận biết khách hàng, trừ tổ chức là bên thứ ba quy định tại Điều 14 của Luật này. Việc thuê tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng thực hiện theo thỏa thuận của các bên và các quy định của pháp luật có liên quan.
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức được thuê bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức được thuê.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Là tổ chức tài chính hoặc tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có thiết lập quan hệ với khách hàng, không bao gồm các mối quan hệ đại lý và thuê ngoài;
b) Thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức ở nước ngoài;
c) Thu thập, lưu trữ và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo khi được yêu cầu; thực hiện bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật;
d) Là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
2. Trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và có công ty mẹ là tổ chức tài chính, ngoài yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều này, đối tượng báo cáo phải bảo đảm công ty mẹ của bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, lưu trữ hồ sơ, thông tin, báo cáo và bảo đảm bí mật hồ sơ, thông tin, tài liệu báo cáo quy định tại các điều 9, 17, 38 và 40 của Luật này hoặc các khuyến nghị liên quan của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp công ty mẹ của tổ chức tài chính là tổ chức nước ngoài;
b) Việc áp dụng các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng và lưu trữ hồ sơ, thông tin giao dịch phải được kiểm soát trong toàn hệ thống;
c) Áp dụng các chính sách để giảm thiểu rủi ro đối với các lĩnh vực có rủi ro cao về rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng của bên thứ ba
|
- Điều 25 Luật Luật sư 2006 (được sửa đổi,bổ sung năm 2012) quy định nội dung bí mật thông tin của hoạt động hành nghề luật sư:
1. Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình.
|
Qua rà soát, nhận thấy các nội dung quy định về nhận biết, xác minh thông tin khách hàng thông qua bên thứ ba tại Dự thảo Luật đối chiếu với quy định về nội dung bí mật thông tin của hoạt động hành nghề luật sư tại Điều 25 Luật Luật sư không mâu thuẫn, chồng chéo. Điểm c Khoản 3 Điều 14 dự thảo Luật quy định bên thứ 3 phải thực hiện bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
|
1. Đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.
2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và bộ, ngành quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực của đối tượng báo cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro được ban hành hoặc phê duyệt. Đối tượng báo cáo phải phổ biến kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
|
Đây là nội dung đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Đây là điều luật mới. Quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu tại tiêu chí 1.10, Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro. Theo nhận định của APG về tiêu chí này, Việt Nam chưa có quy định đầy đủ về trách nhiệm thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
Đồng thời, điều luật này được thiết kế làm cơ sở cho các đối tượng báo cáo thực hiện tự đánh giá những loại rủi ro về rửa tiền trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình cũng như hỗ trợ cho hoạt động giám sát chung về PCRT của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền.
.
|
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
2. Đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b Khoản này, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết điểm a và điểm c khoản 2 Điều này.
|
Đây là nội dung đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
1. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức của nước ngoài và tổ chức quốc tế.
Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo.
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu sau:
a) Có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị; người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao theo quy định nội bộ trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
3. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Bất kỳ người nào có các mối quan hệ với cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này, gồm:
Đồng chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này;
Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý được thành lập và hoạt động vì lợi ích của cá nhân nêu tại khoản 1 Điều này.
|
Đây là quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Đối tượng báo cáo là ngân hàng khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải thực hiện các nội dung sau:
a) Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hoặc các vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền;
b) Đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác;
c) Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý.
2. Trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo; tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
3. Việc thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý của đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, hoặc người được Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của đối tượng báo cáo ủy quyền.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
2. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 20. Giám sát một số giao dịch đặc biệt
1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đối với các giao dịch đặc biệt sau:
a) Giao dịch có giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp theo quy định của Chính phủ;
b) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.
2. Để giám sát giao dịch đặc biệt, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
|
Đây là quy định đặc thù riêng có của Luật Phòng, chống rửa tiền
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý; danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân (nếu có); các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
2. Pháp nhân có trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm: tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm cả danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ; chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan, pháp nhân cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
- Bộ Luật Dân sự năm 2015:
“Điều 74. Pháp nhân
1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác”.
- Luật Doanh nghiệp năm 2020:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; quy định về nhóm công ty.
Điều 4: Giải thích từ ngữ quy định:
6. Công ty bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh.
7. Công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
8. Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là cổng thông tin điện tử được sử dụng để đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử, công bố thông tin về đăng ký doanh nghiệp và truy cập thông tin về đăng ký doanh nghiệp.
9. Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là tập hợp dữ liệu về đăng ký doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc.
10. Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
11. Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 của Luật này.
12. Doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam.
…19. Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp bao gồm Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cơ sở dữ liệu liên quan và hạ tầng kỹ thuật hệ thống.”
Chương II quy định về Thành lập Doanh nghiệp gồm các Điều: Điều 17 quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp; Điều 18 hợp đồng trước đăng ký doanh nghiệp; Điều 19 hồ sơ đăng ký doanh nghiệp tư nhân; Điều 20 hồ sơ đăng ký công ty hợp danh; Điều 21 hồ sơ đăng ký công ty trách nhiệm hữu hạn; Điều 22 hồ sơ đăng ký công ty cổ phần; Điều 23 nội dung giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp; Điều 24 điều lệ công ty; Điều 25 danh sách thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, danh sách cổ đông sáng lập và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài đối với công ty cổ phần; Điều 26 trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp; Điều 27 cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Điều 28 nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Điều 29 mã số doanh nghiệp; Điều 30 đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Điều 31 thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp; Điều 32 công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp,…
Chương III quy định về Công ty trách nhiệm hữu hạn; Chương IV quy định về Doanh nghiệp nhà nước; Chương V quy định về Công ty cổ phần; Chương VI quy định về Công ty hợp danh; Chương VII quy định về Doanh nghiệp tư nhân; Chương VIII quy định về Nhóm công ty; Chương IX quy định Tổ chức lại, giải thể, phá sản Doanh nghiệp…
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
Việc quy định minh bạch thông tin của pháp nhân phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành tại Bộ luật Dân sự và Luật Doanh nghiệp.
|
1. Bên nhận ủy thác trong thỏa thuận pháp lý có trách nhiệm sau đây:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin nhận dạng về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác.
Các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau khi bên nhận ủy thác ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
b) Cung cấp các thông tin quy định tại điểm a khoản này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ khách hàng với tổ chức, cá nhân này liên quan đến tài sản được ủy thác khi được yêu cầu.
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính được quyền yêu cầu bên nhận ủy thác cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này và văn bản ủy thác khi thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng là bên nhận ủy thác.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
|
Quy định phù hợp với quy định tại Khuyến nghị số 25 của FATF về “Minh bạch thông tin về thỏa thuận pháp lý” và quy định tại Điều 2 Công ước Hague về Ủy thác.
|
1. Tổ chức phi lợi nhuận phải thu thập, cập nhật, lưu trữ hồ sơ, thông tin sau đây:
a) Thông tin về tổ chức, cá nhân tài trợ, gồm: tên đầy đủ, địa chỉ, số tiền tài trợ, phương thức tài trợ và các thông tin khác (nếu có);
b) Thông tin về tổ chức, cá nhân tiếp nhận tài trợ, gồm: tên đầy đủ, địa chỉ, số tiền nhận tài trợ, phương thức tài trợ, mục đích sử dụng tiền tài trợ và các thông tin khác (nếu có);
c) Chứng từ, tài liệu liên quan tới việc tài trợ và tiếp nhận tài trợ.
2. Tổ chức phi lợi nhuận phải lưu trữ hồ sơ, thông tin quy định tại khoản 1 Điều này ít nhất 05 năm kể từ thời điểm hoạt động tài trợ hoặc tiếp nhận tài trợ kết thúc.
3. Trường hợp tổ chức phi lợi nhuận giải thể hoặc kết thúc hoạt động, hồ sơ, thông tin nêu tại khoản 1 Điều này phải được bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền quản lý đối với tổ chức phi lợi nhuận đó.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức phi lợi nhuận cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 Điều này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành
|
TRÁCH NHIỆM XÂY DỰNG QUY ĐỊNH NỘI BỘ VÀ BÁO CÁO, CUNG CẤP, LƯU TRỮ HỒ SƠ, THÔNG TIN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
|
|
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền bao gồm nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
c) Chính sách, quy trình quản lý rủi ro trong đó có các quy định tại khoản 1 Điều 16, khoản 1 Điều 19 và khoản 3 Điều 34 Luật này;
d) Quy trình báo cáo các giao dịch phải báo cáo;
đ) Quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ phải báo cáo;
e) Lưu trữ và bảo mật thông tin;
g) Áp dụng biện pháp tạm thời, nguyên tắc xử lý trong các trường hợp trì hoãn thực hiện giao dịch;
h) Chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
i) Tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;
k) Kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
2. Đối tượng báo cáo là doanh nghiệp siêu nhỏ, cá nhân phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền có nội dung theo quy định tại các điểm a, b, c, đ, e và g khoản 1 Điều này.
3. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo.
4. Hằng năm, đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
5. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết Điều này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 25. Báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi thực hiện các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo.
2. Thủ tướng Chính phủ quy định mức giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có đủ các yếu tố sau:
a) Giao dịch được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;
b) Cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản hoặc tài sản có nguồn gốc từ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của cá nhân đó hoặc cá nhân, tổ chức liên quan tới cá nhân đó trong hoặc sau thời gian thực hiện hành vi phạm tội.
2. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch liên quan đến rửa tiền được xác định từ việc xem xét, thu thập và phân tích thông tin khi khách hàng, giao dịch có một hoặc nhiều dấu hiệu đáng ngờ theo quy định tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này và từ các dấu hiệu đáng ngờ khác do đối tượng báo cáo xác định.
3. Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu nêu tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này, đối tượng báo cáo, các bộ, ngành có liên quan thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ hướng dẫn và bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 27. Các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản
1. Khách hàng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán.
2. Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính.
4. Số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan do khách hàng cung cấp không thể liên lạc được hoặc không tồn tại số điện thoại này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch.
5. Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo uỷ quyền của tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo.
6. Các giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo.
7. Các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân này.
8. Giao dịch của khách hàng thực hiện thông qua đối tượng báo cáo không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 28. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng
1. Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không.
2. Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo.
3. Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn bất thường, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường.
4. Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt động kinh doanh.
5. Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; tài khoản của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn bất thường.
6. Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu.
7. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
8. Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn.
9. Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng.
10. Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm, trừ trường hợp tổ chức tín dụng yêu cầu.
11. Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay hoặc uỷ thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch.
12. Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không đầy đủ, không chính xác.
13. Nghi ngờ hoặc có dấu hiệu nghi ngờ sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động công ty hoặc giao dịch giúp cho đối tượng cá nhân khác.
14. Các giao dịch trực tuyến qua tài khoản liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập, địa chỉ giao thức Internet (địa chỉ IP) ở nước ngoài.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 29. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trung gian thanh toán
1. Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên ví điện tử; tiền nạp vào và rút ra nhanh khỏi ví điện tử; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư ví điện tử rất nhỏ hoặc bằng không.
2. Khách hàng thường xuyên thực hiện nạp tiền nhiều lần với giá trị nhỏ vào một ví điện tử, sau đó thực hiện giao dịch chuyển tiền giá trị lớn sang ví điện tử khác hoặc thực hiện giao dịch rút tiền giá trị lớn về tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ của khách hàng tại ngân hàng hoặc ngược lại.
3. Các giao dịch chuyển tiền thường xuyên có giá trị nhỏ từ nhiều ví điện tử khác nhau về một ví điện tử hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều ví điện tử và các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo; ví điện tử phát sinh nhiều giao dịch chuyển tiền cho ví điện tử khác với thời gian khởi tạo giao dịch nhanh bất thường.
4. Ví điện tử của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; ví điện tử của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền nạp vào có giá trị lớn bất thường.
5. Giao dịch nạp tiền vào ví điện tử, rút tiền ra khỏi ví điện tử hay chuyển tiền giữa các ví điện tử được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng.
6. Có cơ sở hợp lý để nghi ngờ khách hàng sử dụng ví điện tử cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động của tổ chức hoặc giao dịch thay cho đối tượng cá nhân khác.
7. Khách hàng là đơn vị chấp nhận thanh toán vẫn phát sinh giao dịch mặc dù trang thông tin điện tử chính thức hoặc trụ sở của khách hàng này qua xác minh đã ngừng hoạt động.
8. Các giao dịch trực tuyến qua ví điện tử liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ giao thức Internet (địa chỉ IP).
9. Khách hàng thường xuyên sử dụng thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ IP ở nước ngoài để truy cập vào ví điện tử hoặc thực hiện giao dịch trên ví điện tử; khách hàng thường xuyên sử dụng một thiết bị đăng nhập hoặc một địa chỉ IP để thực hiện giao dịch trên nhiều ví điện tử (không cùng một chủ ví điện tử).
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 30. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
1. Khách hàng yêu cầu mua một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn bất thường hoặc yêu cầu thanh toán trọn gói phí bảo hiểm một lần đối với các sản phẩm bảo hiểm không áp dụng hình thức thanh toán trọn gói, trong khi những hợp đồng bảo hiểm hiện tại của khách hàng chỉ có giá trị nhỏ và thanh toán định kỳ.
2. Khách hàng yêu cầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với khoản phí bảo hiểm định kỳ không phù hợp với thu nhập hiện tại của khách hàng hoặc yêu cầu mua hợp đồng bảo hiểm liên quan đến công việc kinh doanh nằm ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng.
3. Bên mua bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm từ tài khoản không phải là tài khoản của bên mua bảo hiểm, tài khoản của tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm ủy quyền; hoặc thanh toán bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên.
4. Khách hàng yêu cầu thay đổi người thụ hưởng đã chỉ định bằng người không có mối quan hệ rõ ràng với bên mua bảo hiểm.
5. Khách hàng chấp nhận tất cả các điều kiện bất lợi không liên quan đến tuổi tác, sức khỏe của mình; khách hàng đề nghị mua bảo hiểm với mục đích không rõ ràng và miễn cưỡng cung cấp lý do tham gia bảo hiểm; điều kiện và giá trị hợp đồng bảo hiểm mâu thuẫn với nhu cầu của khách hàng.
6. Khách hàng hủy hợp đồng bảo hiểm ngay sau khi mua và yêu cầu chuyển tiền phí bảo hiểm đã đóng cho bên thứ ba; khách hàng thường xuyên tham gia bảo hiểm và nhượng lại hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba.
7. Khách hàng là doanh nghiệp có số lượng hợp đồng bảo hiểm cho nhân viên hoặc mức phí bảo hiểm của hợp đồng đóng phí một lần tăng bất thường.
8. Doanh nghiệp bảo hiểm thường xuyên chi trả bảo hiểm với số tiền lớn cho cùng một khách hàng.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 31. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán
1. Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số ngày do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện.
2. Công ty chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh doanh chứng khoán.
3. Người không cư trú chuyển số tiền lớn từ tài khoản giao dịch chứng khoán hoặc thanh lý các hợp đồng ủy thác đầu tư chứng khoán để chuyển tiền ra khỏi Việt Nam.
4. Khách hàng thường xuyên bán tất cả cổ phiếu trong danh mục đầu tư và đề nghị công ty chứng khoán ký ủy nhiệm chi để khách hàng rút tiền mặt từ ngân hàng thương mại.
5. Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán không có lợi trong khoảng thời gian ngắn.
6. Tài khoản chứng khoán của khách hàng không hoạt động trong một thời gian dài nhưng đột nhiên được đầu tư lớn không phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng.
7. Giao dịch mua, bán chứng khoán có nguồn tiền từ các quỹ đầu tư được mở ở các quốc gia, vùng lãnh thổ có rủi ro cao về rửa tiền.
8. Nhà đầu tư nước ngoài cư trú ở quốc gia, vùng lãnh thổ có rủi ro cao về rửa tiền góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán tại Việt Nam.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 32. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh trò chơi có thưởng
1. Khách hàng có dấu hiệu liên tục cố tình thua tại tổ chức kinh doanh trò chơi có thưởng.
2. Khách hàng đổi số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn bất thường tại casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng nhưng không tham gia chơi hoặc chơi với số lượng rất nhỏ sau đó đổi lại thành tiền mặt hoặc séc, hối phiếu ngân hàng hoặc chuyển tiền đến tài khoản khác.
3. Khách hàng yêu cầu chuyển tiền thắng cược, trúng thưởng cho bên thứ ba không có mối quan hệ rõ ràng với khách hàng hoặc khi bên thứ ba không có nơi thường trú cùng với khách hàng.
4. Khách hàng bổ sung tiền mặt hoặc séc vào số tiền thắng cược, trúng thưởng và yêu cầu điểm kinh doanh trò chơi có thưởng chuyển thành séc có giá trị lớn bất thường.
5. Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng đổi số lượng đồng tiền quy ước thành tiền mặt.
6. Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu bên thứ ba đổi hộ số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn bất thường và nhờ bên thứ ba đặt cược hộ.
7. Khách hàng nhiều lần trong một ngày mua vé xổ số, vé đặt cược, đổi đồng tiền quy ước ở gần mức giới hạn giao dịch có giá trị lớn bất thường.
8. Khách hàng mua lại vé số trúng thưởng có giá trị lớn từ người khác.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 33. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản
1. Các giao dịch bất động sản là giao dịch ủy quyền nhưng không có cơ sở pháp lý.
2. Khách hàng không quan tâm đến giá bất động sản, phí giao dịch phải trả.
3. Khách hàng không cung cấp được các thông tin liên quan tới bất động sản hoặc không muốn cung cấp bổ sung thông tin về nhân thân.
4. Giá giao dịch giữa các bên không phù hợp giá thị trường.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 34. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Cá nhân khi nhập cảnh, xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng trên mức quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải khai báo hải quan hoặc khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển nơi không có cơ quan hải quan.
2. Cơ quan hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển có trách nhiệm thu thập, lưu trữ các thông tin khai báo quy định tại khoản 1 Điều này và cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có yêu cầu hoặc khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
Khoản 6 Điều 40 Luật Hải quan 2014 quy định trách nhiệm của người khai hải quan, người chỉ huy hoặc người điều khiển phương tiện vận tải trong hoạt động giám sát hải quan:
"6. Trong trường hợp bất khả kháng mà không bảo đảm được nguyên trạng hàng hóa, niêm phong hải quan hoặc không vận chuyển hàng hóa theo đúng tuyến đường, lộ trình, thời gian thì sau khi áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế và ngăn ngừa tổn thất xảy ra phải thông báo ngay với cơ quan hải quan để xử lý; trường hợp không thể thông báo ngay với cơ quan hải quan thì tùy theo địa bàn thích hợp thông báo với cơ quan công an, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển để xác nhận."
|
Việc bổ sung đơn vị có trách nhiệm tiếp nhận thông tin khai báo hải quan trong trường hợp nơi khai báo không có cơ quan hải quan thì khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển để phù hợp quy định của Luật Hải quan năm 2014.
|
1. Đối tượng báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử hoặc báo cáo bằng văn bản khi chưa thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin tương thích phục vụ cho yêu cầu gửi tệp dữ liệu điện tử đối với các báo cáo được quy định tại các Điều 25, 26 và 34 của Luật này theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Trong trường hợp cần thiết, đối tượng báo cáo có thể báo cáo qua fax, điện thoại, thư điện tử nhưng phải bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu thông tin báo cáo và phải xác nhận lại bằng một trong hai hình thức quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải gửi kèm hồ sơ mở tài khoản đối với các giao dịch thực hiện thông qua tài khoản, thông tin nhận biết khách hàng, các chứng từ và tài liệu khác liên quan đến giao dịch đáng ngờ, các biện pháp phòng ngừa đã thực hiện.
4. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn quy định tại khoản 1 Điều này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 37. Thời hạn báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo và báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử quy định tại Điều 25 và Điều 34 của Luật này như sau:
a) Báo cáo hàng ngày trong trường hợp phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử;
b) Báo cáo trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo bằng văn bản.
2. Đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ quy định tại Điều 26 trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh giao dịch hoặc 01 ngày làm việc kể từ ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được giao dịch đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ.
Trường hợp phát hiện giao dịch đáng ngờ do khách hàng yêu cầu có dấu hiệu liên quan đến tội phạm thì đối tượng báo cáo phải báo cáo trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm phát hiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu trữ các hồ sơ, thông tin, báo cáo sau đây:
a) Hồ sơ, thông tin nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
b) Kết quả phân tích, đánh giá của đối tượng báo cáo đối với khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
c) Các hồ sơ, thông tin khác liên quan đến khách hàng, giao dịch phải báo cáo;
d) Báo cáo giao dịch theo quy định tại các điều 25, 26 và 34 của Luật này và các hồ sơ, thông tin kèm theo giao dịch báo cáo.
2. Thời hạn lưu trữ quy định như sau:
a) 05 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo đối với các thông tin, hồ sơ quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
b) 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với các báo cáo quy định tại điểm d khoản 1 Điều này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, thông tin, báo cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ.
2. Đối tượng báo cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ báo cáo hoặc cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật này không bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 40. Bảo đảm bí mật hồ sơ, thông tin, tài liệu, báo cáo
1. Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ, thông tin, tài liệu và báo cáo liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này.
2. Đối tượng báo cáo bao gồm cả người quản lý, người lao động không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan đến giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018:
“ Điều 3. Nguyên tắc bảo vệ bí mật nhà nước
1. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Bảo vệ bí mật nhà nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Việc quản lý, sử dụng bí mật nhà nước bảo đảm đúng mục đích, thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
4. Chủ động phòng ngừa; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
5. Bí mật nhà nước được bảo vệ theo thời hạn quy định của Luật này, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân theo quy định của pháp luật.”
- Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
“Điều 14. Bảo mật thông tin
1. Nhân viên, người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tiết lộ bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng.”
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018):
“ Điều 6. Bảo vệ thông tin của người tiêu dùng:
1. Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
2. Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm:
a) Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng;
b) Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý;
c) Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng;
d) Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;
đ) Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
|
Các nội dung về bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo đã quy định theo hướng đảm bảo nguyên tắc bảo vệ bí mật nhà nước tại Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng và Luật bao vệ quyền lợi người tiêu dùng
|
|
|
|
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp hồ sơ, thông tin, tài liệu cần thiết cho việc phân tích, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền, hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
2. Tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hồ sơ, thông tin, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Chính phủ hướng dẫn việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 42. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
1. Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, trong thời hạn 10 ngày làm việc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Thông tin liên quan đến báo cáo giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền là thông tin mật.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trao đổi, cung cấp thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành
|
Điều 43. Trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi yêu cầu tới cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để thu thập, bổ sung thông tin phục vụ cho việc xử lý, phân tích và chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền; tiếp nhận thông tin phản hồi, thông tin chuyển giao của cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và xử lý thông tin nhận được theo quy định của Luật này.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp nhận yêu cầu đề nghị cung cấp thông tin từ cơ quan có thẩm quyền nước ngoài với mục đích phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền và cung cấp thông tin phản hồi.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung cấp, chuyển giao thông tin cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài theo quy định tại Điều 6 của Luật này.
4. Thông tin liên quan đến báo cáo giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trao đổi, cung cấp, chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài là thông tin mật.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành
|
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI
|
|
|
Điều 44. Trì hoãn giao dịch
1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng ngay biện pháp trì hoãn giao dịch trong các trường hợp sau:
a) Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội;
b) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan.
2. Khi thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch, đối tượng báo cáo phải báo cáo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3. Thời hạn áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu áp dụng.
4. Đối tượng báo cáo không phải chịu trách nhiệm pháp lý về những hậu quả phát sinh khi áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch theo đúng quy định tại Điều này.
5. Chính phủ quy định chi tiết điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành
|
Đối tượng báo cáo phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
|
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
“Điều 114. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ”.
“Điều 124. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước
Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
“Điều 125. Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ
Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
“Điều 126. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ
Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
“Điều 133. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
4. Trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10 và khoản 11 Điều 114 của Bộ luật này thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện”.
- Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự:
“Điều 12. Về xác định giá trị tương đương khi phong tỏa tài khoản, tài sản quy định tại khoản 4 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự
Khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 124 và Điều 125 của Bộ luật Tố tụng dân sự cần phân biệt như sau:
1. Việc xác định nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ thực hiện phải căn cứ theo đơn khởi kiện, đơn phản tố của bị đơn và đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
2. Tòa án chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị bằng hoặc thấp hơn nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện. Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ chứng minh giá trị tài khoản, tài sản bị phong tỏa. Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của tài liệu liên quan đến việc xác định giá trị tài sản và tài khoản cần phong tỏa. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ và quy định pháp luật liên quan để xác định giá trị tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
3. Trường hợp tài sản bị yêu cầu phong tỏa là tài sản không thể phân chia được (không thể phong tỏa một phần tài sản) có giá trị cao hơn nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện theo đơn khởi kiện, Tòa án giải thích cho người yêu cầu biết để họ làm đơn yêu cầu áp dụng phong tỏa tài sản khác hoặc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác. Nếu họ vẫn giữ nguyên đơn yêu cầu, Tòa án căn cứ vào khoản 4 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của họ”.
- Nghị định số 122/2013/NĐ-CP ngày 11/10/2013 của Chính phủ về tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ và xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; xác lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ sau đây được hiểu như sau:
3. Tiền gồm tiền Việt Nam và tiền nước ngoài được biểu hiện qua tiền mặt hoặc tiền gửi.
4. Tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.
5. Tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố bao gồm:
a) Tiền, tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, một phần hoặc toàn bộ của tổ chức, cá nhân thuộc danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố;
b) Tiền, tài sản phát sinh từ tiền, tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, một phần hoặc toàn bộ của tổ chức, cá nhân thuộc danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố;
c) Tiền, tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, kiểm soát của cá nhân, tổ chức nhân danh tổ chức, cá nhân thuộc danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố hoặc dưới sự điều hành của tổ chức, cá nhân này;
d) Tiền, tài sản được sử dụng hoặc nhằm để sử dụng vào mục đích khủng bố, tài trợ khủng bố hoặc tiền, tài sản có được từ hành vi khủng bố, tài trợ khủng bố.
6. Tạm ngừng lưu thông tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố là việc cơ quan, người có thẩm quyền quyết định giữ lại tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố, không cho di chuyển, chuyển giao, trao đổi trong một thời hạn nhất định.
7. Phong tỏa tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố là việc cơ quan, người có thẩm quyền quyết định giữ nguyên hiện trạng, không cho nhập vào, rút ra đối với tài khoản; không cho di chuyển, chuyển giao, trao đổi, sử dụng, thay đổi, tiêu hủy tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố.
8. Niêm phong tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố là việc cơ quan, người có thẩm quyền quyết định đóng kín, ghi dấu hiệu đặc biệt để tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố được nguyên vẹn và bí mật.
9. Tạm giữ tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố là việc cơ quan, người có thẩm quyền quyết định giữ lại tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố trong một thời hạn nhất định”.
“Điều 7. Thẩm quyền tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ, xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố
1. Bộ trưởng Bộ Công an có quyền quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước hoặc tiêu hủy tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; trả lại tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố trong trường hợp tiền, tài sản đó thuộc quyền sở hữu, quản lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị người khác chiếm đoạt, sử dụng trái phép vào hoạt động khủng bố, tài trợ khủng bố; hủy bỏ các quyết định xử lý do mình ban hành hoặc do người có thẩm quyền quy định tại Khoản 2 Điều này ban hành.
2. Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Công an cấp tỉnh) có quyền quyết định hoặc hủy bỏ quyết định tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố đối với các trường hợp quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 8 và Khoản 3 Điều 9 Nghị định này.
Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh I Bộ Công an có quyền quyết định hoặc hủy bỏ quyết định tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố đối với các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 8 và Điều 10 Nghị định này.
3. Căn cứ vào nhu cầu thực tế, Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh I Bộ Công an hoặc Giám đốc Công an cấp tỉnh có thể xem xét, cho phép tổ chức, cá nhân có tiền, tài sản bị niêm phong, tạm giữ, phong tỏa được phép tiếp cận, sử dụng một phần trong sổ quỹ, tiền, tài sản bị phong tỏa để thanh toán cho các dịch vụ pháp lý, dịch vụ nắm giữ, bảo quản tiền, tài sản bị niêm phong, phong tỏa hoặc chi phí cho việc ăn, ở, khám chữa bệnh và các khoản chi thiết yếu khác. Việc cho phép và sử dụng các chi phí thiết yếu nêu trên phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.
“Điều 8. Phong tỏa tài khoản, niêm phong, tạm giữ, xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố được phát hiện thông qua hoạt động tài chính hoặc hoạt động kinh doanh ngành nghề phi tài chính
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, làm rõ ngay khi có nghi ngờ giao dịch của khách hàng có liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố. Trường hợp phát hiện tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thì phải thực hiện ngay việc tạm ngừng lưu thông, phong tỏa toàn bộ tiền, tài sản đó; đồng thời, phải báo cáo ngày bằng văn bản, kèm theo các tài liệu có liên quan cho Giám đốc Công an cấp tỉnh để xem xét, quyết định. Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo, Giám đốc Công an cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với Tổng cục An ninh I Bộ Công an xem xét, nếu tiền, tài sản đã bị tạm ngừng lưu thông, phong tỏa đúng là của tổ chức, cá nhân có liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thì ra quyết định áp dụng biện pháp tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong hoặc tạm giữ và gửi quyết định cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thi hành. Trường hợp tổ chức, cá nhân đó không thuộc danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thì thông báo bằng văn bản cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính để chấm dứt ngay việc tạm ngừng lưu thông, phong tỏa đã thực hiện.
2. Trường hợp quả hoạt động nghiệp vụ hoặc qua tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác của tổ chức, cá nhân mà có căn cứ cho rằng có tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố đang lưu thông trong hoạt động tài chính, hoặc hoạt động kinh doanh ngành nghề phi tài chính thì cơ quan phòng, chống khủng bố Công an cấp tỉnh, cơ quan phòng, chống khủng bố thuộc Tổng cục An ninh I Bộ Công an có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan xác minh, làm rõ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện ngay việc tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong hoặc tạm giữ tiền, tài sản đó và báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh hoặc Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh I Bộ Công an để xem xét, quyết định. Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc, Giám đốc Công an cấp tỉnh hoặc Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh I Bộ Công an có trách nhiệm xem xét, nếu tiền, tài sản đó đúng là của tổ chức, cá nhân có liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thì ra quyết định áp dụng biện pháp tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong hoặc tạm giữ và gửi quyết định cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thi hành. Trường hợp tổ chức, cá nhân có tiền, tài sản đó không thuộc danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thì thông báo bằng văn bản cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính để chấm dứt ngay việc tạm ngừng lưu thông, phong tỏa đã thực hiện.
3. Khi xác định có tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh I Bộ Công an có trách nhiệm báo cáo Bộ trưởng Bộ Công an để xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý theo thẩm quyền.
4. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố, Bộ trưởng Bộ Công an có trách nhiệm xem xét, quyết định xử lý tiền, tài sản đó. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh ở nhiều nơi thì thời hạn ra quyết định không quá 60 ngày; trường hợp phải xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài thì thời hạn không quá 90 ngày, kể từ ngày có quyết định phong tỏa tài khoản, niêm phong, tạm giữ tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố”.
- Nghị định số 81/2019/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt:
“Điều 11. Nhiệm vụ của Cơ quan đầu mối quốc gia
…5. Chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ triển khai thực hiện các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc được thông qua tại Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên liên quan đến phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, có nhiệm vụ:
a) Duy trì tuyên bố công khai rõ ràng trên trang web của Cơ quan đầu mối quốc gia về các nghĩa vụ của Nghị định này áp dụng đối với tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân tại Việt Nam trong việc tạm ngừng lưu thông, tạm giữ và phong tỏa tài sản không chậm trễ và không cần thông báo trước đối với tài sản hoặc tài sản có liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt của tổ chức, cá nhân bị chỉ định;
b) Việc tạm ngừng lưu thông, tạm giữ và phong tỏa tài sản không chậm trễ và duy trì thực hiện sau 24 giờ kể từ khi Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông báo, Cơ quan đầu mối quốc gia sẽ cung cấp một liên kết trực tiếp đến trang web của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về nghĩa vụ đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân tại Việt Nam trong việc áp dụng và theo dõi trang web đó một cách thường xuyên để tuân thủ nghĩa vụ đối với việc tạm ngừng lưu thông, tạm giữ và phong tỏa tài sản;
c) Trong vòng 24 giờ kể từ khi Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua, phải thông báo danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định tới tất cả các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh biết để chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý phải thực hiện ngay lập tức các biện pháp trừng phạt của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đối với tổ chức, cá nhân bị chỉ định và thực hiện các biện pháp ngăn chặn phù hợp theo quy định của Nghị định này”.
“Điều 12. Nhiệm vụ của Đơn vị đầu mối
…4. Tiếp nhận tin báo và chủ trì xác minh theo thẩm quyền các tổ chức, cá nhân liên quan hoặc không liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh ra quyết định hoặc hủy bỏ quyết định tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ tiền, tài sản liên quan đến hoạt động phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; đề nghị Cơ quan đầu mối quốc gia đưa vào danh sách hoặc đưa ra khỏi danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định; thực hiện nhiệm vụ khác khi có yêu cầu”.
“Điều 22. Quản lý khu vực tài chính và hoạt động kinh doanh ngành nghề phi tài chính và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
…2. Các tổ chức tài chính, tổ chức và cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính, các trung gian thanh toán và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm sau đây:
a) Áp dụng các biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt thì phải thực hiện ngay việc tạm ngừng lưu thông, phong tỏa tài sản liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; đồng thời thông báo Đơn vị đầu mối có thẩm quyền việc thực hiện các biện pháp này; chỉ được hủy việc tạm ngừng lưu thông, phong tỏa tài sản khi được Đơn vị đầu mối hướng dẫn; báo cáo Đơn vị đầu mối kết quả hành động tuân thủ bao gồm cả những trường hợp thực hiện không thành công;
b) Thường xuyên cập nhật danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định; tổ chức, cá nhân được đưa ra khỏi danh sách bị chỉ định; báo cáo cho Cơ quan đầu mối quốc gia hoặc Đơn vị đầu mối bất kỳ tài sản hoặc tài sản liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt bị phong tỏa hoặc kết quả thực hiện theo các yêu cầu của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc liên quan, bao gồm cả các giao dịch đang cố gắng thực hiện;
3. Đơn vị đầu mối có thẩm quyền trong thời hạn không quá 03 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của các chủ thể quy định tại khoản 2 Điều này có trách nhiệm xem xét, xử lý; nếu có căn cứ cho rằng tiền, tài sản có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt thì ra quyết định phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản; trường hợp không có cơ sở cho rằng tổ chức, cá nhân có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt thì hướng dẫn cho các chủ thể quy định tại khoản 2 Điều này để chấm dứt ngay việc tạm ngừng lưu thông, phong tỏa đã thực hiện”.
“Điều 27. Thực hiện các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua tại Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc liên quan đến việc phòng ngừa, ngăn chặn và phá vỡ hoạt động phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
…2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn liên quan đến tài sản và nguồn tài nguyên kinh tế liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
…d) Cơ quan đầu mối quốc gia và các Đơn vị đầu mối cho phép tiếp tục được nhận bổ sung các khoản thanh toán lãi, thu nhập khác hoặc chi trả theo hợp đồng, thỏa thuận hoặc nghĩa vụ phát sinh trước khi bị đình chỉ vào tài khoản bị phong tỏa bởi nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với điều kiện là những khoản này cũng bị phong tỏa;
đ) Cơ quan đầu mối quốc gia và các Đơn vị đầu mối cho phép thanh toán từ tài khoản bị phong tỏa những khoản theo hợp đồng có trước đó với điều kiện hợp đồng không liên quan đến những hàng hóa bị cấm, vật liệu, thiết bị, công nghệ, hỗ trợ, đào tạo, hỗ trợ tài chính, đầu tư, môi giới hoặc dịch vụ được đề cập trong các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc có liên quan; xác định tiền thanh toán không được chuyển trực tiếp hoặc gián tiếp cho những đối tượng bị chỉ định theo nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; Cơ quan đầu mối quốc gia phải thông báo cho Ủy ban trừng phạt được thành lập theo nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về việc thực hiện hoặc nhận các khoản thanh toán hoặc giải tỏa tài sản trong thời hạn 10 ngày trước khi thực hiện hoặc ủy quyền thực hiện;
e) Tổ chức, cá nhân có thể nộp đơn lên Đơn vị đầu mối để xin phép bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với các tài sản bị phong tỏa liên quan đến tổ chức, cá nhân bị chỉ định theo trình tự, thủ tục được quy định tại Bộ luật Dân sự; khi có đủ căn cứ để xem xét, Đơn vị đầu mối thông báo cho Cơ quan đầu mối quốc gia báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép trình vấn đề này lên Ủy ban trừng phạt được thành lập theo nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc quyết định;
g) Trường hợp khi có giấy phép của Ủy ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Cơ quan đầu mối quốc gia sẽ thông báo giải tỏa đối với các tài sản bị phong tỏa của tổ chức, cá nhân có liên quan đến tổ chức, cá nhân bị chỉ định; yêu cầu không được phép sử dụng tài sản đó tài trợ cho việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt hoặc có thể tạo điều kiện cho các tài sản đó sử dụng vào các mục đích khác có liên quan, hoặc có thể thu hồi giấy phép bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên thứ 3 đối với tài sản bị phong tỏa do Ủy ban trừng phạt cấp trong trường hợp xét thấy tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật có liên quan;
h) Tổ chức, cá nhân khác có tài sản bị phong tỏa do liên quan đến tổ chức, cá nhân bị chỉ định có thể nộp đơn lên Đơn vị đầu mối để xin phép xử lý đối với hàng hóa đông lạnh;
i) Khi xác nhận tổ chức hay cá nhân bị phong tỏa nhầm do tên trùng hoặc gần giống tên của các tổ chức hay cá nhân bị chỉ định hoặc không liên quan tới tổ chức hay cá nhân bị chỉ định, Đơn vị đầu mối thông báo cho Cơ quan đầu mối quốc gia biết và công khai giải tỏa tài sản của các cá nhân hay tổ chức bị phong tỏa nhầm;
k) Các đối tượng thuộc danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định; các trường hợp được đưa ra khỏi danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định hoặc tài sản bị tạm ngừng lưu thông, phong tỏa hoặc được giải tỏa thuộc đối tượng trong danh sách bị chỉ định được đăng tải chính thức trên trang điện tử của Cơ quan đầu mối quốc gia của Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng để các tổ chức tài chính, cá nhân, tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan và các tổ chức, cá nhân nắm giữ tài sản của người bị chỉ định biết, phối hợp với Đơn vị đầu mối, cơ quan đơn vị có liên quan giải quyết theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan;
l) Cơ quan đầu mối quốc gia chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp cận tài sản bị phong tỏa ở nước ngoài khi Việt Nam xác định có những trường hợp ngoại lệ do các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc quy định và phù hợp với các quy trình nêu trong các nghị quyết”.
|
Quy định về phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản tại dự thảo Luật là hoàn toàn phù hợp với các quy định về nội dung này tại Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
|
Điều 46. Xử lý vi phạm
Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
|
|
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, chiến lược về phòng, chống rửa tiền.
3. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác phòng, chống rửa tiền; chỉ đạo việc phối hợp công tác phòng, chống rửa tiền và công tác phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, kế hoạch về phòng, chống rửa tiền.
3. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
5. Hợp tác, trao đổi, cung cấp thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền theo quy định tại Điều 6 của Luật này, làm đầu mối tham gia, triển khai thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách thành viên các tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
7. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào công tác phòng, chống rửa tiền.
8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền, truyền thông về chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống rửa tiền, triển khai công tác đào tạo về phòng, chống rửa tiền.
9. Tổng hợp thông tin, định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
10. Chủ trì thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
11. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành liên quan đề xuất, chủ trì đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
12. Giám sát đối tượng báo cáo trong việc thực hiện báo cáo theo quy định tại các Điều 25, 26 và 34 của Luật này; phối hợp cung cấp thông tin giám sát cho cơ quan thanh tra các Bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền.
|
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010:
“Điều 2. Vị trí và chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.
3. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ”.
“Điều 4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước
...13. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện phòng, chống rửa tiền”.
- Nghị định số 16/2017/NĐ-CP quy định trách nhiệm, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
“Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:
9. Thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
10. Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động ngoại hối, hoạt động kinh doanh vàng, hoạt động phòng, chống rửa tiền; kiểm soát tín dụng; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng, ngoại hối và phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
….
18. Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện và là đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân công, ủy quyền của Chủ tịch nước hoặc Chính phủ.
19. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng và ngoại hối theo quy định của pháp luật; tham gia, triển khai thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách thành viên các tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền; thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm về rửa tiền.
3. Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố thuộc danh sách đen.
5. Thực hiện hợp tác quốc tế; tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.
6. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các loại tội phạm nguồn có rủi ro cao theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 50. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng
1. Trao đổi thông tin, tài liệu về hoạt động rửa tiền nhằm tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định có liên quan đến phổ biến và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này.
|
|
|
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
- Nghị định số 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính
“Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
…..13. Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán:
a) Xây dựng, trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển thị trường chứng khoán;
b) Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án thành lập, đình chỉ hoạt động, giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu, phương thức hoạt động, mô hình tổ chức của Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán;
c) Cấp hoặc thu hồi Giấy phép hoạt động đối với công ty kinh doanh chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty chứng khoán, các tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng và tổ chức lưu ký, dịch vụ chứng khoán theo quy định của pháp luật;
d) Kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức có liên quan đến việc phát hành, kinh doanh, cung cấp dịch vụ chứng khoán;
đ) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm cho các hoạt động thị trường chứng khoán diễn ra an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật.
14. Quản lý nhà nước về bảo hiểm:
a) Xây dựng, trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm;
b) Cấp hoặc thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; cấp phép và quản lý hoạt động đối với Văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam;
c) Kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và các tổ chức, cá nhân có liên quan;
d) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm cho các hoạt động thị trường bảo hiểm thực hiện đúng pháp luật;
đ) Quản lý việc sử dụng Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm.
15. Về quản lý tài chính các tổ chức tài chính và dịch vụ tài chính:
a) Xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các chính sách huy động vốn của Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp trên thị trường tài chính; xây dựng cơ chế, chính sách và thực hiện cấp, cấp lại, điều chỉnh, gia hạn và thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với tổ chức định mức tín nhiệm, doanh nghiệp quản lý quỹ hưu trí tự nguyện và các trung gian tài chính hoạt động trên thị trường tài chính thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính;
b) Xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch, ban hành cơ chế chính sách và mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh xổ số, đặt cược, casino, trò chơi điện tử có thưởng;
c) Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh xổ số, đặt cược, casino, trò chơi có thưởng;
d) Kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh xổ số, đặt cược, casino và trò chơi điện tử có thưởng; cấp, cấp lại, điều chỉnh, gia hạn và thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xổ số, đặt cược, casino, trò chơi điện tử có thưởng theo quy định của pháp luật hiện hành;
đ) Xây dựng, trình Chính phủ ban hành chính sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước; chính sách tín dụng ưu đãi khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
e) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tài chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các quỹ tài chính khác theo quy định của pháp luật;
g) Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức hoạt động dịch vụ tài chính, tư vấn thuế, thẩm định giá và các dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
16. Về hải quan:
a) Xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các quy định cụ thể về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới;
b) Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện nghiệp vụ kiểm tra, giám sát hải quan; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; phòng, chống buôn lậu và thống kê hải quan theo quy định của pháp luật;
c) Tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra và chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ của ngành hải quan theo quy định của Luật hải quan và các quy định khác của
pháp luật; kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền các hành vi vi phạm pháp luật về hải quan.
|
Phù hợp với quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài chính tại Nghị định số 87/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
|
Điều 52. Trách nhiệm của Bộ Xây dựng
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
Nghị định số 81/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng
“Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Bộ Xây dựng thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
…11. Về thị trường bất động sản:
a) Xây dựng các chiến lược, chính sách phát triển và quản lý thị trường bất động sản; chỉ đạo việc thực hiện sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
b) Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tổ chức thực hiện và quản lý kinh doanh bất động sản;
c) Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về kinh doanh bất động sản; phối hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức kiểm tra, rà soát các dự án kinh doanh bất động sản để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi, đình chỉ, tạm dừng hoặc điều chỉnh, chuyển đổi, chuyển nhượng các dự án kinh doanh bất động sản;
d) Hướng dẫn việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức hành nghề môi giới bất động sản, điều hành sàn giao dịch bất động sản; ban hành chương trình khung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về môi giới, quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản; ban hành mẫu chứng chỉ môi giới bất động sản; hướng dẫn, kiểm tra việc cấp và quản lý chứng chỉ môi giới bất động sản;
đ) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ bất động sản; việc thành lập và tổ chức hoạt động của sàn giao dịch bất động sản;
e) Xây dựng và quản lý vận hành hệ thống thông tin quốc gia về thị trường bất động sản; xây dựng và công bố các chỉ số đánh giá thị trường bất động sản theo quy định của pháp luật.
...
25. Thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ”.
|
Phù hợp với quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Xây dựng tại Nghị định số 81/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
|
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với các đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, bao gồm: luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
4. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực hành nghề luật sư; công chứng theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
5. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi, chức năng nhiệm vụ được giao về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
“Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
...20. Về bổ trợ tư pháp:
a) Hướng dẫn, kiểm tra tổ chức và hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, đấu giá tài sản, trọng tài thương mại, thừa phát lại, quản tài viên; hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, đấu giá tài sản, trọng tài thương mại, thừa phát lại, quản tài viên;
b) Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên; bổ nhiệm, miễn nhiệm thừa phát lại; cấp, thu hồi thẻ thừa phát lại; cấp, thu hồi chứng chỉ hành nghề đấu giá, chứng chỉ hành nghề luật sư; cấp, thu hồi Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam đối với luật sư nước ngoài; tập hợp, lập và đăng tải danh sách chung về người giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; cấp, thu hồi chứng chỉ hành nghề quản tài viên; lập, công bố và quản lý danh sách quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong phạm vi cả nước;
c) Cấp, thu hồi Giấy phép thành lập chi nhánh, công ty luật nước ngoài, Giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài, Giấy phép thành lập Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; phê chuẩn Điều lệ của Trung tâm trọng tài; có ý kiến về việc thành lập tổ chức giám định tư pháp công lập thuộc thẩm quyền quyết định của bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương;
d) Quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật công chứng, giám định tư pháp, đấu giá tài sản, trọng tài thương mại, thừa phát lại, quản tài viên trong phạm vi cả nước;
đ) Cấp phép thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư, cơ sở đào tạo nghề công chứng; quy định chương trình khung đào tạo nghề luật sư, nghề công chứng, nghề đấu giá, nghề thừa phát lại.
…
29. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tổ chức tiếp công dân, thực hiện phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ theo quy định của pháp luật”.
|
Phù hợp với quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp tại Nghị định số 96/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
|
Điều 54. Trách nhiệm của Bộ Công thương
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là các tổ chức, cá nhân kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ tổ chức, cá nhân kinh doanh vàng miếng và vàng, trang sức, mỹ nghệ.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ hoạt động kinh doanh vàng miếng và vàng, trang sức, mỹ nghệ.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ hoạt động kinh doanh vàng miếng và vàng, trang sức, mỹ nghệ theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
Theo quy định tại Điều 23 Nghị định 65-CP ngày 13/10/1995, Chính phủ đã giao “Bộ Thương mại phối hợp với Tổng cục hải quan và các cơ quan Nhà nước có liên quan khác ban hành quy định việc quản lý thị trường và xuất khẩu, nhập khẩu đá quý sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ”.
Bên cạnh đó, điểm e khoản 7 Điều 26 Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 4/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT đã quy định “Bộ Công Thương quản lý các đối tượng báo cáo thực hiện hoạt động kinh doanh kim loại quý và đá quý”.
Như vậy, quy định pháp luật hiện hành đang giao Bộ Công thương quản lý đối với hoạt động kinh doanh kim loại quý, đá quý.
Các nội dung liên quan đến trách nhiệm của Bộ Công thương đã được NHNN báo cáo trong quá trình lập đề nghị xây dựng Luật PCRT (sửa đổi). Tại Nghị quyết 152/NQ-CP ngày 03/12/2021 của phiên họp Chính phủ về xây dựng pháp luật tháng 11 năm 2021, Chính phủ đã quyết nghị: “Rà soát chính sách về trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác phòng chống rửa tiền theo hướng phân định rõ vai trò, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý liên quan đến tiền và vàng, các bộ, ngành quản lý các tài sản vật chất, hàng hóa khác;...”.
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 55. Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với pháp nhân được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
|
- Nghị định số 86/2017/NĐ-CP ngày 25/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
" Điều 1. Vị trí và chức năng:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch, đầu tư phát triển và thống kê, bao gồm: Tham mưu tổng hợp về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư công của quốc gia; cơ chế, chính sách quản lý kinh tế; đầu tư trong nước, đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; khu kinh tế; nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi và viện trợ phi chính phủ nước ngoài; đấu thầu; phát triển doanh nghiệp, kinh tế tập thể, hợp tác xã; thống kê; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật."
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và tổ chức tôn giáo.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và tổ chức tôn giáo theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
3. Phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
|
- Nghị định số 63/2022/NĐ-CP ngày 12/9/2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ:
“Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
…12. Về tổ chức hội và các tổ chức phi chính phủ:
a) Giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức phi chính phủ trong nước và hoạt động chữ thập đỏ theo quy định của pháp luật;
b) Thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều lệ các hội có Đảng đoàn do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ;
c) Giải quyết theo thẩm quyền và quy định của pháp luật về các thủ tục liên quan đến hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức phi chính phủ;
d) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức phi chính phủ;
đ) Khen thưởng hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích trong tổ chức, hoạt động của hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức phi chính phủ.
…22. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ. Tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, công tác phòng, chống tội phạm theo quy định của pháp luật”.
|
Phù hợp với quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nội vụ tại Nghị định số 34/2017/NĐ-CP của Chính phủ
|
Điều 57. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
- Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao
“Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Bộ Ngoại giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
…22. Quản lý các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam; cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, thu hồi Giấy đăng ký của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
…26. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao; tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí và xử lý các vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao theo quy định của pháp luật”.
- Nghị định số 12/2012/NĐ-CP ngày 01/3/2012 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam:
Điều 24 Nghị định 12/2012/NĐ-CP quy định trách nhiệm Bộ ngoại giao là “Cơ quan đầu mối quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài” bao gồm các nhiệm vụ như chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam; cấp, thu hồi giấy đăng ký của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài; thực hiện các nhiệm vụ về thanh tra thực hiện các quy định pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao (trong đó có nhiệm vụ thanh tra về tổ chức phi chính phủ nước ngoài) được quy định tại khoản 22, khoản 26 Điều 2 Nghị định 26/2017/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao và Điều 14, 15 Nghị định 17/2014/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động thanh tra ngoại giao (đã được sửa đổi, bổ sung).
|
Phù hợp với quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao tại Nghị định số 26/2017/NĐ-CP và Nghị định số 12/2012/NĐ-CP của Chính phủ.
|
Điều 58. Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong hoạt động kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật này.
4. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc tuyên truyền, phổ biến, truyền thông về chủ trương, chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
- Nghị định số 48/2022/NĐ-CP ngày 26/7/2022 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Thông tin và Truyền thông:
"Điều 2: Nhiệm vụ và quyền hạn:
9. Về thông tin điện tử
a) Quản lý về dịch vụ trò chơi điện tử, nội dung thông tin, ứng dụng cung cấp thông tin trên mạng theo quy định của pháp luật;
b) Cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ và thu hồi các loại giấy phép, giấy chứng nhận về trò chơi điện tử trên mạng và thông tin điện tử trên mạng theo quy định của pháp luật."
- Nghị định 121/2021/NĐ-CP ngày 17/12/2021 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài quy định trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông:
"5. Bộ Thông tin và Truyền thông
a) Chỉ đạo các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet, doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến, doanh nghiệp viễn thông chủ động ngăn chặn và không được cung cấp trò chơi điện tử có thưởng qua mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet;
b) Phối hợp với Bộ Công an và các bộ, ngành có liên quan ngăn chặn việc cung cấp dịch vụ đánh bạc qua mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet từ nước ngoài vào Việt Nam."
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 59. Trách nhiệm của các bộ, ngành khác
1. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành liên quan định kỳ thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 của Luật này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 60. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi rửa tiền; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 của Luật này.
3. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 61. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
1. Thực hiện, chỉ đạo việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại địa phương.
2. Phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn đốc thực hiện các đường lối, chính sách, chiến lược, kế hoạch phòng, chống rửa tiền, thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
3. Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 62. Trách nhiệm bảo mật thông tin
1. Các cơ quan nhà nước được quy định tại Chương III của Luật này có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
2. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 6 của Luật này cho các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác phải đảm bảo các thông tin cung cấp được bảo mật và sử dụng đúng mục đích đã nêu tại yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
|
|
|
Điều 63. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống rửa tiền lực thi hành
1. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 như sau:
“1. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng.”.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành
|
2. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố số 28/2013/QH13 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố 1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật Phòng, chống rửa tiền.
2. Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Định kỳ 05 năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá”.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
b) Sửa đổi, bổ sung Điều 35 như sau:
“Điều 35. Kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới Việt Nam theo quy định tại Điều 24 của Luật này và Điều 35 của Luật Phòng, chống rửa tiền có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi lợi dụng các hoạt động này để tài trợ khủng bố.”.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành
|
3. Các tổ chức tài chính, tổ chức và cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 40 của Luật này.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 64. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2023.
2. Luật Phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Điều 65. Quy định chuyển tiếp
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có quyết định khác, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền theo quy định của Luật này và các Luật khác có liên quan.
|
|
Tương thích, không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định pháp luật hiện hành.
|
Báo Cáo Rà soát pháp luật trong nước và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan đến dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0712-bc-ra-soat-phap-luat-lien-quan-dt-Luat-PCRTsd---20220927082905.doc
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiến hành rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong nước và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) (gọi tắt là dự thảo Luật) để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện hành. NHNN xin báo cáo kết quả rà soát như sau:
I. TỔ CHỨC THỰC HIỆN RÀ SOÁT
1. Phạm vi, nội dung rà soát
- Về phạm vi rà soát: gồm toàn bộ nội dung dự thảo Luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan theo các nhóm vấn đề: Một số khái niệm và quy định chung; Biện pháp phòng, chống rửa tiền (bao gồm: Thông tin nhận biết khách hàng; Thỏa thuận pháp lý, Minh bạch thông tin của pháp nhân; Bảo đảm bí mật, thông tin tài liệu báo cáo; Phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản); Trách nhiệm các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền; Một số nội dung liên quan đến hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
- Về nội dung rà soát: Đối chiếu các quy định tại dự thảo Luật với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và hệ thống các văn bản QPPL hiện hành gồm các luật, nghị quyết, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư… đảm bảo tính hợp hiến, đồng bộ, thống nhất với các văn bản được rà soát, tránh mâu thuẫn, chồng chéo hoặc khoảng trống pháp lý trong hệ thống pháp luật.
2. Mục đích việc rà soát dự thảo Luật và các văn bản có liên quan
Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự thảo Luật có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục đích, quan điểm xây dựng dự thảo Luật là đảm bảo tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật.
3. Kết quả rà soát
Qua rà soát đã xác định tổng số văn bản được rà soát là 52 văn bản, bao gồm: Hiến pháp; 06 Công ước quốc tế; 02 Hiệp định; 19 Luật; 18 Nghị định của Chính phủ; 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 02 Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; 03 Thông tư (Phụ lục I đính kèm).
4. Những nội dung cơ bản của dự thảo Luật
Dự thảo Luật được xây dựng với kết cấu gồm 4 chương, 65 điều quy định những nội dung chính như sau:
Chương I: Những quy định chung. Chương này gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8).
Chương II: Biện pháp phòng, chống rửa tiền (từ Điều 9 đến Điều 46). Chương này gồm 4 mục, 36 điều:
+ Mục 1: Nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin khách hàng. Mục này gồm 15 điều;
+ Mục 2: Trách nhiệm báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin và xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền. Mục này gồm 16 điều;
+ Mục 3: Thu thập, xử lý, phân tích, giám sát và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền. Mục này gồm 3 điều;
+ Mục 4: Áp dụng các biện pháp tạm thời. Mục này gồm 3 điều.
Chương III: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền (từ Điều 47 đến Điều 62).
Chương IV: Điều khoản thi hành gồm 3 Điều (từ Điều 63 đến Điều 65).
II. KẾT QUẢ RÀ SOÁT
A. RÀ SOÁT CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ LIÊN QUAN
1. Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988 (Công ước Viên)
Do mối quan ngại tăng lên trước tình trạng buôn bán bất hợp pháp ma túy quốc tế ngày càng tăng và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ thống ngân hàng, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước Viên năm 1988. Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước Viên không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó. Công ước Viên chỉ quy định tội buôn bán bất hợp pháp ma túy là tội phạm nguồn và không xử lý các khía cạnh mang tính phòng ngừa việc rửa tiền. Công ước có hiệu lực từ tháng 11/1990.
Khoản 1 Điều 3 Công ước Viên quy định về “Tội phạm và hình phạt” như sau:
“1. Theo nội luật của mình, mỗi bên của Công ước sẽ áp dụng những biện pháp cần thiết để coi là tội phạm hình sự những hành vi dưới đây nếu chúng được cố ý thực hiện:
(a) i) Sản xuất, điều chế, chiết xuất, pha chế, chào hàng, phân phối, bán, trao đổi dưới bất cứ hình thức nào như môi giới, gửi, quá cảnh, vận chuyển, nhập khẩu, xuất khẩu ma tuý và các chất hướng thần trái với các quy định của Công ước 1961, Công ước 1961 sửa đổi hoặc Công ước 1971;
ii) Trồng cây thuốc phiện, cây cô ca hay cây cần sa với mục đích sản xuất trái phép ma tuý, trái phép với các quy định của Công ước 1961 và Công ước 1961 sửa đổi;
iii) Tàng trữ hoặc mua bán bất kỳ chất ma tuý hoặc chất hướng thần nào với mục đích thực hiện bất kỳ hoạt động nào quy định tại điểm (i) nói trên;
iv) Điều chế, vận chuyển hay cung cấp phương tiện, nguyên liệu hoặc các chất trong các Bảng I và Bảng II mà biết rõ những chất đó được sử dụng để trồng trọt, sản xuất, điều chế trái phép các chất ma tuý hoặc các chất hướng thần;
v) Tổ chức, chỉ đạo hoặc tài trợ cho bất kỳ hành động phạm tội nào quy định tại các điểm (i), (ii), (iii) hoặc (iv) nói trên;
b) i) Chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó thu được từ bất kỳ hành vi phạm tội nào được quy định tại điểm (a) của khoản này hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội đó với mục đích che giấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc giúp bất kỳ người nào có dính líu vào hành vi phạm tội như vậy trốn tránh trách nhiệm hình sự của hành vi đó;
ii) Che giấu hoặc ngụy trang bản chất thực sự nguồn gốc, địa điểm, chuyển nhượng, chuyển quyền sở hữu tài sản mà biết rõ tài sản đó thu được từ hoạt động phạm tội đã được quy định tại điểm (a) được quy định tại điểm này;
c) Dựa theo những quy định của Hiến pháp và những khái niệm cơ bản của hệ thống pháp luật của từng nước;
i) Việc có được sở hữu, hoặc sử dụng tài sản mà vào thời điểm đó biết rõ đấy là tài sản do phạm tội quy định tại điểm (a) khoản này hoặc do tham gia vào những hoạt động phạm tội đó mà có;
ii) Tàng trữ những phương tiện, nguyên liệu hoặc các chất liệt kê trong Bảng I và Bảng II mà biết rõ những thứ đó đang hoặc sẽ được sử dụng trái phép cho các mục đích trồng, sản xuất hoặc điều chế các chất ma tuý và các chất hướng thần;
iii) Bằng mọi cách kích động hoặc xúi giục người khác phạm tội quy định tại Điều này hoặc sử dụng trái phép các chất ma tuý và các chất hướng thần;
iv) Tham gia, cấu kết hoặc có âm mưu phạm các tội quy định tại Điều này, cũng như có hành vi giúp sức, xúc giục, thúc đẩy hoặc dụ dỗ người khác phạm bất kỳ tội nào quy định tại Điều này.”
2. Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Công ước Palécmô)
Nhằm tăng cường nỗ lực chống tội phạm quốc tế có tổ chức, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước Palécmô năm 2000. Công ước bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của Công ước bằng cách ban hành luật trong nước. Công ước Palécmô có hiệu lực vào ngày 29/9/2003.
Về rửa tiền, Công ước Palécmô bắt buộc mỗi nước thông qua công ước phải:
- Hình sự hóa việc rửa tiền và quy định tất cả các tội nghiêm trọng là tội phạm nguồn của tội rửa tiền, bất kể phạm tội được thực hiện ở trong nước hay ở ngoài nước và cho phép suy đoán về sự cố ý phạm tội từ những tình tiết khách quan.
- Xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền, kể cả nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ và báo cáo giao dịch đáng ngờ.
- Trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính, quản lý, thi hành pháp luật và các cơ quan khác, cả ở trong nước và trên phạm vi quốc tế và xem xét việc thành lập một đơn vị tình báo tài chính để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin; và
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế.
Cụ thể, Điều 6 Công ước Palécmô quy định về “Hình sự hoá hành vi hợp pháp hoá tài sản do phạm tội mà có” như sau:
“1. Phù hợp với những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật trong nước của mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành pháp luật hoặc những biện pháp cần thiết khác để coi các hành vi sau là tội phạm khi chúng được thực hiện một cách cố ý:
(a) (i) Chuyển đổi hay chuyển giao tài sản, dù biết rằng những tài sản này do phạm tội mà có, nhằm che đậy hoặc che dấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc nhằm giúp đỡ bất cứ người nào liên quan đến việc thực hiện một hành vi vi phạm nguồn lẩn tránh những hậu quả pháp lý do hành vi của người đó gây ra;
(ii) Che đậy hoặc che dấu bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm, việc chuyển nhượng, chuyển dịch hoặc quyền sở hữu hay những quyền đối với tài sản, dù biết rằng tài sản này do phạm tội mà có;
(b) Tuỳ theo những khái niệm cơ bản của hệ thống pháp lý của quốc gia:
(i) Giành được, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, dù tại thời điểm nhận được tài sản, biết rằng đó là tài sản do phạm tội mà có;
(ii) Tham gia, liên kết hay thông đồng thực hiện, nỗ lực thực hiện và hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện bất kỳ một hành vi phạm tội nào theo quy định của điều này.
2. Để thực hiện hay áp dụng Khoản 1 của điều này:
(a) Mỗi Quốc gia thành viên sẽ tìm cách áp dụng Khoản 1 Điều này ở phạm vi rộng nhất của các hành vi vi phạm nguồn;
(b) Mỗi Quốc gia thành viên sẽ coi cả những tội phạm nghiêm trọng được định nghĩa tại Điều 2 của Công ước này và những hành vi phạm tội quy định tại Điều 5, 8 và 23 là những hành vi phạm tội nguồn. Đối với các Quốc gia thành viên mà luật pháp của họ định rõ một danh sách các hành vi phạm tội nguồn cụ thể, thì ít nhất họ sẽ gộp vào trong danh sách này một phạm vi tổng thể các hành vi phạm tội có liên quan đến những nhóm tội phạm có tổ chức;
(c) Vì mục đích của Mục (b), những hành vi vi phạm nguồn sẽ bao gồm những hành vi phạm tội được thực hiện nằm trong và ngoài phạm vi quyền tài phán của Quốc gia thành viên liên quan. Tuy nhiên, những hành vi phạm tội được thực hiện ngoài phạm vi quyền tài phán của một Quốc gia thành viên sẽ chỉ cấu thành hành vi phạm tội nguồn khi hành vi có liên quan là một hành vi phạm tội theo pháp luật trong nước của Quốc gia nơi hành vi đó được thực hiện và là một hành vi tội phạm theo pháp luật trong nước của Quốc gia thành viên đang thực hiện hay áp dụng điều này nếu như hành vi đó được thực hiện ở quốc gia này;
(d) Mỗi Quốc gia thành viên sẽ cung cấp cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản sao luật của họ quy định việc áp dụng điều này và bản sao của bất cứ sửa đổi nào liên quan đến những luật này hoặc những văn bản hướng dẫn những luật này.
(e) Nếu những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước của một Quốc gia thành viên đòi hỏi thì có thể quy định rằng những hành vi phạm tội nêu tại Khoản 1 Điều này không áp dụng đối với những người đã thực hiện những hành vi phạm tội nguồn;
(f) Sự nhận thức, ý định hay mục đích được coi là yếu tố cấu thành hành vi phạm tội nêu tại Khoản 1 Điều này có thể được suy ra từ những hoàn cảnh thực tế khách quan.”
Điều 7 Công ước Palécmô quy định về “Các biện pháp chống rửa tiền” như sau:
“1. Mỗi Quốc gia thành viên:
(a) Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thiết lập một thể chế điều chỉnh và giám sát tổng thể trong nước đối với các ngân hàng và định chế tài chính phi ngân hàng và cả các cơ quan khác đặc biệt dễ liên quan đến việc rửa tiền nếu cần, để ngăn ngừa và phát hiện tất cả các hình thức rửa tiền, thể chế này sẽ nhấn mạnh đến những yêu cầu về nhận dạng khách hàng, lưu trữ hồ sơ và báo cáo về những giao dịch có nghi vấn;
(b) Không làm phương hại tới các Điều 18 và 27 của Công ước này, đảm bảo rằng các cơ quan hành chính, lập quy, hành pháp và các cơ quan chống rửa tiền khác (kể cả những cơ quan tư pháp nếu pháp luật trong nước quy định) có khả năng hợp tác và trao đổi thông tin ở cấp độ quốc gia và quốc tế, trong phạm vi các quy định của pháp luật trong nước và để đạt được mục tiêu này sẽ xem xét việc thành lập cơ quan tình báo tài chính hoạt động như một trung tâm quốc gia để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin về nguy cơ rửa tiền.
2. Các quốc gia thành viên sẽ cân nhắc việc áp dụng những biện pháp khả thi để phát hiện và giám sát việc chuyển tiền và các giấy tờ có thể chuyển đổi thành tiền qua biên giới của họ theo cơ chế an ninh để bảo đảm việc sử dụng đúng đắn các thông tin và không cản trở việc vận chuyển vốn hợp pháp dưới mọi hình thức. Những biện pháp này có thể bao gồm cả việc yêu cầu các cá nhân và doanh nghiệp báo cáo về các hoạt động chuyển giao tiền và những giấy tờ có thể chuyển đổi thành tiền với số lượng lớn qua biên giới.
3. Không làm phương hại tới bất cứ quy định nào của Công ước này, khi thiết lập thể chế điều chỉnh và giám sát theo các quy định của Điều này, các quốc gia thành viên nên sử dụng những sáng kiến thích hợp về chống rửa tiền của các tổ chức khu vực, liên khu vực và đa phương như là phương hướng hành động.
4. Các quốc gia thành viên sẽ cố gắng phát triển và thúc đẩy hợp tác toàn cầu, khu vực, tiểu khu vực và song phương giữa các cơ quan tư pháp, hành pháp và điều chỉnh tài chính để chống rửa tiền.”
Như vậy, trên cơ sở Công ước Palécmô, liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần xây dựng, đưa vào Luật phòng, chống rửa tiền các nội dung liên quan đến biện pháp phòng, chống rửa tiền, đơn vị tình báo tài chính và hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
3. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 (Công ước Merida)
Lo ngại về sự liên kết giữa tham nhũng với các loại tội phạm khác, đặc biệt là tội phạm có tổ chức và tội phạm kinh tế, bao gồm cả tội rửa tiền, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước Merida năm 2003. Công ước nhằm mục đích thúc đẩy và tăng cường các biện pháp phòng và chống tham nhũng một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn. Liên quan đến rửa tiền, Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên phải:
- Xây dựng các biện pháp chống rửa tiền như thiết lập cơ chế giám sát các tổ chức tài chính, xác định khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi, lưu giữ hồ sơ và báo cáo về giao dịch đáng ngờ, điện chuyển tiền.
- Thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích, và chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ.
- Hình sự hóa các tội phạm liên quan đến tài sản do phạm tội mà có.
- Phòng ngừa, điều tra, truy tố tham nhũng cũng như phong tỏa, tạm giữ, tịch thu và hoàn trả tài sản có được do phạm các tội được quy định trong Công ước.
- Hợp tác quốc tế.
Các quy định cụ thể trong Công ước liên quan đến chống rửa tiền gồm:
“Điều 14. Các biện pháp chống rửa tiền
1. Mỗi Quốc gia thành viên sẽ:
(a) Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thiết lập một cơ chế giám sát và điều tiết toàn diện trong nước đối với các ngân hàng, các định chế tài chính phi ngân hàng, kể cả các cá nhân hay pháp nhân cung cấp dịch vụ chính thức hoặc không chính thức về chuyển tiền hoặc vật có giá trị, và khi thích hợp, cả những cơ quan khác đặc biệt dễ liên quan đến rửa tiền, nhằm ngăn chặn, phát hiện mọi hình thức rửa tiền; cơ chế điều tiết và giám sát này phải nhấn mạnh đến các yêu cầu về xác định khách hàng và cả người sở hữu hưởng lợi khi thích hợp, lưu giữ hồ sơ và báo cáo về các giao dịch đáng ngờ;
(b) Trên cơ sở không trái với Điều 46 của Công ước này, đảm bảo rằng các cơ quan hành chính, giám sát, thực thi pháp luật và các cơ quan khác chuyên về chống rửa tiền (bao gồm cả các cơ quan tư pháp nếu phù hợp với pháp luật quốc gia) có khả năng hợp tác và trao đổi thông tin ở cấp quốc gia và quốc tế trong phạm vi điều kiện mà pháp luật quốc gia quy định và, nhằm mục đích này, xem xét thành lập một đơn vị tình báo tài chính để hoạt động như một trung tâm quốc gia để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin về hoạt động rửa tiền tiềm tàng.
2. Các Quốc gia thành viên sẽ xem xét thực hiện các biện pháp khả thi nhằm phát hiện, kiểm soát việc di chuyển tiền mặt và các công cụ có giá trị chuyển đổi qua biên giới nước mình, nhưng cũng tuân thủ biện pháp an ninh nhằm đảm bảo sử dụng thông tin đúng đắn và không gây trở ngại dưới bất kỳ hình thức nào tới việc di chuyển các dòng vốn hợp pháp. Những biện pháp như vậy có thể bao gồm biện pháp yêu cầu các cá nhân và tổ chức kinh doanh báo cáo về việc chuyển qua biên giới những lượng tiền mặt lớn và các công cụ có giá trị chuyển đổi khác.
3. Các quốc gia thành viên xem xét thực hiện các biện pháp phù hợp và khả thi yêu cầu các định chế tài chính, kể cả bên chuyển tiền:
(a) Điền vào đơn chuyển tiền qua đường điện tử và các loại thư tín liên quan thông tin chính xác và có ý nghĩa về người gửi tiền;
(b) Duy trì thông tin đó xuyên suốt quá trình chi trả; và
(c) Tăng cường giám sát việc chuyển các khoản tiền không có thông tin đầy đủ về người gửi tiền.
4. Khi thiết lập một cơ chế quản lý và giám sát trong nước theo quy định của Điều này và trên cơ sở không trái các điều khoản khác của Công ước này, các Quốc gia thành viên được khuyến nghị sử dụng các sáng kiến chống rửa tiền có liên quan của các tổ chức khu vực, liên khu vực và đa phương như là định hướng giải quyết vấn đề.
5. Các Quốc gia thành viên sẽ nỗ lực phát triển và thúc đẩy hợp tác song phương, tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu giữa các cơ quan tư pháp, thực thi pháp luật và giám sát tài chính nhằm đấu tranh chống rửa tiền.”
“Điều 52. Phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do phạm tội mà có
1. Không trái với Điều 14 của Công ước này, mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết, căn cứ theo pháp luật quốc gia để yêu cầu các tổ chức tài chính, trong phạm vi quyền tài phán của mình, xác định và nhận dạng khách hàng, áp dụng các biện pháp hợp lý để xác định nhận dạng chủ sở hữu được hưởng lợi của các khoản tiền được gửi trong các tài khoản có giá trị lớn, và tổ chức kiểm tra kỹ các tài khoản được mở hay duy trì bởi hoặc nhân danh các cá nhân đang, hoặc đã từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, hay các thành viên trong gia đình hoặc cộng sự thân thiết của người này. Việc kiểm tra kỹ lưỡng phải được lập kế hoạch hợp lý để phát hiện các giao dịch đáng ngờ nhằm báo cáo các cơ quan có thẩm quyền và không được giải thích để ngăn cản hay ngăn cấm các tổ chức tài chính giao dịch với các khách hàng hợp pháp.
2. Để tạo thuận lợi thi hành các biện pháp quy định tại khoản 1 của Điều này, mỗi quốc gia thành viên, căn cứ vào pháp luật quốc gia và theo các sáng kiến tương ứng của các tổ chức chống rửa tiền của khu vực, liên khu vực và đa phương, sẽ:
(a) Đưa ra khuyến nghị về loại cá nhân hay pháp nhân mà đối với tài khoản của họ, các tổ chức tài chính trong phạm vi thẩm quyền của mình được yêu cầu xem xét kỹ lưỡng về loại tài khoản và giao dịch cần được chú ý đặc biệt và về việc áp dụng các biện pháp mở, duy trì, lưu giữ thông tin thích hợp đối với các loại tài khoản và giao dịch này; và
(b) Nếu thích hợp, thông báo các tổ chức tài chính trong phạm vi thẩm quyền của mình, theo đề nghị của một quốc gia thành viên khác hoặc do mình khởi xướng, về nhận dạng của một tự nhiên cá nhân hoặc pháp nhân nào đó mà tài khoản của đối tượng này, ngoài các đối tượng mà chính các tổ chức tài chính đã nhận dạng, cần được xem xét kỹ lưỡng bởi các tổ chức tài chính.
3. Khi áp dụng khoản 2 (a) của Điều này, mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp để đảm bảo rằng các tổ chức tài chính của mình duy trì một các thích hợp việc lưu giữ thông tin, trong khoảng thời gian hợp lý, về các tài khoản và giao dịch liên quan đến các đối tượng được nhắc đến tại khoản 1 của Điều này, thông tin lưu giữ tối thiểu phải có thông tin nhận dạng của khách hàng và, tới chừng mực có thể, của chủ sở hữu được hưởng lợi.
4. Nhằm phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản có được do phạm các tội được quy định theo Công ước này, mỗi quốc gia thành viên với sự giúp đỡ của các cơ quan quản lý và giám sát của mình sẽ tiến hành các biện pháp thích hợp và có hiệu quả nhằm phòng ngừa việc thành lập các ngân hàng không có sự hiện diện thực tế và không có quan hệ với nhóm tài chính đã được điều chỉnh. Thêm nữa, các quốc gia thành viên có thể xem xét việc yêu cầu các định chế tài chính của mình từ chối tham gia hoặc từ chối duy trì quan hệ ngân hàng với các tổ chức như vậy, đồng thời từ chối thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính nước ngoài mà tài khoản của họ có thể được sử dụng bởi các ngân hàng không có sự hiện diện thực tế và không có quan hệ với nhóm tài chính được điều chỉnh.
5. Mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét việc thiết lập, căn cứ vào pháp luật quốc gia, hệ thống công khai tài chính hiệu quả đối với nhóm công chức nhất định, và quy định chế tài thích hợp đối với việc không chấp hành. Mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét tiến hành các biện pháp cần thiết để cho phép các cơ quan có thẩm quyền chia sẻ những thông tin này với các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên khác khi cần để điều tra, đòi và thu hồi những tài sản có được do phạm những tội quy định trong Công ước này.
6. Mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét áp dụng các biện pháp cần thiết, căn cứ theo pháp luật quốc gia, để yêu cầu nhóm công chức nhất định có lợi ích, có chữ ký hoặc có quyền đối với một tài khoản ở nước ngoài, phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ với tài khoản đó và duy trì những hồ sơ tin thích hợp liên quan đến các tài khoản như vậy. Các biện pháp này phải bao gồm chế tài đối với việc không chấp hành.”
“Điều 58. Đơn vị tình báo tài chính
Các quốc gia thành viên sẽ hợp tác với nhau để phòng và chống việc chuyển tài sản có được do phạm các tội được quy định theo Công ước này và thúc đẩy cách thức và biện pháp nhằm thu hồi các tài sản này. Để đạt được các mục đích này, các quốc gia thành viên sẽ xem xét việc thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích và chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ.”
Như vậy, trên cơ sở Công ước Merida, liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải xây dựng Luật phòng, chống rửa tiền đảm bảo có các nội dung về giám sát các tổ chức tài chính, các biện pháp phòng, chống rửa tiền, thành lập đơn vị tình báo tài chính và hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
4. Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999
Lo ngại về việc các hành vi khủng bố ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn thế giới, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999. Công ước này yêu cầu các nước đã phê chuẩn phải hình sự hóa chủ nghĩa khủng bố, các tổ chức khủng bố và hành vi khủng bố. Theo Công ước, sẽ là bất hợp pháp đối với bất kỳ người nào cung cấp hoặc quyên góp tiền với ý định là số tiền đó sẽ được sử dụng cho hoặc biết rằng số tiền đó được sử dụng để tiến hành bất kỳ một hành vi khủng bố nào được định nghĩa trong các công ước cụ thể khác liệt kê trong phụ lục kèm theo Công ước này.
Điều 2 Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố quy định như sau:
“1. Người bị coi là phạm tội theo Công ước này nếu cung cấp hoặc huy động tiền bạc dưới bất kỳ hình thức nào, trực tiếp hoặc gián tiếp, bất hợp pháp và cố ý với mục đích hoặc biết là một phần hoặc toàn bộ tiền bạc đó sẽ được sử dụng nhằm thực hiện:
a) Hành vi cấu thành một tội trong phạm vi và được định nghĩa trong một trong các điều ước liệt kê trong Phụ lục; hoặc
b) Hành vi khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nặng thường dân, hoặc người khác không tham gia tích cực vào hoạt động thù địch trong hoàn cảnh có xung đột vũ trang khi xét về bản chất hoặc hoàn cảnh xảy ra thì hành vi đó có mục đích khủng bố dân cư hoặc ép buộc một Chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế làm hoặc không làm một việc gì.
2…
3. Một hành vi được coi là đã cấu thành một tội nói tại khoản 1 kể cả trong trường hợp số tiền bạc liên quan thực tế chưa được sử dụng để thực hiện một tội nói tại điểm a hoặc điểm b khoản 1.
4. Một người cũng bị coi là phạm tội nếu người đó thực hiện chưa đạt một tội phạm nói tại khoản 1 Điều này.
5. Một người cũng bị coi là phạm tội nếu:
a) Tham gia với tư cách là người đồng phạm vào việc thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 hoặc khoản 4 Điều này;
b) Tổ chức hoặc chỉ đạo người khác thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 hoặc khoản 4 Điều này;
c) Góp phần vào việc thực hiện một hoặc nhiều tội phạm nói tại khoản 1 hoặc khoản 4 Điều 4 này bởi một nhóm người hoặc những người hoạt động nhằm mục đích chung. Sự đóng góp này được coi là cố ý và được:
c1. Thực hiện nhằm thúc đẩy hoạt động phạm tội hoặc mục đích phạm tội của nhóm khi hành động hoặc mục đích đó liên quan đến việc thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 Điều này; hoặc
c2. Thực hiện mà biết mục đích của nhóm là thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 Điều này.”
9 điều ước quốc tế được liệt kê trong Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố chưa đưa ra khái niệm về khủng bố mà chỉ quy định nghiêm cấm, xử lý một số hành vi cụ thể bị coi là khủng bố. Việt Nam đều đã chính thức tham gia 9 điều ước quốc tế này (gồm: Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm 1970; Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng năm 1971; Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao năm 1973; Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979; Công ước bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân năm 1980; Nghị định thư về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế năm 1988; Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải năm 1988; Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn của những công trình cố định trên thềm lục địa năm 1988; Công ước quốc tế về chống khủng bố bằng bom năm 1997.)
5. Công ước ASEAN về chống khủng bố
Trước tình hình khủng bố trên thế giới và khu vực ASEAN gia tăng, trở thành mối đe dọa và thách thức lớn đối với an ninh và sự phát triển của mỗi quốc gia, cộng đồng ASEAN đã thông qua Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007, có hiệu lực năm 2011. Công ước đã tạo ra khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh các hoạt động hợp tác của các nước ASEAN trong lĩnh vực chống khủng bố, trong đó có việc ngăn chặn tài trợ khủng bố.
Cụ thể, khoản 1 Điều VI về “Lĩnh vực hợp tác” quy định:
“1. Phù hợp với pháp luật quốc gia mỗi bên, các lĩnh vực hợp tác theo Công ước này có thể bao gồm các biện pháp thích hợp nhằm:
a. Thực hiện các bước cần thiết để phòng ngừa việc thực hiện các hành vi khủng bố, kể cả bằng việc cảnh báo sớm cho các bên khác thông qua trao đổi thông tin;
b. Ngăn chặn những người tài trợ, lập kế hoạch, tạo điều kiện hoặc thực hiện hành vi khủng bố sử dụng lãnh thổ của mình nhằm mục đích chống lại các bên khác hoặc công dân của các bên khác;
c. Ngăn chặn và trừng trị việc tài trợ cho các hành vi khủng bố;
…
h. Tăng cường trao đổi thông tin tình báo và chia sẻ thông tin;
…
m. Bảo đảm rằng bất kỳ người nào tham gia vào việc tài trợ, lập kế hoạch, chuẩn bị hoặc thực hiện các hành vi khủng bố hoặc vào việc hỗ trợ hành vi khủng bố đều phải bị đưa ra xét xử trước pháp luật.”
Trên cơ sở rà soát các Công ước (Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988; Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000; Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003; Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999; Công ước ASEAN về chống khủng bố) cho thấy, việc sửa đổi, bổ sung những nội dung tại dự thảo Luật là một yêu cầu để thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn.
B. RÀ SOÁT CÁC HIỆP ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN
1. Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định CPTPP, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, gồm 11 nước thành viên là: Ốt-xtrây-li-a, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam.
Hiệp định đã được ký kết ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại thành phố San-ti-a-gô, Chi-lê, và chính thức có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018 đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mê-hi-cô, Nhật Bản, Xinh-ga-po, Niu Di-lân, Ca-na-đa và Ốt-xtrây-lia. Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
Hiệp định CPTPP gồm 07 Điều và 01 Phụ lục quy định về mối quan hệ với Hiệp định TPP đã được 12 nước gồm Ốt-xtrây-lia, Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam ký ngày 06 tháng 2 năm 2016 tại Niu Di-lân; cũng như xử lý các vấn đề khác liên quan đến tính hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập Hiệp định CPTPP.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm 30 chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. 20 nhóm nghĩa vụ tạm hoãn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng. Tuy nhiên, toàn bộ các cam kết về mở cửa thị trường trong Hiệp định TPP vẫn được giữ nguyên trong Hiệp định CPTPP.
Minh bạch hoá và chống tham nhũng là vấn đề được nhấn mạnh trong nhiều cam kết ở hầu hết các Chương của Hiệp định với các quy định về các nghĩa vụ công khai thông tin, thông báo dự thảo... trong những vấn đề cụ thể. Chương 26 về Minh bạch hóa và Chống Tham nhũng quy định về các nghĩa vụ minh bạch chung mà các Chương về các vấn đề riêng không đề cập.
1.1. Về vấn đề minh bạch hoá
CPTPP yêu cầu các nước Thành viên phải thực hiện các nghĩa vụ về minh bạch liên quan tới 03 nhóm vấn đề chung và một khía cạnh riêng (về dược phẩm) như sau:
(i) Minh bạch về các văn bản pháp luật áp dụng chung:
Trong nhóm cam kết này đáng chú ý có yêu cầu các nước Thành viên phải ít nhất là đăng tải dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cấp trung ương trên ấn phẩm hoặc trên một website chính thức duy nhất.
Cũng như vậy khi các văn bản này đã được ban hành, cần được đăng trên Công báo hoặc một website chính thức duy nhất, khuyến nghị có thêm bản giải trình thuyết minh cho văn bản đó. Thực hiện quy định minh bạch hóa, trong quá trình xây dựng Luật PCRT, cơ quan soạn thảo đã đăng tải công khai các bản dự thảo trên các cổng thông tin của Chính phủ và NHNN, tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản và trực tiếp đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu tác động.
(ii) Minh bạch liên quan đến các thủ tục tố tụng hành chính áp dụng pháp luật và quy định mang tính áp dụng chung:
Nhóm cam kết này đòi hỏi các nước CPTPP đảm bảo rằng trong các thủ tục ban hành quyết định hành chính chủ thể bị ảnh hưởng trực tiếp phải được thông báo đầy đủ, phải có cơ hội để trình bày thực tế và lập luận để bảo vệ mình trước các quyết định hành chính cuối cùng.
(iii) Minh bạch trong các thủ tục khiếu nại, khiếu kiện:
CPTPP không chỉ yêu cầu các nước phải có cơ chế cho phép khiếu nại, khởi kiện một quyết định hành chính cuối cùng, bảo đảm quyền tố tụng của các bên mà còn đòi hỏi các nước phải đảm bảo rằng các quyết định giải quyết được thực thi nghiêm túc.
1.2. Về vấn đề chống tham nhũng
CPTPP không đề cập tới tất cả các khía cạnh, hành vi tham nhũng mà chỉ bao gồm các cam kết của các nước liên quan tới các biện pháp nhằm loại trừ hối lộ và tham nhũng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi của Hiệp định CPTPP.
Các cam kết trong CPTPP về chống tham nhũng bao gồm các nhóm sau:
(i) Các cam kết liên quan tới các Công ước quốc tế về chống tham nhũng:
Các nước CPTPP cam kết gia nhập Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 và khẳng định tuân thủ Bộ Quy tắc ứng xử của APEC dành cho Công chức năm 2007
(ii) Cam kết liên quan tới hành vi phải xử lý hình sự:
CPTPP yêu cầu các nước Thành viên phải xử lý hình sự đối với các hành vi hối lộ công chức, hành vi đòi hoặc nhận hối lộ của công chức, kể cả công chức nước ngoài hay công chức của tổ chức quốc tế. CPTPP cũng yêu cầu xử lý hình sự đối với các hành vi xúi giục, hỗ trợ, câu kết để thực hiện các hành vi hối lộ/nhận hối lộ này.
Bên cạnh đó, CPTPP có quy định về các nghĩa vụ cụ thể liên quan tới việc xử lý hình sự và mức xử phạt các hành vi nói trên cùng các quy định chi tiết liên quan tới sổ sách, kế toán để ngăn chặn các hành vi hối lộ nói trên.
(iii) Các cam kết khác, bao gồm các cam kết mang tính khuyến nghị về việc hạn chế cơ hội tham nhũng (ví dụ cam kết nỗ lực nâng cao minh bạch trong tuyển dụng, đào tạo công chức, các quy tắc giúp loại trừ các trường hợp có mâu thuẫn về lợi ích, các yêu cầu báo cáo hoặc công khai tài sản...) và tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân và xã hội vào các hoạt động/cơ chế phòng chống tham nhũng.
Như vậy, mặc dù không liên quan trực tiếp đến các nội dung tại Hiệp định CPTPP nhưng các quy định tại Luật phòng, chống rửa tiền đã góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam về việc minh bạch hoá và chống tham nhũng tại CPTPP thông qua các yêu cầu minh bạch thông tin giao dịch và các chủ thể liên quan đến giao dịch, báo cáo giao dịch đáng ngờ và phối hợp, hỗ trợ các cơ quan tố tụng và cơ quan thực thi pháp luật lần theo dòng tiền, từ đó giúp đảm bảo thu hồi tối đa số tiền và tài sản do phạm tội mà có.
2. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA)
Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) được chính thức khởi động đàm phán vào năm 2012. Sau khi kết thúc đàm phán và tiến hành rà soát pháp lý để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định thì nội bộ EU phát sinh một số vấn đề mới liên quan đến phân định thẩm quyền phê chuẩn các FTA giữa EU và từng nước thành viên, do đó EU đề xuất tách Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - EU thành 02 Hiệp định riêng biệt, bao gồm: Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) chính là toàn bộ nội dung đã được hai Bên thống nhất trước đây nhưng phần đầu tư sẽ chỉ bao gồm tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiệp định này thuộc thẩm quyền phê chuẩn của EU. Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA) gồm nội dung bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư. Hiệp định này phải được sự phê chuẩn của Nghị viện Châu Âu và Nghị viện các nước Thành viên.
Hiệp định EVFTA sau đó được hai bên thống nhất và hoàn tất các thủ tục để tiến tới ký Hiệp định. Ngày 30 tháng 6 năm 2019 tại Hà Nội, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công thương Việt Nam cùng với Bộ trưởng Bộ Môi trường kinh doanh, Thương mại và Doanh nghiệp của Ru-ma-ni (đại diện Chủ tịch EU) và Cao ủy thương mại EU đã ký Hiệp định EVFTA.
Nội dung chính của Hiệp định EVFTA gồm 17 Chương, 8 Phụ lục, 2 Nghị định thư, 2 Biên bản ghi nhớ và 4 Tuyên bố chung điều chỉnh nhiều vấn đề bao gồm: thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp Nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý - thể chế.
Với mức độ cam kết đạt được, EVFTA được coi là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên.
Xuất phát từ thực tiễn môi trường pháp lý trong nước có ảnh hưởng lớn đến thương mại, trong số các cam kết chính, EVFTA dành một chương riêng (Chương 14) về minh bạch hóa với các yêu cầu chung nhất để đảm bảo một môi trường pháp lý hiệu quả và có thể dự đoán được cho các chủ thể kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trên thực tế, Minh bạch hóa hoạt động xây dựng, thực thi pháp luật, ban hành quyết định hành chính, xử lý khiếu nại, khiếu kiện hành chính là những khía cạnh cải cách được Chính phủ chú trọng trong thời gian qua. Đây cũng là các vấn đề mà đối tác EU rất quan tâm. Các cam kết EVFTA không chỉ đặt ra những chuẩn mực cải cách tối thiểu từ góc độ pháp luật điều chỉnh các hoạt động này mà còn nhấn mạnh các tiêu chí quan trọng về hiệu quả thực hiện. Do đó, để tuân thủ các cam kết EVFTA này, Việt Nam sẽ phải có những sửa đổi, điều chỉnh pháp luật và thực tiễn thực thi cho phù hợp.
Tương tự đối với Hiệp định CPTPP, các quy định liên quan đến nội dung Minh bạch hoá tại EVFTA không liên quan trực tiếp đến các nội dung tại Luật phòng, chống rửa tiền mà chủ yếu liên quan đến các quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Nghị định 100/2010/NĐ-CP về Công báo, Luật Khiếu nại, Luật tố tụng hành chính, Nghị định 59/2012/NĐ-CP về theo dõi thi hành pháp luật, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Luật Tố tụng Dân sự 2015, Luật Tố tụng Hành chính 2015, Luật Trọng tài thương mại 2010… Tuy nhiên, việc ban hành Luật phòng, chống rửa tiền đã thể hiện quyết tâm và nỗ lực của Việt Nam trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý liên quan và tăng cường hiệu quả thực thi của cơ chế phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam, tạo môi trường pháp lý lành mạnh và hiệu quả cho các chủ thể kinh tế. Như vậy, việc ban hành và sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống rửa tiền đã góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam trong EVFTA.
C. RÀ SOÁT CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Các quy định đồng bộ, tương thích giữa dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
Nội dung của Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) cơ bản phù hợp,không ảnh hưởng tới quy định của pháp luật hiện hành có liên quan, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Kết quả rà soát cụ thể như sau:
a) Mội số khái niệm và quy định chung
(i) Về đối tượng báo cáo
Dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo PCRT tại Luật PCRT, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan. Để phù hợp với nội hàm khái niệm của FATF và phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung tên gọi của một số hoạt động của đối tượng báo cáo, ví dụ: sửa đổi tên gọi hoạt động cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư thành hoạt động cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý, sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kinh doanh trò chơi có thưởng … để phù hợp với pháp luật hiện hành điều chỉnh các hoạt động này.
Dự thảo Luật luật hóa quy định tại Nghị định 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP, theo đó bổ sung đối tượng báo cáo là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
(ii) Về một số khái niệm:
Dự thảo Luật bổ sung một số khái niệm như: “chuyển tiền điện tử”; “ hành vi rửa tiền” tại Điều 4.
- Việc bổ sung quy định liên quan đến “giao dịch chuyển tiền điện tử” tại dự thảo Luật là phù hợp với các quy định tại Luật Giao dịch điện tử năm 2005 (Điều 4) và các quy định về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP và Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt).
- Quy định về “ hành vi rửa tiền” tại dự thảo bao hàm được quy định tại Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền.
v Kết quả rà soát: Các quy định chung về đối tượng báo cáo, các khái niệm tại dự thảo Luật kế thừa được pháp luật về PCRT hiện hành đồng thời phù hợp với các Luật có liên quan như: Bộ luật Hình sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Đầu tư, Luật Giao dịch điện tử, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp…
b) Quy định về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng
Điều 10 dự thảo Luật quy định về thông tin nhận biết khách hàng. Nội dung về thông tin khách hàng được quy định cụ thể đối với từng đối tượng như khách hàng là cá nhân có một quốc tịch; cá nhân có từ 02 quốc tịch trở lên; cá nhân không quốc tịch và khách hàng là tổ chức...
Điều 12 dự thảo Luật quy định về xác minh thông tin nhận biết khách hàng, theo đó, đối tượng báo có sử dụng các tài liệu, dữ liệu là các giấy tờ như chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân hoặc hộ chiếu và các giấy tờ khác (đối với khách hàng là cá nhân); giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, điều lệ… ( đối với khách hàng là doanh nghiệp). Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung tên các giấy tờ cung cấp phù hợp với Luật Căn cước công dân và Luật Doanh nghiệp; bổ sung quy định về “các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi”, “điều lệ của tổ chức” phù hợp quy định của Luật Doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, đối tượng báo cáo cũng có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đây là quy định mới phù hợp với pháp luật hiện hành về việc chia sẻ thông tin trong CSDL quốc gia về cư dân cho cá nhân, tổ chức. Việc khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của đối tượng báo cáo phải căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành (Luật Căn cước công dân và các văn bản hướng dẫn thi hành).
v Kết quả rà soát: Việc sửa đổi, bổ sung mới một số thông tin nhận biết khách hàng, xác minh thông tin nhận biết khách hàng nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn và phù hợp với quy định tại Luật Quốc tịch; Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật cư trú 2020, Luật Căn cước công dân 2014, Luật căn cước công dân, Luật Doanh nghiệp...
c) Quy định về thoả thuận pháp lý, minh bạch thông tin của pháp nhân
Khoản 13 Điều 3 dự thảo Luật quy định về “Thỏa thuận pháp lý” để phù hợp với quy định tại Khuyến nghị số 25 của FATF về “Minh bạch thông tin về thỏa thuận pháp lý” và quy định tại Điều 2 Công ước Hague về Ủy thác. Đồng thời, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về minh bạch thông tin của pháp nhân (Điều 21) và bổ sung quy định minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý (Điều 22).
vKết quả rà soát: Việc quy định minh bạch thông tin của pháp nhân phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành tại Bộ luật Dân sự và Luật Doanh nghiệp.
d) Quy định về bảo đảm bí mật hồ sơ, thông tin, tài liệu, báo cáo:
Điều 33 Dự thảo Luật quy định: “Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ thông tin và tài liệu liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này…”.
v Kết quả rà soát
Việc quy định về bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo được xây dựng phù hợp với quy định tại Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
e) Quy định về phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản
Điều 45 dự thảo Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo và cơ quan có thẩm quyền nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn tiếp nhận các thông tin, báo cáo về phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản.
Hệ thống pháp luật hiện hành có quy định về phong tỏa , niêm phong hoặc tạm giữ tài sản, cụ thể: Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: Điều 114 quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời; Điều 124. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; Điều 125. Phong tỏa tài sản ở nơi gửi; Điều 126. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; Điều 133. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự (Điều 12); Nghị định số 122/2013/NĐ-CP ngày 11/10/2013 của Chính phủ về tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ và xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; xác lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố (Điều 3, Điều 7, Điều 8).
vKết quả rà soát:
Như vậy, việc quy định về phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản tại Điều 38 dự thảo Luật là hoàn toàn phù hợp với các quy định về nội dung này tại Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và các văn bản có liên quan.
g) Quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của bộ, ngành, trong đó bổ sung trách nhiệm trong việc thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về PCRT thuộc lĩnh vực quản lý; luật hóa trách nhiệm quản lý về phòng, chống rửa tiền, cụ thể: từ Điều 49 đến Điều 53 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp; từ Điều 54 đến Điều 58 dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao và Bộ Thông tin và Truyền thông nhằm đảm bảo phù hợp với quy định mới tại Điều 7 về “Đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền” và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của từng Bộ, ngành.
v Kết quả rà soát
Trên cơ sở rà soát các Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, ngành (Nghị định số 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính; Nghị định số 81/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng; Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao; Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường), nội dung tại dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của các Bộ, ngành bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
h) Quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền
Dự thảo Luật quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền (điều 6). Quy định này được kế thừa từ quy định tại Luật PCRT và luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). Theo đó, dự thảo Luật quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế về PCRT, các trường hợp từ chối yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin, quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về PCRT và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong hợp tác quốc tế về PCRT. Bên cạnh đó, để đáp ứng thực tiễn công tác trao đổi, cung cấp thông tin về PCRT, dự thảo Luật cũng bổ sung nguyên tắc: trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về PCRT, việc trao đổi, chuyển giao thông tin trong hợp tác quốc tế về PCRT được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
Kết quả rà soát:
Các quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật này phù hợp với các quy định về tương trợ tư pháp, dẫn độ, hợp tác quốc tế được quy định tại một số văn bản QPPL như: Luật Tương trợ tư pháp, Luật Điều ước quốc tế, Luật Tố tụng hình sự.
2. Các quy định cần bổ sung trong văn bản pháp luật liên quan
a) Về xử lý vi phạm hành chính
Tại Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, Thủ tướng Chính phủ giao NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, Bộ Tư pháp phối hợp “Đưa nội dung xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền, tài trợ cho khủng bố vào Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực”.
Nhằm đảm bảo dự thảo Luật không phát sinh mâu thuẫn với Luật Xử lý vi phạm hành chính và các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực; đảm bảo đáp ứng được các quy định của pháp luật Việt Nam và tình hình thực tiễn trong nước, các chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, các yêu cầu của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia, công nhận; trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, NHNN đã rà soát các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực có liên quan. Qua rà soát, hiện nay một số nội dung xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền đã được quy định tại Nghị định xử phạt hành chính trong một số lĩnh vực (bao gồm: lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; lĩnh vực tài chính; hải quan; kế toán; kiểm toán độc lập; chứng khoán; bảo hiểm). Tuy nhiên, để đảm bảo tính thống nhất của các quy định tại Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), sau khi Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) được ban hành, các Bộ ngành cần rà soát, báo cáo Chính phủ để đề xuất sửa đổi các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực liên quan theo hướng bổ sung xử lý đối với các hành vi vi phạm mới, các hành vi vi phạm được sửa đổi, bổ sung tại dư thảo Luật.
b) Về các nội dung dẫn chiếu tại Luật Phòng, chống khủng bố 2013 và pháp luật về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
Điều 34 Luật Phòng, chống khủng bố quy định nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng và áp dụng biện pháp tạm thời; Điều 35 Luật Phòng, chống khủng bố quy định về
kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới có nội dung dẫn chiều đến Luật Phòng, chống rửa tiền. Quá trình nghiên cứu sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung những quy định nêu trên tại Luật Phòng, chống khủng bố và pháp luật về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Với thời hạn phải báo cáo kết quả thực hiện đánh giá của APG vào tháng 3/2023, trong khi việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống KB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật phòng, chống KB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL tại dự thảo Luật này là cần thiết. Do đó, Dự thảo Luật bổ sung quy định sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật Phòng, chống KB và pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL theo hướng tương đồng với các quy định mới được sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT.
Nội dung rà soát quy định pháp luật liên quan đến Luật Phòng, chống rửa tiền được chi tiết tại Phụ lục II đính kèm.
IV. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Thông qua hoạt động rà soát các nội dung của dự thảo Luật với hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau cho thấy, về cơ bản, nội dung và hình thức dự thảo Luật đã đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với các cam kết quốc tế và các văn bản QPPL có liên quan. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền góp phần khắc phục những hạn chế nội tại trong các quy định của pháp luật; giải quyết các bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật phòng, chống rửa tiền đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền.
Bên cạnh đó, việc sửa đổi Luật PCRT thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm khắc phục các thiếu hụt về mặt pháp lý đã chỉ ra trong báo cáo đánh giá đa phương. Từ đó đảm bảo phù hợp với các nghĩa vụ và cam kết quốc tế của Việt Nam, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong công tác PCRT/TTKB/PBVKHDHL của khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, việc này cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT/TTKB/PBVKHDHL trong thời gian tới./.
PHỤ LỤC I
Danh mục các điều ước quốc tế và các văn bản quy phạm pháp luật trong nước phục vụ rà soát xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền
(sửa đổi)
I. Điều ước quốc tế
1. Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988 (Công ước Viên)
2. Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Công ước Palécmô)
3. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 (Công ước Merida)
4. Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999
5. Công ước ASEAN về chống khủng bố
6. Công ước Hague về Ủy thác
II. Hiệp định
1. Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
2. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA)
III. Hiến pháp 2013
IV. Bộ luật, Luật của Quốc hội
1. Bộ Luật Dân sự năm 2015
2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
3. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
4. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)
5. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010
6. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022
7. Luật Quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
8. Luật Căn cước công dân năm 2014 và Luật Cư trú 2020
9. Luật Doanh nghiệp 2020
10. Luật xuất cảnh, nhập cảnh và quá cảnh của cá nhân người nước ngoài năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
11. Luật Giao dịch điện tử năm 2005
12. Luật Điều ước quốc tế năm 2016
13. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007
14. Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018
15. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
16. Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
17. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016
18. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018)
19. Luật Hải quan năm 2014
V. Nghị định của Chính phủ
1. Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
2. Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt
3. Nghị định số 122/2013/NĐ-CP ngày 11/10/2013 của Chính phủ về tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ và xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; xác lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố
4. Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ sửa đổi Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt
5. Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
6. Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao
7. Nghị định số 63/2022/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ
8. Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường
9. Nghị định số 81/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng
10. Nghị định số 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính
11. Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
12. Nghị định số 81/2019/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
13. Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật cư trú
14. Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
15. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
16. Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện
17. Nghị định số 12/2012/NĐ-CP ngày 01/3/2012 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam
18. Nghị định số 88/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 143/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021)
VI. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
1. Quyết định 20/2013/QĐ-TTg ngày 18/04/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo.
2. Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền
VII. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
2. Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 9/12/2019 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 23/2019/TT-NHNN)
3. Thông tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 về hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán./.
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỀ NGHỊ XÂY DỰNG LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN (SỬA ĐỔI)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0711-bc251-NHNN-danh-gia-tac-dong-dt-Luat-PCRTsddoc---20220927082905.doc
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin báo cáo đánh giá tác động của chính sách tại đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) như sau:
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN
1. Bối cảnh xây dựng chính sách
1.1. Ngày 07/6/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “PCRT”), là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho quá trình xây dựng và phát triển cơ chế PCRT ở Việt Nam. Tiếp đó, ngày 18/6/2012, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “Luật PCRT”) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Từ đó đến nay, trải qua hơn 17 năm (2005 - 2022) xây dựng và hoàn thiện cơ chế PCRT ở Việt Nam nói chung và hơn 09 năm thi hành Luật PCRT nói riêng, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, bao gồm:
(i) Khung pháp lý, cơ chế, chính sách về PCRT đã không ngừng được hoàn thiện. Việt Nam đã ban hành kế hoạch hành động quốc gia về PCRT và tài trợ khủng bố qua từng giai đoạn, ban hành kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2019-2020 và hàng loạt các văn bản pháp luật, quy định về PCRT và liên quan đến lĩnh vực PCRT;
(ii) Cơ cấu tổ chức bộ máy PCRT đã hình thành và dần hoàn thiện. Ban chỉ đạo quốc gia về PCRT được thành lập với Trưởng ban là Phó Thủ tướng Chính phủ và thành viên là lãnh đạo của hầu hết các Bộ, ngành. Tại các Bộ, ngành có liên quan đều có các bộ phận được chỉ định là đầu mối để thực hiện công tác PCRT thuộc trách nhiệm của Bộ, ngành. Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là “Ngân hàng Nhà nước”) được thành lập và thực hiện nhiệm vụ của cơ quan phòng, chống rửa tiền của Việt Nam;
(iii) Các biện pháp phòng ngừa về rửa tiền đã được một số nhóm đối tượng báo cáo triển khai thực hiện nghiêm túc và đã tiến hành báo cáo giao dịch giá trị lớn, giao dịch đáng ngờ theo quy định của pháp luật. Theo đó, Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiếp nhận hàng ngàn thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ và đã phân tích, chuyển giao khối lượng lớn thông tin cho các đơn vị thuộc Bộ Công an và các cơ quan có thẩm quyền khác;
(iv) Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về PCRT, Ngân hàng Nhà nước đã ký kết 10 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin hợp tác với các cơ quan tình báo tài chính nước ngoài bao gồm: Malaysia, Indonesia, Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Bangladesh, Nga, Anh;
Với những thành quả đạt được trong công tác PCRT như nêu trên, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố. Cơ chế phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam đã được hình thành và đang tiếp tục hoàn thiện với hệ thống chính sách, văn bản pháp luật được ban hành cũng như bộ máy gồm các cơ quan, tổ chức, đơn vị chuyên trách và phối hợp triển khai thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
1.2. Qua quá trình gần 10 năm triển khai thi hành Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành, một số bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật PCRT đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cụ thể:
(i) Về đối tượng áp dụng Luật PCRT: Các hoạt động của tổ chức tài chính (FIs) và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs) được liệt kê tại khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT là phù hợp với các hoạt động của đối tượng báo cáo tại thời điểm ban hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phát sinh một số hoạt động mới cần được bổ sung vào đối tượng báo cáo như hoạt động trung gian thanh toán và xem xét đến các loại hình mới có thể có tiềm ẩn rủi ro cao về rửa tiền.
Thực tế, về hoạt động trung gian thanh toán, hiện nay khung pháp lý cho hoạt động này tương đối đầy đủ, tuy nhiên các quy định về phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng này mới chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật, (trong đó, yêu cầu trung gian thanh toán áp dụng các biện pháp phòng, chống rửa tiền như với đối tượng báo cáo) nên chưa thực sự đảm bảo đầy đủ và hiệu quả. Do đó, cần luật hóa tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thành đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Đồng thời, trong thực tiễn có thể phát sinh những hoạt động mới có rủi ro về rửa tiền, đặt ra yêu cầu cần phải kịp thời bổ sung quy định về PCRT phù hợp để điều chỉnh các lĩnh vực, hoạt động phát sinh, tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền.
(ii) Về việc đánh giá rủi ro và thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro: Luật PCRT hiện hành không có quy định về việc đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng tổ chức; đồng thời, quy định về việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa đảm bảo tính đầy đủ, hợp lý. Trong khi đó, đây là một trong những yêu cầu thuộc nhóm các vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF.
(iii) Về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo: Đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn một số tồn tại cơ bản như:
- Các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement" theo khuyến nghị của FATF;
- Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn thiếu các quy định theo yêu cầu mới phát sinh tại 40 Khuyến nghị của FATF như yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trước khi cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ ứng dụng công nghệ mới, các biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin còn chưa đầy đủ và phù hợp...;
(iv) Về quy định về việc phân tích, xử lý, chuyển giao thông tin PCRT: Quy định về việc phân tích, xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ của NHNN chưa rõ ràng, đầy đủ. Ngoài ra, các quy định tại Luật PCRT cũng chưa bao quát hết các nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động với vai trò đầu mối thực hiện chức năng PCRT thuộc Ngân hàng Nhà nước như công tác giám sát, cảnh báo, trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước trong thực hiện công tác PCRT.
(v) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành trong công tác PCRT còn chưa đầy đủ như chưa xác định rõ ràng về trách nhiệm quản lý, thanh tra, giám sát PCRT đối với lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý.
(vi) Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được sửa đổi, bổ sung vào năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 khuyến nghị hiện hành của FATF, ảnh hưởng đến việc thực thi cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các khuyến nghị của FATF.
1.3. Theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng, để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là một trong những giải pháp được đặt ra. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về PCRT là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác phòng, chống rửa tiền, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012-2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
1.4. Năm 2019, cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của Việt Nam đã được đánh giá bởi Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG). Căn cứ yêu cầu tại Bộ chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (PCRT/TTKB/PBVKHDHL) hiện được biết đến với tên gọi 40 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), Đoàn đánh giá của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) sau khi đánh giá cơ chế PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL của Việt Nam đã đưa ra các khuyến nghị đối với Việt Nam nhằm khắc phục các thiếu hụt trong cơ chế PCRT/TTKB/PBVKHDHL tại Báo cáo đánh giá đa phương (MER) được thông qua vào tháng 3/2022. Theo đó, ngoài việc sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung nhiều quy định pháp luật có liên quan tại Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sư, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật tương trợ tư pháp, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán…, các văn bản hướng dẫn các Luật nêu trên và các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực có liên quan cũng như triển khai hàng loạt các biện pháp nhằm thúc đẩy cơ chế thực thi hoạt động có hiệu quả tại các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Để thực hiện các nội dung khuyến nghị của APG tại MER, với vai trò là đơn vị đầu mối, Ngân hàng Nhà nước đã nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan có liên quan xây dựng và trình Chính phủ Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Kế hoạch HĐQG), trong đó bao gồm Danh mục 41 hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL áp dụng cho giai đoạn 2021-2025 và Phụ lục 83 hành động phải được thực hiện đến tháng 3/2023 trước kỳ xem xét, đánh giá của FATF sau thời gian quan sát 1 năm. Các hành động này nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL để giải quyết các thiếu hụt về tuân thủ kỹ thuật đã được phát hiện trong MER và đảm bảo việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để cải thiện hiệu quả của hoạt động PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề.
Trong đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền được xác định là một trong những căn cứ quan trọng, là cơ sở để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan khác nhằm khắc phục các thiếu hụt mang tính pháp lý trong cơ chế phòng, chống rửa tiền của Việt Nam. Đây là một trong những khuyến nghị hành động quan trọng mà Việt Nam cần khẩn trương hoàn thành trước tháng 3/2023. Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả tích cực và đánh giá khả quan của APG, FATF, Việt Nam cần nỗ lực triển khai đồng bộ các khuyến nghị hành động của APG song song với việc sửa đổi Luật PCRT. Kết quả đánh giá việc thực hiện các khuyến nghị hành động sẽ phụ thuộc vào nỗ lực của Việt Nam nhưng cũng phụ thuộc vào cả ý kiến chủ quan của Đánh giá viên, rà soát viên và chính sách của FATF, APG trong từng thời kỳ.
Những tồn tại, hạn chế nêu tại điểm 1.2 cũng đã được phản ánh rõ nét trong Báo cáo đánh giá của Đoàn đánh giá APG. Theo Báo cáo của APG khi đánh giá về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam so với 40 Khuyến nghị của FATF, hiện Việt Nam chưa đáp ứng được 27/40 Khuyến nghị của FATF. Trong đó, các quy định về PCRT tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn nhiều hạn chế, Đoàn đánh giá đã đưa ra các kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung liên quan tới nhiều điều khoản của Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn.
Sau khi Báo cáo đánh giá của APG về cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thông qua, Việt Nam có thời hạn đến tháng 3/2023 để khắc phục những thiếu hụt đã được chỉ ra, trong đó có yêu cầu cải thiện khuôn khổ pháp lý nhằm khắc phục thiếu hụt tại 27/40 Khuyến nghị của FATF nêu trong Báo cáo đánh giá. Nếu đến thời hạn này, văn bản sửa đổi của Việt Nam chưa được ban hành và có hiệu lực để cho thấy đã cải thiện các thiếu hụt trọng yếu, APG sẽ xem xét đưa Việt Nam vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (Danh sách xám) và công bố rộng rãi để các nước trên thế giới áp dụng biện pháp rà soát tăng cường đối với luồng tài chính ra, vào Việt Nam.
Từ những nội dung nêu trên, yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) là một yêu cầu thiết yếu để khắc phục những thiếu hụt về mặt pháp lý trong cơ chế PCRT có liên quan đến Luật PCRT, đặt cơ sở cho việc sửa đổi các văn bản có liên quan và tổ chức triển khai nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT ở Việt Nam; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và tội phạm nói chung; đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế về PCRT, hạn chế việc Việt Nam bị đưa vào Danh sách xám của FATF.
2. Mục tiêu xây dựng chính sách
2.1. Mục tiêu chung
Việc xây dựng và ban hành Luật PCRT (sửa đổi) nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ và hiệu quả cho hoạt động PCRT, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung đặc biệt là các tội phạm nguồn tạo ra lượng tiền và tài sản bất hợp pháp lớn như tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo,… và tội phạm rửa tiền nói riêng; tăng cường vị thế của Việt Nam trong mối quan hệ với quốc gia, đối tác nước ngoài; tránh bị áp đặt các biện pháp trừng phạt, kiểm soát và bị hạn chế trong các giao dịch tài chính, ngân hàng; xây dựng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp với các cam kết quốc tế, chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Xuất phát từ những bất cập cần giải quyết nêu trên, việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể như sau:
- Khắc phục những bất cập nội tại của Luật PCRT 2012; đáp ứng những yêu cầu mới phát sinh trong công tác PCRT.
- Phù hợp với chuẩn mực, khuyến nghị quốc tế về PCRT; qua đó, tránh được các hậu quả phát sinh xảy ra đối với quốc gia được coi là có khuyết thiếu nghiêm trọng về cơ chế PCRT.
- Nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng; tăng cường hợp tác quốc tế về PCRT.
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH
Để đạt được các mục tiêu xây dựng Luật PCRT (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước xây dựng Báo cáo đánh giá tác động của chính sách như sau:
1. Chính sách 1: Mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo trong công tác PCRT
1.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động của các tổ chức tài chính và phi tài chính phát triển nhanh chóng với sự xuất hiện của một số loại hình, phương thức cung cấp sản phẩm dịch vụ đa dạng mới. Bên cạnh mặt tích cực, sản phẩm, dịch vụ tài chính mới này cũng tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng cho các mục đích tội phạm nói chung trong đó có rửa tiền.
Các báo cáo, nghiên cứu trong nước và quốc tế đã chỉ ra những rủi ro rửa tiền của các loại hình dịch vụ mới và đặt ra yêu cầu phải có biện pháp phù hợp để phòng ngừa
[1]. Một trong các điều kiện tiên quyết để triển khai hiệu quả các biện pháp PCRT là phải đưa các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong các lĩnh vực này trở thành đối tượng báo cáo và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về PCRT.
Luật PCRT năm 2012 hiện chưa quy định các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và cũng chưa có quy định để bao quát đối với các loại hình mới khác như cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ,...là đối tượng báo cáo nên chưa có cơ sở để yêu cầu các tổ chức này thực hiện một hay một số các biện pháp phòng, chống rửa tiền phù hợp. Do đó, việc bổ sung, mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật PCRT để hạn chế rủi ro rửa tiền là yêu cầu cấp thiết.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Loại hình hoạt động có nguy cơ bị tội phạm lợi dụng để rửa tiền nhưng chưa được liệt kê tại Luật PCRT và sẽ không phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền như nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ, … Tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng luôn có xu hướng dịch chuyển hoạt động của mình đến các khu vực hoặc các lĩnh vực ít chịu sự điều chỉnh của pháp luật và sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, các tổ chức nêu trên sẽ là những mắt xích yếu mà tội phạm lợi dụng để rửa tiền và cũng làm suy giảm hiệu quả phòng, chống rửa tiền của các lĩnh vực khác.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs) là các tổ chức được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật PCRT; và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs) thực hiện một hoặc một số hoạt động theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật PCRT. Tuy nhiên, các hoạt động của FIs và DNFBPs được liệt kê tại khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT hiện chưa bao quát đầy đủ do tại thời điểm ban hành Luật PCRT có những loại hình hoạt động kinh doanh chưa xuất hiện như hoạt động trung gian thanh toán, các sản phẩm công nghệ mới phát sinh ví dụ như liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
1.2. Mục tiêu để giải quyết vấn đề
Tạo cơ sở pháp lý, xây dựng quy định pháp luật cụ thể, đầy đủ nhằm điều chỉnh ở phạm vi bao quát các loại hình đối tượng báo cáo có nguy cơ bị lợi dụng để rửa tiền để có các biện pháp phòng ngừa, phát hiện các giao dịch, phương thức thông qua các đối tượng báo cáo để rửa tiền, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa rửa tiền.
1.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
1.3.1. Giải pháp 1A: Giữ nguyên hiện trạng đối tượng báo cáo tại Luật PCRT.
1.3.2. Giải pháp 1B: Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng bổ sung loại hình hoạt động có rủi ro về rửa tiền mới phát sinh, chưa được quy định tại Luật PCRT là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và bổ sung việc giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động quy định rõ tại Luật và xác định trách nhiệm của đối tượng báo cáo được bổ sung.
1.3.3. Giải pháp 1C:Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng bổ sung cụ thể đối tượng là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tổ chức tài chính được cấp phép thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
1.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
1.4.1. Giải pháp 1A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
a) Tác động về kinh tế
- Chi phí: Thứ nhất, đối tượng thực hiện loại hình hoạt động có nguy cơ bị lợi dụng rửa tiền không phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa về PCRT và không bị thanh tra, giám sát về PCRT; cơ quan có thẩm quyền có thể sẽ không nhận được thông tin, báo cáo liên quan đến PCRT từ nhóm đối tượng này. Thứ hai, việc giữ nguyên quy định như tại Luật PCRT sẽ giới hạn phạm vi đối tượng báo cáo là những tổ chức, cá nhân được liệt kê tại Luật PCRT, do đó, trong trường hợp phát sinh đối tượng báo cáo mới sẽ cần phải sửa Luật PCRT để mở rộng phạm vi đối tượng báo cáo, dẫn đến việc phải thực hiện các thủ tục phức tạp và tốn kém chi phí.
- Lợi ích: Các tổ chức không phải là đối tượng báo cáo nên không phải thực hiện các quy định của pháp luật PCRT, do đó, giảm tải công việc, tiết kiệm nhân lực, vật lực cho các tổ chức này; cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT không phải quản lý nhóm các đối tượng này, do vậy, không phải mất thêm chi phí nhân sự, quản lý. Tuy nhiên, xét trên phạm vi lợi ích chung của xã hội thì điều này lại gây ra các thiệt hại về kinh tế khi tội phạm tiếp tục lợi dụng các lĩnh vực có rủi ro cao để phục vụ cho việc tẩu tán, rửa các tài sản “bẩn” có được do phạm tội cũng như lợi dụng các lĩnh vực này để thực hiện các hoạt động phạm tội.
b) Tác động về xã hội
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không tăng thêm.
- Mặt tiêu cực: Việc đối tượng có hoạt động tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền nhưng không phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền sẽ làm giảm niềm tin của xã hội vào Nhà nước khi không quản lý được các đối tượng có thể bị lợi dụng để rửa tiền. Điều này tạo ra kẽ hở cho hoạt động rửa tiền và làm giảm hiệu quả của chính sách phòng, chống rửa tiền được tạo ra tại các lĩnh vực khác.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thiếu toàn diện, tạo “lỗ hổng” pháp luật để tội phạm có thể lợi dụng loại hình tổ chức chưa được quy định tại Luật để thực hiện các hoạt động phi pháp, dẫn đến mất ổn định an ninh, kinh tế, xã hội.
+ Không có cơ sở pháp lý đầy đủ để xác định thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hoạt động có tiềm ẩn rủi ro cao về rửa tiền.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc không bổ sung loại hình đối tượng báo cáo cung cấp có rủi ro cao về rửa tiền không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT.
1.4.2. Giải pháp 1B: Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng (i) bổ sung loại hình hoạt động có rủi ro về rửa tiền liên quan đến tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và (ii) bổ sung quy định giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động đã quy định rõ tại Luật; và xác định trách nhiệm của các đối tượng báo cáo được bổ sung.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
+ Đối với đối tượng báo cáo:
Đối tượng trở thành đối tượng báo cáo theo pháp luật PCRT sẽ phải thiết lập cơ chế PCRT tại tổ chức mình và thực hiện các nghĩa vụ PCRT như thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ, giao dịch tiền mặt có giá trị lớn…. Căn cứ vào các yêu cầu báo cáo hiện nay, đối tượng dự kiến được đưa vào nhóm đối tượng báo cáo chỉ phải thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ, báo cáo giao dịch tiền mặt có giá trị lớn khi có phát sinh. Mặt khác, pháp luật PCRT cũng có các quy định về bộ máy làm công tác PCRT (tùy vào điều kiện của tổ chức mà có thể bố trí chuyên trách hoặc kiêm nhiệm) hoặc các nhiệm vụ liên quan đến đào tạo, kiểm toán, xây dựng hệ thống báo cáo... phụ thuộc vào quy mô, loại hình hoạt động của từng loại đối tượng.
Do đó, việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo trong công tác PCRT hầu như không làm thay đổi bộ máy hoạt động của các đối tượng báo cáo được bổ sung. Công việc này cũng sẽ gắn với các nhiệm vụ quản lý, vận hành khác mà đang được giao cho các bộ phận hoặc cán bộ sẵn có như bộ phận kiểm soát rủi ro, tuân thủ, pháp chế, hành chính,... đảm nhận.
+ Đối với cơ quan quản lý:
Việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo về PCRT sẽ làm phát sinh thêm việc giải quyết các công việc của cơ quan quản lý nhà nước như: (i) gia tăng khối lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ, giao dịch giá trị lớn nhận được từ các đối tượng báo cáo mới cần phải phân tích, xử lý; (ii) gia tăng khối lượng công việc liên quan đến hướng dẫn, quản lý, thanh tra, giám sát về PCRT tại các cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm quản lý các đối tượng báo cáo, (iii) gia tăng chi phí phí liên quan đến việc rà soát đánh giá các đối tượng mới có thể có rủi ro về PCRT để đề xuất Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, qua đánh giá sơ bộ, việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo hầu như không làm phát sinh thêm cơ cấu, bộ máy tại các bộ, ngành do nhân lực và bộ máy làm công tác này tại các bộ, ngành hiện nay đều là kiêm nhiệm (trừ đơn vị thực hiện công tác PCRT tại Ngân hàng Nhà nước). Việc tăng cường khối lượng cũng như nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền sẽ trở thành một công cụ quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, do các cơ quan quản lý đang tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nên việc tích hợp chức năng quản lý về phòng, chống rửa tiền về cơ bản chỉ dẫn tới những thay đổi về chất chứ không dẫn đến gia tăng quá nhiều số lượng cán bộ. Bên cạnh đó, việc bổ sung thêm nhiều nguồn thông tin báo cáo từ các đối tượng, lĩnh vực khác nhau để phân tích, xử lý, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc liên quan đến rửa tiền cũng là cơ sở hoàn thiện cơ sở dữ liệu, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm rửa tiền nói riêng. Việc rà soát đánh giá các đối tượng mới có thể có rủi ro về PCRT sẽ tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhằm phòng, chống rủi ro.
Trên thực tế, đối với các cơ quan có vai trò lớn trong công tác PCRT như Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an, việc triển khai mạnh mẽ và đồng bộ công tác PCRT sẽ làm gia tăng khối lượng báo cáo, yêu cầu xử lý thông tin dẫn tới phải có một nguồn lực về nhân lực, vật lực cần thiết. Tuy nhiên, yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực cho Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an đã được thể hiện tại Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014; Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019-2020 ban hành kèm theo Quyết định số 474/QĐ-TTg ngày 30/4/2019. Các yêu cầu này đang được triển khai trên thực tế.
Về cơ bản, việc triển khai chính sách này vẫn đảm bảo đúng với chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Có thể nhận thấy, yêu cầu tăng cường nguồn lực thực hiện công tác PCRT là một đòi hỏi tất yếu của quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, xã hội. Như vậy, việc mở rộng đối tượng báo cáo có thể dẫn đến chi phí triển khai có phát sinh nhưng lợi ích từ việc bảo đảm an ninh, an toàn tài chính, phòng, chống tội phạm và phát triển kinh tế xã hội mang lại sẽ rất lớn, không thể so sánh được.
- Lợi ích:
+ Tạo ra khuôn khổ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền quản lý, thanh tra, giám sát các đối tượng có thể bị lợi dụng để rửa tiền; mở rộng các loại hình đối tượng báo cáo phải thiết lập cơ chế PCRT tại tổ chức mình và thực hiện các nghĩa vụ PCRT như thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ… qua đó giảm thiểu rủi ro rửa tiền xảy ra ở đối tượng báo cáo. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền được cung cấp thêm nhiều nguồn thông tin từ các đối tượng, lĩnh vực khác nhau để phân tích, xử lý, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc liên quan đến rửa tiền, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh PCRT.
+ Việc bổ sung loại hình hoạt động mới phát sinh có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền cần phải chịu sự tác động, điều chỉnh của Luật PCRT sẽ góp phần làm lành mạnh, an toàn và ổn định cho hệ thống tài chính quốc gia; được đánh giá và ghi nhận của cộng đồng quốc tế, qua đó có khả năng được các chính sách ưu đãi (chi phí vay, thời gian vay, thời gian trả nợ, nội dụng vay, hạn mức vay...) cũng như góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tăng cường nhận thức về công tác PCRT đến đối tượng báo cáo được mở rộng. Hoạt động PCRT được tăng cường sẽ góp phần giảm thiểu tội phạm, đặc biệt là các tội phạm kinh tế gắn với tham nhũng, lừa đảo, buôn lậu,… tăng cường trật tự, an toàn xã hội, tăng niềm tin của dân chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không phát sinh.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
Việc mở rộng phạm vi đối tượng báo cáo là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã được quy định tại Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (đã được sửa đổi, bổ sung). Việc bổ sung đối tượng này vào quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật PCRT nhằm đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống quy định pháp luật về PCRT.
+ Đối với các đối tượng báo cáo khác mới phát sinh được Chính phủ quy định dự kiến sẽ là các đối tượng cung ứng các loại hình sản phẩm, dịch vụ mới phát sinh trên thực tiễn, ẩn chứa rủi ro về rửa tiền. Theo đó, các tổ chức thực hiện các loại hình hoạt động này phải tuân thủ đầy đủ các quy định pháp lý trong phòng, chống rửa tiền góp phần làm minh bạch, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức này khi hoạt động của các tổ chức này được pháp luật quy định và công nhận.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo cũng như giao Chính phủ quy định bổ sung các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo sẽ phù hợp với các khuyến nghị có liên quan trong Bộ chuẩn mực quốc tế 40 Khuyến nghị của FATF, cũng như các kiến nghị của Đoàn đánh giá APG đối với cơ chế PCRT/TTKB của Việt Nam. Cụ thể:
+ Khuyến nghị số 1 về đánh giá rủi ro và phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro chỉ ra: “Nếu các quốc gia thông qua những đợt đánh giá rủi ro của họ xác định có các loại hình tổ chức, các hoạt động, ngành nghề kinh doanh hoặc ngành nghề nào mà có rủi ro bị lạm dụng để rửa tiền, tài trợ khủng bố và loại hình đó không nằm trong định nghĩa về định chế tài chính hoặc định chế, ngành nghề phi tài chính chỉ định (DNFBPs), thì quốc gia đó cần phải cân nhắc áp dụng các yêu cầu phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố cho loại hình như vậy”.
+ Khuyến nghị số 15 về Công nghệ mới chỉ ra: “Các quốc gia và các định chế tài chính cần phải nhận dạng và đánh giá rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố có thể phát sinh liên quan đến (a) việc phát triển các sản phẩm mới hoặc hoạt động kinh doanh mới, bao gồm cả cơ chế cung cấp dịch vụ mới và (b) việc sử dụng công nghệ mới và tiến bộ đối với cả sản phẩm mới và sản phẩm hiện có trước đó. Đối với các định chế tài chính, đánh giá rủi ro như vậy cần phải được thực hiện trước khi đưa ra các sản phẩm, hoạt động kinh doanh mới hoặc sử dụng công nghệ mới tiến bộ. Các quốc gia và các định chế tài chính cần phải thực hiện các biện pháp thích hợp để kiểm soát và giảm thiểu những rủi ro đó”
+ Khuyến nghị số 26 về Quản lý và giám sát đối với định chế tài chính chỉ ra: “Các định chế tài chính khác phải được cấp phép, đăng ký và quản lý phù hợp, đồng thời chịu sự giám sát hoặc kiểm soát nhằm mục đích chống rửa tiền…, có xem xét đến rủi ro rửa tiền… trong lĩnh vực đó. Ít nhất, khi định chế tài chính cung cấp dịch vụ chuyển tiền hay giá trị hoặc chuyển đổi tiền tệ thì cần phải được cấp phép hoặc đăng ký và chịu sự giám sát và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu của quốc gia về phòng, chống rửa tiền… bởi các hệ thống hiệu quả”.
+ Khuyến nghị số 27 về Quản lý và giám sát đối với các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính được chỉ định (DNFBPs) đã nêu: “Các quốc gia cần phải đảm bảo các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính chỉ định khác phải là đối tượng điều chỉnh của hệ thống giám sát hiệu quả và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu chống rửa tiền…”.
Như vậy, căn cứ quy định của chuẩn mực quốc tế, việc bổ sung đối tượng báo cáo theo Luật PCRT sẽ thực hiện được một phần trong các yêu cầu tại các khuyến nghị này.
1.4.3. Giải pháp 1C: Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng bổ sung cụ thể đối tượng là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Cơ bản giống với giải pháp 1B nêu trên.
- Lợi ích: Cơ bản giống với giải pháp 1B nêu trên.
b) Tác động về xã hội:
Cơ bản giống với giải pháp 1B nêu trên. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có khung pháp lý điều chỉnh và quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nên tảng công nghệ (cấp phép/đăng ký...). Trường hợp mới chỉ bổ sung đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) thì cũng chưa xác định được đối tượng để thu thập thông tin, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó, đây là những vấn đề mới và đều đang trong quá trình nghiên cứu về việc có hay không coi đây là các hình thức kinh doanh hợp pháp và sự cần thiết có cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Chính vì thế, đây là hai lĩnh vực chưa được thừa nhận chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc quy định hai hoạt động này tại dự thảo Luật khi chưa có quy định cụ thể điều chỉnh sẽ tạo ra các quan điểm không thống nhất nên không đảm bảo tính khả thi trong quá trình triển khai.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi: Không đảm bảo tính khả thi vì chưa có đầy đủ quy định pháp lý điều chỉnh, chưa xác định được cơ quan có chức năng thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo, cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nên tảng công nghệ.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc bổ sung loại hình đối tượng báo cáo cung cấp nêu trên đảm bảo đáp ứng một phần yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT vì khuyến nghị của FATF không chỉ dừng ở việc bổ sung tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo vào đối tượng báo cáo mà còn bao gồm các khuyến nghị liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý của hoạt động này (bao gồm các cơ chế cấp phép, tổ chức hoạt động...), trong khi đó, các nội dung này không thể quy định tại Luật PCRT do không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về PCRT.
1.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách, mặt tích cực, tiêu cực của giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn Giải pháp 1B nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, đảm bảo tính khả thi và tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, thu thập thông tin liên quan đến PCRT; việc giao Chính phủ quy định bổ sung sẽ tạo cơ sở để các tổ chức có các hoạt động có thể bị lợi dụng để rửa tiền trở thành đối tượng báo cáo và áp dụng các biện pháp để phòng ngừa rửa tiền, qua đó, giảm thiểu rủi ro rửa tiền.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).
2. Chính sách 2: Đánh giá mức độ rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT
2.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Khuyến nghị 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF yêu cầu các quốc gia cần phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền và cần phải thực hiện các biện pháp, phương thức tiếp cận trên cơ sở rủi ro nhằm đảm bảo các biện pháp ngăn chặn hoặc giảm thiểu rửa tiền phù hợp với rủi ro được xác định. Phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro bao gồm việc phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro để áp dụng biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường; việc xác định các yếu tố rủi ro của từng đối tượng báo cáo trong mối tương quan với toàn hệ thống các tổ chức báo cáo, đánh giá, xác định mực độ rủi ro của từng loại hình kinh doanh, dịch vụ, lĩnh vực hoạt động của từng đối tượng báo cáo. Trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền có giải pháp phân bổ nguồn lực thanh tra phù hợp khi thực hiện thanh tra các đối tượng báo cáo về PCRT.
Luật PCRT chưa có quy định yêu cầu đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng tổ chức báo cáo. Nghị định số 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (Nghị định 87) và Thông tư số 20/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 đã đưa ra hướng dẫn thực hiện một số quy định về PCRT (Thông tư 20) đã bổ sung nội dung đánh giá rủi ro rửa tiền tại đối tượng báo cáo trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền. Tuy nhiên, các quy định này nằm rải rác, chưa đảm bảo tính đồng bộ và chưa toàn diện. Ngoài ra, tại Luật PCRT chưa có quy định về hoạt động thanh tra, giám sát về rửa tiền phải thực hiện trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Thứ nhất, khung pháp lý toàn diện, đồng bộ để triển khai thực hiện đánh giá rủi ro rửa tiền định kỳ cấp quốc gia, ngành và tại tổ chức báo cáo; phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro chưa được hoàn thiện và áp dụng toàn diện trong các hoạt động PCRT của đối tượng báo cáo cũng như của các cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, trong bối cảnh các nguồn lực dành cho công tác PCRT còn hạn chế, phương thức, thủ đoạn rửa tiền của tội phạm ngày càng tinh vi, phức tạp, đặc biệt trong bối cảnh sự phát triển của khoa học, công nghệ dẫn đến hiệu quả công tác PCRT sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
Thứ hai, Việt Nam sẽ không thực hiện được những hành động liên quan đến đánh giá và tiếp cận trên cơ sở rủi ro để khắc phục những khuyết thiếu trong cơ chế PCRT nói chung và hệ thống pháp luật về PCRT nói riêng. Do vậy, trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình phải thực hiện các hành động nhằm khắc phục những thiếu hụt về cơ chế PCRT theo kết quả đánh giá đa phương của APG như đã nêu ở trên, việc không giải quyết vấn đề này sẽ gây ra những hậu quả bất lợi cho Việt Nam.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Nguyên nhân chính gây ra vấn đề Luật PCRT chưa có quy định toàn diện, đồng bộ về việc đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở trên, các khuyến nghị của FATF từ thời điểm ban hành Luật PCRT đến nay đã có nhiều lần sửa đổi. Nghị định 87 và Thông tư 20 hướng dẫn Luật PCRT mặc dù đã quy định về vấn đề này, tuy nhiên, cũng chưa toàn diện, đồng bộ do bị giới hạn là văn bản hướng dẫn của Luật PCRT nên không thể quy định các vấn đề ngoài phạm vi các quy định của Luật PCRT. Ngoài ra, các quy đinh cụ thể cũng có những thiếu hụt.
2.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo hành lang pháp lý để triển khai định kỳ đánh giá rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành, lĩnh vực và tại từng đối tượng báo cáo. Trên cơ sở các mức độ rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo, phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro được triển khai thực hiện tại đối tượng báo cáo, tại cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát về PCRT; góp phần làm giảm thiểu chi phí và nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
2.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 2A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
2.3.2. Giải pháp 2B: Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Theo đó, quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro, nguyên tắc áp dụng các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro; việc sử dụng kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, lĩnh vực và từng đối tượng báo cáo; quy định về việc phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro để áp dụng biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường; quy định về việc triển khai xây dựng và áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát về PCRT phải dựa trên kết quả đánh giá rủi ro; quy định cụ thể tiêu chí đánh giá rủi ro rửa tiền cấp quốc gia, cấp ngành, lĩnh vực và tại các đối tượng báo cáo.
2.3.3. Giải pháp 2C: Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Theo đó, quy định về nguyên tắc áp dụng các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro; quy định trách nhiệm về đánh giá rủi ro; việc sử dụng kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, lĩnh vực và từng đối tượng báo cáo; quy định về việc phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro để áp dụng biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường; quy định về việc triển khai xây dựng và áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát về PCRT phải căn cứ trên kết quả đánh giá rủi ro. Đồng thời, quy định Chính phủ quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền. Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các đối tượng báo cáo thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền tại tổ chức.
2.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
2.4.1. Giải pháp 2A: Giữ nguyên hiện trạng
a) Tác động về kinh tế
- Chi phí: Giải pháp này gần như không làm phát sinh thêm chi phí cho xã hội, các bộ, ngành và các đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, về lâu dài, việc không thực hiện triệt để phương pháp tiếp cận về PCRT trên cơ sở rủi ro có thể gây lãng phí chi phí và nguồn nhân lực do dàn trải nhân lực, thời gian cho tất cả các lĩnh vực, đối tượng, gây giảm hiệu quả của công tác PCRT.
- Lợi ích: Các bộ, ngành, đối tượng báo cáo sẽ không bị phát sinh chi phí, nhân lực cho việc triển khai thực hiện đánh giá rủi ro theo ngành, lĩnh vực và đánh giá tại tổ chức cũng như chi phí xây dựng, triển khai mô hình thanh tra, giám sát PCRT trên cơ sở rủi ro.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không có.
- Mặt tiêu cực: Việc triển khai đánh giá rủi ro rửa tiền cấp quốc gia, ngành, lĩnh vực có thể không được triển khai hoặc triển khai không được toàn diện, không có sự thống nhất, nhất quán theo những hướng dẫn và quy định chung.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi: Việc giữ nguyên quy định như hiện tại sẽ không tạo được khung pháp lý toàn diện, đồng bộ để triển khai thực hiện đánh giá rủi ro rửa tiền định kỳ cấp quốc gia, ngành và tại tổ chức báo cáo và không thể áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro tại các đối tượng báo cáo cũng như tại cơ quan có thẩm quyền.
- Về tính tương thích với khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc giữ nguyên quy định như hiện tại không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF.
2.4.2. Giải pháp 2B:
Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT theo định hướng sau:
+ Bổ sung các quy định về nghĩa vụ định kỳ đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, lĩnh vực, đối tượng báo cáo; trách nhiệm của đối tượng báo cáo, cơ quan có thẩm quyền trong triển khai đánh giá rủi ro định kỳ về rửa tiền; nguyên tắc sử dụng kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, lĩnh vực và từng đối tượng báo cáo.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro (Điều 12 Luật PCRT) để quy định đầy đủ hơn về yêu cầu áp dụng biện pháp nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường tương ứng với nhóm khách hàng, lĩnh vực được phân loại có rủi ro thấp, trung bình hay cao về rửa tiền; xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phù hợp.
+ Bổ sung, sửa đổi quy định về việc xây dựng, áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát về PCRT căn cứ kết quả đánh giá rủi ro.
+ Quy định nguyên tắc về việc ban hành tiêu chí đánh giá rủi ro rửa tiền cấp quốc gia, cấp ngành, lĩnh vực và việc hướng dẫn đánh giá tại các đối tượng báo cáo.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Việc định kỳ thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành, lĩnh vực và tại từng đối tượng báo cáo sẽ phát sinh các chi phí ban đầu khi triển khai chương trình đánh giá rủi ro (chi phí xây dựng phương pháp đánh giá, thu thập thông tin, dữ liệu, chi phí nhân công).
- Lợi ích: Phương pháp trên cơ sở rủi ro sẽ góp phần tiết kiệm chi phí quản lý, tiết kiệm nguồn nhân lực cho công tác PCRT, tiết kiệm thời gian (do tập trung nhân lực, thời gian cho các lĩnh vực, đối tượng có rủi ro cao hơn; giảm thiểu nhân lực, thời gian cho các lĩnh vực, đối tượng có rủi ro thấp thay vì dàn trải nhân lực, thời gian cho tất cả lĩnh vực, đối tượng) và đạt được hiệu quả cao hơn trong công tác PCRT. Kết quả đánh giá, xếp hạng về rủi ro rửa tiền ở phạm vi quốc gia, ngành, lĩnh vực là cơ sở để Chính phủ ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động về PCRT; các Bộ, ngành xây dựng được chính sách PCRT hợp lý trong ngành, lĩnh vực mình quản lý; từng đối tượng báo cáo xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa rửa tiền phù hợp, hiệu quả tương ứng với mức độ rủi ro của từng loại khách hàng, sản phẩm, dịch vụ của tổ chức mình.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này nhằm nâng cao hiểu biết về các rủi ro rửa tiền cho các đối tượng báo cáo, cơ quan quản lý và cho toàn xã hội (do các kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền sẽ được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng), qua đó nâng cao nhận thức chung về công tác PCRT, cũng như có phương án đưa ra nhằm hạn chế, giảm thiểu rủi ro đối với tổ chức, ngành và cả quốc gia.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Việc bổ sung quy định về việc định kỳ đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, lĩnh vực và tại từng tổ chức tại Luật PCRT sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro. Kết quả đánh giá, xếp hạng về rủi ro rửa tiền ở phạm vi quốc gia, ngành, lĩnh vực là cơ sở để Chính phủ ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động về PCRT; các Bộ, ngành xây dựng được chính sách PCRT hợp lý trong ngành, lĩnh vực mình quản lý; từng đối tượng báo cáo xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa rửa tiền phù hợp, hiệu quả tương ứng với mức độ rủi ro của từng loại khách hàng, sản phẩm, dịch vụ của tổ chức mình.
+ Việc thực hiện giải pháp này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với các quy định khác tại Luật PCRT và các quy định pháp luật liên quan.
+ Tuy nhiên, việc quy định về quy trình, tiêu chí đánh giá rủi ro trong Luật PCRT sẽ dẫn đến điều khoản luật quy định quá chi tiết và không mang tính linh hoạt khi cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các tiêu chí đánh giá rủi ro khi không còn phù hợp. Bên cạnh đó, tiêu chí đánh giá rủi ro từng ngành, lĩnh vực, tại từng đối tượng báo cáo có sự khác biệt nhất định, không thể có quy định chung áp dụng cho tất cả, dẫn đến có các quy định riêng trong luật điều chỉnh các lĩnh vực riêng biệt, điều này có thể ảnh hưởng đến tính bao quát, toàn diện của một văn bản Luật.
-Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về định kỳ đánh giá rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng đối tượng báo cáo; áp dụng các biện pháp thích hợp quản lý rủi ro về rửa tiền để phù hợp với các khuyến nghị có liên quan trong Bộ 40 khuyến nghị của FATF, cũng như các kiến nghị của Đoàn đánh giá APG đối với cơ chế PCRT/TTKB của Việt Nam. Cụ thể: Khuyến nghị số 1 là khuyến nghị đầu tiên, đặt nền móng trong việc tiếp cận công tác PCRT/TTKB và TTPBVKHD trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF chỉ ra: “Các quốc gia cần phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền... của quốc gia mình; cần thực hiện các biện pháp, bao gồm việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền hoặc thiết lập cơ chế nhằm phối hợp các hành động để đánh giá rủi ro và sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo rủi ro được quản lý một cách hiệu quả. Dựa trên đánh giá đó, các quốc gia cần áp dụng phương thức tiếp cận trên cơ sở rủi ro nhằm đảm bảo các biện pháp ngăn chặn hoặc giảm thiểu rửa tiền... phù hợp với rủi ro được xác định...Các quốc gia cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính và ngành nghề phi tài chính được chỉ định xác định, đánh giá và thực hiện các hành động có hiệu quả nhằm giảm thiểu rủi ro rửa tiền...”.
Nguyên tắc tiếp cận trên cơ sở rủi ro theo đó chi phối hầu hết các khuyến nghị có liên quan, trong đó có các khuyến nghị liên quan đến nhóm khách hàng có rủi ro cao (Những người có ảnh hưởng chính trị, Hoạt động ngân hàng đại lý, Công nghệ mới…) bên cạnh đó có Khuyến nghị số 10 của FATF yêu cầu áp dụng các biện pháp đơn giản hóa đối với khách hàng có rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố được xác định ở mức thấp. Như vậy, việc bổ sung tại Luật Phòng, chống rửa tiền các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền, đối tượng báo cáo trong việc quản lý, thanh tra, giám sát và thực hiện các nhiệm vụ có liên quan trên cơ sở đánh giá rủi ro về rửa tiền là một nhu cầu và yêu cầu tất yếu của Việt Nam.
2.4.3. Giải pháp 2C:
Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT theo định hướng sau:
+ Bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền. Theo đó định kỳ, Ngân hàng Nhà nước chủ trì thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền trong trường hợp có rủi ro phát sinh, trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm triển khai đánh giá, cập nhật rủi ro ngành về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tình hình thực tế hoạt động của ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành; phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc thẩm quyền quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định.
+ Bổ sung quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của quốc gia, ngành, báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền. Quy định đánh giá rủi ro rửa tiền tại đối tượng báo cáo tạo cơ sở để triển khai tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT tại tổ chức báo cáo và phù hợp với yêu cầu, thực tiễn triển khai việc phân loại khách tại các đối tượng báo cáo.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro, theo đó dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình, trong đó phải có nội dung về việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
a) Tác động về kinh tế: Tương tự như giải pháp 2B.
b) Tác động về xã hội: Tương tự như giải pháp 2B
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Việc bổ sung quy định về việc định kỳ đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, lĩnh vực và tại từng tổ chức tại Luật PCRT sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro. Kết quả đánh giá, xếp hạng về rủi ro rửa tiền ở phạm vi quốc gia, ngành, lĩnh vực là cơ sở để Chính phủ ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động về PCRT; các Bộ, ngành xây dựng được chính sách PCRT hợp lý trong ngành, lĩnh vực mình quản lý; từng đối tượng báo cáo xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa rửa tiền phù hợp, hiệu quả tương ứng với mức độ rủi ro của từng loại khách hàng, sản phẩm, dịch vụ của tổ chức mình.
+ Các quy định này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với quy định của pháp luật hiện hành về PCRT và quy định khác của pháp luật.
+ Quy định “Chính phủ quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền” và “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn các đối tượng báo cáo thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền tại tổ chức” sẽ tạo tính linh hoạt và phù hợp hơn trong quy định hướng dẫn; qua đó nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Tương tự như giải pháp 2B.
2.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 2C nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT, góp phần thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
3. Chính sách 3: Hoàn thiện các quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo và cơ quan có thẩm quyền
3.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Trong công tác PCRT, đối tượng báo cáo giữ vai trò quan trọng trong phát hiện và báo cáo các giao dịch đáng ngờ có thể liên quan đến rửa tiền/tài trợ khủng bố và hoạt động tội phạm khác cho cơ quan chức năng để thực hiện điều tra, truy tố, xét xử, kết án tội phạm rửa tiền, tài trợ khủng bố và các tội phạm nguồn khác của tội rửa tiền. Theo quy định của Luật PCRT hiện hành, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp PCRT, bao gồm: nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng; báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền các giao dịch vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ; lưu giữ và cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền phục vụ cho mục đích PCRT và phòng, chống các hoạt động tội phạm khác; áp dụng các biện pháp tạm thời theo thẩm quyền và theo yêu cầu của cơ quan chức năng nhằm kịp thời ngăn chặn, phong tỏa các giao dịch nhằm tẩu tán hoặc chuyển giao tiền, tài sản phạm tội; cơ quan có thẩm quyền (cơ quan hải quan) phải rà soát, báo cáo các giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý qua biên giới. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Luật PCRT cho thấy một số hạn chế trong quy định của pháp luật dẫn đến các biện pháp phòng ngừa rửa tiền được đối tượng báo cáo áp dụng chưa đạt được hiệu quả cao trong phát hiện và phòng ngừa các giao dịch nghi ngờ có liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố và hoạt động tội phạm khác; việc rà soát báo cáo các giao dịch bao gồm cả giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý qua biên giới còn gặp khó khăn về cách thức triển khai.
Bên cạnh đó, đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, Luật PCRT hiện hành vẫn chưa quy định đầy đủ, toàn diện theo các yêu cầu của FATF.
Những vấn đề còn tồn tại của Luật PCRT cụ thể như sau:
(i) Các quy định liên quan đến nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi chưa đầy đủ, chưa phù hợp với các yêu cầu của FATF, trong quá trình thực hiện còn phát sinh nhiều bất cập;
(ii) Các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement” tại Khuyến nghị của FATF, ngoài ra, trên thực tế, nội dung này chưa được triển khai thực hiện nhất quán, đồng bộ do chưa có quy định điều chỉnh chi tiết;
(iii) Quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh kinh doanh qua giới thiệu chưa phù hợp với khuyến nghị của FATF đã được sửa đổi, trong đó có nội dung sửa đổi liên quan đến khuyến nghị về việc dựa vào bên thứ ba.
(iv) Quy định về quan hệ đại lý chưa đầy đủ, hiện chưa có quy định về các biện pháp phải áp dụng khi đối tượng báo cáo thực hiện vai trò là ngân hàng đại lý; thiếu các quy định yêu cầu đối tượng báo cáo phải đảm bảo ngân hàng đối tác không cho phép tài khoản của đối tượng báo cáo được sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc;
(vi) Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn chưa làm rõ việc khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có phải áp dụng công nghệ đổi mới phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng, chưa phù hợp với chuẩn mực của FATF;
(vii) Quy định về nghĩa vụ và cách thức báo cáo các giao dịch có giá trị lớn vượt ngưỡng quy định (giao dịch tiền mặt giá trị lớn, chuyển tiền điện tử trong nước, quốc tế) còn có bất cập trong quá trình áp dụng liên quan đến khả năng thu thập được các thông tin để báo cáo của đối tượng báo cáo đặc biệt là đối với các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế;
(ix) Quy định về thời hạn báo cáo, bảo mật thông tin, lưu giữ thông tin còn chưa rõ ràng, một số nội dung chưa có quy định;
(x) Ngoài ra, các quy định về cơ chế kiểm soát nội bộ PCRT: quy định trách nhiệm và cơ chế kiểm soát nội bộ giữa các chi nhánh, công ty con, công ty liên kết trong cùng tập đoàn về hoạt động PCRT cần được quy định cụ thể hơn.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Nếu các quy định pháp lý về các vấn đề nêu trên không được sửa đổi, bổ sung tại Luật PCRT, việc thực hiện các biện pháp PCRT của các đối tượng báo cáo sẽ không đầy đủ, toàn diện, đồng thời sẽ khó khăn trong việc triển khai công tác PCRT một cách hiệu quả; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo gặp khó khăn, dẫn đến việc thu thập thông tin có thể không đầy đủ, thông tin, dữ liệu được thu thập không được phân tích, sử dụng hiệu quả phục vụ cho công tác PCRT. Những hậu quả này kết hợp với các thiếu sót về các lĩnh vực khác có liên quan, Việt Nam có thể sẽ bị FATF đưa vào danh sách các nước có những thiếu hụt nghiêm trọng trong cơ chế PCRT.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ, chi tiết về các biện pháp phòng ngừa mà đối tượng báo cáo phải thực hiện. Bên cạnh đó, các khuyến nghị của FATF đã được sửa đổi nhiều lần như đã đề cập ở trên, các quy định của Luật PCRT chưa được sửa đổi, điều chỉnh phù hợp.
3.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo hành lang pháp lý đầy đủ, toàn diện cho đối tượng báo cáo thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp phòng, ngừa rửa tiền, giúp phát hiện, báo cáo và ngăn chặn kịp thời các giao dịch liên quan đến rửa tiền và các tội phạm tiền thân của tội rửa tiền; góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, ngừa rửa tiền.
3.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
3.3.1. Giải pháp 3A: Giữ nguyên hiện trạng.
3.3.2. Giải pháp 3B: Sửa đổi và bổ sung các quy định về các biện pháp PCRT được đối tượng báo cáo áp dụng, gồm: nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng của đối tượng báo cáo; rà soát, phát hiện và báo cáo cơ quan PCRT thuộc NHNN các giao dịch vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ; lưu giữ thông tin khách hàng và cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền phục vụ cho mục đích PCRT và phòng, chống các hoạt động tội phạm khác; áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật; trách nhiệm của cơ quan có liên quan trong khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới; trách nhiệm của NHNN trong tiếp nhận và xử lý thông tin; cách thức báo cáo; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo.
3.3.3. Giải pháp 3C:Sửa đổi và bổ sung các quy định về các biện pháp PCRT được đối tượng báo cáo áp dụng, gồm: nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng của đối tượng báo cáo; rà soát, phát hiện và báo cáo cơ quan PCRT thuộc NHNN các giao dịch vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ; lưu giữ thông tin khách hàng và cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền phục vụ cho mục đích PCRT và phòng, chống các hoạt động tội phạm khác; áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật. Sửa đổi, bổ sung quy định về việc khai báo, cung cấp thông tin các giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý qua biên giới, bao gồm các quy định về (i) bổ sung đơn vị có trách nhiệm tiếp nhận thông tin khai báo hải quan trong trường hợp nơi khai báo không có cơ quan hải quan thì khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển và (ii) trách nhiệm của Hải quan, Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển phải lưu trữ thông tin thu thập được tại khoản 1 và cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và NHNN khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, TTKB, TTPBVKHD.
3.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
3.4.1. Giải pháp 3A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
Nếu giữ nguyên hiện trạng quy định của pháp luật, việc thực hiện các biện pháp PCRT của đối tượng báo cáo sẽ không đầy đủ, toàn diện; đối tượng báo cáo sẽ tăng nguy cơ bị tội phạm rửa tiền lợi dụng để rửa tiền do cơ chế PCRT còn hạn chế. Các đối tượng báo cáo đặc biệt là các tổ chức tài chính như các ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm có thể bị ảnh hưởng đến việc xếp hạng uy tín hoạt động do chương trình, chính sách phòng, chống rửa tiền áp dụng tại tổ chức còn thiếu hụt. Theo đó, các tổ chức tài chính có thể gặp các tác động tiêu cực khi thiết lập các mối quan hệ kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Đặc biệt, trong lĩnh vực ngân hàng, việc các ngân hàng bị đánh giá có thiếu hụt trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thiết lập và duy trì quan hệ ngân hàng đại lý với các tổ chức tín dụng ở nước ngoài. Tác động này ảnh hưởng trực tiếp đến các giao dịch tài chính, ngân hàng, làm tăng chi phí các giao dịch thanh toán quốc tế, gián tiếp ảnh hưởng đến các hoạt động thanh toán, kinh doanh, xuất nhập khẩu của các cá nhân, tổ chức Việt Nam với các đối tác nước ngoài.
Bên cạnh đó, Việt Nam có thể sẽ bị FATF đưa vào danh sách các nước có những thiếu hụt nghiêm trọng trong cơ chế PCRT do không có biện pháp khắc phục những thiếu hụt về mặt pháp lý đã được chỉ ra trong báo cáo đánh giá của Đoàn đánh giá APG về cơ chế PCRT của Việt Nam. Khi một quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực. Cụ thể, theo nghiên cứu của IMF
[2], quốc gia bị rơi vào Danh sách Xám sẽ bị giảm sút đáng kể luồng vốn đầu tư của nước ngoài vào quốc gia đó (khoảng 7,6% trên tổng GDP cả nước). Khi đó, giao dịch tài chính ra nước ngoài của các tổ chức tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán...) tại quốc gia này sẽ bị các nước tính phí cao hơn và giao dịch sẽ phải chịu sự rà soát tăng cường. Các chi phí này ước tính có thể lên tới hàng triệu USD tùy thuộc quy mô nền kinh tế.
- Lợi ích: Không làm phát sinh thêm chi phí để các đối tượng báo cáo sửa đổi chính sách, bố trí nhân lực thực hiện quy trình triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về mặt xã hội của giải pháp này hầu như không tăng thêm.
- Mặt tiêu cực: Quy định về các biện pháp PCRT còn thiếu hụt, các biện pháp PCRT toàn diện, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế chưa được đối tượng báo cáo thực hiện đầy đủ, có thể dẫn đến việc các đối tượng báo cáo bị lợi dụng để rửa tiền, gia tăng tội phạm về rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi: Khung pháp lý quy định cho đối tượng báo cáo thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền; cơ quan thẩm quyền thực hiện việc rà soát, thu thập, báo cáo và xử lý thông tin báo cáo về các giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý qua biên giới chưa được quy định toàn diện và đồng bộ. Do vậy, điều này ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền nói riêng và công tác PCRT nói chung.
- Về tính tương thích với khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc không sửa đổi, bổ sung các quy định về biện pháp phòng ngừa rửa tiền tại Luật PCRT không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT.
3.4.2. Giải pháp 3B: Sửa đổi các quy định hiện hành về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng; báo cáo, cung cấp và lưu giữ thông tin; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo các định hướng sau:
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng (Điều 9, Điều 10 và Điều 11 Luật PCRT) theo hướng đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với các yêu cầu của 40 Khuyến nghị của FATF; chỉnh sửa các quy định liên quan đến chủ sở hữu hưởng lợi (cách xác định, các yêu cầu thu thập thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi); bổ sung các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận pháp lý.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP) thông qua việc bổ sung PEP của các tổ chức quốc tế, những người có liên quan và các biện pháp áp dụng tương ứng.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về ngân hàng đại lý: quy định các biện pháp phải áp dụng khi đối tượng báo cáo thực hiện vai trò là ngân hàng đại lý.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về giám sát đặc biệt giao dịch.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về báo cáo giao dịch đáng ngờ, mở rộng các dấu hiệu cảnh báo về giao dịch đáng ngờ; sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ và cách thức báo cáo các giao dịch có giá trị lớn vượt ngưỡng quy định (giao dịch tiền mặt giá trị lớn, chuyển tiền điện tử trong nước, quốc tế); quy định Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ quy định, bổ sung các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực có thể phát sinh trong từng thời kỳ.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới theo hướng xác định loại kim loại quý, đá quý thuộc đối tượng phải thống kê, báo cáo theo quy định của pháp luật PCRT; trách nhiệm của cơ quan hải quan trong tổ chức và quản lý thông tin dữ liệu khai báo hải quan, chia sẻ thông tin dữ liệu khai báo hải quan cho cơ quan có thẩm quyền vì mục đích PCRT; trách nhiệm của Cơ quan PCRT thuộc NHNN trong tiếp nhận và xử lý thông tin; cách thức tính toán, xác định giá trị kim loại quý, đá quý vượt ngưỡng quy định phải báo cáo; cách thức báo cáo; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo.
+ Bổ sung quy định về cơ chế kiểm soát nội bộ phòng, chống rửa tiền: quy định trách nhiệm và cơ chế kiểm soát nội bộ giữa các chi nhánh, công ty con, công ty liên kết trong cùng tập đoàn về hoạt động PCRT.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng quy định cụ thể hơn về cách thức, thẩm quyền áp dụng; bổ sung hướng dẫn rà soát giao dịch liên quan tới danh sách đen.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Việc thực hiện chính sách này sẽ làm phát sinh thêm các chi phí, cụ thể:
+ Chi phí phát sinh cho các đối tượng báo cáo bao gồm: chi phí để nghiên cứu, sửa đổi các chính sách, quy trình nội bộ phù hợp với các quy định mới của pháp luật; chi phí thiết lập lại hệ thống, quy trình báo cáo, quy trình nghiệp vụ trong trường hợp đối tượng báo cáo áp dụng công nghệ thông tin như các chương trình phần mềm nghiệp vụ về phòng, chống rửa tiền; chi phí đào tạo bổ sung và đào tạo lại cán bộ về phòng, chống rửa tiền; các đối tượng báo cáo có thể phải bố trí bổ sung nhân sự hoặc tuyển dụng nhân sự mới để thực hiện quy trình triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mới bổ sung.
+ Chi phí phát sinh cho các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tài chính, NHNN, Bộ Quốc phòng,...) bao gồm: chi phí thiết lập hệ thống, trang bị máy móc, phương tiện để sàng lọc, xác định giá trị kim loại quý, đá quý vượt ngưỡng phải báo cáo; xử lý thông tin, dữ liệu báo cáo đưa ra các kết quả, phát hiện phục vụ công tác PCRT; chi phí bổ sung thêm nguồn nhân lực, đào tạo nghiện vụ cho cán bộ thực hiện các công việc nêu trên.
+ Chi phí phát sinh cho tổ chức, cá nhân bao gồm: chi phí thời gian, nhân lực thực hiện khai báo hải quan về các giao dịch qua biên giới. Tuy nhiên, các chi phí này là không đáng kể.
- Lợi ích:
Chính sách được thực hiện sẽ hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng cụ thể, chi tiết và rõ ràng tạo điều kiện cho đối tượng báo cáo thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa về rửa tiền. Việc các đối tượng báo cáo thực hiện tốt biện pháp phòng ngừa trong PCRT đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác phòng ngừa, phát hiện các giao dịch đáng ngờ liên quan tới rửa tiền, đồng thời, giảm thiểu nguy cơ các đối tượng báo cáo bị tội phạm lợi dụng để rửa tiền. Các báo cáo giao dịch giá trị lớn vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ được phát hiện và được báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền là cơ sở cho việc phát hiện, điều tra, truy tố xét xử tội phạm rửa tiền, tham nhũng và các tội phạm nguồn của tội rửa tiền. Qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm rửa tiền và tham nhũng.
Ngoài ra, việc đối tượng báo cáo có các chương trình PCRT hiệu quả, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đối tượng báo cáo trong quan hệ kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, uy tín của các tổ chức tài chính được xếp hạng cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc thiết lập các mối quan hệ với các đối tác ở nước ngoài, ví dụ như thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý...
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này được thực hiện sẽ góp phần giảm thiểu nguy cơ các đối tượng báo cáo bị tội phạm lợi dụng để rửa tiền; qua đó, giảm thiểu các hoạt động tội phạm rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, tạo lập môi trường xã hội an toàn. Không có tác động tiêu cực về mặt xã hội.
- Tác động tiêu cực về xã hội của giải pháp này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Về cơ bản việc hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng cụ thể, chi tiết và rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho đối tượng báo cáo thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa về rửa tiền và sẽ không làm phát sinh các công việc mới. Các nội dung đề xuất sửa đổi các quy định tại Luật PCRT về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền được xây dựng theo hướng nhằm giải quyết được các vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi các biện pháp PCRT tại Luật PCRT, đảm bảo tính khả thi của các quy định và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức báo cáo triển khai trách nhiệm của mình trong công tác PCRT hiệu quả.
+ Các quy định này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với quy định của pháp luật hiện hành về PCRT và quy định khác của pháp luật.
+ Tuy nhiên, cách thức tính toán, xác định giá trị kim loại quý, đá quý vượt ngưỡng quy định phải báo cáo; cách thức báo cáo; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo trong Luật PCRT sẽ dẫn đến điều khoản luật quy định quá chi tiết và không mang tính linh hoạt khi cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các quy định khi có các tình huống thay đổi, phát sinh trong tương lai. Mặt khác, quy định về cách thức tính toán, cách thức xử lý thông tin, dữ liệu là những quy định mang tính nghiệp vụ, kỹ thuật và chuyên biệt nên được hướng dẫn quy định bởi các bộ, ngành chuyên ngành trong các văn bản dưới luật.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về áp dụng các biện pháp phòng ngừa đối với đối tượng báo cáo để phù hợp với các khuyến nghị có liên quan trong Bộ 40 khuyến nghị của FATF, cũng như các kiến nghị của Đoàn đánh giá APG đối với cơ chế PCRT/TTKB của Việt Nam. Cụ thể: khuyến nghị 10 quy định về việc xác định chủ sở hữu hưởng lợi và thu thập thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi khi đối tượng báo cáo thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng; từ khuyến nghị 13 đến khuyến nghị 23 quy định về các hoạt động ngân hàng đại lý, giao dịch liên quan tới công nghệ mới, báo cáo giao dịch…
3.4.3. Giải pháp 3C: Sửa đổi các quy định hiện hành về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, về các sản phẩm, dịch vụ mới, áp dụng công nghệ đổi mới, về cá nhân có ảnh hưởng chính trị, về trách nhiệm báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin và xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền. theo các định hướng sau:
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng (Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13 và Điều 14 Luật PCRT) theo hướng đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với các yêu cầu của 40 Khuyến nghị của FATF; chỉnh sửa các quy định liên quan đến thỏa thuận pháp lý, minh bạch pháp nhân, minh bạch hoạt động của các tổ chức lợi nhuận..
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP) bao gồm PEP của các tổ chức quốc tế và những người có liên quan đến PEP và các biện pháp tương ứng.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về quan hệ ngân hàng đại lý: quy định các biện pháp phải áp dụng khi đối tượng báo cáo thực hiện vai trò là ngân hàng đại lý (không chỉ trường hợp đối tượng báo cáo thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với ngân hàng đối tác nước ngoài).
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về giám sát một số giao dịch đặc biệt.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ và cách thức báo cáo các giao dịch có giá trị lớn vượt ngưỡng quy định (giao dịch tiền mặt giá trị lớn, chuyển tiền điện tử trong nước, quốc tế).
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới; và các trách nhiệm có liên quan.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về quy định nội bộ, thời hạn, hình thức, cách thức thực hiện báo cáo về PCRT.
a) Tác động về kinh tế: Tương tự như giải pháp 3B
b) Tác động về xã hội: Tương tự như giải pháp 3B
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Các nội dung đề xuất sửa đổi các quy định tại Luật PCRT về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền được xây dựng theo hướng nhằm giải quyết được các vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi các biện pháp PCRT tại Luật PCRT, đảm bảo tính khả thi của các quy định và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức báo cáo triển khai trách nhiệm của mình trong công tác phòng, chống rửa tiền hiệu quả.
+ Một số nội dung mang tính kỹ thuật liên quan đến các trường hợp nhận biết khách hàng, tiêu chí xác định chủ sở hữu hưởng lợi như quy định về cách thức thu thập, xử lý thông tin, dữ liệu; bổ sung dấu hiệu giao dịch đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực,… quy định theo hướng giao Chính phủ, Bộ quy định cụ thể tại văn bản dưới luật. Quy định trong các văn bản hướng dẫn luật các nội dung này cũng tạo sự linh hoạt trong các quy định, có thể sửa đổi, bổ sung kịp thời theo các yêu cầu thực tiễn phát sinh, do vậy, góp phần nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật.
+ Việc thực hiện giải pháp này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với quy định khác tại Luật PCRT và các quy định pháp luật liên quan.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Tương tự như giải pháp 3B.
3.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 3C nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, tạo điều kiện cho các đối tượng báo cáo thực hiện tốt công tác PCRT.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
4. Chính sách 4: Hoàn thiện các quy định để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền của NHNN
4.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Hiện nay, theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật PCRT đều giao NHNN chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về PCRT. Tại NHNN, Cơ quan, Thanh tra, giám sát ngân hàng đang được giao thực hiện nhiệm vụ này và Cục Phòng, chống rửa tiền là đơn vị thuộc Cơ quan, Thanh tra, giám sát ngân hàng được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về PCRT. Điều này không phù hợp với khuyến nghị của FATF và yêu cầu của thực tiễn triển khai công tác PCRT hiện nay. Tại khuyến nghị 29 của FATF yêu cầu mỗi quốc gia cần phải thành lập đơn vị tình báo tài chính (FIU), trong đó FIU cần phải được trao đầy đủ thẩm quyền để thu thập các thông tin từ các tổ chức báo cáo, truy cập một cách kịp thời các thông tin tài chính và thực thi pháp luật để thực hiện tốt 3 chức năng chính là (i) tiếp nhận, (ii) phân tích, và (iii) chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố một cách độc lập.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG năm 2022, APG đã chỉ ra việc Cục trưởng Cục PCRT chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và Thống đốc NHNN về mọi hoạt động của Cục PCRT là chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để Cục PCRT thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự chủ; việc Cục PCRT nằm trong CQTTGSNH có thể dẫn đến một số quan ngại về vấn đề bảo mật thông tin và lo ngại về tính độc lập trong hoạt động của FIU, vốn được coi trọng đặc biệt. Trên cơ sở đó, APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền và tính độc lập cho Cục PCRT để nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Quy định về việc hiện nay sẽ gây khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của cơ quan đảm nhiệm vai trò đầu mối quốc gia trong công tác thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT.
Với mô hình tổ chức, vị trí, chức năng của Cục PCRT hiện nay, chưa đáp ứng được yêu cầu về tính độc lập của FIU theo chuẩn mực quốc tế, là một trong lý do chính mà Việt Nam chưa gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont) mặc dù đã có đơn gia nhập và đã được công nhận là quan sát viên của Nhóm Egmont từ năm 2010. Do vậy, khuyến nghị 29 – khuyến nghị trung tâm trong công tác về PCRT sẽ tiếp tục bị APG đánh giá chưa tuân thủ đầy đủ.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Nguyên nhân chính gây ra vấn đề là việc giao nhiệm vụ về PCRT tại Luật NHNN chưa đáp ứng được các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế và chưa phù hợp với thực tiễn triển khai.
4.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo hành lang pháp lý đầy đủ để NHNN phân công thực hiện chức năng phân tích, xử lý, chuyển giao và trao đổi thông tin về PCRT một cách phù hợp, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động PCRT của NHNN.
4.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
4.3.1. Giải pháp 4A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
4.3.2. Giải pháp 4B: Sửa đổi, bổ sung các quy định khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền trong trách nhiệm của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
4.3.2. Giải pháp 4C: Sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT hiện hành theo hướng quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc NHNN gắn với các chức năng thu thập, xử lý, chuyển giao thông tin về PCRT; trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước trong việc thực hiện công tác PCRT; giám sát, cảnh báo về PCRT.
4.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
4.4.1. Giải pháp 4A: Giữ nguyên hiện trạng
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Hiệu quả triển khai trách nhiệm của NHNN trong công tác PCRT còn hạn chế, dẫn đến công tác chuyển giao thông tin về giao dịch đáng ngờ cho cơ quan có thẩm quyền chưa thực sự hiệu quả, hoạt động hợp tác trong nước và hợp tác quốc tế về PCRT gặp nhiều khó khăn.
- Lợi ích: Không làm phát sinh thêm chi phí để tổ chức lại bộ máy, triển khai thực hiện trách nhiệm đầu mối quốc gia về PCRT.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về xã hội của giải pháp này hầu như không tăng thêm.
- Mặt tiêu cực: Hiệu quả hoạt động của cơ quan đầu mối về PCRT hạn chế sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả công tác PCRT nói chung đặc biệt là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền, có thể góp phần dẫn đến môi trường xã hội thiếu an toàn, minh bạch.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi: Việc giữ nguyên quy định pháp luật hiện hành sẽ không tạo được khung pháp lý phù hợp cho hoạt động thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT; hợp tác trong nước và quốc tế về PCRT của NHNN.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc giữ nguyên quy định pháp luật hiện hành sẽ không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT.
4.4.2. Giải pháp 4B:Sửa đổi, bổ sung các quy định khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền trong trách nhiệm của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
(i) Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc thực hiện chính sách này sẽ phát sinh thêm chi phí do việc tổ chức lại bộ mày. Tuy nhiên, chi phí này không lớn do đơn vị thực hiện chức năng phân tích, xử lý, chuyển giao và trao đổi thông tin về PCRT đã được thành lập và vận hành từ thời điểm cơ chế PCRT bắt đầu có ở Việt Nam (hơn 15 năm qua), đơn vị này đã có tổ chức, bộ máy và nhân sự để thực hiện nhiệm vụ, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị đầu mối của Ngân hàng Nhà nước về PCRT này sẽ không làm phát sinh nhiều chi phí.
(ii) Đối với đối tượng báo cáo, giải pháp này không gây cản trở đến hoạt động bình thường của các tổ chức, cá nhân là đối tượng báo cáo.
- Lợi ích:
Việc việc tách chức năng PCRT ra khỏi CQTTGSNH tạo cơ sở nâng cấp Cục PCRT thành đơn vị thuộc NHNN là cần thiết. Theo đó, công tác PCRT được đẩy mạnh do quy định rõ ràng, phù hợp với thực tiễn, thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoạt động phân tích và chuyển giao thông tin PCRT được nâng cao chất lượng, do đó, nguồn thông tin chuyển giao từ cơ quan đầu mối về PCRT của Ngân hàng Nhà nước cho các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan điều tra, toà án, viện kiểm sát... được gia tăng thêm giá trị và chất lượng, qua đó hỗ trợ, thúc đẩy công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này được thực hiện sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động PCRT của NHNN, nâng cao hiệu quả chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT cho cơ quan có thẩm quyền. Qua đó, chính sách này sẽ thúc đẩy công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền; giảm thiểu các hoạt động tội phạm rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, tạo lập môi trường xã hội an toàn.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về mặt xã hội của giải pháp này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi:
Việc thực hiện giải pháp này sẽ tạo khung pháp lý toàn diện, đồng bộ cho các hoạt động thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT; hợp tác trong nước và quốc tế về PCRT; cảnh báo, giám sát trong PCRT, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị đầu mối về PCRT thuộc NHNN.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập, phân tích, chuyển giao thông tin về PCRT; hợp tác trong nước và quốc tế về PCRT, giám sát về PCRT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đầu mối về PCRT. Quy định này để phù hợp với khuyến nghị 29 và một số khuyến nghị liên quan về chức năng, thẩm quyền của đơn vị tình báo tài chính với vai trò là cơ quan đầu mối trong công tác PCRT của một quốc gia. Việc sửa đổi các quy định này cũng nhằm khắc phục những khuyết thiếu trong quy định của pháp luật cũng như hạn chế về hiệu quả hoạt động của đơn vị tình báo tài chính của Việt Nam đã được Đoàn đánh giá APG nhận định trong báo cáo đánh giá về cơ chế PCRT của Việt Nam. Điều này cũng góp phần tạo cơ sở Việt Nam gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont), ký kết Bản ghi nhớ (MOU) để trao đổi thông tin về PCRT.
4.4.3. Giải pháp 4C: Sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT hiện hành theo hướng kết cấu một mục riêng tại Luật PCRT quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc NHNN gắn với các chức năng thu thập, xử lý, chuyển giao thông tin về PCRT; trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước trong việc thực hiện công tác PCRT; giám sát, cảnh báo về PCRT.
a) Tác động về kinh tế: Tương tự như giải pháp 4B
b) Tác động về xã hội: Tương tự như giải pháp 4B
b) Tác động về pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi:
Quy định về vị trí, chức năng và thẩm quyền của cơ quan đầu mối trong công tác PCRT sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đầu mối về PCRT thuộc NHNN với vai trò là cơ quan đầu mối tham mưu, triển khai thực hiện công tác PCRT. Tuy nhiên, việc quy định về đơn vị đầu mối thực hiện chức năng về PCRT không phù hợp với chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong sắp xếp, tổ chức bộ máy của nhà nước.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Tương tự như giải pháp 4B.
4.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 4B nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng trong công tác thu thập, phân tích, chuyển giao và trao đổi thông tin về PCRT, củng cố vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan tích cực tham gia trong công tác PCRT.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
5. Chính sách 5: Sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
5.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Hiện nay, Luật PCRT đã có Chương III quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền gồm: trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, các cơ quan khác của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp (Nghị định số 116/2013/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật PCRT đã quy định bổ sung trách nhiệm của Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Tuy nhiên, điều này cần được luật hóa tại Luật để đảm bảo tính thống nhất. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực dự kiến được bổ sung đối tượng báo cáo như đề xuất ở Chính sách 1 cũng cần phải quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền đối với các lĩnh vực mới này. Ngoài ra một số trách nhiệm mới của một số bộ, ngành như đánh giá rủi ro, thanh tra, giám sát căn cứ vào kết quả đánh giá rủi ro, trách nhiệm đối với những lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý cần được quy định cụ thể.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Nếu không quy định chức năng, nhiệm vụ quản lý, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực cụ thể và các lĩnh vực mới bổ sung (theo Chính sách 1) trong Luật PCRT thì các đối tượng báo cáo trong các lĩnh vực này sẽ không được thanh tra, giám sát đầy đủ về PCRT, dẫn đến những kẽ hở mà tội phạm có thể lợi dụng lĩnh vực hoạt động này để thực hiện các hành vi phạm tội, trong đó có hành vi rửa tiền. Ngoài ra, không có cơ sở để các bộ, ngành triển khai trách nhiệm mới liên quan đến kết nối, cung cấp, chia sẻ thông tin về phòng, chống rửa tiền.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Nguyên nhân chính gây ra vấn đề là chưa quy định chức năng, nhiệm vụ quản lý, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền đối với một số lĩnh vực thuộc quyền quản lý của các bộ, ngành và các lĩnh vực có rủi ro tiềm ẩn và quy định liên quan đến các trách nhiệm mới đặt ra.
5.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan trong công tác PCRT và trách nhiệm đối với các đối tượng báo cáo, các nhiệm vụ mới phát sinh.
5.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
5.3.1. Giải pháp 5A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
5.3.2. Giải pháp 5B: Sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác PCRT.
5.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
5.4.1. Giải pháp 5A: Giữ nguyên hiện trạng
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Không quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro ngành, lĩnh vực đối với các cơ quan quản lý sẽ dẫn đến việc không có cơ sở triển khai đồng bộ. Bên cạnh đó, công tác giám sát, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ thực hiện quy định phòng, chống rửa tiền đối với các đối tượng báo cáo trong một số lĩnh vực sẽ không được triển khai thực hiện, dẫn đến khả năng rất lớn những lĩnh vực này dễ bị tội phạm lợi dụng để thực hiện các hoạt động phi pháp, trong đó có hoạt động rửa tiền.
- Lợi ích: Không làm phát sinh thêm chi phí để các bộ, ngành liên quan đào tạo nhân lực thực hiện công tác PCRT.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về xã hội của giải pháp này hầu như không có.
- Mặt tiêu cực: Việc không quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc đánh giá rủi ro ngành, lĩnh vực và không quy định về trách nhiệm của một số bộ ngành trong việc thanh tra, giám sát đối với các đối tượng báo cáo trong một số lĩnh vực sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả trong thực hiện các biện pháp PCRT, thanh tra, giám sát về PCRT, tác động tiêu cực đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và có thể góp phần dẫn đến môi trường xã hội thiếu an toàn.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
Việc giữ nguyên quy định hiện hành sẽ dẫn đến việc không có đầy đủ quy định pháp lý quy định cơ quan quản lý nhà nước về PCRT đối với lĩnh vực quản lý và những lĩnh vực mới phát sinh nên không có cơ chế đầy đủ để quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các lĩnh vực này và căn cứ để triển khai các nhiệm vụ mới.
5.4.2. Giải pháp 5B: Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về:
+ Trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc triển khai các biện pháp PCRT, công tác thanh tra, giám sát về PCRT đối với từng loại hình đối tượng báo cáo bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
+ Trách nhiệm của các Bộ, ngành trong quản lý về PCRT với những lĩnh vực mới phát sinh đối tượng báo cáo bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
+ Cung cấp thông tin về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: quy định cơ chế hợp tác, chia sẻ, cung cấp thông tin giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về PCRT, tài trợ khủng bố.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
Về việc phát sinh thêm nguồn nhân lực:
Việc sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT hầu như không làm phát sinh thêm hoặc làm thay đổi cơ cấu, bộ máy tại các bộ, ngành. Luật PCRT hiện hành đã phân định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền đối với phần lớn các lĩnh vực quản lý nhà nước. Hiện nay, ngoại trừ Ngân hàng Nhà nước có bộ máy chuyên trách về PCRT, nhân lực và bộ máy làm công tác này tại hầu hết các bộ, ngành đều là kiêm nhiệm. Đối với các cơ quan có vai trò lớn trong công tác PCRT gồm Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an, việc triển khai mạnh mẽ và đồng bộ công tác PCRT sẽ làm gia tăng khối lượng báo cáo, yêu cầu xử lý thông tin và đương nhiên phải có một nguồn lực đủ (bao gồm cả nhân lực, vật lực chú trọng đến công nghệ cao). Tuy nhiên, yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực cho Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an đã được thể hiện tại Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014; Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 474/QĐ-TTg ngày 30/4/2019. Các yêu cầu này đang được triển khai trên thực tế. Về cơ bản, việc triển khai chính sách này vẫn đảm bảo đúng với chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Lợi ích: Công tác PCRT được đẩy mạnh áp dụng đến tất cả các bộ, ngành, cơ quan liên quan (tòa án, viện kiểm sát) trong thể chế chính trị; góp phần đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này được thực hiện sẽ thúc đẩy công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền; qua đó, giảm thiểu các hoạt động tội phạm rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, tạo lập môi trường xã hội an toàn.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về xã hội của giải pháp này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực hiện công tác PCRT được đề xuất phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ, ngành, do đó đảm bảo tính thống nhất với các quy định pháp luật có liên quan và tính khả thi.
5.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 5B nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, củng cố vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan tích cực tham gia trong công tác PCRT.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
6. Đánh giá chung về các chính sách
6.1. Về tác động của thủ tục hành chính
Các chính sách được đề xuất không làm phát sinh thủ tục hành chính.
6.2. Về tác động về giới
Các chính sách được đề xuất không có tác động đến các vấn đề về bình đẳng giới.
6.3. Về tính tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan
Nhìn chung, các chính sách được đề xuất không trái với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, gồm Công ước Liên hiệp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC), Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố.
III. LẤY Ý KIẾN
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tổ chức lấy ý kiến đối với nội dung đánh giá tác động của chính sách nêu trên qua 02 hình thức:
1. Gửi văn bản lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức liên quan, đối tượng chịu sự tác động của chính sách.
2. Đăng tải nội dung dự thảo báo cáo đánh giá tác động của chính sách lên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước để lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân.
IV. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
- Cơ quan giám sát: Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội; Hội đồng dân tộc; Ủy ban của Quốc hội; đại biểu Quốc hội.
- Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chính sách: Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Bộ, ngành có liên quan.
Trên đây là nội dung Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)./.
Báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012-2017 của Việt Nam và đánh giá của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) đối với cơ chế phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của Việt Nam năm 2019; Báo cáo số 255/BC-BTP ngày 29/10/2018 của Bộ Tư pháp về việc rà soát, đánh giá toàn diện thực trang pháp luật, thực tiễn về tài sản ảo ở Việt Nam và quốc tế; nhận diện, đề xuất các định hướng hoàn thiện
[2] IMF Working Paper WP/21/153.
BẢNG TỔNG HỢP TIẾP THU, GIẢI TRÌNH Ý KIẾN GÓP Ý CỦA VCCI VÀ ĐỐI TƯỢNG CHỊU TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN (SỬA ĐỔI)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0708-Tong-hop-GTTT-yk-VCCI-va-cac-doi-tuong-cua-dt-Luat-PCRTsd---20220927082905.doc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được giao chủ trì xây dựng dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) theo Phụ lục số 4 ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2022 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2022. Đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là dự thảo Luật) đã được Chính phủ thông qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội bổ sung dự thảo Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022 (theo Thông báo số 906/TB-TTKQH) và thông qua tại Kỳ họp thứ IV vào tháng 10/2022.
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung), ngày 03/6/2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã gửi công văn xin ý kiến Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các Hiệp hội đối với dự thảo Luật và dự thảo Tờ trình Chính phủ (Công văn số 3752/NHNN-PC).
Tính đến ngày 12/7/2022, Ngân hàng Nhà nước đã nhận được văn bản tham gia ý kiến của VCCI, 4 Hiệp hội và 9 TCTD. Trong đó, tổng số có 212 ý kiến góp ý (105 ý kiến cơ quan chủ trì soạn thảo đã tiếp thu và chỉnh sửa tại dự thảo Luật; 131 ý kiến cơ quan chủ trì soạn thảo giải trình nội dung quy định tại dự thảo Luật), nội dung cụ thể như sau:
STT
|
ĐIỀU
|
ĐƠN VỊ GÓP Ý
|
NỘI DUNG Ý KIẾN
|
Ý KIẾN TIẾP THU, GIẢI TRÌNH CỦA CƠ QUAN CHỦ TRÌ SOẠN THẢO
|
|
|
I
|
Ý KIẾN CỤ THỂ ĐỐI VỚI DỰ THẢO LUẬT
|
|
|
1
|
Điều 2
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Điều 22 đưa ra quy định điều chỉnh tính minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận tuy nhiên tổ chức phi lợi nhuận lại không là đối tượng điều chỉnh quy định tại điều 2.
Kiến nghị:
Kính đề nghị NHNN cân nhắc về đối tượng áp dụng.
|
Tổ chức phi lợi nhuận thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 2 về tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; PG Bank; Ngân hàng TNHH MTV Shinhan Shinhanbank
|
Theo quy định tại Luật Quốc tịch năm 2018 quy định: đã được sửa đổi, bổ sung 2014) thì người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài => Vì vậy, sẽ không tồn tại người nước ngoài là người không quốc tịch.
Trong khi đó, tại Khoản 3 Điều 2 Dự thảo đang đưa “người nước ngoài người không quốc tịch” là một trong các đối tượng áp dụng Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (PCRT), không phù hợp với cách xác định người không quốc tịch tại Luật Quốc tịch 2008.
Kiến nghị: Kiến nghị Ban Soạn thảo điều chỉnh lại Khoản 3 Điều 2 Dự thảo theo hướng tách rõ người nước ngoài và người không quốc tịch là hai đối tượng áp dụng riêng biệt, cụ thể như sau:
“3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam; người nước ngoài, người không quốc tịch; tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ có các giao dịch với tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”
|
Tiếp thu và đã bỏ cụm từ “người không quốc tịch” tại khoản 3 Điều 2 dự thảo Luật.
|
|
|
Hiệp hội Ngân hàng
|
Khoản 4 Điều 2 Dự thảo quy định đối tượng áp dụng gồm: “4. Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền.”
Kiến nghị: Để đảm bảo cơ chế áp dụng thống nhất và có cơ sở đảm bảo tuân thủ, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ “Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền” bao gồm các tổ chức cá nhân đáp ứng các tiêu chí/điều kiện nào.
|
Việc đưa ra các tiêu chí, điều kiện đối với các tổ chức, cá nhân khác liên quan đến PCRT là không cần thiết vì đây có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có liên quan đến hoạt động PCRT theo quy định của Luật này.
|
|
|
2
|
Điều 3
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB); Hiệp hội Ngân hàng
|
Đối với nội dung bổ sung theo Dự thảo “Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”:
Kiến nghị: đề nghị Dự thảo cần chỉnh sửa/ bổ sung quy định Luật này cần có văn bản hướng dẫn chỉ đạo phù hợp với các điều ước quốc tế hoặc cần có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các Tổ chức tín dụng áp dụng tuân thủ. Thực tế hiện nay, khi ban hành các văn bản nội bộ, các Tổ chức tín dụng (TCTD) chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam (luật, nghị định, thông tư) của các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam, trong trường hợp pháp luật Việt Nam trái với điều ước quốc tế, liệu có áp dụng chế tài với các Tổ chức tín dụng hay không?
|
Dự thảo hiện nay đã bỏ Điều 3, việc áp dụng Luật PCRT, các luật có liên quan và điều ước quốc tế được thực hiện theo quy định hiện hành của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung) và Luật Điều ước quốc tế năm 2016.
|
|
|
3
|
Điều 4
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Điểm l, khoản 3 - Điều 4: “Tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán, đại lý phân phối chứng khoán”.
Kiến nghị: Bổ sung hoạt động “Cung cấp dịch vụ giao dịch chứng khoán, dịch vụ thanh toán chứng khoán”.
Lý do: Phù hợp với quy định tại Điều 86 Luật chứng khoán nhằm quy định rõ hoạt động nghiệp vụ có liên quan nhiều nhất đến PCRT là tiếp nhận tiền giao dịch của Khách hàng và thanh toán tiền cho Khách hàng.
|
Tiếp thu.
Dự thảo Luật đã chỉnh sửa quy định điểm l Khoản 3 Điều 4 thành điểm i khoản 1 Điều 4 trong đó có hoạt động Môi giới chứng khoán. Theo quy định tại Điều 86 Luật chứng khoán, hoạt động “Cung cấp dịch vụ giao dịch chứng khoán, dịch vụ thanh toán chứng khoán” thuộc nghiệp vụ của hoạt động môi giới chứng khoán.
|
|
|
Điểm c Khoản 1 Điều 4 Dự thảo quy định: “Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm: c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung “Nhận, sử dụng” vào điểm c Khoản 1 Điều 4, theo đó sửa đổi quy định này như sau: “Nhận, sử dụng, chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.”
|
Không tiếp thu ý kiến góp ý.
Hành vi sử dụng đã quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 324 Bộ Luật hình sự về tội rửa tiền: “b) Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác.” và đã bao gồm trong các hành vi rửa tiền quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3.
|
|
|
Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực (EVNFinance); Hiệp Hội Ngân hàng
|
Tại điểm d khoản 3 Điều 4 Dự thảo Luật quy định: tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động, trong đó bao gồm hoạt động “cung cấp dịch vụ tài sản ảo”.
Kiến nghị: Hiện tại chưa có cơ sở pháp lý nào định nghĩa cụ thể về dịch vụ tài sản ảo, EVNFinance đề xuất Ban soạn thảo làm rõ về phạm vi “dịch vụ tài sản ảo” theo Dự thảo Luật này.
|
Trong quá trình xây dựng Luật, để đáp ứng khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, đồng thời từ thực tiễn nhu cầu quản lý nhà nước về PCRT, NHNN có đề xuất bổ sung đối tượng báo cáo mới nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh là: tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và cho vay dựa trên nền tảng công nghệ… Tuy nhiên, sau khi tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đánh giá tính khả thi, đồng thời để đảm bảo quy định tại Luật có tính bao quát được các hoạt động phát sinh trong tương lai, dự thảo Luật được điều chỉnh lại theo hướng giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rui ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo ngoài quy định tai khoản 1, 2 Điều 4 sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ( khoản 3 Điều 4). Đồng thời, tại dự thảo Luật cũng đã bổ sung quy định việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền. Theo đó, trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và việc hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, Chính phủ sẽ xem xét việc bổ sung đối tượng thực hiện các hoạt động mới là đối tượng báo cáo của Luật PCRT. Quy định này cũng đáp ứng một phần khuyến nghị số 15 của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương.
|
|
|
Hiệp hội Ngân hàng
|
Điểm c, điểm d Khoản 3 Điều 4 Dự thảo quy định tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động sau: “c) Cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ; d) Cung cấp dịch vụ tài sản ảo;”
Kiến nghị: Pháp luật hiện tại chưa quy định việc cấp giấy phép, hoặc hình thức kiểm soát/quản lý các tổ chức quy định tại điểm c, điểm d Khoản này, tuy nhiên, các tổ chức này trên thực tế cũng đã tồn tại, đặc biệt là các tổ chức quy định tại điểm c. Việc quy định tổ chức này cần phải được cấp phép thì mới chịu sự quản lý của Luật Phòng, chống rửa tiền (Luật PCRT) là chưa giải quyết được về mặt thực chất của vấn đề mà APG đang quan tâm. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại quy định trên.
|
|
|
VCCI
|
Khoản 3 Điều 4 dự thảo đã bổ sung một số dịch vụ mới vào danh mục các tổ chức tài chính, trong đó có (i) dịch vụ cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ; (ii) dịch vụ cung cấp tài sản ảo. Theo đó, các tổ chức được cấp phép thực hiện các hoạt động này sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Dự thảo. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định các ngành nghề này thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện (nên không cần cấp phép hoạt động). Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang soạn thảo Dự thảo nghị định để cho phép dịch vụ cho vay ngang hàng được cấp phép thử nghiệm (sandbox). Theo đó, chỉ có một số (rất ít) các doanh nghiệp sẽ được cấp phép để tham gia vào cơ chế thử nghiệm. Các doanh nghiệp khác vẫn tiếp tục được hoạt động mà không cần tham gia cơ chế thử nghiệm này. Quy định như Dự thảo có thể dẫn đến tình trạng không công bằng giữa các doanh nghiệp tham gia thử nghiệm và không tham gia thử nghiệm.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định không áp dụng với các doanh nghiệp được cấp phép hoạt động theo diện cơ chế thử nghiệm (sandbox). Sau quá trình thử nghiệm, khung pháp lý chính thức được ban hành thì các doanh nghiệp được cấp phép theo khung pháp lý đó sẽ thực hiện nghĩa vụ tại Dự thảo.
|
|
|
Công ty cổ phần Zion (Zalopay)
|
Điểm g Khoản 3 Điều 4 về giải thích từ ngữ quy định: Tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định của pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động sau: g) Dịch vụ trung gian thanh toán;
Các khái niệm về loại hình Dịch vụ trung gian thanh toán theo quy định tại TT39/2014 (đã được sửa đổi bổ sung) chia làm 2 loại: Dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử và nhóm dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán (Ví điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ; dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử).
Qua định nghĩa các dịch vụ cho thấy;
1.Nhóm dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử (chuyển mạch tài chính, bù trừ điện tử, cổng thanh toán điện tử): là dịch vụ cung ứng hạ tầng kỹ thuật để ……; => Như vậy, các hoạt động này là hoạt động cung ứng hạ tầng thanh toán, không phải là hoạt động tài chính.
2. Nhóm dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán (Ví điện tử, dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ; dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử):
Trong nhóm này có có dịch vụ ví điện tử, nhưng chưa bao gồm dịch vụ mobile money, đây đều là các dịch vụ cho phép khách hàng tạo tài khoản và lưu trữ giá trị tiền tệ phục vụ cho hoạt động thanh toán.
Tuy nhiên, tại dự thảo, chưa đề cập dịch vụ tiền di động (Mobile money);
Dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ và dịch vụ chuyển tiền điện tử: Theo quy định hiện hành đây là các dịch vụ hỗ trợ ngân hàng tiếp nhận, truyền dẫn xử lý dữ liệu, ….. Các hoạt động này, mặc dù có liên quan đến hoạt động xử lý giao dịch thanh toán, tuy nhiên, khách hàng gửi tiền và nhận tiền đều đã được đánh giá phòng chống rửa tiền, phòng chống khủng bố bởi ngân hàng, trong đa số các trường hợp, thông tin về khách hàng sử dụng dịch vụ thu hộ chi hộ, chuyển tiền điện tử (cung cấp bởi ngân hàng) được bảo mật.
Kiến nghị: 1. Cần làm rõ xem những đơn vị cung ứng Dịch vụ TGTT chỉ thực hiện cung ứng các giải pháp kỹ thuật, làm trung gian giữa các đơn vị cung ứng Dịch vụ thanh toán điện tử và khách hàng có thuộc phạm vi là Các tổ chức tài chính không.
2. Xem xét đưa 02 Dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ và Dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử vào nhóm các dịch vụ phi tài chính. Việc nhận biết khách hàng sẽ áp dụng với các đối tác khi tham gia triển khai dịch vụ, không áp dụng nhận biết trên từng giao dịch với các đối tượng sử dụng dịch vụ.
3. Đề xuất đưa các tổ chức có thực hiện cung ứng Dịch vụ Tiền di động và dịch vụ tương đương (nếu có) vào nhóm các Tổ chức tài chính, tạo sân chơi bình đẳng cho các tổ chức trong quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam.
|
1. Các đơn vị cung ứng Dịch vụ TGTT chỉ thực hiện cung ứng các giải pháp kỹ thuật, làm trung gian giữa các đơn vị cung ứng Dịch vụ thanh toán điện tử và khách hàng là các tổ chức tài chính phù hợp với Khuyến nghị 16 của FATF.
2. Các dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ và dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử là dịch vụ trung gian thanh toán và là đối tượng báo cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật và là tổ chức tài chính phù hợp với Khuyến nghị 16 của FATF.
3. Hoạt động dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ quy định tại Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 9/3/2021 về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản thông thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ có giá trị nhỏ, đối tượng cung cấp dịch vụ này thuộc tổ chức thực hiện dịch vụ thanh toán và đã được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật.
|
|
|
Hiệp hội Ngân hàng
|
Điểm h Khoản 3 Điều 4 Dự thảo quy định tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động sau:
“h) Phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, lệnh chuyển tiền, tiền điện tử”
Kiến nghị: Điểm h Khoản 3 Điều 4 Dự thảo có xuất hiện khái niệm “tiền điện tử”, tuy nhiên không có định nghĩa tiền điện tử là gì. Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ khái niệm này, đồng thời tiền điện tử này có thuộc phạm vi của tài sản ảo không?
|
Dự kiến khái niệm “tiền điện tử” này sẽ được quy định tại dự thảo nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP.
|
|
|
Hiệp hội bảo hiểm
|
Theo hướng dẫn tại khuyến nghị của FATF về đánh giá đa phương về PCRT trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, hướng dẫn tại Nguyên tắc bảo hiểm (ICP 22) của IAIS; kinh nghiệm của một số nước về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Theo đó, đối tượng báo cáo về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực bảo hiểm là các doanh nghiệp cung ứng bảo hiểm nhân thọ và các loại hình bảo hiểm liên quan đến đầu tư.
Kiến nghị: Đề nghị sửa đổi Điểm p khoản 3 Điều 4: “Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm phi nhân thọ gắn với hoạt động đầu tư”
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa tại dự thảo Luật.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Hiệp hội Ngân hàng
|
Đối tượng báo cáo tại Khoản 3, 4 Điều 4 chưa bao gồm các Công ty viễn thông đang cung cấp dịch vụ Mobile Money (VD Viettel money), Dịch vụ chuyển tiền bưu chính, Dịch vụ chuyển tiền qua các công ty chuyển tiền quốc tế (VD Western Union,), Công ty kiểm toán độc lập, Thừa phát lại trong khi đây là các dịch vụ có rủi ro cao về rửa tiền. (ý kiến của BIDV).
Kiến nghị: Đề nghị xem xét bổ sung.
|
Hiện nay, tại dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo theo loại hình hoạt động. Trong đó, tại điểm d khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp phép thực hiện hoạt động “dịch vụ thanh toán”. Với quy định này, phạm vi đối tượng báo cáo đã bao gồm các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán như dịch vụ chuyển tiền bưu chính...Các đối tượng Công ty kiểm toán độc lập (nếu cung cấp dịch vụ kế toán), Thừa phát lại (nếu cung cấp các dịch vụ pháp lý của luật sư) là đối tượng báo cáo thuộc điểm d khoản 2 điều 4 của luật.
|
|
|
Hiệp hội Ngân hàng
|
Khoản 4 Điều 4 Dự thảo quy định: “4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân được cấp phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
a) Kinh doanh trò chơi có thưởng, casino;
b) Kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động sản;
c) Kinh doanh kim loại quý và đá quý;
d) Cung ứng dịch vụ công chứng, kế toán; dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư;
đ) Cung cấp dịch vụ ủy thác (tín thác); dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; dịch vụ cung cấp giám đốc, thư ký cho doanh nghiệp cho bên thứ ba,”.
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ các dịch vụ kinh doanh game online có thuộc phạm vi “Kinh doanh trò chơi có thưởng” không? Vì thực tế hiện nay các dịch vụ game online người chơi sử dụng tiền vật lý/tiền VNĐ để đưa vào trong game để hoán đổi sang tiền trong game/công cụ dụng cụ trong game và làm phát sinh các giao dịch hoán đổi sang tiền vật lý/tiền VNĐ trên thực tế giữa những người chơi với giá trị lớn nhưng chưa được quản lý, kiểm soát.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa tại điểm a khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật theo hướng làm rõ một số loại hình kinh doanh trò chơi có thưởng, cụ thể: “a) Kinh doanh trò chơi có thưởng bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược;”.
|
|
|
- Để đảm bảo phù hợp và thống nhất với Khoản 3 của Điều này trong đoạn “Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân được cấp phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây”, đề nghị Ban soạn thảo thay cụm từ “được cấp phép” bằng cụm từ "được cấp giấy phép theo quy định của Pháp luật".
|
Tiếp thu, dự thảo đã chỉnh sửa Khoản 2 thành: “Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây…”
|
|
|
- Thực tế hiện nay có phát sinh các hình thức kinh doanh đấu giá các tác phẩm nghệ thuật, đây là hình thức có thể có nguy cơ phát sinh rủi ro rửa tiền cao. Vì vậy, đề xuất cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét bổ sung đối tượng tổ chức: “Kinh doanh, đấu giá tác phẩm nghệ thuật” thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật.
|
- Không tiếp thu do nội dung này không được đề cập trực tiếp trong khuyến nghị của FATF.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng
|
Điểm b khoản 4 Điều 4 quy định: “4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân được cấp phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây: b) Kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động sản;
Kiến nghị: Theo quy định của Luật đầu tư và Luật kinh doanh bất động sản thì kinh doanh bất động sản là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp được kinh doanh khi đáp ứng các điều kiện theo quy định (Điều 10 Luật kinh doanh bất động sản).
Theo đó, không có thủ tục cấp phép đối với hoạt động kinh doanh bất động sản.
Kính đề nghị Ban soạn thảo kiểm tra lại quy định này và các ngành nghề/hoạt động kinh doanh khác tại Khoản 4 được cấp phép.
|
Tiếp thu, dự thảo đã chỉnh sửa thành: “Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây…”
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 4 Điều 4: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:…”
Kiến nghị:
Kính đề xuất NHNN làm rõ yêu cầu đối với trường hợp đối tượng tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính nước ngoài không thành lập theo quy định của luật Việt Nam và hiện diện tại Việt Nam nhưng có cung cấp dịch vụ cho người dùng tại Việt Nam thì không chịu sự điều chỉnh của quy định pháp luật Việt Nam.
|
Tiếp thu, dự thảo đã chỉnh sửa thành: “Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây…”
|
|
|
VCCI
|
Điểm đ khoản 4 Điều 4 về dịch vụ ủy thác
Dự thảo quy định các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ ủy thác được coi là đối tượng kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan. Tuy nhiên, ủy thác dường như chưa được định nghĩa cụ thể trong pháp luật Việt Nam. Bộ luật Dân dự không có quy định về vấn đề này (nội hàm, phạm vi của chế định này). Luật Thương mại cũng chỉ quy định về vấn đề ủy thác mua bán hàng hóa giữa hai thương nhân. Các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng rất ít đề cập đến thuật ngữ này khi quy định về các loại hình dịch vụ. Việc này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc xác định mình có thuộc phạm vi điều chỉnh của Dự thảo hay không để thực hiện các nghĩa vụ cho phù hợp.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung quy định làm rõ hoặc đưa ra giới hạn các loại hình dịch vụ được xếp vào nhóm dịch vụ ủy thác
|
Tiếp thu ý kiến của VCCI.
Thuật ngữ “dịch vụ ủy thác” là để chỉ các tổ chức cung cấp thỏa thuận pháp lý quy định tại khoản 13 Điều 3 dự thảo Luật.
Cụ thể khoản 13 Điều 3 quy định: “Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận dưới hình thức ủy thác hoặc hình thức khác có bản chất tương tự được xác lập theo luật pháp nước ngoài, cho phép bên nhận ủy thác được nhận chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong thỏa thuận”
Để tránh cách hiểu tới các hoạt động ủy thác quy định tại pháp luật liên quan, dự thảo Luật điều chỉnh thuật ngữ từ “cung cấp dịch vụ ủy thác” thành “cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý” tại Điểm đ khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 7 Điều 4 Dự thảo quy định: “Giao dịch có giá trị lớn là giao dịch bằng tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt có tổng giá trị bằng hoặc vượt mức do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định, được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một ngày.”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt.
|
Giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo quy định tại khoản 4 Điều 3 đề cập đến các giao dịch được thực hiện bằng tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt để chỉ các phương tiện thanh toán phổ biến và hợp pháp hiện hành tại đối tượng báo cáo.
Các giao dịch bằng tài sản có khả năng chuyển đổi tiền mặt khác có thể chưa được coi là phương tiện thanh toán hợp pháp và không phải là các giao dịch được thực hiện tại các đối tượng báo cáo.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 8 Điều 4 Dự thảo quy định: “8. Chuyển tiền điện tử là bất kỳ giao dịch nào được thực hiện theo yêu cầu của người khởi tạo thông qua tổ chức tài chính bằng phương tiện điện tử nhằm chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng tại tổ chức tài chính thụ hưởng. Người thụ hưởng có thể là người khởi tạo”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ phạm vi của chuyển tiền điện tử này có bao gồm các loại tài sản ảo, tiền điện tử theo Điểm d, Điểm h Khoản 3 Điều 4 hay không?
|
Chuyển tiền điện tử dự kiến bao gồm cả chuyển tiền thông qua ví điện tử - là một hình thức tiền điện tử (dự kiến quy định tại Nghị định thay thế NĐ 101/2012/NĐ-CP).
Phạm vi của chuyển tiền điện tử này không bao gồm các loại tài sản ảo.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 8 Điều 4
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN làm rõ trường hợp khách hàng thực hiện giao dịch chuyển tiền tại quầy, không bằng phương tiện điện tử thì giao dịch chuyển tiền trong nước hoặc nước ngoài có nằm trong phạm vi quy định của điểm này không.
|
Khách hàng thực hiện tại quầy chỉ có 02 yêu cầu: 1. Chuyển tiền mặt, TCTC thực hiện theo quy định về báo cáo giao dịch có giá trị lớn; 2. Yêu cầu chuyển tiền không phải bằng tiền mặt là hình thức chuyển tiền điện tử, TCTC thực hiện theo quy định về báo cáo chuyển tiền điện tử.
|
|
|
Kính đề nghị NHNN xem xét sự cần thiết của nội dung nêu thêm câu này hoặc làm rõ mục đích của nội dung “Người thụ hưởng có thể là người khởi tạo.” là áp dụng đối với trường hợp chuyển tiền giữa các tài khoản khác nhau của cùng 1 khách hàng trong cùng 1 ngân hàng hay của cùng 1 tổ chức, cá nhân mở tài khoản tại các tổ chức tài chính khác nhau thực hiện chuyển tiền cho chính mình; hoặc NHNN xem xét bổ sung giải thích về người khởi tạo và tổ chức tài chính thụ hưởng bên cạnh định nghĩa về chuyển tiền điện tử của FATF để thể hiện đúng tinh thần của khuyến nghị số 16 của FATF:
“8. Chuyển tiền điện tử là bất kỳ giao dịch nào được thực hiện theo yêu cầu của người khởi tạo thông qua tổ chức tài chính bằng phương tiện điện tử nhằm chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng tại tổ chức tài chính thụ hưởng. Người thụ hưởng có thể là người khởi tạo. Người khởi tạo là (i) chủ tài khoản cho phép chuyển tiền điện tử từ tài khoản đó, hoặc (ii) nếu không có tài khoản, người khởi tạo là cá nhân hoặc tổ chức yêu cầu tổ chức tài chính thực hiện lệnh chuyển tiền. Tổ chức tài chính thụ hưởng là tổ chức tài chính trực tiếp nhận chuyển tiền điện tử từ tổ chức tài chính của người khởi tạo hoặc thông qua một hoặc nhiều tổ chức tài chính trung gian để chuyển khoản tiền tới người thụ hưởng.”
|
Định nghĩa về chuyển tiền điện tử cũng phù hợp với khuyến nghị. Khái niệm của FATF: đề cập đến bất kỳ giao dịch nào được thực hiện thay mặt cho người khởi tạo thông qua một định chế tài chính bằng các phương tiện điện tử chuyển một khoản tiền cho người thụ hưởng tại định chế tài chính thụ hưởng bất kể là người khởi tạo và người thụ hưởng có cùng là 1 người hay không
Việc chuyển tiền điện tử từ các tài khoản khác nhau của khách hàng mở tại cùng một tổ chức tài chính hoặc tại các tổ chức tài chính khác nhau đều được xác định là giao dịch chuyển tiền điện tử.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 10 Điều 4 Dự thảo quy định: “Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một tài khoản, có quyền chi phối khi khách hàng thực hiện giao dịch cho cá nhân này hoặc cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.”
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung cụm từ “hoặc tài sản.”
|
Tiếp thu. Đã chỉnh sửa khoản 8 điều 3 như sau “Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một hoặc một số tài sản…”.
|
|
|
- Nghị định số 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật phòng, chống rửa tiền (“Nghị định 87/2019/NĐ-CP”) đang đề cập đến chủ sở hữu hưởng lợi cuối cùng, tại khoản 10 chỉ là chủ sở hữu. Như vậy có sự khác biệt tại dự thảo Luật với Nghị định 87/2019/NĐ-CP không? Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ.
|
Nghị định 87 bổ sung hướng dẫn quy định về chủ sở hữu hưởng lợi tại Nghị định số 116/2013/NĐ-CP và Luật PCRT 2012. Dự thảo Luật PCRT kế thừa quy định về định nghĩa chủ sở hữu hưởng lợi tại Luật PCRT 2012. Do vậy, không có sự khác biệt về nội hàm của chủ sở hữu hưởng lợi được sử dụng tại Nghị định 87 và dự thảo Luật PCRT.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 10 Điều 4 Đối với khách hàng là tổ chức cá nhân có quyền sở hữu và điều hành tài khoản là cá nhân được ủy quyền, người đại diện pháp luật không phải là chủ sở hữu hưởng lợi theo thông lệ quốc tế.
Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một tài khoản cá nhân hoặc sở hữu thực tế khách hàng tổ chức, có quyền chi phối khi khách hàng thực hiện giao dịch cho cá nhân này hoặc cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.
Kiến nghị: Khái niệm chủ sở hữu hưởng lợi đang mâu thuẫn với Điều 1, Nghị định 87 (sửa đổi NĐ 116):
+ Cá nhân sở hữu thực tế đối với một tài khoản hoặc một giao dịch: Chủ tài khoản, đồng chủ tài khoản hoặc bất kỳ người nào chi phối hoạt động của tài khoản hoặc thụ hưởng từ giao dịch đó;
+ Cá nhân có quyền chi phối pháp nhân: Cá nhân nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp từ 25% trở lên vốn điều lệ của pháp nhân đó; chủ doanh nghiệp tư nhân; cá nhân khác thực tế chi phối, kiểm soát pháp nhân đó;
+ Cá nhân có quyền chi phối một ủy thác đầu tư, thỏa thuận ủy quyền: Cá nhân ủy thác, ủy quyền; cá nhân có quyền chi phối cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức ủy thác, ủy quyền
- Nghị định 87 đang đề cập đến chủ sở hữu hưởng lợi cuối cùng, tại khoản 10 chỉ là chủ sở hữu. Như vậy có sự khác biệt tại dự thảo Luật với NĐ 87 không?
|
|
|
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
|
Khoản 10 Điều 4 quy định: “Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một tài khoản cá nhân hoặc sở hữu thực tế khách hàng tổ chức, có quyền chi phối khi khách hàng thực hiện giao dịch cho cá nhân này hoặc cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.
Kiến nghị: Nên làm rõ cụm từ “có quyền chi phối khách hàng thực hiện giao dịch cho cá nhân này”. Cụ thể “quyền chi phối” nghĩa là gì?
|
Tiếp thu theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết (khoản 5 Điều 10).
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 11 Điều 4 Dự thảo quy định: “Quan hệ ngân hàng đại lý là quan hệ được thiết lập giữa tổ chức tài chính và ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác (sau đây gọi là ngân hàng đối tác nước ngoài) để thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác”.
Kiến nghị: - Trên thực tế nhiều tổ chức nước ngoài không phải là ngân hàng nhưng vẫn có mã SWIFT và vẫn có thể thiết lập quan hệ RMA với các tổ chức tài chính khác để sử dụng các dịch vụ thanh toán của SWIFT. Như vậy nếu thiết lập quan hệ với các tổ chức nước ngoài không phải là ngân hàng thì có được coi là “quan hệ ngân hàng đại lý không” và có phải áp dụng quy định tại Điều 16 Dự thảo không?
|
Quan hệ ngân hàng đại lý được định nghĩa tại khoản 9 Điều 3 như sau:
“Quan hệ ngân hàng đại lý là quan hệ được hình thành từ việc một ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho một ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác”.
Cụm từ “ngân hàng” ở đây được hiểu là tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng.
|
|
|
- Đề nghị Ban soạn thảo xem xét nội dung này để phù hợp với thực tế vì hiện nay quan hệ giữa ngân hàng với ngân hàng tại một quốc gia cũng đang được hiểu là quan hệ đại lý.
|
Tại định nghĩa đã nêu rõ quan hệ tổ chức tài chính (là đối tượng báo cáo theo quy định của Luật PCRT) và ngân hàng đối tác nước ngoài. Do vậy, quan hệ giữa các ngân hàng ở Việt Nam không phải quan hệ ngân hàng đại lý theo quy định của Luật PCRT.
|
|
|
- Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi đoạn "để thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và dịch vụ khác" thành "theo đó, tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác nước ngoài"để rõ nghĩa và vai trò của tổ chức tài chính Việt Nam trong mối quan hệ này chính là "Correspondent bank" - ngân hàng đại lý và ngân hàng nước ngoài là "Respondent bank" - Ngân hàng đối tác.
|
Nội dung này kế thừa luật PCRT 2012 và đã được điều chỉnh quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 18 dự thảo Luật “ Đối tượng báo cáo là ngân hàng khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải thực hiện các nội dung sau”
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 11 Điều 4 quy định:
Kiến nghị:
Kính đề nghị NHNN định nghĩa rõ hơn về Quan hệ ngân hàng đại lý, nhằm làm rõ bản chất của mối quan hệ là “một ngân hàng đóng vai trò đại lý cho một ngân hàng khác ở địa điểm mà ngân hàng này không có văn phòng hoặc không thể tự mình thực hiện một số nghiệp vụ vì một lý do nào đó”, và sẽ không bao gồm quan hệ đối tác thông thường ((i.e. đối tác RMA, đối tác mở Nostro, Vostro, etc.) giữa TCTC và ngân hàng tại một quốc gia khác nhằm thực hiện các dịch vụ ngân hàng, sản phẩm giữa hai bên với nhau.
|
Tiếp thu, chỉnh sửa định nghĩa tại Khoản 9 Điều 3 dự thảo Luật: “Quan hệ ngân hàng đại lý là quan hệ được hình thành từ việc một ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho một ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác”
Đồng thời đã sửa đổi Khoản 1 Điều 18 dự thảo Luật đảm bảo rõ ràng trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SHB)
|
Hiện tại, các TCTD đang tuân thủ theo CV06/CucV.3 v/v thông báo danh sách đối tượng truy nã. Theo đó, Bộ Công an đã cung cấp danh sách đối tượng truy nã và cập nhật 3 tháng/ lần, yêu cầu các TCTD rà soát, báo cáo các trường hợp khách hàng thuộc danh sách truy nã có giao dịch và liên hệ ngay đường dây nóng của CA khi đối tượng đến giao dịch. Chúng tôi đề xuất đơn vị soạn thảo xem xét bổ sung các đối tượng này vào danh sách đen.
Trên thực tế không phải Đơn vị nào cũng sử dụng dịch vụ hệ thống tự động cập nhật các danh sách liên quan về phòng, chống rửa tiền, vì vậy Bộ Công An và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể chia sẻ cập nhật hoặc liên kết tới các danh sách này để hỗ trợ các Đơn vị cập nhật thông tin chính xác, đầy đủ và nhất quán.
|
Danh sách đen đã được định nghĩa tại khoản 10 Điều 3 dự thảo Luật này này là danh sách cá nhân, tổ chức liên quan tới khủng bố, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt…
Các đối tượng thuộc danh sách truy nã nếu không liên quan tới khủng bố/tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt không thuộc danh sách này.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 14 Điều 4 Dự thảo quy định: “Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân.”
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo bỏ cụm từ “nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân” do không rõ nghĩa. Ngoài ra, danh sách cảnh báo có từ Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 nhưng thực tế danh sách này không được NHNN cập nhật. Đề nghị trong các văn bản hướng dẫn có quy định về tần suất cập nhật danh sách này.
|
Tiếp thu ý kiến góp ý theo hướng bổ sung cụm từ “có rủi ro cao về rửa tiền” vào cuối khoản khoản 11 Điều 3. Tuy nhiên, không bỏ đoạn “nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân” vì đây là mục tiêu, ý nghĩa của danh sách cảnh báo. Khoản 11 Điều 3.
|
|
|
- Đề nghị quy định rõ về việc danh sách cảnh báo được áp dụng trong những trường hợp nào và các biện pháp tạm thời áp dụng cho các đối tượng trong danh sách cảnh báo là gì? Danh sách này được thành lập định kỳ bao lâu, phương thức cung cấp cho các TCTD.
|
Danh sách cảnh báo do NHNN lập ra khi có phát sinh trong thực tế, do vậy, không quy định về thời hạn hoặc định kỳ lập. NHNN sẽ chuyển cho đối tượng báo cáo danh sách này dưới hình thức chuyển công văn hoặc có hướng dẫn cụ thể để đối tượng báo cáo truy cập danh sách cảnh báo.
|
|
|
- Đề nghị Ban soạn thảo giải thích và quy định cụ thể khi Tổ chức tài chính (TCTC) quét với danh sách này thì cần dừng không thực hiện giao dịch cho khách hàng hay chỉ để cảnh báo/phân loại rủi ro khách hàng?
|
Tại dự thảo Luật đã có quy định đối tượng báo cáo phải giám sát đối với giao dịch đặc biệt liên quan các quốc gia có rủi ro cao hoặc nằm trong danh sách cảnh báo (Khoản 1 Điều 20).
|
|
|
- Khoản 13 và Khoản 14 Điều 4 quy định về Danh sách đen và danh sách cảnh báo. Đề nghị làm rõ:
+ Hoạt động phạm tội thuộc danh sách nào?
|
Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố hoặc tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (khoản 10 Điều 3). Do vậy, hoạt động phạm tội cần xem xét là tội nào, có phải là tội khủng bố và tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt không, và các đối tượng phạm tội này có thuộc danh sách đen được Bộ Công an, Bộ Quốc phòng lập ra hoặc danh sách cảnh báo của NHNN.
|
|
|
+ Danh sách do FAFF công bố thuộc danh sách nào?
|
Hiện nay danh sách FATF cung cấp chỉ có tên các quốc gia, vùng lãnh thổ có những thiếu hụt đáng kể về cơ chế phòng, chống rửa tiền mà không có tên về các cá nhân, tổ chức. Do vậy, Danh sách của FATF không thuộc danh sách đen hay danh sách cảnh báo.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội (SHB)
|
Khoản 14 Điều 4 quy định: “14. Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân”.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bỏ “nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân”
“Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân”
|
Không tiếp thu ý kiến góp ý. Bổ sung cụm từ “có rủi ro cao về rửa tiền” trong dự thảo cuối cùng để làm rõ nội dung Khoản 11 Điều 3.
|
|
|
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Khoản 15 Điều 4:
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét tính nhất quán với Điều 19 về loại hình tổ chức là bên thứ 3 được thực hiện nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo và xem xét sửa đổi điều này như sau:
Nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba là hoạt động nhận biết khách hàng thông qua tổ chức khác đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật này.
Do tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính cũng phải tuân thủ Luật Phòng, chống rửa tiền. Ngoài ra khuyến nghị của FATF cũng không giới hạn chỉ ở trong tổ chức tài chính.
|
Tiếp thu, Điểm a Khoản 1 Điều 14 đã quy định rõ bên thứ ba “là tổ chức tài chính hoặc tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có thiết lập quan hệ với khách hàng, không bao gồm các mối quan hệ đại lý và thuê ngoài”. Bên cạnh đó, Khoản 1 Điều 13 quy định “Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để xác minh thông tin nhận biết khách hàng, trừ tổ chức là bên thứ ba quy định tại Điều 14 Luật này”.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Hiệp hội ngân hàng ; Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit)
|
Khoản 5 Điều 16 đề cập đến khái niệm ngân hàng vỏ bọc.
Kiến nghị:
Kính đề nghị NHNN đưa ra khái niệm về ngân hàng vỏ bọc vào điều 4.
|
Tiếp thu và bổ sung quy định giải thích từ ngữ về “ngân hàng vỏ bọc” tại khoản 14 Điều 3 dự thảo Luật.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Khoản 15 Điều 4 quy định: “15. Nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba là hoạt động nhận biết khách hàng thông qua tổ chức tài chính khác có thiết lập quan hệ với khách hàng và đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật này”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét mở rộng, bổ sung khái niệm nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba để đảm bảo nhất quán với Điều 12 và 19 của Luật này. Đề nghị sửa thành “Nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba là hoạt động nhận biết khách hàng thông qua tổ chức tài chính khác hoặc thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ môi giới có thiết lập quan hệ với khách hàng, hoặc căn cứ vào các trang thông tin từ nguồn thông tin độc lập, uy tín theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo để xác minh thông tin nhận biết khách hàng và đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật này”
Đề nghị làm rõ các nội dung:
+ Bên thứ Ba chỉ có thể là Tổ chức tài chính không? Các tổ chức khác không phải là Tổ chức tài chính nhưng có khả năng cung cấp, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo QĐ của Luật PCRT thì có được chấp nhận không?
|
Điểm a Khoản 1 Điều 14 đã quy định rõ “Đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và “bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Là tổ chức tài chính hoặc tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có thiết lập quan hệ với khách hàng, không bao gồm các mối quan hệ đại lý và thuê ngoài”..
|
|
|
+ Cụm từ “thiết lập quan hệ với khách hàng” nghĩa là phải mở tài khoản hay chỉ cần đã từng sử dụng dịch vụ nào đó. Ví dụ BIDV tiếp nhận thông tin nhận biết khách hàng A qua VPB nhưng thực tế khách hàng A chưa mở tài khoản tại VPB mà mới chỉ từng thực hiện giao dịch chuyển tiền qua CMND tại VPB, như vậy VPB có đủ điều kiện để làm bên thứ Ba không?
+ Trường hợp không thiết lập quan hệ với khách hàng nhưng có khả năng cung cấp, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thì có được chấp nhận không?
|
Cụm từ thiết lập quan hệ được hiểu là trường hợp bên thứ ba sử dụng sản phẩm/dịch vụ nào đó của đối tượng báo cáo, chưa cần phải thực hiện mở tài khoản.
Bên thứ ba theo quy định tại Điều 14 dự thảo Luật là tổ chức có thiết lập quan hệ với khách hàng.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 16 Điều 4 Dự thảo quy định: “Lực lượng đặc nhiệm tài chính là tổ chức liên chính phủ, ban hành các chuẩn mực, thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt cũng như những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu”.
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉ rõ Khái niệm “lực lượng đặc nhiệm tài chính” là FATF.
|
Không tiếp thu.
FATF là cụm từ viết tắt của “lực lượng đặc nhiệm tài chính". Dự thảo Luật đều sử dụng cụm từ đầy đủ “lực lượng đặc nhiệm tài chính", do đó không cần sử dụng cụm từ viết tắt.
|
|
|
Khoản 17 Điều 4 Dự thảo quy định: “Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận được xác định theo luật pháp nước ngoài cho phép bên nhận ủy thác được chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong văn bản ủy thác (tín thác) hoặc các quan hệ pháp lý khác có bản chất tương tự”.
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ các nội dung:
1. Người thụ hưởng có phải là “người ủy thác” không? Trong trường hợp là đúng thì đề nghị sử dụng thống nhất một thuật ngữ. Nếu hai khái niệm này khác nhau đề nghị chỉ rõ điểm khác biệt.
|
1. Người thụ hưởng không phải là người ủy thác. Người thụ hưởng là người được hưởng các lợi ích về tài sản trong quan hệ ủy thác. Quy định này nhằm luật hóa và phù hợp với nội dung công ước Hague về Ủy thác quy định: Ủy thác đề cập đến mối quan hệ được tạo ra khi người ủy thác đặt tài sản dưới sự kiểm soát của người được ủy thác để quản lý cho lợi ích của người hưởng lợi hoặc vì một mục đích được xác định.
Khoản 13 Điều 3 đã được điều chỉnh như sau:“13. Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận dưới hình thức ủy thác hoặc hình thức khác có bản chất tương tự được xác lập theo luật pháp nước ngoài, cho phép bên nhận ủy thác được nhận chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong thỏa thuận”
|
|
|
2. Dự thảo đề cập “Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận được xác định theo luật pháp nước ngoài”, làm thế nào để xác định là được thỏa thuận có được xác định theo đúng luật pháp nước ngoài không?
|
2. Việc xác định thỏa thuận pháp lý là “là thỏa thuận dưới hình thức ủy thác hoặc hình thức khác có bản chất tương tự được xác lập theo luật pháp nước ngoài” sẽ được thể hiện qua “văn bản ủy thác” mà khách hàng cung cấp khi thiết lập quan hệ với đối tượng báo cáo.
|
|
|
+ Thỏa thuận pháp lý trong nước có thuộc phạm vi của định nghĩa này không?
|
Thỏa thuận pháp lý trong nước không thuộc phạm vi định nghĩa này.
|
|
|
+ Cụm từ “được chuyển giao” phải là “được nhận chuyển giao” có đúng không?
|
Tiếp thu, chỉnh sửa tại dự thảo.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
3. Hiện nay định nghĩa về ủy thác chỉ có quy định tại Thông tư 30/2014/TT-NHNN quy định về ủy thác và nhận ủy thác của TCTD, CNNHNN và tại Thông tư 08/2020/TT-BKHĐT về hướng dẫn việc tiếp nhận tài trợ, đóng góp, nhận ủy thác của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; các quy định liên quan đến ủy thác cũng chỉ có ủy thác mua bán hàng hóa tại Luật Thương mại 2005 hoặc một số văn bản dưới Luật. Những quy định hướng dẫn về ủy thác nêu trên có thể không phù hợp hoặc không quy định đầy đủ và đúng với mục đích nhận biết giao dịch ủy thác quy định trong Luật PCRT, điều này dẫn đến việc các TCTD bối rối trong việc giải thích cho khách hàng thế nào là ủy thác khi thực hiện nhận biết khách hàng. Do đó, cần có định nghĩa thế nào để ủy thác trong Luật PCRT để TCTD hướng dẫn khách hàng nhận biết và cung cấp thông tin về thỏa thuận pháp lý theo quy định tại Điều 21 Luật PCRT (sửa đổi).
|
3. Các quan hệ ủy thác trong các văn bản này không phải là quan hệ ủy thác được điều chỉnh tại khái niệm này. Khái niệm thỏa thuận pháp lý cũng chỉ rõ thỏa thuận pháp lý (gồm ủy thác) là thỏa thuận được xác lập theo luật pháp nước ngoài.
|
|
|
+ Hiện chưa có quy định về định nghĩa tín thác trong các văn bản quy phạm pháp luật. Cần có định nghĩa về tín thác khi đưa nội dung tín thác vào dự thảo sửa đổi Luật này.
|
Thuật ngữ “ủy thác” và “tín thác” trong thỏa thuận pháp lý có bản chất tương tự nhau. Để tránh gây nhầm lẫn, NHNN đã bỏ khái niệm “tín thác” trong dự thảo luật.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Techcombank; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 17 Điều 4 quy định: “17. Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận được xác định theo luật pháp nước ngoài cho phép bên nhận ủy thác được chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong văn bản ủy thác (tín thác) hoặc các quan hệ pháp lý khác có bản chất tương tự”
Kiến nghị: - Theo giải thích thì chủ thể trong quan hệ ủy thác bao gồm bên ủy thác và bên nhận ủy thác, tuy nhiên bên được hưởng lợi từ việc ủy thác lại được quy định là “người thụ hưởng” và chưa có giải thích về khái niệm người thụ hưởng. Do đó, kính đề nghị ban soạn thảo kiểm tra lại nội dung này và bổ sung giải thích từ ngữ đối với khái niệm người thụ hưởng.
|
Quy định về thỏa thuận pháp lý trong đó có khái niệm “người thụ hưởng” phù hợp với phần giải thích từ ngữ Ủy thác tại Khuyến nghị 25 và Công ước Hague về Ủy thác, thuật ngữ tiếng Anh “beneficiary” được dịch là “người thụ hưởng”.
|
|
|
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Khoản 17 Điều 4. Trong một số trường hợp, có những thỏa thuận pháp lý có thể được xác lập theo pháp luật Việt Nam. Do đó, đề xuất sửa đổi: “Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận được xác định theo luật pháp nước ngoài cho phép bên nhận ủy thác được chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong văn bản ủy thác (tín thác) hoặc các quan hệ pháp lý khác có bản chất tương tự”.
|
Phạm vi PCRT chỉ điều chỉnh các thỏa thuận pháp lý theo khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG.
|
|
|
4
|
Điều 7
|
Ngân hàng Techcombank
|
Kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền là căn cứ để các TCTD đánh giá rủi ro về rửa tiền tại TCTD (theo quy định tại Điều 13 của dự thảo). Việc quy định 5 năm đánh giá rủi ro quốc gia 1 lần sẽ không đảm bảo cập nhật, đánh giá rủi ro kịp thời theo đúng thực tế của hoạt động rửa tiền để các TCTD căn cứ đánh giá rủi ro về rửa tiền tại TCTD.
Kiến nghị: ban soạn thảo xem xét rút ngắn thời gian định kỳ đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền.
|
Tiếp thu.
Tại Quyết định 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch quốc gia về PCRT và TTKB, trong đó việc thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia được thực hiện định kỳ 5 năm.
Đánh giá rủi ro quốc gia là nội dung lớn, phức tạp đòi hỏi sự tham gia của tất cả các bộ, ngành, đơn vị và khu vực tư có liên quan. Thông thường quốc gia phải mất ít nhất 2 năm để hoàn thành đánh giá rủi ro quốc gia. Sau khi đánh giá rủi ro quốc gia được hoàn thành, quốc gia cần triển khai KHHĐ nhằm giải quyết các rủi ro được xác định theo kết quả đánh giá. Vì vậy, quy định khoảng thời gian 5 năm thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia là cần thiết để quốc gia hoàn thành đánh giá, thực hiện KHHĐ nhằm giải quyết rủi ro trước khi Việt Nam thực hiện đánh giá lại để rà soát xem liệu có rủi ro mới nào phát sinh không hay các rủi ro đã được giải quyết theo Kết quả đánh giá rủi ro và KHHĐ.
Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến này, tại điểm b khoản 2 Điều 7 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của các bộ, ngành: “ Thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền, kế hoạch thực hiện sau cập nhật.
”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Để rõ nghĩa hơn, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi Khoản 2 Điều 7 theo hướng sau: “Trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm triển khai đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền ngành thuộc phạm vi quản lý. Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý, đồng thời triển khai thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định.”
|
Tiếp thu và chỉnh sửa khoản 2 Điều 7 thành:
"2. Các Bộ, ngành liên quan có trách nhiệm:
a) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định;
b) Thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các Bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền, kế hoạch thực hiện sau cập nhật.”.
|
|
|
5
|
Điều 8
|
Ngân hàng Techcombank; Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 8 quy định: “Một số trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện giao dịch với khách hàng theo đúng quy trình, quy định nhưng không biết mình đang vô ý hỗ trợ hành vi rửa tiền.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi thành: Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện, cố ý trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền.
|
Theo từ điển tiếng việt, cụm từ “trợ giúp” có ý nghĩa giúp đỡ, giúp sức.
Tiếp thu một phần, chỉnh sửa khoản 1 Điều 8 dự thảo Luật thành: “Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện, trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền.”
|
|
|
Kiến nghị ban soạn thảo quy định rõ dấu hiệu để xác định hành vi “trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền”, “không hợp tác trong việc cung cấp thông tin”
|
Tiếp thu, bỏ cụm từ “không hợp tác” tại khoản 6 Điều 8 dự thảo Luật.
|
|
|
Về khái niệm “công cụ lưu trữ giá trị”: Ngoài một số tài sản như vàng sử dụng như công cụ lưu trữ giá trị truyền thống thì sự phát triển khoa học công nghệ dẫn tới phát sinh một số loại hình tài sản khác như “tài sản ảo”, “tiền điện tử”, “tiền mã hóa” như: bitcoin, ethereum… các tài sản này dù chưa được pháp luật các quốc gia công nhận nhưng người dân cũng đã và đang sử dụng như một công cụ lưu trữ giá trị. Dự thảo này cũng đã có sự quan tâm tới “tài sản ảo” (khoản 3 Điều 4 Dự thảo), tuy nhiên, hiện tại pháp luật không có quy định cụ thể về khái niệm “công cụ lưu trữ giá trị”.
Kiến nghị: Do đó, chúng tôi đề xuất việc xem xét các loại hình tài sản mới nêu trên và quản lý như một “công cụ lưu trữ giá trị” cần có quy định cụ thể hơn.
|
Việc quy định cụ thể về các loại hình tài sản mới thực hiện theo quy định tại BLDS và pháp luật chuyên ngành, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội (SHB)
|
Khoản 2 Điều 8 quy định: “Thiết lập hoặc duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả”
Kiến nghị: Đề nghị sửa và bổ sung như sau: “Thiết lập hoặc duy trì số điện thoại, ví điện tử, tài khoản vô danh hoặc sử dụng tên giả, sử dụng tên của người khác.”
|
Tiếp thu một phần. Đã chỉnh sửa vào điều khoản luật thành: “Thiết lập, duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả”.
- Thuật ngữ “tài khoản” trong dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) đang được hiểu là tài khoản người dùng, theo đó, đã bao gồm ví điện tử.
|
|
|
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Khoản 4 Điều 8 quy định Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc… và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng tại địa điểm khác.
Kiến nghị: Cần có giải nghĩa rõ địa điểm khác là ở đâu? Có được hiểu là bên ngoài, khác nơi có văn phòng giao dịch của đối tượng báo cáo?
|
Tiếp thu theo hướng bỏ cụm từ “địa điểm khác”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung đối tượng “cá nhân” trong nội dung tại Khoản 1 Điều 8 Dự thảo.
|
Cụm từ “tổ chức” sử dụng ở khoản 1 chỉ hoạt động, không phải là “tổ chức” với nghĩa danh từ như tổ chức, cá nhân.
|
|
|
- Đề nghị xem xét quy định rõ trường hợp được xác định là “tài khoản sử dụng tên giả” tại Khoản 2 Điều 8 Dự thảo vì thực tế, các tổ chức tín dụng không phải lúc nào cũng có đủ cơ sở dữ liệu, bằng chứng để xác định tài khoản sử dụng tên giả.
|
Điều 12 Dự thảo Luật đã quy định theo hướng đối tượng báo cáo có thể sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng, ngoài ra có thể khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thuê tổ chức khác hoặc thông qua bên thứ ba để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp. Do đó, đối tượng báo cáo có thể có đủ căn cứ để xác định tài khoản sử dụng tên giả.
|
|
|
6
|
Điều 9
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); Hiệp hội ngân hàng
|
1. “Nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba” được giải thích tại Khoản 15, Điều 4. Điều 9 yêu cầu áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng. Luật chưa có nội dung hướng dẫn, giải thích về “nhận biết khách hàng” và “các biện pháp nhận biết khách hàng”.
|
Tiếp thu ý kiến.
Tại khoản 4 Điều 9 dự thảo Luật đã bổ sung quy định giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết điều này.
|
|
|
Điểm a, điểm b Khoản 1 Điều 9 Dự thảo quy định 1 Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
“a) Khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức tài chính;
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo;”
Kiến nghị: 1. Trong các trường hợp phải nhận biết khách hàng có nội dung “khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức tài chính”, “thiết lập giao dịch” có thể hiểu là khi khách hàng thực hiện bất cứ giao dịch gì hay không, nếu đúng thì cụm từ này đã bao hàm toàn bộ nội dung điểm b, do đó đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ điểm b.
|
1. Đã bổ sung cụm từ “lần đầu” vào điểm a khoản 2 Điều 9.
Nội dung chi tiết của Điều 9 sẽ được hướng dẫn chi tiết tại văn bản dưới Luật.
|
|
|
2. “Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo”. Giao dịch yêu cầu phải có số tài khoản, tuy nhiên có trường hợp khách hàng không có tài khoản vẫn có thể thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử, giao dịch nộp tiền mặt, nhận tiền mặt. Do đó đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ cụm từ thiếu “số tài khoản”.
|
Tiếp thu và đã sửa đổi, bổ sung nội dung điểm b khoản 2 trường hợp “hoặc mã giao dịch" (trong trường hợp người khởi tạo không có tài khoản).
|
|
|
3. Đề nghị xem xét thay thuật ngữ “thiết lập giao dịch” thành "thiết lập quan hệ".
|
Tiếp thu ý kiến.
|
|
|
2. Kính đề nghị NHNN cân nhắc sửa Khoản 1 Điều 9 như sau:“1. Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng hoặc cập nhật thông tin nhận biết KH theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo trong các trường hợp sau: […]
Đối với yêu cầu thực hiện việc nhận biết khách hàng khi giao dịch chuyển tiền điện tử bị thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo, thay vì quy định tại luật này, kiến nghị NHNN xem xét quy định liên quan về chuyển tiền điện tử trong đó quy định các trường thông tin thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo là thông tin bắt buộc. Ngân hàng khởi tạo phải đảm bảo các thông tin này được thu thập và thể hiện đầy đủ trên lệnh/điện chuyển tiền.
Cơ sở của đề xuất việc loại bỏ yêu cầu này của chúng tôi như sau:
● Thực hiện tuân thủ theo khuyến nghị FATF với mục địch đảm bảo thông tin về giao dịch đáng ngờ.
● Tuân thủ quy định tại khoản 6 Điều 7 TT 20/2019/TT-NHNN như sau: “6. Trong quá trình giao dịch và sau giao dịch, đối tượng báo cáo phục vụ người thụ hưởng phải thực hiện các biện pháp giám sát để phát hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế thiếu các thông tin về người khởi tạo lệnh chuyển tiền hoặc người thụ hưởng quy định tại điểm c khoản 2 Điều này và áp dụng các biện pháp xử lý quy định tại điểm b khoản 6 Điều 3a.”
|
Không tiếp thu.
việc cập nhật thông tin khách hàng được quy định tại Điều 11 và quy trình, thủ tục nhận biết, xác minh và cập nhật thông tin khách hàng đã được quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 24 (quy định nội bộ về PCRT).
|
|
|
3. Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung hướng dẫn khoảng thời gian giữa 2 giao dịch để xem là giao dịch không thường xuyên và khái niệm giao dịch liên quan đến khách hàng.
4. Kính đề nghị NHNN xem xét hướng dẫn giao dịch có giá trị lớn nêu tại Khoản 1.b Điều 9 có phải là mức giá trị được NHNN đề nghị theo quy định tại Điều 24 về Báo cáo giao dịch có giá trị lớn hay không để đảm bảo phạm vi áp dụng giá trị của giao dịch tại Luật Phòng, chống Rửa tiền được xuyên suốt và thống nhất.
5. Kính đề nghị NHNN có quy định phù hợp với giá trị lớn khác nhau đối với cá nhân và tổ chức phù hợp với quy mô và trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam và quốc tế.
|
Tại khoản 4 Điều 9 giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này, theo đó những nội dung này sẽ được hướng dẫn tại các văn bản quy định chi tiết Luật (như hiện nay đang hướng dẫn tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP..).
|
|
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Điểm b khoản 1 - Điều 9: “…mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo”
Kiến nghị: Bổ sung như sau “…mà thiếu một trong những thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo”.
Cần áp dụng phương pháp này cho toàn văn bản Luật – tức là quy định rõ “một trong những” hoặc “toàn bộ”.
Lý do: Dấu “,” trong ngữ văn tiếng Việt không rõ ràng hàm ý “hoặc” hay “và”. Trên thực tế đã gây khó khăn khi hiểu và áp dụng luật cũ. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung nội dung đề xuất để phân biệt rõ 2 trường hợp.
|
Quy định tại điểm b khoản 2 Điều 9 dự thảo đã đảm bảo thể hiện được nội dung “một trong các thông tin”
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội (SHB).
|
Điêm a khoản 1 Điều 9 quy định: Thiết lập giao dịch là một cụm từ khá chung chung, do đó, sẽ dễ dẫn đến việc có những cách hiểu khác nhau.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN đưa ra định nghĩa rõ ràng về "thiết lập giao dịch" tại Điều 4 Giải thích từ ngữ.
|
Tại dự thảo Luật đã thay thuật ngữ “thiết lập giao dịch” thành "thiết lập quan hệ".
|
|
|
4. Tại điểm a khoản 1 Điều 9 Dự thảo Luật quy định: Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức tài chính.
Kiến nghị: Do số lượng khách thiết lập giao dịch với tổ chức tín dụng rất lớn, EVNFinance đề xuất Ban soạn thảo xem xét điều chỉnh việc áp dụng biện pháp nhận biết khách hàng chỉ bắt buộc áp dụng với trường hợp khách hàng mở tài khoản/thiết lập giao dịch lần đầu và còn đối với khách hàng hiện hữu sẽ thực hiện rà soát định kỳ.
|
Tiếp thu, đã chỉnh sửa tại điểm b khoản 2 điều 9 dự thảo Luật.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
a) Điểm c Khoản 1 Điều 9 dự thảo quy định tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong trường hợp sau: c) Có nghi ngờ giao dịch, các giao dịch liên quan hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;”
Theo quy định tại Dự thảo, Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong cả trường hợp “các giao dịch liên quan” đến giao dịch đang bị nghi ngờ. Tuy nhiên, một thực tế khó khăn là các bên trong “giao dịch liên quan” có thể không phải là khách hàng trực tiếp của Tổ chức tài chính, do đó, việc áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng đối với “các giao dịch liên quan” sẽ gặp phải nhiều vướng mắc, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, do Tổ chức tài chính/tổ chức tín dụng nghi ngờ “các giao dịch liên quan” không phải là cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật, đồng thời các tổ chức tín dụng khác nắm thông tin phải chịu trách nhiệm về việc bảo mật thông tin khách hàng theo quy định Nghị định 117/2018/NĐ-CP giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Kiến nghị: 1. a) Đề nghị Ban soạn thảo quy định khi nghi ngờ giao dịch hoặc nghi ngờ các giao dịch có liên quan, Tổ chức tài chính sẽ thực hiện thông báo nghi ngờ với tổ chức nắm giữ thông tin “các giao dịch có liên quan” và chính các tổ chức được thông tin này sẽ thực hiện biện pháp “nhận biết khách hàng” theo quy định Luật PCRT.
b) Hiện tại các sản phẩm, dịch vụ mà đối tượng báo cáo được phép cung cấp cho khách hàng như mở tài khoản, thẻ…đều được cho phép cung cấp cho khách hàng thông qua phương thức điện tử, theo đó các quy định pháp luật này đều quy định việc nhận biết khách hàng thực hiện theo quy định về phòng, chống rửa tiền, do đó tại dự thảo Luật này cần có quy định rõ cơ chế áp dụng phương thức nhận biết khách hàng thông qua phương thức điện tử để đảm bảo cơ chế áp dụng thống nhất và đảm bảo tuân thủ.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa tại điểm c khoản 2 Điều 9 dự thảo như sau:“c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;”.
|
|
|
Kiến nghị: 2. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung phương thức nhận biết khách hàng thông qua phương tiện điện tử.
|
Việc mở tài khoản qua phương tiện điện tử được thực hiện theo pháp luật về mở và sử dụng tài khoản. Luật PCRT chỉ quy định về loại thông tin cần thu thập để nhận biết khách hàng.
|
|
|
7
|
Điều 10
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); Công ty Tài chính TNHH (FE Credit); Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội (SHB); Công ty tài chính Cổ phần điện lực (EVNFinance)
|
Kiến nghị:
1. Kính đề nghị NHNN hướng dẫn rõ là xác định người đại diện pháp luật đối với các khách hàng là tổ chức nước ngoài không thành lập tại Việt Nam không có khái niệm người đại diện pháp luật theo quy định của quốc gia nơi thành lập, thông tin người đại diện và người thành lập cũng không thể hiện trên giấy phép thành lập hoặc giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, mà nêu tại phần mô tả tổ chức/ công ty tại trang web của tổ chức. Khi đó, các NHNN sẽ được hiểu khái niệm người đại diện trong tình huống này là Chủ tịch/ Tổng Giám đốc (CEO)/ Giám đốc chi nhánh/ Trưởng đại diện.
|
Mỗi một tổ chức sẽ có người đại diện theo pháp luật của nước nơi tổ chức đó được thành lập và Luật PCRT không quy định ĐTBC phải xác định người đại diện theo pháp luật theo giấy phép thành lập hoặc giấy đăng ký kinh doanh. ĐTBC có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin về người đại diện theo pháp luật theo văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia đó cấp.
|
|
|
2. Kính đề nghị NHNN xem xét yêu cầu nhận biết khách hàng tổ chức không bao gồm người thành lập tổ chức tại khoản 1.b Điều 10 nữa do định nghĩa hiện nay của chủ sở hữu hưởng lợi đã mở rộng đến chủ sở hữu hưởng lợi cuối cùng và có thể đã bao gồm những người thành lập trong phạm vi đó. Với các tổ chức/ công ty lâu đời, những người thành lập đã qua đời hoặc rời khỏi công ty nên khó xác định và lấy thông tin của họ. Ngoài ra, quy định pháp luật về nhận biết khách hàng của các quốc gia khác không yêu cầu xác định và nhận biết người thành lập.
a) Đối với khách hàng cá nhân có một quốc tịch là:
i) Người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại liên lạc, số chứng minh nhân dân hoặc số căn cước công dân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại.
ii) Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp, số thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ đăng ký cư trú ở Việt Nam;
iii) Người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; giấy tờ nhân thân do quốc gia sở tại cấp số hộ chiếu, ngày cấp, địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài;
b) Đối với khách hàng cá nhân là người có từ hai (02) quốc tịch trở lên, ngoài những thông tin theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều này, đối tượng báo cáo phải thu thập bổ sung thông tin về các quốc tịch, các địa chỉ đăng ký cư trú tại các quốc gia mang quốc tịch.
c) Đối với khách hàng cá nhân là người không quốc tịch: Họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp, chức vụ; sổ thị thực; cơ quan cấp thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và ở Việt Nam.
d) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập, mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế; số điện thoại liên lạc, số fax; lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại điểm a khoản này.
|
Dự thảo kế thừa Luật PCRT năm 2012. Các công ty thành lập lâu đời thì thông tin vẫn được lưu trong hồ sơ của công ty. Việc xác định chủ sở hữu hưởng lợi là bước tiếp theo do vậy khi nhận biết khách hàng ĐTBC vẫn phải thu thập thông tin bao gồm cả người thành lập như quy định.
|
|
|
|
2. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: Đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi theo các thông tin quy định tại khoản 1 Điều này. Chính phủ quy định các biện pháp để xác định chủ sở hữu hưởng lợi.
Kiến nghị:
Kính đề nghị NHNN xem xét:
· chia thành 2 nhóm là “thông tin nhận biết khách hàng” và “thông tin liên lạc”
· đưa thông tin “nghề nghiệp, chức vụ, số điện thoại liên lạc, số fax” ra ngoài nội dung thông tin nhận biết khách hàng và có thể được thu thập dưới dạng thông tin tìm hiểu khách hàng nói chung do những thông tin này không nằm trong phạm vi định danh khách hàng và các giấy tờ tài liệu quy định tại Điều 12.1.a và b không thể dùng làm căn cứ để xác minh thông tin này.
|
Tiếp thu một phần. Đã rà soát và đối với những thông tin không bắt buộc thì dự thảo để bổ sung cụm từ “(nếu có)”.
Số điện thoại cũng là 1 loại thông tin để nhận dạng khách hàng. Quy định của pháp luật hiện nay về quản lý viễn thông đã có quy định người dùng phải đăng ký chính chủ số điện thoại với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông. Vì vậy có thể tra cứu thông tin chủ sở hữu qua số điện thoại.
|
|
|
· Doanh nghiệp thành lập lần đầu phải được đăng ký kinh doanh và được cấp mã số doanh nghiệp đồng thời là mã số thuế bởi cơ quan đăng ký kinh doanh. Chi nhánh được cấp mã số thuế, mã số chi nhánh tại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài không có mã số doanh nghiệp nhưng có mã số thuế.
|
Tiếp thu, chỉnh sửa, bổ sung tại điểm e khoản 2 Điều 10:
“...số giấy phép thành lập hoặc mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế…”.
|
|
|
· Đối với khách cá nhân ngoài số CMND/CCCD, có thể bổ sung số định danh khác do cơ quan có thẩm quyền cấp (ví dụ: Giấy chứng minh sĩ quan, Chứng minh quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng,..). Đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, có thể bổ sung thẻ APAC, thẻ tạm trú. Đối với khách hàng doanh nghiệp, “số fax (nếu có)”
Chúng tôi đề xuất NHNN cân nhắc sửa đổi như sau:
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
Thông tin nhận biết khách hàng phải có các thông tin chính sau đây:
1. Thông tin nhận dạng khách hàng:
a) Đối với khách hàng cá nhân có một quốc tịch là:
“i) Người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số chứng minh nhân dân hoặc số căn cước công dân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại. […] iii) Người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; giấy tờ nhân thân do quốc gia sở tại cấp số hộ chiếu, ngày cấp, địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài;
Điều 10a. Thông tin liên hệ với khách hàng:
Đối tượng báo cáo phải thu thập và cập nhật thông tin liên hệ với khách hàng bao gồm, số điện thoại, số fax (nếu có).”
|
Tiếp thu và đã bổ sung các loại giấy tờ nhận dạng đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người Việt Nam.
Không tiếp thu đề xuất bổ sung giấy tờ nhân thân do quốc gia sở tại cấp đối với trường hợp khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam vì quy định hiện tại đã yêu cầu cung cấp số hộ chiếu.
|
|
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Điều 10:Thông tin nhận biết khách hàng
Kiến nghị: - Theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, cần phân chia 3 trường hợp: i) Đơn giản/ rút gọn/ giảm nhẹ (SDD – simplified due diligence), ii) Tiêu chuẩn (CDD - customer due diligence) và iii) Tăng cường (EDD – Enhanced due diligence). Theo đó, Điều 10 này cần quy định các thông tin KYC theo 3 trường hợp nêu trên (hoặc ít nhất có thể bỏ SDD, quy định 2 trường hợp sau). Chẳng hạn, khoản 1 quy định “Thông tin nhận biết khách hàng tiêu chuẩn” và khoản 2 quy định “Thông tin nhận biết khách hàng nâng cao”.
- Bổ sung khoản cuối cùng về trách nhiệm “cập nhật thông tin nhận biết khách hàng” (chuyển 1 phần nội dung của Điều 11 lên) để đảm bảo logic Điều 10 về Thông tin nhận biết khách hàng (KYC) và Điều 11 về xác minh thông tin (verification).
Lý do: Phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đồng thời phù hợp với Điều 14 mới bổ sung (lưu ý Điều 14, khoản 2 điểm c có đề cập đến “thông tin khách hàng tăng cường” nhưng không được quy định ở bất kỳ điều, khoản nào).
|
Không tiếp thu
- Điều 10 dự thảo Luật chỉ nêu các thông tin cần thu thập trong quá trình thực hiện nhận biết khách hàng.
Đối với các khách hàng có rủi ro thấp/trung bình/cao, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp giảm thiểu/thông thường/nâng cao để thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin phù hợp quy định tại Điều 16. Như vậy, đối với từng nhóm khách hàng khác nhau, đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tương ứng, không chỉ phân loại theo thông tin cần thu thập.
- Điều 11 đưa ra các yêu cầu đối với đối tượng báo cáo khi thực hiện việc cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, trong khi đó Điều 10 chỉ đưa ra yêu cầu đối với thông tin nhận biết khách hang.
- Khoản 3 Điều 16 đã quy định Thống đốc NHNN sẽ quy định chi tiết về các biện pháp tăng cường, bao gồm việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin tăng cường.
|
|
|
VCCI
|
Mục (i) điểm a khoản 1 Điều 10 Dự thảo quy định khách hàng cá nhân là người Việt Nam cần thu thập các thông tin nhận biết khách hàng, trong đó có số điện thoại liên lạc. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này là chưa phù hợp với một số khách hàng, đặc biệt là đối tượng khách hàng là người cao tuổi hoặc người có thu nhập thấp, từ đó gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực hiện.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng cho phép không thu thập thông tin này.
|
Không tiếp thu. Số điện thoại là một trong các thông tin đối tượng báo cáo phải thu thập khi nhận biết thông tin khách hàng, phù hợp với khuyến nghị của FATF.
|
|
|
|
- Khoản 2 Điều 10 quy định:
Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: Đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi theo các thông tin quy định tại khoản 1 Điều này.
Kiến nghị:
- Đối với chủ sở hữu hưởng lợi cuối cùng là người nước ngoài đặc biệt nếu các cá nhân này thuộc các quốc gia có các điều luật về bảo mật thông tin cá nhân thì việc thu thập thông tin của chủ sở hữu hưởng lợi cuối cùng gặp rất nhiều khó khăn.
Các thông tin họ và tên, ngày tháng năm sinh hoặc địa chỉ, quốc tịch được đánh giá là đủ thông tin để nhận dạng, nhận biết chủ sở hữu hưởng lợi, các thông tin như số điện thoại liên lạc, số hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân do quốc gia sở tại cấp đối với người không cư trú, ngày cấp, nơi cấp, sổ thị thực nhập cảnh được đánh giá là không cần dùng cho mục đích nhận dạng chủ sở hữu
Kính đề nghị NHNN cân nhắc cho phép TCTD chỉ phải thu thập thông tin họ tên, ngày tháng năm sinh của Chủ sở hữu hưởng lợi, các thông tin cá nhân khác sẽ được thu thập nếu sẵn có và được cung cấp.
|
Tiếp thu, dự thảo Luật đã bỏ tham chiếu “theo các thông tin quy định tại khoản 1 Điều này”, đồng thời bổ sung khoản 5 giao Chính phủ quy định chi tiết việc xác định chủ sở hữu hưởng lợi và thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi để phù hợp từng thời kỳ.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
a) Điểm a Khoản 1 Điều 10 Dự thảo quy định: “1. Thông tin nhận dạng khách hàng: a) Đối với khách hàng cá nhân có một quốc tịch là:…”.
- Tiết (i) điểm a Khoản 1 Điều 10: Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung thêm loại thông tin nhận biết khách hàng bao gồm Giấy khai sinh hoặc mã số định danh để phù hợp với đối tượng khách hàng dưới 14 tuổi (chưa có chứng minh thư/căn cước công dân/hộ chiếu).
|
a) Tiếp thu, bổ sung “số định danh cá nhân” tại điểm a khoản 2 Điều 10.
|
|
|
- Tiết (ii) Điểm a Khoản 1 Điều 10: Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung thêm số thẻ tạm trú nếu người nước ngoài có thẻ tạm trú.
|
- Thông tin nhận dạng đối với khách hàng là cá nhân có 01 quốc tịch là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phải có địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ đăng ký cư trú ở Việt Nam, do đó không cần bổ sung số thẻ tạm trú
|
|
|
b) Điểm b Khoản 1 Điều 10 Dự thảo quy định thông tin nhận dạng khách hàng: b) Đối với khách hàng cá nhân là người có từ hai (02) quốc tịch trở lên, ngoài những thông tin theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều này, đối tượng báo cáo phải thu thập bổ sung thông tin về các quốc tịch, các địa chỉ đăng ký cư trú tại các quốc gia mang quốc tịch.
TCTD không có căn cứ nhận biết khách hàng có một quốc tịch hoặc có từ hai quốc tịch trở lên. TCTD chỉ có thể xác định khách hàng có một quốc tịch hoặc có từ hai quốc tịch trở lên trên cơ sở thông tin do khách hàng cung cấp, nếu khách hàng có từ hai quốc tịch trở lên nhưng không cung cấp thông tin cho TCTD, thì TCTD cũng không thể kiểm tra, xác minh được. Đề nghị xem xét quy định rõ việc nhận biết thông tin khách hàng có một quốc tịch hoặc có từ hai quốc tịch trở lên dựa trên thông tin, tài liệu do khách hàng cung cấp.
|
Điểm d Khoản 2 Điều 10: Các thông tin ban đầu mà ĐTBC thu thập được đều dựa trên cơ sở hồ sơ do khách hàng cung cấp, khai báo, không cần thiết bổ sung nội dung như đề xuất.
|
|
|
c) Điểm d Khoản 1 Điều 10 Dự thảo quy định thông tin nhận dạng khách hàng: “d) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập, mã số doanh nghiệp; số điện thoại liên lạc, số fax; lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại điểm a khoản này”.
- Hiện tại không phải tổ chức nào cũng có giấy phép thành lập, việc nhận diện các doanh nghiệp có thể dựa trên thông tin mã số doanh nghiệp, do đó cần có quy định chi tiết về từng loại thông tin cần thu thập với từng nhóm đối tượng tổ chức cụ thể.
- Nội dung quy định thông tin “người thành lập” là một trường thông tin được bổ sung đối với thông tin nhận biết khách hàng là tổ chức. Trên thực tế các doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch với khách hàng tổ chức, chỉ đánh giá thông tin doanh nghiệp hiện hữu tại thời điểm giao dịch như địa chỉ trụ sở, mã số doanh nghiệp, người đại diện. Một số trường hợp tại thời điểm xác lập giao dịch không còn đối tượng người thành lập ban đầu. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ yêu cầu thu thập thông tin về “người thành lập”.
- Theo các quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Doanh nghiệp 2020 thì người đại diện của doanh nghiệp bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể một trong những thông tin nhận biết khách hàng tổ chức là thông tin người đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của tổ chức hay cả hai (tại Điểm d trên chỉ quy định chung một trong các thông tin để nhận biết khách hàng tổ chức là phải có thông tin về “người đại diện cho tổ chức”).
Với đối tượng “người nước ngoài”, “người có từ hai quốc tịch trở lên”, “người không có quốc tịch” Dự thảo yêu cầu thông tin nhận dạng bao gồm cả “địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài” (có thể thực hiện qua biện pháp xác minh hộ chiếu còn thời hạn sử dụng tại Điều 12 Dự thảo), đây là một vướng mắc cho các đối tượng báo cáo do thực tế, một số hộ chiếu của các quốc gia không có thông tin “địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài”. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét và điều chỉnh phù hợp.
|
- Về nội dung người thành lập quy định tại điểm e khoản 2 Điều 10 kế thừa quy định Luật PCRT năm 2012. Việc thu thập thông tin về người thành lập doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tại tiêu chí 10.10 của khuyến nghị 10. Theo đó, việc thu thập thông tin về người thành lập pháp nhân là một trong các cơ sở để đối tượng báo cáo xác định được cá nhân hưởng lợi cuối cùng của pháp nhân.
- Về các thông tin khác: dự thảo đã được rà soát, chỉnh sửa cho phù hợp.
|
|
|
|
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa đổi, bổ sung Điểm d Khoản 1 như sau nội dung: “Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập, mã số doanh nghiệp; số điện thoại liên lạc, số fax; lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản này”.
|
Tiếp thu một phần. Bổ sung tại dự thảo “Điểm b, c, d và đ khoản này”.
|
|
|
d) Khoản 2 Điều 10 Dự thảo quy định: “Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: Đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi theo các thông tin quy định tại khoản 1 Điều này. Chính phủ quy định các biện pháp để xác định chủ sở hữu hưởng lợi.”
Hiện tại, Tổ chức tài chính chỉ có thể dựa trên thông tin cung cấp bởi Khách hàng, không có nguồn để xác minh thông tin Khách hàng cung cấp về chủ sở hữu hưởng lợi đã đầy đủ chưa. Các cơ quan cấp giấy phép thành lập cho các doanh nghiệp/tổ chức sẽ là nơi có các thông tin đầy đủ và chính xác nhất, bao gồm cả thông tin chủ sở hữu hưởng lợi. Vì vậy, đề nghị các đối tượng báo cáo cần được phép truy cập dữ liệu này để phục vụ mục đích xác định Chủ sở hữu hưởng lợi.
|
Vấn đề tiếp cận, chia sẻ thông tin, kết nối dữ liệu số của cá nhân, cơ quan nhà nước đã được quy định tại Luật Tiếp cận thông tin ngày 06 tháng 4 năm 2016, Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020. Do vậy, việc bổ sung trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan về việc kết nối và chia sẻ thông tin với đối tượng báo cáo là không phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật này.
|
|
|
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Điểm c khoản 1 Điều 10 quy định: “c) Đối với khách hàng cá nhân là người không quốc tịch: Họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp, chức vụ; sổ thị thực; cơ quan cấp thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và ở Việt Nam”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bỏ yêu cầu thu thập địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài đối với người không có quốc tịch. Theo Công Ước Về Vị Thế Của Người Không Quốc Tịch, 1954: Vị thế cá nhân của một người không quốc tịch sẽ được điều chỉnh theo luật của nước người đó thường trú hoặc, nếu người đó không có nơi thường trú, thì theo luật của nước mà người đó đang sống. Theo đó, không phải trường hợp nào người không có quốc tịch cũng có địa chỉ đăng ký cư trú ở nước ngoài.
c) Đối với khách hàng cá nhân là người không quốc tịch: Họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp, chức vụ; sổ thị thực; cơ quan cấp thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài ở tại Việt Nam và địa chỉ thường trú ở nước ngoài (nếu có).
|
Tiếp thu chỉnh sửa điểm đ khoản 2 điều 10 dự thảo như sau: “Đối với khách hàng cá nhân là người không quốc tịch: … địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài (nếu có), địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở Việt Nam.”
|
|
|
Điểm c khoản 1 Điều 10: Sổ thị thực là tài liệu, thông tin cần thu thập phải là số thị thực mới chính xác.
Kiến nghị: Đề nghị sửa đổi thành: “số thị thực”.
|
Tiếp thu, sửa lại điểm đ khoản 2 điều 10 thành “số giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế (nếu có).”.
|
|
|
Điểm d khoản 1 Điều 10 quy định: Đối với khách hàng tổ chức: tên, giao dịch đầy đủ và viết tắt,..., số fax…, thông tin về người thành lập, người đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại điểm a khoản này”.
Kiến nghị:
-Số fax không còn được sử dụng nhiều trên thực tế, có cần thiết để thu thập thông tin số fax với khách hàng tổ chức nữa không?
- Nên có hướng dẫn cụ thể cách xác định “Người thành lập”.
Khái niệm này có được hiểu theo quy định “Người thành lập doanh nghiệp” của Luật Doanh nghiệp hay không? (k25 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020). Nếu có, người thành lập có thể là tổ chức. Như vậy, không phù hợp khi dẫn chiếu điểm a, khoản 1 Điều 10 (thu thập thông tin cá nhân).
|
- Tiếp thu theo hướng bổ sung tại điểm e khoản 2 điều 10 thông tin số fax là thông tin thu thập nếu có.
- Tiếp thu sửa điểm e khoản 2 điều 10 dự thảo theo hướng: và các thông tin tại điểm này đối với trường hợp người thành lập là tổ chức.
|
|
|
Công ty cổ phần tài chính Điện lực (EVNFinance)
|
Tại điểm d khoản 1 Điều 10 Dự thảo Luật quy định: Thông tin nhận dạng khách hàng là tổ chức bao gồm thông tin về người thành lập, người đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại điểm a khoản này.
Kiến nghị: Nội dung quy định thông tin người thành lập là một trường thông tin được bổ sung đối với thông tin nhận biết khách hàng là tổ chức. Tại nội dung này, EVNFinance đề nghị Ban soạn thảo làm rõ mục đích quy định về thông tin người thành lập được hiểu như thế nào. Do thực tế các doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch với khách hàng tổ chức, chỉ đánh giá thông tin doanh nghiệp hiện hữu tại thời điểm giao dịch như địa chỉ trụ sở, mã số doanh nghiệp, người đại diện. Một số trường hợp tại thời điểm xác lập giao dịch không còn đối tượng người thành lập ban đầu. Đồng thời, TCTD có thể gặp khó khăn việc thu thập, xác minh thông tin nhận biết khách hàng đối với tổ chức do yêu cầu thông tin người thành lập phải đảm bảo nội dung đầy đủ tương tự khách hàng cá nhân, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 10 Dự thảo Luật này. Do đó, EVNFinance đề xuất Ban soạn thảo làm rõ cũng như xem xét về thông tin người thành lập có cần thiết là thông tin bắt buộc khi nhận biết khách hàng là tổ chức.
|
Việc thu thập thông tin về người thành lập doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu tại tiêu chí 10.10 của khuyến nghị 10.
Theo đó, việc thu thập thông tin về người thành lập pháp nhân là một trong các cơ sở để đối tượng báo cáo xác định được cá nhân hưởng lợi cuối cùng của pháp nhân.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 3 Điều 10 quy định: “3. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng khi thiết lập với đối tượng báo cáo;”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN làm rõ thông tin về bản chất mối quan hệ là những thông tin gì.
|
Việc bổ sung nội dung bản chất mối quan hệ kinh doanh tại khoản 4 điều 10 được thực hiện theo khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG. Nội dung này tại dự thảo giao cho Chính phủ hướng dẫn.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 3 Điều 10 Dự thảo quy định: “3. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng khi thiết lập với đối tượng báo cáo;”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ:
a) Định nghĩa mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo là gì, xác định như thế nào nếu khách hàng chỉ sử dụng dịch vụ của đối tượng báo cáo mà đối tượng báo cáo không phát sinh quan hệ kinh doanh khác với khách hàng?
|
KH sử dụng dịch vụ là đã thiết lập mối quan hệ kinh doanh.
|
|
|
|
b) Cụm từ “khi thiết lập”, thiết lập ở đây là thiết lập gì?
|
Tiếp thu. Bỏ cụm từ “thiết lập” tại khoản 4 điều 10
|
|
|
c) Cần xác định nội dung này ngay khi khách hàng lần đầu thiết lập quan hệ với đối tượng báo cáo hay trong quá trình khách hàng giao dịch vì việc xác định “bản chất mối quan hệ kinh doanh của khách hàng” rất khó và không đảm bảo có đầy đủ thông tin, dữ liệu ở ngay giai đoạn thiết lập quan hệ.
|
Điểm a Khoản 2 Điều 9 đã quy định tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi khách hàng lần đầu mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với tổ chức tài chính.
|
|
|
8
|
Điều 11
|
Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực (EVNFinance)
|
Điều 11 Dự thảo Luật quy định ngoài cập nhật, quy định bổ sung thêm xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 11 Dự thảo Luật quy định: Tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin thu thập được chính xác với các hồ sơ hiện có, đặc biệt đối với khách hàng có mức độ rủi ro cao.
Kiến nghị: Tại nội dung này, EVNFinance đánh giá rằng TCTD chỉ đảm bảo được tài liệu dữ liệu thông tin thu thập đầy đủ với các hồ sơ hiện có còn về việc xác minh tính chính xác sẽ phụ thuộc vào nguồn cung cấp dữ liệu. Ngoài ra, tại khoản 2 cũng quy định các tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin thu thập “đặc biệt với khách hàng có mức độ rủi ro cao”. Do vậy, EVNFinance đề xuất Ban soạn thảo làm rõ nội dung nêu trên, đồng thời xem xét điều chỉnh về Điều này phù hợp với thực tế áp dụng.
|
Tiếp thu. Đã chỉnh sửa Điều 11 dự thảo như sau: “Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh, mức độ rủi ro về rửa tiền và nguồn gốc tài sản của khách hàng”.
Việc đối tượng báo cáo phải thực hiện xác minh thông tin khách hàng là thực hiện theo KN và đánh giá của APG tại MER.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội (SHB)
|
Điều 11 về Cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tại Dự thảo
- So với nội dung Điều 10 tại Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, nội dung Điều 11 tại Dự thảo quy định thêm nghĩa vụ xác minh thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng.; quy định thêm về yêu cầu đối tượng báo cáo cập nhật xác minh “tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin thu thập được chính xác với các hồ sơ hiện có, đặc biệt đối với khách hàng có mức độ rủi ro cao”. Theo quan điểm của chúng tôi, việc bổ sung này là hợp lý
- Cần có giới hạn cho nghĩa vụ “xác minh” thông tin, bởi với đối tượng báo cáo, với tư cách là một tổ chức dân sự - không phải cơ quan nhà nước hay cơ quan có thẩm quyền sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác minh thông tin nhận biết khách hàng, đặc biệt với đối tượng người nước ngoài, người có hai quốc tịch trở lên, người không có quốc tịch .. như một ví dụ đã nêu tại mục 3.
|
Điều 12 đã quy định về biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng, đối tượng báo cáo có thể linh hoạt trong việc lựa chọn các cách thức để xác minh thông tin để đạt được mục tiêu đề ra. Việc xác minh thông tin nhằm mục đích để đối tượng báo cáo chắc chắn rằng thông tin nhận biết về khách hàng là phù hợp và chính xác. Trường hợp đối tượng báo cáo không thể xác minh thông tin khách hàng có thể xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc từ chối quan hệ với khách hàng.
|
|
|
Nên có hướng dẫn cụ thể hơn cho việc xác minh là xác minh dựa trên dữ liệu của cơ quan nhà nước hay phải gặp trực tiếp khách hàng; Với những giao dịch qua mạng thì sẽ xác minh như thế nào. Ngoài ra, nếu đối tác của công ty đã xác minh thông tin hoặc công ty thuê dịch vụ KYC của bên thứ 3 thì có cần phải xác minh lại lần nữa hay không?
|
Các biện pháp xác minh thông tin khách hàng đã được quy định rõ tại Điều 12 dự thảo Luật.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điều 11 Dự thảo quy định: “Đối tượng báo cáo phải cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo.
1. Các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành thông qua đối tượng báo cáo phù hợp với những thông tin đã biết về khách hàng, về hoạt động kinh doanh, về rủi ro và về nguồn gốc tài sản của khách hàng;
2. Tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin thu thập được chính xác với các hồ sơ hiện có, đặc biệt đối với khách hàng có mức độ rủi ro cao.”
Kiến nghị: - Đề nghị làm rõ trường hợp khách hàng thay đổi thông tin thì cơ chế nào đảm bảo là chính xác với các "hồ sơ hiện có" tại ngân hàng?
- Đề nghị diễn đạt lại Khoản 2 Điều 11 như sau: “Thông tin nhận biết Khách hàng được thu thập, cập nhật chính xác, đầy đủ và phù hợp” vì các lý do sau:
(i) về bản chất, thông tin nhận biết khách hàng mới là nội dung chính cần quan tâm, tài liệu, dữ liệu... thu thập chỉ để kiểm chứng tính chính xác của thông tin;
(ii) cụm từ "chính xác với các hồ sơ hiện có" không mang nghĩa rõ ràng, dễ gây hiểu lầm, và khi thông tin Khách hàng được cập nhật thì tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin chắc chắn sẽ không chính xác so với "hồ sơ hiện có", (iii) nếu "hồ sơ hiện có" là hồ sơ giao dịch... thì nó đã đươc bao gồm trong khoản 1 hiện tại, (iv) cụm "đặc biệt đối với khách hàng có rủi ro cao" mang tính chất khuyến nghị nhiều hơn là yêu cầu của Luật; và đồng thời đẩy khoản này lên thành khoản 1 và khoản 1 hiện tại thành Khoản 2.
- Đối với quy định “mức độ rủi ro cao” ở khoản này có được hiểu là trùng với quy định “mức độ rủi ro về rửa tiền cao” tại điểm c Khoản 1 Điều 14 hay không, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ và thống nhất từ ngữ tại Dự thảo.
- Tại nội dung này, một số TCTD cho rằng chỉ đảm bảo được tài liệu dữ liệu thông tin thu thập đầy đủ với các hồ sơ hiện có còn về việc xác minh tính chính xác sẽ phụ thuộc vào nguồn cung cấp dữ liệu.
|
Tiếp thu theo hướng chỉnh sửa điều 11, trong đó thay cụm từ “chính xác” bằng “phù hợp”.
- Dự thảo Luật đã bỏ từ “cao”.
- Tiếp thu theo hướng thay cụm từ “chính xác” bằng “phù hợp”.
|
|
|
Điều 11 Dự thảo quy định: “Đối tượng báo cáo phải cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo...”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét giới hạn cho nghĩa vụ “xác minh” thông tin, bởi với đối tượng báo cáo, với tư cách là một tổ chức dân sự - không phải cơ quan nhà nước hay cơ quan có thẩm quyền sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác minh thông tin nhận biết khách hàng, đặc biệt với đối tượng người nước ngoài, người có hai quốc tịch trở lên, người không có quốc tịch ...
|
Đây là một nội dung quan trọng trong khuyến nghị của FATF.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng quy định biện pháp xác minh thông tin khách hàng thông qua giấy tờ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp (Điều 12).
|
|
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
- Chuyển thành Điều 12, nội dung xác minh thông tin nhận biết khách hàng trình bày sau nội dung “thông tin nhận biết khách hàng” (Điều 10) và “tài liệu thu thập thông tin nhận biết khách hàng” (Điều 11 – xem thêm góp ý Điều 12)
- Như góp ý trên Điều 10, Điều này chỉ giới hạn nội dung về xác minh thông tin nhận biết khách hàng (verification)
- Cẩn bổ sung quy định về xác minh thông tin nhận biết khách hàng ngay khi thu thập thông tin (onboarding), chứ không chỉ “trong thời gian thiết lập” (on-going)
|
- Kết cấu các điều khoản đã phù hợp
- Quy định tại khoản 1 Điều 9 dự thảo Luật về nhận biết khách hàng đã bao hàm cả việc thu thập, cập nhật và xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
|
|
|
9
|
Điều 12
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Điều 12: Cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng
Kiến nghị: - Chuyển khoản 1 thành Điều 11 để đảm bảo logic Thông tin nhận biết khách hàng (Điều 10) – Tài liệu cần thu thập (Điều 11) – Xác minh thông tin nhận biết khách hàng (Điều 12)
- Theo đó, đổi tên Điều thành “Tài liệu thu thập thông tin nhận biết khách hàng” (đây chính là KYC documentation/ documents)
- Khoản 2 & 3 chuyển thành các khoản trong Điều 12 mới (Điều 11 hiện tại) – Xác minh thông tin nhận biết khách hàng
|
- Kết cấu các điều khoản đã phù hợp
|
|
|
VCCI
|
Điều 12 dự thảo quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp phải sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay, các doanh nghiệp mới chỉ được kết nối vào một số cơ sở dữ liệu này một cách thủ công, mà chưa được kết nối vào hệ thống này để tiến hành khai thác và đối chiếu thông tin tự đông bằng công nghệ. Việc này làm phát sinh thêm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc tự động hóa và ứng dụng công nghệ vào quy trình xác minh của doanh nghiệp.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thâm quyền trong việc kết nối giữa các cơ sở dữ liệu có thể được chia sẻ do đơn vị mình quản lý với hệ thống của các đói tượng báo cáo nhằm phục vụ mục đích xác minh thông tin nhận biết khách hàng
|
- Hiện nay, việc kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đang được Bộ Công an triển khai và dự kiến sẽ cho phép các tổ chức, cá nhân khai thác thông tin tại Cơ sở dữ liệu quốc gia để thực hiện việc xác minh thông tin khách hàng của đối tượng báo cáo.
- Về việc kết nối cơ sở dữ liệu Bộ ngành: Hiện nay, một số thông tin của bộ ngành đã được công khai trên Cơ sở dữ liệu của bộ ngành, các đối tượng báo cáo được truy cập để khai thác, xác minh thông tin. Đối với các thông tin khác ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng, quy định về bảo mật thông tin, do đó, cần có cơ chế kiểm soát thông qua việc đề nghị cung cấp thông tin có cấp phí (hệ thống thông tin về giao dịch bảo đảm, cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp….). Các nội dung chia sẻ thông tin giữa bộ ngành và đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của Bộ ngành sẽ thực hiện theo các văn bản chuyên ngành, không quy định tại dự thảo Luật này
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điểm a Khoản 1 Điều 12 Dự thảo quy định:
“1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu, để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm
a) Đối với khách hàng là cá nhân: Chứng minh nhân dân, căn cước công dân, hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;”
Kiến nghị:
1. Đề nghị bổ sung thêm loại thông tin nhận biết khách hàng bao gồm Giấy khai sinh hoặc mã số định danh để phù hợp với đối tượng khách hàng dưới 14 tuổi (chưa có chứng minh thư/căn cước công dân/hộ chiếu).
|
Tiếp thu, bổ sung “số định danh cá nhân” tại điểm a khoản 2 Điều 10.
|
|
|
2. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 về thông tin nhận biết khách hàng, đối với khách hàng cá nhân người Việt Nam phải có thông tin về nơi ở hiện tại cũng như cá nhân người nước ngoài phải có thông tin địa chỉ cư trú ở nước ngoài và địa chỉ đăng ký cư trú tại Việt Nam. Tuy nhiên, dựa theo các tài liệu, dữ liệu này (CMND/CCCD/Passport) lại không thể hiện cho việc xác minh các địa chỉ nêu trên. Như vậy, có buộc phải có tài liệu, dữ liệu xác minh đối với các thông tin này hay không? Có thể hiểu rằng các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp để xác minh các thông tin này đúng hay không?
|
Tại điểm a khoản 1 Điều 12 ngoài các giấy tờ được liệt kê cụ thể còn bao gồm “các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp”. Do đó, đối tượng báo cáo có thể yêu cầu cung cấp các giấy tờ có liên quan khác để xác minh các thông tin do khách hàng cung cấp.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank
|
Điểm a, điểm b khoản 1 Điều 12 quy định: “Điều 12. Biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu, để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:a) Đối với khách hàng là cá nhân: Chứng minh nhân dân, căn cước công dân, hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: Giấy phép hoặc quyết định thành lập; quyết định đổi tên gọi, chia tách, sáp nhập; giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (Giám đốc), Kế toán trưởng.”
Kiến nghị: Đối với khách hàng cá nhân: theo yêu cầu tại Khoản 1 Điều 10 về thông tin nhận biết khách hàng, đối với khách hàng cá nhân người Việt Nam phải có thông tin về nơi ở hiện tại cũng như cá nhân người nước ngoài phải có thông tin địa chỉ cư trú ở nước ngoài và địa chỉ đăng ký cư trú tại Việt Nam.
Tuy nhiên dựa theo các tài liệu, dữ liệu này (CMND/CCCD/Passport) lại không thể hiện cho việc xác minh các địa chỉ nêu trên. Như vậy, có buộc phải có tài liệu, dữ liệu xác minh đối với các thông tin này hay không? Có thể hiểu rằng các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp để xác minh các thông tin này đúng hay không?
Đối với khách hàng tổ chức: điều lệ của tổ chức có cần thiết phải thu thập để xác minh hay không nếu các tài liệu, dữ liệu khác đã đầy đủ thông tin có cơ sở định danh tổ chức rồi?
|
CMND/ CCCD/hộ chiếu là những giấy tờ cơ bản để ĐTBC sử dụng để xác minh thông tin tại Điều 10 ngoài ra điểm a Khoản 1 Điều 12 cũng đã quy định đối tượng báo cáo có thể sử dụng các “giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp” để thực hiện xác minh thông tin khách hàng.
Về điều lệ dự thảo kế thừa Luật PCRT năm 2012, bổ sung quy định về điều lệ của tổ chức. Các giấy tờ này là tài liệu để đối chiếu với thông tin khách hàng đã cung cấp cho đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ.
Do vậy, việc quy định các loại giấy tờ cụ thể như dự thảo là phù hợp.
|
|
|
Ngoài ra, đối với chức danh Kế toán trưởng, trường hợp doanh nghiệp chỉ có Người phụ trách kế toán (Điều 20 Nghị định 174/2016/NĐ-CP) thì có thể thay thế bằng tài liệu dữ liệu nào?
|
Tiếp thu ý kiến về chức danh kế toán trưởng, sửa điểm b khoản 1 Điều 12 dự thảo theo hướng “kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán tương đương”.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV);
|
Điểm b khoản 1 Điều 12 quy định: Trong quy định về biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng tổ chức có bao gồm điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (Giám đốc), Kế toán trưởng.
Kiến nghị:
Về biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng quy định tại điều 12, khoản 1, điểm b), trong yêu cầu về tài liệu để xác minh khách hàng là tổ chức có đề cập điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (Giám đốc), Kế toán trưởng, ngân hàng kính đề nghị NHNN xem xét xóa bỏ yêu cầu này hoặc không bắt buộc phải thu thập quyết định bổ nhiệm KTT, hợp đồng thuê TGĐ và điều lệ vì các giấy tờ này mang tính chất thủ tục nội bộ do khách hàng soạn thảo nên vẫn có rủi ro làm giả - gian lận, và không thực sự hỗ trợ cho việc phát hiện nguy cơ rủi ro phòng chống rửa tiền nhằm đơn giản hóa thủ tục tài liệu trong việc xác minh khách hàng.
Kính đề nghị NHNN xem xét chỉnh sửa như sau:
“Điều 12. Biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng một hoặc nhiều tài liệu trong các tài liệu, dữ liệu, để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm: ….”
|
Dự thảo kế thừa Luật PCRT năm 2012, bổ sung quy định về điều lệ của tổ chức. Các giấy tờ này là tài liệu để đối chiếu với thông tin khách hàng đã cung cấp cho đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ.
Do vậy, việc quy định các loại giấy tờ cụ thể như dự thảo là phù hợp.
|
|
|
Hiệp Hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Điểm b khoản 1 Điều 12 quy định: “Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:….
b) Đối với khách hàng là tổ chức; giấy phép hoặc quyết định thành lập; quyết định đổi tên gọi, chia tách, sáp nhập; giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (giám đốc), Kế toán trưởng.
Kiến nghị: Các thông tin cần để nhận biết khách hàng có thể được kiểm tra ở các tài liệu như giấy phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc trên cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, về đầu tư…Do đó, việc kiểm tra thêm điều lệ của tổ chức là không cần thiết, đồng thời tạo ra thêm chi phí lưu trữ hồ sơ của tổ chức.
Do đó, đề xuất việc kiểm tra điều lệ không phải là quy định bắt buộc mà do tổ chức lựa chọn áp dụng trong trường hợp cần xác định chủ sở hữu hưởng lợi nhóm khách hàng có rủi ro cao. Đề nghị sửa đổi: “giấy phép hoặc quyết định thành lập; quyết định đổi tên gọi, chia tách, sáp nhập; giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (giám đốc), Kế toán trưởng.”
|
Không tiếp thu. Vì điều lệ cũng là một trong những tài liệu quan trọng, cần thiết để thu thập thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của khách hàng.
|
|
|
Công ty Tài chính TNHH (FE Credit)
|
Khoản 2 Điều 12: Hiện nay ngân hàng chưa được phép truy cập hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan về việc kết nối và chia sẻ thông tin với đối tượng báo cáo nhằm mục đích thu thập thông tin và đối chiều thông tin khách hàng cung cấp.
|
Vấn đề tiếp cận, chia sẻ thông tin, kết nối dữ liệu số của cá nhân, cơ quan nhà nước đã được quy định tại Luật Tiếp cận thông tin ngày 06 tháng 4 năm 2016, Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020.
- Hiện nay, việc kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đang được Bộ Công an triển khai và dự kiến sẽ cho phép các tổ chức, cá nhân khai thác thông tin tại Cơ sở dữ liệu quốc gia để thực hiện việc xác minh thông tin khách hàng của đối tượng báo cáo.
- Về việc kết nối cơ sở dữ liệu Bộ ngành: Hiện nay, một số thông tin của bộ ngành đã được công khai trên Cơ sở dữ liệu của bộ ngành, các đối tượng báo cáo được truy cập để khai thác, xác minh thông tin. Đối với các thông tin khác ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng, quy định về bảo mật thông tin, do đó, cần có cơ chế kiểm soát thông qua việc đề nghị cung cấp thông tin có cấp phí (hệ thống thông tin về giao dịch bảo đảm, cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp….). Các nội dung chia sẻ thông tin giữa bộ ngành và đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của Bộ ngành sẽ thực hiện theo các văn bản chuyên ngành, không quy định tại dự thảo Luật này .
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit);
|
Khoản 3 Điều 12 quy định: “3. Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Trường hợp này đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức được thuê thực hiện đúng các quy định về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật này và đối tượng báo cáo chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng.”
Kiến nghị:
Tổ chức khác thực hiện công việc xác minh thông tin nhận biết có cần tuân thủ quy định tại điều 19 không.
Kính đề nghị NHNN giải đáp thắc mắc này và cân nhắc sửa đổi như sau: “3. Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác hoặc căn cứ vào các trang thông tin từ nguồn thông tin độc lập, uy tín theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo để xác minh thông tin nhận biết khách hàng”.
|
Điều 12 đã được chỉnh sửa để đảm bảo rõ ràng hơn. Cụ thể, khoản 2 Điều 12 quy định:
“Đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định pháp luật, qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức quy định tại Điều 13 và Điều 14 của Luật này để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 3 Điều 12 Dự thảo quy định: “Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Trường hợp này đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức được thuê thực hiện đúng các quy định về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật này và đối tượng báo cáo chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng.”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định những tổ chức được thuê là đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật này, do đó, những tổ chức đó đương nhiên phải có trách nhiệm thực hiện nhận biết và xác minh thông tin nhận biết của khách hàng; thay vì yêu cầu bên đi thuê phải đảm bảo bên thuê tuân thủ theo quy định về nhận biết và xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
|
Không tiếp thu, đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức được thuê.chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng.
|
|
|
10
|
Điều 13
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); Công ty TNHH Tài chính (FE Credit)
|
Điều 13 quy định: “Căn cứ vào kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của quốc gia, ngành và lĩnh vực hoạt động của mình, đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền để nhận diện và xác định các rủi ro về rửa tiền (đối với khách hàng, quốc gia hoặc khu vực địa lý, các sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc kênh phân phối) của đối tượng báo cáo. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hàng năm.”
Kiến nghị:
Kính đề nghị NHNN xem xét thời hạn thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối tượng báo cáo thành 2 hoặc 3 năm/lần thay vì hàng năm do:
- Số lượng thông tin cần thu thập, phân tích, đánh giá;
- Trong thời gian 1 năm, có thể rủi ro, tiềm năng rủi ro chưa thể hiện để nhận diện và xác định, xu hướng sẽ lộ rõ hơn trong thời gian 2, 3 năm.
|
Không tiếp thu. Do kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền là một trong các căn cứ để phân loại khách hàng trên cơ sở cơ rủi ro về rửa tiền, vì vậy, kết quả đánh giá rủi ro cần phải được cập nhật hàng năm.
Khoản 1 Điều 15 dự thảo Luật đã quy định:
“Đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo”
|
|
|
Hiệp hội Ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 13 Dự thảo quy định: “1. Căn cứ vào kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của quốc gia, ngành và lĩnh vực hoạt động của mình, đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền để nhận diện và xác định các rủi ro về rửa tiền (đối với khách hàng, quốc gia hoặc khu vực địa lý, các sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc kênh phân phối) của đối tượng báo cáo. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hàng năm và phải được cấp có thẩm quyền của đối tượng báo cáo phê duyệt, ban hành.”
Kiến nghị:
- Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền có thời hạn cố định cập nhật hàng năm hay không vì nếu căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của quốc gia, ngành và lĩnh vực hoạt động của mình thì theo nội dung tại Điều 7: Định kỳ 05 (năm) năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá.
Trường hợp cập nhật hàng năm nhưng Đơn vị hoàn toàn không có sự thay đổi rủi ro về rửa tiền thì báo cáo có bắt buộc dựa trên nội dung theo biểu mẫu hoặc có hướng dẫn gì không?
Việc đánh giá này dựa vào kết quả đánh giá rủi ro quốc gia và rủi ro ngành theo chu kỳ 5 năm (Điều 7 Dự thảo). Do đó, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh thời hạn đánh giá rủi ro tại các đối tượng báo cáo phù hợp hơn thay vì đánh giá hàng năm.
|
Theo quy định tại dự thảo, kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền có thời hạn cố định cập nhật hàng năm. Trường hợp cập nhật hàng năm nhưng Đơn vị hoàn toàn không có sự thay đổi rủi ro về rửa tiền thì vẫn phải báo cáo cho NHNN.
|
|
|
- Đề nghị loại bỏ nội dung “(đối với khách hàng, quốc gia hoặc khu vực địa lý, các sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc kênh phân phối)” trong luật do tính chi tiết của nó, ngoài ra, đề nghị xem xét kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật dấu () có nên được sử dụng trong trường hợp này hay không.
|
Tiếp thu. Dự thảo đã bỏ nội dung này tại Điều 15.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit);
|
Khoản 2 Điều 13 quy định: Đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro phải bao gồm cả các biện pháp kiểm soát tăng cường đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro cao về rửa tiền và các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền.
Kiến nghị: Chúng tôi hiểu rằng “quy trình quản lý rủi ro” là tổng hợp các chính sách, quy định nội bộ về quản lý rủi ro rửa tiền tại ngân hàng tùy thuộc vào khẩu vị rủi ro và kết quả đánh giá rủi ro. Kính đề nghị NHNN xác nhận cách hiểu.
Kính đề NHNN xem xét sửa đổi Đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro hoặc kế hoạch khắc phục nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro phải bao gồm cả các biện pháp kiểm soát tăng cường đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro cao về rửa tiền hoặc các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền và các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền”
|
Xác định cách hiểu của BWG là đúng.
Tiếp thu và sửa lại nội dung tại khoản 1 Điều 16 dự thảo mới như sau:
“Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng”
|
|
|
Khoản 2 Điều 13 Dự thảo quy định: “2. Đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro phải bao gồm cả các biện pháp kiểm soát tăng cường đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro cao về rửa tiền và các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại nội dung này. Theo quy định hiện nay tại Thông tư 13, việc quản lý các loại rủi ro tại NHTM luôn có quy trình quản lý rủi ro được xây dựng theo căn cứ chuẩn mực quốc tế. Trong đó rủi ro rửa tiền là 1 loại rủi ro hoạt động phát sinh. Vì vậy, việc xây dựng quy trình quản lý rủi ro riêng đối với việc giảm thiểu rủi ro rửa tiền là không cần thiết. Bên cạnh đó, việc đánh giá rủi ro rửa tiền đã thực hiện hàng năm, trên cơ sở đó sẽ nhận diện các lĩnh vực hoạt động có rủi ro cao về rửa tiền và các biện pháp kiểm soát đối với các lĩnh vực rủi ro. Nội dung này có thể đưa thành yêu cầu quy định trong việc đánh giá rủi ro hàng năm, thay vì quy định thành quy trình quản lý rủi ro.
|
Quy định này không thể hiện yêu cầu đối tượng báo cáo phải có quy trình quản lý rủi ro riêng. Quy trình này có thể nằm trong quy trình chung về quản lý rủi ro của đối tượng báo cáo nhưng phải đề cập đến và có các biện pháp để giảm thiểu rủi ro rửa tiền.
|
|
|
Khoản 2 - Điều 13: Đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo
Kiến nghị:
Bỏ khoản 2 (vì Điều 23 quy định chung về nghĩa vụ ban hành chính sách PCRT) hoặc sửa đổi thành nghĩa vụ cập nhật đánh giá rủi ro khách hàng khi có thay đổi quan trọng về sản phẩm/ địa bàn, lãnh thổ phân phối sản phẩm.
|
Tiếp thu và đã sửa nội dung khoản 2 Điều 15 như sau:
“2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ, ngành quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực của đối tượng báo cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro được ban hành hoặc phê duyệt. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải phổ biến kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo.”
|
|
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Kiến nghị: Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thông thường các tài liệu này cần được dịch sang tiếng Việt, trước khi báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước và gửi cho cơ quan có thẩm quyền quản lý trực tiếp, do đó có thể sẽ vượt quá thời hạn 30 ngày kể từ ngày được ký, ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung.
Kính đề nghị NHNN gia hạn thêm thời hạn báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và các chính sách, quy trình quản lý rủi ro cho Ngân hàng Nhà nước và cơ quan có thẩm quyền quản lý trực tiếp hoặcxem xét sửa thời hạn tính theo ngày làm việc, tránh trường hợp ngày nghỉ lễ dài dẫn đến không đủ thời gian thực hiện báo cáo:
“3. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và các chính sách, quy trình quản lý rủi ro cho Ngân hàng Nhà nước và cơ quan có thẩm quyền quản lý trực tiếp đối tượng báo cáo trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro, chính sách và quy trình quản lý rủi ro được ban hành”.
- Kính đề nghị NHNN xem xét sửa thời hạn tính theo ngày làm việc, tránh trường hợp ngày nghỉ lễ dài dẫn đến không đủ thời gian thực hiện báo cáo.
3. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và các chính sách, quy trình quản lý rủi ro cho Ngân hàng Nhà nước và cơ quan có thẩm quyền quản lý trực tiếp đối tượng báo cáo trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro, chính sách và quy trình quản lý rủi ro được ban hành.
|
Tiếp thu, chỉnh sửa vào Khoản 2 Điều 15 dự thảo như sau:“2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ, ngành quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực của đối tượng báo cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro được ban hành hoặc phê duyệt. Đối tượng báo cáo là tổ chức phải phổ biến kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo”
|
|
|
Khoản 3 - Điều 13: Đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo
Kiến nghị:
Bỏ các quy định về nghĩa vụ báo cáo “các chính sách, quy trình quản lý rủi ro” vì các nội dung này nên đưa vào 1 Điều 23.
|
Tiếp thu, đã bỏ quy định trách nhiệm báo cáo quy trình quản lý rủi ro tại khoản 2 Điều 15 dự thảo Luật.
|
|
|
Bỏ quy định “đồng thời phải phổ biến trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo các kết quả và chính sách, quy trình này” vì điều này chỉ phù hợp với Chính sách, quy trình… việc phải phổ biến “kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền” của toàn Công ty/ đối tượng báo cáo là không cần thiết (chỉ cần cung cấp cho nhân viên khi có yêu cầu). Trên thực tế, điều này thậm chí gây phản ứng phản cảm cho nhân viên (đặc biệt các công ty lớn hàng nghìn nhân viên) khi nhận được những thông tin chuyên sâu, tế nhị về PCRT mà không biết để làm gì/ phải làm gì.
|
Đối tượng báo cáo phải phổ biến trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo các kết quả và chính sách, quy trình quản lý rủi ro để đảm bảo các cán bộ, nhân viên tiếp cận thông tin và nhận thức được rủi ro RT tại tổ chức, đối với từng sản phẩm, dịch vụ của tổ chức, đảm bảo công tác PCRT được thực hiện hiệu quả trong toàn hệ thống.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 3 Điều 13 Dự thảo quy định: “3. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và các chính sách, quy trình quản lý rủi ro cho Ngân hàng Nhà nước và cơ quan có thẩm quyền quản lý trực tiếp đối tượng báo cáo trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro, chính sách và quy trình quản lý rủi ro được ban hành; đồng thời phải phổ biến trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo các kết quả và chính sách, quy trình này.”
Kiến nghị: Do đây là nội dung mới của dự thảo Luật sửa đổi và chưa được quy định tại bất kỳ Luật nào khác nên sẽ khó cho đối tượng báo cáo xác định cấp nào có thẩm quyền phê duyệt báo cáo này (trong Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật các TCTD không quy định về loại báo cáo này thuộc thẩm quyền phê duyệt của cấp nào là ĐHĐCĐ, HĐQT, TGĐ hay chỉ cần người được ủy quyền của các cấp này cũng phê duyệt được?). Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ việc quy định như dự thảo có thể hiểu rằng việc cấp nào có thẩm quyền phê duyệt báo cáo này sẽ do chính đối tượng báo cáo quyết định?
- Để đảm bảo sự thống nhất giữa các ngân hàng trong việc thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền và báo cáo kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền, đề nghị quy định và hướng chi tiết các nội dung:
+ Thời điểm lấy dữ liệu thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền.
+ Thời điểm các TCTD thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền.
+ Thời điểm các TCTD báo cáo NHNN kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền.
+ Quy trình quản lý rủi ro.
|
Khoản 1 Điều 15 của dự thảo quy định: “Đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm. Trường hợp đối tượng báo cáo là tổ chức, kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền phải được phê duyệt theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo”
Do đó, thẩm quyền phê duyệt báo cáo sẽ do đối tượng báo cáo quy định tại quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.
Đối với đề nghị của Hiệp hội ngân hàng về việc quy định và hướng các nội dung đánh giá để đảm bảo sự thống nhất giữa các ngân hàng trong việc thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền và báo cáo kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền, nội dung này sẽ được Thống đốc NHNN hướng dẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 15.
|
|
|
|
1.Về đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo (Điều 13)
a) Hiện tại, chưa có hướng dẫn về cách thức cũng như các tiêu chí đánh giá rủi ro rửa tiền dẫn đến tình trạng kết quả đánh giá của các đối tượng báo cáo không có sự đồng nhất, việc đánh giá không toàn diện, chính xác. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định về việc giao NHNN có văn bản hướng dẫn chi tiết về tiêu chí đánh giá rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố để đối tượng báo cáo thực hiện.
|
Tiếp thu và bổ sung quy định Thống đốc NHNN hướng dẫn chi tiết tại khoản 3 Điều 15
|
|
|
b) Khoản 2 Điều 13 Dự thảo quy định: “2. Đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro phải bao gồm cả các biện pháp kiểm soát tăng cường đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro cao về rửa tiền và các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền.
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét loại bỏ nội dung “và các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền” do việc quy định các biện pháp giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền nên được coi là quyền của đối tượng báo cáo, không nên được coi là nghĩa vụ của họ. Bên cạnh đó, để thuận tiện cho việc áp dụng trong thực tiễn, đề nghị quy định rõ “lĩnh vực hoạt động có rủi ro cao về rửa tiền” sẽ do các đối tượng báo cáo tự xác định hay do Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi có báo cáo đánh giá rủi ro theo ngành.
|
Việc quy định các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền là quyền của ĐTBC. Tùy vào từng trường hợp tương ứng với mức độ rủi ro đã được xác định, ĐTBC có thể lựa chọn áp dụng các biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin thông thường hoặc ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng Đây cũng là yêu cầu theo chuẩn mực quốc tế về PCRT.
Dự thảo luật đã điều chỉnh, bổ sung quy định này tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 16, trong đó quy định rõ: "Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng" và "Đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng".
|
|
|
11
|
Điều 14
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
|
Khoản 1 Điều 14 quy định: 1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền, đối tượng báo cáo phải thực hiện phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo và thông tin nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng.
Kết quả đánh giá rủi ro quốc gia là yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá rủi ro rửa tiền của tổ chức báo cáo (EWR) tuy nhiên tiêu chí phân loại rủi ro ở cấp độ khách hàng được quyết định theo quy định mô hình của từng ngân hàng.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN cân nhắc sửa đổi theo hướng cho phép các ngân hàng tự quyết định các tiêu chí/logic phân loại rủi ro khách hàng như sau: “Đối tượng báo cáo phải xây dựng quy định nội bộ về phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro rửa tiền. Kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành, loại hình khách hàng, loại sản phẩm, dịch vụ khách hàng sử dụng, nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở chính của khách hàng là các cơ sở để các tổ chức báo cáo cân nhắc thiết lập tiêu chí phân loại khách hàng phù hợp với khẩu vị rủi ro và tính chất hoạt động của đối tượng báo cáo”.
|
Tiếp thu một phần và chỉnh sửa khoản 1 Điều 16 theo hướng ĐTBC phải tự xây dựng quy trình quản lý rủi ro, bao gồm phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro và các biện pháp áp dụng tương ứng đối với từng mức độ rủi ro của khách hàng. Kết quả đánh giá rủi ro quốc gia chỉ là căn cứ để đối tượng báo cáo tham khảo trong quá trình xây dựng quy trình quản lý rủi ro.
|
|
|
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Điểm b, điểm c khoản 2 Điều 14 quy định: Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, 11 Luật này.
c. Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao (không bao gồm các khách hàng, giao dịch đã được quy định tại các Điều 15, 16, 17, 18, 19 của Luật này), đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, 11 của Luật này và thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng tăng cường.
Tại Điều 11 quy định về cập nhật và xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Tuy nhiên quy định tại Điều 14 chỉ dẫn chiếu đến hoạt động cập nhật mà không nhắc đến hoạt động xác minh thông tin.
Kiến nghị: Đề nghị sửa đổi: “b… thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10,11 của Luật này.
c… phải thực hiện nhận biết và cập nhật, xác minh thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10,11…”
|
Tiếp thu, rà soát chỉnh sửa tại Khoản 2 Điều 16 dự thảo.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit);
|
Khoản 2c Điều 14 quy định: “c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao (không bao gồm các khách hàng, giao dịch đã được quy định tại các điều 15, 16, 17, 18, 19 của Luật này), đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 9, 10 của Luật này và thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng tăng cường.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi thành:
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao (không bao gồm các khách hàng, giao dịch đã được quy định tại các điều 15, 16, 17, 18, 19 của Luật này), đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, 11 của Luật này và thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng tăng cường..
|
Tiếp thu và chỉnh sửa:
Điểm c khoản 2 Điều 16 tại dự thảo:
“c. Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b khoản này, đối tượng báo cáo phải thực hiện biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
1. Quy định tại khoản 2 Điều 14 dự thảo cho phép Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp tùy thuộc mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng ở mức thấp, trung bình, cao. Tuy nhiên, ngay khi mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch ngân hàng đã phải thực hiện nhận biết, xác minh thông tin khách hàng theo Điều 10, 11 nhưng theo dự thảo, với khách hàng rủi ro thấp, thực hiện nhận biết ở mức độ giảm nhẹ. Đối với khách hàng rủi ro trung bình thực hiện theo Điều 10, 11. Đối với khách hàng rủi ro cao thì chỉ lại nhận biết, xác minh theo Điều 9, 10. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem lại nội dung này?
Đề nghị Ban soạn thảo xác định rõ hơn trách nhiệm nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin của đối tượng báo cáo cụ thể theo hướng (i) hay (ii) như bên để quy định tương ứng. Đồng thời, đề nghị điều chỉnh lại điều khoản dẫn chiếu tại Điểm b, Điểm c Khoản 2 Điều 14 Dự thảo, cụ thể là cần dẫn chiếu đến Điều 9, Điều 10, Điều 11 của Luật.
|
Tiếp thu một phần, đã chỉnh sửa tại phần dẫn chiếu điểm b khoản 2 Điều 16 và nội dung chi tiết sẽ được quy định tại văn bản hướng dẫn của NHNN theo quy định tại khoản 3 Điều 16.
|
|
|
2. Điểm b và Điểm c Khoản 2 Điều 14 Dự thảo đang dẫn chiếu đến điều khoản quy định việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng chưa chính xác.
|
Tiếp thu. Điều chỉnh lại dẫn chiếu tại điểm b, c khoản 2 Điều 16 như sau:
“b. Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9 của Luật này;
c. Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, ngoài các biện pháp như đã được quy định tại điểm b khoản này, đối tượng báo cáo phải thực hiện biện pháp tăng cường bao gồm nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng”
|
|
|
3. Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ có bắt buộc phải 03 mức rủi ro? Nếu chỉ phân loại thành 02 mức rủi ro có được không? Nếu không, đề nghị quy định rõ về việc phải áp dụng cả 03 mức rủi ro để phân loại khách hàng.
Với mức độ giảm nhẹ, tần suất, thông tin thu thập có thể không cần đầy đủ như Điều 10, 11 Dự thảo này?
Đối với điểm b Khoản 2 Điều 14 Dự thảo. Đề nghị làm rõ lý do tại đây không quy định tuân thủ cả Điều 9.
Đối với điểm c Khoản 2 Điều 14: Đề nghị làm rõ lý do tại đây không quy định tuân thủ cả Điều 11.
|
Việc phân loại khách hàng theo 3 mức độ là bắt buộc theo chuẩn mực của FATF.
Dự thảo luật đã được điều chỉnh lại dẫn chiếu cho phù hợp.
|
|
|
4. Có thể xác định rằng các khách hàng và giao dịch đã được quy định tại các điều 15, 16, 17, 18, 19 sẽ không phải thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng tăng cường theo Điều 3 Thông tư 35/2013/TT-NHNN mà chỉ cần tuân thủ đúng yêu cầu trong nội tại các điều 15, 16, 17, 18, 19 đúng hay không?
|
Đối tượng báo cáo vẫn phải áp dụng đồng thời cả Điều 16 và các Điều 14, 17, 18, 19, 20. Để đảm bảo rõ ràng, điểm c Khoản 2 Điều 16 dự thảo đã bỏ đoạn: (không bao gồm khách hàng quy định tại Điều 15, 16, 17, 18, 19).
|
|
|
|
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét chuyển tất cả các nội dung “nhận biết và cập nhật thông tin Khách hàng" thành "Nhận biết, cập nhật và xác minh thông tin Khách hàng” cho phù hợp và thống nhất với tên Điều 11 đã được sửa đổi ở trên.
|
Tiếp thu.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit); PG Bank.
|
Khoản 2 Điều 14 Dự thảo: Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp tùy thuộc vào mức độ rủi ro của khách hàng như sau:
“a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể thực hiện nhận biết và cập nhập thông tin khách hàng ở mức độ giảm nhẹ;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, 11 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao (không bao gồm các khách hàng, giao dịch đã được quy định tại Điều 15, 16, 17, 18, 19 của Luật này), đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 9, 10 của Luật này và thực hiện nhân biết, cập nhật thông tin khách hàng tăng cường.”
Theo Điểm a Khoản 2 Điều 14 Dự thảo, đối tượng báo cáo có thể thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng ở mức độ giảm nhẹ.
Tuy nhiên, từ “có thể” ở đây được hiểu là:
(i) Đối tượng báo cáo không bắt buộc phải nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin theo Điều 9, Điều 10, Điều 11 Quy định này mà được quyền thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng ở mức độ giảm nhẹ; hay
(ii) Đối tượng báo cáo được quyền thực hiện hoặc không thực hiện việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng đối với khách hàng có mức độ rủi ro thấp?
- Ngoài ra, việc nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin hiện được quy định tại Điều 9, Điều 10, Điều 11 Dự thảo.
-> Điểm b và Điểm c Khoản 2 Điều 10 Dự thảo đang dẫn chiếu đến điều khoản quy định việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng chưa chính xác.
Kiến nghị: Xác định rõ hơn trách nhiệm nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin của đối tượng báo cáo cụ thể theo hướng (i) hay (ii) như bên để quy định tương ứng.
Điều chỉnh lại điều khoản dẫn chiếu tại Điểm b, Điểm c Khoản 2 Điều 14 Dự thảo, cụ thể là cần dẫn chiếu đến Điều 9, Điều 10, Điều 11 của Luật.
|
Việc quy định các biện pháp kiểm soát giảm nhẹ đối với các lĩnh vực hoạt động có rủi ro thấp về rửa tiền là quyền của ĐTBC. Tùy vào từng trường hợp tương ứng với mức độ rủi ro đã được xác định, ĐTBC có thể lựa chọn áp dụng các biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin thông thường hoặc ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng Đây cũng là yêu cầu theo chuẩn mực quốc tế về PCRT.
Việc thực hiện nhận biết khách hàng được thực hiện theo quy định tại Điều 9 dự thảo Luật, theo đó được thực hiện trước khi đối tượng báo cáo phân loại khách hàng.
Để đảm bảo rõ ràng, điểm a khoản 2 Điều 16 dự thảo Luật quy định như sau: “Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;”. Tiếp thu, chỉnh sửa tại dự thảo.
|
|
|
Công ty Tài chính cổ phần Điện lực (EVNFC)
|
Khoản 2 Điều 14 Dự thảo Luật quy định: Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp tùy thuộc mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng ở mức độ giảm nhẹ;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, 11 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao (không bao gồm các khách hàng, giao dịch đã được quy định tại các điều 15, 16, 17, 18, 19 của Luật này), đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 9, 10 của Luật này và thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng tăng cường.
Tại Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 có quy định rõ việc phân loại đối tượng mức độ rủi ro về rửa tiền cao, thấp, trung bình nhưng hiện tại Dự thảo Luật sửa đổi đang không quy định cụ thể về phân loại đối tượng. EVNFinance đề xuất Ban soạn thảo đưa ra 1 số tiêu chí chung xác định được để các TCTD hiểu và thực hiện một cách thống nhất trong toàn hệ thống TCTD.
Tại điểm c nêu trên, khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao không bao gồm nhóm khách hàng, giao dịch được quy định tại Điều 18,19 của Dự thảo Luật này. Tuy nhiên, EVNFinance hiểu rằng tại Điều 18 quy định về giám sát đặc biệt một số giao dịch và Điều 19 quy định về nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba không phải là đối tượng khách hàng, giao dịch.
Kiến nghị: Do đó, EVNFinance đề xuất Ban soạn thảo làm rõ nội dung tại điểm c khoản 3 Điều này.
|
Tại khoản 1 Điều 16 dự thảo Luật đã có quy định ĐTBC có trách nhiệm xây dựng quy trình quản lý rủi ro bao gồm việc phân loại khách hàng theo mức độ thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
Tiếp thu, đã chỉnh sửa điểm c Khoản 2 Điều 16 tại dự thảo theo hướng bỏ đoạn “(không bao gồm các khách hàng, giao dịch đã được quy định tại các điều 15, 16, 17, 18, 19 của Luật này)”.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit); PG Bank.
|
Khoản 3 Điều 14 quy định: “Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền: 3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết việc thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng ở mức độ tăng cường và giảm nhẹ.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN hướng dẫn thêm về việc thực hiện nhận biết thông tin khách hàng nếu có thay đổi về yêu cầu cho khách hàng ở mức độ tăng cường và giảm nhẹ.
|
Tiếp thu, đã chỉnh sửa tại khoản 3 Điều 16 giao “Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết điểm a và điểm c khoản 2 Điều này”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 3 Điều 14:
Kiến nghị: - Trong quy định tại Dự thảo này chưa có điều khoản yêu cầu nhận biết và cập nhật thông tin đối với khách hàng ở mức độ tăng cường và giảm nhẹ. Các Nghị định và Thông tư liên quan đang còn hiệu lực chỉ quy định các yêu cầu nhận biết tăng cường với khách hàng rủi ro cao. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo có quy định cụ thể trường hợp nhận biết đối với trường hợp rủi ro thấp (mức độ giảm nhẹ).
- Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong việc hướng dẫn quy định phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo.
|
Tiếp thu, đã chỉnh sửa tại khoản 3 Điều 16 giao NHNN hướng dẫn.
Về việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thực hiện theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo. Cụ thể, khoản 1 Điều 16 dự thảo Luật quy định: “Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng”.
|
|
|
Khoản 4 Điều 14 Dự thảo quy định: “1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền, đối tượng báo cáo phải thực hiện phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo và thông tin nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng.”
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ việc “căn cứ kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền” nhưng lại “trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền” là như thế nào?
|
Tiếp thu và chỉnh sửa Khoản 1 Điều 16 tại dự thảo.
|
|
|
- Đề nghị Ban soạn thảo diễn đạt lại nội dung khoản này như sau: “Căn cứ trên kết quả nhận biết, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng, kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền, kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo đối tượng báo cáo phải thực hiện phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro về rửa tiền” do thông tin quan trọng và có ảnh hưởng đến việc phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro rửa tiền là thông tin nội tại liên quan đến khách hàng đó - thông tin nhận biết Khách hàng, các thông tin liên quan đến rủi ro rửa tiền của quốc gia, ngành hay đối tượng báo cáo chỉ nên là các thông tin bổ sung khi xem xét rủi ro rửa tiền của khách hàng.
|
Tiếp thu một phần và chỉnh sửa tại Khoản 1 Điều 16 dự thảo như sau:
“Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng”
|
|
|
Tại Luật PCRT 2012 có quy định rõ việc phân loại đối tượng mức độ rủi ro về rửa tiền cao, thấp, trung bình nhưng hiện tại Dự thảo Luật sửa đổi đang không quy định cụ thể về phân loại đối tượng. Đề nghị Ban soạn thảo đưa ra 1 số tiêu chí chung xác định được để các TCTD hiểu và thực hiện một cách thống nhất trong toàn hệ thống TCTD.
|
Về việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thực hiện theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo. Cụ thể, khoản 1 Điều 16 dự thảo Luật quy định: “Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền quy định tại Điều 15 của Luật này, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền phải bao gồm cả việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
|
|
|
12
|
Điều 15
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit); Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam; Hiệp hội ngân hàng; Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi như sau:
Khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức hữu quan bộ máy nhà nước của nước ngoài và tổ chức quốc tế.
Kiến nghị ban soạn thảo xem xét làm rõ các nội dung sau:
+ Định nghĩa rõ cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người nước ngoài.
+ Định nghĩa rõ thế nào là “cơ quan, tổ chức hữu quan của nước ngoài, tổ chức quốc tế.”
+ Định nghĩa rõ thế là“người giữ chức vụ cấp cao”, “tổ chức quốc tế”.
+ Quy định rõ nguồn để TCTD xác định danh sách cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
|
Tiếp thu và bổ sung đối tượng PEP từ các tổ chức quốc tế tại khoản 1 Điều 17.
|
|
|
|
|
|
Kính đề nghị NHNN bổ sung hướng dẫn cụ thể định nghĩa về chức vụ cấp cao theo FATF.
|
Tiếp thu một phần, đã chỉnh sửa dự thảo theo hướng: “Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo”.
|
|
|
VCCI
|
Điều 15 dự thảo quy định về việc thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro với khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị. Tuy nhiên, dự thảo không có quy định các đối tượng báo cáo sẽ căn cứ vào nguồn nào để xác định một khách hàng có thuộc diện là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị hay không. Theo giải trình của cơ quan soạn thảo, các tổ chức báo cáo có nhiều cách thức để truy cập nguồn này thông qua mối quan hệ hợp tác kinh doanh và đối tác. Tuy nhiên, quy định này là không phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các tổ chức tài chính nhỏ và các tổ chức phi tài chính có liên quan, vốn không có đủ nguồn lực và thông tin để thực hiện. Ngoài ra, quy định như vậy có thể tạo ra tình trạng mỗi đối tượng báo cáo sẽ có các tiêu chí, danh sách riêng. Trước đây, Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 đã quy định các đối tượng báo cáo có thể sử dụng danh sách được ban hành bởi Ngân hàng Nhà nước để tuân thủ.
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục giữ nguyên quy định này của Luật Phòng, chống rửa tiền 2012 và bổ sung nội dung trên vào Dự thảo.
|
Tiếp thu ý kiến, khoản 1 Điều 17 dự thảo Luật kế thừa nội dung này của Luật PCRT năm 2012 và có chỉnh sửa để phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính kịp thời, tính khả thi của quy định.
Theo đó bổ sung tại khoản 1 Điều 17 dự thảo Luật như sau: “Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 2 Điều 15 Dự thảo quy định: “2. Đối tượng báo cáo phải: a) Có hệ thống quản lý rủi ro nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị;
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị;
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và thực hiện giám sát tăng cường mối quan hệ kinh doanh.”
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ biện pháp mà TCTD phải thực hiện, tài liệu mà TCTD cần thu thập để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
- Quy định trên cho thấy đối tượng báo cáo phải “Có hệ thống quản lý rủi ro nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.” Như vậy mỗi tổ chức sẽ có cách phân loại PEP riêng, có thể cá nhân này là PEP đối với tổ chức A nhưng lại không phải là PEP đối với tổ chức B.
- Đề nghị xem xét điều chỉnh phù hợp áp dụng với các TCTD quy mô lớn và nhỏ, theo hướng không bắt buộc có hệ thống mà chỉ cần có phương thức quản lý hoặc cách thức nhận diện để xác định khách hàng/chủ sở hữu hưởng lợi thuộc danh sách PEP. Do các TCTD quy mô nhỏ đều có xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phù hợp với hệ thống, việc kiểm soát khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị thông qua quản lý rủi ro có phương thức quản lý và cách thức nhận diện để đảm bảo nhận diện được nhóm khách hàng này.
|
Dự thảo đang quy định theo hướng giao TCTD ban hành quy định nội bộ và xác định các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản để đảm bảo với từng đối tượng báo cáo. Nội dung này cũng là một trong những khuyến nghị của FATF. Bên cạnh đó, dự thảo bổ sung quy định tại khoản 1 điều 17: “Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo”
Đây là một trong các cơ sở để TCTD tham khảo và xác định cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
|
|
|
- Tại điểm c Khoản 2 Điều 15 Dự thảo quy định về cá nhân có ảnh hưởng chính trị hầu hết là người nước ngoài, do đó yêu cầu “xác minh nguồn gốc tài sản” là rất khó, đề nghị có hướng dẫn cụ thể. Đồng thời, đề nghị bổ sung khái niệm “giám sát tăng cường”, nội dung “giám sát tăng cường” là gì.
|
Tiếp thu. Bỏ từ “tăng cường" tại điểm c khoản 2 điều 17 dự thảo.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit); Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Khoản 3b Điều 15 quy định: “b) Bất kỳ người nào có các mối quan hệ với cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này, gồm:
(i) Đồng chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này;
(ii) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý được thành lập và hoạt động vì lợi ích của cá nhân nêu tại khoản 1 Điều này.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sử dụng định nghĩa được đưa ra bởi Wolfsberg group trong Wolfberg PEP Guidance 2017 vì định nghĩa này mang tính tổng quát và mang tính áp dụng thực tế:“b) bao gồm cá nhân được biết đến rộng rãi và phổ biến là đối tác kinh doanh gần gũi hoặc nhà tư vấn cá nhân, đặc biệt là những người được ủy thác tài chính bởi cá nhân có ảnh hưởng chính trị”.
|
Không tiếp thu. Quy định của Wolfsberg group trong Wolfberg PEP Guidance 2017 thì rất khó làm rõ trong Luật như: đối tác kinh doanh gần gũi được hiểu như thế nào? Do đó, quy định như tại dự thảo đảm bảo rõ ràng hơn.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điểm b Khoản 3 Điều 15 Dự thảo quy định: “3. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp quy định tại khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây: b) Bất kỳ người nào có các mối quan hệ với cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này, gồm: (i) Đồng chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này; (ii) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý được thành lập và hoạt động vì lợi ích của cá nhân nêu tại khoản 1 Điều này.”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo không nêu “mối quan hệ” chung chung, cần nêu rõ quan hệ dân sự hay quan hệ nhân thân để TCTD có cơ sở triển khai thực hiện.
|
Tiếp thu một phần và chỉnh sửa khoản 3 Điều 17 như sau:
“3. Đối tượng báo cáo phải thực hiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Đồng sở hữu với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý;
c) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý do cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này sở hữu.”
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit); Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Về tiêu đề tại Điều 15: Vì nội dung của điều khoản này bao gồm cả trường hợp khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và chủ sở hữu hưởng lợi của khách hàng doanh nghiệp là cá nhân có ảnh hướng chính trị, do vậy chúng tôi đề xuất sửa đổi lại tiêu đề của điều khoản này để tránh gây nhầm lẫn.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa tiêu đề của Điều 15 thành “Cá nhân có ảnh hưởng chính trị” hoặc “Khách hàng hoặc Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị”.
|
Tiếp thu, tên Điều 17 đã được sửa đổi phù hợp với nội dung.
|
|
|
Điều 15.2 không quy định trường hợp đại diện của tổ chức (đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền) là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét xác nhận Điều 15.2 không áp dụng cho trường hợp người đại diện của tổ chức là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
|
Dự thảo Luật đã quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo trong việc thu thập thông tin nhận biết khách hàng tại điểm d khoản 1 Điều 10, trong đó quy định thông tin nhận biết của tổ chức bao gồm thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, những đối tượng này có thể là chủ sở hữu hưởng lợi của tổ chức và là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
|
|
|
Cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP) có thể là chủ sở hữu hưởng lợi của tổ chức/ công ty. Nội dung Khoản 1, Điều 15 được hiểu PEP chỉ áp dụng cho khách hàng cá nhân. Tổ chức có chủ sở hữu hưởng lợi là PEP sẽ không được xem là PEP, và đối tượng báo cáo không phải áp dụng Điều 15 cho tổ chức đó.
Quản lý cấp cao phê duyệt quan hệ kinh doanh với PEP là ở câp bậc nào hay có thể theo quy định nội bộ?
Điểm b, Khoản 3, Điều 15 hiểu chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân, thỏa thuận pháp lý có sự tham gia của PEP hoặc vì lợi ích của PEP có thể xem như là PEP và chịu sự giám sát tại Khoản 2, Điều 15.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi khoản 2 như sau:
b. Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng cá nhân là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và thực hiện giám sát tăng cường mối quan hệ kinh doanh với đối tượng báo cáo.
|
Tiếp thu một phần, bổ sung cụm từ “theo quy định nội bộ” tại điểm b khoản 2 Điều 17
Tiếp thu và điều chỉnh điểm c khoản 2 Điều 17.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit)
|
Điều 15.2.c) chưa làm rõ khái niệm “biện pháp thích hợp”.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN làm rõ khái niệm “biện pháp thích hợp” trong Điều 15.2.c).
|
Dự thảo Luật không quy định chi tiết các biện pháp xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng. Biện pháp thích hợp phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của tổ chức.
|
|
|
Khoản 2c Điều 15 quy định: “2.c Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và thực hiện giám sát tăng cường mối quan hệ kinh doanh.
Đối với khách hàng là tổ chức, yêu cầu về việc xác minh nguồn gốc tài sản của chủ hưởng lợi là cá nhân là điều không thể thực hiện được”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi đối với khách hàng tổ chức chỉ yêu cầu xác minh chủ sở hữu hưởng lợi và làm KYC trên chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân mà không cần xác minh nguồn gốc tài sản của chủ sở hữu hưởng lợi
Kính đề nghị NHNN xem xét hướng dẫn cụ thể và cách thức xác minh tài sản.
|
Việc xác minh nguồn gốc tài sản của chủ sở hữu hưởng lợi là yêu cầu theo khuyến nghị của FATF và là thông tin quan trọng trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Về cách thức xác minh tài sản, dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo có biện pháp thích hợp, tạo sự linh hoạt cho tổ chức, và điều này chỉ xác định đối với khách hàng PEP.
|
|
|
Điều 15.3. Đang giới hạn áp dụng cho khách hàng cá nhân.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xác nhận Điều 15.3 chỉ áp dụng trong trường hợp khách hàng cá nhân.
|
Khoản 3 Điều 17 chỉ áp dụng trong trường hợp khách hàng cá nhân.
|
|
|
Công ty tài chính cổ phần điện lực (EVNFinance)
|
Khoản 3 (ii) Điều 15 quy định: “(ii) Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý được thành lập và hoạt động vì lợi ích của cá nhân nêu tại khoản 1 Điều này.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN giải thích thêm về điểm này.
|
Chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân, thỏa thuận pháp lý được thành lập, hoạt động, thiết lập vì lợi ích của PEP.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Dầu khí (PGBank)
|
Khoản 2 Điều 15 quy định: 2. Đối tượng báo cáo phải:
a) Có hệ thống quản lý rủi ro nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị;
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị;
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và thực hiện giám sát tăng cường mối quan hệ kinh doanh.”
Kiến nghị: TCTD không có căn cứ để xác định chủ sở hữu hưởng lợi đặc biệt với trường hợp cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người nước ngoài. TCTD chỉ có thể xác định chủ sở hữu hưởng lợi trên cơ sở thông tin, tài liệu do khách hàng cung cấp, nếu khách hàng không cung cấp thông tin cho TCTD, thì TCTD cũng không thể kiểm tra, xác minh được chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị
- Kiến nghị ban soạn thảo quy định TCTD chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị trên cơ sở thông tin và tài liệu do khách hàng cung cấp.
|
Việc nhận biết, xác minh thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của khách hàng là bắt buộc đối với các đối tượng báo cáo theo khuyến nghị của FATF.
|
|
|
- Kiến nghị ban soạn thảo quy định rõ biện pháp mà TCTD phải thực hiện, tài liệu mà TCTD cần thu thập để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
|
Về cách thức xác minh tài sản, dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo có biện pháp thích hợp, tạo sự linh hoạt cho tổ chức, và điều này chỉ xác định đối với khách hàng PEP.
|
|
|
- Kiến nghị ban soạn thảo quy định nội dung giám sát tăng cường.
|
Tiếp thu chỉnh sửa điểm c khoản 2 điều 17 theo hướng: thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Dầu khí (PGBank); Hiệp hội ngân hàng
|
- Kiến nghị ban soạn thảo định nghĩa rõ thế nào là mối quan hệ kinh doanh.
|
Mối quan hệ kinh doanh để chỉ các quan hệ được thiết lập giữa PEP và đối tượng báo cáo.
|
|
|
- Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 15 Dự thảo thì đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng cá nhân có ảnh hưởng chính trị. Tuy nhiên, trong Dự thảo không có giải thích về thuật ngữ “quản lý cấp cao” cũng như cách xác định, do đó, chưa rõ “quản lý cấp cao” mà Ban soạn thảo đề cập trong quy định này cụ thể là cấp nào? xác định theo tiêu chí nào. Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ về “quản lý cấp cao” tại điểm b Khoản 2 Điều 15 Dự thảo Luật ở đây là cấp nào hoặc đưa ra tiêu chí xác định?
|
Tiếp thu, Dự thảo bổ sung quy định “quản lý cấp cao” theo quy định nội bộ. Theo đó, TCTD căn cứ quy định nội bộ để xác định đối tượng này.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Dầu khí (PGBank); EVNFinance
|
Tại điểm a khoản 2 Điều 15 Dự thảo Luật quy định: Đối tượng báo cáo phải có hệ thống quản lý rủi ro nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
Kiến nghị: EVNFinance đề xuất Ban soạn thảo xem xét điều chỉnh phù hợp áp dụng với các TCTD quy mô lớn và nhỏ, theo hướng không bắt buộc có hệ thống mà chỉ cần có phương thức quản lý hoặc cách thức nhận diện để xác định khách hàng/chủ sở hữu hưởng lợi thuộc danh sách PEP. Do các TCTD quy mô nhỏ đều có xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phù hợp với hệ thống, việc kiểm soát khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị thông qua quản lý rủi ro có phương thức quản lý và các thức nhận diện để đảm bảo nhận diện được nhóm khách hàng này.
|
Tiếp thu bổ sung điểm a khoản 2 điều 17 như sau: có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp…
|
|
|
Ngân hàng TMCP Dầu khí (PGBank)
|
Điểm b Khoản 2 Điều 15 Dự thảo:
Điều 15. Khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị
b) Được sự chấp nhận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng cá nhân có ảnh hưởng chính trị;” kinh doanh với khách hàng cá nhân có ảnh hưởng chính trị;”
Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 15 Dự thảo thì đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
Tuy nhiên, trong Dự thảo không có giải thích về thuật ngữ “quản lý cấp cao” cũng như cách xác định, do đó, chưa rõ “quản lý cấp cao” mà Ban soạn thảo đề cập trong quy định này cụ thể là cấp nào? xác định theo tiêu chí nào?
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ về “quản lý cấp cao” tại Điểm b Khoản 2 Điều 15 Dự thảo Luật ở đây là cấp nào hoặc đưa ra tiêu chí xác định?
|
Tiếp thu, chỉnh sửa dự thảo tại điểm b khoản 2 điều 17 theo hướng quản lý cấp cao theo quy định nội bộ của đối tượng báo cáo.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
a) Khoản 1 Điều 15 Dự thảo quy định: “1. Khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức hữu quan của nước ngoài và tổ chức quốc tế.
1. Đề nghị xem xét hướng dẫn trong các văn bản dưới luật về việc xác định chức vụ như thế nào được coi là "chức vụ cấp cao". Vì hiện tại, nhiều tổ chức báo cáo đang sử dụng danh sách PEP (người có ảnh hưởng chính trị) do bên thứ ba cung cấp và trong danh sách này, có rất nhiều "lớp" PEP bao gồm: PEP trung ương, PEP địa phương, PEP là người chức vụ cao trong các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức quốc tế toàn cầu, tổ chức quốc tế khu vực... , đồng thời mỗi 1 bản ghi PEP lại có nhiều bản ghi là người liên quan của họ dẫn đến nếu đối tượng báo cáo không có tiêu chí phân loại, lựa chọn mà phải lựa chọn hết danh sách PEP do bên thứ ba cung cấp thì số lượng các bản ghi sẽ rất lớn (hàng triệu bản ghi) và gây khó khăn rất lớn cho NH.
|
1. Tiếp thu, đã chỉnh sửa khoản 1 điều 17 dự thảo theo hướng: Đối tượng báo cáo rà soát các nguồn thông tin đã thu thập, bao gồm cả nguồn thông tin về danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo để lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo.
|
|
|
b) Điểm a Khoản 2 Điều 15 Dự thảo quy định Đối tượng báo cáo phải: “a) Có hệ thống quản lý rủi ro nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị”.
TCTD không có căn cứ để xác định chủ sở hữu hưởng lợi đặc biệt với trường hợp cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người nước ngoài. TCTD chỉ có thể xác định chủ sở hữu hưởng lợi trên cơ sở thông tin, tài liệu do khách hàng cung cấp, nếu khách hàng không cung cấp thông tin cho TCTD, thì TCTD cũng không thể kiểm tra, xác minh được chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định TCTD xác định chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có ảnh hưởng chính trị trên cơ sở thông tin và tài liệu do khách hàng cung cấp.
|
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 10“Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi”. Do đó, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi. Đồng thời tại khoản 4 Điều 10 dự thảo Luật quy định giao Chính phủ quy định chi tiết khoản 2 Điều 10 dự thảo Luật về thông tin chủ sở hữu hưởng lợi.
|
|
|
13
|
Điều 16
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 1 Điều 16 quy định: “1. Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và bảo đảm thông tin giám sát về ngân hàng đối tác phải chịu sự giám sát, quản lý của cơ quan quản lý có thẩm quyền nước ngoài; của nước ngoài, trong đó, bao gồm cả thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật khác hay không .”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN làm rõ “thông tin giám sát”.
|
Tại khoản 1 Điều 18 dự thảo Luật đã bỏ cụm từ “thông tin giám sát”.
|
|
|
Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi khoản 1 thu hẹp phạm vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng vì đối tượng kiểm tra đang là tổ chức tài chính:
- Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin giám sát về ngân hàng đối tác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, trong đó, bao gồm cả thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng khác hay không.
|
Tiếp thu một phần ý kiến góp ý.
Chỉnh sửa cụm từ “hay các vi phạm pháp luật khác hay không” thành cụm từ “hoặc các vi phạm pháp luật khác về PCRT”.
|
|
|
- Kính đề xuất NHNN làm rõ nguồn dữ liệu được phép để thu thập thông tin giám sát về ngân hàng đối tác do có thể đa số các trường hợp đối tượng báo cáo không thể truy cập được vào cơ sở dữ liệu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa điểm a khoản 1 điều 18 tại dự thảo như sau: “Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hoặc các vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 16 quy định: “Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với ngân hàng đối tác nước ngoài phải áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm: 1. Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin giám sát về ngân hàng đối tác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, trong đó, bao gồm cả thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật khác hay không”.
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét diễn đạt lại đoạn “và thông tin giám sát về ngân hàng đối tác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, trong đó, bao gồm cả thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật khác hay không” thành “và thông tin giám sát về ngân hàng đối tác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài bao gồm thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật khác hay không”do nội dung thông tin giám sát về ngân hàng đối tác quy định như hiện tại là rất rộng và tổ chức tài chính Việt Nam khó có thể tiếp cận được đầy đủ.
|
Tiếp thu theo hướng đã bỏ cụm từ “thông tin giám sát” tại khoản 1 Điều 18 dự thảo Luật.
|
|
|
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển (BIDV)
|
Khoản 2 Điều 16 Dự thảo yêu cầu “Đánh giá việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác” như vậy phải thu thập được thông tin này, thông tin này chỉ có thể thu thập do chính đối tác cung cấp.
Theo khái niệm về “quan hệ ngân hàng đại lý” được hiểu “đối tác” là ở cả 2 chiều cung cấp dịch vụ và sử dụng dịch vụ. Nếu đối tác sử dụng dịch vụ của BIDV thì có thể thu thập được thông tin về biện pháp PCRT nhưng ở chiều ngược lại nếu chỉ có BIDV sử dụng dịch vụ của đối tác, đặc biệt là các ngân hàng lớn thì việc thu thập thông tin trong thực tế là rất khó khăn.
Kiến nghị: Do đó đề nghị giới hạn quy định tại Điều này áp dụng chỉ với trường hợp đối tượng báo cáo cung cấp dịch vụ cho đối tác.
|
Theo quy định tại Điều 18 dự thảo Luật chỉ điều chỉnh quan hệ ngân hàng đại lý một chiều cụ thể: “Đối tượng báo cáo là tngân hàng khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác…”
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit)
|
Khoản 4, khoản 5 Điều 16 quy định: “4. Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của mỗi tổ chức trong quan hệ đại lý.”
“5. Trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo. Đối tượng báo cáo phải đảm bảo rằng tài khoản của ngân hàng đối tác không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.”
Kiến nghị: - Kính đề nghị NHNN xem xét điều chỉnh “mỗi tổ chức” thành “của ngân hàng đối tác”.
- Kính đề nghị NHNN xem xét điều chỉnh “tài khoản của ngân hàng đối tác không được phép sử dụng” thành “tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng”.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa nội dung tại điểm c khoản 1 và khoản 2 điều 18.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 4 Điều 16 quy định: “4. Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của mỗi tổ chức trong quan hệ đại lý”.
Kiến nghị: - Đề nghị diễn đạt lại nội dung này thành "Nhận biết rõ ràng các trách nhiệm Phòng, chống rửa tiền của mình và của ngân hàng đối tác trong quan hệ ngân hàng đại lý” để rõ nghĩa hơn.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa nội dung điểm c khoản 1 điều 18 để làm rõ nghĩa hơn, theo đó thay cụm từ “mỗi tổ chức” thành “ngân hàng đối tác”.
|
|
|
- Đề nghị làm rõ khái niệm về mức độ được xem là có "hiểu biết về trách nhiệm phòng, chống rửa tiền" tại quy định này.
|
Hiểu biết ở đây thể hiện các bên trong quan hệ ngân hàng đại lý đã tìm hiểu và biết được các trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền của bên đối tác.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng; Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit)
|
Khoản5 Điều 16 Dự thảo quy định: “Trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo. Đối tượng báo cáo phải đảm bảo rằng tài khoản của ngân hàng đối tác không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.”
Kiến nghị: TCTD không đủ khả năng để hiểu biết đầy đủ về thông tin của ngân hàng đối tác:
+ Thông tin giám sát về ngân hàng đối tác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, trong đó, bao gồm cả thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật khác hay không.
+ Trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của mỗi tổ chức trong quan hệ đại lý.
+ Tài khoản của ngân hàng đối tác không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các nội dung sau:
+ Quy định rõ nguồn căn cứ để TCTD có thể xác định được Thông tin giám sát về ngân hàng đối tác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, trong đó, bao gồm cả thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật khác hay không.
+ Hướng dẫn TCTD kiểm tra xác định trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác theo từng quốc gia, khu vực.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa khoản 1 điều 18 tại dự thảo như sau: Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hoặc các vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền.
Việc thu thập thông tin thuộc trách nhiệm của tổ chức tài chính. Tất cả các yêu cầu việc thu thập thông tin, tài liệu được áp dụng từ thời điểm đầu tiên khi tổ chức tài chính thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với ngân hàng đối tác. Đây cũng là yêu cầu tại khuyến nghị 13 của FATF về quan hệ ngân hàng đại lý.
Đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý phải tìm hiểu về việc ngân hàng đối tác nước ngoài có thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền không? Việc tìm hiểu này có thể thông qua việc gửi các bảng câu hỏi tới ngân hàng đối tác, qua các bên thứ ba, qua cơ quan có thẩm quyền. Việc thực hiện tìm hiểu này là linh hoạt, tùy thuộc vào mỗi tổ chức, do vậy, không có hướng dẫn chung đối với quy định này.
|
|
|
14
|
Điều 17
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 1 Điều 17 quy định: “1. Khi áp dụng công nghệ mới khác với công nghệ đang sử dụng, đối tượng báo cáo phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền đối với các sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới hiện có và trước khi đưa vào sử dụng hoặc kinh doanh.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi để làm rõ hơn yêu cầu:
Khi áp dụng công nghệ mới khác với công nghệ đang sử dụng, đối tượng báo cáo phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền đối với các sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới so với công nghệ hiện có trước khi đưa vào sử dụng hoặc kinh doanh.
Kính đề xuất NHNN làm rõ phạm vi công nghệ bao gồm chỉ những phần trọng yếu liên quan đến nghiệp vụ ngân hàng như core banking, kênh thanh toán, kênh tiếp xúc khách hàng, kênh thu thập thông tin, dữ liệu, tài liệu hay phạm vi nào khác.
|
Phạm vi công nghệ mới không chỉ bao gồm các công nghệ trọng yếu liên quan đến nghiệp vụ ngân hàng mà áp dụng cho tất cả các công nghệ mới khác với công nghệ đang sử dụng cho các sản phẩm, dịch vụ tại đối tượng báo cáo.Khoản 1 Điều 19 tại dự thảo đã được điều chỉnh như sau:“Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới”
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 17 Dự thảo quy định: “1. Khi áp dụng công nghệ mới khác với công nghệ đang sử dụng, đối tượng báo cáo phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền đối với các sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới hiện có và trước khi đưa vào sử dụng hoặc kinh doanh.
Kiến nghị:
- Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ khái niệm “công nghệ mới khác với công nghệ đang sử dụng”. Tiêu chí đánh giá như thế nào để xác định công nghệ mới khác công nghệ đang sử dụng? Trường hợp trước đây chưa có công nghệ nào được sử dụng thì khái niệm “công nghệ mới khác công nghệ đang sử dụng” có phù hợp?
- Đề nghị diễn đạt lại Khoản 1 Điều 17 như sau: “Đối tượng báo cáo phải nhận diện và đánh giá về rủi ro rửa tiền của sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới trước khi đưa vào hoạt động kinh doanh hoặc khi thay đổi loại công nghệ mới được áp dụng cho sản phẩm, dịch vụ đó” để rõ nghĩa và dễ hiểu hơn.
|
- Tiếp thu, tại khoản 1 Điều 19 dự thảo Luật đã được chỉnh sửa cho rõ ràng hơn, như sau:“Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây….”
Như vậy trách nhiệm ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền áp dụng cho tất cả các sản phẩm/dịch vụ ứng dụng công nghệ đổi mới, các sản phẩm, dịch vụ mới.
Nếu sửa thành thuật ngữ “công nghệ mới” khác công nghệ đang sử dụng sẽ gây nhầm lẫn với nội hàm thuật ngữ này đã được quy định tại Luật chuyển giao công nghệ.
|
|
|
VCCI
|
Điều 17 dự thảo quy định các doanh nghiệp cần nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro khi áp dụng công nghệ mới khác với công nghệ đang sử dụng. Quy định này cần được xem xét ở các điểm sau:
- Chưa rõ ràng: không ro tiêu chí nào coi là “công nghệ mới khác với công nghệ đang sử dụng?” Cụ thể, công nghệ thế nào được coi là “khác” với công nghệ đang sử dụng, chẳng hạn nếu doanh nghiệp sử dụng cùng công nghệ sinh trắc học nhưng chuyển từ nhận diện qua vân tay sang mống mắt thì có được coi là “khác” hay không?
- Phạm vi công nghệ mới như vậy còn tương đối rộng. Theo giải trình của cơ quan soạn thảo, phạm vi công nghệ mới sẽ bao gồm tất cả công nghệ đang sử dụng cho sản phẩm, dịch vụ tại đối tượng báo cáo. Quy định với cách hiểu như trên dường như chưa thật sự phù hợp và tạo thêm gánh nặng tuân thủ cho doanh nghiệp. Dù áp dụng công nghệ nào, các doanh nghiệp đều phải thực hiện việc ban hành chính sách, quy trình quản lý rủi ro và áp dụng cho bất kỳ loại công nghệ nào được sử dụng. Quy định như vậy cũng không thật sự phù hợp khi một doanh nghiệp triển khai công nghệ mới nhưng thực tế đã được cho phép trong văn bản luật chuyên ngành.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng giới hạn phạm vi công nghệ mới cần phải thực hiện đánh giá rủi ro.
|
Tiếp thu ý kiến, khoản 1 Điều 19 dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung như sau:
“Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây”
Theo đó, dự thảo Luật đã làm rõ và giới hạn việc nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro của đối tượng báo cáo trong các trường hợp khi cung cấp sản phẩm, dịch vụ mới hoặc các sản phẩm, dịch vụ áp dụng công nghệ đổi mới.
|
|
|
Công ty tài chính cổ phần điện lực (EVNFinance)
|
Để tránh việc giải thích khác nhau về thế nào là “khác với công nghệ đang sử dụng”, ví dụ: TCTD đang sử dụng công nghệ sinh trắc học để nhận diện khách hàng qua vân tay, nay dùng thêm công nghệ sinh trắc học nhận diện qua mống mắt, có thể được hiểu là TCTD vẫn đang sử dụng công nghệ sinh trắc học để nhận diện khách hàng do vậy không cần phải đánh giá mức độ rủi ro
Kiến nghị ban soạn thảo xem xét sửa đổi khoản 1 điều 17 dự thảo thành
Khi áp dụng công nghệ mới, đối tượng báo cáo phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền.
|
Khoản 1 Điều 19 tại dự thảo đã được điều chỉnh như sau: “Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây”
|
|
|
Tại điểm a khoản 2 Điều 17 Dự thảo Luật quy định: Đối tượng báo cáo phải ban hành quy trình nội bộ nhằm mục đích phát hiện, ngăn chặn việc thực hiện các sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới vào việc rửa tiền.
Kiến nghị: Hiện tại cách diễn ra chưa rõ nghĩa, theo cách EVNFinance hiểu rằng, đối tượng báo cáo có biện pháp ngăn chặn các hành vi rửa tiền khi thực hiện các sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng công nghệ mới. Đề xuất Ban soạn thảo điều chỉnh để các Đơn vị dễ hiểu khi áp dụng thực tế.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa khoản 1 Điều 19 và bổ sung khoản 2 như sau: “1. Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới, nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền; b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
2. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.”.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điểm a Khoản 2 Điều 17 Dự thảo quy định: “Đối tượng báo cáo phải ban hành quy trình nội bộ nhằm mục đích sau đây: a) Phát hiện, ngăn chặn việc thực hiện các sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới vào việc rửa tiền;”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa đổi quy định này thành: “Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ công nghệ mới vào việc rửa tiền”
|
Tiếp thu và đã chỉnh sửa nội dung điểm a khoản 1 điều 19 theo hướng: “a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền”.
|
|
|
15
|
Điều 18
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 18 Dự thảo quy định: “1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đặc biệt đối với các giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ “Danh sách lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền” là danh sách gì, nguồn kết xuất cụ thể.
|
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit); Công ty cổ phần tài chính (EVNFC)
|
Khoản 2a Điều 18 quy định: a) Các biện pháp tăng cường cập nhật thông tin khách hàng phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền.
Kiến nghị: Chúng tôi hiểu rằng, Ngân hàng sẽ thực hiện giám sát đặt biệt giao dịch quy định tại khoản 1 điều này và trong trường hợp thấy giao dịch đáng ngờ Ngân hàng sẽ thực hiện cập nhật thông tin nhận biết khách hàng và áp dụng các biện pháp tăng cường trong quá trình cập nhật thông tin.
Kính đề nghị NHNN xác nhận cách hiểu của chúng tôi là đúng.
|
Đối tượng báo cáo phải thực hiện giám sát đối với các giao dịch đặc biệt được quy định tại khoản 1 điều 20 và phải thực hiện các biện pháp theo quy định tại khoản 2 điều 20, không chỉ đối với trường hợp phát hiện giao dịch đáng ngờ.
Dự thảo Luật đã quy định Khoản 2 Điều 20 theo hướng cụ thể: “Để giám sát giao dịch đặc biệt, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó. ”.
|
|
|
Khoản 2b Điều 18 quy định: “2. Đối tượng báo cáo phải thực hiện:
b) Kiểm tra cơ sở pháp lý và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải gửi báo cáo giao dịch đáng ngờ đến Cục Phòng, chống rửa tiền và có thể từ chối giao dịch đó.”
Kiến nghị:
Nghĩa vụ kiểm tra cơ sở pháp lý là quá rộng đối với tổ chức báo cáo. Các ngân hàng chỉ có thể kiểm tra tính hợp lý tương đối trên bề mặt các chứng từ/hồ sơ đính kèm với giao dịch với nội dung giao dịch, ngân hàng không có chức năng/chuyên môn để điều tra để kết luận cơ sở pháp lý
Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi như sau:
“2. Đối tượng báo cáo phải thực hiện: a) Các biện pháp tăng cường cập nhật thông tin khách hàng nêu tại Khoản 1 phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền;
b) Kiểm tra các chứng từ liên quan đến giao dịch của khách hàng nêu tại Khoản 1 đảm bảo sự phù hợp giữa các thông tin trên chứng từ và mục đích của các giao dịch nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật về thanh toán và quản lý ngoại hối . Trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải gửi báo cáo giao dịch đáng ngờ đến Cục Phòng, chống rửa tiền và có thể từ chối giao dịch đó” .
|
Tiếp thu theo hướng sửa khoản 2 Điều 20 thành: Để giám sát giao dịch đặc biệt, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
|
|
|
|
Khoản 2b Điều 18 yêu cầu giám sát giao dịch với tổ chức, cá nhân trong danh sách cảnh báo, và gửi báo cáo giao dịch đáng ngờ trong trường hợp có nghi ngờ về giao dịch.
Điều 25 yêu cầu báo cáo giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo uỷ quyền của tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo.
Chúng tôi hiểu rằng
1. Đối tượng báo cáo với vai trò là tổ chức tài chính phục vụ người khởi tạo/ người thụ hưởng sẽ giám sát các giao dịch của khách hàng của mình yêu cầu thực hiện. Nếu giao dịch của khách hàng có liên quan đến tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo để kiểm tra cơ sở pháp lý và mục đích giao dịch (chứ không phải báo cáo giao dịch đáng ngờ luôn).
2. Đối tượng báo cáo với vai trò là tổ chức phục vụ người khởi tạo, khi phát hiện khách hàng/ người yêu cầu giao dịch thuộc danh sách cảnh báo sẽ phải báo cáo giao dịch đáng ngờ.
Kiến nghị: Nếu cách hiểu trên là đúng, kính mong NHNN chỉnh sửa lại yêu cầu cho rõ ràng hơn.
|
Tiếp thu một phần, sửa nội dung khoản 2 Điều 20 như sau: “Để giám sát giao dịch đặc biệt, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Luật này; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.”
|
|
|
16
|
Điều 19
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điểm a Khoản 1 Điều 19 Dự thảo quy định: “1. Đối tượng báo cáo có thể nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây: a) Bên thứ ba tuân thủ các yêu cầu về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, Điều 11 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức nước ngoài”.
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ cơ sở để xác định Bên thứ ba tuân thủ các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính là gì? Nếu chỉ cần có xác nhận của Bên thứ ba có được hay không? Theo quan điểm của các TCTD, nội dung này nên cho phép các TCTD chủ động trong việc lựa chọn và đánh giá Bên thứ ba.
|
Cơ sở để xác định bên thứ 3 tuân thủ các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính cũng giống như cơ sở để bên thứ 3 tuân thủ các yêu cầu tại Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12 Luật PCRT. Theo đó, đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ với bên thứ 3 phải có các biện pháp tìm hiểu, xác định mức độ tuân thủ của bên thứ 3 đối với các yêu cầu về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng.
|
|
|
Khoản 2 Điều 19 Dự thảo quy định: “2. Trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và là công ty con của công ty mẹ là tổ chức tài chính, thì công ty mẹ cần phải tuân thủ:
a) Các yêu cầu về nhận biết khách hàng, lưu trữ hồ sơ giao dịch và các yêu cầu về khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị quy định tại Điều 9, 10, 15, 30, 32 của Luật này;
b) Việc áp dụng các yêu cầu về nhận biết khách hàng và lưu trữ hồ sơ giao dịch phải được giám sát ở cấp tập đoàn;
c) Có các chính sách giảm thiểu rủi ro đối với các quốc gia có rủi ro cao”.
Kiến nghị: Dự thảo quy định trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và là công ty con của công ty mẹ là tổ chức tài chính, thì công ty mẹ cần phải tuân thủ các điều kiện về nhận biết khách hàng, chính sách rủi ro theo quy định tại luật này. Tuy nhiên, trường hợp này bên thứ ba là tổ chức tài chính nước ngoài phải tuân thủ điều kiện này là chưa thực sự phù hợp. Tổ chức nước ngoài sẽ tuân thủ khuyến nghị chung của FATF như tại Khoản 1 sẽ phù hợp hơn.
|
Đã tiếp thu và bổ sung tại điểm a khoản2 điều 14 dự thảo.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bỏ Khoản 2 Điều 19, yêu cầu này không thực tế đối với trường hợp ngân hàng và công ty mẹ ở các quốc gia khác nhau và luật áp dụng có thể có độ vênh giữa các quốc gia, nên việc yêu cầu cả công ty con và công ty mẹ có thực hiện các yêu cầu trong luật Việt Nam là không khả thi trong thực tế.
Ngoài ra ngân hàng chưa rõ mục đích của việc không chỉ đánh giá tuân thủ của tổ chức tài chính là công ty con mà còn phải đánh giá tuân thủ của công ty mẹ. Kính đề nghị NHNN làm rõ thêm.
|
Đã tiếp thu và bổ sung tại điểm a khoản 2 điều 14 dự thảo
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng Techcombank; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit); Hiệp hội Ngân hàng
|
Điều 19. Nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba
“1. Đối tượng báo cáo có thể nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây: c) Bên thứ ba phải là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.”
Kiến nghị: Về pháp lý tất cả các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam đều chịu sự quản lý giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Kiến nghị ban soạn thảo quy định rõ cơ quan có thẩm quyền quản lý giám sát bên thứ ba là cơ quan nào, và hoạt động bị quản lý, giám sát là hoạt động gì.
|
Bên thứ ba có thể là tổ chức nước ngoài, do đó, cần có quy định tại điểm d khoản 1 điều 14 để đảm bảo tất cả các tổ chức bên thứ 3 dù trong nước hay ngoài nước cũng phải chịu sự quản lý và giám sát của cơ quan có thẩm quyền, đây cũng là cơ sở để các bên thứ 3 đáp ứng các yêu cầu đã quy định về cập nhật thông tin khách hàng, lưu giữ thông tin… quy định tại Điều này.
Cơ quan có thẩm quyền giám sát, quản lý bên thứ 3 là cơ quan cấp phép/thanh tra, giám sát hoạt động của bên thứ 3.
|
|
|
17
|
Điều 20
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PGBank);
|
Hiện giờ trên cổng thông tin đăng ký kinh doanh không có thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân, cơ cấu tổ chức quản lý, điều lệ, danh sách thành viên Hội đồng quản trị, thông tin cá nhân có quyền chi phối pháp nhân.
Kiến nghị: Kính đề nghị những thông tin mà Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu giữ có thể được cung cấp cho các ngân hàng cho mục đích nhận biết khách hàng.
|
Quy định về các thông tin đăng ký kinh doanh tại Luật PCRT để phục vụ cho công tác PCRT. Về việc cập nhật thông tin trên cơ sở dữ liệu thực hiện theo quy định pháp luật về doanh nghiệp và các quy định về cấp phép, hoạt động của tổ chức, không thuộc phạm vi tại Luật này.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
1. Để đảm bảo áp dụng thống nhất và có cơ sở tuân thủ, đồng thời có thể hỗ trợ đối tượng báo cáo thực hiện việc nhận biết khách hàng hiệu quả thông qua việc tạo điều kiện cho các đối tượng báo cáo có thể tiếp cận được các thông tin về thỏa thuận pháp lý của khách hàng từ cơ quan quản lý nhà nước, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ cơ quan/tổ chức nào có chức năng tiếp nhận và quản lý thông tin về các thỏa thuận pháp lý của khách hàng? Đồng thời cho phép Đối tượng báo cáo có quyền tiếp cận các thông tin về thỏa thuận pháp lý này để đánh giá, xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
|
Do thỏa thuận pháp lý được xác lập theo pháp luật nước ngoài nên không có cơ quan thu thập, lưu trữ tập trung thông tin này.
|
|
|
2. Đề nghị bổ sung quyền yêu cầu cung cấp thông tin đối với pháp nhân, thêm nội dung sau vào Điều 20 Dự thảo: “Hồ sơ quy định tại khoản 1, 2 Điều này phải được cung cấp cho tổ chức tài chính khi thiết lập mối quan hệ khách hàng với tổ chức tài chính”.
|
Điều 10, Điều 12 dự thảo Luật đã quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng là tổ chức. Điều 21 chỉ quy định trách nhiệm của pháp nhân thu thập, cập nhật, lưu trữ, cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 4 Điều 20 quy định: “4. Tổ chức tài chính được phép đăng ký truy cập thông tin đối với tổ chức, cá nhân quy định tại các khoản 1,2 Điều này nhằm phục vụ công tác nhận biết khách hàng tại tổ chức tài chính.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung quyền truy cập cơ sở dữ liệu về pháp nhân để có cơ sở xác minh tính chính xác của thông tin do pháp nhân cung cấp khi thiết lập quan hệ với tổ chức báo cáo.
|
Quy định về các thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi và thông tin cơ bản về pháp nhân nêu tại khoản 1 Điều 21 Luật PCRT để phục vụ cho công tác PCRT. Việc tiếp cận các thông tin trên cơ sở dữ liệu thực hiện theo quy định pháp luật về doanh nghiệp và các quy định về cấp phép, hoạt động của tổ chức, không thuộc phạm vi tại Luật này. Các TCTD có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền cung cấp và sử dụng những thông tin trên.
Bên cạnh đó, vấn đề tiếp cận, chia sẻ thông tin, kết nối dữ liệu số của cá nhân, cơ quan nhà nước đã được quy định tại Luật Tiếp cận thông tin ngày 06 tháng 4 năm 2016, Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020.
Do vậy, việc bổ sung quy định cho phép tổ chức tài chính được đăng ký truy cập thông tin là không phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật này.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 1 Điều 20 Dự thảo:
Kiến nghị: Trường hợp cần lưu giữ thêm thông tin của người quản lý khác của pháp nhân, kiến nghị Ban soạn thảo bổ sung thêm.
|
Tiếp thu, chỉnh sửa khoản 1 điều 21 dự thảo Luật như sau: “Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý; danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân (nếu có); các thông tin này phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật”.
|
|
|
Khoản 1, khoản 3 Điều 20 Dự thảo Luật chỉ nêu yêu cầu Cơ quan ĐKKD, cơ quan cấp phép thành lập lưu trữ thông tin về CSH hưởng lợi, trách nhiệm cung cấp thông tin về CSH hưởng lợi cho NHNN và các cơ quan chức năng. Tuy nhiên không quy định các NH được phép khai thác thông tin này từ các cơ quan hoặc có thể tiếp cận từ một cơ sở dữ liệu công khai nào khác. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu về việc thu thập thông tin CSH hưởng lợi của Luật thì các ngân hàng vẫn chưa có công cụ để khai thác thông tin và chưa được hỗ trợ từ các cơ quan chức năng.
Kiến nghị: Do đó, đề nghị bổ sung như đề xuất:
- Bổ sung việc công bố thông tin công khai về CSH hưởng lợi đối với các công ty được niêm yết trên sàn chứng khoán.
- Cho phép các NH được phép gửi văn bản tới các cơ quan ĐKKD, cơ quan cấp phép thành lập để yêu cầu khai thác thông tin về CSH hưởng lợi của các Tổ chức.
|
Quy định về các thông tin đăng ký kinh doanh tại Luật PCRT để phục vụ cho công tác PCRT. Về việc cập nhật thông tin trên cơ sở dữ liệu thực hiện theo quy định pháp luật về doanh nghiệp và các quy định về cấp phép, hoạt động của tổ chức, không thuộc phạm vi tại Luật này.
Bên cạnh đó, Khoản 1b Điều 216 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định trách nhiệm của Cơ quan đăng ký kinh doanh:“b) Phối hợp xây dựng, quản lý Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; công khai, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật”. Do đó, các NH được phép gửi văn bản tới Cơ quan đăng ký kinh doanh để yêu cầu khai thác thông tin theo quy định của pháp luật Doanh nghiệp.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
- Theo Khoản 1 Điều 20 Dự thảo thì cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải lưu giữ một số loại thông tin, trong đó có danh sách thành viên Hội đồng quản trị. Vậy, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ đối với thông tin về các người quản lý khác của pháp nhân (như chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty,…) có đặt ra trách nhiệm phải cập nhật, lưu giữ của các cơ quan nhà nước trên không? Trường hợp cần lưu giữ thêm thông tin của người quản lý khác của pháp nhân, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung thêm.
|
- Tiếp thu và chỉnh sửa tại khoản 1 Điều 21 dự thảo Luật.
|
|
|
b) Khoản 2 Điều 20 Dự thảo quy định: “2. Pháp nhân có trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin nêu tại khoản 1 và cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu”.
Kiến nghị: Để đảm bảo thông tin thu thập được của TCTD là đúng và phù hợp với thông tin của cơ quan chức năng, đề nghị bổ sung quy định cho phép TCTD được phép kiểm tra các thông tin được thu thập tại khoản 1 Điều 20.
|
TCTD có trách nhiệm thu thập, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng đầy đủ và chính xác theo quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định tại điều 9, 10, 11, 12.
|
|
|
18
|
Điều 21
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 21 Dự thảo quy định:
“1. Người nhận uỷ thác là tổ chức, cá nhân trong thỏa thuận pháp lý phải:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có) và cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác và có trách nhiệm cung cấp các thông tin này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; các thông tin phải được lưu giữ ít nhất 05 (năm) năm sau khi ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
b) Cung cấp cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan các thông tin quy định tại điểm a Khoản này và văn bản uỷ thác khi thiết lập mối quan hệ khách hàng với tổ chức nêu trên liên quan đến tài sản được uỷ thác.”
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ người nhận ủy thác có chính là bên nhận ủy thác hay là tổ chức cung cấp dịch vụ ủy thác?
Nếu người nhận ủy thác có chính là bên nhận ủy thác thì chỉ bên nhận ủy thác có trách nhiệm lưu trữ thông tin 5 năm? Trong trường hợp bên nhận ủy thác là 1 cá nhân thì cá nhân đó có trách nhiệm lưu trữ thông tin trong 5 năm?
Nếu người nhận ủy thác không phải là bên nhận ủy thác, đề nghị làm rõ:
+ Người nhận ủy thác cụ thể là ai?
+ Tại Điểm b quy định: "khi thiết lập mối quan hệ khách hàng với tổ chức nêu trên", đề nghị làm rõ là ai thiết lập mối quan hệ khách hàng với ai?
+ Có cơ quan nào thu thập, lưu trữ tập trung các thông tin này (ví dụ cơ quan được cấp phép thực hiện cung cấp dịch vụ ủy thác…)?
|
+ Người nhận ủy thác chính là bên nhận ủy thác. Do đó, khoản 1 Điều 22 sửa lại là “Bên nhận ủy thác”.
Trường hợp “bên nhận ủy thác” là cá nhân thì người này vẫn phải thực hiện nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ ít nhất 5 năm sau khi không thực hiện hoạt động ủy thác.
|
|
|
- Về thu thập, cập nhật các thông tin về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có) và cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác, yêu cầu phải nhận biết theo điều 9 và 10, Không bao gồm yêu cầu xác minh thông tin nhận biết theo Điều 11. Như vậy, có thể hiểu rằng chỉ cần sử dụng các thông tin nhận biết mà bên nhận ủy thác thu thập được chứ không có nghĩa vụ/trách nhiệm phải đi xác minh các thông tin đó đúng không?
|
Tiếp thu. Trách nhiệm bao gồm việc xác minh thông tin. Dự thảo đã được sửa đổi, bổ sung Điều 11.
|
|
|
19
|
Điều 22
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Shinhan Bank; Hiệp hội ngân hàng
|
Điều 22. Bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung quyền yêu cầu cung cấp thông tin đối với tổ chức phi lợi nhuận.
“3. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này phải được cung cấp cho tổ chức tài chính khi thiết lập mối quan hệ khách hàng với tổ chức tài chính”
Kiến nghị bổ sung quyền yêu cầu cung cấp thông tin đối với tổ chức phi lợi nhuận.
|
Dự thảo Luật đã quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng là tổ chức. Điều 23 chỉ quy định trách nhiệm của tổ chức phi lợi nhuận thu thập, lưu trữ, cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
20
|
Điều 23
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Điều 23:Xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
Kiến nghị:
- Đề xuất đổi tên Điều luật thành “Xây dựng chính sách nội bộ về phòng, chống rửa tiền”
- Khoản 1 đưa ra các nội dung tối thiểu mà Chính sách PCRT của doanh nghiệp cần phải có.
- Khoản 2 quy định về nghĩa vụ cập nhật chính sách này (ví dụ khi có thay đổi pháp luật, thay đổi hoạt động kinh doanh, vv)
- Khoản 3 quy định về nghĩa vụ phổ biến và huấn luyện, đào tạo nhân viên nội dung Chính sách PCRT định kỳ hàng năm hay khi có thay đổi, cập nhật
- Khoản 4 quy định về nghĩa vụ báo cáo, cung cấp chính sách này khi có yêu cầu (không nên bắt buộc phải nộp định kỳ hàng năm) cho NHNN.
|
Nội dung Điều 24 mới đã thể hiện đầy đủ như ý kiến góp ý của Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 1 Điều 23 quy định: “1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây: “a) Chính sách chấp nhận khách hàng, bao gồm cả việc từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng và phải báo cáo giao dịch đáng ngờ khi Đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin;
c) Chính sách, quy trình quản lý rủi ro;
i) Quy trình tuyển dụng nhân sự; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;”
Kiến nghị: Đối với điểm 1.a Đề xuất NHNN xem xét làm rõ yêu cầu báo cáo giao dịch đáng ngờ trong trường hợp này chỉ khi có dấu hiệu rửa tiền, tránh các báo cáo giao dịch đáng ngờ không hiệu quả và chất lượng. Đặc biệt đối với 1 số quốc gia có quy định về bảo mật thông tin cá nhân hoặc 1 số cá nhân đặc biệt nhạy cảm về thông tin.
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, bao gồm cả việc từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng và phải xem xét, đánh giá các dấu hiệu rửa tiền để đảm bảo kịp thời báo cáo giao dịch đáng ngờ khi Đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin;
|
Tiếp thu một phần.
Quy định “xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ” thể hiện đối tượng báo cáo phải có quá trình rà soát, phân tích tiếp theo; không có nghĩa đối tượng báo cáo báo cáo ngay.
Điểm a khoản 1 Điều 24 Dự thảo Luật được sửa như sau:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ;
|
|
|
- Với điểm c như đã nói ở Điều 13.2 chúng tôi hiểu rằng quy trình quản lý rủi ro là tổng hợp các chính sách, quy trình nội bộ về quản lý rủi ro rửa tiền tại ngân hàng.
|
Việc hiểu quy trình quản lý rủi ro là tổng hợp các chính sách, quy trình nội bộ về quản lý rủi ro rửa tiền tại ngân hàng là đúng.
|
|
|
Kính đề nghị NHNN xem xét bỏ từ “quy trình” trong điểm i. Quy định nội bộ về PCRT có thể đưa các tiêu chí sàng lọc nhân viên trước khi tuyển dụng nhưng không thể quy định quy trình tuyển dụng nhân sự trong chính sách này. Quy trình tuyển dụng nhân sự sẽ được quy định riêng bởi bộ phận Nhân sự.
“i) Quy trình Tuyển dụng nhân sự; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền trong quá trình tuyển dụng nhân sự mới hoặc luân chuyển giữa các phòng ban liên quan đến các nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;”
|
Điểm (i) khoản 1 điều 24: Tiếp thu một phần: bỏ cụm từ “Quy trình” vẫn giữ nguyên cụm từ “Tuyển dụng nhân sự”, do theo Khuyến nghị 18 của FATF, quy định nội bộ PCRT đảm bảo có nội dung PCRT khi tuyển dụng nhân viên mới.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điểm a Khoản 1 Điều 23 Dự thảo quy định: “1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, bao gồm cả việc từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ khi Đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin”.
Kiến nghị: - Về chính sách chấm dứt mối quan hệ, đề nghị làm rõ rằng phải có hẳn quy trình chấm dứt mối quan hệ kinh doanh hay chỉ cần có quy định trong chính sách nội bộ?
|
- Dự thảo luật không quy định về việc đối tượng báo cáo phải có các chính sách riêng đối với từng nội dung của quy định nội bộ. Việc xây dựng các chính sách riêng hay trong một quy trình, chính sách chung là quyền chủ động của đối tượng báo cáo.
|
|
|
- Trường hợp khách hàng từ chối cung cấp thông tin thì đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc thực hiện nhận biết và xác minh thông tin nhận biết của khách hàng nên đối tượng báo cáo không được phép thiết lập quan hệ với khách hàng. Vì vậy không có thông tin và hồ sơ để đưa vào nội dung báo cáo giao dịch đáng ngờ. Đề nghị làm rõ cơ chế báo cáo với trường hợp này.
|
Trong trường hợp này, đối tượng báo cáo tự xem xét, đánh giá, trường hợp nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền thì thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ.
Đối tượng báo cáo báo cáo theo các thông tin hiện có về khách hàng và lý do dẫn đến báo cáo giao dịch đáng ngờ, ví dụ, căn cước công dân (nếu khách hàng đã cung cấp), thông tin chiết xuất camera…
|
|
|
Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)
|
Khoản 1c Điều 23 quy định: “Quản lý rủi ro là khái niệm rộng. Đối tượng báo cáo sẽ không xác định cần xây dựng chính sách, quy trình quản lý rủi ro như thế nào để phù hợp.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN cung cấp thêm hướng dẫn những đề mục, nội dung cần thiết của chính sách, quy trình quản lý rủi ro.
Kính đề nghị NHNN làm rõ Chính sách, quy trình quản lý rủi ro này tối thiểu phải bao gồm nhưng yêu cầu gì, có phải đây là quản lý rủi ro được ban hành trên cơ sở kết quả Đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo như yêu cầu tại điều 13?
|
Tiếp thu ý kiến tại dự thảo đã bổ sung khoản 5 điều 24 quy định giao Thống đốc Ngân hàng nhà nước hướng dẫn chi tiết Điều này nhằm đáp ứng Khuyến nghị 10.15 của FATF.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điểm c Khoản 1 Điều 23 Dự thảo quy định: “1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây: Chính sách, quy trình quản lý rủi ro;”
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo có hướng dẫn cụ thể các nội dung sau:
+ Đề nghị làm rõ quy trình tuyển dụng nhân sự và Quy trình đào tạo? Hay là Quy trình tuyển dụng nhân sự và trong chính sách có quy định về việc đào tạo nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền?
|
Tiếp thu theo hướng bỏ cụm từ “Quy trình” tại điểm i khoản 1 điều 24.
Bên cạnh đó, đối tượng báo cáo có quyền chủ động trong xây dựng các chính sách riêng lẻ hay trong một bộ chính sách chung.
|
|
|
+ Quy trình tuyển dụng nhân sự có phải là "Quy trình nhận biết, xác minh thông tin nhân sự trong tuyển dụng" không? Nếu đúng, đề xuất sửa lại thành "Quy trình nhận biết, xác minh thông tin nhân sự trong tuyển dụng" để tránh nhầm lẫn với quy trình tuyển dụng hiện có của bộ phận nhân sự tại các TCTD.
|
Tuyển dụng nhân sự ở đây được hiểu đối tượng báo cáo phải có các tiêu chuẩn, điều kiện tuyển dụng để có thể ngăn ngừa bị lợi dụng bởi kẻ rửa tiền hoặc tội phạm khác để xâm nhập trở thành nhân viên của đối tượng báo cáo.
Để tránh nhầm lẫn, dự thảo bỏ cụm từ “Quy trình”.
|
|
|
- Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi nội dung “Chính sách, quy trình quản lý rủi ro” thành "Chính sách, quy trình quản lý rủi ro rửa tiền" nhằm tránh nhầm lẫn với chính sách, quy trình quản lý rủi ro chung của đối tượng báo cáo, đồng thời có hướng dẫn tại các văn bản dưới luật về nội dung này cho đối tượng báo cáo và để thuận tiện áp dụng trong thực tiễn.
|
Tiêu để của khoản 1, khoản 2 và khoản 3 của Điều này đã thể hiện rõ phạm vi của quy định nội bộ về rửa tiền. Không cần thiết phải nhắc lại ở từng điểm cụ thể của khoản 1.
|
|
|
Khoản 1d Điều 23 quy định: “Quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ;”
Kiến nghị: Chúng tôi hiểu trách nhiệm không được tiết lộ cho khách hàng về việc Ngân hàng đang nghi ngờ trong trường hợp cần liên lạc với khách. Kính đề nghị NHNN cung cấp thêm hướng dẫn những yêu cầu về quy trình, cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ.
|
Không tiếp thu do mỗi đối tượng báo cáo có chính sách khách hàng riêng phù hợp với khẩu vị rủi ro của từng ĐTBC, nên ĐTBC phải tự xây dựng các tiêu chí này.
|
|
|
Về xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền (Điều 23)
Khoản 2 Điều 23: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại nội dung “Nội dung quy định nội bộ… phải được áp dụng, phổ biến đến đại lý, chi nhánh, công ty con, cá nhân, bộ phận có liên quan của đối tượng báo cáo” do các quy định nội bộ đáp ứng các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì không thể áp dụng với các chi nhánh tại nước ngoài. Ngoài ra, Công ty con là pháp nhân độc lập với đối tượng báo cáo, vì vậy, quy định liên quan tới rửa tiền phải được phổ biến tới công ty con là không phù hợp. Đồng thời, thực tế có các công ty con có thể sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo xem xét loại bỏ “công ty con” khỏi nội dung áp dụng chính sách phòng, chống rửa tiền của công ty mẹ.
|
Quy định đáp ứng khuyến nghị số 14, 18.4 của FATF. Ngoài ra theo quy định tại khoản 1 Điều 195 Luật DN về công ty mẹ, công ty con thì công ty mẹ cần sở hữu ít nhất 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty con. Do vậy, công ty mẹ luôn có quyền chi phối hoạt động của công ty con. Tuy nhiên chỉnh sửa nội dung khoản 3 Điều 24 như sau:
“Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý của đối tượng báo cáo”
|
|
|
Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)
|
Khoản 3 Điều 23 quy định: “Hàng năm, đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung phù hợp.”
Kiến nghị: Đề nghị bỏ tần suất “hàng năm”, chuyển sang “thường xuyên”, tránh trường hợp đơn vị bên ngoài vào kiểm tra yêu cầu cung cấp báo cáo đánh giá hàng năm của tổ chức (trong năm không có nội dung phải sửa đổi, bổ sung cũng phải làm báo cáo trình các cấp lãnh đạo). Việc có rà soát, có thực hiện chỉnh sửa quy định nội bộ hay không thể hiện ngay ở việc quy định nội bộ của tổ chức hiện đang có phù hợp với quy định pháp luật hay không.
|
Việc rà soát quy trình nội bộ về PCRT không chỉ đảm bảo phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mà còn phù hợp với hoạt động cập nhật đánh giá rủi ro tại đối tượng báo cáo.
|
|
|
21
|
Điều 25
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 25 Dự thảo quy định: “1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Cục phòng, chống rửa tiền khi nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền. Báo cáo giao dịch đáng ngờ được thực hiện theo mẫu do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.”
Khoản 8 Điều 25 Dự thảo quy định: “8. Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu cơ bản nêu trên, đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành hướng dẫn, bổ sung các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực có thể phát sinh trong từng thời kỳ theo quy định tại Điều này.”
Kiến nghị: Đề nghị quy định thống nhất với Khoản 1 hoặc làm rõ hơn Đơn vị nhận báo cáo tại Khoản 8 Điều 25.
|
Tiếp thu, đã chỉnh sửa khoản 1 Điều 26 thành báo cáo cho NHNN.
|
|
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Điểm g khoản 2 - Điều 25:“Các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân này”
Kiến nghị:
Đề nghị nội dung này chỉ quy định đối với lĩnh vực ngân hàng tại khoản 3 Điều 25.
Lý do:
Công ty chứng khoán không thể biết chính xác thu nhập của khách hàng. Mặc dù trên hồ sơ mở tài khoản có nội dung yêu cầu cung cấp thông tin thu nhập của khách hàng nhưng hầu hết khách hàng không khai báo với lý do đây là thông tin nhạy cảm của cá nhân hoặc nếu khách hàng có khai báo thì bản thân công ty chứng khoán cũng không thể đối chiếu lại để kiểm chứng thông tin khai báo là chính xác. Do đó, chúng tôi không thể lấy thông tin này làm cơ sở đối chiếu với các giao dịch của khách hàng.
Ngoài ra, công ty chứng khoán không trực tiếp nhận và chi trả tiền mặt để giao dịch chứng khoán của khách hàng mà phải thực hiện qua các ngân hàng thương mại. Do đó, việc yêu cầu công ty chứng khoán báo cáo giao dịch đáng ngờ đối với các giao dịch có số tiền lớn là không cần thiết vì đầu mối kiểm soát là ngân hàng và sẽ gây trùng lặp nội dung báo cáo với ngân hàng.
|
Không tiếp thu do Điều 27 dự thảo mới chỉ đưa ra các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản, áp dụng cho nhiều loại hình đối tượng báo cáo, không chỉ riêng CTCK. Trong quá trình nhận biết khách hàng, CTCK đã phải thu thập thông tin về nghề nghiệp, chức vụ của khách hàng, đây cũng là căn cứ để xác định giá trị giao dịch có phù hợp với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân hay không.
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Điểm đ Khoản 3 Điều 25 quy định: “Khách hàng thường mở tài khoản ở nhiều ngân hàng nên có thể tần suất sử dụng 1 tài khoản không thường xuyên.” Vì thế, khi khách hàng đột nhiên nhận khoản tiền lớn mà được xem là giao dịch đáng ngờ sẽ dẫn đến nhiều báo cáo giao dịch đáng ngờ không phù hợp. Cần xác định giá trị khoản tiền nhận bao nhiêu được xem là giá trị lớn cần phải xem xét giao dịch đáng ngờ. Nên cho hướng dẫn giá trị giao dịch lớn theo quy định tại Điều 24.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi như sau:
đ) Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; hoặc đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn theo quy định tại Điều 24 mà không có lý do hợp lý;
|
Điều 27 dự thảo Luật quy định về các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản mà đối tượng báo cáo căn cứ để xây dựng thành các kịch bản cảnh báo tại tổ chức mình khi thực hiện rà soát khách hàng. Tuy nhiên, các dấu hiệu này không phải là một thông tin duy nhất để đối tượng báo cáo báo cáo giao dịch đáng ngờ. Đối tượng báo cáo cần phải thực hiện các bước rà soát, phân tích thông tin tiếp theo để quyết định có hay không có quyết định báo cáo giao dịch đáng ngờ. Việc đối tượng báo cáo chỉ căn cứ vào dấu hiệu quy định tại Điều 27 để báo cáo giao dịch đáng ngờ là chưa phù hợp với quy định tại khoản 1, 2 Điều 26:
“1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có đủ các yếu tố sau:
a) Giao dịch được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;
b) Cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản hoặc tài sản có nguồn gốc từ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của cá nhân đó hoặc cá nhân, tổ chức liên quan tới cá nhân đó trong hoặc sau thời gian thực hiện hành vi phạm tội.
2. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch liên quan đến rửa tiền được xác định từ việc xem xét, thu thập và phân tích thông tin khi khách hàng, giao dịch có một hoặc nhiều dấu hiệu đáng ngờ theo quy định tại các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này và từ các dấu hiệu đáng ngờ khác do đối tượng báo cáo xác định.” quan tới rửa tiền.”.
Khoản 5 điều 28 đã được chỉnh sửa như sau: “Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; tài khoản của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn bất thường”
Giao dịch có giá trị lớn bất thường sẽ được Chính phủ quy định cụ thể theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 20 dự thảo này.
|
|
|
Điểm g khoản 3 Điều 25 quy định: “Doanh nghiệp thường quản lý dòng tiền, không để tiền ở lâu trên tài khoản. Vì vậy, khách hàng sẽ chuyển tiền ngay, bao gồm cả các khoản chuyển tiền ra ra nước ngoài thanh toán nghĩa vụ, sau khi nhận được tiền. Nếu xem các báo cáo này là giao dịch đáng ngờ sẽ dẫn đến nhiều báo cáo không phù hợp.”
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi như sau:
g) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài không có lý do hợp lý ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
|
Nội dung giải trình như trên. Các dấu hiệu đáng ngờ này là cảnh báo để đối tượng báo cáo thực hiện các bước tiếp theo rà soát khách hàng chứ không phải đối tượng báo cáo chỉ căn cứ vào dấu hiệu này để báo cáo giao dịch đáng ngờ. Đối tượng báo cáo cần phải thực hiện các bước rà soát, phân tích thông tin tiếp theo để quyết định có hay không có quyết định báo cáo giao dịch đáng ngờ. Việc đối tượng báo cáo chỉ căn cứ vào dấu hiệu quy định tại Điều 27, 28 để báo cáo giao dịch đáng ngờ là chưa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này.
|
|
|
Về báo cáo giao dịch đáng ngờ:
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ:
1. Sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động công ty.
2. Sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch giúp cho đối tượng cá nhân khác. Đặc biệt là giao dịch bất động sản, chứng khoán, đầu tư...
Tài khoản tổ chức nhưng giao dịch nộp rút tiền mặt nhiều. Không phù hợp với bản chất ngành nghề của khách hàng.
|
Tiếp thu, bổ sung thêm khoản 13 Điều 28 như sau:
“Nghi ngờ hoặc có dấu hiệu nghi ngờ sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động công ty hoặc giao dịch giúp cho đối tượng cá nhân khác”.
|
|
|
Điểm h khoản 2 Điều 25 quy định: Khách hàng có thể thực hiện giao dịch không theo đúng trình tự, thủ tục do giới hạn thông tin, kiến thức và kinh nghiệm. Vì thế chỉ nên xem các trường hợp khách hàng cố ý không thực hiện đúng trình tự là đáng ngờ.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi như sau:
h) Giao dịch của khách hàng cố tình thực hiện thông qua đối tượng báo cáo không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
|
Các dấu hiệu đáng ngờ này là cảnh báo để đối tượng báo cáo thực hiện các bước tiếp theo rà soát khách hàng chứ không phải đối tượng báo cáo chỉ căn cứ vào dấu hiệu này để báo cáo giao dịch đáng ngờ.
|
|
|
Điểm c khoản 4 Điều 25 quy định: Người mua hợp đồng bảo hiểm và thanh toán từ tài khoản không phải là tài khoản của mình hoặc bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên;
Quy định này có thể gây hiểu nhầm vì Bên mua bảo hiểm có thể ủy quyền cho bên thứ 03 đóng phí (Công ty, tổ chức,...) hoặc mối quan hệ hôn nhân, huyết thống Cha, mẹ/Vợ chồng.
Kiến nghị: Người mua hợp đồng bảo hiểm và Phí bảo hiểm được thanh toán từ tài khoản không phải là tài khoản của mình. Bên mua hợp đồng bảo hiểm của tổ chức, cá nhân được Bên mua hợp đồng bảo hiểm ủy quyền, của người có quan hệ hôn nhân, huyết thống với Bên mua hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên.
|
Tiếp thu, sửa khoản 3 điều 30 dự thảo như sau:
“Bên mua bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm từ tài khoản không phải là tài khoản của bên mua bảo hiểm, tài khoản của tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm ủy quyền; hoặc thanh toán bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên;”
|
|
|
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Điểm e khoản 5 - Điều 25: Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán bằng tiền mặt hoặc séc trong khoảng thời gian ngắn hoặc sẵn sàng đầu tư vào các danh mục chứng khoán không có lợi.
Kiến nghị:
- Đề nghị có quy định cụ thể “thời gian ngắn” là bao lâu.
- Đề nghị bỏ nội dung “hoặc sẵn sàng đầu tư vào các danh mục chứng khoán không có lợi”.
Lý do:
- Quy định cụ thể thời gian thay vì là “thời gian ngắn” để có cơ sở thực hiện.
- Việc quy định “danh mục chứng khoán không có lợi” sẽ gây khó khăn cho việc xác định giao dịch đáng ngờ vì thị trường chứng khoán Việt Nam biến động khá phức tạp và ảnh hưởng nhiều yếu tố khách quan nên danh mục chứng khoán không có lợi không thể là cơ sở để đi đến kết luận đây là giao dịch đáng ngờ.
|
- Các dấu hiệu đáng ngờ này là cảnh báo để đối tượng báo cáo thực hiện các bước tiếp theo rà soát khách hàng chứ không phải đối tượng báo cáo chỉ căn cứ vào dấu hiệu này để báo cáo giao dịch đáng ngờ.
- Tiếp thu một phần và điều chỉnh nội dung này tại khoản 5 Điều 31:
“5. Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán không có lợi trong khoảng thời gian ngắn”
|
|
|
Điểm g khoản 5 - Điều 25: Tài khoản chứng khoán của khách hàng không hoạt động trong một thời gian dài nhưng đột nhiên được đầu tư lớn không phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng.
Kiến nghị: Đề nghị bỏ nội dung này.
Lý do: Thị trường chứng khoán có tính chu kì. Do đó, khi khách hàng thấy thị trường tiềm năng (đáy chu kì), có thể kiếm lời thì khách hàng đầu tư. Khi có lợi nhuận, khách hàng bán chứng khoán và đầu tư vào các kênh đầu tư khác. Ngoài ra, như đã nêu ở mục 1 bên trên, công ty chứng khoán không thể xác định chính xác khả năng tài chính của khách hàng nên không thể có cơ sở để đối chiếu và xác định giao dịch đáng ngờ.
|
Các dấu hiệu đáng ngờ này là cảnh báo để đối tượng báo cáo thực hiện các bước tiếp theo rà soát khách hàng chứ không phải đối tượng báo cáo chỉ căn cứ vào dấu hiệu này để báo cáo giao dịch đáng ngờ.
|
|
|
Điểm b khoản 5 – Điều 25:Khách hàng thực hiện chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà không có lý do hợp lý.
Kiến nghị: Đề nghị bỏ nội dung này.
Lý do: Theo quy định tại điểm r khoản 2, Điều 6 Thông tư 119/2020/TT-BTC “Các trường hợp chuyển quyền sở hữu chứng khoán khác sau khi có ý kiến chấp thuận của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước”. Như vậy, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã phê duyệt lý do của từng trường hợp chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống thì không cần quy định này nữa.
|
Tiếp thu
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng; Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
|
Về Báo cáo giao dịch đáng ngờ (Điều 25)
Các dấu hiệu đáng ngờ được quy định tại Điều 25 của Dự thảo phần lớn vẫn là những dấu hiệu mang tính định tính và chưa thật sự rõ ràng. Bên cạnh đó, nhiều dấu hiệu đáng ngờ cơ bản trong hoạt động thanh toán quốc tế/tài trợ thương mại theo khuyến nghị của NHNN trong một số Công văn đã gửi các TCTD cũng chưa được đưa vào Dự thảo.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị sửa đổi Điều 25 Dự thảo theo hướng quy định định lượng cho từng dấu hiệu, bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế/tài trợ thương mại theo khuyến nghị của NHNN trong một số Công văn hướng dẫn đã gửi các TCTD để tạo tính thống nhất/hoàn chỉnh của quy định về báo cáo giao dịch đáng ngờ ngay trong Luật PCRT. Ngoài ra, các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản được đề cập trong Dự thảo đã có từ năm 2012 đến nay. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, thông báo thêm cho các đối tượng báo cáo các dấu hiệu đáng ngờ mớinhư:
+ Doanh nghiệp nhận vốn vay nước ngoài ngắn hạn nhưng không có tài sản bảo đảm, giá trị vốn vay không phù hợp với quy mô doanh nghiệp.
+ Các giao dịch chuyển tiền cho bên thứ ba khi không xác định được mối quan hệ giữa đơn vị hưởng và bên thứ ba.
+ Các giao dịch chuyển tiền của khách hàng thực hiện thông qua tổ chức tín dụng phát hiện dùng một bộ hồ sơ thanh toán tại nhiều ngân hàng khác nhau cũng thuộc đối tượng giao dịch có dấu hiệu đáng ngờ.
+ Các giao dịch chuyển tiền ngoại tệ của Khách hàng thanh toán cho hợp đồng ngoại thương có giá trị lớn, được ký kết một thời gian dài trước đây.
+ Chuyển tiền cho người thụ hưởng ở nhiều quốc gia khác nhau theo hình thức thanh toán trả sau trong mô hình kinh doanh tạm nhập tái xuất, giá trị lớn bất thường, không tương ứng với giá trị hàng hóa hoặc giá trị cao hơn nhiều so với vốn điều lệ và quy mô kinh doanh thông thường của Công ty.
+ Khách hàng chuyển tiền ra nước ngoài với số tiền lớn, ứng trước 100% giá trị hợp đồng nhưng khi yêu cầu hoàn trả lại số tiền thì ngân hàng nước ngoài xác nhận đã ghi có vào tài khoản đã đóng, số dư rất nhỏ hoặc bằng 0.
+ Chuyển tiền quốc tế liên quan đến hàng hóa nhập khẩu từ các nước cho bên thứ ba nhưng bên thứ 3 (công ty thụ hưởng) không có website riêng hoặc không có thông tin về ngành nghề kinh doanh hoặc ngành nghề kinh doanh không phù hợp với mặt hàng theo hợp đồng mua bán.
+ Giao dịch có dấu hiệu chuyển tiền lòng vòng, tiền được nộp vào rút ra qua nhiều tài khoản, sau đó lại được chuyển vào tài khoản ban đầu…
|
Các dấu hiệu đáng ngờ quy định tại Điều 27-33 dự thảo Luật chỉ mang tính chất gợi ý cho đối tượng báo cáo. Các dấu hiệu này được xây dựng, tổng hợp từ kinh nghiệm nhiều quốc gia trên thế giới, được chia sẻ trong báo cáo mô hình của APG. Việc bổ sung thêm các dấu hiệu mới cần được đánh giá kỹ tác động, tránh quy định dàn trải các dấu hiệu đáng ngờ trong các lĩnh vực để tiết kiệm nguồn lực, thời gian, chi phí của các đối tượng báo cáo, cơ quan thực thi pháp luật.
Bên cạnh đó tại khoản 3 Điều 26 dự thảo Luật quy định: “Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu nêu tại điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật này, đối tượng báo cáo, các bộ, ngành có liên quan thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ hướng dẫn và bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực.”
|
|
|
22
|
Điều 26
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Điều 26. Giao dịch chuyển tiền điện tử
Các lệnh chuyển tiền mà ngân hàng nhận được khi xử lý các điện chuyển tiền quốc tế chiều về được chuyển tiếp từ 1 ngân hàng trong nước thường thiếu các thông tin về tổ chức phát lệnh chuyển tiền và quốc gia của tổ chức đó.
Theo quy định của NHNN về báo cáo các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế thì Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng bắt buộc phải báo cáo thông tin về tên và quốc gia của tổ chức phát lệnh chuyển tiền trong các giao dịch chuyển tiền quốc tế chiều đến.
Tham chiếu quy định tại Công văn số 2685/TTGSNH5 ngày 6/8/2021.
Kiến nghị: Đề xuất NHNN thêm cụm từ “Báo cáo” vào tiêu đề của Điều 26 và khoản 2 Điều 26 để đảm bảo tính nhất quán với điều 24, 25 và 28.
Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung trách nhiệm của các tổ chức trung gian trong việc cung cấp đầy đủ thông tin trên điện chuyển tiền/giấy báo có liên quan đến tổ chức phát lệnh chuyển tiền và quốc gia của tổ chức phát lệnh chuyển tiền.
|
Nội dung quy định tại Điều 34 không chỉ quy định về báo cáo, do đó quy định tên Điều là phù hợp, thống nhất Điều 25, 26, 36.
Dự thảo Luật cũng giao NHNN hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác PCRT.
Dự thảo Luật đã có quy định về chuyển tiền điện tử, về khái niệm giao dịch điện tử đã được quy định tại Luật giao dịch điện tử.
|
|
|
Hiện tại Luật và các văn bản hướng dẫn đều chưa có định nghĩa rõ ràng và cụ thể về các giao dịch chuyển tiền điện tử nằm trong phạm vi phải thực hiện báo cáo. Điều này gây rất nhiều khó khăn và vướng mắc cho các đối tượng báo cáo trong việc thực hiện yêu cầu này vì nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phát triển nhanh và đa dạng, dẫn đến việc phạm vị và số lượng các giao dịch có thể nằm trong phạm vi báo cáo ngày càng tăng nhanh và trùng lặp nhau.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN đưa ra định nghĩa về giao dịch điện tử cùng với những tiêu chí cụ thể giúp cho đối tượng báo cáo có thể xác định được chính xác và đầy đủ các giao dịch thực sự thuộc phạm vi báo cáo.
|
Tiếp thu. Định nghĩa về giao dịch chuyển tiền điện tử đã được quy định tại khoản 6 Điều 3 dự thảo.
|
|
|
Khoản 3 Điều 26: Trong quy định về Giao dịch chuyển tiền điện tử, Các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách và quy trình trên cơ sở đánh giá rủi ro của tổ chức để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
3. Các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách và quy trình trên cơ sở đánh giá rủi ro của tổ chức để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
Kiến nghị: Như kiến nghị ở Điều 9.1.b: Thay vì quy định tại luật này kiến nghị sửa đổi quy định liên quan về chuyển tiền điện tử trong đó quy định các trường thông tin thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo là thông tin bắt buộc. Ngân hàng khởi tạo phải đảm bảo các thông tin này được thu thập và thể hiện đầy đủ trên lệnh/điện chuyển tiền.
“3. Các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách và quy trình trên cơ sở đánh giá rủi ro của tổ chức để thực hiện, từ chối, tạm dừng kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.”
Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung các thông tin cần giám sát tùy theo yêu cầu bắt buộc/tùy chọn trong Mẫu báo cáo chuyển tiền điện tử.
|
Nội dung này đã được giải trình tại điểm b khoản 2 Điều 9.
Nội dung này phù hợp khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG. Việc kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ là cần thiết.
Tiếp thu theo hướng sẽ quy định trong văn bản hướng dẫn của NHNN theo quy định tại khoản 2 điều 34.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 3 Điều 26 Dự thảo quy định: “3. Các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách và quy trình trên cơ sở đánh giá rủi ro của tổ chức để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu”
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ chỉ các tổ chức tham gia vào việc cung cấp/thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử hay là bao gồm cả các tổ chức (các bên) khởi tạo/thụ hưởng giao dịch đó.
|
Tổ chức tham gia vào giao dịch bao gồm tổ chức khởi tạo, trung gian và thụ hưởng.
|
|
|
- Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi Khoản 3 Điều 26 như sau: “Các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách và quy trình trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro của tổ chức để thực hiện, từ chối, tạm dừng, giám sát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu” để dễ hiểu hơn.
|
Không tiếp thu, chính sách, quy trình quản lý rủi ro là một nội dung tại quy định nội bộ của đối tượng báo cáo tại Điều 24.
|
|
|
23
|
Điều 28
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam;
|
Điều 28 và khoản 2 Điều 29. Quy định tại Luật PCRT và Thông tư 35 hướng dẫn luật đều cho phép lựa chọn một trong hai hình thức: (1) báo cáo bằng văn bản cứng; hoặc (2) bằng tệp dữ liệu điện tử thông qua thông qua hệ thống STRClient hoặc bằng thư điện tử. Đồng thời, theo yêu cầu của hệ thống STRClient khi thực hiện gửi SAR, các ngân hàng đồng thời được yêu cầu phải gửi lại báo cáo SAR và các chứng từ hỗ trợ cho báo cáo theo đường thư điện tử do sự hạn chế của hệ thống STRClient. Các tài liệu, chứng từ của Ngân hàng chủ yếu được lưu trữ dưới dạng tệp dữ liệu điện tử. Việc yêu cầu các Ngân hàng thương mại phải gửi báo cáo, tài liệu liên quan đến giao dịch đáng ngờ bằng bản cứng sẽ gây ra nhiều trở ngại cho các Ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước trong việc in ấn, lưu trữ chứng từ.
Bên cạnh đó, khi tham khảo thời gian nộp báo cáo SAR ở các chi nhánh hoạt động tại các quốc gia trong khu vực, chúng tôi nhận thấy một số quốc gia cho phép thời gian báo cáo dài hơn, ví dụ như: Thái Lan – 7 ngày làm việc, Philippines – 5 ngày làm việc (nới rộng ra 15 ngày làm việc nếu có nghi ngờ liên quan tới các hoạt động đánh bạc, casino), Singapore – 15 ngày làm việc.
Kiến nghị: Theo chủ trương số hóa chung của ngành, ngân hàng nhận thấy lợi ích của việc gửi báo cáo và các chứng từ kèm theo dưới đang tệp dữ liệu điện tử qua hệ thống nhiều hơn so với hình thức gửi văn bản cứng. Việc gửi báo cáo và các chứng từ kèm theo dưới dạng tệp điện tử qua hệ thống có thể giúp các ngân hàng:
- Báo cáo được gửi tới Cục PCRT ngay sau khi ngân hàng thực hiện thành công quy trình nhập báo cáo vào hệ thống. Thời gian để NHNN nhận được báo cáo do vậy cũng được rút ngắn.
- Tiết kiệm được thời gian chuẩn bị và nộp báo cáo, cắt giảm được các công đoạn hành chính cho các ngân hàng.
- Các ngân hàng có thể biết được ngay tình trạng nộp báo cáo đã thành công chưa và Có số liệu về báo cáo từ hệ thống để thuận tiện cho thông tin quản lý (MI).
Việc gửi và nhận báo cáo, hồ sơ, chứng từ kèm theo qua hình thức tệp dữ liệu điện tử cũng phù hợp với tập quán hiện nay ở nhiều quốc gia. Kính đề nghị NHNN xem xét và đề xuất để được quy định cụ thể trong Luật.
|
Không tiếp thu do đối tượng báo cáo thuộc các ngành nghề khác nhau. Về cơ bản, đối tượng báo cáo thực hiện báo cáo hình thức dữ liệu điện tử, trừ trường hợp đối tượng báo cáo chưa thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin tương thích thì thực hiện báo cáo bằng văn bản.
|
|
|
Kính đề nghị NHNN xem xét và cân nhắc cho việc đề xuất, sửa đổi Luật và nới rộng thời hạn để thực hiện báo cáo SAR là 7 ngày (thay cho “hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch hoặc một ngày làm việc kể từ thời điểm phát hiện giao dịch đáng ngờ”) để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thực hiện báo cáo SAR.
|
Không tiếp thu, do thời hạn 7 ngày là quá trễ đối với công tác phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Về giao dịch đáng ngờ (Điều 28)
Khoản 3 Điều 28 dự thảo quy định: “3. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải gửi kèm hồ sơ mở tài khoản đối với các giao dịch thực hiện thông qua tài khoản, thông tin nhận biết khách hàng, các chứng từ và tài liệu khác liên quan đến giao dịch đáng ngờ, các biện pháp phòng ngừa đã thực hiện”.
Trong quá trình vận hành, một số TCTD đánh giá việc gửi chứng từ, tài liệu giao dịch kèm báo cáo giao dịch đáng ngờ phát sinh một số vấn đề sau: (i) Số lượng tài liệu đi kèm báo cáo nhiều khiến việc chuyển thông tin cho NHNN thông qua các đơn vị vận chuyển có khả năng thất lạc hồ sơ; (ii) hiện nay tại hầu hết các doanh nghiệp, cán bộ nhân viên không được sử dụng các thiết bị lưu trữ thông tin ngoài như đĩa CD, USB… nên khi NHNN yêu cầu cung cấp thông tin qua đĩa CD, USB … thì thời gian tương tác để chuyển thông tin theo yêu cầu sẽ kéo dài và làm chậm tiến độ báo cáo giao dịch đáng ngờ.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị sửa đổi quy định tại Khoản 3 Điều 28 dự thảo theo hướng: Đối tượng báo cáo chỉ phải gửi báo cáo giao dịch đáng ngờ cho NHNN, tài liệu liên quan chỉ cần gửi khi NHNN có yêu cầu. Ngoài ra, việc gửi tài liệu này sẽ được thực hiện qua nhiều hình thức để lựa chọn (bản giấy, bản mềm qua đĩa CD/USB, bản mềm qua email…).
|
Đối tượng báo cáo bắt buộc phải gửi kèm theo các chứng từ, tài liệu theo quy định để đảm bảo công tác phân tích và xử lý thông tin được kịp thời. Đây là quy định đã và đang được áp dụng kể từ khi luật PCRT năm 2012 có hiệu lực thi hành. Do đó giữ nguyên nội dung tại khoản 3 điều 36.
NHNN đã có hướng dẫn về việc đối tượng báo cáo có thể lựa chọn phương thức gửi tài liệu qua thiết bị điện tử (USB, CD).
|
|
|
24
|
Điều 29
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
|
Điểm a khoản 1 Điều 29 quy định: “Đối với giao dịch có giá trị lớn và giao dịch chuyển tiền điện tử, đối tượng báo cáo phải: a) Báo cáo hàng ngày đối với hình thức báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử;”
Kiến nghị: đề nghị sửa thành: "Đối với giao dịch có giá trị lớn và giao dịch chuyển tiền điện tử vượt ngưỡng, đối tượng báo cáo phải: a) Báo cáo hàng ngày đối với hình thức báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử;”
|
Tiếp thu và chỉnh sửa: đã được quy định tại Điều 25 và Điều 34.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Kiến nghị: Đề nghị xem xét nội dung về thời hạn báo cáo tại Khoản 2 Điều 29 dự thảo đối với giao dịch đáng ngờ do việc quy định thời hạn báo cáo ngắn như hiện nay sẽ dẫn đến chất lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ thấp, báo cáo theo dấu hiệu bề mặt... khi đối tượng báo cáo không có đủ thời gian để tổng hợp dữ liệu, phân tích, đánh giá tính đáng ngờ của giao dịch trong trường hợp giao dịch có liên quan đến nhiều bên hoặc diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Hơn nữa, theo Điều 28, Báo cáo giao dịch đáng ngờ phải gửi kèm hồ sơ mở tài khoản, với tài khoản mở từ lâu việc lấy hồ sơ trong kho lưu trữ mất thời gian. Quy định thời hạn như trên gây khó khăn cho đối tượng báo cáo.
|
Điều khoản luật quy định 2 mốc báo cáo giao dịch đáng ngờ là khi phát sinh giao dịch đáng ngờ và kể từ ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được giao dịch đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ , đối tượng báo cáo căn cứ tình hình thực tế để lựa chọn thời gian báo cáo phù hợp.
|
|
|
Ngoài ra, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ khái niệm thời điểm phát sinh giao dịch là thời điểm nào, đặc biệt đối với các giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu là chuyển tiền lòng vòng thì thời điểm phát sinh giao dịch được tính từ thời điểm phát sinh giao dịch đầu tiên hay cuối cùng trước khi thực hiện báo cáo.
|
Thời điểm phát sinh giao dịch là thời điểm khách hàng thực hiện giao dịch mà đối tượng báo cáo nhận định là giao dịch đáng ngờ. Điều khoản luật quy định 2 mốc báo cáo giao dịch đáng ngờ là khi phát sinh giao dịch đáng ngờ và kể từ ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được giao dịch đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ , đối tượng báo cáo căn cứ tình hình thực tế để lựa chọn thời gian báo cáo phù hợp.
|
|
|
Khoản 2 Điều 29. Kiến nghị:
Vì việc điều tra giao dịch cần rất nhiều thời gian nên yêu cầu báo cáo trong thời gian tối đa là hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch là rất khó khăn cho ngân hàng, đặc biệt trong tình huống giao dịch xảy ra vào cuối ngày. Trong một số trường hợp, TCTD cần phải tiến hành thu thập thêm thông tin, xác minh, làm rõ thông tin của giao dịch, và các giao dịch liên quan hoặc các bên liên quan. Thêm vào đó, việc lập báo cáo giao dịch cũng tốn nhiều thời gian vì báo cáo giao dịch đáng ngờ phải vừa qua văn bản, vừa qua hệ thống điện tử, phải tổng hợp tài liệu đính kèm, phải trình phê duyệt,… nên việc phải hoàn thành và gửi báo cáo giao dịch đáng ngờ trong trong thời gian tối đa là hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch hoặc một ngày làm việc kể từ thời điểm phát hiện giao dịch đáng ngờ là rất khó khăn.
Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung giải thích tương tự nhất quán trong Nghị định 116 để làm rõ về thời điểm ngày phát hiện dấu hiệu đáng ngờ để tổ chức báo cáo xác định đúng mốc thời hạn báo cáo giao dịch đáng ngờ.
|
Tiếp thu và chỉnh sửa nội dung quy định tại khoản 2 điều 37 để làm rõ ngày phát hiện dấu hiệu đáng ngờ tương tự quy định tại Nghị định 116.
|
|
|
|
|
|
Kính đề xuất NHNN sửa đổi như sau:
Điều 29. Thời hạn báo cáo
2. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải báo cáo trong thời gian tối đa là năm (05) ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch hoặc một ngày làm việc (24 giờ) kể từ ngày phát hiện giao dịch đáng ngờ (Ngày phát hiện dấu hiệu đáng ngờ được tính là ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được dấu hiệu đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ); trường hợp phát hiện giao dịch do khách hàng yêu cầu có dấu hiệu liên quan đến tội phạm thì phải báo cáo ngay cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
Không tiếp thu, để đảm bảo tính kịp thời trong báo cáo giao dịch đáng ngờ.
|
|
|
|
|
|
- Giải thích từ ngữ/định nghĩa về ‘giao dịch liên quan đến tội phạm’ chưa có trong Luật và do vậy có thể có nhiều cách hiểu và thực hiện. Theo dấu hiệu được nêu tại Điều 25.3.i: Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng, thì cũng có cách hiểu rằng các giao dịch mà bên nhận/gửi tiền trùng khớp với danh sách truy nã/tội phạm mà NHNN và các cơ quan chức năng chia sẻ với các ngân hàng thì được coi là giao dịch liên quan tới tội phạm. Ngoài hai dấu hiệu trên, ngân hàng sẽ khó có cơ sở để xác định giao dịch có liên quan tới tội phạm để báo cáo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ngoài NHNN.
Xét trong bối cảnh hiện nay, thị trường có nhiều loại hình giao dịch, dịch vụ ngân hàng và các đối tượng tội phạm cũng có nhiều cách thức, thủ đoạn để phạm tội, một ngân hàng đơn lẻ không thể phát hiện được các hành vi phạm tội. Lấy ví dụ như tội phạm về thẻ và giao dịch thẻ, nếu một ngân hàng chỉ đóng vai trò là ngân hàng phát hành thì việc giám sát thanh toán và quản lý các đơn vị thanh toán, đơn vị chấp nhận thẻ (Merchant) đòi hỏi sự vào cuộc của cả các tổ chức thẻ, cơ quan quản lý để giúp ngân hàng phát hành thẻ ngăn chặn các giao dịch bị cấm/bất hợp pháp.
Gần đây các ngân hàng được yêu cầu phải giám sát một số loại hình hoạt động, kinh doanh khá đặc thù ví dụ như giao dịch liên quan tới các công ty, trò chơi điện tử chưa được cấp phép v.v. Trong khi cơ chế để các ngân hàng có cơ sở phát hiện các giao dịch đó cũng như cơ chế báo cáo cho NHNN và các cơ quan chức năng có liên quan chưa được quy định cụ thể, các ngân hàng cũng gặp khó trong việc ngăn chặn, phát hiện, báo cáo các giao dịch liên quan tới hoạt động bị cấm/vi phạm pháp luật/liên quan tới tội phạm.
Kiến nghị:
Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung điểm này vào trong báo cáo đánh giá và đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng.
|
Không tiếp thu. Khoản 9 Điều 28 chỉ là một trong những dấu hiệu có liên quan đến tội phạm cần phải báo cáo.
|
|
|
25
|
Điều 30
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Công ty TNHH Tài chính (FE Credit);
|
Điều 30 quy định: Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu giữ thông tin, tài liệu: nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 10, Điều 11 của Luật này; báo cáo giao dịch và các hồ sơ, tài liệu kèm theo giao dịch báo cáo theo quy định tại Điều 24, 25 và 26 của Luật này; kết quả phân tích, đánh giá của đối tượng báo cáo đối với khách hàng, giao dịch phải báo cáo; các hồ sơ, tài liệu khác liên quan đến khách hàng, giao dịch phải báo cáo ít nhất 5 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch hoặc ít nhất 5 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo.
Kiến nghị: Kính đề xuất NHNN làm rõ cho phép lưu trữ thông tin tài liệu theo 2 phương thức: giấy và/hoặc điện tử.
|
Không tiếp thu, việc thực hiện lưu trữ được thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật về lưu trữ hồ sơ trong từng lĩnh vực.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Về lưu giữ hồ sơ, báo cáo (Điều 30)
Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ trường hợp triển khai nhận biết khách hàng qua phương thức trực tuyến (eKyC) và thực hiện giao dịch trực tuyến thì sẽ lưu trữ theo phương thức điện tử hay vẫn phải chuyển đổi các tài liệu ra giấy để lưu trữ?
|
|
|
26
|
Điều 31
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 1 Điều 31 quy định Việc nhận các yêu cầu cung cấp thông tin và trả lời bằng văn bản chiếm khá nhiều thời gian trong công tác bảo quản hồ sơ, tài liệu, in ấn. Trong khi đó, NHNN đã có hệ thống e-doc để chuyển và nhận thông tin tới/từ các ngân hàng. Lấy ví dụ, hiện nay, các yêu cầu từ NHNN Chi nhánh Hà Nội được gửi qua hệ thống e-doc và do vậy rất thuận tiện cho cả các ngân hàng và NHNN. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh dịch covid-19 khi các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều có kế hoạch làm việc từ xa/tại nhà để đảm bảo an toàn cho nhân viên và cộng đồng.
Trong Điều 31, các yêu cầu cung cấp thông tin của các cơ quan quản lý và phản hồi của ngân hàng được coi là thông tin mật và do vậy đòi hỏi nhiều quy trình, thủ tục để bảo mật. Hơn nữa, theo các quy định được ban hành gần đây về bảo mật thông tin, ngân hàng hiểu rằng nếu công văn yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan chức năng không phân loại là ‘mật’ thì khi ngân hàng trả lời cũng không phải phân loại là thông tin mật và do vậy các thông tin được cung cấp cũng không cần phải xử lý, bảo quản theo chế độ mật.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét, đề xuất việc sửa đổi nội dung và hình thức của các yêu cầu cung cấp thông tin nêu trong Luật.
|
Không tiếp thu, do nội dung và hình thức yêu cầu cung cấp thông tin tùy vào từng trường hợp theo yêu cầu cụ thể của NHNN và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc xác định thông tin phản hồi mật hay không mật phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và các quy định pháp luật có liên quan.
|
|
|
Tại Điều 31 tham chiếu đến khoản 1 Điều 30 nhưng điều 30 hiện không có Khoản 1.
|
Tiếp thu.
|
|
|
27
|
Điều 32
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
|
Khoản 2 Điều 32 quy định: “Điều 32. Bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo
2. Đối tượng báo cáo (bao gồm cả người quản lý, người lao động) không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Kiến nghị:
Quy định hiện tại tại điểm 2 Điều 32 đang hạn chế việc chia sẻ thông tin giữa chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài 100% vốn thành lập tại Việt nam được phép chia sẻ thông tin về khách hàng và các giao dịch với Hội sở chính, các chi nhánh của ngân hàng mẹ để phòng, tránh rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc triển khai hệ thống quản trị thông tin, chia sẻ thông tin liên quan cho mục đích phòng, chống rửa tiền và phòng, chống tài trợ khủng bố do hiện nay mức độ hội nhập của các cá nhân và doanh nghiệp Việt nam vào nền kinh tế thế giới đã rất sâu, rộng và đa dạng; đồng thời Việt nam cũng đang đón nhận rất nhiều đầu tư trực tiếp và gián tiếp của các tổ chức và cá nhận nước ngoài vào Việt nam.
Việc sửa đổi nội dung chia sẻ thông tin đã được đưa vào bản dự thảo sửa đổi Nghị định 116/2013 tuy nhiên lại không có trong Nghị định 87/2017 sửa đổi Nghị định 116/2013 do chưa phù hợp với Điều 32 của Luật PCRT. Kính đề nghị NHNN xem xét sửa đổi nội dung Điều 32 để tạo điều kiện cho việc sửa đổi, bổ sung nội dung chia sẻ thông tin.
5. Đối tượng báo cáo được chia sẻ thông tin về khách hàng và các giao dịch cho Hội sở, các chi nhánh của ngân hàng mẹ hoặc tập đoàn tài chính để phòng, tránh rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố. Các thông tin được chia sẻ chỉ được phép sử dụng cho mục đích sử dụng cho mục đích phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố. Bên được cung cấp, chia sẻ thông tin không được phép cung cấp hay chia sẻ cho bên thứ ba dưới bất kỳ hình thức nào.
Hoặc “2. Đối tượng báo cáo (bao gồm cả người quản lý, người lao động) không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoại trừ trường hợp chia sẻ thông tin trong nội bộ tập đoàn, ngân hàng hàng mẹ cho mục đích quản lý rủi ro.”
Kính đề xuất NHNN làm rõ thêm: Trong văn bản cũ, Đối tượng báo cáo chỉ được quyền chia sẻ thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật. Đối với thay đổi trong văn bản này, vui lòng cho biết quyền chia sẻ thông tin của Đối tượng báo cáo có gì thay đổi không? Nếu có, phạm vi chia sẻ thông tin báo cáo sẽ như thế nào? Việc chia sẻ thông tin trong nội bộ của tập đoàn có được phép không?
|
Tiếp thu.
Điều 40 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ, thông tin, tài liệu và báo cáo liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này”.
|
|
|
|
2. Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN làm rõ nội dung bảo đảm bí mật theo quy định pháp luật nào về bảo vệ bí mật thông tin do Báo cáo phòng, chống rửa tiền hiện không còn được phân loại là bí mật nhà nước nữa để các đối tượng báo cáo thực hiện đồng nhất hay các ngân hàng có thể hiểu rằng các ngân hàng có trách nhiệm bảo đảm bí mật thông tin theo chính sách bảo mật của từng ngân hàng.
|
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 2 Điều 32 quy định: “Đối tượng báo cáo (bao gồm cả người quản lý, người lao động) không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan cho Ngân hàng nhà nước”.
Kiến nghị: Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định này như sau cho rõ nghĩa: “Đối tượng báo cáo (bao gồm cả người quản lý, người lao động) không được tiết lộ thông tin cho khách hàng về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan cho Ngân hàng nhà nước.” để Ngân hàng có cơ sở triển khai thực hiện.
|
Nội dung khoản 2 Điều 40 như sau:
“Đối tượng báo cáo bao gồm cả người quản lý, người lao động không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan đến giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”
Quy định này bao hàm việc đối tượng báo cáo không được tiết lộ thông tin cho bất cứ bên thứ ba nào về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ, không chỉ đối với khách hàng.
|
|
|
28
|
Điều 38
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PGBank); Hiệp hội ngân hàng
|
Khoản 1 Điều 38 Dự thảo không đặt ra thời điểm áp dụng biện pháp trì hoãn cụ thể mà yêu cầu đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch ngay khi phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội hoặc tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ tội phạm, phải báo cáo ngay bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quy định là “ngay khi phát hiện” hoặc phải “báo cáo ngay” sẽ khó trong việc xác định được mốc thời gian chính xác mà đối tượng báo cáo phải thực hiện trách nhiệm này, khó khăn khi triển khai áp dụng.
Kiến nghị: Nên xác định theo hướng trong vòng một khoảng thời gian nhất định kể từ thời điểm phát hiện thì sẽ phải áp dụng biện pháp trì hoãn/báo cáo tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tạo cơ sở rõ ràng khi áp dụng.
|
Để đáp ứng khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG, đồng thời đảm bảo tính kịp thời của các biện pháp ngăn chặn, Khoản 1 Điều 44 quy định như sau:
“1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng ngay biện pháp trì hoãn giao dịch trong các trường hợp sau:
a) Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội;
b) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan.”
|
|
|
Nhóm Công tác Ngân hàng (“BWG”) – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PGBank);
|
Dự thảo sửa đổi có bổ sung trường hợp áp dụng biện pháp trì hoãn khi phát hiện “tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ tội phạm”. Tuy nhiên, dự thảo chưa có hướng dẫn cụ thể về các hành vi phạm tội mà tài sản có được từ hành vi phạm tội đó là tài sản trong giao dịch.
Kiến nghị: Kính đề nghị NHNN xem xét bổ sung nội dung cụ thể về việc xác định tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ tội phạm.
|
Tiếp thu ý kiến.
Bỏ cụm từ “tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ tội phạm” tại khoản 1 điều 44.
|
|
|
Tại Điều 38 đang quy định chỉ cho phép đối tượng báo cáo phải thực hiện phong tỏa tài khoản hoặc áp dụng biện pháp niêm phong hoặc tạm giữ tài sản của các cá nhân, tổ chức khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam việc phong tỏa, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản liên quan đến các tội phạm hình sự.
Tuy nhiên, hiện nay việc lừa đảo qua mạng internet phát sinh nhiều hơn, trên thực tế nhiều trường hợp khách hàng bị lừa đảo ra ngân hàng tố giác, đề nghị phong tỏa tài khoản của đối tượng lừa đảo để hạn chế rủi ro mất tiền; hiện nay các Ngân hàng chưa có căn cứ để thực hiện phong tỏa tài khoản trong trường hợp này; đến khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì toàn bộ số tiền đã được chuyển đi.
Kiến nghị: Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung cho phép ngân hàng được hỗ trợ khách hàng bị lừa đảo được phong tỏa trong thời hạn 03 ngày để người bị lừa đảo báo cáo cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hỗ trợ.
|
Khoản 1 Điều 44 đã quy định về quyền và nghĩa vụ cho đối tượng báo cáo thực hiện trì hoãn giao dịch (phong tỏa tạm thời) trong trường hợp có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động tội phạm như sau:
“1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng ngay biện pháp trì hoãn giao dịch trong các trường hợp sau:
a) Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội;
b) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan.”.
|
|
|
Hiêp hội ngân hàng
|
Tại Khoản 2, Điều 38 Dự thảo quy định: “2. Thời hạn áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu áp dụng.”
Kiến nghị:Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định sau 03 ngày này nếu đối tượng báo cáo không nhận được thông tin từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xử lý tiếp theo đối với giao dịch thì đối tượng báo cáo có thể tiếp tục xử lý giao dịch theo đúng quy trình hiện hành cho khách hàng. Vì hiện nay sau 03 ngày mà cơ quan chức năng chưa/không có ý kiến thì ngân hàng đang không biết xử lý tiếp cho khách hàng như thế nào, có tiếp tục xử lý giao dịch cho khách hàng được không.
|
Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 44, ĐTBC phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch và phải báo cáo ngay cho cơ quan có thẩm quyền và NHNN khi phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội.
Sau 3 ngày kể từ ngày áp dụng biện pháp trì hoãn và đã báo cáo theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 44, nếu ĐTBC không nhận được ý kiến từ các cơ quan có thẩm quyền thì có thể tiếp tục xử lý giao dịch cho khách hàng.
|
|
|
Bên cạnh đó, Dự thảo chưa quy định rõ việc miễn trừ trách nhiệm và rủi ro pháp lý mà đối tượng báo cáo gặp phải khi thực hiện các biện pháp trì hoãn giao dịch theo Điều này. Do vậy, đề nghị bổ sung quy định về việc đối tượng báo cáo được miễn trừ các trách nhiệm và rủi ro pháp lý (bao gồm việc chịu trách nhiệm với khách hàng) khi thực hiện các biện pháp trì hoãn theo quy định tại Điều này.
|
Tiếp thu và bổ sung khoản 4 Điều 44 như sau:
“4. Đối tượng báo cáo không phải chịu trách nhiệm pháp lý về những hậu quả phát sinh khi áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch theo đúng quy định tại Điều này.”
|
|
|
29
|
Điều 39
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Điều 39 Dự thảo quy định: “Đối tượng báo cáo phải thực hiện phong tỏa tài khoản hoặc áp dụng biện pháp niêm phong hoặc tạm giữ tài sản của các cá nhân, tổ chức khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam việc phong tỏa, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản liên quan đến các tội phạm hình sự.”
Kiến nghị: - Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ về việc theo quy định này thì chỉ khi các quyết định về phong tỏa, niêm phong, tạm giữ có liên quan đến tội phạm hình sự thì TCTD mới phải báo cáo NHNN. Vậy đối với các quyết định của tòa án về phong tỏa, niêm phong, tạm giữ theo thủ tục tố tụng dân sự thì sẽ không phải báo cáo NHNN?
|
Tiếp thu ý kiến góp ý theo hướng bỏ đoạn “và báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam việc phong toả, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản liên quan đến các tội phạm hình sự”.
Theo đó nội dung Điều 45 như sau:
“Đối tượng báo cáo phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản của các tổ chức, cá nhân theo theo quy định của pháp luật.”
|
|
|
- Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi điều này như sau: “Đối tượng báo cáo phải thực hiện phong tỏa tài khoản hoặc áp dụng biện pháp niêm phong hoặc tạm giữ tài sản của các cá nhân, tổ chức khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và/hoặc theo quy định của pháp luật và báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam việc phong tỏa, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản liên quan đến các tội phạm hình sự.” để không xung đột với Khoản 2 Điều 22 của Nghị định số 81/2019/NĐ-CP về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
Biện pháp phong tỏa quy định tại Điều này là một trong các biện pháp tạm thời áp dụng trong phòng, chống rửa tiền và được thực hiện khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều 45 được chỉnh sửa như sau và không xung đột với quy định tại Khoản 2 Điều 22 Nghị định 81: “Đối tượng báo cáo phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản của các tổ chức, cá nhân theo theo quy định của pháp luật.”
|
|
|
30
|
Điều 43
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Về trách nhiệm của Bộ Công an (Điều 43)
Điều 43 của Dự thảo chưa quy định rõ trách nhiệm của Bộ Công an trong việc chia sẻ thông tin dữ liệu quốc gia về dân cư để đối tượng báo cáo có thể khai thác, nhằm phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là về nhận biết khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi. Do vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 43 Dự thảo theo hướng bổ sung các trách nhiệm này của Bộ Công an.
|
Trách nhiệm của BCA trong việc chia sẻ thông tin dữ liệu quốc gia về dân cư được quy định tại Luật căn cước công dân và các văn bản hướng dẫn. Hiện nay, BCA đang phối hợp với các Bộ ngành, cơ quan, tổ chức để triển khai. Do đó, không đưa quy định cụ thể vào Điều 49 dự thảo này
|
|
|
31
|
Điều 48
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Về trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Điều 48)
Điều 48 của Dự thảo chưa quy định đầy đủ về trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc cho phép đối tượng báo cáo khai thác miễn phí thông tin doanh nghiệp qua Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng báo cáo trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là nhận biết khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 48 của Dự thảo theo hướng bổ sung trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc cho phép chia sẻ thông tin miễn phí về đăng ký doanh nghiệp, cũng như bổ sung tờ khai nhận biết chủ sở hữu hưởng lợi/cá nhân chi phối doanh nghiệp và đưa thông tin này lên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, giúp đối tượng báo cáo có nguồn thông tin để kiểm tra, đối chiếu nhận biết, xác định chủ sở hữu hưởng lợi.
|
Trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan quản lý nhà nước về ĐKKD và cơ quan ĐKKD được quy định tại Luật DN và Nghị định 01/2021/NĐ-CP, theo đó, có các thông tin được cung cấp miễn phí (bao gồm: tên doanh nghiệp; mã số doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính; ngành, nghề kinh doanh; họ và tên người đại diện theo pháp luật; tình trạng pháp lý của doanh nghiệp) và các thông tin phải trả phí theo quy định của pháp luật.
Do đó, không đưa quy định cụ thể vào Điều 55 dự thảo này.
|
|
|
32
|
Điều 60
|
Hiệp hội ngân hàng
|
Về quy định dẫn chiếu (Điều 60)
Điều 60 của Dự thảo quy định các biện pháp phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định tại Luật Phòng, chống rửa tiền (PCRT) sửa đổi. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh tại Khoản 1 Điều 1 Dự thảo chỉ bao gồm việc phòng, chống hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố, mà chưa đề cập đến hành vi rửa tiền nhằm tài trợ phổ biến vũ khí hàng loạt.
Kiến nghị: Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định tại Khoản 1 Điều 1 Dự thảo theo hướng bổ sung quy định về các biện pháp phòng, chống hành vi rửa tiền nhằm tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Dự thảo nhằm tạo tính đồng bộ, thống nhất trong việc thực thi.
|
Tiếp thu, đã bổ sung nội dung này tại khoản 2 Điều 1 như sau:
“Việc phòng, chống hành vi rửa tiền của các tổ chức, cá nhân có mục đích tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.”
|
|
|
Ngoài ra, tại Điều 27 Dự thảo có đưa hai cơ quan mới vào trong quản lý nhà nước về Phòng, chống rửa tiền là Bộ đội biên phòng và Cảnh sát biển, vì vậy đề nghị Ban soạn thảo nêu rõ trách nhiệm của hai cơ quan này trong công tác Phòng, chống rửa tiền.
|
Trách nhiệm của 2 cơ quan này đã thể hiện rõ tại Điều 35 như sau:
“2. Cơ quan hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển có trách nhiệm thu thập, lưu trữ các thông tin khai báo quy định tại khoản 1 Điều này và cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có yêu cầu hoặc khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.”
|
|
|
II
|
MỘT SỐ Ý KIẾN BỔ SUNG
|
|
|
|
|
|
|
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
|
Đề nghị bổ sung các quy định pháp luật về việc chia sẻ, cung cấp thông tin giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các tổ chức khác cho mục đích Phòng chống rửa tiền (PCRT). Hiện nay do chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn lúng túng hoặc lo lắng khi thực hiện. Cụ thể:
Theo quy định tại Luật PCRT: “Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng…” (Điều 11, khoản 3). Tức là doanh nghiệp bảo hiểm có thể cung cấp thông tin của khách hàng cho tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng.
Tuy nhiên, theo Luật bảo vệ người tiêu dùng số 59/2010/QH12 thì các doanh nghiệp phải bảo đảm an toàn, bí mật thông tin cho khách hàng (Điều 6). Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng như các tổ chức cá nhân kinh doanh khác có trách nhiệm: (i) Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng; ii) Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý; (iii) Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Quy định phải thông báo rõ ràng, công khai trước với khách hàng về mục đích sử dụng thông tin và chỉ được chuyển giao thông tin của khách hàng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của khách hàng đang làm cho các doanh nghiệp thực sự bối rối khi thực hiện các biện pháp nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba (tập đoàn/công ty mẹ hoặc các tổ chức tra soát khách hàng khác.)
Quy định phải thông báo rõ ràng, công khai trước với khách hàng về mục đích sử dụng thông tin và chỉ được chuyển giao thông tin của khách hàng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của khách hàng đang làm cho các doanh nghiệp thực sự bối rối khi thực hiện các biện pháp nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba (tập đoàn/công ty mẹ hoặc các tổ chức tra soát khách hàng khác).
|
Tiếp thu.
Điều 33 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ, thông tin, tài liệu và báo cáo liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này ”
|
|
|
Các vấn đề liên quan đến nhận biết khách hàng (KYC) cũng như giao dịch gián tiếp (non face-to-face transaction) vẫn chưa có quy định cụ thể. Và như vậy, có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động phòng chống rửa tiền cũng như hoạt động kinh doanh theo Nghị định 165/2018/NĐ-CP. Do đó, đề xuất bổ sung các quy định liên quan đến hai vấn đề này để các doanh nghiệp có thể triển khai cũng như đảm bảo mặt quản lý, quản trị rủi ro rửa tiền của mình.
|
Vấn đề nhận biết khách hàng đã được quy định tại Điều 9, 10, 11, 12 dự thảo Luật. Ý kiến này không nêu rõ khó khăn, vướng mắc hoặc cần có yêu cầu cụ thể làm rõ nội dung gì, do đó đề nghị giữ nguyên như dự thảo.
|
|
|
2
|
|
Hiệp hội ngân hàng
|
- Đề nghị không đưa các giao dịch liên quan đến giải ngân cho khách hàng vào diện giao dịch có giá trị lớn, giao dịch chuyển tiền điện tử, giao dịch đáng ngờ phải báo cáo do trước khi giải ngân cho khách hàng, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đã thẩm định kỹ các nội dung về mục đích sử dụng vốn, điều kiện vay vốn, năng lực tài chính, tính pháp lý và lịch sử tín dụng của khách hàng…Ngoài ra, nguồn tiền của các giao dịch này đều xuất phát từ các NHTM, là những nguồn tiền hợp pháp, có nguồn gốc rõ ràng.
|
Không tiếp thu. Tất cả các giao dịch có phạm vi phải báo cáo theo quy định về giao dịch có giá trị lớn, chuyển tiền điện tử và giao dịch đáng ngờ đều phải báo cáo.
|
|
|
- Điều 7 và Điều 13 của Dự thảo cùng quy định về việc đánh giá rủi ro về rửa tiền nhưng lại được tách thành hai điều khoản riêng, dẫn đến thiếu tính liền mạch, gây khó khăn trong việc theo dõi một cách có hệ thống về đánh giá rủi ro về rửa tiền. Do vậy, đề nghị hợp nhất quy định tại Điều 7 và Điều 13 thành điều khoản chung về Đánh giá rủi ro về rửa tiền.
|
Không tiếp thu, do:
Điều 7 và Điều 15 là 2 Điều khoản có mối liên hệ với nhau nhưng hoàn toàn khác biệt do Điều 7 liên quan đến đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền; Điều 15 liên quan đến đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
|
|
|
- Về cập nhật thông tin nhận biết khách hàng: Tại các Khoản 3 Điều 12, Điểm c Khoản 2 Điều 14 và Khoản 2 Điều 21 Dự thảo, phần cập nhật thông tin Khách hàng đều đang viện dẫn đến Điều 9, Điều 10 của Dự thảo. Tuy nhiên, Điều 9 chỉ quy định về các trường hợp phải áp dụng biện pháp nhận biết Khách hàng, còn chi tiết về việc cập nhật thông tin nhận biết Khách hàng được quy định tại Điều 10, Điều 11 của Dự thảo. Mặt khác, tại các điều khoản khác trong Dự thảo (Điểm a Khoản 1 Điều 19, Điều 30, Điểm b Khoản 2 Điều 14) nội dung thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng đều dẫn chiếu đến Điều 10, 11 của Luật này. Do vậy, đề nghị sửa đổi cụm từ “Điều 9, Điều 10” thành “Điều 10, Điều 11” tại Khoản 3 Điều 12, Điểm c Khoản 2 Điều 14 và Khoản 2 Điều 21 của Dự thảo.
|
Tiếp thu ý kiến góp ý.
|
|
|
- Dự thảo chưa quy định trách nhiệm của Bộ Quốc phòng về việc lập/theo dõi/thông báo Danh sách tổ chức, cá nhân bị đưa vào Danh sách bị chỉ định theo Nghị định số 81/2019/NĐ-CP về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Do vậy, đề nghị bổ sung trách nhiệm này của Bộ Quốc phòng tại Dự thảo.
|
Tiếp thu, đã bổ sung trách nhiệm của Bộ Quốc phòng tại Điều 50 dự thảo Luật
|
|
|
Đề nghị bổ sung các nội dung liên quan đến phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
Tiếp thu ý kiến góp ý tại khoản 3 Điều 63.
|
|
|
BÁO CÁO TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0707-bc404-NHNN-tong-ket-thi-hanh-Luat-PCRTdoc---20220927082905.doc
Kính gửi: Chính phủ
Luật Phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là Luật PCRT) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/6/2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013, là văn bản pháp lý cao nhất về lĩnh vực phòng chống rửa tiền, quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Cùng với các quy định của Bộ luật Hình sự 2009 (đã được thay thế bằng Bộ luật Hình sự 2015), Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013 và các văn bản hướng dẫn đã tạo lập hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, đầy đủ về lĩnh vực phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, giúp công tác PCRT, tài trợ khủng bố thực sự đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đây là cơ sở để Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF)
[1] ghi nhận Việt Nam đã có những nỗ lực trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PCRT, tài trợ khủng bố nhằm đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và đưa Việt Nam ra khỏi quy trình rà soát của FATF vào tháng 02/2014.
Tuy nhiên, qua hơn 08 năm triển khai, Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn đã bộc lộ một số hạn chế, chưa đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế mới và yêu cầu thực tiễn, đặt ra yêu cầu phải rà soát, tổng kết và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật PCRT. Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn về việc tổng kết, đánh giá tình hình thực tiễn thi hành pháp luật, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tiến hành tổng kết thi hành Luật PCRT. Trên cơ sở Báo cáo tổng kết của các Bộ, ngành và kết quả Hội nghị tổng kết thi hành Luật PCRT, Ngân hàng Nhà nước xin báo cáo tình hình và kết quả thi hành Luật PCRT như sau:
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
I. KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT PCRT
1. Tình hình triển khai thi hành Luật PCRT
1.1. Về công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về PCRT
- Về việc ban hành các văn bản quy định chi tiết Luật PCRT:
Sau khi Quốc hội thông qua Luật PCRT, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1319/QĐ-TTg ngày 19/8/2012 về việc ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XIII, trong đó có Luật PCRT. Theo đó, kết quả ban hành văn bản quy định chi tiết Luật PCRT cụ thể như sau:
+ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (Nghị định 116) (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019).
+ Chính phủ đã ban hành Nghị định 156/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 (thay thế Nghị định số 145/2016/NĐ-CP ngày 01/11/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán), trong đó có nội dung quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
+ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 128/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, có hiệu lực từ ngày 10/12/2020 (thay thế Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 và Nghị định số 45/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016), trong đó đã quy định xử lý nghiêm đối với hành vi vi phạm về khai hải quan của người xuất nhập cảnh (Điều 10) và vận chuyển trái phép hàng hóa, đồng Việt Nam tiền mặt, ngoại tệ, vàng, kim loại quý, đá quý qua biên giới (Điều 13); bổ sung các hành vi liên quan đến trốn thuế nhằm ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi liên quan đến rửa tiền (khoản 1 Điều 14).
+ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2019/NĐ-CP ngày 01/11/2019 về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm; Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số và Nghị định số 48/2018/NĐ-CP ngày 21/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số. Theo đó, Nghị định số 80/2019/NĐ-CP ngày 01/11/2019 đã quy định các hình thức xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
+ Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 20/2013/QĐ-TTg Ngày 18/4/2013 quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo (Quyết định 20).
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước) đã ban hành các Thông tư: Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền (Thông tư 35); Thông tư số 31/2014/TT-NHNN ngày 11/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 35 (Thông tư 31) và Thông tư số 20/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 35 (Thông tư 20).
+ Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 121/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về hoạt động công ty chứng khoán (thay thế Thông tư 210/2012/TT-BTC ngày 30/11/2012 và được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 07/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016) và Thông tư 98/2020/TT-BTC và Thông tư 99/2020/TT-BTC ngày 26/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Hướng dẫn hoạt động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và hướng dẫn hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (thay thế Thông tư 212/2012/TT-BTC ngày 05/12/2012), trong đó có một số quy định về nghĩa vụ của công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ trong việc tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa tiền.
- Về việc xây dựng các văn bản chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn về PCRT tại các Bộ ngành: Các bộ, ngành trong phạm vi quản lý nhà nước đều có các văn bản chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị thuộc quyền quản lý tuân thủ các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền (Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, điển hình như:
+ Bộ Tài chính: Ban hành Quyết định số 1796/QĐ-BTC ngày 11/9/2017 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế xử lý thông tin tổ chức, cá nhân có giao dịch đáng ngờ tại Cơ quan thuế các cấp (ban hành kèm theo Quyết định số 568/QĐ-BTC ngày 26/3/2015 của Bộ Tài chính), thường xuyên đề nghị các đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Tài chính (doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty kinh doanh dịch vụ kế toán, kiểm toán, doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng, casino) cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố để triển khai tại đơn vị và cập nhật danh sách cảnh báo công khai của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền, tài trợ khủng bố (FATF) theo quy định của pháp luật.
Bộ Tài chính đã có Công văn số 6873/BTC-TCNH ngày 20/5/2016 đề nghị các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh trò chơi có thưởng thực hiện các biên pháp phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật liên quan.
+ Bộ Quốc phòng: Ban hành một số cơ chế, quy định về PCRT trong Bộ Quốc phòng. Chỉ đạo các cơ quan chuyên trách PCRT như Cục Tài chính, Cục Tác chiến… ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn liên quan đến lĩnh vực chuyên ngành tài chính, chống TTKB và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
+ Bộ Công an: Ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, yêu cầu các cơ quan điều tra tăng cường điều tra về rửa tiền song song với điều tra tội phạm nguồn; xây dựng, hoàn thiện, trình Chính phủ phê duyệt Đề án Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố.
+ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Đã có công văn số 3791/VKSTC-V3 ngày 21/8/2019 gửi các đơn vị nghiệp vụ thuộc VKSNDTC, Viện trưởng VKSND cấp cao, cấp tỉnh, cấp huyện về việc rà soát, đánh giá chứng cứ để khởi tố điều tra các hành vi của tội rửa tiền, tài trợ khủng bố.
+ Tòa án nhân dân tối cao: Ban hành Công văn số 372/TANDTC-V1 ngày 27/9/2018 gửi các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp về việc khẩn trương nghiên cứu và đưa ra xét xử các vụ án về tội “Rửa tiền”.
Trải qua hơn 08 năm triển khai thi hành Luật, nhìn chung, có thể thấy các văn bản hướng dẫn Luật PCRT đã được ban hành và sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với sự thay đổi của pháp luật chuyên ngành cũng như đòi hỏi của thực tiễn quản lý, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng chống rửa tiền, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác PCRT.
1.2. Về công tác tuyên truyền, phổ biến, bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ
a) Đối với Ngân hàng Nhà nước: Để triển khai nhiệm vụ này, Ngân hàng Nhà nước (Cục PCRT, Trường Bồi dưỡng cán bộ ngân hàng) đã phối hợp với các Bộ, ngành và đối tác có liên quan ở trong và ngoài nước tổ chức nhiều khóa tuyên truyền, đào tạo về phòng, chống rửa tiền cho hàng chục nghìn lượt cán bộ, nhân viên của các đơn vị, bộ, ngành và đối tượng báo cáo, cụ thể:
- Về việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Từ năm 2013 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tổ chức 15 khóa tuyên truyền pháp luật về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố cho 63 tỉnh, thành phố trên toàn quốc, với thành phần tham gia là đại diện của Ủy Ban nhân dân, Thanh tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Công an, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh và các Sở, ban ngành trên địa bàn và đối tượng báo cáo theo quy định của Luật PCRT (các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, sàn giao dịch bất động sản, công ty chứng khoán)…
- Về công tác đào tạo: Cục Phòng, chống rửa tiền phối hợp với Trường Bồi dưỡng cán bộ ngân hàng triển khai thực hiện gần 120 khóa đào tạo về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, với tổng số gần 3.000 người tham dự từ nhiều tổ chức khác nhau, như: ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, công ty kinh doanh đá quý và kim loại quý, đại lý ngoại hối, công ty chuyển tiền, công ty bảo hiểm, hải quan, công ty chứng khoán và báo chí…
- NHNN (Cục PCRT) đã phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng Đặc san tuyên truyền về PCRT đăng trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; phối hợp với Viện Chiến lược ngân hàng xuất bản cuốn Cẩm nang về công tác PCRT và tài trợ khủng bố cho các ngân hàng ở Việt Nam xuất bản năm 2015; đồng thời, thường xuyên cập nhật, đăng tải các văn bản QPPL, chuẩn mực quốc tế và tin tức trong mục “Phòng, chống rửa tiền” trên Cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước; giải đáp vướng mắc, hướng dân triển khai các quy định của pháp luật PCRT...
- Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước (Cục PCRT) đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan gồm: Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng..., các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Văn phòng phòng, chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc (UNODC)... tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị, buổi làm việc trao đổi về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cho cán bộ, nhân viên của các cơ quan có thẩm quyền, cơ quan truyền thông, đối tượng báo cáo.
b) Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ
Công tác tuyên truyền, phổ biến, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ PCRT tại Luật PCRT và các văn bản quy định chi tiết Luật chủ yếu được thực hiện thông qua hội nghị triển khai, hội nghị tập huấn, hội nghị trực tuyến hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực liên quan đến PCRT, các Bộ cũng đã phối hợp với các cơ quan liên quan trong và ngoài nước tổ chức nhiều lớp tập huấn về phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố; chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong đơn vị phổ biến, quán triệt thực hiện pháp luật phòng, chống rửa tiền; cập nhật thông tin về phương thức, thủ đoạn rửa tiền đưa vào chương trình giáo dục pháp luật hàng năm của các Bộ, ngành như Bộ Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính...
Ngoài ra, Bộ Công an còn phối hợp với UNODC, Bộ, ngành liên quan biên soạn Giáo trình chuyên ngành và Sổ tay nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán; đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền cho 30 giảng viên kiêm nhiệm; tổ chức 63 lớp tập huấn đào tạo Điều tra tài chính, nâng cao nhận thức phòng, chống rửa tiền nhằm tăng cường năng lực cho 1.890 cán bộ tư pháp và hành pháp của Việt Nam; tổ chức thành công 2 phiên tòa mẫu đầu tiên về xét xử tội rửa tiền ở Việt Nam.
c) Đối với các địa phương: Hầu hết các địa phương đã cử cán bộ tham gia các hội nghị về tuyên truyền, phổ biến, các đợt bồi dưỡng, tập huấn pháp luật về PCRT do NHNN và các Bộ, ngành tổ chức.
d) Tại các đối tượng báo cáo: Thời gian qua, công tác đào tạo nâng cao kiến thức phòng, chống rửa tiền cho cán bộ, nhân viên của đối tượng báo cáo đã được chú trọng. Qua kết quả thanh tra, kiểm tra, khảo sát của Cục PCRT cho thấy nội dung đào tạo, bồi dưỡng về PCRT đã được hầu hết các đối tượng báo cáo đưa vào chương trình đào tạo hàng năm với các hình thức đào tạo phong phú như: tự tổ chức hoặc phối hợp với các đơn vị, cơ quan trong và ngoài nước để tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng; cử cán bộ, nhân viên tham gia các khóa học trong và ngoài nước; đào tạo qua mạng hoặc yêu cầu cán bộ, nhân viên tự nghiên cứu các văn bản liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố. Kết quả đào tạo được đánh giá là đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực thông qua việc tuân thủ của các đối tượng báo cáo và số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ gửi cho Cục PCRT tăng đáng kể hàng năm.
1.3. Về công tác chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền và xử phạt vi phạm hành chính
Trong thời gian qua, công tác chỉ đạo, hướng dẫn về thanh tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và xử phạt vi phạm hành chính đã bước đầu được triển khai và mang lại kết quả nhất định.
Trong lĩnh vực ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn các đối tượng báo cáo thực hiện các quy định về phòng, chống rửa tiền. Tiếp theo, Cơ quan TTGSNH đã đưa nội dung thanh tra về công tác phòng, chống rửa tiền vào Kế hoạch thanh tra hàng năm và đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra có nội dung thanh tra về việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Từ năm 2013 đến nay, Cơ quan TTGSNH đã tiến hành hơn 500 cuộc thanh tra trong đó có nội dung thanh tra về PCRT, 03 cuộc thanh tra chuyên đề về PCRT đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Kết quả ban đầu cho thấy, về cơ bản, các ngân hàng đã tuân thủ nghiêm các quy định về phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố, chưa phát hiện những vi phạm nghiêm trọng đến mức phải xử phạt vi phạm hành chính.
Trong lĩnh vực hải quan, thuế, bảo hiểm, chứng khoán, kế toán, kiểm toán và trò chơi có thưởng: Từ năm 2013 đến nay, Bộ Tài chính đã thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra bao gồm (i) Đối với lĩnh vực chứng khoán: Bộ Tài chính đã triển khai đoàn thanh tra, kiểm tra đối với 84 công ty chứng khoán, 64 công ty quản lý quỹ; (ii) Đối với lĩnh vực kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài và casino: Bộ Tài chính đã triển khai kiểm tra định kỳ tại 19 doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài và 04 doanh nghiệp kinh doanh casino; (ii) Qua công tác thanh tra, kiểm tra, về cơ bản các doanh nghiệp đã tuân thủ quy định về phòng, chống rửa tiền. Đến nay, mới phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính 01 doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài đối với hành vi không thực hiện báo cáo giao dịch có giá trị lớn cho NHNN khi phát sinh theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) đã đưa nội dung kiểm tra nội bộ vào kế hoạch thực hiện hàng năm đối với các đơn vị trong ngành về công tác phòng chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính có liên quan đến cơ quan hải quan về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố; tiếp tục triển khai các tổ giám sát đột xuất, giám sát hải quan trực tuyến; công khai số điện thoại đường dây nóng để chủ động tiếp nhận, xử lý thông tin liên quan đến nghiệp vụ hải quan, trong đó có phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Trong lĩnh vực bất động sản: Hàng năm, Bộ Xây dựng (Cục quản lý nhà và thị trường bất động sản) có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Sở Xây dựng các địa phương kiểm tra các sàn giao dịch bất động sản trong việc thực hiện chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Năm 2013, Cục quản lý nhà và thị trường bất động sản đã tiến hành 03 đợt kiểm tra tại 24 sàn bất động sản ở Hà Nội về công tác phòng, chống rửa tiền và 62 cơ sở đào tạo nghiệp vụ môi giới, định giá và quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản về đào tạo phòng, chống rửa tiền. Năm 2015, Cục quản lý nhà và thị trường bất động sản đã tổ chức kiểm tra công tác phòng, chống rửa tiền tại 10 sàn giao dịch lớn trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trong lĩnh vực luật sư, công chứng:Hiện nay, cả nước có khoảng 4100 tổ chức hành nghề luật sư; 1026 tổ chức hành nghề công chứng. Qua công tác thanh tra, kiểm tra về tổ chức, hoạt động của luật sư, công chứng những năm qua, Bộ Tư pháp (Cục Bổ trợ tư pháp và Thanh tra bộ) chưa phát hiện trường hợp nào khi thực hiện dịch vụ pháp lý, công chứng có liên quan đến giao dịch nghi ngờ rửa tiền. Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp (Cục Bổ trợ tư pháp) đã có công văn yêu cầu Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm quán triệt Đoàn luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện việc báo cáo về các giao dịch lớn, giao dịch đáng ngờ cho Cục PCRT. Tuy nhiên, cho đến nay, Bộ Tư pháp (Cục Bổ trợ tư pháp) và Cục PCRT chưa nhận được báo cáo của các Sở Tư pháp, Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề công chứng về các giao dịch phải báo cáo theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện quy trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán về công tác phòng, chống rửa tiền nhằm đánh giá độc lập khách quan về tính hiệu quả, tính tuân thủ quy định nội bộ và pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Cho đến nay, Bộ quốc phòng chưa phát hiện tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân của quân đội vi phạm pháp luật, quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
1.4. Về công tác kiện toàn tổ chức, biên chế thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền
Trên cơ sở Luật PCRT, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong công tác phòng, chống rửa tiền, bao gồm: Kiện toàn Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền; Kiện toàn cơ cấu tổ chức đơn vị chuyên trách là Cục Phòng, chống rửa tiền; Thiết lập đầu mối các bộ, ngành chịu trách nhiệm về công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, cụ thể:
a) Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền
Trực tiếp chỉ đạo và điều phối hoạt động giữa các bộ, ngành trong công tác phòng, chống rửa tiền trên toàn lãnh thổ Việt Nam là Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền (Ban chỉ đạo) được thành lập năm 2009. Ban chỉ đạo do một Phó Thủ tướng làm Trưởng ban và các thành viên là đại diện lãnh đạo của 15 Bộ, ngành liên quan (Bộ Công thương tham gia Ban chỉ đạo từ năm 2016); NHNN là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo.
Với vai trò điều phối quốc gia về PCRT, Ban chỉ đạo đã kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai công tác PCRT và TTKB ở Việt Nam, trong đó, Ban chỉ đạo PCRT đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 05 Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT và TTKB nhằm giải quyết, khắc phục những thiếu hụt về cơ chế PCRT của Việt Nam theo các thời kỳ, trong đó, có 03 Kế hoạch hành động được ban hành kể từ sau khi Luật PCRT được thông qua, góp phần quan trọng trong việc định hướng và triển khai công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố tại Việt Nam.
b) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Theo quy định của Luật PCRT, NHNN được giao chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền. Cuối năm 2009, theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan TTGSNH (hiện nay là Quyết định số 20/2019/QĐ-TTg ngày 12/6/2019), Cơ quan TTGSNH thực hiện chức năng tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước về công tác phòng, chống rửa tiền; thực hiện phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trên cơ sở đó, Cục PCRT được thành lập, là đơn vị trực thuộc Cơ quan TTGSNH (tiền thân là Trung tâm thông tin PCRT được thành lập theo Nghị định 74/2005/NĐ-CP), là đơn vị đầu mối giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng, Thống đốc NHNN quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền; thực hiện nhiệm vụ của cơ quan phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, nhiệm vụ phòng, chống khủng bố theo quy định của pháp luật về phòng, chống khủng bố và theo phân cấp, ủy quyền của Thống đốc ngân hàng Nhà nước.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Cục PCRT đang từng bước được hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn, chuẩn mực quốc tế và yêu cầu quản lý nhà nước về PCRT. Hiện nay, Cục PCRT bao gồm: Ban Lãnh đạo và 04 phòng chức năng: Phòng Tổng hợp; Phòng Thu thập và Xử lý thông tin; Phòng Công nghệ thông tin; Phòng Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
c) Tại các Bộ, ngành có liên quan
Đến nay, hầu hết, các bộ, ngành là thành viên Ban chỉ đạo PCRT đã phân công một hoặc một số đơn vị làm đầu mối triển khai thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền tại bộ, ngành như: Văn phòng Chính phủ (Vụ Kinh tế tổng hợp); Bộ Quốc phòng (Cục bảo vệ an ninh quân đội thuộc Tổng cục Chính trị); Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế); Tòa án nhân dân tối cao (Tòa Hình sự); Bộ Xây dựng (Cục quản lý nhà và thị trường bất động sản); Bộ Kế hoạch và đầu tư (Cục quản lý ĐKKD); Bộ Công an (Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và tham nhũng, Cục An ninh kinh tế, Cục An ninh nội địa, Cục Pháp chế và Cải cách hành chính tư pháp, Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra); Bộ Tài chính (06 đơn vị làm đầu mối: Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính; Uỷ ban chứng khoán Nhà nước; Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm; Tổng cục Thuế; Tổng cục Hải quan; Vụ Chế độ kế toán và Kiểm toán); Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính); Bộ Nội vụ (Vụ Tổ chức phi Chính phủ); Bộ Ngoại giao (Vụ Luật pháp và điều ước quốc tế); Bộ Thông tin và truyền thông (Cục Thông tin đối ngoại); Bộ Công thương (Vụ Tài chính).
2. Tình hình thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền
2.1. Tình hình thực hiện các quy định về nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin khách hàng và phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro
a) Về tình hình thực hiện các quy định về nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin khách hàng và phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro
Luật PCRT đã có các quy định chi tiết về các trường hợp phải thực hiện nhận biết khách hàng, nội dung thông tin nhận biết khách hàng; các biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng; phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro theo các yếu tố: (i) loại khách hàng, (ii) loại sản phẩm, dịch vụ khách hàng sử dụng bao gồm cả dự kiến sử dụng; (iii) nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở chính của khách hàng; (iv) yếu tố khác do đối tượng báo cáo tự xác định và phân loại phù hợp với thực tế phát sinh.
Trên cơ sở kết quả nhận biết thông tin khách hàng, phân loại khách hàng, các đối tượng báo cáo sẽ áp dụng các biện pháp PCRT thích hợp, tương ứng với các mức độ rủi ro của khách hàng như đối với khách hàng có mức độ rủi ro cao, ngoài việc thực hiện các biện pháp đánh giá thông thường, phải áp dụng các biện pháp nhận biết, đánh giá tăng cường. Luật PCRT cũng quy định việc áp dụng biện pháp đánh giá tăng cường đối với khách hàng có mức độ rủi ro cao như nhóm khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, quan hệ khách hàng đại lý; khách hàng khi thực hiện các giao dịch liên quan đến công nghệ mới; hoạt động kinh doanh qua giới thiệu và giám sát một số giao dịch đặc biệt; bảo đảm tính minh bạch của pháp nhân và thỏa thuận ủy quyền...
Qua kết quả thanh tra, khảo sát cho thấy, hiện nay, hầu hết các đối tượng báo cáo là ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, doanh nghiệp bảo hiểm, công ty kinh doanh dịch vụ kế toán, kiểm toán, doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài, casino đã triển khai thực hiện các quy định về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng. Đối với các đối tượng báo cáo khác có tính chất đa dạng về loại hình, địa bàn hoạt động, hoạt động với quy mô nhỏ, mô hình tổ chức đơn giản hơn so với các tổ chức tài chính chuyên nghiệp như ngân hàng, công ty bảo hiểm, chứng khoán, do đó, việc triển khai thực hiện quy định pháp luật về PCRT về việc nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, phân loại khách hàng, có phần hạn chế hơn so với nhóm các tổ chức tài chính chuyên nghiệp, phần lớn chưa tổ chức được hệ thống lưu giữ thông tin, hồ sơ khách hàng.
b) Tình hình ban hành quy định nội bộ về PCRT; thực hiện kiểm toán nội bộ về PCRT
Để đảm bảo việc thực hiện các biện pháp PCRT được hiệu quả, thống nhất trong từng đối tượng báo cáo, Luật PCRT yêu cầu các đối tượng báo cáo phải xây dựng quy định nội bộ về PCRT với những nội dung chính là: Chính sách chấp nhận khách hàng; Quy trình thủ tục nhận biết, xác minh và cập nhật thông tin khách hàng; Giao dịch phải báo cáo; Quy trình rà soát, phát hiện và xử lý, báo cáo giao dịch đáng ngờ; lưu giữ thông tin; áp dụng các biện pháp tạm thời; chế độ cung cấp thông tin cho NHNN và các cơ quan có thẩm quyền... Các quy định nội bộ về PCRT phải đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý có hiệu quả các hoạt động nghi ngờ liên quan đến rửa tiền; phù hợp với cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động, mức độ rửa tiền trong hoạt động của các đối tượng báo cáo và phải được phổ biến đến từng cá nhân, bộ phận liên quan.
Việc xây dựng ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền là việc thể chế hóa các quy định của Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn Luật vào từng đối tượng cụ thể. Qua kiểm tra, rà soát cho thấyviệc tuân thủ quy định này đối với các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, trò chơi có thưởng và casino, bất động sản, luật sư, kế toán, công chứng, như sau:
- Lĩnh vực ngân hàng: 89/98 tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, 24/27 công ty tài chính, 13/13 công ty cho thuê tài chính đã gửi quy định nội bộ về Cục PCRT; khoảng 70% đơn vị đã gửi báo cáo kiểm toán nội bộ về công tác phòng, chống rửa tiền.
- Lĩnh vực bảo hiểm: 18/18 đơn vị đã gửi quy định nội bộ về Cục PCRT; 100% đơn vị đã gửi báo cáo kiểm toán nội bộ về công tác phòng, chống rửa tiền.
- Lĩnh vực chứng khoán: 49/83 đơn vị đã gửi quy định nội bộ về Cục PCRT; hơn 30% đơn vị đã gửi báo cáo kiểm toán nội bộ về công tác phòng, chống rửa tiền.
- Lĩnh vực trò chơi có thưởng và casino: 100% doanh nghiệp kinh doanh trò chơi điện tử có thường dành cho người nước ngoài (53 doanh nghiệp) và casino (09 doanh nghiệp) đã ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền theo đúng quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
- Lĩnh vực bất động sản (BĐS): hiện mới có 6 đơn vị gửi quy định nội bộ về Cục PCRT; 04 sàn giao dịch BĐS và 09 Sở xây dựng đã gửi báo cáo kiểm toán nội bộ về công tác phòng, chống rửa tiền.
- Lĩnh vực luật sư, kế toán, công chứng: NHNN (Cục PCRT) không nhận được quy định nội bộ, báo cáo kiểm toán nội bộ về công tác phòng, chống rửa tiền của các tổ chức trong các lĩnh vực này.
Chất lượng quy định nội bộ của các đối tượng báo cáo trong các lĩnh vực tuy chưa đồng đều, xong phần lớn các tổ chức báo cáo đã có ý thức xây dựng quy định nội bộ, nội dung đầy đủ theo quy định tại Luật PCRT.
2.2. Về việc thực hiện các quy định liên quan đến trách nhiệm báo cáo, cung cấp và lưu giữ thông tin
- Về trách nhiệm báo cáo:
Luật PCRT 2012 quy định cụ thể về trách nhiệm báo cáo của các đối tượng báo cáo khi thực hiện các loại giao dịch có giá trị lớn, giao dịch có dấu hiệu đáng ngờ, giao dịch chuyển tiền điện tử có giá trị lớn. Đồng thời, Luật cũng quy định rõ các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản áp dụng đối với tất cả các lĩnh vực và các dấu hiệu đáng ngờ đối với từng lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, kinh doanh trò chơi có thưởng, casino, bất động sản...tạo cơ sở pháp lý cho các đối tượng báo cáo nhận diện giao dịch đáng ngờ để thực hiện các biện pháp PCRT cần thiết. Đối với ngưỡng giao dịch có giá trị lớn, Luật PCRT giao Thủ tướng Chính phủ quyết định; giao dịch điện tử vượt ngưỡng thì do NHNN quyết định, phù hợp với từng thời kỳ. Luật PCRT cũng quy định cụ thể hình thức, thời hạn báo cáo.
Để thực hiện trách nhiệm báo cáo, Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn quy định đối tượng báo cáo được phép thực hiện chuyển tiền điện tử quốc tế phải xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phù hợp phục vụ cho việc báo cáo bằng tệp dữ liệu điện tử và phải có hệ thống phần mềm để lọc, phân tích giao dịch nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa các rủi ro khác. Trong thời gian qua, các ngân hàng và một số đối tượng báo cáo khác đã tập trung đầu tư hệ thống công nghệ thông tin, xây dựng các giải pháp phần mềm về phòng, chống rửa tiền hỗ trợ tích cực trong việc tra soát thông tin, rà soát khách hàng và kiểm soát các giao dịch, cập nhật các danh sách cấm vận, cảnh báo, danh sách cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEPs)...
Trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2018, NHNN (Cục PCRT) nhận được tổng số 144,571,181 giao dịch gửi rút tiền mặt có giá trị lớn và giao dịch chuyển tiền điền tử quốc tế được truyền file điện tử. Trong đó, các giao dịch này chủ yếu từ đối tượng báo cáo là các ngân hàng là các tổ chức đã thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin để thực hiện truyền file báo cáo điện tử theo hướng dẫn của NHNN. Ngoài ra, NHNN (Cục PCRT) còn tiếp nhận các báo cáo gửi rút tiền mặt có giá trị lớn bằng bản giấy do đối tượng báo cáo là các tổ chức chưa thiết lập được hệ thống đường truyền để thực hiện báo cáo bằng file điện tử.
Trong giai đoạn từ năm 2013 đến tháng 9/2020, NHNN (Cục PCRT) đã nhận được 10.246 báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR). Trong đó, số lượng báo cáo do các ngân hàng báo cáo chiếm khoảng 83% tổng STR; số lượng báo cáo do các công ty bảo hiểm và các đối tượng báo cáo khác chiếm khoảng 17%; nhóm đối tượng báo cáo là các công ty tài chính, trung gian thanh toán, công ty kinh doanh dịch vụ trò chơi có thưởng, sòng bạc có số lượng báo cáo còn rất hạn chế (chỉ 7 STR); nhóm đối tượng báo cáo trong lĩnh vực luật sư, công chứng, kế toán và kinh doanh bất động sản hiện chưa có báo cáo STR.
- Về cung cấp, lưu giữ và bảo mật thông tin:
Luật PCRT quy định đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ ít nhất 5 năm đối với: Hồ sơ giao dịch của khách hàng kể từ ngày phát sinh giao dịch; hồ sơ về nhận biết khách hàng, chứng từ kế toán và các báo cáo kèm chứng từ, tài liệu liên quan kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo. Các thông tin, chứng từ và tài liệu khác liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật PCRT phải được bảo quản theo chế độ mật và chỉ được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đối tượng báo cáo không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước.
2.3. Về tình hình thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT
a) Về công tác thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin
Từ năm 2013 đến 30/9/2020, Cục PCRT đã tiếp nhận 10.246 báo cáo giao dịch đáng ngờ; số lượng báo cáo STR Cục PCRT nhận được sau khi Luật PCRT có hiệu lực nhiều gấp hơn 6 lần so với giai đoạn 2006-2012.
Trước khi có Luật PCRT, các báo cáo giao dịch đáng ngờ chủ yếu do các ngân hàng báo cáo nhưng sau khi Luật phòng, chống rửa tiền và các văn bản hướng dẫn được ban hành, Cục PCRT bắt đầu nhận được báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm và các lĩnh vực khác; tuy số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ từ lĩnh vực ngân hàng vẫn chiếm tỷ lệ chủ yếu nhưng chất lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ đã được cải thiện rõ rệt qua các năm. Bên cạnh đó, Cục PCRT còn thu thập báo cáo giao dịch gửi, rút tiền mặt có giá trị lớn (CTR)
[2] và báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử (EFT) theo quy định của Luật phòng, chống rửa tiền.
Về báo cáo chuyển tiền điện tử, trước đây Cục PCRT chỉ tiếp nhận báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế và không quy định ngưỡng phải báo cáo. Hiện nay, theo quy định tại Thông tư 35/2013/TT-NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung), Cục PCRT đang tiếp nhận: (i) báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế vượt ngưỡng 1.000 đô la Mỹ trở lên hoặc bằng ngoại tệ khác có giá trị tương đương và (ii) giao dịch chuyển tiền điện tử trong nước có mức giá trị từ 500 triệu đồng trở lên.
Hiện nay, mỗi ngày cơ sở dữ liệu của Cục PCRT tiếp nhận khoảng 280.000 giao dịch. Tính đến ngày 31/12/2019, hệ thống đang lưu giữ khoảng 425 triệu giao dịch, liên quan đến khoảng 13,4 triệu khách hàng. Cơ sở dữ liệu này đã hỗ trợ tích cực cho công tác phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố nói riêng và phòng, chống tội phạm nói chung.
Từ kết quả phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ, Cục PCRT đã tham mưu trình lãnh đạo các cấp chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố cho cơ quan chức năng có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.
b) Công tác trao đổi cung cấp thông tin về PCRT giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trong nước
Thời gian qua, bên cạnh việc tiếp nhận, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ theo quy định của pháp luật, Cục PCRT thuộc Cơ quan TTGSNH còn phối hợp cung cấp thông tin cho các đơn vị, bộ, ngành có liên quan trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Theo số liệu thống kê cho thấy, số lượng các văn bản đề nghị Cục PCRT cung cấp thông tin không ngừng gia tăng qua các năm, chủ yếu là từ các đơn vị thuộc Bộ Công an. Cụ thể, từ năm 2013 đến 31/5/2020, Cục PCRT đã tiếp nhận và cung cấp thông tin cho các bộ, ngành có liên quan tăng gấp hơn 5 lần so với giai đoạn 2006 – 2012 (khoảng 675 văn bản đề nghị).
Từ năm 2013 đến tháng 9/2020, Cục PCRT đã chuyển giao 857 vụ việc liên quan đến 5.614 báo cáo giao dịch đáng ngờ cho các cơ quan chức năng. Ngoài ra, trong quá trình thu thập, xử lý báo cáo giao dịch đáng ngờ, báo cáo tiền mặt có giá trị lớn và báo cáo chuyển tiền điện tử, Cục PCRT đã phát hiện nhiều yếu tố/ dấu hiệu nghi ngờ liên quan đến gian lận hoặc hoạt động phạm tội của các tổ chức, cá nhân để từ đó đề xuất, tham mưu cho các cấp lãnh đạo hoặc thông báo cho các cơ quan chức năng có liên quan để có các biện pháp xử lý phù hợp.
Thông tin, tài liệu do Cục PCRT cung cấp là kênh thông tin vô cùng hữu ích, hỗ trợ tích cực cho các cơ quan chức năng trong hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; giúp các cơ quan, đơn vị này nhanh chóng xác định được mục tiêu, đối tượng, giảm đáng kể thời gian trinh sát, xác minh, điều tra; giúp các cơ quan quản lý nhà nước xác định được những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong lĩnh vực thuộc quyền quản lý để có biện pháp đấu tranh, ngăn chặn kịp thời. Cục PCRT đã nhận được phản hồi từ các cơ quan chức năng liên quan đến khoảng 528 vụ việc, trong đó có 10 vụ việc đã được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, nhiều vụ việc liên quan đến thuế, hải quan và cơ quan chức năng đã truy thu hàng trăm tỷ tiền thuế cho ngân sách nhà nước.
Đến nay, Việt Nam đã xét xử được 03 vụ án với tội danh rửa tiền theo Điều 251 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 324 Bộ luật hình sự năm 2015: (i) Vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại Công ty TNHH Vận tải Viễn Dương Vinashin (Vinashinlines); (ii) Vụ án liên quan đến đường dây đánh bạc do Nguyễn Văn Dương, Phan Sào Nam cầm đầu (iii) Vụ án Lê Thị Hà Nội do Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử tháng 11/2019.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phối hợp cung cấp thông tin sau khi Luật phòng phòng, chống rửa tiền được ban hành, NHNN (Cơ quan TTGSNH) đã ký Bản ghi nhớ (MOU) về trao đổi thông tin với Tổng cục An ninh thuộc Bộ Công an (năm 2013) và Tổng cục Thuế thuộc Bộ Tài chính (năm 2015)
[3].
2.4. Về áp dụng biện pháp tạm thời
Luật PCRT quy định đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp tạm thời: (i) trì hoãn giao dịch khi các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội và phải báo cáo ngay bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (ii) phong toả tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, Luật cũng quy định về việc xử lý đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm. Hình thức và mức xử phạt được quy định cụ thể tại Nghị định 96/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động ngân hàng (nay là Nghị định 88/2019/NĐ-CP). Nhiều đối tượng báo cáo trong quá trình thực hiện giao dịch khách hàng đã kịp thời phát hiện các giao dịch nghi ngờ liên quan đến hoạt động tội phạm và đã kịp thời áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch. Ngoài ra, các đối tượng báo cáo cũng thực hiện phong tỏa tài khoản của khách hàng theo các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Về hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố
Luật PCRT đã quy định các vấn đề liên quan đến nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế, trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Tiếp theo, Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền đã cụ thể hóa việc hợp tác quốc tế trong trao đổi thông tin, tài liệu, hợp tác trong việc xác định và phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền, thực hiện tương trợ tư pháp và hợp tác trong dẫn độ tội phạm rửa tiền. Theo đó, hoạt động hợp tác quốc tế về PCRT sau khi Luật PCRT ra đời đã tiếp tục được đẩy mạnh:
- Công tác trao đổi thông tin về PCRT, tài trợ khủng bố với các Đơn vị tình báo tài chính (FIU) hoặc cơ quan PCRT nước ngoài được đẩy mạnh, theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã đàm phán và ký kết 09 Bản ghi nhớ (MOU) trao đổi thông tin liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố với các quốc gia, trong đó 04 MOU
[4] được ký trước năm 2013 và 05 MOU được ký kết từ năm 2013 đến nay: Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản (2013), Bangladesh (2014), Nga (2017). Đối với các quốc gia mà Việt Nam chưa ký kết MOU thì việc trao đổi thông tin được thực hiện trên nguyên tắc “có đi có lại” như đối với Đài Loan, Singapore, Thuỵ Sĩ, Tunisia, Ả Rập, Pháp, New Zealand, Hồng Kông...
- Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên thứ 34 của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) vào tháng 5/2007. Với tư cách thành viên của APG, Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ thành viên
[5]. Với sự nỗ lực của Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan trong việc ban hành các văn bản pháp lý có liên quan đến chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, đặc biệt là việc ban hành Luật PCRT, t
ại Hội nghị toàn thể Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) tháng 02/2014, FATF đã quyết định đưa Việt Nam ra khỏi Quy trình rà soát của Nhóm xem xét các vấn đề về hợp tác quốc tế (ICRG) thuộc FATF sau gần 4 năm nằm trong Quy trình rà soát của nhóm này. Tại Hội nghị thường niên lần thứ 20 (năm 2017), APG đã nhất trí đưa Việt Nam ra khỏi quy trình theo dõi chuyển tiếp của APG do Việt Nam đã thực hiện được các yêu cầu của 8/9 Khuyến nghị chủ chốt và cốt lõi của FATF.
Với sự hỗ trợ của Đơn vị tình báo tài chính (FIU) Pháp và FIU Đài Loan, Việt Nam đang nghiên cứu các yêu cầu và điều kiện để gia nhập Nhóm các đơn vị tình báo tài chính trên thế giới (Nhóm Egmont).
- Ngoài việc hợp tác quốc tế trong trao đổi thông tin liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố giữa Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài như đã nêu trên, các bộ, ngành chức năng của Việt Nam như Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cũng có nhiều hoạt độnghợp tác trao đổi thông tin với cơ quan chức năng của Lào, Campuchia, Trung Quốc, Nga, Úc, Israel... liên quan đến phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm ma túy, tội buôn bán người...
Bên cạnh việc tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế, thời gian qua, Việt Nam cũng tích cực hỗ trợ cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên trong công tác phòng, chống rửa tiền thông qua tổ chức các khóa đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm.
II. HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Hạn chế, bất cập trong quy định của Luật PCRT
Từ những kết quả nêu trên, có thể thấy sau khi Luật PCRT được ban hành, công tác phòng, chống rửa tiền của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đáng khích lệ, góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền, tài trợ khủng bố nói riêng cũng như góp phần làm minh bạch hệ thống tài chính, thúc đẩy hoạt động thanh toán và thương mại quốc tế phát triển, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và sự an toàn, ổn định của xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn những quy định chưa đồng bộ hoặc còn chồng chéo dẫn đến bất cập trong quá trình triển khai; chưa phù hợp với thực tiễn và chuẩn mực quốc tế mới về PCRT gây khó khăn cho công tác phòng, chống rửa tiền của Việt Nam, cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định về đối tượng báo cáo. Theo quy định hiện hành, đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs) là các tổ chức được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật PCRT; và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs) thực hiện một hoặc một số hoạt động theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật PCRT. Tuy nhiên, các hoạt động của FIs và DNFBPs được liệt kê tại khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT hiện chưa bao quát đầy đủ do tại thời điểm ban hành Luật PCRT, có một số loại hình tổ chức kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ như cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, cho vay ngang hàng, kinh doanh tiền ảo, tài sản ảo,... chưa xuất hiện nhưng trong các hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro về rửa tiền. Việc không quy định các loại hình tổ chức kinh doanh mới phát sinh này trong Luật PCRT dẫn đến việc các tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh này không phải thực hiện các biện pháp PCRT theo quy định tại Luật PCRT. Do vậy, quy định về đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa theo kịp sự phát triển trong các hoạt động của các tổ chức tài chính và phi tài chính trên thực tế.
Thứ hai, quy địnhvề đánh giá rủi ro và áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Luật PCRT không có quy định về việc đánh giá rủi ro rửa tiền cấp độ quốc gia, ngành và tại từng tổ chức và việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của đối tượng báo cáo cũng như hoạt động thanh tra, giám sát PCRT trên cơ sở rủi ro của các bộ, ngành. Đây là một trong những yêu cầu quan trọng trong công tác PCRT được nêu ra tại khuyến nghị số 1 trong bộ 40 khuyến nghị của FATF về PCRT. Xuất phát từ việc đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền, các biện pháp PCRT bao gồm việc ban hành chính sách, kế hoạch, việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tại các đối tượng báo cáo (nhận dạng, phân loại khách hàng, thực hiện cập nhật thông tin khách hàng,..), việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát, hay phân tích, xử lý các vụ việc đều dựa trên cơ sở rủi ro. Nội dung này cũng được Đoàn đánh giá APG đặt ra trong các yêu cầu về kế hoạch hành động của Việt Nam cần phải thực hiện trong thời gian tới nhằm khắc phục những khuyết thiếu trong cơ chế PCRT của Việt Nam.
Thứ ba, quy định về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo, theo quy định của Luật PCRT, các đối tượng báo cáo cần phải thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền bao gồm nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng; báo cáo, cung cấp và lưu giữ thông tin; áp dụng các biện pháp tạm thời. Tuy nhiên, đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại 40 khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn tồn tại một số lỗ hổng cơ bản như:
(i) Quy định về cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEPs) hiện chỉ điều chỉnh đối với PEPs nước ngoài. Tuy nhiên, theo khuyến nghị của FATF, các quốc gia không được phân biệt PEPs trong nước hay nước ngoài và phải thực hiện các biện pháp PCRT cho các PEPs trong và ngoài nước như nhau;
(ii) Các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT hiện chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement“ được đưa ra tại khuyến nghị của FATF;
(iii) Quy định về các dấu hiệu cảnh báo về giao dịch đáng ngờ mới chỉ đưa ra các dấu hiệu cảnh báo chung, lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; các lĩnh vực khác đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh bất động sản chưa có hướng dẫn cụ thể;
(iv) Quy định về khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới còn chưa đưa ra định nghĩa rõ ràng về kim loại quý, đá quý; cách thức tính toán, xác định ngưỡng phải báo cáo; cách thức báo cáo; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo.
Thứ tư, Luật PCRT quy định về việc thu thập, xử lý và chuyển giao, trao đổi thông tin về PCRT. Các quy định này điều chỉnh về thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc tiếp nhận thông tin và thu thập thông tin từ đối tượng báo cáo và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; việc chuyển giao thông tin và trao đổi thông tin phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên, quy định về việc phân tích, xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ của Ngân hàng Nhà nước chưa được rõ ràng, chưa thể hiện rõ các quy trình nghiệp vụ cơ bản trong phân tích thông tin từ việc tiếp nhận thông tin, phân tích thông tin theo các quy trình nghiệp vụ phân tích chiến thuật, phân tích nghiệp vụ và phân tích chiến lược và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền. Ngoài ra, các quy định này cũng chưa bao quát hết các nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước như công tác giám sát, cảnh báo, trao đổi thông tin với các cơ quan đơn vị trong và ngoài nước trong thực hiện công tác PCRT.
Thứ năm, quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong PCRT. Luật PCRT đã có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong PCRT. Tuy nhiên, xuất phát từ hoạt động quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, hiện nay tại một số lĩnh vực hoạt động chưa có sự phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước như lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý. Cụ thể, Bộ Công thương quản lý các đối tượng báo cáo thực hiện hoạt động kinh doanh kim loại quý và đá quý nói chung (Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền (đã được sửa đổi, bổ sung)). Trong các loại kim loại quý, đá quý, Ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng, vàng trang sức mỹ nghệ và hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu (Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng). Hiện chưa có quy định rõ ràng về cơ quan có trách nhiệm thanh tra, giám sát hoạt động PCRT đối với đối tượng kinh doanh các loại kim loại quý, đá quý khác.
Kết luận:
Những tồn tại, hạn chế nêu trên đã được phản ánh rõ nét trong dự thảo Báo cáo đánh giá của Đoàn đánh giá Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về phòng chống rửa tiền (APG) về cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của Việt Nam
[6]. Theo dự thảo lần 02 Báo cáo đánh giá của Đoàn đánh giá APG khi đánh giá về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam so với 40 khuyến nghị của FATF, các quy định về phòng, chống rửa tiền tại Luật Phòng, chống rửa tiền và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn nhiều hạn chế, Đoàn đánh giá đã đưa ra các khuyến nghị cần sửa đổi, bổ sung liên quan tới 19/50 điều luật của Luật PCRT. Số lượng các điều khoản tại Luật PCRT cần sửa đổi, bổ sung trên thực tế còn nhiều hơn do những nội dung mà Đoàn đánh giá APG kiến nghị cần sửa đổi phần lớn tập trung vào những nội dung lớn, trọng yếu của Luật PCRT.
Trên cơ sở phân tích những tồn tại, hạn chế của Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn Luật PCRT hiện hành, việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế nội tại trong các quy định của pháp luật, đồng thời nhằm đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, theo tinh thần chỉ thị số 05-CT/TW ngày 7/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng, để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là một trong những giải pháp được đặt ra. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về PCRT là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác phòng, chống rửa tiền phát triển và hoàn thiện, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012-2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Các quy định của Luật PCRT về nhận biết và cấp nhật thông tin khách hàng, về cá nhân có ảnh hưởng chính trị góp phần hỗ trợ cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền trong phát hiện các giao dịch đáng ngờ của người có chức vụ, quyền hạn và điều tra các giao dịch tài chính của những người này, là cơ sở để kiểm tra, kiểm soát, xác minh tài sản và thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, qua đó, góp phần tích cực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng.
Đây cũng là một nội dung được đưa ra tại điểm 1 phần IV của Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2015-2020 được ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ “Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật Phòng, chống rửa tiền phù hợp với chuẩn mực quốc tế”.
2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Một là, Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được sửa đổi, bổ sung vào năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, trong đó, có nhiều quy định mới hiện chưa được quy định trong Luật PCRT như quy định về việc áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT ... dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 khuyến nghị hiện hành của FATF, ảnh hưởng đến việc thực thi cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các khuyến nghị của FATF.
Hai là, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, sự phát triển của khoa học, công nghệ cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ mới như các loại hình dịch vụ kinh doanh tiền ảo, tài sản ảo, cho vay ngang hàng,.. Các sản phẩm này tiềm ẩn nhiều nguy cơ bị tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng lạm dụng để thực hiện các hành vi phạm tội. Mặt khác, các giao dịch tài chính đa dạng, đan xen và mức độ tinh vi, phức tạp, thủ thuật rửa tiền ngày càng trở nên kín kẽ, phức tạp hơn … càng khó kiểm soát hoạt động rửa tiền, trong khi các quy định pháp luật thường không theo kịp với thực tiễn. Do đó, chuẩn mực quốc tế về PCRT kêu gọi các quốc gia đặc biệt lưu ý về các rủi ro rửa tiền có thể mang lại với những sản phẩm liên quan đến công nghệ mới và những sản phẩm đặc thù xuất hiện trong bối cảnh cụ thể của từng quốc gia.
Phần thứ hai
ĐỊNH HƯỚNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Thực hiện điểm 1 phần IV của Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2015-2020 được ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ (Kế hoạch) giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật PCRT phù hợp với chuẩn mực quốc tế; căn cứ vào kết quả đánh giá tổng kết hơn 07 năm thực hiện Luật PCRT; căn cứ vào các khuyến nghị của Đoàn đánh giá của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền đối với cơ chế phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố tại Việt Nam việc sửa đổi, bổ sung Luật PCRT là cần thiết và dựa trên những nguyên tắc và định hướng sau:
I. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG LUẬT PCRT
1. Luật cần cụ thể hóa các chủ trương, chiến lược, kế hoạch của Chính phủ trong công tác PCRT.
2. Luật cần phải tham khảo, cụ thể hóa các chuẩn mực quốc tế về PCRT; tham khảo pháp luật của một số quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng để khả thi và hiệu quả.
3. Luật cần khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; giải quyết được các vấn đề mới phát sinh
II. ĐỊNH HƯỚNG SỬA ĐỔI CỤ THỂ
1. Mở rộng phạm vi đối tượng báo cáo trong công tác PCRT.
2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về định kỳ đánh giá rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng đối tượng báo cáo; áp dụng các biện pháp thích hợp quản lý rủi ro về rửa tiền.
3. Hoàn thiện các quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo.
4. Hoàn thiện các quy định liên quan đến việc thu thập, xử lý, chuyển giao và trao đổi thông tin PCRT.
5. Sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT.
III. KẾT LUẬN
Trên đây là kết quả tổng hợp đánh giá việc thực hiện Luật PCRT trong hơn 08 năm qua, trên cơ sở đó đã định hướng được những nội dung chỉnh sửa Luật PCRT phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và đáp ứng chuẩn mực quốc tế về vấn đề này.
[1] FATF là tổ chức liên chính phủ ban hành ra các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền/chống tài trợ khủng bố với mục tiêu ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp gây hại cho xã hội. Năm 2004, FATF lần đầu ban hành bộ tiêu chuẩn 40+9 Khuyến nghị bao gồm 40 Khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và 9 Khuyến nghị đặc biệt về phòng, chống tài trợ khủng bố; đến tháng 02/2012 FATF sửa đổi, bổ sung 40+9 Khuyến nghị thành bộ 40 Khuyến nghị mới về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt. 40 Khuyến nghị hiện đang được áp dụng là bộ chuẩn mực quốc tế chung về PCRT/TTKB/VKHD. Hiện nay, hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đang cam kết thực hiện theo các khuyến nghị của FATF trong đó có Việt Nam (Nguồn trích dẫn:
https://www.fatf-gafi.org/about/).
[2] Giao dịch có giá trị lớn là giao dịch nộp hoặc rút tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt có tổng giá trị bằng hoặc vượt mức 300 triệu đồng được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một ngày.
[3] Năm 2009, Cơ quan TTGSNH ký MOU với Văn phòng Interpol Việt Nam (nay là Cục Đối ngoại) – Bộ Công an.
[4] Malaysia (2009), Indonesia (2010), Lào (2011), Campuchia (2012).
[5] Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 34 của APG kể từ tháng 05/2007. Theo
Điều khoản tham chiếu của APG, việc Việt Nam trở thành thành viên của APG mang tính tự nguyện và hợp tác. Với tư cách là thành viên của APG, Việt Nam đã cam kết thực hiện các quy định tại
Điều khoản tham chiếu của APG. Thực hiện cam kết tham gia vào chương trình đánh giá đa phương của APG: Vào tháng 11/2008, Việt Nam đã đón Đoàn đánh giá đa phương của APG vào Việt Nam để đánh giá về cơ chế phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố của Việt Nam theo 40+9 Khuyến nghị của FATF. Tháng 11/2019, Việt Nam tiếp tục đón Đoàn đánh giá đa phương lần 2 của APG vào Việt Nam đánh giá cơ chế này theo 40 khuyến nghị mới của FATF.
[6] Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên thứ 34 của APG (Asian/Pacific Group on Money Laudering – Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền) vào tháng 5/2007. Với tư cách là thành viên của APG, Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện các nghĩa vụ thành viên của APG quy định tại “Điều khoản tham chiếu của APG”, bao gồm: Thực hiện các hành động cần thiết nhằm chống rửa tiền và tài trợ khủng bố; Thực hiện các hành động, các bước tích cực, chủ động nhằm phát triển, thông qua và thực thi luật pháp và các biện pháp khác về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố dựa trên chuẩn mực quốc tế đã được thừa nhận; Nhận thức lợi ích của việc chia sẻ thông tin và kinh nghiệm; Cam kết thực thi các quyết định của APG; Cam kết tham gia vào chương trình đánh giá đa phương của APG và Đóng góp vào ngân sách của APG. Năm 2019, Việt Nam đã được APG đánh giá về mức độ tuân thủ và tính hiệu quả về cơ chế PCRT/TTKB/PBVKHD và hiện Đoàn đánh giá APG đã dự thảo lần 2 báo cáo đánh giá về Việt Nam. Theo quy trình đánh giá đa phương của FATF, Báo cáo đánh giá đa phương của Việt Nam sẽ được thông qua vào Hội nghị thường niên của APG vào tháng 7/2020. Tuy nhiên, do dịch bệnh Covid 19, Hội nghị thường niên chưa tổ chức được và có thể phải trì hoãn đến năm sau.
Tờ Trình Dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
A0701-TTr344-CP-ve-DA-Luat-PCRTsd---20220927082905.docx
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020), Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội khóa XV về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2022, điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2023, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) (sau đây gọi là “Luật PCRT (sửa đổi)”) như sau:
I. SỰCẦNTHIẾTBANHÀNHLUẬT PCRT (SỬA ĐỔI)
1. Cơ sở chính trị
Một trong các giải pháp được đưa ra tại Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng là nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “PCRT”) là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác PCRT nói riêng và phòng, chống tham nhũng nói chung phát triển và hoàn thiện, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về tham nhũng, rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đồng thời, tại Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ (điểm 1 Phần IV Kế hoạch) và Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là “Ngân hàng Nhà nước”) chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật PCRT phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
2. Cơ sở về thực hiện điều ước quốc tế và cam kết quốc tế
a) Về các điều ước quốc tế
Ngày 18/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 605/QĐ-TTg về Phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Công ước Palécmô bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của Công ước bằng cách nội luật hóa, bao gồm cả các quy định về PCRT như hình sự hóa đầy đủ tội rửa tiền (Điều 6), xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan có thẩm quyền (Điều 7), thành lập một đơn vị tình báo tài chính của quốc gia và thúc đẩy hợp tác quốc tế (Điều 7).
Để triển khai Công ước trên, điểm 2 (a) mục II Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô đã quy định về nhiệm vụ rà soát để hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về phòng, chống tội phạm cho phù hợp với Công ước và Nghị định thư, trong đó có Luật PCRT.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước Liên hợp quốc về Chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần (Công ước Viên 1988) vào tháng 11/1997 và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Công ước Merida) tháng 8/2009.
Công ước Viên chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước Viên không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng khoản 1 Điều 3 Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó.
Công ước Merida yêu cầu các quốc gia thành viên phải: xây dựng các biện pháp chống rửa tiền (Điều 14); phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do phạm tội mà có (Điều 52); thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích và chuyển giao cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ (Điều 58); hình sự hóa các tội phạm liên quan đến tài sản do phạm tội mà có trong đó có tội tham nhũng (Chương 3), đồng thời có các biện pháp xử lý tội tham nhũng hiệu quả, tăng cường hợp tác quốc tế (Chương 4).
Như vậy, theo yêu cầu của các Công ước nêu trên, các quốc gia thành viên, tham gia hoặc phê chuẩn Công ước đều phải có các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các hành vi buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần, phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia và hành vi tham nhũng, tài trợ khủng bố. Để thực hiện các biện pháp này, các quy định pháp luật về biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố cũng cần được áp dụng có hiệu quả để phòng ngừa, phát hiện các hành vi nêu trên. Do vậy, việc sửa đổi Luật PCRT là một yêu cầu để thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn.
b) Về thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam
Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về PCRT (APG). Việc gia nhập APG khẳng định cam kết và nỗ lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới trong việc xây dựng một thể chế tài chính lành mạnh và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền/tài trợ khủng bố/tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt (RT/TTKB/TTPBVKHDHL) nói riêng. Điều này góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở để Việt Nam tham gia các hoạt động hợp tác song phương, đa phương thông qua các Hiệp định, thỏa thuận quốc tế, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trên thực tế, việc Việt Nam trở thành thành viên của APG đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình Việt Nam tham gia các diễn đàn của Liên Hiệp quốc như hoạt động của Văn phòng phòng chống tội phạm và ma túy, gia nhập và triển khai các Công ước và Nghị quyết có liên quan. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tạo điều kiện thuận lợi trong việc nhận được các chính sách ưu đãi của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á… cũng như sự hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế khác cho sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Việc gia nhập APG cũng tạo điều kiện cho các thành phần trong nền kinh tế mở rộng phạm vi hoạt động ở nước ngoài và hợp tác với các tổ chức quốc tế.
Ngoài ra, với tư cách thành viên của APG, Việt Nam đã được hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo về phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL thông qua các chương trình hỗ trợ phù hợp dành cho các nước thành viên của APG để nâng cao việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, hàng năm, APG xây dựng các mô hình để xem xét các xu hướng RT/TTKB/TTPBVKHDHL mới nổi ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để cung cấp cho các thành viên nhằm phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả hơn. Trước yêu cầu về công tác PCRT trong hình hình mới ngày càng khó khăn, phức tạp, việc tiếp tục là thành viên của APG và nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ của thành viên tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của Việt Nam, qua đó, tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh những lợi ích thành viên nêu trên, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ thành viên của APG. Theo đó, Việt Nam phải cam kết đóng góp vào quỹ của APG hàng năm trên cơ sở quy mô nền kinh tế theo quy định của APG, cam kết thực hiện các chuẩn mực quốc tế về RT/TTKB/TTPBVKHDHL (40 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) ban hành
[1]); cam kết tham gia vào các vòng đánh giá đa phương của APG theo Phương pháp luận đánh giá của FATF. Kể từ khi trở thành thành viên đến nay, Việt Nam đã trải qua 2 lần đánh giá đa phương của APG (năm 2008 và năm 2019).
Tại Hội nghị thường niên lần thứ 20 của APG năm 2017, các quốc gia đã thông qua kế hoạch đánh giá đa phương đối với cơ chế PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Từ ngày 04 đến 15/11/2019, Đoàn đánh giá APG đã thực hiện đánh giá tại chỗ đối với Việt Nam. Quá trình đánh giá đa phương lần thứ hai này của APG đối với Việt Nam gồm việc rà soát khuôn khổ pháp lý thực hiện dựa trên việc tuân thủ của các quốc gia thành viên theo 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đã cập nhật và dựa trên phương pháp luận mới, tập trung vào tình hình và việc thực thi các khuôn khổ pháp lý thông qua đánh giá tính hiệu quả trong quy định tại 11 Mục tiêu trực tiếp của FATF.
Theo phương pháp đánh giá đa phương của APG hiện hành, các quốc gia sẽ bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường nếu có một trong các tiêu chí: (i) Về khuôn khổ pháp lý (TC): Có 1 trong 6 khuyến nghị cốt lõi (các khuyến nghị số 3, 5, 6, 10, 11, 20)
[2] bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ và/hoặc có từ 21/40 KN bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ; (ii) Về hiệu quả thực thi (IO): có 7/11 IO hoặc hơn bị đánh giá hiệu quả Trung bình/Thấp, hoặc có 4/11 IO bị đánh giá hiệu quả Thấp.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương nhận định: (i) Về khuôn khổ pháp lý, quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn những thiếu hụt, không đáp ứng hoặc mới đáp ứng được một phần tại 27/40
[3] Khuyến nghị của FATF, trong 27/40 khuyến nghị này có 5/6 khuyến nghị cốt lõi; (ii) Về hiệu quả thực thi: hiện có 2/11 Mục tiêu trực tiếp (IO) được đánh giá hiệu quả “Khá”
[4]; 2/11 IO được đánh giá là hiệu quả “Trung bình”
[5]; 7 IO bị đánh giá hiệu quả “Thấp”
[6]. Với kết quả đánh giá đa phương này, Việt Nam đã bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường sau đánh giá đa phương của APG và quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF.
Trong một năm, kể từ khi bị áp dụng quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF (từ tháng 3/2022 - 3/2023), Việt Nam sẽ phải làm việc thường xuyên với APG/FATF để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương. Sau thời gian này, nếu Việt Nam không thể hiện được sự tiến bộ đối với 09 IO đang bị xếp hạng ở mức Thấp hoặc Trung bình và không đáp ứng các yêu cầu về cải thiện khuôn khổ pháp lý, Việt Nam sẽ bị đưa vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL (gọi tắt là Danh sách Xám) - Danh sách công khai toàn cầu của FATF.
Khi một quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực. Cụ thể, theo nghiên cứu của IMF
[7], quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám sẽ bị giảm sút đáng kể luồng vốn đầu tư của nước ngoài vào quốc gia đó (khoảng 7,6% trên tổng GDP cả nước). Bên cạnh đó, giao dịch tài chính ra nước ngoài của các tổ chức tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán...) tại quốc gia này sẽ bị các nước tính phí cao hơn và giao dịch sẽ phải chịu sự rà soát tăng cường. Các chi phí này ước tính có thể lên tới hàng triệu USD tùy thuộc quy mô nền kinh tế. Hiện nay, trong các nước thành viên của APG, có 23/41 nước bị rơi vào danh sách Xám của FATF, trong đó chỉ có Mông Cổ đã ra khỏi Danh sách Xám trong vòng 01 năm nhờ thực hiện rất nhanh chóng và hiệu quả các hành động khuyến nghị mà APG đưa ra.
Để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, TTKB và TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 5/8/2022), trong đó bao gồm Danh mục 41 hành động quốc gia về PCRT, TTKB, TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 và Phụ lục 83 hành động thực hiện Kế hoạch đến tháng 3/2023. Theo Kế hoạch này, bên cạnh việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn chi tiết, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự liên quan đến tội rửa tiền, tội TTKB, hành vi TTPBVKHDHL; nghiên cứu tính khả thi và đề xuất xây dựng cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội tại Việt Nam; giao Bộ Tư pháp, Bộ Công an phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu, rà soát Luật Tương trợ tư pháp; giao Bộ Xây dựng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bất động sản… Bên cạnh đó, các bộ, ngành phải triển khai thực hiện một loạt các hành động khác như: tăng cường, đẩy mạnh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền (Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao); tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát trong PCRT thuộc trách nhiệm của các bộ, ngành có đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành… Như vậy, để khắc phục các thiếu hụt về cơ chế phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL tại Báo cáo đánh giá đa phương, Việt Nam cần phải có rất nhiều nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ tại Kế hoạch hành động quốc gia và các nhiệm vụ này thuộc trách nhiệm của nhiều bộ, ngành khác nhau. Bên cạnh đó, việc đánh giá Việt Nam đã khắc phục được các thiếu hụt để không bị đưa vào Danh sách Xám còn phụ thuộc vào quan điểm đánh giá của APG và của FATF.
Việc sửa đổi Luật PCRT thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm khắc phục những thiếu hụt về cơ sở pháp lý so với các khuyến nghị của FATF đã chỉ ra trong Báo cáo đánh giá đa phương. Cụ thể, hiện nay các nội dung sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) liên quan đến
25/40 Khuyến nghị, trong đó có 23/25 Khuyến nghị hiện đang bị xếp hạng không tuân thủ hoặc tuân thủ một phần, 2/25 Khuyến nghị hiện được đánh giá ở mức tuân thủ phần lớn. Qua đối chiếu với dự thảo Luật, dự kiến có 11 Khuyến nghị có thể được coi là đáp ứng[8]; 14 Khuyến nghị có thể được coi là chỉ đáp ứng một phần[9] do còn liên quan đến việc hoàn thiện các văn bản pháp luật khác (như: Bộ Luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Phòng, chống khủng bố, các quy định xử phạt vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn quy trình, cơ chế, nguồn thông tin để thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia) và quá trình tổ chức thực hiện.
Trong số 23 Khuyến nghị, có 4 Khuyến nghị cốt lõi liên quan đến Luật PCRT, trong đó 3/4 Khuyến nghị cốt lõi
[10] có thể được coi là đáp ứng phần lớn; 01 Khuyến nghị là Khuyến nghị 6 chỉ đáp ứng một phần do liên quan đến việc sửa đổi các quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan đến việc quy định chi tiết quy trình chỉ định danh sách, biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu…
Đối với các Khuyến nghị chưa thể khắc phục do không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT sẽ được kiến nghị sửa đổi, bổ sung tại các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, các văn bản quy định xử phạt vi phạm hành chính… Các nội dung này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 941/QĐ-TTg nêu trên.
3. Cơ sở thực tiễn trong nước về yêu cầu hoàn thiện pháp luật PCRT
Luật PCRT được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Từ đó đến nay, trải qua 10 năm thi hành Luật PCRT, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về PCRT của Việt Nam đã dần được hoàn thiện. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về PCRT được ban hành như: Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP), Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 31/2014/TT-NHNN và Thông tư số 20/2019/TT-NHNN)…
Thứ hai, về hoàn thiện tổ chức, bộ máy, Ban chỉ đạo quốc gia về PCRT đã được thành lập, hoàn thiện, tăng cường hoạt động với Trưởng ban là Phó Thủ tướng Chính phủ và thành viên là đại diện lãnh đạo của 16 bộ, ngành của Việt Nam. Tại các bộ, ngành có liên quan đều có các bộ phận được chỉ định là đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc trách nhiệm của bộ, ngành mình. Ngân hàng Nhà nước, với nhiệm vụ được giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện quản lý nhà nước về PCRT, đã thành lập Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, có chức năng cơ bản là tiếp nhận, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ và các báo cáo, thông tin khác liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố, tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách và hoạt động hợp tác quốc tế về PCRT.
Thứ ba, về thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền, các đối tượng báo cáo theo quy định của Luật PCRT, đặc biệt là các tổ chức tài chính như các công ty chứng khoán, bảo hiểm, tổ chức tín dụng đã thiết lập hệ thống PCRT tại tổ chức mình, thực hiện nhận biết, cập nhật và lưu trữ thông tin khách hàng, từ đó phát hiện các giao dịch đáng ngờ để báo cáo cho Cục PCRT. Từ năm 2013 đến nay, Cục PCRT đã tiếp nhận thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các đối tượng báo cáo và đã phân tích, chuyển giao khối lượng lớn thông tin giao dịch đáng ngờ cho cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục điều tra, xử lý góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và phòng, chống tội phạm nói chung. Trên cơ sở thông tin, dữ liệu tiếp nhận và thu thập từ đối tượng báo cáo và từ cơ quan, tổ chức khác, Cục PCRT đã xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về PCRT bao gồm các thông tin giao dịch đáng ngờ và giao dịch có giá trị lớn. Thông tin, dữ liệu này bên cạnh việc góp phần hỗ trợ tích cực trong phân tích, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ còn là nguồn thông tin quan trọng cung cấp cho cơ quan điều tra và các cơ quan có thẩm quyền khác trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và các loại tội phạm khác. Trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng, thông tin dữ liệu từ Cục PCRT hỗ trợ cơ quan điều tra trong điều tra, xác định tài sản của đối tượng điều tra để chứng minh tội phạm, xác định tài sản tham nhũng cần thu hồi cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, về hợp tác quốc tế, Luật PCRT đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về trao đổi thông tin liên quan đến rửa tiền. Ngân hàng Nhà nước đã ký kết 10 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin hợp tác với các cơ quan tình báo tài chính nước ngoài Nhật, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nga, Băngladesh, Vương quốc Anh. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực PCRT đã góp phần ngăn chặn kịp thời các tội phạm rửa tiền và các tội phạm xuyên quốc gia, qua đó, Việt Nam cũng đã học hỏi nhiều kinh nghiệm trong công tác PCRT của các quốc gia và tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, việc thực thi công tác PCRT đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân Việt Nam khi mở rộng quan hệ kinh doanh, hợp tác với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật PCRT còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện, cụ thể:
Thứ nhất, Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được ban hành trước năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 Khuyến nghị hiện hành của FATF.
Thứ hai, về đối tượng báo cáo của Luật PCRT, theo quy định hiện hành, đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs); và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính (DNFBPs) phù hợp với các hoạt động của đối tượng báo cáo tại thời điểm ban hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phát sinh một số hoạt động mới cần được bổ sung vào đối tượng báo cáo như hoạt động trung gian thanh toán.
Thực tế, về hoạt động trung gian thanh toán, hiện nay khung pháp lý cho hoạt động này tương đối đầy đủ. Tuy nhiên các quy định về PCRT mới chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật nên chưa đảm bảo đầy đủ và hiệu quả. Do đó, cần luật hóa hoạt động này vào đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Đồng thời, trong thực tiễn có thể phát sinh những hoạt động mới có rủi ro về rửa tiền, đặt ra yêu cầu cần phải có quy định tại Luật PCRT để bao quát được các lĩnh vực, hoạt động mới phát sinh này.
Thứ ba,Luật PCRT hiện hành không có quy định về việc đánh giá rủi ro quốc gia và tại từng đối tượng báo cáo về rửa tiền, trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền; đồng thời, quy định về việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa đảm bảo tính đầy đủ, hợp lý. Trong khi đó đây là một trong những yêu cầu thuộc nhóm các vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT.
Thứ tư,về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo, qua quá trình triển khai và đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn một số tồn tại cơ bản như: các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement" theo khuyến nghị của FATF; Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn thiếu các quy định theo yêu cầu mới phát sinh tại 40 Khuyến nghị của FATF như yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trước khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới, sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ mới...
Từ các cơ sở nêu trên, việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) là cần thiết, nhằm phù hợp với các nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế, cam kết quốc tế của Việt Nam, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong công tác phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, việc sửa đổi Luật PCRT 2012 cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định của pháp luật, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, để đáp ứng kịp thời các yêu cầu trong nước về tăng cường hiệu quả của quy định pháp luật về PCRT cũng như yêu cầu về đáp ứng các khuyến nghị của FATF, khắc phục một số thiếu hụt theo đánh giá đa phương của APG trong thời hạn 01 năm (kể từ khi bị áp dụng quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF (từ tháng 3/2022 - 3/2023) việc trình Quốc hội thông qua Luật PCRT (sửa đổi) tại một kỳ họp vào tháng 10/2022 là cần thiết.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG VĂN BẢN
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật PCRT hiện hành như đã đề cập tại điểm 3 Phần I, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCRT; xây dựng hệ thống pháp luật về PCRT phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế về PCRT mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự độc lập, tự chủ về kinh tế cũng như bảo đảm an ninh tiền tệ, an toàn tài chính quốc gia; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và công tác phòng, chống tội phạm nói chung.
2. Quan điểm xây dựng dự thảo văn bản
a) Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với công tác PCRT. Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
b) Kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục các vướng mắc, bất cập các quy định của pháp luật PCRT hiện hành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động PCRT hiện nay.
c) Tham khảo, cụ thể hóa các chuẩn mực quốc tế về PCRT trên cơ sở phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; tham khảo pháp luật của một số quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định về PCRT.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ THẢO LUẬT PCRT (SỬA ĐỔI)
Thực hiện Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội Khóa XV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 06/7/2022 của Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì soạn thảo Luật PCRT (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
1. Đã tổ chức tổng kết thi hành Luật PCRT năm 2012 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng như các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, vướng mắc và đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm cung cấp các luận cứ thực tiễn cho việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi), báo cáo Chính phủ.
2. Đã tiến hành phân tích, đánh giá tác động của các chính sách trong dự án Luật PCRT (sửa đổi), đánh giá tác động thủ tục hành chính, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật PCRT (sửa đổi), theo đó, dự án Luật không làm phát sinh thủ tục hành chính mới, không có nội dung liên quan đến bình đẳng giới.
3. Đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật PCRT (sửa đổi) theo Quyết định số 960/QĐ-NHNN ngày 31/05/2022 của Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là Trưởng ban Ban soạn thảo, đại diện các bộ, cơ quan liên quan, các chuyên gia là thành viên Ban soạn thảo và Tổ biên tập theo đúng quy định.
4. Đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); thực hiện rà soát, nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Bộ luật dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật Kinh doanh bảo hiểm…) để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Theo đó, dự thảo Luật phù hợp với Hiến pháp, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành và các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
5. Tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo Luật theo quy định thông qua các hình thức: đăng tải dự thảo Luật lên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước để lấy ý kiến rộng rãi; gửi hồ sơ dự án Luật đề nghị tham gia ý kiến bằng văn bản của các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động; tổ chức hội thảo để lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức có liên quan.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến góp ý của các bộ, ngành, cơ quan, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam, các tổ chức, hiệp hội, đối tượng chịu sự tác động của dự án Luật. Dự thảo Luật bảo đảm tính thống nhất với các Luật và Điều ước quốc tế có liên quan.
6. Dự án Luật PCRT (sửa đổi) đã được Bộ Tư pháp thẩm định theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Báo cáo thẩm định số 115/BCTĐ-BTP ngày 12/7/2022. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ các ý kiến thẩm định tại Báo cáo 224/BC-NHNN ngày 12/7/2022.
7. Sau khi hoàn thiện, Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo Chính phủ về dự án Luật PCRT (sửa đổi). Tại Nghị quyết 95/NQ-CP ngày về Phiên họp Chuyên đề xây dựng pháp luật của Chính phủ, Chính phủ đã thông qua dự án Luật PCRT (sửa đổi) và giao Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện hồ sơ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật. Ngày 03/8/2022, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình số 260/TTr-CP trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật PCRT (sửa đổi).
8. Ngày 09/8/2022, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp với Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức cuộc họp thẩm tra sơ bộ đối với dự thảo Luật PCRT (sửa đổi).
Trong các ngày 04/8/2022 và ngày 12/8/2022, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các Ủy ban, cơ quan của Quốc hội, Bộ Tư pháp thực hiện rà soát dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); tổ chức Hội thảo lấy ý kiến chuyên gia, đại biểu Quốc hội đối với dự án Luật PCRT (sửa đổi).
9. Ngày 18/8/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, xem xét, cho ý kiến đối với dự án Luật PCRT (sửa đổi). Ngày 23/8/2022, Tổng Thư ký Quốc hội có Thông báo số 1388/TB-TTKQH về kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật PCRT (sửa đổi), trong đó, có đề nghị Chính phủ hoàn thiện hồ sơ dự án Luật theo Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội để xin ý kiến Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đối với dự án Luật tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách..
10. Thực hiện Thông báo số 1388/TB-TTKQH ngày 23/8/2022, Kế hoạch 301/KH-UBTVQH15 ngày 26/8/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã có Tờ trình số 293/TTr-CP ngày 31/8/2022 trình Quốc hội dự án Luật PCRT (sửa đổi) và báo cáo dự kiến tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội về dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi). Ngày 07/9/2022, Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đã thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo Luật PCRT (sửa đổi).
Trong các ngày từ 8-12/9/2022, Cơ quan chủ trì soạn thảo đã phối hợp với Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội nghiên cứu, rà soát dự thảo Luật trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
11. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và Công văn số 1269/UBKT15 ngày 14/9/2022 của Ủy ban kinh tế của Quốc hội, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật PCRT (sửa đổi).
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ ÁN LUẬT
Luật PCRT (sửa đổi) được bố cục gồm 4 Chương, 65 Điều, cụ thể:
- Chương I: Những quy định chung.
- Chương II: Biện pháp phòng, chống rửa tiền.
- Chương III: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền.
- Chương IV: Điều khoản thi hành.
Chính phủ xin báo cáo một số nội dung cơ bản của dự án Luật như sau:
1. Phạm vi điều chỉnh
Về cơ bản, dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật PCRT, theo đó phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong PCRT; hợp tác quốc tế về PCRT. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) cũng quy định việc phòng, chống hành vi rửa tiền của các tổ chức, cá nhân có mục đích TTKB, TTPBVKHDHL được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
2. Đối tượng báo cáo về PCRT
Dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo PCRT tại Luật PCRT, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung về đối tượng báo cáo, cụ thể:
- Sửa đổi, bổ sung tên gọi của một số hoạt động của đối tượng báo cáo, ví dụ: sửa đổi tên gọi hoạt động cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư thành hoạt động cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý; sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kinh doanh trò chơi có thưởng... Việc sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động để phù hợp với nội hàm khái niệm của FATF và phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.
- Dự thảo Luật đã luật hóa quy định tại Nghị định 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP, theo đó, bổ sung đối tượng báo cáo là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
- Trong quá trình xây dựng Luật, để đáp ứng khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, đồng thời từ thực tiễn nhu cầu quản lý nhà nước về PCRT, cơ quan chủ trì soạn có đề xuất bổ sung đối tượng báo cáo mới nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh là: tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và cho vay dựa trên nền tảng công nghệ… Tuy nhiên, sau khi tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đánh giá tính khả thi, đồng thời để đảm bảo quy định tại Luật có tính bao quát được các hoạt động phát sinh trong tương lai, dự thảo Luật được điều chỉnh lại theo hướng giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động cụ thể được quy định tại Luật. Đồng thời, tiếp thu ý kiến thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, dự thảo Luật quy định Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật bổ sung quy định việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền. Theo đó, trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và việc hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, Chính phủ sẽ xem xét việc bổ sung đối tượng thực hiện các hoạt động mới là đối tượng báo cáo của Luật PCRT sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quy định này cũng đáp ứng một phần khuyến nghị số 15 của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương.
3. Về hợp tác quốc tế về PCRT
Quy định này được kế thừa từ quy định tại Luật PCRT và luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). Theo đó, dự thảo Luật quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế về PCRT, các trường hợp từ chối yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin, quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về PCRT và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong hợp tác quốc tế về PCRT. Bên cạnh đó, để đáp ứng thực tiễn công tác trao đổi, cung cấp thông tin về PCRT, dự thảo Luật cũng bổ sung nguyên tắc: trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về PCRT, việc trao đổi, chuyển giao thông tin trong hợp tác quốc tế về PCRT được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
4. Quy định về đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo về rửa tiền
Để đáp ứng khuyến nghị của FATF, đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương và phù hợp với thực tiễn triển khai hoạt động đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo về rửa tiền, dự thảo Luật bổ sung các quy định về đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo về rửa tiền, cụ thể:
- Bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền.
Theo đó định kỳ 05 năm, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam, trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá; việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, chưa thuộc hoạt động của đối tượng báo cáo quy định tại Luật này.
Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm thực hiện: (i) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc thẩm quyền quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định; (ii) Cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia, kế hoạch thực hiện sau đánh giá.
Do các tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền mang tính kỹ thuật và có thể thay đổi trong từng thời kỳ, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
Quy định này được bổ sung trên cơ sở khuyến nghị của FATF. Theo đó Việt Nam phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố của quốc gia mình bao gồm việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền hoặc thiết lập cơ chế nhằm phối hợp các hành động để đánh giá rủi ro quốc gia, từ đó xây dựng, cập nhật chiến lược quốc gia về phòng, chống RT/TTKB phù hợp với rủi ro được xác định. Đánh giá rủi ro quốc gia là cơ sở để quốc gia tập trung nguồn lực một cách hiệu quả vào các lĩnh vực ưu tiên/các lĩnh vực rủi ro cao về RT/TTKB và được coi là một trong những trụ cột nền tảng của công tác PCRT theo chuẩn mực quốc tế, qua đó tăng cường năng lực quốc gia trong thực hiện 40 Khuyến nghị của FATF. Việc bổ sung điều mới về “Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền” cũng phù hợp với Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam về PCRT và tài trợ khủng bố. Điều này sẽ luật hóa nghĩa vụ của Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
Trên thực tế, căn cứ vào quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 24 Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền; khoản 2, Điều 1 Thông tư 20/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền), Kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 2015-2020 về phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL và các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, các bộ, ngành đã cùng phối hợp hoàn thành đánh giá rủi ro quốc gia (trong đó có cấu phần đánh giá rủi ro ngành) lần 1 cho giai đoạn 2012-2017 trên cơ sở bộ công cụ đánh giá của Ngân hàng thế giới. Kết quả đánh giá đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua và căn cứ kết quả đánh giá, ngày 30/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 474/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro RT/TTKB giai đoạn 2019 – 2020. Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch sau đánh giá rủi ro quốc gia, các bộ, ngành đều đã ban hành Kế hoạch hành động triển khai Kế hoạch sau đánh giá rủi ro quốc gia tại bộ, ngành. Hiện nay, các bộ, ngành đang tiếp tục phối hợp hoàn thành đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền lần 2 cho giai đoạn 2018 - 2022.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền. Việc bổ sung quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị số 10 và 11 của FATF mà Việt Nam còn thiếu hụt. Dự thảo Luật giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro, theo đó dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại tổ chức mình, trong đó phải có nội dung về việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
5. Quy định về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng
- Về thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng: dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin nhận biết khách hàng để phù hợp với pháp luật hiện hành, khuyến nghị của FATF, đánh giá của APG; sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, theo đó đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết, cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, đồng thời giao Chính phủ hướng dẫn nội dung này.
- Về xác minh thông tin nhận biết khách hàng, dự thảo Luật bổ sung quy định: đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định pháp luật để đối chiếu, xác minh thông tin do khách hàng cung cấp. Quy định này phù hợp với thực tiễn triển khai xây dựng, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, theo đó đối tượng báo cáo có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu để xác minh thông tin khách hàng, đảm bảo an toàn, chính xác. Việc khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của đối tượng báo cáo phải căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành (Luật Căn cước công dân và các văn bản hướng dẫn thi hành).
Bên cạnh đó, dự thảo Luật kế thừa quy định về việc đối tượng báo cáo có thể thuê tổ chức khác xác minh thông tin khách hàng. Đồng thời, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức thuê xác minh phải bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật và đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức thuê. Việc thuê tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng thực hiện theo thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật có liên quan.
Dự thảo Luật cũng sửa đổi, bổ sung quy định về nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba, là hoạt động được sửa đổi tên gọi từ hoạt động kinh doanh qua giới thiệu quy định tại Luật PCRT 2012, trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định về các yêu cầu đối với bên thứ ba, quy định rõ việc nhận biết, xác minh thông tin khách hàng thông qua bên thứ ba không loại trừ trách nhiệm của đối tượng báo cáo trong việc nhận biết, xác minh thông tin khách hàng.
- Về cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị (PEP): dự thảo Luật bổ sung quy định về đối tượng PEP của tổ chức quốc tế, quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với khách hàng này.
- Về quan hệ ngân hàng đại lý: dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải áp dụng các biện pháp nhằm thu thập thông tin, đánh giá việc thực hiện các biện pháp về PCRT, hiểu biết về các trách nhiệm PCRT của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý; trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải đảm bảo rằng tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
- Về trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới: dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền đối với các sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới trước khi đưa vào sử dụng; áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
- Về giám sát một số giao dịch đặc biệt: dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật PCRT về các giao dịch đặc biệt mà đối tượng báo cáo phải giám sát, bao gồm: (i) Giao dịch có giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp theo quy định của Chính phủ; (ii) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo. Để giám sát giao dịch đặc biệt, dự thảo quy định đối tượng báo cáo áp dụng biện pháp tăng cường; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
- Về minh bạch thông tin của pháp nhân: dự thảo Luật kế thừa quy định yêu cầu về việc cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản, chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân đối với cơ quan đăng ký kinh doanh; bổ sung quy định về việc cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản, chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân của cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân đó; sửa đổi, làm rõ các thông tin cần và những thông tin nếu có (thông tin về danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân) mà cơ quan đăng ký, cơ quan cấp phép thành lập thực hiện cập nhật, lưu trữ. Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản, chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa quy định tại Luật PCRT 2012, dự thảo Luật quy định cụ thể Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát PCRT, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan, pháp nhân cung cấp thông tin.
- Về minh bạch thông tin thỏa thuận pháp lý: Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý, theo đó quy định về nghĩa vụ của bên nhận ủy thác phải thu thập, lưu giữ thông tin về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có) và cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác; có trách nhiệm cung cấp các thông tin này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cung cấp thông tin cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính trong quá trình duy trì mối quan hệ khách hàng với tổ chức, cá nhân này liên quan đến tài sản được ủy thác khi có yêu cầu.
- Về minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận: dự thảo Luật bổ sung quy định về khái niệm tổ chức phi lợi nhuận là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bao gồm tổ chức phi chính phủ nước ngoài, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, các hội, tổ chức tôn giáo được thành lập, đăng ký, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, dự thảo Luật quy định các tổ chức này phải thực hiện cập nhật, lưu trữ hồ sơ về việc tài trợ, tiếp nhận tài trợ của tổ chức phi lợi nhuận và cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu, qua đó đảm bảo yêu cầu về PCRT trong hoạt động của các tổ chức này.
6. Về trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ và báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin về phòng, chống rửa tiền
- Về trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ: Dự thảo Luật bổ sung một số nội dung phải có tại quy định nội bộ về PCRT của đối tượng báo cáo, bao gồm: chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh; chính sách, quy trình quản lý rủi ro; tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng chống rửa tiền. Bổ sung yêu cầu quy định nội bộ phải được áp dụng, phổ biến đến toàn hệ thống và đại lý.
Để phù hợp với loại hình, quy mô hoạt động của các đối tượng báo cáo, dự thảo Luật có quy định riêng trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ của đối tượng báo cáo là tổ chức, trừ doanh nghiệp siêu nhỏ và đối tượng báo cáo là cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ
[11]. Theo đó, với đối tượng báo cáo là cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ, quy định nội bộ được giảm bớt một số nội dung (như quy trình báo cáo giao dịch phải báo cáo; chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền; kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động PCRT, trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về PCRT).
- Về báo cáo giao dịch đáng ngờ: Dự thảo Luật luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) đồng thời có điều chỉnh để đảm bảo rõ ràng, minh bạch đối với quy định cụ thể về các trường hợp đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ, cụ thể: (1) Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có đủ các yếu tố sau: (i) Giao dịch được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; (ii) Cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản hoặc tài sản có nguồn gốc từ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của cá nhân đó hoặc cá nhân, tổ chức liên quan tới cá nhân đó trong hoặc sau thời gian thực hiện hành vi phạm tội; (2) Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch liên quan đến rửa tiền được xác định từ việc xem xét, thu thập và phân tích thông tin khi khách hàng, giao dịch có một hoặc nhiều dấu hiệu đáng ngờ theo quy định tại Luật này và từ các dấu hiệu đáng ngờ khác do đối tượng báo cáo xác định.
Bên cạnh đó, trên cơ sở rà soát từ thực tiễn quản lý, ý kiến tham gia của các cơ quan, tổ chức và để đảm bảo rõ ràng, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, kinh doanh bất động sản; bổ sung dấu hiệu đáng ngờ đối với hoạt động trung gian thanh toán tại dự thảo Luật. Về kỹ thuật, dự thảo Luật đã sửa đổi theo hướng tách các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản và dấu hiệu đáng ngờ trong từng lĩnh vực thành các điều riêng để dễ theo dõi và thực hiện.
Luật PCRT năm 2012 giao Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn các giao dịch đáng ngờ mới phát sinh trong từng thời kỳ. Tại dự thảo Luật đã sửa đổi quy định “giao Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn” thành “giao Chính phủ hướng dẫn” và bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực. Các dấu hiệu đáng ngờ quy định tại dự thảo Luật được xây dựng từ kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn quản lý của cơ quan nhà nước, thực tế hoạt động tại đối tượng báo cáo. Theo đó, các dấu hiệu này sẽ được cập nhật để đáp ứng được tình hình, yêu cầu công tác phòng chống rửa tiền trong từng thời kỳ. Việc giao Chính phủ hướng dẫn đảm bảo tính cập nhật kịp thời khi có phát sinh những dấu hiệu đáng ngờ mới, qua đó đảm bảo được yêu cầu của công tác PCRT.
Về thời hạn báo cáo giao dịch đáng ngờ, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn báo cáo, trong đó ngoài thời hạn báo cáo là tối đa hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch, đối tượng báo cáo có thể lựa chọn thời hạn một ngày làm việc kể từ ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được giao dịch đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ, khắc phục những vướng mắc của đối tượng báo cáo trong quá trình thực hiện.
- Về giao dịch chuyển tiền điện tử: Dự thảo Luật bổ sung quy định trách nhiệm của các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
- Dự thảo Luật cũng sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm lưu trữ hồ sơ, thông tin, báo cáo của đối tượng báo cáo nhằm cụ thể các loại thông tin đối tượng báo cáo phải lưu trữ; quy định trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin này cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của đối tượng báo cáo; sửa đổi, bổ sung quy định về bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo nhằm phù hợp với quy định pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước và thực tiễn hoạt động của đối tượng báo cáo.
7. Về thực hiện thu thập, xử lý, phân tích, trao đổi, cung cấp, chuyển giao thông tin về PCRT và áp dụng các biện pháp tạm thời
- Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về việc trao đổi, cung cấp và chuyển giao thông tin PCRT với cơ quan có thẩm quyền trong nước, cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Đồng thời, bổ sung việc giao Chính phủ quy định chi tiết về việc chuyển giao, trao đổi , cung cấp thông tin PCRT trong nước; hướng dẫn về việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn chuyển giao, trao đổi, cung cấp thông tin PCRT tại Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan có thẩm quyền trong và ngoài nước.
- Về áp dụng các biện pháp tạm thời: dự thảo Luật quy định rõ các trường hợp thực hiện trì hoãn giao dịch bao gồm: (i) Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội. Dư thảo Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này, theo đó, trên cơ sở thực tiễn công tác PCRT, Chính phủ sẽ quy định cụ thể về các yếu tố như “cơ sở hợp lý để nghi ngờ”… ; (ii) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật liên quan. Dự thảo Luật cũng luật hóa quy định về việc miễn trách nhiệm của đối tượng báo cáo tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP, theo đó đối tượng báo cáo không phải chịu trách nhiệm pháp lý về những hậu quả phát sinh khi áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch theo đúng quy định tại Luật.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về thời điểm thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch theo hướng đảm bảo tính kịp thời, phù hợp với yêu cầu của Khuyến nghị số 6 của FATF.
Về biện pháp phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản, dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
8. Về quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
Về cơ bản, nội dung phân công trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT được kế thừa các quy định tại Luật PCRT năm 2012 và trên cơ sở luật hóa nội dung phân công trách nhiệm của bộ, ngành tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra, dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của bộ, ngành trong việc thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành; sửa đổi, bổ sung trách nhiệm cụ thể một số bộ ngành, bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
9. Về điều khoản thi hành
- Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền”. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm tạo cơ sở để triển khai, thực hiện các yêu cầu về nâng cao tính độc lập của đơn vị tình báo tài chính tại khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG cũng như để đáp ứng yêu cầu của công tác PCRT trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
Theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật PCRT đều giao Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về PCRT. Tại Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đang được giao thực hiện nhiệm vụ này và Cục PCRT là đơn vị thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về PCRT.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG đã chỉ ra việc Cục trưởng Cục PCRT chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mọi hoạt động của Cục PCRT là chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để Cục PCRT thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự chủ; việc Cục PCRT nằm trong Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có thể dẫn đến một số quan ngại về vấn đề bảo mật thông tin và lo ngại về tính độc lập trong hoạt động của đơn vị tình báo tài chính, vốn được coi trọng đặc biệt. APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền và tính độc lập cho Cục PCRT để nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
Để thực hiện khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại báo cáo đánh giá đa phương, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước xây dựng Đề án riêng, báo cáo cơ quan có thẩm quyền về đơn vị đầu mối về PCRT theo quy định. Việc sửa đổi khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước không phải là quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và là quy định cần thiết để Ngân hàng Nhà nước có cơ sở xây dựng Đề án, trình Chính phủ, các cấp có thẩm quyền về việc phân công nhiệm vụ thực hiện chức năng PCRT cho các đơn vị cụ thể thuộc Ngân hàng Nhà nước sau này.
Tiếp thu ý kiến thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nhằm không tạo khoảng trống pháp lý sau khi Luật có hiệu lực thi hành nhưng chưa kịp hoàn thành việc phân công chức năng đơn vị đầu mối về PCRT thuộc Ngân hàng Nhà nước, dự thảo Luật bổ sung quy định chuyển tiếp như sau: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có quyết định khác, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền theo quy định của Luật này và các Luật khác có liên quan.
- Dự thảo Luật bổ sung quy định sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật Phòng, chống khủng bố và pháp luật về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (sau đây gọi là “PBVKHDHL”) theo hướng tương đồng với các quy định cụ thể, mới được sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT. Việc sửa đổi, bổ sung này căn cứ trên các khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, theo đó một số yêu cầu sửa đổi, bổ sung pháp luật về PCRT cũng được khuyến nghị đồng thời với sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống khủng bố, tài trợ PBVKHDHL. Với thời hạn phải báo cáo kết quả thực hiện đánh giá của APG vào tháng 3/2023, trong khi việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống khủng bố, pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật phòng, chống khủng bố, pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL tại dự thảo Luật này là cần thiết, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất giữa Luật PCRT và Luật Phòng, chống khủng bố, pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL.
Trên cơ sở ý kiến của các Đại biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt chuyên trách và Công văn số 1269/UBKT15 ngày 14/9/2022 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Chính phủ kính trình Quốc hội Báo cáo nội dung dự kiến tiếp thu, giải trình ý kiến của các Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách về dự án Luật PCRT (sửa đổi) và hồ sơ dự án Luật PCRT (sửa đổi) (xin đính kèm).
Trên đây là Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
(Hồ sơ kèm theo gồm: (1) Tờ trình Quốc hội về dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); (2) Tờ trình tóm tắt về dự án Luật PCRT (sửa đổi); (3) Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); (4) Báo cáo một số nội dung tiếp thu, giải trình ý kiến của Đại biểu Quốc hội tạiHội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách về dự án Luật PCRT (sửa đổi); (5) Báo cáo số 115/BCTĐ-BTP ngày 12/7/2022 thẩm định Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) của Bộ Tư pháp; (6) Báo cáo số 224/BC-NHNN ngày 12/7/2022 tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đối với dự án Luật PCRT (sửa đổi); (7) Bảng tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của Bộ, ngành; (8) Bản chụp ý kiến góp ý của Bộ, ngành; (9) Bảng tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của VCCI và đối tượng chịu tác động của dự án Luật; (10) Báo cáo số 404/BC-NHNN ngày 09/12/202 tổng kết thi hành Luật PCRT; (11) Báo cáo đánh giá tác động của chính sách đề nghị xây dựng Luật PCRT (sửa đổi); (12) Báo cáo rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế có liên quan đến dự thảo; (13) Dự thảo các văn bản quy định chi tiết bao gồm: 01 Nghị định của Chính phủ, 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 01 Thông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (14) Bảng Thuyết minh dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); (15) Bảng so sánh nội dung sửa đổi, bổ sung Luật PCRT (sửa đổi) so với các khuyến nghị của FATF và APG; (16) Bản dịch các chuẩn mực quốc tế về PCRT và chống tài trợ khủng bố & phổ biến vũ khí (cập nhật tháng 03/2022); (17) Báo cáo tóm tắt kết quả đánh giá đa phương của APG và yêu cầu xử lý các thiếu hụt của Việt Nam liên quan đến PCRT.).
[1] FATF là tổ chức liên chính phủ ban hành ra các chuẩn mực thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu. Năm 2004, FATF lần đầu ban hành bộ tiêu chuẩn 40+9 Khuyến nghị bao gồm 40 Khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và 9 Khuyến nghị đặc biệt về phòng, chống tài trợ khủng bố; đến tháng 02/2012 FATF sửa đổi, bổ sung 40+9 Khuyến nghị thành bộ 40 Khuyến nghị mới về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt. 40 Khuyến nghị hiện đang được áp dụng là bộ chuẩn mực quốc tế chung về PCRT/TTKB/VKHD. Hiện nay, hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đang cam kết thực hiện theo các khuyến nghị của FATF trong đó có Việt Nam. (Nguồn trích dẫn: website:
https://www.fatf-gafi.org/about/).
[2] 6 Khuyến nghị chủ chốt và cốt lõi gồm Khuyến nghị 3 (Tội phạm rửa tiền), 5 (tội phạm tài trợ khủng bố), 6 (các hình phạt tài chính mục tiêu), 10 (nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng), 11 (Lưu giữ báo cáo), 20 (báo cáo giao dịch đáng ngờ).
[3] 27/40 khuyến nghị hiện đang bị đánh giá NC hoặc PC: 1, 3, 6, 7, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 34, 35, 38.
[4] Công tác tịch thu, thu hồi tài sản (IO8) và chống tài trợ khủng bố (IO9).
[5] Hiểu biết về rủi ro rửa tiền/tài trợ khủng bố (IO1) và Hợp tác quốc tế (IO2).
[6] 7 IO bị đánh giá thấp liên quan đến công tác thanh tra, giám sát về rửa tiền/tài trợ khủng bố/tài trợ, phổ biến vũ khí, các biện pháp phòng ngừa của các đối tượng báo cáo, pháp nhân và thoả thuận pháp lý, tình báo tài chính, điều tra và truy tố tội rửa tiền, các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu và chống tài trợ, phổ biến vũ khí.
[7] IMF Working Paper WP/21/153.
[8] KN 2, 9, 11, 13, 14, 17, 18, 20, 21, 23, 25
[9] KN 1, 6, 10, 12, 15, 16, 19, 22, 24, 26, 27, 28, 29, 40
[10] Khuyến nghị số: 10, 11, 20
[11] Khoản 1 Điều 5 Nghị định 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp siêu nhỏ là:
“Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng sử dụng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn của năm không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ sử dụng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn của năm không quá 3 tỷ đồng.”.
Các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố và phổ biến vũ khí
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo trình UBTVQH tại phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 8/2022)
15-Cac-chuan-muc-quoc-te-ve-PCRT---20220809100419-1-.docx
Lực luợng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) là một cơ quan liên chính phủ đựợc thành lập vào năm 1989 bởi Bộ trưởng các quốc gia thành viên. Chức năng của FATF là đưa ra các chuẩn mực và thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hoạt động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí và những mối đe dọa có liên quan khác đối với tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc tế. Trong sự phối hợp với những đối tác quốc tế khác, FATF cũng nỗ lực nhằm xác định các tổn thương ở mức độ quốc gia với mục đích bảo vệ hệ thống tài chính quốc tế khỏi bị lạm dụng.
Các Khuyến nghị của FATF đưa ra khuôn khổ các biện pháp toàn diện và thống nhất mà các quốc gia cần thực hiện nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, cũng như tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Các quốc gia có khung pháp lý, cơ chế hành chính, hoạt động khác nhau và hệ thống tài chính khác nhau, do đó không thể thực hiện tất cả các biện pháp giống nhau nhằm chống lại các mối đe dọa này. Vì thế, các Khuyến nghị của FATF thiết lập các chuẩn mực mà các quốc gia cần thực hiện thông qua các biện pháp phù hợp với tình hình cụ thể của quốc gia mình. Các Khuyến nghị của FATF thiết lập các biện pháp thiết yếu mà các quốc gia phải có nhằm:
· Xác định các rủi ro và xây dựng các chính sách và hợp tác trong nước;
· Theo đuổi nhằm đấu tranh chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí;
· Áp dụng các biện pháp phòng ngừa cho khu vực tài chính và các khu vực được chỉ định khác;
· Thiết lập quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền (ví dụ: các cơ quan điều tra, thực thi pháp luật và giám sát) và các biện pháp tổ chức khác;
· Tăng cường tính minh bạch và sự sẵn có của các thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của các pháp nhân và các thỏa thuận pháp lý; và
· Tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế.
40 Khuyến nghị ban đầu của FATF bản lần đầu được đưa ra vào năm 1990 như là sáng kiến nhằm chống lại việc lạm dụng hệ thống tài chính bởi những kẻ rửa tiền từ ma túy. Năm 1996, Các Khuyến nghị đã được sửa đổi lần đầu nhằm phản ánh các xu hướng và kỹ thuật rửa tiền đang phát triển và nhằm mở rộng phạm vi vượt ra ngoài hành vi rửa tiền từ ma túy. Tháng 10 năm 2001, FATF mở rộng quyền hạn nhằm giải quyết các vấn đề về tài trợ cho hành động khủng bố, tổ chức khủng bố và thực hiện một bước quan trọng là đưa ra 8 Khuyến nghị đặc biệt (sau này mở rộng thành 9 Khuyến nghị đặc biệt - KNĐB) về tài trợ khủng bố. Các Khuyến nghị của FATF được sửa đổi lần thứ hai vào năm 2003, những khuyến nghị này cùng với những KNĐB đã được 180 nước phê chuẩn và được thừa nhận là chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT).
Sau khi hoàn thành vòng 3 của Đánh giá đa phương đối với các thành viên, FATF đã phối hợp với các tổ chức khu vực dạng FATF (FSRBs) và các tổ chức quan sát viên, bao gồm Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Liên hợp quốc, thực hiện rà soát và cập nhật các khuyến nghị của mình. Những sửa đổi mới này nhằm giải quyết các rủi ro mới nổi và nảy sinh, làm rõ và tăng cường các nghĩa vụ hiện tại, trong khi vẫn duy trì sự ổn định và nghiêm ngặt cần thiết trong các Khuyến nghị.
Các chuẩn mực của FATF cũng được sửa đổi nhằm củng cố thêm các yêu cầu đối với các tình huống có rủi ro cao và cho phép các quốc gia thực hiện phương thức tiếp cận tập trung tại các khu vực nơi tồn tại những rủi ro cao hoặc cần tăng cường thực thi. Các quốc gia trước tiên cần xác định, đánh giá và hiểu được những rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố mà họ phải đối mặt; và sau đó, thông qua các biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu rủi ro. Tiếp cận dựa trên cơ sở rủi ro cho phép các quốc gia, trong khuôn khổ yêu cầu của FATF, phê chuẩn một hệ thống các biện pháp linh hoạt hơn, nhằm sử dụng nguồn lực một cách hợp lý và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tương xứng với bản chất của rủi ro, nhằm tập trung nỗ lực của họ một cách hiệu quả nhất.
Chống tài trợ khủng bố thực sự là một thách thức lớn. Một hệ thống AML/CFT hiệu quả, nhìn chung là hết sức quan trọng nhằm chống tài trợ khủng bố và hầu hết các biện pháp trước đây nhằm chống tài trợ khủng bố giờ đã được tập trung xuyên suốt trong các Khuyến nghị. Vì thế không cần thiết phải tập trung vào Khuyến nghị đặc biệt. Tuy nhiên, một số Khuyến nghị đặc thù đối với tài trợ khủng bố đã được nêu trong mục C của Khuyến nghị FATF. Bao gồm: Khuyến nghị 5 (hình sự hóa tài trợ khủng bố), Khuyến nghị 6 (các hình phạt tài chính liên quan đến khủng bố và tài trợ khủng bố) và Khuyến nghị 8 (các biện pháp ngăn chặn việc lạm dụng các tổ chức phi lợi nhuận). Phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt cũng là mối quan ngại đáng kể về an ninh và năm 2008, chức năng của FATF đã được mở rộng bao gồm cả việc giải quyết vấn đề tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nhằm chống lại hiểm họa này, FATF đã thông qua Khuyến nghị mới (KN7) với mục tiêu đảm bảo việc thực thi một cách thích hợp và hiệu quả các hình phạt tài chính mục tiêu khi những biện pháp này được đưa ra bởi Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Các chuẩn mực của FATF bao gồm các Khuyến nghị và giải thích từ ngữ, cùng với các định nghĩa có thể áp dụng trong phần chú giải. Các biện pháp được nêu trong Chuẩn mực của FATF cần được áp dụng bởi các thành viên của FATF và các tổ chức khu vực kiểu FATF (FSRBs); và việc thực thi sẽ được đánh giá toàn diện thông qua quy trình đánh giá đa phương của IMF và WB - dựa trên cơ sở phương pháp đánh giá chung của FATF. Một số giải thích và định nghĩa trong phần chú giải bao gồm các ví dụ minh họa việc các yêu cầu này cần được áp dụng như thế nào. Các ví dụ này không phải là yếu tố bắt buộc của các chuẩn mực FATF và chỉ mang tính chất hướng dẫn đơn thuần. Các ví dụ này không nhằm toàn diện hóa và mặc dù được coi như những chỉ dẫn hữu ích nhưng chúng có thể không phù hợp với mọi tình huống.
FATF cũng ban hành Hướng dẫn, tài liệu thực hành tốt nhất và các tài liệu khác nhằm hỗ trợ các quốc gia trong việc thực thi các chuẩn mực FATF. Các tài liệu khác này không phải là bắt buộc trong quá trình đánh giá sự tuân thủ với các chuẩn mực, nhưng các quốc gia sẽ thấy tài liệu này là hữu ích trong quá trình xem xét làm thế nào để thực thi có hiệu quả nhất các chuẩn mực của FATF. Một danh sách các hướng dẫn và kỹ thuật thực hành tốt nhất của FATF hiện đang được đăng trên trang web của FATF, được xem như phụ lục cho các Khuyến nghị.
FATF cam kết duy trì đối thoại gần gũi và có tính xây dựng với khu vực tư, dân sự và các bên quan tâm, cũng như các đối tác quan trọng nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống tài chính. Việc sửa đổi các Khuyến nghị đã tham vấn tích cực và đã thu được những nhận xét và khuyến nghị hữu ích từ những tổ chức này. Để tiến xa hơn và nhằm phù hợp với chức năng của mình, FATF sẽ tiếp tục xem xét những thay đổi đối với các chuẩn mực cho phù hợp và đáp ứng với những thông tin mới liên quan đến hiểm họa và rủi ro mới phát sinh đối với hệ thống tài chính toàn cầu.
FATF kêu gọi tất cả các quốc gia thực thi các biện pháp hữu hiệu nhằm đưa hệ thống chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí của quốc gia mình tuân thủ với các Khuyến nghị sửa đổi của FATF.
A. CÁC CHÍNH SÁCH VỀ AML/CFT VÀ PHỐI HỢP
1. Đánh giá rủi ro và áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro*
Các quốc gia cần phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố của quốc gia mình; và cần thực hiện các biện pháp, bao gồm việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền hoặc thiết lập cơ chế nhằm phối hợp các hành động để đánh giá rủi ro và sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo rủi ro được quản lý một cách hiệu quả. Dựa trên đánh giá đó, các quốc gia cần áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro (RBA) nhằm đảm bảo các biện pháp phòng ngừa hoặc giảm thiểu rửa tiền và tài trợ khủng bố phù hợp với rủi ro được xác định. Cách tiếp cận này phải là cơ sở quan trọng để bố trí hiệu quả các nguồn lực trong cơ chế chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố (AML/CFT) và thực thi các Khuyến nghị của FATF bằng các biện pháp trên cơ sở rủi ro. Khi có rủi ro cao hơn, các quốc gia cần đảm bảo cơ chế AML/CFT đã tập trung thích đáng giải quyết những rủi ro này. Khi xác định rủi ro thấp, các quốc gia có thể được phép áp dụng các biện pháp giảm thiểu đối với một số Khuyến nghị của FATF với những điều kiện nhất định.
Các quốc gia cũng nên xác định, đánh giá và hiểu về các rủi ro tài trợ phổ biến đối với quốc gia mình. Trong ngữ cảnh của Khuyến nghị 1, “rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt” đề cập một cách chặt chẽ và chỉ khả năng vi phạm, không thực hiện hoặc trốn tránh các nghĩa vụ trừng phạt tài chính mục tiêu được đề cập trong Khuyến nghị 7. Các quốc gia cần có hành động tương xứng nhằm đảm bảo giảm thiểu những rủi ro này một cách hiệu quả, bao gồm việc chỉ định một cơ quan hoặc cơ chế phối hợp hành động để đánh giá rủi ro và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả để đạt được mục đích này. Khi các quốc gia xác định được rủi ro cao hơn, các quốc gia phải đảm bảo giải quyết được những rủi ro đó một cách thỏa đáng. Khi các quốc gia xác định được rủi ro thấp hơn, các quốc gia phải đảm bảo rằng các biện pháp được áp dụng tương xứng với mức độ rủi ro tài trợ phổ biến, đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ các biện pháp trừng phạt tài chính có mục tiêu như yêu cầu trong Khuyến nghị 7.
Các quốc gia cần yêu cầu các tổ chức tài chính và các tổ chức và ngành nghề phi tài chính được chỉ định (DNFBPs) xác định, đánh giá và thực hiện hành động hiệu quả để giảm thiểu rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
2. Phối hợp và điều phối trong nước
Các quốc gia cần phải có chính sách về AML/CFT được thông tin đầy đủ về những rủi ro
[1] đã được xác định và những chính sách này cần phải được rà soát một cách thường xuyên, đồng thời cần chỉ định một cơ quan hoặc có cơ chế phối hợp hoặc cơ chế khác chịu trách nhiệm về những chính sách này.
Các quốc gia cần phải đảm bảo các nhà hoạch định chính sách, đơn vị tình báo tài chính, các cơ quan thực thi pháp luật, các giám sát viên và các cơ quan có thẩm quyền liên quan khác, ở cấp ban hành chính sách và cấp thực thi, có sẵn những cơ chế hiệu quả cho phép họ phối hợp và khi thích hợp, điều phối với nhau trong nước liên quan đến việc phát triển và thực thi các chính sách trong các hoạt động chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Điều này cần bao gồm sự hợp tác và phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để đảm bảo sự hài hoà giữa các yêu cầu về Phòng chống, rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt với các quy tắc Bảo vệ dữ liệu, Quyền riêng tư và các điều khoản tương tự khác (ví dụ: bảo mật/bản địa hóa dữ liệu).
B. RỬA TIỀN VÀ TỊCH THU
3. Tội rửa tiền *
Các quốc gia cần phải hình sự hóa rửa tiền trên cơ sở Công ước Viên và Công ước Pa-lec-mô. Các quốc gia cần phải áp dụng tội rửa tiền đối với tất cả các tội phạm nghiêm trọng, với quan điểm đưa ra phạm vi rộng nhất các tội tiền thân.
4. Các biện pháp tịch thu và phòng ngừa *
Các quốc gia cần phải áp dụng các biện pháp tương tự như quy định trong Công ước Viên, Công ước Pa-lec-mô và Công ước trừng trị tài trợ cho khủng bố, bao gồm các biện pháp pháp lý để cho phép các cơ quan có thẩm quyền niêm phong, phong tỏa và tịch thu tài sản dưới đây mà không gây ảnh hưởng tới quyền của các bên thứ ba ngay tình (bona fide): (a) tài sản được rửa, (b) các khoản thu từ hoặc các công cụ được sử dụng hoặc dự định được sử dụng trong hoạt động rửa tiền hoặc tội phạm nguồn, (c) tài sản là những khoản thu từ hoặc được sử dụng cho hoặc dự định được sử dụng hoặc bố trí để sử dụng cho tài trợ chủ nghĩa khủng bố, các hành động khủng bố hoặc các tổ chức khủng bố hoặc (d) tài sản có giá trị tươngđương.
Các biện pháp này cần phải cho phép cơ quan có thẩm quyền được: (a) xác định, lần theo dấu vết và đánh giá tài sản là đối tượng bị tịch thu; (b) tiến hành các biện pháp tạm thời như phong toả và tạm giữ để ngăn chặn bất cứ giao dịch nào, vận chuyển hoặc tẩu tán tài sản đó; (c) triển khai các bước ngăn ngừa hoặc tránh các hành động nhằm hạn chế khả năng của Nhà nước niêm phong, phong tỏa hoặc thu hồi tài sản là đối tượng bị tịch thu; và (d) tiến hành bất cứ biện pháp điều tra phù hợp nào.
Các quốc gia cần phải xem xét việc áp dụng các biện pháp cho phép các khoản thu hoặc công cụ như vậy bị tịch thu mà không đòi hỏi một phán quyết hình sự (tịch thu không trên cơ sở kết án), hoặc các biện pháp này đòi hỏi kẻ phạm tội phải chứng minh nguồn gốc hợp pháp của tài sản cho là sẽ bị tịch thu, trong phạm vi mà yêu cầu như vậy phù hợp với các nguyên tắc pháp luật trong nước của quốc gia đó.
C. TÀI TRỢ KHỦNG BỐ VÀ TÀI TRỢ PHỔ BIẾN VŨ KHÍ
5. Tội tài trợ khủng bố *
Các quốc gia cần phải hình sự hóa tài trợ khủng bố trên cơ sở Công ước về trừng trị tài trợ khủng bố và cần phải hình sự hóa không chỉ hành vi tài trợ cho các hành động khủng bố mà cả tài trợ cho tổ chức và cá nhân khủng bố thậm chí ngay cả khi không có mối liên hệ với một hoặc một số hành động khủng bố nhất định. Các quốc gia cũng cần phải đảm bảo rằng các tội danh này được quy định như tội phạm tiền thân của tội rửa tiền.
6. Các hình phạt tài chính mục tiêu liên quan đến tài trợ cho khủng bố và chủ nghĩa khủng bố*
Các quốc gia cần phải áp dụng các chế độ trừng phạt tài chính mục tiêu nhằm tuân thủ với các Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc liên quan đến phòng, chống khủng bố và tài trợ khủng bố. Các Nghị quyết yêu cầu các quốc gia phải phong tỏa ngay lập tức các quỹ hoặc các tài sản khác và đảm bảo rằng không có quỹ hoặc tài sản nào khác được trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển hoặc có lợi cho bất kỳ người nào hoặc tổ chức nào hoặc (i) bị chỉ định bởi hoặc theo ủy quyền của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc theo Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm cả những nghị quyết phù hợp với Nghị quyết 1267 (1999) và các Nghị quyết kế thừa; hoặc (ii) bị chỉ định bởi quốc gia đó tuân theo Nghị quyết 1373 (2001).
7. Các hình phạt tài chính mục tiêu liên quan đến phổ biến vũ khí
Các quốc gia cần phải thực hiện các hình phạt tài chính mục tiêu nhằm tuân thủ với Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc liên quan đến phòng ngừa, trừng trị và loại bỏ việc phổ biến vũ khí và tài trợ cho nó. Các Nghị quyết này yêu cầu các quốc gia phải phong tỏa ngay lập tức các quỹ hoặc các tài sản khác và đảm bảo rằng không có quỹ hoặc tài sản nào khác được trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển hoặc có lợi cho bất kỳ người nào hoặc tổ chức nào bị chỉ định bởi hoặc theo ủy quyền của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc theo Chương VII của Hiến chương của Liên hợp quốc.
8. Tổ chức phi lợi nhuận*
Các quốc gia cần phải xem xét lại tính đầy đủ của luật và các quy định liên quan đến các tổ chức có thể bị lợi dụng vào hoạt động tài trợ cho khủng bố. Các quốc gia nên áp dụng các biện pháp tập trung và tương xứng, phù hợp với cách tiếp cận dựa trên rủi ro, đối với các tổ chức phi lợi nhuận đặc biệt dễ bị tổn thương và các quốc gia cần phải đảm bảo các tổ chức này không bị lạm dụng:
(a) Bởi các tổ chức khủng bố trá hình như những tổ chức hợp pháp;
(b) Để khai thác các tổ chức hợp pháp như đường dây tài trợ cho khủng bố, kể cả với mục đích trốn tránh các biện pháp phong tỏa tài sản;
(c) Để cất giấu hoặc che đậy sự phân bổ những nguồn vốn đã được dự định dùng vào các mục đích hợp pháp cho các tổ chức khủng bố.
D. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA
9. Luật bảo mật của các tổ chức tài chính
Các quốc gia cần bảo đảm rằng luật bảo mật của các định chế tài chính không cản trở việc thực hiện các Khuyến nghị của FATF.
CẬP NHẬT THÔNG TIN KHÁCH HÀNG VÀ LƯU GIỮ HỒ SƠ
10. Cập nhật thông tin khách hàng*
Các tổ chức tài chính cần phải bị cấm mở các tài khoản vô danh hoặc các tài khoản với những cái tên rõ ràng là giả.
Các tổ chức tài chính cần phải thực hiện các biện pháp cập nhật thông tin khách hàng (CDD) khi:
(i) Thiết lập các quan hệ kinh doanh;
(ii) Thực hiện các giao dịch không thường xuyên: (i) vượt ngưỡng đã được quy định (USD/EUR 15,000), hoặc (ii) là các giao dịch chuyển tiền điện tử trong các trường hợp nêu tại phần chú giải đối với Khuyến nghị số 16;
(iii) Có sự nghi ngờ về rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố;
(iv) Các định chế tài chính nghi ngờ về tính trung thực hoặc đầy đủ của các thông tin nhận dạng khách hàng đã được thu thập trước đây.
Nguyên tắc mà các tổ chức tài chính cần phải thực hiện CDD phải được nêu rõ trong luật. Mỗi quốc gia có thể xác định áp đặt nghĩa vụ CDD cụ thể như thế nào, hoặc thông qua luật hoặc thông qua các biện pháp bắt buộc thực thi.
Các biện pháp CDD cần phải thực hiện bao gồm:
(a) Nhận dạng khách hàng và xác thực nhận dạng của khách hàng thông qua việc sử dụng những tài liệu, dữ liệu và thông tin gốc, độc lập, đáng tin cậy.
(b) Xác định chủ sở hữu hưởng lợi và thực hiện các biện pháp hợp lý để xác thực nhận dạng của chủ sở hữu huởng lợi sao cho tổ chức tài chính an tâm rằng họ biết được chủ sở hữu hưởng lợi là ai. Đối với các pháp nhân và các thoả thuận pháp lý, điều này còn bao gồm việc định chế tài chính phải hiểu được cơ cấu sở hữu và kiểm soát của khách hàng.
(c) Hiểu và thu thập thông tin một cách hợp lý về mục đích và bản chất của quan hệ kinh doanh.
(d) Thực hiện CDD thường xuyên đối với quan hệ kinh doanh và kiểm soát kỹ lưỡng các giao dịch được thực hiện trong suốt quá trình duy trì mối quan hệ đó để đảm bảo rằng các giao dịch đang được thực hiện phù hợp với những hiểu biết của định chế về khách hàng đó, về hoạt động kinh doanh và về những rủi ro của họ, khi cần thiết bao gồm cả nguồn gốc của vốn đối với khách hàng đó.
Các tổ chức tài chính cần phải được yêu cầu áp dụng từng biện pháp CDD nêu tại mục (a) đến (d) ở trên; nhưng có thể quyết định mức độ áp dụng các biện pháp đó trên cơ sở rủi ro (RBA), phù hợp với các chú giải của Khuyến nghị này và Khuyến nghị số 1.
Các tổ chức tài chính cần xác minh nhận dạng của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi trước hoặc trong quá trình thiết lập quan hệ kinh doanh hoặc khi tiến hành các giao dịch đối với các khách hàng vãng lai. Các quốc gia có thể cho phép các tổ chức tài chính hoàn thành việc xác minh sớm trong mức khả thi sau khi thiết lập quan hệ, khi các rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố có thể được quản lý một cách hiệu quả và điều quan trọng là không làm gián đoạn công việc kinh doanh thông thường.
Khi một tổ chức tài chính không thể tuân thủ với các yêu cầu nêu tại đoạn (a) đến (d) ở trên (tùy thuộc vào mức độ phù hợp của các biện pháp trên cơ sở rủi ro) thì không được mở tài khoản, khởi động quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện giao dịch, hay cần phải chấm dứt quan hệ kinh doanh; và cần phải cân nhắc lập báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến khách hàng đó.
Các yêu cầu này cần phải áp dụng đối với tất cả các khách hàng mới, mặc dù vậy các tổ chức tài chính cũng cần phải áp dụng Khuyến nghị này đối với các khách hàng hiện tại trên cơ sở điều kiện vật chất và rủi ro và cần phải tiến hành các biện pháp CDD đối với mối quan hệ như vậy vào những thời điểm thích hợp.
11. Lưu trữ hồ sơ
Các tổ chức tài chính cần phải duy trì, ít nhất trong 5 năm tất cả các hồ sơ cần thiết về các giao dịch, cả trong nước và quốc tế, để họ có thể đáp ứng nhanh chóng yêu cầu cung cấp thông tin từ các cơ quan có thẩm quyền. Các hồ sơ này cần phải đầy đủ để cho phép tái lập lại từng giao dịch đơn lẻ (kể cả giá trị và loại tiền liên quan nếu có) để cung cấp bằng chứng cho việc truy tố hoạt động phạm tội khi cần thiết.
Các tổ chức tài chính cần phải lưu giữ tất cả các dữ liệu có được trong quá trình CDD (ví dụ: các bản sao hoặc bản lưu giấy tờ nhận dạng chính thức như hộ chiếu, chứng minh thư, bằng lái xe hoặc các giấy tờ tương tự), các hồ sơ tài khoản hoặc thư tín thương mại, bao gồm các kết quả phân tích đã thực hiện (ví dụ các yêu cầu thiết lập hồ sơ và mục đích của các giao dịch lớn bất thường, phức tạp) trong vòng ít nhất 5 năm sau khi quan hệ kinh doanh chấm dứt hoặc sau ngày giao dịch vãng lai được thực hiện.
Các thông tin nhận dạng và dữ liệu giao dịch phải được cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền trong nước theo quyền hạn phù hợp.
CÁC BIỆN PHÁP BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC KHÁCH HÀNG VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỤ THỂ
12. Những người có ảnh hưởng chính trị (PEP)*
Ngoài việc thực hiện các biện pháp CDD thông thường, đối với những người nước ngoài có ảnh hưởng chính trị (dù là khách hàng hay là chủ sở hữu hưởng lợi), các tổ chức tài chính cần phải:
(a) Có các hệ thống quản lý rủi ro phù hợp để xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi đó có phải là người có ảnh hưởng chính trị hay không;
(b) Có sự phê duyệt của quản lý cấp cao về việc thiết lập (hoặc duy trì nếu đó là khách hàng hiện tại) mối quan hệ kinh doanh ;
(c) Thực hiện những biện pháp hợp lý để xác định được nguồn gốc tài sản và nguồn gốc của vốn ; và
(d) Thực hiện giám sát tăng cường , liên tục đối với mối quan hệ kinh doanh đó.
Cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm xác định khách hàng hay chủ sở hữu hưởng lợi có phải là người có ảnh hưởng chính trị trong nước hay là người được giao trọng trách quan trọng trong một tổ chức quốc tế không. Trong trường hợp có mối quan hệ kinh doanh với những người có rủi ro cao hơn này, tổ chức tài chính cần phải được yêu cầu áp dụng các biện pháp đã được đề cập ở các đoạn (b), (c) và (d).
Những yêu cầu đối với tất cả PEPs cũng cần được áp dụng đối với các thành viên trong gia đình hoặc các cá nhân có quan hệ gần gũi với các PEPs .
13. Hoạt động ngân hàng đại lý
Ngoài việc thực hiện các biện pháp CDD thông thường, đối với hoạt động ngân hàng đại lý qua biên giới hoặc các mối quan hệ tương tự, các định chế tài chính cần phải:
(a) Thu thập đầy đủ thông tin về một tổ chức đại lý để hiểu rõ bản chất hoạt động kinh doanh của tổ chức đó và để xác định qua những thông tin công khai uy tín của tổ chức đó và chất lượng giám sát, bao gồm cả việc liệu tổ chức đó đã từng bị điều tra do liên quan tới rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố hay bị áp dụng các biện pháp quản lý nào chưa;
(b) Đánh giá biện pháp kiểm soát về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố của tổ chức đối tác;
(c) Có được chấp thuận của quản lý cấp cao trước khi thiết lập mối quan hệ đại lý mới;
(d) Hiểu rõ những trách nhiệm tương ứng của từng tổ chức;
(e) Đối với các “tài khoản phải trả”, cần phải thỏa mãn rằng ngân hàng đối tác (respondent bank) đã thực hiện CDD đối với những khách hàng có quyền truy cập trực tiếp vào các tài khoản của ngân hàng đại lý (correspondent bank) để thực hiện thanh toán và đảm bảo rằng ngân hàng đối tác có thể cung cấp thông tin CDD phù hợp theo yêu cầu cho ngân hàng đại lý.
Các tổ chức tài chính cần phải bị ngăn cấm không tham gia vào hoặc tiếp tục quan hệ ngân hàng đại lý với các ngân hàng vỏ bọc. Các tổ chức tài chính cần phải bị yêu cầu tự thỏa mãn rằng các tổ chức đối tác không cho phép các tài khoản của họ bị lạm dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
14. Dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị*
Các quốc gia cần phải tiến hành các biện pháp nhằm đảm bảo các thể nhân hoặc pháp nhân cung cấp dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị (MVTS) phải được đăng ký hoặc cấp phép và là đối tượng của những hệ thống giám sát hiệu quả và đảm bảo tuân thủ các biện pháp phù hợp mà các Khuyến nghị của FATF yêu cầu. Các quốc gia cũng cần phải hành động để xác định các cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện dịch vụ MVTS mà không có giấy phép hoặc đăng ký để áp dụng các hình phạt thích hợp.
Thể nhân và pháp nhân hoạt động với tư cách đại lý cũng cần được cấp phép hoặc đăng ký với cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà cung cấp MVTS cần lưu giữ danh sách các đại lý mà cơ quan có thẩm quyền có thể tiếp cận được tại các quốc gia mà ở đó các nhà cung cấp MVTS và đại lý của mình hoạt động. Các quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo các nhà cung cấp MVTS có sử dụng các đại lý phải đưa ra các chương trình về AML/CFT và giám sát việc tuân thủ các chương trình này.
15. Công nghệ mới
Các quốc gia và các tổ chức tài chính cần phải nhận dạng và đánh giá rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố có thể phát sinh liên quan đến (a) việc phát triển các sản phẩm mới hoặc hoạt động kinh doanh mới, bao gồm cả các cơ chế cung cấp dịch vụ mới và (b) việc sử dụng công nghệ mới hoặc phát triển công nghệ đối với cả các sản phẩm mới và sản phẩm hiện có . Đối với các tổ chức tài chính, việc đánh giá rủi ro này cần phải được thực hiện trước khi đưa ra các sản phẩm mới, hoạt động kinh doanh mới hoặc sử dụng các công nghệ mới phát triển. Các quốc gia và các tổ chức tài chính cần phải thực hiện các biện pháp phù hợp để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro đó.
Để quản lý và giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tài sản ảo, các quốc gia cần đảm bảo rằng các nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo được quản lý với mục đích chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và được cấp phép hoặc đăng ký và tuân theo các hệ thống giám sát hiệu quả và phải đảm bảo tuân thủ các biện pháp liên quan theo yêu cầu tại Khuyến nghị của FATF.
16. Chuyển tiền điện tử*
Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng các tổ chức tài chính phải có các thông tin theo yêu cầu và đảm bảo chính xác về người khởi tạo , thông tin được yêu cầu về người thụ hưởng trong các điện chuyển tiền và các điện liên quan và các thông tin này phải được lưu giữ cùng lệnh chuyển tiền hay thông báo liên quan trong suốt chuỗi thanh toán.
Các quốc gia cần phải đảm bảo các tổ chức tài chính kiểm soát các điện chuyển tiền nhằm phát hiện ra những điện thiếu thông tin về người khởi tạo và/hoặc thông tin về người thụ hưởng được yêu cầu và thực hiện các biện pháp phù hợp.
Các quốc gia cần phải đảm bảo trong phạm vi xử lý các điện chuyển tiền, các tổ chức tài chính phải thực hiện phong tỏa và phải cấm việc thực hiện các giao dịch với các cá nhân và tổ chức được chỉ định theo nghĩa vụ được nêu tại các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như Nghị quyết 1267 (1999), các Nghị quyết kế thừa và Nghị quyết 1373 (2001) liên quan đến chống khủng bố và tài trợ khủng bố.
DỰA VÀO, KIỂM SOÁT VÀ CÁC TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH
17. Dựa vào bên thứ ba
Các quốc gia có thể cho phép các tổ chức tài chính dựa vào bên thứ ba để thực hiện các mục từ (a) đến (c) trong các biện pháp CDD nêu trong Khuyến nghị 10 hoặc để giới thiệu kinh doanh, miễn là các tiêu chí nêu ở dưới đây được đáp ứng. Khi được phép dựa vào bên thứ ba, trách nhiệm cuối cùng về việc nhận dạng và xác minh khách hàng vẫn thuộc về tổ chức tài chính dựa vào bên thứ ba đó.
Các tiêu chí cần phải đáp ứng bao gồm:
(a) Một tổ chức tài chính dựa vào bên thứ ba cần phải thu thập ngay lập tức các thông tin cần thiết liên quan tới các mục từ (a) đến (c) trong các biện pháp CDD nêu tại Khuyến nghị 10.
(b) Các tổ chức tài chính cần phải tiến hành đầy đủ các bước nhằm đảm bảo bản sao các dữ liệu nhận dạng và các tài liệu tương ứng khác liên quan tới các yêu cầu CDD sẽ được cung cấp từ bên thứ ba ngay lập tức khi có yêu cầu;
(c) Tổ chức tài chính phải đảm bảo rằng bên thứ ba chịu sự quản lý, giám sát hoặc kiểm soát và đã có sẵn các biện pháp nhằm tuân thủ các yêu cầu CDD và lưu trữ hồ sơ phù hợp với Khuyến nghị số 10 và số 11.
(d) Khi xác định quốc gia mà bên thứ ba đáp ứng những điều kiện có thể dựa vào được, các quốc gia cần phải xem xét đến các thông tin sẵn có về mức độ rủi ro của quốc gia đó.
Khi một tổ chức tài chính dựa vào bên thứ ba là một bộ phận của cùng tập đoàn tài chính và (i) tập đoàn này áp dụng các yêu cầu về CDD, lưu trữ hồ sơ phù hợp với các Khuyến nghị số 10, 11, 12 và các chương trình về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố theo Khuyến nghị 18; và (ii) khi việc thực hiện hiệu quả các yêu cầu CDD và lưu trữ hồ sơ cũng như các chương trình về AML/CFT được giám sát ở cấp độ tập đoàn bởi một cơ quan chức năng, thì các cơ quan chức năng có thể cho rằng tổ chức tài chính đó đã áp dụng các biện pháp theo điểm (b) và (c) nói trên thông qua chương trình của tập đoàn và có thể quyết định (d) không còn là điều kiện tiên quyết khi rủi ro quốc gia cao hơn được bù đắp hoàn toàn bằng các chính sách về AML/CFT của cả tập đoàn.
18. Kiểm soát nội bộ và các chi nhánh, chi nhánh phụ ở nước ngoài*
Các tổ chức tài chính được yêu cầu phải thực hiện các chương trình chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Các tập đoàn tài chính được yêu cầu phải thực hiện các chương trình rộng ở phạm vi tập đoàn về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố; bao gồm các chính sách và quy trình chia sẻ thông tin trong tập đoàn với mục đích chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố.
Các tổ chức tài chính phải đảm bảo các chi nhánh và chi nhánh phụ ở nước ngoài cũng áp dụng các biện pháp AML/CFT phù hợp với các yêu cầu bản địa trong khi thực hiện các Khuyến nghị của FATF thông qua các chương trình chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố của cả tập đoàn tài chính.
19. Các quốc gia có rủi ro cao*
Cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính áp dụng các biện pháp tăng cường cập nhật thông tin khách hàng đối với các mối quan hệ kinh doanh và các giao dịch với các thể nhân, pháp nhân và các tổ chức tài chính đến từ các quốc gia mà FATF yêu cầu thực hiện như vậy. Các biện pháp tăng cường cập nhật thông tin khách hàng được áp dụng phải hiệu quả và tương ứng với những rủi ro đó.
Các quốc gia cần phải được áp dụng các biện pháp trừng phạt thích hợp khi FATF yêu cầu làm như vậy. Các quốc gia có thể áp dụng các biện pháp đối kháng trừng phạt một cách độc lập khi có yêu cầu phải làm như vậy từ FATF. Các biện pháp trừng phạt phải hiệu quả và tương ứng với rủi ro.
BÁO CÁO GIAO DỊCH ĐÁNG NGỜ
20. Báo cáo giao dịch đáng ngờ
Nếu một định chế tài chính nghi ngờ hoặc có những cơ sở hợp lý để nghi ngờ tiền đó là những khoản thu từ hoạt động phạm tội hoặc liên quan đến hoạt động tài trợ khủng bố, thì theo luật, định chế đó phải báo cáo ngay những nghi ngờ của mình cho đơn vị tình báo tài chính (FIU).
21. Tiết lộ và tính bảo mật
Các tổ chức tài chính, các giám đốc và nhân viên cần phải:
(a) Được pháp luật bảo vệ khỏi trách nhiệm hình sự và dân sự khi vi phạm bất cứ sự cấm đoán tiết lộ thông tin theo hợp đồng hay do bất cứ điều khoản luật pháp, quy chế hay hành chính nào khác đặt ra, nếu họ báo cáo những nghi ngờ của mình một cách trung thực cho FIU, thậm chí ngay cả khi họ không biết chính xác hoạt động phạm tội liên quan nào đã xảy ra và không kể đến hoạt động phi pháp thực sự có xảy ra hay không;
(b) Bị pháp luật cấm không cho phép tiết lộ (“tipping-off”) về việc báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR) hoặc thông tin liên quan đang được báo cáo cho FIU.
CÁC TỔ CHỨC, NGÀNH NGHỀ PHI TÀI CHÍNH ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH (DNFBPs)
22. DNFBPs: Cập nhật thông tin khách hàng*
Các yêu cầu về cập nhật thông tin khách hàng và lưu giữ hồ sơ khách hàng được quy định trong các Khuyến nghị 10, 11, 12, 15 và 17 áp dụng đối với các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính chỉ định trong những trường hợp sau:
(a) Các sòng bạc – khi mà các khách hàng tham gia vào các giao dịch tài chính bằng hoặc vượt quá ngưỡng quy định;
(b) Các đại lý bất động sản – khi mà họ tham gia vào các giao dịch cho khách hàng của họ liên quan tới việc mua bán bất động sản;
(c) Các nhà buôn bán kim loại quý và đá quý - khi mà họ tham gia vào bất kỳ giao dịch nào bằng tiền mặt với khách hàng bằng hoặc vượt quá mức quy định;
(d) Các luật sư, công chứng viên, những người hành nghề luật và kế toán viên độc lập khi họ chuẩn bị cho hoặc thực hiện các giao dịch cho khách hàng của mình liên quan đến những hoạt động sau:
· Mua bán bất động sản;
· Quản lý tiền mặt, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng;
· Quản lý các tài khoản ngân hàng, các tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản chứng khoán;
· Tổ chức việc góp vốn để thành lập, điều hành hoặc quản lý các công ty;
· Thành lập, điều hành hoặc quản lý các pháp nhân hoặc các thỏa thuận pháp lý và mua hay bán các doanh nghiệp;
(e) Các nhà cung cấp dịch vụ công ty và tín thác khi chuẩn bị hoặc thực hiện các giao dịch cho khách hàng liên quan đến các hoạt động sau đây:
· Hoạt động với tư cách là đại lý để thành lập pháp nhân;
· Hoạt động với tư cách (hoặc thu xếp để người khác hoạt động với tư cách) là giám đốc hoặc thư kí cho công ty, là đối tác của công ty hợp doanh hoặc một vị trí tương tự trong mối quan hệ với các pháp nhân khác;
· Cung cấp văn phòng, địa chỉ hoặc trụ sở kinh doanh, địa chỉ thư tín, địa chỉ hành chính đã được đăng kí cho công ty, công ty hợp doanh hay bất kì một pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý nào khác;
· Hoạt động (hay thu xếp cho người khác hoạt động) với tư cách là người được ủy thác của một ủy thác nhanh hoặc thực hiện chức năng tương tự cho một dạng khác của thỏa thuận pháp lý;
· Hoạt động (hay thu xếp cho người khác hoạt động) với tư cách là người được chỉ định để nắm giữ cổ phần cho người khác.
23 DNFPB: Các biện pháp khác*
Các yêu cầu nêu trong các Khuyến nghị từ 18 đến 21 áp dụng đối với tất cả các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính được chỉ định, theo các loại hình dưới đây:
(a) Cần phải yêu cầu các luật sư, các công chứng viên, những người hành nghề pháp lý và kế toán viên độc lập báo cáo các giao dịch đáng ngờ, khi họ tham gia vào một giao dịch tài chính cho khách hàng hoặc nhân danh khách hàng mà giao dịch đó liên quan tới các hoạt động được mô tả trong đoạn (d) của Khuyến nghị 22. Đặc biệt khuyến khích các quốc gia mở rộng yêu cầu báo cáo về những hoạt động nghề nghiệp khác còn lại của các kế toán viên, bao gồm cả việc kiểm toán;
(b) Cần phải yêu cầu những người buôn bán kim loại và đá quý báo cáo các giao dịch đáng ngờ khi họ tham gia vào bất kỳ giao dịch bằng tiền mặt với một khách hàng bằng hoặc vượt quá ngưỡng quy định;
(c) Cần phải yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ công ty và tín thác báo cáo các giao dịch đáng ngờ của khách hàng khi họ tham gia vào một giao dịch cho khách hàng hoặc nhân danh khách hàng liên quan đến các hoạt động khác quy định trong đoạn (e) của Khuyến nghị 22.
E. TÍNH MINH BẠCH VÀ CHỦ SỞ HỮU HƯỞNG LỢI CỦA CÁC PHÁP NHÂN VÀ CÁC THỎA THUẬN PHÁP LÝ
24. Tính minh bạch và quyền sở hữu hưởng lợi của các pháp nhân*
Các quốc gia cần đánh giá rủi ro của việc lạm dụng các pháp nhân để rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố, và thực hiện các biện pháp để ngăn chặn việc lạm dụng pháp nhân. Các quốc gia cần đảm bảo có thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về chủ sở hữu hưởng lợi và quyền kiểm soát của các pháp nhân mà các cơ quan có thẩm quyền có thể thu thập hoặc tiếp cận nhanh chóng và hiệu quả, thông qua đăng ký chủ sở hữu hưởng lợi hoặc một cơ chế khác. Các quốc gia không nên cho phép pháp nhân phát hành cổ phiếu vô danh mới hoặc chứng quyền cổ phiếu vô danh, và thực hiện các biện pháp để ngăn chặn việc lạm dụng cổ phiếu vô danh và chứng quyền cổ phiếu vô danh hiện có. Các quốc gia cần thực hiện các biện pháp hiệu quả để đảm bảo rằng các cổ đông và giám đốc danh nghĩa không bị lợi dụng để rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố. Các quốc gia nên xem xét tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin chủ sở hữu hưởng lợi và quyền kiểm soát bởi các tổ chức tài chính và các DNFBP thực hiện các yêu cầu đặt ra trong các Khuyến nghị 10 và 22.
25. Tính minh bạch và quyền sở hữu hưởng lợi của các thỏa thuận pháp lý*
Các quốc gia cần thực hiện các biện pháp để ngăn chặn việc lạm dụng các thỏa thuận pháp lý để rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố. Đặc biệt, các quốc gia cần đảm bảo rằng có thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin về ủy thác nhanh, bao gồm thông tin về người ủy thác, người được ủy thác và người thụ hưởng, có thể được các cơ quan có thẩm quyền thu thập hoặc truy cập kịp thời. Các quốc gia nên xem xét các biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin chủ sở hữu hưởng lợi và quyền kiểm soát bởi các tổ chức tài chính và DNFBPs thực hiện các yêu cầu đặt ra trong các Khuyến nghị 10 và 22
F. QUYỀN LỰC VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN VÀ CÁC BIỆN PHÁP THỂ CHẾ KHÁC
QUẢN LÝ VÀ GIÁM SÁT
26. Quản lý và giám sát đối với tổ chức tài chính *
Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng các tổ chức tài chính chịu sự quản lý, giám sát thích hợp và thực thi các khuyến nghị FATF một cách hiệu quả. Các cơ quan có thẩm quyền hoặc các giám sát viên tài chính cần phải thực hiện các biện pháp quản lý và pháp lý cần thiết để ngăn cản bọn tội phạm và các băng nhóm của chúng nắm giữ hoặc trở thành chủ sở hữu hưởng các quyền lợi quan trọng, quyền kiểm soát của hoặc nắm giữ chức năng quản lý trong một tổ chức tài chính. Các quốc gia cần phải không chấp thuận cho thành lập hay tiếp tục hoạt động của các ngân hàng vỏ bọc.
Đối với các định chế tài chính chịu sự điều chỉnh của các Nguyên tắc Cốt lõi thì các biện pháp quản lý và giám sát được áp dụng cho mục tiêu thận trọng mà phù hợp với vấn đề rửa tiền và tài trợ cho khủng bố thì cần phải được áp dụng theo cách tương tự cho mục tiêu chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.
Các tổ chức tài chính khác phải được cấp phép, đăng ký và quản lý phù hợp, đồng thời chịu sự giám sát hoặc kiểm soát nhằm mục đích chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, có xem xét đến rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố trong lĩnh vực đó. Ít nhất, khi các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ chuyển tiền hay giá trị hoặc chuyển đổi tiền tệ thì cần phải được cấp phép hoặc đăng ký và chịu sự giám sát và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu của quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố bởi các hệ thống hiệu quả.
27. Quyền lực của các cơ quan giám sát
Các cơ quan giám sát phải có đầy đủ quyền lực để giám sát hay kiểm soát và đảm bảo tính tuân thủ của các tổ chức tài chính đối với các yêu cầu về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố, bao gồm cả thẩm quyền tiến hành các cuộc thanh tra. Họ cũng phải có quyền khai thác bất kỳ thông tin nào từ các định chế tài chính phù hợp với việc giám sát tuân thủ và áp dụng các hình phạt phù hợp với Khuyến nghị 35 đối với việc không tuân thủ các yêu cầu. Các giám sát viên cần phải có quyền áp đặt các hình phạt mang tính kỷ luật và tài chính, kể cả quyền rút giấy phép, hạn chế hay đình chỉ giấy phép hoạt động của tổ chức tài chính.
28. Quản lý và giám sát đối với các DNFBPs*
Các tổ chức và ngành nghề phi tài chính được chỉ định cần phải là đối tượng điều chỉnh của các biện pháp quản lý và giám sát dưới đây:
(a) Các sòng bạc cần phải là đối tượng điều chỉnh của một cơ chế quản lý và giám sát toàn diện, đảm bảo rằng các sòng bạc này thực hiện có hiệu quả các biện pháp chống rửa tiền và tài trợ khủng bố cần thiết. Tối thiểu là:
· Các sòng bạc cần phải được cấp phép;
· Các cơ quan có thẩm quyền cần phải thực hiện các biện pháp quản lý và pháp lý cần thiết để ngăn cản tội phạm hoặc các băng nhóm của chúng nắm giữ hoặc trở thành chủ sở hữu hưởng lợi của các lợi ích quan trọng hoặc quyền kiểm soát hoặc chức năng quản lý hay trở thành người điều hành sòng bạc;
· Các cơ quan có thẩm quyền cần phải đảm bảo các sòng bạc được giám sát hiệu quả trong việc tuân thủ các yêu cầu về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
(b) Các quốc gia cần phải đảm bảo các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính chỉ định khác phải là đối tượng điều chỉnh của hệ thống giám sát hiệu quả và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Điều này cần phải được thực hiện trên cơ sở nhạy cảm rủi ro và có thể được thực hiện bởi a) Giám sát viên hay (b) một tổ chức tự quản phù hợp (SRB), với điều kiện là tổ chức này có thể đảm bảo các thành viên của mình tuân thủ đúng các nghĩa vụ chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Các giám sát viên hay tổ chức tự quản phù hợp cũng cần phải (a) tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn không cho các tội phạm hoặc các băng nhóm của chúng được thừa nhận chính thức, hay nắm giữ hoặc trở thành chủ sở hữu hưởng lợi đối với quyền lợi quan trọng hoặc nắm giữ quyền kiểm soát, vai trò quản lý, ví dụ như thông qua việc đánh giá con người trên cơ sở kiểm tra “phù hợp và đúng đắn”; và (b) có những hình phạt thích hợp, hiệu quả và có tính chất răn đe theo Khuyến nghị số 35 nhằm giải quyết việc không tuân thủ các yêu cầu về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố.
THỰC THI PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG
29. Đơn vị tình báo tài chính *
Các quốc gia cần phải thành lập đơn vị tình báo tài chính (FIU) hoạt động như một trung tâm quốc gia để tiếp nhận, phân tích: (a) các báo cáo giao dịch đáng ngờ; và (b) các thông tin khác liên quan đến rửa tiền, các tội phạm nguồn và tài trợ khủng bố và chuyển giao các kết quả phân tích. FIU cần phải được thu thập các thông tin bổ sung từ các tổ chức báo cáo, có quyền truy cập một cách kịp thời các thông tin tài chính, hành chính và thực thi pháp luật mà FIU yêu cầu nhằm thực hiện đúng chức năng của mình.
30. Trách nhiệm của các cơ quan điều tra và thực thi pháp luật *
Các quốc gia cần phải đảm bảo các cơ quan thực thi pháp luật được chỉ định có trách nhiệm điều tra về rửa tiền và tài trợ khủng bố trong khuôn khổ các chính sách quốc gia về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố. Ít nhất, trong tất cả các trường hợp liên quan đến tội phạm phát sinh giá trị tài sản lớn thì những cơ quan thực thi pháp luật được giao nhiệm vụ cần phải chủ động tiến hành điều tra tài chính song song với việc theo đuổi điều tra tội rửa tiền, tài trợ khủng bố và các tội phạm nguồn. Điều này cũng cần phải bao gồm cả các trường hợp khi tội phạm nguồn gắn liền với nó xảy ra bên ngoài quốc gia mình. Các quốc gia cần đảm bảo rằng các cơ quan chức năng có trách nhiệm phải mở rộng nhận dạng, truy tìm và tiến hành phong tỏa và niêm phong tài sản là, hoặc có thể trở thành đối tượng tịch thu hoặc bị nghi ngờ là tài sản có được từ tội phạm. Các quốc gia cũng cần phải sử dụng, khi cần thiết, các nhóm biện pháp hành chính đa dạng tạm thời hoặc lâu dài chuyên được sử dụng trong các cuộc điều tra về tài chính hoặc về tài sản. Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng, khi cần thiết, có thể phối hợp điều tra với các cơ quan chức năng có thẩm quyền ở các quốc gia khác.
31. Quyền lực của các cơ quan điều tra và thực thi pháp luật
Khi tiến hành các cuộc điều tra rửa tiền, tài trợ khủng bố và các tội phạm nguồn, các cơ quan có thẩm quyền cần phải có khả năng tiếp cận tất cả các tài liệu và thông tin cần thiết để sử dụng trong các cuộc điều tra này, trong việc khởi tố và các hoạt động liên quan. Điều này bao gồm quyền sử dụng các biện pháp bắt buộc in các hồ sơ tài liệu được các tổ chức tài chính, DNFBPs, cá nhân hay pháp nhân khác lưu giữ, khám xét người và trụ sở lấy lời khai nhân chứng và niêm phong.
Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng các cơ quan chức năng tiến hành điều tra có thể sử dụng nhiều kỹ thuật điều tra khác nhau phù hợp với điều tra về rửa tiền, các tội phạm nguồn gắn với rửa tiền và tài trợ khủng bố. Những kỹ thuật điều tra này bao gồm: Các hoạt động đặc tình, nghe lén các cuộc liên lạc, truy cập hệ thống máy tính và thả lỏng có kiểm soát. Ngoài ra, các quốc gia cần phải có sẵn các cơ chế hiệu quả để xác định kịp thời liệu một cá nhân hoặc pháp nhân có giữ hay kiểm soát các tài khoản hay không. Các quốc gia cũng cần phải có các cơ chế nhằm đảm bảo rằng các cơ quan chức năng có quy trình xác định tài sản mà không cần báo trước cho chủ sở hữu. Khi tiến hành điều tra về rửa tiền, tài trợ khủng bố và các tội phạm nguồn gắn với chúng, các cơ quan chức năng cần phải được quyền yêu cầu tất cả các thông tin liên quan do FIU nắm giữ.
32. Vận chuyển tiền mặt *
Các quốc gia cần phải có sẵn các biện pháp nhằm phát hiện các hoạt động vận chuyển tiền và công cụ có thể chuyển nhượng không ghi danh qua biên giới, bao gồm cả qua hệ thống khai báo và/hoặc hệ thống công khai khác.
Các quốc gia cần phải đảm bảo các cơ quan chức năng của họ có thẩm quyền ngăn chặn hoặc giữ tiền hoặc các công cụ có thể chuyển nhượng không ghi danh bị nghi ngờ liên quan đến tài trợ khủng bố, rửa tiền hoặc các tội phạm nguồn khác hoặc khai man, công bố không chính xác.
Các quốc gia cần phải đảm bảo luôn có các hình phạt hiệu quả, thích hợp và mang tính răn đe để xử lý những người đã khai man hoặc công bố không chính xác. Trong trường hợp tiền hoặc các công cụ có thể chuyển nhượng không ghi danh có liên quan đến tài trợ khủng bố, rửa tiền hay các tội phạm nguồn, các quốc gia cũng cần phải thông qua các biện pháp, bao gồm các biện pháp pháp lý phù hợp với Khuyến nghị số 4, cho phép tịch thu tiền hay các công cụ đó.
CÁC YÊU CẦU CHUNG
33. Thống kê
Các quốc gia cần phải duy trì các số liệu thống kê hoàn chỉnh về các vấn đề liên quan đến tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống chống rửa tiền/chống tài trợ khủng bố. Nó bao gồm cả số liệu về các giao dịch đáng ngờ đã nhận được và đã chuyển giao; về điều tra, truy tố, xét xử rửa tiền và tài trợ khủng bố; về tài sản đã phong tỏa, niêm phong tịch thu; về hỗ trợ pháp lý đa phương hay các yêu cầu hợp tác quốc tế khác.
34. Hướng dẫn và phản hồi
Các cơ quan chức năng, các giám sát viên và các tổ chức tự quản (SRBs) cần phải xây dựng các hướng dẫn và cung cấp phản hồi hỗ trợ cho các tổ chức tài chính và các DNFBPs trong việc áp dụng các biện pháp chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố của quốc gia và đặc biệt trong việc phát hiện và báo cáo các giao dịch đáng ngờ.
CÁC HÌNH PHẠT
35. Các hình phạt
Các quốc gia cần phải đảm bảo có khung hình phạt hiệu quả, thích hợp và mang tính răn đe đủ rộng, cho dù đó là hình sự, dân sự hay hành chính, để xử lý đối với các pháp nhân và cá nhân được nêu trong các Khuyến nghị số 6, 8, 23 khi không tuân thủ các yêu cầu về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố. Các hình phạt cần phải được áp dụng không chỉ đối với các tổ chức tài chính, các DNFBPs mà còn áp dụng đối với các giám đốc và ban quản lý cao cấp của những tổ chức này.
G. HỢP TÁC QUỐC TẾ
36. Các công cụ quốc tế
Các quốc gia cần phải tiến hành ngay các bước để trở thành thành viên và thực hiện đầy đủ Công ước Viên năm 1988, Công ước Palecmo năm 2000, Công ước Chống tham nhũng của Liên hợp quốc năm 2003 và Công ước chống Tài trợ khủng bố năm 1999. Khi có thể, các quốc gia cũng được khuyến khích phê chuẩn và thực hiện các công ước quốc tế liên quan khác, như Công ước của Ủy ban Châu Âu về tội phạm máy tính năm 2001, Công ước Liên Mỹ về chống khủng bố năm 2002 và Công ước năm 2005 của Ủy ban Châu Âu về rửa tiền, truy tìm, niêm phong và tịch thu tài sản có được từ tội phạm và về tài trợ khủng bố.
37. Hỗ trợ pháp lý đa phương
Các quốc gia cần phải cung cấp phạm vi hỗ trợ pháp lý đa phương rộng nhất có thể một cách nhanh chóng, hiệu quả và mang tính xây dựng trong việc điều tra, truy tố và các quá trình tố tụng khác có liên quan đến rửa tiền, tội phạm nguồn gắn với rửa tiền và tài trợ khủng bố. Các quốc gia cần phải có cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc hỗ trợ và khi thích hợp, cần phải có các hiệp định, thỏa thuận hoặc các cơ chế khác nhằm thúc đẩy hợp tác. Đặc biệt, các quốc gia cần phải:
(a) Không ngăn cấm hay đưa ra các điều kiện hạn chế không hợp lý và không thỏa đáng về việc cung cấp hỗ trợ pháp lý đa phương;
(b) Đảm bảo có các quy trình rõ ràng và có hiệu quả ưu tiên về mặt thời gian và thực hiện những yêu cầu hỗ trợ pháp lý đa phương. Các quốc gia cần phải sử dụng một cơ quan trung ương hoặc một bộ phận khác chính thức được thành lập để tiến hành chuyển giao và thực hiện một cách hiệu quả các yêu cầu. Để kiểm soát tiến độ thực hiện các yêu cầu, một hệ thống quản lý vụ việc cần phải được duy trì.
(c) Không từ chối thực hiện yêu cầu hỗ trợ pháp lý đa phương chỉ dựa trên cơ sở duy nhất rằng tội phạm đó được xem là có liên quan tới các vấn đề ngân sách;
(d) Không từ chối thực hiện yêu cầu hỗ trợ pháp lý đa phương dựa trên cơ sở luật yêu cầu các định chế tài chính phải duy trì chế độ bảo mật hoặc bí mật thông tin.
(e) Đảm bảo giữ bí mật đối với các yêu cầu tương trợ tư pháp mà họ nhận được cũng như những thông tin chứa đựng trong đó, tùy thuộc vào những nguyên tắc cơ bản của luật trong nước; nhằm bảo vệ tính toàn vẹn của cuộc điều tra và thẩm tra. Nếu quốc gia được yêu cầu không thể tuân thủ yêu cầu về bảo mật, quốc gia đó cần phải thông báo ngay lập tức đến quốc gia yêu cầu.
Các quốc gia cần phải khởi động hỗ trợ pháp lý đa phương, mặc dù thiếu tính song trùng tội phạm, nếu như sự trợ giúp không bao gồm các hành động ép buộc. Các quốc gia cần phải xem xét việc thông qua những biện pháp cần thiết nhằm tạo điều kiện cho họ cung cấp sự hỗ trợ với phạm vi rộng khi thiếu tính song trùng tội phạm.
Khi có yêu cầu yếu tố song trùng tội phạm trong hỗ trợ pháp lý đa phương, thì yêu cầu đó cần phải được cho là đã đáp ứng, bất kể việc cả hai nước có xếp tội phạm đó trong cùng một nhóm tội phạm hay gọi tên tội phạm đó cùng một thuật ngữ hay không, với điều kiện là cả hai nước đều hình sự hóa hành vi thực hiện tội phạm nguồn này.
Các quốc gia cần đảm bảo quyền hạn và các kỹ thuật điều tra theo yêu cầu tại Khuyến nghị 31 và bất kỳ quyền hạn và các kỹ thuật điều tra nào khác được trao cho các cơ quan chức năng của những quốc gia này:
(a) Tất cả các quyền hạn, kỹ thuật điều tra liên quan đến việc in ra, tìm kiếm và niêm phong thông tin, tài liệu hoặc chứng cứ (bao gồm ghi sổ tài chính) từ các tổ chức tài chính hoặc các cá nhân khác; và việc lấy lời khai nhân chứng;
(b) Phạm vi rộng của các quyền hạn và kỹ thuật điều tra khác;
Phải sẵn sàng được sử dụng để trả lời cho những yêu cầu hỗ trợ pháp lý đa phương và nếu phù hợp với khuôn khổ pháp luật trong nước, đáp ứng được các yêu cầu trực tiếp từ các cơ quan thực thi pháp luật hoặc tư pháp nước ngoài đối với các cơ quan tương ứng trong nước.
Để tránh các xung đột về thẩm quyền, cần phải cân nhắc thiết lập và áp dụng các cơ chế để xác định nơi tốt nhất cho việc tiến hành truy tố các bị cáo nhằm đảm bảo công bằng trong trường hợp khi việc truy tố phải tiến hành không chỉ ở một nước.
Khi đưa ra yêu cầu hỗ trợ pháp lý đa phương, các quốc gia cần phải nỗ lực hết sức để cung cấp các thông tin vụ việc và pháp lý một cách đầy đủ, tạo điều kiện cho việc thực hiện các yêu cầu kịp thời và hiệu quả, bao gồm bất cứ yêu nhu cầu khẩn cấp nào và cần phải gửi yêu cầu bằng các phương tiện nhanh chóng. Trước khi gửi yêu cầu, các quốc gia cần phải nỗ lực hết sức để xác định các yêu cầu pháp lý và các thủ tục để nhận được sự hỗ trợ.
Các cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ pháp lý đa phương (ví dụ như: cơ quan trung ương) cần được cung cấp đầy đủ về nguồn nhân lực, tài chính và kỹ thuật. Các quốc gia cần phải có sẵn các quy trình để đảm bảo rằng đội ngũ nhân viên của những cơ quan như vậy duy trì được các chuẩn mực nghề nghiệp cao, bao gồm các chuẩn mực liên quan đến bảo mật và phải là người có tính cộng đồng cao và có kỹ năng phù hợp.
38. Hỗ trợ pháp lý đa phương: phong tỏa và tịch thu*
Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng họ có cơ quan để tiến hành các hành động khẩn trương đáp ứng các yêu cầu của các quốc gia khác về nhận dạng, phong tỏa, niêm phong và tịch thu tài sản đã được rửa, các khoản thu từ rửa tiền, các tội phạm nguồn và tài trợ khủng bố; các công cụ được sử dụng hoặc định sử dụng để thực hiện các tội phạm này, hoặc tài sản có giá trị tương đương. Cơ quan này cũng cần phải được phản hồi lại các yêu cầu đưa ra dựa trên cơ sở của quy trình tịch thu không trên cơ sở kết án (non-conviction-based confiscation) và các biện pháp tạm thời có liên quan, trừ khi việc này không thống nhất với những nguyên tắc cơ bản của luật trong nước. Các quốc gia cũng cần có các cơ chế để quản lý hiệu quả tài sản, công cụ hay tài sản có giá trị tương đương và các thỏa thuận để phối hợp trong các quy trình niêm phong, tịch thu, nên bao gồm cả việc phân chia tài sản bị tịch thu.
39. Dẫn độ
Các quốc gia cần phải thực hiện không chậm trễ, hiệu quả và có tính xây dựng các yêu cầu dẫn độ liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố. Các quốc gia cũng cần phải tiến hành tất cả các biện pháp có thể để đảm bảo họ không cung cấp nơi ẩn náu an toàn cho các cá nhân bị buộc tội tài trợ khủng bố, khủng bố hoặc cho các tổ chức khủng bố.
Cụ thể, các quốc gia cần phải:
(a) Đảm bảo rửa tiền và tài trợ khủng bố là những tội phạm có thể dẫn độ.
(b) Đảm bảo có các quy trình rõ ràng và hiệu quả để thực hiện kịp thời các yêu cầu dẫn độ bao gồm cả yêu cầu ưu tiên khi phù hợp. Để quản lý tiến độ các yêu cầu, một hệ thống quản lý vụ việc cần phải được duy trì.
(c) Không đưa ra các điều kiện hạn chế không hợp lý hoặc không chính đáng đối với các yêu cầu dẫn độ;
(d) Đảm bảo có khung pháp lý đầy đủ cho dẫn độ.
Mỗi quốc gia cần phải hoặc dẫn độ công dân nước mình hoặc nếu một quốc gia không thực hiện việc đó chỉ đơn thuần vì lí do quốc tịch, thì quốc gia đó, theo yêu cầu của quốc gia đề nghị dẫn độ, phải không chậm trễ đệ trình vụ việc cho các cơ quan chức năng của mình với mục tiêu truy tố tội phạm nêu trong yêu cầu. Những cơ quan này cần phải đưa ra quyết định và tiến hành các thủ tục tố tụng như đối với bất kì tội phạm nghiêm trọng nào khác theo quy định của luật pháp ở quốc gia đó. Các quốc gia có liên quan cần phải phối hợp với nhau, đặc biệt là trên các khía cạnh về thủ tục và chứng cứ, để đảm bảo tính hiệu quả của những vụ truy tố đó.
Trong trường hợp có yêu cầu về song trùng tội phạm trong dẫn độ, yêu cầu đó cần phải được cho là đáp ứng được, bất kể việc cả hai nước đưa tội phạm đó vào cùng một nhóm tội phạm hay gọi tên tội phạm đó cùng một thuật ngữ hay không, với điều kiện là cả hai nước đều hình sự hóa hành vi thực hiện tội phạm nguồn này.
Phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước, các quốc gia cần phải có cơ chế dẫn độ đơn giản hóa như cho phép chuyển giao trực tiếp các yêu cầu tạm giữ giữa các cơ quan thích hợp, dẫn độ các cá nhân chỉ căn cứ vào lệnh bắt giữ hoặc phán quyết của tòa án hoặc thực hiện dẫn độ đơn giản hóa đối với những người đồng ý không áp dụng các thủ tục dẫn độ chính thức.
Các cơ quan có trách nhiệm trong việc dẫn độ cần phải được cung cấp đầy đủ các nguồn lực về tài chính, nhân lực và kỹ thuật. Các quốc gia cần phải có sẵn các quy trình để đảm bảo nhân viên của các cơ quan này luôn có được tiêu chuẩn trình độ nghiệp vụ cao, bao gồm cả những tiêu chuẩn liên quan đến tính bảo mật và cần phải có những người có tính cộng đồng cao và có kỹ năng phù hợp.
40. Các hình thức hợp tác quốc tế khác *
Các quốc gia cần phải đảm bảo các cơ quan chức năng của họ có thể cung cấp một cách nhanh chóng, hiệu quả và có tính xây dựng phạm vi hợp tác quốc tế rộng nhất liên quan đến rửa tiền, tội phạm nguồn và tài trợ khủng bố. Các quốc gia cần phải làm như vậy cả tự nguyện và theo yêu cầu, và cần phải có cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc tiến hành hợp tác. Các quốc gia cần phải ủy quyền cho các cơ quan chức năng của mình sử dụng các biện pháp hợp tác hữu hiệu nhất. Nếu một cơ quan chức năng cần các hiệp định hay thỏa thuận song phương hay đa phương như Bản ghi nhớ (MOU), thì chúng cần phải được đàm phán và ký kết một cách kịp thời với phạm vi nhiều nhất các cơ quan đối tác nước ngoài.
Các cơ quan chức năng cần phải sử dụng các kênh và cơ chế rõ ràng để chuyển giao và thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin hoặc các loại hình hỗ trợ khác một cách hiệu quả. Các cơ quan chức năng cần phải có quy trình rõ ràng và hiệu quả cho những ưu tiên, việc thực hiện kịp thời các yêu cầu và việc bảo vệ thông tin nhận được.
CHÚ GIẢI KHUYẾN NGHỊ CỦA FATF
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 1 (ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TRÊN CƠ SỞ RỦI RO)
1. Phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro (RBA) là một cách hiệu quả để chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố. Khi quyết định thực hiện RBA như thế nào trong một ngành, các quốc gia cần phải cân nhắc khả năng và kinh nghiệm chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố của ngành liên quan đó. Các quốc gia cần phải hiểu rằng quyền tự quyết định và trách nhiệm của các tổ chức tài chính và các tổ chức, ngành nghề phi tài chính chỉ định (DNFBP) theo RBA sẽ thích hợp hơn trong các ngành có khả năng và kinh nghiệm cao hơn về AML/CFT. Điều này không phải là miễn cho các tổ chức tài chính và DNFBP khỏi yêu cầu áp dụng các biện pháp tăng cường khi họ nhận thấy những trường hợp có rủi ro cao hơn. Bằng việc áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro, các cơ quan chức năng, các tổ chức tài chính và DNFBP cần phải đảm bảo rằng các biện pháp để ngăn ngừa hay loại trừ rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố là tương thích với rủi ro được xác định và tạo điều kiện cho họ quyết định làm thế nào để phân bổ nguồn lực của họ theo cách hiệu quả nhất.
2. Khi thực hiện RBA, các tổ chức tài chính và DNFBP cần phải sẵn có các quy trình nhằm xác định, đánh giá, kiểm soát, quản lý và loại trừ các rủi ro ML/TF. Nguyên tắc chung của RBA là nơi nào có rủi ro cao hơn thì các quốc gia cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện các biện pháp tăng cường để quản lý và loại trừ những rủi ro đó; và tương tự, nơi nào rủi ro thấp hơn thì có thể cho phép áp dụng các biện pháp đơn giản hóa. Các biện pháp đơn giản hóa không được phép thực hiện khi có bất cứ nghi ngờ về rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố. Những khuyến nghị cụ thể đưa ra chính xác hơn làm thế nào nguyên tắc chung này được áp dụng cho những yêu cầu đặc biệt. Các quốc gia cũng có thể trong một số tình huống hy hữu và nơi đã chứng minh được là có rủi ro ML/FT thấp, quyết định không áp dụng các khuyến nghị này đối với loại hình hoạt động hoặc tổ chức tài chính hoặc DNFBP cụ thể (xem dưới đây). Cũng như vậy, nếu các quốc gia xác định thông qua những đợt đánh giá rủi ro của họ rằng có các loại hình tổ chức, các hoạt động, ngành nghề kinh doanh hoặc ngành nghề nào mà có rủi ro bị lạm dụng để ML/TF và loại hình đó lại không nằm trong định nghĩa về tổ chức tài chính hoặc DNFBP, thì họ cần phải cân nhắc áp dụng các yêu cầu AML/CFT cho loại hình như vậy.
ĐÁNH GIÁ RỦI RO TTPBVK VÀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP RỦI RO
3. Theo nội dung của Khuyến nghị 1, “rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt” đề cập một cách chặt chẽ và chỉ nhằm chỉ khả năng vi phạm, không thực hiện hoặc trốn tránh các nghĩa vụ trừng phạt tài chính mục tiêu được đề cập trong Khuyến nghị 7
[2]. Các nghĩa vụ được nêu trong Khuyến nghị 7 này đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt đối với tất cả các thể nhân và pháp nhân, không dựa trên rủi ro. Trong bối cảnh rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, các biện pháp dựa trên rủi ro của các tổ chức tài chính và các DNFBP tìm cách củng cố và bổ sung cho việc thực hiện đầy đủ các yêu cầu chặt chẽ của Khuyến nghị 7, bằng cách phát hiện và ngăn chặn việc không thực hiện, vi phạm tiềm ẩn hoặc trốn tránh các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu. Khi xác định các biện pháp để giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong một lĩnh vực, các quốc gia nên xem xét các rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt liên quan đến lĩnh vực liên quan. Bằng cách áp dụng các biện pháp dựa trên cơ sở rủi ro, các cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức tài chính và DNFBP sẽ có thể đảm bảo rằng các biện pháp này tương xứng với các rủi ro đã được xác định và điều đó sẽ cho phép họ đưa ra quyết định về cách phân bổ nguồn lực của mình theo cách hiệu quả nhất.
4. Các tổ chức tài chính và DNFBP cần có các quy trình để xác định, đánh giá, giám sát, quản lý và giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
[3]. Việc này có thể được thực hiện trong khuôn khổ các chương trình tuân thủ và/hoặc chương trình trừng phạt tài chính mục tiêu hiện có của các quốc gia. Các quốc gia cần đảm bảo thực hiện đầy đủ Khuyến nghị 7 trong mọi tình huống rủi ro. Ở những nơi có rủi ro cao hơn, các quốc gia cần yêu cầu các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện các biện pháp tương xứng để quản lý và giảm thiểu rủi ro. Trường hợp rủi ro thấp hơn, họ phải đảm bảo rằng các biện pháp được áp dụng tương xứng với mức độ rủi ro, đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu theo yêu cầu của Khuyến nghị 7.
A. Các nghĩa vụ và các quyết định cho các quốc gia
Rủi ro RT/TTKB
5.
Đánh giá rủi ro – Các quốc gia
[4] cần phải tiến hành các bước thích hợp để xác định và đánh giá rủi ro ML/TF cho quốc gia đó trên cơ sở liên tục và nhằm: (i) thông báo dự định thay đổi về cơ chế AML/CFT của quốc gia, bao gồm các thay đổi đối với pháp luật, quy chế và các biện pháp khác; (ii) hỗ trợ trong việc phân bổ và ưu tiên các nguồn lực AML/CFT cho các cơ quan chức năng; (iii) cung cấp thông tin cho các đánh giá rủi ro AML/CFT được thực hiện bởi các tổ chức tài chính và DNBFP. Các quốc gia cần phải cập nhật những đánh giá và cần phải có các cơ chế để cung cấp thông tin thích hợp về kết quả cho các cơ quan chức năng, các tổ chức tự quản (SRO), tổ chức tài chính và DNBFP liên quan.
6. Rủi ro cao hơn – Khi các quốc gia xác định rủi ro cao hơn, họ cần phải đảm bảo cơ chế AML/CFT của họ đã hướng tới các rủi ro cao hơn này và không làm tổn hại đến bất kỳ biện pháp nào được quốc gia đó áp dụng để loại trừ các rủi ro cao hơn đó hoặc là ra lệnh cho các tổ chức tài chính và DNFBP phải thực hiện các biện pháp tăng cường để quản lý và loại trừ các rủi ro hoặc đảm bảo thông tin này được đưa vào trong các đánh giá rủi ro được thực hiện bởi tổ chức tài chính và DNFBP, nhằm quản lý và loại trừ rủi ro một cách thích hợp. Khi các Khuyến nghị của FATF xác định các hoạt động có mức độ rủi ro cao hơn đòi hỏi phải có các biện pháp tăng cường hoặc cụ thể, thì tất cả các biện pháp như vậy phải được áp dụng mặc dù mức độ của các biện pháp như vậy có thể khác nhau tùy theo từng mức độ rủi ro cụ thể.
7. Rủi ro thấp hơn – Các quốc gia có thể quyết định cho phép áp dụng các biện pháp đơn giản hóa đối với một vài Khuyến nghị của FATF, yêu cầu các tổ chức tài chính hoặc DNFBP thực hiện những hành động nhất định, miễn là rủi ro thấp hơn đã được xác định và điều này phù hợp với các đánh giá của quốc gia đó về rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố như đề cập tại đoạn 3.
Không phụ thuộc vào bất cứ quyết định nào trong việc xác định cụ thể các hạng mục có rủi ro thấp hơn phù hợp với đoạn trên, các quốc gia cũng có thể cho phép các tổ chức tài chính và DNFBP áp dụng các biện pháp CDD đơn giản hóa, miễn là các yêu cầu nêu trong mục B “Các nghĩa vụ và quyết định đối với các tổ chức tài chính và DNBFP” và trong đoạn 7 dưới đây đã được đáp ứng
8. Các ngoại lệ - Các quốc gia có thể quyết định không áp dụng một số Khuyến nghị của FATF yêu cầu các tổ chức tài chính hoặc DNBFP thực hiện những hành động nhất định, với điều kiện:
(a) Mức rủi ro thấp về rửa tiền và tài trợ khủng bố đã được chứng minh; các trường hợp này là hạn chế và đã được xác thực; liên quan đến một loại hình của tổ chức tài chính, hoạt động hoặc DNFBP cụ thể; hoặc
(b) Một hoạt động tài chính (trừ hoạt động chuyển tiền hoặc giá trị) được thực hiện bởi một thể nhân hoặc một pháp nhân vãng lai hoặc trên cơ sở rất hạn chế (có tính đến tiêu chí cụ thể và định lượng), chẳng hạn như rủi ro thấp về rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Cho dù các thông tin thu thập được có thể thay đổi theo mức độ rủi ro, thì các yêu cầu của Khuyến nghị số 11 về lưu giữ thông tin cần phải áp dụng cho bất cứ thông tin nào được thu thập.
9. Giám sát và kiểm soát rủi ro – Các giám sát viên (hoặc SRB đối với các khu vực DNBFP liên quan) cần phải bảo đảm rằng các tổ chức tài chính và DNBFP đang thực hiện hiệu quả các nghĩa vụ được nêu dưới đây. Khi thực hiện chức năng này, các giám sát viên và SRB cần phải làm theo như yêu cầu phù hợp với Chú giải cho Khuyến nghị số 26 và 28, rà soát hồ sơ rủi ro về ML/TF và những đánh giá rủi ro do chính các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện và chú ý tới kết quả của việc rà soát này.
Rủi ro TTPBVK
10. Đánh giá rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
- Các quốc gia
[5] cần tiến hành các bước thích hợp để xác định và đánh giá các rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt đối với quốc gia, trên cơ sở liên tục và để: (i) thông báo về những thay đổi tiềm năng đối với cơ chế chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của quốc gia, bao gồm cả những thay đổi về luật, quy định và các biện pháp khác; (ii) hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền phân bổ và ưu tiên các nguồn lực chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; và (iii) cung cấp thông tin cho các đánh giá rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt do các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện. Các quốc gia cần cập nhật các đánh giá và cần có cơ chế cung cấp thông tin kết quả phù hợp cho tất cả các cơ quan có thẩm quyền liên quan và SRB, các tổ chức tài chính và DNFBP.
11. Giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
Các quốc gia cần thực hiện các bước thích hợp để quản lý và giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến mà họ xác định được. Các quốc gia cần tăng cường kiến thức, hiểu biết về các phương thức vi phạm tiềm ẩn, trốn tránh và không thực hiện các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu hiện có ở quốc gia mình mà có thể được chia sẻ giữa các cơ quan có thẩm quyền và với khu vực tư nhân. Các quốc gia cần đảm bảo rằng các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện các bước để xác định các trường hợp có thể dẫn đến rủi ro cao hơn và đảm bảo rằng cơ chế chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của họ giải quyết được các rủi ro này. Các quốc gia cần đảm bảo thực hiện đầy đủ Khuyến nghị 7 trong mọi tình huống rủi ro. Ở những nơi có rủi ro cao hơn, các quốc gia cần yêu cầu các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện các biện pháp tương xứng để quản lý và giảm thiểu những rủi ro này. Tương ứng, khi rủi ro thấp hơn, họ phải đảm bảo rằng các biện pháp được áp dụng tương xứng với mức độ rủi ro, trong khi vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu theo yêu cầu của Khuyến nghị 7.
B. NGHĨA VỤ VÀ QUYẾT ĐỊNH CHO CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VÀ DNFBPS
Rủi ro RT/TTKB
12. Đánh giá rủi ro RT/TTKB – Các tổ chức tài chính và DNFBP cần phải được yêu cầu thực hiện các bước cần thiết để nhận dạng và đánh giá rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố của họ (đối với khách hàng, các quốc gia hoặc khu vực địa lý và các sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc kênh phân phối). Họ cần phải lập hồ sơ cho những đánh giá này để có thể chứng minh cho cơ sở của các đánh giá đó và cập nhật những đánh giá này và có những cơ chế phù hợp nhằm cung cấp những thông tin đánh giá rủi ro cho các cơ quan chức năng và SRB. Bản chất và phạm vi của bất kỳ cuộc đánh giá rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố nào cũng cần phải phù hợp với bản chất và quy mô hoạt động kinh doanh. Các tổ chức tài chính và DNFPB cần phải luôn hiểu về những rủi ro ML/TF của mình, nhưng các cơ quan chức năng hay SRB có thể quyết định không cần yêu cầu những đánh giá rủi ro cụ thể phải lập hồ sơ nếu như những rủi ro cụ thể tiềm ẩn trong khu vực đó đã được xác định và hiểu rõ.
13. Quản lý và giảm thiểu rủi ro – Các tổ chức tài chính và DNFBP buộc phải có chính sách, kiểm toán và quy trình cho phép quản lý và loại trừ những rủi ro đã được xác định (bởi quốc gia, tổ chức tài chính hoặc DNFBP) một cách hiệu quả. Cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính và DNFBP kiểm soát việc thực hiện kiểm toán và tăng cường hơn nếu cần thiết. Các chính sách, kiểm toán và quy trình cần phải được chấp thuận bởi quản lý cấp cao và các biện pháp được thực hiện nhằm quản lý và loại trừ rủi ro (cho dù là cao hay thấp) cần phải phù hợp với các yêu cầu của quốc gia cũng như hướng dẫn của cơ quan chức năng và SRB.
14. Rủi ro cao hơn – Khi xác định rủi ro cao, các tổ chức tài chính và DNFBP cần phải thực hiện các biện pháp tăng cường nhằm quản lý và loại trừ những rủi ro đó.
15. Rủi ro thấp hơn – Nơi rủi ro thấp hơn được xác định, các quốc gia có thể cho phép các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện các biện pháp đơn giản hóa nhằm quản lý và loại trừ những rủi ro đó.
16. Khi đánh giá rủi ro, các tổ chức tài chính và DNFBP cần phải xem xét tất cả các yếu tố rủi ro có liên quan trước khi xác định mức độ rủi ro tổng thể và mức độ loại trừ phù hợp được áp dụng. Các tổ chức tài chính và DNFBP có thể phân biệt mức độ của các biện pháp phụ thuộc vào loại và mức độ rủi ro cho các yếu tố rủi ro khác nhau (ví dụ như trong một tình huống cụ thể, họ có thể áp dụng CDD thông thường đối với các biện pháp chấp nhận khách hàng, nhưng lại áp dụng CDD tăng cường trong việc kiểm soát thường xuyên hoặc ngược lại).
17. Các tổ chức tài chính và DNFBP cần được yêu cầu thực hiện các bước thích hợp, để xác định và đánh giá rủi ro tài trợ tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của mình. Việc này có thể được thực hiện trong khuôn khổ các chương trình trừng phạt và/hoặc tuân thủ tài chính mục tiêu hiện có. Các tổ chức này phải ghi nhận các đánh giá đó để có thể chứng minh cơ sở đánh giá của mình, cập nhật các đánh giá này và có cơ chế thích hợp để cung cấp thông tin đánh giá rủi ro cho các cơ quan có thẩm quyền và SRB. Bản chất và mức độ của bất kỳ đánh giá nào về rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt phải phù hợp với bản chất và quy mô của doanh nghiệp. Các tổ chức tài chính và DNFBP phải luôn hiểu rõ rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của họ, nhưng các cơ quan có thẩm quyền hoặc SRB có thể xác định rằng không cần đánh giá rủi ro riêng lẻ nếu các rủi ro cụ thể vốn có đối với lĩnh vực đã được xác định và hiểu rõ ràng.
18. Giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
Các tổ chức tài chính và DNFBP cần có các chính sách, kiểm soát và thủ tục để quản lý và giảm thiểu hiệu quả các rủi ro đã được xác định. Điều này có thể được thực hiện trong khuôn khổ các chương trình trừng phạt và/hoặc tuân thủ tài chính có mục tiêu hiện có của tổ chức. Họ phải được yêu cầu giám sát việc thực hiện các kiểm soát đó và cải tiến chúng, nếu cần. Các chính sách, kiểm soát và thủ tục cần được ban lãnh đạo cấp cao phê duyệt và các biện pháp được thực hiện để quản lý và giảm thiểu rủi ro (dù cao hơn hay thấp hơn) phải phù hợp với các yêu cầu quốc gia và với hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền và SRB. Các quốc gia cần đảm bảo thực hiện đầy đủ Khuyến nghị 7 trong mọi tình huống rủi ro. Ở những nơi có rủi ro cao hơn, các quốc gia nên yêu cầu các tổ chức tài chính và DNFBP thực hiện các biện pháp tương xứng để quản lý và giảm thiểu rủi ro (tức là áp dụng các biện pháp kiểm soát nâng cao nhằm phát hiện các vi phạm có thể xảy ra, việc không thực hiện hoặc trốn tránh các biện pháp trừng phạt tài chính có mục tiêu theo Khuyến nghị 7). Tương ứng, khi rủi ro thấp hơn, họ phải đảm bảo rằng các biện pháp đó tương xứng với mức độ rủi ro, trong khi vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu theo yêu cầu của Khuyến nghị 7.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 02 (HỢP TÁC VÀ ĐIỀU PHỐI TRONG NƯỚC)
1. Các quốc gia cần thiết lập khuôn khổ liên cơ quan thích hợp để hợp tác và phối hợp về phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Có thể sử dụng một khuôn khổ duy nhất hoặc từng khuôn khổ khác nhau cho rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt một cách tương ứng.
2. Các khuôn khổ như trên phải được dẫn dắt bởi một hoặc nhiều cơ quan được chỉ định, hoặc một cơ chế thiết lập chính sách quốc gia nhằm đảm bảo sự hợp tác và phối hợp giữa tất cả các cơ quan có liên quan.
3. Các khuôn khổ liên cơ quan phải bao gồm các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Tùy thuộc vào tổ chức quốc gia về chức năng, các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến các khuôn khổ trên bao gồm:
a) Các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ (ví dụ: tài chính, công thương và thương mại, nội vụ, tư pháp và ngoại giao);
b) Cơ quan thực thi pháp luật, thu hồi tài sản và truy tố;
c) Đơn vị tình báo tài chính;
d) Cơ quan an ninh và tình báo;
e) Cơ quan hải quan, cửa khẩu;
f) Cơ quan giám sát và các cơ quan tự quản lý;
g) Cơ quan thuế;
h) Cơ quan quản lý xuất nhập khẩu;
i) Đăng ký công ty và địa chỉ, đăng ký quyền sở hữu có lợi; và
j) Các cơ quan khác, nếu có liên quan.
4. Các quốc gia cần đảm bảo rằng có cơ chế cho phép hợp tác hoạt động hiệu quả và khi thích hợp, điều phối và chia sẻ kịp thời các thông tin liên quan trong nước giữa các cơ quan có thẩm quyền cho các mục đích hoạt động liên quan đến phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt cả chủ động và theo yêu cầu. Các cơ chế có thể bao gồm: (a) các biện pháp để làm rõ vai trò, nhu cầu thông tin và nguồn thông tin của từng cơ quan có thẩm quyền; (b) các biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho dòng thông tin kịp thời giữa các cơ quan có liên quan (ví dụ: các định dạng tiêu chuẩn và các kênh an toàn), và (c) các cơ chế thiết thực để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc giữa các cơ quan (ví dụ: các nhóm chung hoặc các nền tảng dữ liệu được chia sẻ).
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 03 (TỘI RỬA TIỀN)
1. Các quốc gia cần phải hình sự hóa rửa tiền trên cơ sở Công ước Liên hợp quốc năm 1988 về chống buôn bán, vận chuyển bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần (Công ước Viên) và Công ước Liên hợp quốc năm 2000 về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo).
2. Các quốc gia cần phải áp dụng tội phạm rửa tiền cho tất cả các tội nghiêm trọng, với quan điểm đưa vào phạm vi rộng nhất các tội phạm nguồn. Các tội phạm nguồn này có thể được mô tả bằng cách dẫn chiếu tới tất cả các tội danh, hay tới một ngưỡng gắn liền với một danh mục các tội phạm nghiêm trọng hoặc hình phạt tù áp dụng cho tội phạm nguồn đó (cách tiếp cận theo ngưỡng) hoặc theo danh sách các tội phạm nguồn hoặc là kết hợp cả hai cách tiếp cận này.
3. Khi các quốc gia áp dụng cách tiếp cận theo ngưỡng, các tội phạm nguồn ít nhất cần phải bao gồm tất cả các tội phạm thuộc danh mục các tội phạm nghiêm trọng theo nội luật của họ hoặc cần phải đưa vào đó các tội phạm có thể bị phạt tù tối đa là hơn một năm; hoặc đối với những quốc gia có ngưỡng tối thiểu đối với các tội danh trong hệ thống pháp lý của mình, tội phạm nguồn cần phải bao gồm tất cả các tội phạm có thể bị phạt tù tối thiểu trên 6 tháng.
4. Cho dù áp dụng cách tiếp cận nào thì mỗi quốc gia ít nhất cũng cần phải đưa phạm vi các tội vào mỗi loại tội đã chỉ định. Tội phạm rửa tiền cần phải mở rộng tới bất cứ loại tài sản nào, bất kể giá trị của nó, trực tiếp hoặc gián tiếp là các khoản thu từ tội phạm. Không nhất thiết một cá nhân phải bị kết tội vì tội phạm nguồn khi chứng minh rằng tài sản là những khoản thu từ tội phạm.
5. Các tội phạm nguồn của tội rửa tiền cần phải bao trùm cả hành vi xảy ra tại một quốc gia khác, mà hành vi đó cấu thành tội phạm tại quốc gia đó, đồng thời nó sẽ cấu thành tội phạm nguồn nếu nó xảy ra trong nước. Các quốc gia có thể quy định điều kiện tiên quyết duy nhất là hành vi này sẽ cấu thành một tội phạm nguồn nếu nó xảy ra trong nước.
6. Các quốc gia có thể quy định tội rửa tiền không áp dụng đối với các cá nhân đã phạm tội nguồn, nếu như điều này được yêu cầu bởi các nguyên tắc cơ bản của luật trong nước.
7. Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng:
(a) Chủ ý và nhận thức cần thiết để chứng minh tội rửa tiền có thể được suy ra từ các hoàn cảnh thực tế khách quan.
(b) Các chế tài tương xứng, hiệu quả và mang tính răn đe cần phải được áp dụng đối với các thể nhân bị kết tội rửa tiền.
(c) Trách nhiệm và chế tài hình sự và khi chế tài hình sự không thể áp dụng được (do các nguyên tắc nền tảng của luật pháp trong nước) thì trách nhiệm và chế tài dân sự hoặc hành chính cần được áp dụng đối với các pháp nhân. Quy định này không loại trừ các thủ tục tố tụng hình sự, dân sự hoặc hành chính diễn ra song song liên quan tới các pháp nhân tại các quốc gia khác mà tại đó có thể áp dụng nhiều hơn một hình thức trách nhiệm. Các biện pháp như vậy cần phải có mà không gây ảnh hưởng tới trách nhiệm hình sự của thể nhân. Tất cả các hình phạt cần phải hiệu quả, tương xứng và mang tính răn đe.
(d) Trừ trường hợp các nguyên tắc nền tảng của pháp luật trong nước không cho phép, cần phải có các tội đi kèm phù hợp với tội rửa tiền, bao gồm tội tham gia, có liên đới hoặc đồng phạm thực hiện, mưu tính, trợ giúp và tiếp tay, tạo điều kiện và tư vấn việc phạm tội.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 4 VÀ 38 (TỊCH THU VÀ CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI)
Các quốc gia cần phải thiết lập các cơ chế cho phép các cơ quan chức năng quản lý hiệu quả và khi cần thiết, tiêu hủy tài sản bị phong tỏa, niêm phong hoặc đã bị tịch thu. Các cơ chế này cần phải được áp dụng cả trong trường hợp tiến hành các thủ tục tố tụng trong nước và theo yêu cầu của nước ngoài.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ 5 (TỘI TÀI TRỢ KHỦNG BỐ)
A. Mục tiêu
Khuyến nghị 5 được xây dựng với mục tiêu đảm bảo các quốc gia có năng lực pháp lý để khởi tố và áp dụng các hình phạt hình sự đối với các cá nhân tài trợ khủng bố. Vì cho rằng có mối quan hệ chặt chẽ giữa khủng bố quốc tế với rửa tiền (ngoài các vấn đề khác), nên mục tiêu khác của Khuyến nghị 5 là nhấn mạnh tới mối liên hệ này thông qua việc buộc các quốc gia phải quy định tội tài trợ khủng bố là tội phạm nguồn của tội rửa tiền.
B. Đặc điểm của tội tài trợ khủng bố
2. Tội tài trợ khủng bố cần phải mở rộng đến bất kỳ cá nhân nào tự nguyện cung cấp hoặc tập hợp các quỹ bằng bất kỳ phương thức nào, trực tiếp hay gián tiếp với ý định phi pháp rằng chúng sẽ được sử dụng hoặc nhận thức được các quỹ này được sử dụng toàn bộ hoặc một phần: (a) để thực hiện (những) hành vi khủng bố; (b) bởi tổ chức khủng bố; hoặc (c) bởi cá nhân khủng bố.
3. Tài trợ khủng bố bao gồm tài trợ đi lại cho các cá nhân di chuyển đến một quốc gia khác với quốc gia cư trú hoặc quốc tịch của các cá nhân đó với mục đích gây ra, lập kế hoạch hoặc chuẩn bị cho hoặc tham gia vào các hành vi khủng bố hoặc cung cấp hoặc tiếp nhận đào tạo khủng bố.
4. Hình sự hóa hành vi tài trợ khủng bố chỉ dựa trên cơ sở hỗ trợ và xúi giục, có ý định hoặc đồng phạm chưa đảm bảo tuân thủ theo Khuyến nghị này.
5. Tội tài trợ khủng bố cần phải mở rộng đến bất kỳ khoản tiền nào không kể có nguồn gốc hợp pháp hay bất hợp pháp.
6. Tội tài trợ khủng bố không cần phải đòi hỏi rằng các khoản tiền đó: (a) thực tế đã được sử dụng để thực hiện hoặc cố gắng thực hiện một/nhiều hành vi khủng bố; hoặc (b) phải gắn với một/nhiều hành vi khủng bố cụ thể.
7. Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng ý định và nhận thức cần thiết để chứng minh tội tài trợ khủng bố có thể được suy luận từ hoàn cảnh thực tế khách quan.
8. Các hình phạt hiệu quả, tương xứng và có tính răn đe cần phải áp dụng đối với các thể nhân bị kết tội tài trợ khủng bố.
9. Trách nhiệm và các hình phạt hình sự và khi không thể áp dụng được (do các nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước), trách nhiệm và các hình phạt dân sự hoặc hành chính cần phải áp dụng đối với các pháp nhân. Điều này không loại trừ các thủ tục tố tụng hình sự, dân sự hoặc hành chính diễn ra song song liên quan đến các pháp nhân ở những quốc gia có nhiều hơn một hình thức trách nhiệm pháp lý. Những biện pháp như vậy cần phải được thực hiện mà không ảnh hưởng tới trách nhiệm hình sự của thể nhân. Tất cả các hình phạt cần phải hiệu quả, tương xứng và có tính răn đe.
10. Nếu cố gắng thực hiện hành vi phạm tội tài trợ khủng bố cũng phải là một hành vi phạm tội.
11. Nếu tham gia vào bất kỳ hoạt động nào sau đây cũng bị coi là tội phạm:
(a) Tham gia như một đồng phạm trong một tội phạm như đã đề cập trong đoạn 2 hoặc 9 của Chú giải này;
(b) Tổ chức hoặc chỉ đạo người khác phạm tội như đã đề cập trong đoạn 2 hoặc 9 của Chú giải này;
(c) Góp phần vào việc thực hiện một hoặc nhiều tội phạm như đã đề cập trong đoạn 2 hoặc 9 của Chú giải này, bởi một nhóm người có mục đích chung. Sự đóng góp này sẽ là cố ý và: (i) được tiến hành với mục đích hỗ trợ hoạt động phạm tội hoặc mục đích phạm tội của cả nhóm khi hoạt động hoặc mục đích đó có cả việc tài trợ khủng bố; hoặc (ii) được tiến hành khi biết ý định của nhóm đó là để thực hiện tài trợ khủng bố.
12. Tội tài trợ khủng bố cần phải áp dụng, bất kể kẻ phạm tội đã thực hiện tội phạm ở trong cùng một quốc gia hay ở một quốc gia khác với quốc gia nơi mà những kẻ khủng bố/tổ chức khủng bố ở đó hoặc (các) hành vi khủng bố đã/sẽ xảy ra.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ 6 (CÁC HÌNH PHẠT TÀI CHÍNH LIÊN QUAN ĐẾN KHỦNG BỐ VÀ TÀI TRỢ KHỦNG BỐ)
A. MỤC TIÊU
1. Khuyến nghị 6 yêu cầu mỗi quốc gia thực hiện các hình phạt tài chính nhằm tuân thủ các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc yêu cầu các quốc gia phải phong tỏa không chậm trễ các quỹ hoặc tài sản khác và để đảm bảo rằng không có bất kỳ khoản tiền hoặc tài sản nào khác được chuyển cho hoặc vì lợi ích của: (i) bất kỳ người nào
[6] hoặc tổ chức nào bị Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (Hội đồng Bảo an) chỉ định theo Chương VII Hiến chương của Liên hợp quốc, theo yêu cầu của Nghị quyết 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa
[7]; hoặc (ii) bất kỳ người nào hoặc tổ chức nào bị chỉ định bởi quốc gia đó căn cứ theo Nghị quyết 1373 (2001).
2. Cần nhấn mạnh rằng không có bất kỳ nghĩa vụ nào trong Khuyến nghị 6 có ý định thay thế các biện pháp hoặc nghĩa vụ khác có thể đã có sẵn nhằm xử lý các quỹ hoặc các tài sản trong các cuộc điều tra hoặc tố tụng hành chính, dân sự hoặc hình sự, như yêu cầu tại Khuyến nghị 4 (các biện pháp tạm thời và tịch thu)
[8]. Các biện pháp theo Khuyến nghị 6 có thể bổ sung cho quá trình tố tụng hình sự đối với những người hoặc tổ chức bị chỉ định và được cơ quan chức năng hoặc tòa án chấp thuận, nhưng không phụ thuộc vào sự tồn tại của những vụ tố tụng như vậy. Thay vào đó, Khuyến nghị 6 tập trung vào các biện pháp phòng ngừa cần thiết và duy nhất trong việc ngăn chặn dòng luân chuyển vốn hoặc tài sản khác cho các nhóm khủng bố và việc sử dụng tiền hoặc các tài sản này của các nhóm khủng bố. Trong việc xác định mức hạn chế hay thúc đẩy hỗ trợ rộng rãi cho một cơ chế chống tài trợ khủng bố hiệu quả, các quốc gia phải tôn trọng nhân quyền, tôn trọng pháp quyền và công nhận các quyền của các bên thứ ba vô tội.
B. NHẬN DẠNG VÀ CHỈ ĐỊNH CÁ NHÂN VÀ TỔ CHỨC TÀI TRỢ HOẶC HỖ TRỢ CÁC HOẠT ĐỘNG KHỦNG BỐ
3. Đối với nghị quyết 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa, danh sách chỉ định do Ủy ban 1267 đưa ra liên quan đến Al-Qaida, danh sách chỉ định liên quan đến Taliban và các mối đe dọa đối với Afganistan do Ủy ban 1988 đưa ra, cả hai Ủy ban đều hoạt động theo quy định tại Chương VII - Hiến chương của Liên hợp quốc. Đối với nghị quyết 1373 (2001), các danh sách chỉ định ở cấp quốc gia hoặc liên quốc gia do 1 hay nhiều quốc gia đưa ra theo nhu cầu của chính mình hoặc theo yêu cầu của quốc gia khác, nếu các nguyên tắc pháp luật được áp dụng quốc gia nhận yêu cầu thỏa mãn rằng theo danh sách chỉ định theo yêu cầu có nền tảng hoặc cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc tin rằng đối tượng bị chỉ định đáp ứng các tiêu chí của việc chỉ định theo nghị quyết 1373 (2001) được đề cập ở phần E.
4. Các quốc gia cần có cơ quan và các quy trình, cơ chế hiệu quả để nhận dạng và đưa ra các đề xuất chỉ định cá nhân và tổ chức mà Nghị quyết 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa nhắm đến, phù hợp với các nghĩa vụ được nêu tại các nghị quyết của Hội đồng Bảo an
[9]. Cơ quan và quy trình, cơ chế như vậy là đặc biệt quan trọng để đề xuất các cá nhân và tổ chức cho Hội đồng Bảo an chỉ định phù hợp với các chương trình dựa trên danh sách của Hội đồng Bảo an, theo các Nghị quyết đó của Hội đồng Bảo an. Các quốc gia cũng cần có cơ quan và các quy trình hoặc cơ chế hiệu quả để nhận dạng và đề xuất việc chỉ định các cá nhân và tổ chức theo S/RES/1373 (2001), thống nhất với các nghĩa vụ được nêu tại Nghị quyết này của Hội đồng Bảo an. Cơ quan và các quy trình hoặc cơ chế như vậy là đặc biệt quan trọng để nhận dạng các cá nhân và tổ chức đáp ứng các tiêu chí nêu trong Nghị quyết 1373 (2001) được trình bày ở Phần E. Cơ chế thực hiện Nghị quyết 1267 (1999), các nghị quyết kế thừa và Nghị quyết 1373 (2001) của một quốc gia cần phải bao gồm các yếu tố cần thiết như sau:
(a) Các quốc gia cần phải xác định một cơ quan chức năng hoặc một tòa án có trách nhiệm:
(i) Đề xuất lên Ủy ban 1267 để chỉ định khi thích hợp các cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng những tiêu chí cụ thể cho việc chỉ định như đã nêu tại nghị quyết 1989 (2011) của Hội đồng Bảo an (về Al-Qaida) và các nghị quyết liên quan, nếu cơ quan đó quyết định làm như vậy và tin rằng họ có bằng chứng đủ để chứng minh cho việc đáp ứng tiêu chí chỉ định;
(ii) Đề xuất lên Ủy ban 1988 để chỉ định khi thích hợp các cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng những tiêu chí cụ thể của việc chỉ định như đã nêu tại nghị quyết 1988 (2011) của Hội đồng Bảo an (về Taliban và những người có liên quan đến Taliban tạo mối đe dọa cho hòa bình, ổn định và an ninh của Afghanistan) và các nghị quyết liên quan, nếu cơ quan đó quyết định làm như vậy và tin rằng họ có đủ bằng chứng để chứng minh cho việc đáp ứng tiêu chí chỉ định;
(iii) Chỉ định các cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng các tiêu chí chỉ định như đã nêu tại nghị quyết 1373 (2001), theo nhu cầu của chính mình hoặc sau khi kiểm tra và chấp nhận, nếu thích hợp, yêu cầu của quốc gia khác, nếu quốc gia nhận yêu cầu thấy thỏa mãn các nguyên tắc pháp luật được áp dụng, danh sách chỉ định theo yêu cầu có nền tảng hoặc cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc tin rằng cá nhân bị chỉ định đáp ứng các tiêu chí của việc chỉ định theo Nghị quyết 1373 (2001) được đề cập ở phần E.
(b) Các quốc gia cần phải có cơ chế để xác định mục tiêu cho việc chỉ định, dựa trên các tiêu chí cho việc chỉ định được đề cập tại Nghị quyết 1988 (2011), Nghị quyết 1989 (2011) và các nghị quyết liên quan, Nghị quyết 1373 (2001) (xem phần E về các tiêu chí chỉ định cụ thể của các nghị quyết có liên quan của Hội đồng Bảo an). Điều này cũng bao hàm việc có cơ quan và các quy trình hoặc cơ chế hiệu quả để kiểm tra và nếu thích hợp, việc thực thi các hành động được khởi xướng theo cơ chế phong tỏa của quốc gia khác theo Nghị quyết 1373 (2001). Nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong hợp tác giữa các quốc gia, các quốc gia cần phải đảm bảo khi nhận được yêu cầu họ phải nhanh chóng đưa ra quyết định có thỏa mãn theo các nguyên tắc được áp dụng của một hay nhiều quốc gia yêu cầu đó về việc có nền tảng hoặc cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc tin rằng cá nhân bị chỉ định đáp ứng các tiêu chí của việc chỉ định theo Nghị quyết 1373(2001) như được đề cập ở phần E hay không.
(c) (Các) cơ quan chức năng cần phải có những quyền lực pháp lý và quy trình hoặc cơ chế phù hợp để thu thập hoặc có được nhiều nhất thông tin từ tất cả các nguồn có liên quan nhằm xác định cá nhân hoặc tổ chức, dựa trên nền tảng hoặc cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc tin là đáp ứng các tiêu chí chỉ định trong các nghị quyết của Hội đồng Bảo an.
(d) Khi quyết định về việc có hay không (đề xuất) chỉ định, các quốc gia cần phải áp dụng chuẩn mực rõ ràng cho việc chứng minh “nền tảng hợp lý” hoặc “cơ sở hợp lý”. Đối với danh sách chỉ định theo Nghị quyết 1373 (2001), cơ quan chức năng của từng quốc gia sẽ cần áp dụng chuẩn mực pháp lý trong hệ thống pháp luật của quốc gia mình về loại và lượng bằng chứng để xác định có “nền tảng hợp lý” hoặc “cơ sở hợp lý” cho việc quyết định chỉ định một cá nhân hay tổ chức và hành động theo cơ chế phong tỏa. Đây là trường hợp bất luận danh sách chỉ định được đề xuất theo nhu cầu của chính quốc gia đó hay theo yêu cầu của quốc gia khác. Những (đề xuất) danh sách chỉ định này phải không phụ thuộc vào sự hiện diện của một vụ tố tụng hình sự nào.
(e) Khi đề xuất các tên lên Ủy ban 1267 để đưa vào Danh sách trừng phạt Al-Qaida theo Nghị quyết 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa, các quốc gia cần phải:
(i) Tuân theo các thủ tục và các mẫu chuẩn đối với việc liệt kê đã được Ủy ban 1267 thông qua;
(ii) Cung cấp các thông tin phù hợp, càng nhiều càng tốt về tên đề xuất chỉ định, các thông tin nhận dạng đầy đủ cho phép việc xác định một cách chính xác, khách quan về các cá nhân, nhóm, doanh nghiệp, tổ chức và trong một mức độ có thể, thông tin mà Interpol yêu cầu để ban bố Thông cáo đặc biệt;
(iii) Cung cấp bản tường trình về vụ việc, trong đó nêu chi tiết đến mức có thể về cơ sở cho việc đưa vào danh sách, bao gồm: các thông tin cụ thể hỗ trợ cho việc xác định rằng cá nhân hay tổ chức đó đáp ứng các tiêu chí chỉ định (xem Phần E về các tiêu chí chỉ định cụ thể của các nghị quyết Hội đồng Bảo an); bản chất của thông tin; các thông tin hoặc tài liệu hỗ trợ khác có thể được cung cấp; và chi tiết về bất kỳ mối liên hệ nào giữa cá nhân bị đề xuất chỉ định và với những cá nhân hay tổ chức đang bị chỉ định. Bản tường trình vụ việc này cần phải được công khai, nếu có nhu cầu, trừ những phần mà quốc gia thành viên xác định là “MẬT” đối với Ủy ban 1267;
(iv) Xác thực liệu thân phận (tên) của quốc gia chỉ định có thể được công bố hay không.
(f) Khi đề xuất đưa các tên lên Ủy ban 1988 để đưa vào Danh sách trừng phạt Taliban theo nghị quyết 1988 (2011) và các nghị quyết kế thừa, các quốc gia cần phải:
(i) Tuân theo các thủ tục đối với việc liệt kê đã được Ủy ban 1988 thông qua;
(ii) Cung cấp các thông tin phù hợp, càng nhiều càng tốt về tên đề xuất chỉ định, các thông tin nhận dạng đầy đủ cho phép việc xác định một cách chính xác, khách quan về các cá nhân, nhóm, doanh nghiệp, tổ chức và trong một mức độ có thể, thông tin mà Interpol yêu cầu để ban bố Thông cáo đặc biệt;
(iii) Cung cấp bản tường trình về vụ việc, trong đó nêu chi tiết đến mức có thể về cơ sở cho việc đưa vào danh sách, bao gồm: các thông tin cụ thể hỗ trợ cho việc xác định rằng cá nhân hay tổ chức đó đáp ứng các tiêu chí chỉ định (xem Phần E về các tiêu chí chỉ định cụ thể của các nghị quyết Hội đồng Bảo an); bản chất của thông tin; các thông tin hoặc tài liệu hỗ trợ khác có thể được cung cấp; và chi tiết về bất kỳ mối liên hệ nào giữa cá nhân bị đề xuất chỉ định và với những cá nhân hay tổ chức đang bị chỉ định. Bản tường trình vụ việc này cần phải được công khai, nếu có nhu cầu, trừ những phần mà quốc gia thành viên xác định là “MẬT” đối với Ủy ban 1988;
(g) Khi yêu cầu một quốc gia khác chấp nhận các hành động đã triển khai theo các cơ chế phong tỏa được thực hiện theo Nghị quyết 1373 (2001), quốc gia khởi xướng cần phải cung cấp càng nhiều chi tiết càng tốt về: tên, đề xuất, đặc biệt là các thông tin nhận dạng đầy đủ cho phép việc nhận dạng một cách chính xác, khách quan về cá nhân hay tổ chức đó; và các thông tin cụ thể hỗ trợ việc xác định cá nhân hay tổ chức đó có đáp ứng các tiêu chí phù hợp cho việc chỉ định không (xem Phần E về các tiêu chí chỉ định cụ thể của các nghị quyết của Hội đồng Bảo an liên quan).
(h) Các quốc gia cần phải có các quy trình để có thể, khi cần thiết, hành động đơn phương chống lại các cá nhân hay tổ chức đã bị xác định và đang được xem xét chỉ định.
C. PHONG TỎA VÀ CẤM GIAO DỊCH ĐỐI VỚI CÁC QUỸ HOẶC TÀI SẢN KHÁC CỦA NHỮNG CÁ NHÂN VÀ TỔ CHỨC BỊ CHỈ ĐỊNH
5. Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện một cách không chậm trễ các hình phạt tài chính đối với những cá nhân và tổ chức bị Ủy ban 1267 và Ủy ban 1988 chỉ định (trong trường hợp của Nghị quyết 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa), khi những Ủy ban này hoạt động theo thẩm quyền được quy định tại Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc. Đối với nghị quyết 1373 (2001), nghĩa vụ của các quốc gia trong việc thực hiện một cách không chậm trễ việc phong tỏa và nghiêm cấm giao dịch với các quỹ hoặc các tài sản của các cá nhân và tổ chức bị chỉ định được phát sinh từ việc chỉ định ở cấp quốc gia hoặc siêu quốc gia, cho dù theo nhu cầu của chính quốc gia đó hay theo yêu cầu của quốc gia khác, nếu đáp ứng được yêu cầu của quốc gia được yêu cầu theo các nguyên tắc pháp lý được áp dụng, sự chỉ định theo yêu cầu được hỗ trợ bởi những cơ sở và nền tảng hợp lý để nghi ngờ hoặc tin rằng cá nhân dự kiến bị chỉ định đáp ứng các tiêu chí của việc chỉ định theo Nghị quyết 1373 (2001) như được đề cập ở phần E.
6. Các quốc gia cần phải thiết lập quyền lực pháp lý cần thiết và xác định các cơ quan chức năng trong nước chịu trách nhiệm thực hiện và áp đặt các hình phạt tài chính phù hợp với các chuẩn mực và quy trình sau đây:
(a) Các quốc gia
[10]cần phải yêu cầu tất cả các cá nhân và pháp nhân ở quốc gia mình thực hiện phong tỏa một cách không chậm trễ và không cần thông báo trước các quỹ hoặc tài sản khác của các cá nhân và tổ chức bị chỉ định. Nghĩa vụ này cần phải được mở rộng đối với: tất cả các quỹ hoặc tài sản khác mà các cá nhân và tổ chức bị chỉ định đó sở hữu hoặc kiểm soát; và không chỉ là các tài sản gắn liền với một hành động, âm mưu hay mối đe dọa khủng bố cụ thể nào; các quỹ hoặc tài sản mà các cá nhân và tổ chức bị chỉ định sở hữu hoặc kiểm soát toàn bộ hoặc một phần, trực tiếp hoặc gián tiếp; và các quỹ hoặc tài sản khác có nguồn gốc hoặc có được từ các quỹ hoặc tài sản khác do các cá nhân hoặc tổ chức bị chỉ định sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, cũng như các quỹ hoặc tài sản khác của các cá nhân hoặc tổ chức hành động thay mặt cho hoặc theo chỉ đạo của những cá nhân hoặc tổ chức bị chỉ định.
(b) Các quốc gia cần phải nghiêm cấm công dân của mình hoặc bất kỳ cá nhân và tổ chức nào trong quốc gia mình tạo điều kiện để bất kỳ quỹ hoặc tài sản khác, các nguồn lực kinh tế, các dịch vụ tài chính hoặc các dịch vụ liên quan khác, có thể có một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, một phần hoặc toàn bộ, cho lợi ích của các cá nhân và tổ chức bị chỉ định; các tổ chức do các cá nhân và tổ chức bị chỉ chỉ định sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp; và các cá nhân và tổ chức hoạt động thay mặt cho hoặc theo chỉ đạo của các cá nhân và tổ chức bị chỉ định, nếu như không được cấp phép, được ủy quyền hoặc được theo thông báo khác phù hợp với các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an (Xem phần E dưới đây).
(c) Các quốc gia cần phải có các cơ chế thông tin về các danh sách chỉ định đến khu vực tài chính và các DNFBPs ngay sau khi có hành động chỉ định này và cung cấp hướng dẫn rõ ràng, đặc biệt là đến các tổ chức tài chính cũng như các cá nhân và tổ chức khác, bao gồm cả DNFBPs, những người có thể đang nắm giữ quỹ hoặc các tài sản khác là đối tượng của hành động phong tỏa về các nghĩa vụ của họ trong việc thực hiện hành động theo cơ chế phong tỏa.
(d) Các quốc gia cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính và DNFBPs
[11] báo cáo các cơ quan chức năng bất kỳ tài sản nào đã phong tỏa hoặc bất kỳ hành động nào đã xảy ra phù hợp với yêu cầu nghiêm cấm theo các nghị quyết của Hội đồng Bảo an liên quan, kể cả các giao dịch đang cố gắng thực hiện và cần phải đảm bảo là những thông tin này được các cơ quan chức năng vận dụng một cách hiệu quả.
(e) Các quốc gia cần phải thông qua các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba ngay tình (bona fide) hành động một cách trung thực khi thực hiện các nghĩa vụ theo Khuyến nghị 6.
D. ĐƯA RA KHỎI DANH SÁCH, GIẢI TỎA VÀ CHO PHÉP TIẾP CẬN TIỀN VÀ CÁC TÀI
SẢN BỊ PHONG TỎA KHÁC
7. Các quốc gia cần phải xây dựng và thực hiện quy trình công khai về việc gửi lên Hội đồng Bảo an yêu cầu đưa ra khỏi danh sách đối với các trường hợp cá nhân và tổ chức đã bị chỉ định trước đó theo Nghị quyết 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa, mà theo quan điểm của quốc gia đó, nay không hoặc không còn đáp ứng các tiêu chí của việc chỉ định. Trong trường hợp Ủy ban 1267 hoặc Ủy ban 1988 đã đưa một cá nhân và tổ chức ra khỏi danh sách, thì nghĩa vụ phong tỏa cũng không còn tồn tại. Trong trường hợp yêu cầu đưa ra khỏi danh sách liên quan đến Al-Qaida, thì những quy trình và tiêu chí đó cần phải tuân theo quy trình đã được Ủy ban 1267 thông qua theo các Nghị quyết 1730 (2006), 1735 (2006), 1822 (2008), 1904 (2009) và bất kỳ nghị quyết kế thừa nào. Trong trường hợp yêu cầu đưa ra khỏi danh sách liên quan đến Taliban và các mối đe dọa đến hòa bình, an ninh và sự bình ổn của Afghanistan, thì những quy trình và tiêu chí đó cần phải tuân theo quy trình đã được Ủy ban 1988 thông qua theo các Nghị quyết 1730 (2006), 1735 (2006), 1822 (2008), 1904 (2009) và bất kỳ nghị quyết kế thừa nào.
8. Đối với các cá nhân và tổ chức bị chỉ định theo Nghị quyết 1373 (2001), các quốc gia cần phải có các cơ quan pháp luật, các quy trình hoặc cơ chế pháp lý thích hợp để đưa ra khỏi danh sách và giải tỏa tiền hoặc tài sản khác của cá nhân và tổ chức không còn đáp ứng các tiêu chí của việc chỉ định. Các quốc gia cũng cần phải có sẵn các quy trình cho phép, khi có yêu cầu, rà soát lại quyết định chỉ định trước tòa án hoặc cơ quan chức năng độc lập khác.
9. Đối với các cá nhân hoặc tổ chức có tên giống hoặc tương tự tên của các cá nhân hoặc tổ chức bị chỉ định, vô tình bị ảnh hưởng bởi cơ chế phong tỏa, (có nghĩa là các quốc gia cần phải xây dựng và thực hiện quy trình công khai để giải tỏa tiền hoặc tài sản khác của những cá nhân hay tổ chức đó một cách kịp thời, sau khi xác thực được cá nhân hoặc tổ chức đó không phải là cá nhân hay tổ chức bị chỉ định.
10. Khi các quốc gia xác định tiền hoặc tài sản khác của cá nhân hay tổ chức bị Hội đồng Bảo an hoặc một trong các ủy ban trừng phạt có liên quan của Hội đồng Bảo an chỉ định là cần thiết cho các khoản chi thiết yếu, thanh toán một số loại phí, chi phí và phí dịch vụ nhất định hoặc các chi phí bất thường, thì những quốc gia này cần phải trao quyền tiếp cận tiền hoặc tài sản đó theo quy trình nêu tại Nghị quyết 1452 (2002) và bất cứ nghị quyết kế thừa nào của Hội đồng Bảo an. Cũng trên cùng cơ sở như vậy, các quốc gia cần phải trao quyền tiếp cận tiền và tài sản khác, nếu các biện pháp phong tỏa được áp dụng đối với các cá nhân hay tổ chức bị một hay nhiều quốc gia khác chỉ định theo Nghị quyết 1373 (2001) và như đã đề cập tại Nghị quyết 1963 (2010).
11. Các quốc gia cần phải có một cơ chế mà thông qua đó một cá nhân hay tổ chức bị chỉ định có thể phản đối việc chỉ định mình với hy vọng việc chỉ định sẽ được tòa án hoặc một cơ quan có thẩm quyền xem xét lại. Liên quan đến việc chỉ định theo Danh sách trừng phạt Al-Qaida, các quốc gia cần phải thông tin cho các cá nhân hay tổ chức bị chỉ định về khả năng chấp nhận đơn kháng cáo yêu cầu đưa ra khỏi danh sách chỉ định của Văn phòng Biện hộ của Liên hợp quốc, theo Nghị quyết 1904 (2009).
12. Các quốc gia cần phải có cơ chế thông báo việc đưa ra khỏi danh sách và bãi bỏ lệnh phong tỏa đến khu vực tài chính và các DNFBPs ngay sau khi việc này diễn ra và đưa ra hướng dẫn phù hợp, đặc biệt đối với các tổ chức tài chính và các cá nhân hoặc tổ chức khác, bao gồm DNFBPs, là những chủ thể có thể đang nắm giữ tiền hoặc các tài sản đó về nghĩa vụ của họ nhằm thực hiện hành động đưa ra khỏi danh sách hoặc bãi bỏ lệnh phong tỏa đó.
E. CÁC TIÊU CHÍ CHỈ ĐỊNH CỦA LIÊN HỢP QUỐC
13. Các tiêu chí cho việc chỉ định được nêu cụ thể trong các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là:
(a) Nghị quyết 1267 (1999), 1989 (2011) và các nghị quyết kế thừa[12] của Hội đồng Bảo an:
(i) Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào tham gia vào việc tài trợ, lên kế hoạch, tạo điều kiện thuận lợi, chuẩn bị hoặc thực hiện hành vi, hành động gắn liên với hoặc dưới tên, thay mặt cho hoặc ủng hộ cho; cung cấp, bán hoặc chuyển vũ khí và các vật liệu liên quan cho; tuyển dụng cho; hoặc hỗ trợ cho các hành động hoặc hành vi của Al-Qaida hoặc bất kỳ phần tử, hội viên, nhóm hay tổ đội sau đó[13]; hoặc
(ii) Bất kỳ cơ sở kinh doanh nà thuộc sở hữu hoặc bị kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào bị chỉ định theo điểm 13(a)(i) hoặc người nào hoạt động thay mặt cho hoặc theo chỉ đạo của họ.
(b) Nghị quyết 1267 (1999), 1988 (2011) của Hội đồng Bảo an và các nghị quyết kế thừa:
(i) Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào tham gia vào việc tài trợ, lên kế hoạch, tạo điều kiện thuận lợi, chuẩn bị hoặc thực hiện hành vi, hành động gắn với hoặc dưới tên, thay mặt cho hoặc ủng hộ cho; cung cấp, bán hoặc chuyển vũ khí và các vật liệu liên quan; tuyển dụng cho; hoặc hỗ trợ cho các hành động hoặc hành vi của những kẻ bị chỉ định và các cá nhân, nhóm, cơ sở kinh doanh hoặc tổ chức gắn liền với Taliban mà tạo mối đe dọa cho hòa bình, ổn định và an ninh của Afghanistan; hoặc
(ii) Bất kỳ cơ sở kinh doanh nào thuộc sở hữu hoặc bị kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào bị chỉ định theo điểm 13(a)(i) của đoạn này hoặc bởi bất kỳ người nào hành động thay mặt cho hoặc theo chỉ đạo của họ.
(c) Nghị quyết 1373 (2001) của Hội đồng Bảo an:
(i) Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào thực hiện hoặc cố gắng thực hiện hành vi khủng bố hoặc tham gia hay tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi khủng bố;
(ii) Bất kỳ tổ chức nào thuộc sở hữu hoặc bị kiểm soát, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào bị chị định theo điểm 13(c)(i) của đoạn này; hoặc
(iii) Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào hành động thay mặt cho hoặc theo chỉ đạo của bất kỳ cá nhân hay tổ chức bị chỉ định nào theo điểm 13(c)(i) của đoạn này.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ 7 (CÁC HÌNH PHẠT TÀI CHÍNH MỤC TIÊU LIÊN QUAN ĐẾN PHỔ BIẾN VŨ KHÍ)
A. Mục đích
1. Khuyến nghị 7 yêu cầu các quốc gia thực hiện các hình phạt tài chính mục tiêu
[14] nhằm tuân thủ các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc yêu cầu các quốc gia phong tỏa một cách không chậm trễ tiền hoặc các tài sản và nhằm đảm bảo không có bất kỳ khoản tiền hay tài sản nào có thể có cho và phục vụ cho lợi ích của bất kỳ cá nhân
[15] hay tổ chức bị chỉ định bởi Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc theo quy định tại Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc, theo các nghị quyết của Hội đồng Bảo an liên quan đến việc phòng ngừa và ngăn chặn tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
[16].
2. Cần nhấn mạnh không có một yêu cầu nào trong Khuyến nghị 7 có ý định thay thế các biện pháp hoặc nghĩa vụ khác có thể đã có nhằm xử lý tiền hoặc tài sản khác trong bối cảnh các cuộc điều tra hoặc tố tụng hành chính, dân sự hoặc hình sự theo yêu cầu của các Hiệp ước quốc tế hoặc các nghị quyết của Hội đồng Bảo an liên quan đến chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
[17]. Khuyến nghị 7 tập trung vào các biện pháp phòng ngừa cần thiết và duy nhất trong việc ngăn chặn các dòng tiền hoặc tài sản cho những kẻ hoặc chương trình phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; và ngăn chặn những kẻ này sử dụng tiền hoặc tài sản đó theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (Hội đồng Bảo an).
B. CHỈ ĐỊNH
3. Việc chỉ định được thực hiện bởi Hội đồng Bảo an trong các phụ lục kèm theo các nghị quyết hoặc bởi các Ủy ban của Hội đồng Bảo an được thành lập theo các nghị quyết đó. Không có nghĩa vụ cụ thể đối với các thành viên Liên hợp quốc đệ trình đề xuất việc chỉ định lên các Ủy ban liên quan của Hội đồng Bảo an liên quan. Tuy nhiên, trong thực tế, các Ủy ban trước hết dựa vào các yêu cầu chỉ định từ các quốc gia thành viên. Nghị quyết 1718 (2006) và 1737 (2006) quy định các Ủy ban liên quan sẽ ban hành hướng dẫn khi cần thiết để tạo điều kiện cho việc thực hiện các biện pháp mà những nghị quyết này áp đặt.
4. Các quốc gia có thể xem xét việc thiết lập một cơ quan và các quy trình hoặc cơ chế hiệu quả để đề xuất các cá nhân hay tổ chức lên Hội đồng Bảo an nhằm chỉ định phù hợp với các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an, có áp đặt các hình phạt tài chính mang tính mục tiêu đối với việc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Về vấn đề này, các quốc gia có thể xem xét các yếu tố sau:
(a) Xác định (các) cơ quan chức năng, hành pháp hoặc tư pháp có trách nhiệm:
(i) Đề xuất lên Ủy ban trừng phạt 1718 để chỉ định một cách thích hợp các cá nhân và tổ chức đáp ứng các tiêu chí cụ thể cho việc chỉ định nêu tại Nghị quyết 1718 (2006) và các nghị quyết kế thừa
[18], nếu cơ quan này quyết định thực hiện việc này và tin rằng họ có đầy đủ bằng chứng chứng minh việc đáp ứng các tiêu chí chỉ định (xem Phần E về các tiêu chí cụ thể của việc chỉ định gắn với các Nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an); và
(ii) Đề xuất với Hội đồng Bảo an, để được chỉ định một cách phù hợp các cá nhân hay tổ chức đáp ứng các tiêu chí để được chỉ định như quy định trong nghị quyết 2231 (2015) và bất kỳ nghị quyết kế nhiệm nào trong tương lai, nếu cơ quan này quyết định thực hiện việc này và tin rằng họ có đầy đủ bằng chứng chứng minh việc đáp ứng các tiêu chí chỉ định (xem Phần E về các tiêu chí cụ thể của việc chỉ định gắn với các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an).
(b) Có (các) cơ chế để nhận dạng các mục tiêu cho chỉ định, dựa trên các tiêu chí chỉ định nêu trong các Nghị quyết 1718 (2006), 2231 (2015) và các nghị quyết kế thừa cũng như mọi nghị quyết kế thừa trong tương lai (xem Phần E để biết các tiêu chí chỉ định cụ thể có liên quan Nghị quyết của Hội đồng Bảo an). Các thủ tục như vậy phải đảm bảo việc xác định, theo các nguyên tắc quốc gia (siêu quốc gia) hiện hành, liệu có tồn tại cơ sở hợp lý hoặc cơ sở hợp lý để đề xuất chỉ định hay không.
(c) Có cơ quan pháp luật phù hợp và quy trình hoặc cơ chế để thu thập hoặc có được thông tin nhiều nhất có thể từ tất cả các nguồn liên quan nhằm xác định cho được các cá nhân hay tổ chức mà dựa trên nền tảng hoặc cơ sở hợp lý để nghi ngờ hoặc tin là đáp ứng các tiêu chí chỉ định trong các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an.
(d) Khi quyết định có hay không đề xuất chỉ định, lưu ý đến các tiêu chí tại Phần E của chú giải này. Đối với các đề xuất chỉ định, cơ quan chức năng của mỗi quốc gia sẽ áp dụng chuẩn mực pháp lý trong hệ thống pháp lý của mình, lưu ý đến nhân quyền, tôn trọng nguyên tắc nhà nước pháp quyền và thừa nhận quyền của bên thứ ba vô tội.
(e) Khi đề xuất các tên lên Ủy ban trừng phạt 1718 theo Nghị quyết 1718 (2006) và các nghị quyết kế thừa, hoặc của Hội đồng Bảo an, theo nghị quyết 2231 (2015) và bất kỳ nghị quyết kế thừa nào trong tương lai, cung cấp thông tin chi tiết nhất có thể về:
(i) Tên, đề xuất, đặc biệt là thông tin nhận dạng đầy đủ cho phép việc nhận dạng những cá nhân và tổ chức này một cách chính xác và khách quan; và
(ii) Các thông tin cụ thể hỗ trợ cho việc quyết định cá nhân hay tổ chức đó có đáp ứng các tiêu chí chỉ định hay không (xem phần E về các tiêu chí chỉ định cụ thể của các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an).
(f) Có các quy trình để có thể, khi cần thiết, hành động đơn phương chống lại các cá nhân hay tổ chức đã bị xác định nhưng việc đề xuất chỉ định đang được xem xét.
C. PHONG TỎA VÀ CẤM VIỆC GIAO DỊCH LIÊN QUAN ĐẾN QUỸ HOẶC CÁC TÀI SẢN KHÁC CỦA CÁC CÁ NHÂN HAY TỔ CHỨC BỊ ĐÌNH CHỈ
5. Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các hình phạt tài chính mục tiêu một cách không chậm trễ đối với các cá nhân hay tổ chức bị chỉ định:
(a) Trong trường hợp nghị quyết 1718 (2006) và các nghị quyết kế thừa, được chỉ định bởi Hội đồng Bảo an trong phụ lục của các nghị quyết liên quan hoặc bởi Ủy ban trừng phạt 1718 của Hội đồng Bảo an; và
(b) Trong trường hợp nghị quyết 2231 (2015) và bất kỳ nghị quyết kế thừa nào trong tương lai của Hội đồng Bảo an, khi các Ủy ban này hành động theo thẩm quyền nêu tại Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc.
6. Các quốc gia cần phải thiết lập thẩm quyền pháp lý cần thiết và xác định các cơ quan chức năng trong nước có trách nhiệm thực hiện và áp đặt các hình phạt tài chính mục tiêu, tuân theo các chuẩn mực và quy trình sau:
(a) Các quốc gia
[19] cần phải yêu cầu tất cả các thể nhân và pháp nhân ở quốc gia mình phong tỏa, một cách không chậm trễ và không cần thông báo trướcbvề tiền hoặc tài sản của các cá nhân hay tổ chức bị chỉ định. Nghĩa vụ này cần phải mở rộng đối với: tất cả tiền hoặc tài sản khác mà cá nhân hay tổ chức bị chỉ định đó sở hữu hoặc kiểm soát; không chỉ là các tài sản dính líu đến một hành động, âm mưu hay mối đe dọa phổ biến cụ thể nào; tiền hoặc tài sản mà những cá nhân hay tổ chức bị chỉ định sở hữu hoặc kiểm soát một phần hoặc toàn bộ; trực tiếp hoặc gián tiếp; và tiền hoặc tài sản có nguồn gốc hoặc phát sinh từ tiền hoặc tài sản do những cá nhân hay tổ chức bị chỉ định sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, cũng như tiền hoặc tài sản khác của các cá nhân hay tổ chức hành động thay mặt cho hoặc theo chỉ đạo của những cá nhân hay tổ chức bị chỉ định.
(b) Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng công dân của mình hoặc bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào trên lãnh thổ mình đều được ngăn chặn không tạo điều kiện để bất kỳ tiền hoặc tài sản khác có thể có cho hoặc phục vụ lợi ích cho những cá nhân hay tổ chức bị chỉ định, trừ khi được cấp phép, được ủy quyền hoặc được thông báo theo các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an (Xem phần E dưới đây).
(c) Các quốc gia cần phải có cơ chế thông tin về việc chỉ định đến các tổ chức tài chính và các DNFBPs ngay sau khi việc này được tiến hành và cung cấp hướng dẫn rõ ràng, đặc biệt đối với các tổ chức tài chính và các cá nhân hay tổ chức khác, bao gồm DNFBPs, những người có thể đang nắm giữ tiền hoặc các tài sản là đối tượng mục tiêu đó, về những nghĩa vụ của họ hành động theo các cơ chế phong tỏa.
(d) Các quốc gia cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính và DNFBPs
[20] báo cáo đến các cơ quan chức năng bất kỳ tài sản nào bị phong tỏa hoặc hành động nào được thực hiện tuân thủ theo các yêu cầu cấm trong các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an, bao gồm cả các giao dịch đang cố gắng thực hiện và đảm bảo các cơ quan chức năng đã tận dụng một cách hiệu quả những thông tin này.
(e) Các quốc gia cần phải thông qua các biện pháp hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của các bên thứ ba ngay tình đã hành động đúng với lương tâm khi thực hiện các nghĩa vụ theo Khuyến nghị 7.
(f) Các quốc gia cần phải thông qua các biện pháp thích hợp để kiểm soát và đảm bảo các tổ chức tài chính và DNFBPs tuân thủ các luật và các văn bản có liệu lực bắt buộc thực thi quy định về các nghĩa vụ theo Khuyến nghị 7. Việc không tuân thủ các luật và các văn bản có hiệu lực bắt buộc thực thi như vậy sẽ chịu các hình phạt dân sự, hành chính hoặc hình sự.
D ĐƯA RA KHỎI DANH SÁCH, GIẢI TỎA VÀ CHO PHÉP TIẾP CẬN TIỀN VÀ CÁC TÀI SẢN BỊ PHONG TỎA KHÁC
7. Các quốc gia cần phải xây dựng và thực hiện các quy trình công khai đệ trình yêu cầu lên Hội đồng Bảo an đưa ra khỏi danh sách các cá nhân hay tổ chức đã bị chỉ định theo quan điểm của quốc gia đó, không hoặc không còn đáp ứng các tiêu chí chỉ định. Một khi Ủy ban trừng phạt liên quan đưa một cá nhân hay tổ chức ra khỏi danh sách, thì nghĩa vụ phong tỏa cũng không còn tồn tại. Đối với trường hợp nghị quyết 1718 (2006) và các nghị quyết kế thừa, các thủ tục và tiêu chí đó phải phù hợp với bất kỳ hướng dẫn hoặc thủ tục hiện hành nào được Hội đồng Bảo an thông qua theo nghị quyết 1730 (2006) và bất kỳ nghị quyết kế thừa nào, bao gồm cả những quy định cơ chế của Cơ quan đầu mối được thành lập theo nghị quyết đó. Các quốc gia cần phải tạo điều kiện cho những cá nhân hay tổ chức bị đưa vào danh sách có thể gửi kháng cáo yêu cầu đưa ra khỏi danh sách tại cơ quan đầu mối được thiết lập theo Nghị quyết 1730 (2006) hoặc cần phải thông báo cho các cá nhân hay tổ chức bị chỉ định kháng nghị trực tiếp tới cơ quan đầu mối.
8. Đối với các cá nhân hay tổ chức có cùng tên hoặc tương tự tên của các cá nhân hay tổ chức bị chỉ định vô tình bị ảnh hưởng bất lợi bởi cơ chế phong tỏa (kết quả dương tính giả), các quốc gia cần phải xây dựng và thực hiện quy trình công khai để giải tỏa tiền hoặc tài sản khác của những cá nhân hay tổ chức như vậy một cách kịp thời, sau khi xác thực là cá nhân hay tổ chức đó không phải là cá nhân hay tổ chức bị chỉ định.
9. Khi các quốc gia xác định rằng các điều kiện miễn trừ được đề cập trong Nghị quyết 1718 (2006) và Nghị quyết 2231 (2015)được đáp ứng, thì các quốc gia này cần phải trao quyền tiếp cận các nguồn tiền hoặc tài sản khác tuân theo quy trình được nêu trong đó.
10. Các quốc gia cần phải cho phép bổ sung vào các tài khoản bị phong tỏa theo Nghị quyết 1718 (2006) hoặc Nghị quyết 2231(2015) các lợi ích hoặc các khoản thu được khác mà những tài khoản này mang lại hoặc các khoản thanh toán theo hợp đồng, thỏa thuận hoặc các nghĩa vụ phát sinh trước ngày mà những tài khoản này trở thành đối tượng điều chỉnh của các điều khoản của nghị quyết này, với điều kiện là những lợi ích, những khoản kiếm được và những khoản thanh toán như vậy tiếp tục là đối tượng điều chỉnh của những điều khoản đó và đang bị phong tỏa.
11. Hành động phong tỏa được thực hiện theo Nghị quyết 1737 (2006) và tiếp tục theo nghị quyết 2231 (2015), hoặc được thực hiện theo nghị quyết 2231 (2015), sẽ không ngăn cản cá nhân hay tổ chức bị chỉ định thực hiện bất kỳ khoản thanh toán nào theo hợp đồng có hiệu lực trước khi những chủ thể này bị đưa vào danh sách, với điều kiện:
(a) Các quốc gia liên quan đã xác định rằng hợp đồng đó không liên quan đến bất kỳ danh mục, vật liệu, thiết bị, hàng hóa, công nghệ, hay sự trợ giúp, đào tạo, hỗ trợ về tài chính, đầu tư, môi giới hoặc các dịch vụ được đề cập trong nghị quyết 2231 (2015) và bất kỳ quyết định kế thừa nào trong tương lai;
(b) Các quốc gia liên quan đã xác định rằng khoản thanh toán đó không được trả trực tiếp hoặc gián tiếp cho cá nhân hay tổ chức bị chỉ định theo các nội dung đã nêu trong đoạn 6 của Phụ lục B của nghị quyết 2231 (2015); và
(c) Các quốc gia liên quan đã gửi thông báo trước cho Hội đồng bảo an về ý định thực hiện hoặc nhận các khoản thanh toán như vậy hoặc ủy quyền, khi thích hợp, việc giải tỏa tiền, tài sản tài chính hoặc các nguồn lực kinh tế khác phục vụ cho mục đích này, 10 ngày làm việc trước khi có sự ủy quyền này
[21].
12. Các quốc gia cần phải có cơ chế thông báo về việc đưa ra khỏi danh sách và việc giải tỏa đến khu vực tài chính và các DNFBPs ngay sau khi thực hiện việc này và đưa ra hướng dẫn đầy đủ, đặc biệt cho các tổ chức tài chính và các cá nhân hay tổ chức khác, bao gồm cả DNFBPs, những người có thể đang nắm giữ tiền hoặc các tài sản là đối tượng phong tỏa về những nghĩa vụ của họ trong việc thực hiện hành động đưa ra khỏi danh sách và giải tỏa.
E. CÁC TIÊU CHÍ CHỈ ĐỊNH CỦA LIÊN HỢP QUỐC
13. Các tiêu chí cho việc chỉ định được cụ thể hóa trong các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là:
(a) Đối với DPRK - Nghị quyết 1718 (2006), 2087 (2013), 2094 (2013) và 2270 (2016):
(i) Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào tham gia vào các chương trình liên quan đến hạt nhân, WMD và tên lửa đạn đạo khác của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (DPRK);
(ii) Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào hỗ trợ cho các chương trình liên quan đến hạt nhân, WMD và tên lửa đạn đạo khác của DPRK, bao gồm cả việc hỗ trợ thông qua các phương tiện bất hợp pháp;
(iii) Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào hành động thay mặt cho hoặc theo chỉ đạo của bất cứ cá nhân hay tổ chức bị chỉ định nào theo điểm 13(a)(i) hoặc điểm 13(a)(ii)
[22]; hoặc
(iv) Bất kỳ pháp nhân hay tổ chức nào thuộc sở hữu hoặc bị kiểm soát một cách trực tiếp hay gián tiếp bởi bất kỳ cá nhân hay tổ chức bị chỉ định nào theo điểm 13(a)(i) hoặc điểm 13(a)(ii)
[23]
(v) bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào đã hỗ trợ cho việc trốn tránh các lệnh trừng phạt hoặc vi phạm các quy định của các nghị quyết 1718 (2006) và 1874 (2009);
(vi) bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào đã đóng góp vào các chương trình bị cấm của CHDCND Triều Tiên, các hoạt động bị cấm theo các nghị quyết liên quan đến CHDCND Triều Tiên hoặc trốn tránh các điều khoản; hoặc
(vii) bất kỳ tổ chức nào của Chính phủ CHDCND Triều Tiên hoặc Đảng Công nhân Hàn Quốc, hoặc cá nhân hoặc tổ chức thay mặt họ hoặc theo chỉ đạo của họ, hoặc bởi bất kỳ tổ chức nào do họ sở hữu hoặc kiểm soát, mà các quốc gia xác định là có liên quan đến chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên hoặc các chương trình tên lửa đạn đạo hoặc các hoạt động khác bị cấm theo nghị quyết 1718 (2006) và các nghị quyết kế thừa.
(b) Đối với Iran - Nghị quyết 2231 (2015):
(i) bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào tham gia, liên kết trực tiếp hoặc cung cấp hỗ trợ cho các hoạt động hạt nhân nhạy cảm với việc phổ biến vũ khí của Iran trái với cam kết của Iran trong Kế hoạch Hành động Toàn diện chung (JCPOA) hoặc việc phát triển các hệ thống phân phối vũ khí hạt nhân, bao gồm thông qua việc tham gia mua sắm vật phẩm, hàng hóa, thiết bị, vật liệu và công nghệ bị cấm quy định tại Phụ lục B của nghị quyết 2231 (2015);
(ii) bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào hỗ trợ những cá nhân hoặc tổ chức được chỉ định trốn tránh hoặc hành động không nhất quán với JCPOA hoặc nghị quyết 2231 (2015); và
(iii) bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào thay mặt hoặc theo chỉ đạo của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào trong tiểu mục 13 (b) (i), tiểu mục 13 (b) (ii) và/hoặc tiểu mục 13 (b) (iii), hoặc bởi bất kỳ tổ chức nào do họ sở hữu hoặc kiểm soát.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 8 (CÁC TỔ CHỨC PHI LỢI NHUẬN)
A. Giới thiệu
1. Với sự đa dạng của các hình thức pháp lý mà các tổ chức phi lợi nhuận (NPO) có thể có, tùy thuộc vào quốc gia, FATF đã thông qua một định nghĩa chức năng của NPO. Định nghĩa này dựa trên các hoạt động và đặc điểm của một tổ chức có nguy cơ bị lạm dụng tài trợ khủng bố, chứ không phải dựa trên thực tế đơn giản là tổ chức đó hoạt động phi lợi nhuận. Đối với các mục đích của Khuyến nghị này, NPO đề cập đến một pháp nhân hoặc thỏa thuận hoặc tổ chức chủ yếu tham gia vào việc gây quỹ hoặc giải ngân cho các mục đích như từ thiện, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, xã hội hoặc mục đích tương tự hoặc để thực hiện các loại hình khác của "những việc tốt". Không ảnh hưởng đến Khuyến nghị 1, Khuyến nghị này chỉ áp dụng cho những NPO nằm trong định nghĩa của FATF về NPO. Không áp dụng cho tất cả các NPO trên toàn cầu.
2. Các tổ chức phi lợi nhuận (NPOs) đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới và trong nền kinh tế cũng như hệ thống xã hội của nhiều quốc gia. Nỗ lực của họ bổ sung cho hoạt động của các chính phủ và các hệ thống kinh doanh trong việc cung cấp dịch vụ thiết yếu, mang lại sự thoải mái và hy vọng cho những người cần trợ giúp khắp nơi trên thế giới. FATF thừa nhận tầm quan trọng sống còn của các NPO trong việc cung cấp các dịch vụ từ thiện quan trọng này, cũng như khó khăn trong việc hỗ trợ những người có nhu cầu, thường là ở các khu vực rủi ro cao và khu vực xung đột, đồng thời hoan nghênh nỗ lực của các NPO để đáp ứng các nhu cầu đó. FATF cũng ghi nhận ý định và nỗ lực cho đến nay của các NPO nhằm thúc đẩy tính minh bạch trong hoạt động của họ và ngăn chặn lạm dụng tài trợ khủng bố, bao gồm cả việc thông qua việc phát triển các chương trình nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cực đoan và cực đoan bạo lực. Chiến dịch quốc tế chống tài trợ khủng bố đang diễn ra đã xác định được các trường hợp trong đó những kẻ khủng bố và tổ chức khủng bố lợi dụng một số NPO trong lĩnh vực này để gây quỹ và chuyển tiền, cung cấp hỗ trợ hậu cần, khuyến khích tuyển mộ khủng bố hoặc nói cách khác là hỗ trợ các tổ chức và hoạt động khủng bố. Ngoài ra, đã có trường hợp những kẻ khủng bố tạo ra các tổ chức từ thiện giả mạo hoặc tham gia vào việc gây quỹ gian lận cho những mục đích này. Việc lạm dụng này không chỉ tạo điều kiện cho hoạt động khủng bố mà còn làm suy giảm lòng tin của các nhà tài trợ và gây nguy hiểm cho tính chính trực của các NPO. Do đó, việc bảo vệ các NPO khỏi sự lạm dụng tài trợ cho khủng bố vừa là một thành phần quan trọng của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, vừa là một bước cần thiết để bảo vệ tính toàn vẹn của các NPO và cộng đồng các nhà tài trợ. Các biện pháp bảo vệ NPO khỏi sự lạm dụng tài trợ khủng bố tiềm ẩn cần được nhắm mục tiêu và phù hợp với cách tiếp cận dựa trên rủi ro. Điều quan trọng nữa là các biện pháp đó phải được thực hiện theo cách tôn trọng nghĩa vụ của các quốc gia theo Hiến chương Liên hợp quốc và luật nhân quyền quốc tế
3. NPOs có thể dễ bị lạm dụng bởi những kẻ khủng bố vì một loạt các lý do. NPOs có sự tin tưởng của cộng đồng, có khả năng tiếp cận các nguồn kinh phí đáng kể và thường dùng tiền mặt. Hơn nữa, một số NPOs có sự hiện diện trên toàn cầu và điều này tạo ra một khuôn khổ cho các hoạt động cũng như các giao dịch tài chính trong phạm vi quốc gia và quốc tế, thường trong hoặc gần những khu vực dễ xảy ra hoạt động khủng bố. Trong một số trường hợp, các tổ chức khủng bố đã lợi dụng những đặc điểm này và những đặc điểm khác để thâm nhập vào một số NPO và sử dụng sai mục đích quỹ và hoạt động để che đậy, hoặc hỗ trợ cho hoạt động khủng bố..
B. CÁC MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC CHUNG
4. Mục tiêu của Khuyến nghị 8 là đảm bảo rằng các NPOs không bị lạm dụng bởi các tổ chức khủng bố: (i) để có vẻ ngoài của một tổ chức hợp pháp; (ii) để khai thác các tổ chức hợp pháp như những kênh cho tài trợ khủng bố, bao gồm cả cho mục đích trốn tránh các biện pháp phong tỏa tài sản, hoặc (iii) để che giấu hoặc làm lu mờ sự dịch chuyển bí mật của các quỹ dành cho các mục đích hợp pháp nhưng chuyển hướng cho các mục đích khủng bố. Trong phần chú giải này, cách tiếp cận được áp dụng để đạt các mục tiêu này dựa trên các nguyên tắc chung sau đây:
(a) Phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro áp dụng các biện pháp tập trung để đối phó với các mối đe dọa được xác định là lạm dụng tài trợ khủng bố đối với các NPO là điều cần thiết dựa trên sự đa dạng trong các lĩnh vực quốc gia riêng lẻ, mức độ khác nhau mà các bộ phận của mỗi lĩnh vực có thể dễ bị lạm dụng tài trợ khủng bố, cần đảm bảo rằng hoạt động từ thiện hợp pháp tiếp tục phát triển, đồng thời nguồn lực có hạn và cơ quan chức năng sẵn sàng để chống lại hoạt động tài trợ khủng bố ở mỗi quốc gia.
(b) Tính linh hoạt trong việc thiết lập cách xử lý của quốc gia đối với hành vi tài trợ khủng bố trong khu vực NPOs cũng rất quan trọng, để cho phép cách thức này tiến triển theo thời gian khi phải đối mặt với bản chất thay đổi của các mối đe dọa tài trợ khủng bố.
(c) Việc lạm dụng tài trợ khủng bố trong quá khứ và đang diễn ra đối với các NPO đòi hỏi các quốc gia phải áp dụng các biện pháp hiệu quả và phù hợp, các biện pháp này phải tương xứng với các rủi ro được xác định thông qua cách tiếp cận dựa trên rủi ro.
(d) Các biện pháp tập trung được các quốc gia áp dụng để bảo vệ các NPO khỏi sự lạm dụng tài trợ khủng bố không được làm gián đoạn hoặc ngăn cản các hoạt động từ thiện hợp pháp. Thay vào đó, các biện pháp như vậy phải thúc đẩy trách nhiệm giải trình và tạo niềm tin lớn hơn cho các NPO, trong cộng đồng các nhà tài trợ và với công chúng, rằng các quỹ và dịch vụ từ thiện sẽ tiếp cận những người thụ hưởng hợp pháp. Các hệ thống thúc đẩy việc đạt được mức độ cao về trách nhiệm giải trình, tính chính trực và lòng tin của công chúng vào việc quản lý và hoạt động của các NPO là yếu tố không thể thiếu để đảm bảo chúng không thể bị lạm dụng để tài trợ cho khủng bố.
(e) Các quốc gia được yêu cầu xác định và thực hiện hành động hiệu quả và tương xứng đối với các NPO bị lợi dụng hoặc cố ý hỗ trợ, các phần tử khủng bố hoặc các tổ chức khủng bố có tính đến các chi tiết cụ thể của vụ việc. Các quốc gia cần có mục tiêu ngăn chặn và truy tố, khi thích hợp, tài trợ khủng bố và các hình thức hỗ trợ khủng bố khác. Khi các NPO bị nghi ngờ hoặc có liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc các hình thức hỗ trợ khủng bố khác được xác định, ưu tiên đầu tiên của các quốc gia phải là điều tra và ngăn chặn việc tài trợ hoặc hỗ trợ khủng bố đó. Các hành động được thực hiện cho mục đích này, trong phạm vi hợp lý có thể, phải giảm thiểu tác động tiêu cực đến những người thụ hưởng vô tội và hợp pháp của hoạt động từ thiện. Tuy nhiên, mối quan tâm này không thể bào chữa cho nhu cầu thực hiện các hành động ngay lập tức và hiệu quả để thúc đẩy lợi ích tức thời của việc ngừng tài trợ khủng bố hoặc các hình thức hỗ trợ khủng bố khác do các NPO cung cấp.
(f) Phát triển các mối quan hệ hợp tác giữa các khu vực công và tư nhân và với các NPO là rất quan trọng để hiểu các rủi ro và chiến lược giảm thiểu rủi ro của các NPO, nâng cao nhận thức, tăng hiệu quả và tăng cường khả năng chống lạm dụng tài trợ khủng bố trong các NPO. Các quốc gia nên khuyến khích phát triển nghiên cứu học thuật và chia sẻ thông tin trong các NPO để giải quyết các vấn đề liên quan đến tài trợ khủng bố.
C. CÁC BIỆN PHÁP
5. Không ảnh hưởng đến các yêu cầu của Khuyến nghị 1, vì không phải tất cả các tổ chức NPO đều có rủi ro cao (và một số tổ chức có thể ít hoặc không có rủi ro nào cả), các quốc gia nên xác định nhóm các tổ chức nào nằm trong định nghĩa của FATF về NPO. Khi thực hiện những đánh giá này, các quốc gia cần phải sử dụng tất cả các nguồn thông tin có thể có để xác định các đặc điểm và các loại NPOs, mà qua các hoạt động hoặc đặc điểm là các NPOs có nguy cơ bị lạm dụng để tài trợ cho khủng bố
[24]. Điều quan trọng nữa là phải xác định được bản chất của các mối đe dọa do các tổ chức khủng bố gây ra cho các NPO có nguy cơ cũng như cách các phần tử khủng bố lạm dụng các NPO đó. Các quốc gia cần xem xét tính đầy đủ của các biện pháp, bao gồm cả luật và quy định, liên quan đến nhóm khu vực NPO có thể bị lạm dụng để giúp tài trợ khủng bố để có thể thực hiện các hành động tương xứng và hiệu quả nhằm giải quyết các rủi ro đã được xác định. Các hành động này có thể có nhiều dạng khác nhau và có thể là một văn bản. Các quốc gia cũng cần phải định kỳ đánh giá lại khu vực bằng cách xem xét thông tin mới về những khía cạnh tiềm ẩn dễ bị tổn thương bởi các hoạt động khủng bố của khu vực này
6. Các phương pháp tiếp cận để xác định, ngăn ngừa và chống khủng bố lạm dụng NPOs có phạm vi hết sức đa dạng. Cách tiếp cận hiệu quả là phương thức bao hàm cả 4 yếu tố sau đây: (a) Tiếp cận trực tiếp tới khu vực, (b) Giám sát hoặc kiểm soát dựa trên rủi ro, (c) Thu thập thông tin và điều tra hiệu quả, (d) Có cơ chế hiệu quả cho hợp tác quốc tế. Các biện pháp sau đây là những ví dụ hành động cụ thể mà các quốc gia cần phải thực hiện đối với từng yếu tố này để bảo vệ khu vực NPOs của họ khỏi bị lạm dụng cho tài trợ khủng bố:
(a) Tiếp cận trực tiếp tới khu vực NPOs liên quan đến các vấn đề tài trợ khủng bố.
(i) Các quốc gia cần phải có chính sách rõ ràng để thúc đẩy tính minh bạch, tính chân chính và niềm tin của công chúng trong việc điều hành và quản lý của tất cả các NPOs.
(ii) Các quốc gia cần phải khuyến khích hoặc thực hiện các chương trình tiếp cận trực tiếp để nâng cao nhận thức trong khu vực NPOs về việc các NPOs dễ chịu ảnh hưởng của rủi ro bị lạm dụng khủng bố, tài trợ khủng bố và các biện pháp mà NPOs có thể thực hiện để bảo vệ mình khỏi sự lạm dụng như vậy.
(iii) Các quốc gia cần phải làm việc với khu vực NPOs để xây dựng và chỉnh sửa các tài liệu thực hành tốt nhất để giải quyết các rủi ro tài trợ khủng bố và những khía cạnh dễ bị ảnh hưởng để bảo vệ được khu vực này khỏi bị lạm dụng khủng bố.
(iv) Các quốc gia cần phải khuyến khích các NPOs thực hiện các giao dịch thông qua các kênh tài chính được quản lý, bất cứ nơi nào có thể, có lưu ý tới khả năng khác nhau của các khu vực tài chính ở các quốc gia khác nhau và trong các khu vực địa lý khác nhau có nhu cầu nhân đạo và từ thiện khẩn cấp.
(b) Giám sát hoặc kiểm soát các NPOs dựa trên rủi ro.
Các quốc gia cần phải thực hiện các bước để thúc đẩy giám sát hoặc kiểm soát hiệu quả khu vực NPOs. Cách tiếp cận “một phù hợp với tất cả” sẽ không phù hợp với việc thực hiện đúng cách tiếp cận dựa trên rủi ro như được quy định trong Khuyến nghị 1 của Tiêu chuẩn FATF. Trên thực tế, các quốc gia phải có khả năng chứng minh rằng các biện pháp dựa trên rủi ro áp dụng cho các NPO có nguy cơ bị lạm dụng tài trợ khủng bố. Cũng có thể là các quy định hiện hành hoặc các biện pháp khác có thể đã giải quyết đủ rủi ro tài trợ khủng bố hiện tại cho các NPO trong khu vực pháp lý, mặc dù các rủi ro tài trợ khủng bố đối với lĩnh vực này cần được xem xét định kỳ. Các cơ quan có thẩm quyền cần giám sát sự tuân thủ của các NPO đối với các yêu cầu của Khuyến nghị này, bao gồm cả các biện pháp dựa trên rủi ro đang được áp dụng cho họ
[25]. Các cơ quan có thẩm quyền thích hợp phải có khả năng áp dụng các biện pháp trừng phạt hiệu quả, tương xứng và có tính thuyết phục đối với các hành vi vi phạm của các NPO hoặc những người đại diện cho các NPO này
[26]. Sau đây là một số ví dụ về các biện pháp có thể được áp dụng toàn bộ hoặc một phần cho các NPO, tùy thuộc vào các rủi ro được xác định:
(i) Các NPOs cần phải đăng ký hoặc cấp phép. Thông tin này cần phải được công khai cho cơ quan chức năng có thẩm quyền và khuyến khích công khai cho công chúng
[27].
(ii) Các NPO có thể được yêu cầu lưu giữ thông tin về: (1) mục đích và mục tiêu của các hoạt động đã nêu của họ; và (2) danh tính của (những) người sở hữu, kiểm soát hoặc chỉ đạo các hoạt động của họ, bao gồm các quan chức cấp cao, thành viên hội đồng quản trị và người được ủy thác. Thông tin này có thể được công bố trực tiếp từ NPO hoặc thông qua các cơ quan có thẩm quyền thích hợp.
(iii) Các NPOs cần phải phát hành báo cáo tài chính hàng năm cung cấp chi tiết thông tin các khoản thu và chi.
(iv) Các NPOs cần phải có sẵn sự kiểm soát thích hợp để đảm bảo tất cả các khoản tiền được hạch toán đầy đủ và được chi tiêu theo cách thức phù hợp với mục đích và mục tiêu hoạt động đã công bố của NPOs nói trên.
(v) Các NPO có thể được yêu cầu thực hiện các biện pháp hợp lý để xác nhận danh tính, thông tin xác thực và trạng thái tốt của những người thụ hưởng
[28] và các NPO liên kết và họ không liên quan và / hoặc sử dụng các quỹ từ thiện để hỗ trợ những kẻ khủng bố hoặc các tổ chức khủng bố
[29]. Tuy nhiên, NPO không nên bắt buộc phải tiến hành thẩm định khách hàng. Các NPO có thể được yêu cầu thực hiện các biện pháp hợp lý để ghi lại danh tính của các nhà tài trợ quan trọng của họ và tôn trọng tính bảo mật của nhà tài trợ. Mục tiêu cuối cùng của yêu cầu này là ngăn chặn các quỹ từ thiện được sử dụng để tài trợ và hỗ trợ những kẻ khủng bố và các tổ chức khủng bố.
(vi) Các NPO có thể được yêu cầu duy trì, trong khoảng thời gian ít nhất là năm năm hồ sơ về các giao dịch trong nước và quốc tế đủ chi tiết để xác minh rằng các khoản tiền đã được nhận và chi tiêu theo cách phù hợp với mục đích và mục tiêu của tổ chức, và có thể được yêu cầu cung cấp những thông tin này cho các cơ quan có thẩm quyền khi có chỉ đạo thích hợp. Điều này cũng áp dụng đối với thông tin được đề cập trong đoạn (ii) và (iii) ở trên. Nếu phù hợp, hồ sơ về các hoạt động từ thiện và hoạt động tài chính của các NPO cũng có thể được cung cấp cho công chúng.
(c) Thu thập thông tin và điều tra hiệu quả
(i) Các quốc gia cần phải đảm bảo hợp tác, phối hợp và chia sẻ thông tin hiệu quả trong phạm vi có thể giữa tất cả các cấp của các cơ quan thích hợp hoặc các tổ chức nắm giữ thông tin liên quan về NPOs.
(ii) Các quốc gia cần phải có chuyên môn điều tra và năng lực để kiểm tra những NPOs nghi ngờ là bị khai thác hoặc tích cực hỗ trợ cho hoạt động khủng bố hoặc tổ chức khủng bố.
(iii) Các quốc gia cần phải đảm bảo có thể có được việc truy cập đầy đủ thông tin về hành chính và quản lý của một NPOs cụ thể (bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin mang tính chương trình chiến lược) trong quá trình điều tra.
(iv) Các quốc gia cần phải thiết lập cơ chế thích hợp để đảm bảo khi có nghi ngờ hoặc các căn cứ hợp lý để nghi ngờ một NPOs cụ thể: (1) có liên quan đến lạm dụng tài trợ khủng bố và/hoặc là bình phong để gây quỹ bởi một tổ chức khủng bố; (2) đang bị khai thác như là một kênh cho tài trợ khủng bố, kể cả cho mục đích trốn tránh các biện pháp phong tỏa tài sản hoặc các hình thức hỗ trợ khủng bố khác; hoặc (3) đang che giấu hoặc che đậy sự dịch chuyển bí mật của các quỹ dành cho các mục đích hợp pháp, nhưng chuyển hướng phục vụ lợi ích cho những kẻ khủng bố hoặc các tổ chức khủng bố, thì thông tin này được chia sẻ ngay với các cơ quan chức năng liên quan để có hành động ngăn chặn hoặc điều tra.
(d) Năng lực đủ để đáp ứng các yêu cầu thông tin của quốc tế về một NPOs liên quan. Theo các khuyến nghị về hợp tác quốc tế, các quốc gia cần phải xác định các đầu mối liên lạc thích hợp và các thủ tục để đáp ứng các yêu cầu về thông tin của quốc tế liên quan đến các NPOs cụ thể bị nghi ngờ tài trợ cho khủng bố hoặc các hình thức hỗ trợ khác cho khủng bố.
D. CÁC NGUỒN LỰC CHO GIÁM SÁT, KIỂM SOÁT VÀ ĐIỀU TRA
7. Các quốc gia cần phải cung cấp cho các cơ quan chịu trách nhiệm giám sát, kiểm soát và điều tra khu vực NPOs của họ với đầy đủ các nguồn lực về tài chính, nhân lực và kỹ thuật.
Giải nghĩa các khái niệm cụ thể được sử dụng trong Khuyến nghị này.
Cơ quan có thẩm quyền phù hợp
|
đề cập đến các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm các cơ quan quản lý, cơ quan thuế, FIU, cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan tình báo, các tổ chức kiểm định và các tổ chức tự quản lý ở một số quốc gia/vùng lãnh thổ
|
NPOs liên kết
|
bao gồm các chi nhánh nước ngoài của các NPOs quốc tế và các NPO có quan hệ đối tác đã được sắp xếp.
|
Những người hưởng lợi
|
đề cập đến những cá nhân, hoặc nhóm các cá nhân nhận được các loại từ thiện, nhân đạo, hỗ trợ khác thông qua các dịch vụ của các NPOs.
|
Tổ chức phi lợi nhuận hoặc NPO
|
đề cập đến một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý hay một tổ chức mà chủ yếu là tham gia vào huy động hoặc phân bổ vốn cho các mục đích như từ thiện, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, xã hội hoặc mục đích tương tự hoặc cho việc thực hiện các công việc được cho là "việc tốt".
|
Lạm dụng tài trợ khủng bố
|
đề cập đến việc những kẻ khủng bố và các tổ chức khủng bố lợi dụng NPO để gây quỹ hoặc chuyển tiền, cung cấp hỗ trợ hậu cần, khuyến khích hoặc tạo điều kiện cho việc tuyển dụng khủng bố, hoặc nói cách khác là hỗ trợ những kẻ khủng bố hoặc các tổ chức và hoạt động khủng bố.
|
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ 10 (CẬP NHẬT THEO DÕI KHÁCH HÀNG - CDD)
A. CDD VÀ TIẾT LỘ THÔNG TIN
1. Nếu trong quá trình thiết lập mối quan hệ hoặc quan hệ với khách hàng hoặc khi thực hiện các giao dịch vãng lai, một tổ chức tài chính nghi ngờ các giao dịch liên quan đến tiền rửa hoặc tài trợ cho khủng bố thì tổ chức đó cần phải:
(a) Tìm cách nhận dạng và xác thực nhận dạng
[30] của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi, cho dù là người thường xuyên hay vãng lai và không phân biệt bất kỳ trường hợp ngoại lệ hay bất kỳ ngưỡng được chỉ định nào khác có thể áp dụng;
(b) Lập báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR) gửi đơn vị tình báo tài chính (FIU) theo Khuyến nghị 20.
2. Khuyến nghị 21 cấm các tổ chức tài chính, giám đốc, cán bộ và nhân viên của họ tiết lộ việc một STR hoặc thông tin có liên quan đang được báo cáo cho FIU. Một rủi ro hiện hữu là thông tin khách hàng có thể được tiết lộ một cách vô ýkhi các tổ chức tài chính đang tìm cách thực hiện nghĩa vụ CDD, trong trường hợp này nhận biết của khách hàng về một STR hoặc một cuộc điều tra có thể có sẽ có thể phương hại đến nỗ lực trong tương lai trong điều tra các hoạt động rửa tiền hoặc tài trợ cho khủng bố bị nghi ngờ.
3. Vì vậy, nếu các tổ chức tài chính có nghi ngờ giao dịch liên quan đến tiền rửa hoặc tài trợ cho khủng bố thì họ cần phải tính ngay đến rủi ro tiết lộ thông tin khi thực hiện quá trình CDD. Nếu tổ chức có cơ sở tin rằng thực hiện các quá trình CDD sẽ tiết lộ thông tin khách hàng hay khách hàng tiềm năng, thì tổ chức đó có thể lựa chọn không theo đuổi quá trình CDD đó và cần phải lập một STR. Các tổ chức phải đảm bảo nhân viên của họ được cảnh báo và luôn nhạy cảm với những vấn đề này khi thực hiện CDD.
B. CDD –THỰC HIỆN GIAO DỊCH THAY MẶT CHO KHÁCH HÀNG
4. Khi thực hiện các nội dung (a) và (b) của các biện pháp CDD được nêu trong Khuyến nghị 10, các tổ chức tài chính cũng cần phải được yêu cầu xác thực bất kỳ người nào có ý định hành động thay mặt cho khách hàng được ủy quyền để hành động như vậy và cần phải nhận dạng cũng như xác thực nhận dạng của người đó.
C. CDD ĐỐI VỚI CÁC PHÁP NHÂN VÀ THỎA THUẬN PHÁP LÝ
5. Khi thực hiện các biện pháp CDD đối với khách hàng là pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý
[31], các tổ chức tài chính cần phải được yêu cầu nhận dạng, xác thực khách hàng và hiểu được bản chất kinh doanh của họ cũng như cơ cấu sở hữu và cấu trúc kiểm soát của khách hàng đó. Mục tiêu của các yêu cầu nêu ở điểm (a) và (b) dưới đây liên quan đến nhận dạng, xác thực khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi, có hai điểm: đầu tiên là để ngăn ngừa việc lạm dụng các pháp nhân và thỏa thuận pháp lý bằng cách có được một sự hiểu biết đầy đủ về khách hàng để có thể đánh giá đúng những rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố tiềm ẩn gắn với mối quan hệ kinh doanh của họ; và thứ hai là tiến hành các bước phù hợp để giảm thiểu những rủi ro đó. Như hai khía cạnh của một quá trình, các yêu cầu này dường như tương tác và bổ sung cho nhau một cách tự nhiên.
Trong bối cảnh này, các tổ chức tài chính cần phải được yêu cầu:
(a) Nhận dạng khách hàng và xác thực nhận dạng đó. Các loại thông tin thông thường có thể cần để thực hiện chức năng này là:
(i) Tên, hình thức pháp lý và bằng chứng về sự tồn tại - xác thực có thể thu được, ví dụ: thông qua giấy chứng nhận thành lập, giấy chứng nhận hiện diện, một thỏa thuận góp vốn, một chứng thư ủy thác hoặc tài liệu khác từ một nguồn độc lập đáng tin cậy chứng minh tên, hình thức và sự tồn tại của khách hàng.
(ii) Các quyền hạn điều chỉnh và ràng buộc các pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý (ví dụ như các biên bản ghi nhớ và điều lệ hoạt động của một công ty), cũng như tên của những người liên quan có vị trí quản lý cao cấp trong các pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý (ví dụ như các giám đốc quản lý cấp cao trong một công ty, những người được ủy thác của một tín thác).
(iii) Địa chỉ của văn phòng đã được đăng ký và nếu là địa chỉ khác thì là địa điểm kinh doanh chính.
(b) Nhận dạng các chủ sở hữu hưởng lợi của khách hàng và thực hiện các biện pháp hợp lý
[32]để xác thực nhận dạng của những người này thông qua các thông tin sau đây:
(i) Đối với pháp nhân
[33]:
(i.i) Nhận dạng của những cá nhân (nếu có – do quyền lợi sở hữu có thể hết sức đa dạng đến mức không có các cá nhân (dù là hành động một mình hoặc với nhiều người) thực hiện kiểm soát pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý thông qua quyền sở hữu) là người cuối cùng có quyền lợi sở hữu kiểm soát
[34] trong một pháp nhân;
(i.ii) Đối với trường hợp khi có nghi ngờ theo điểm (i.i) là liệu những cá nhân với quyền lợi sở hữu kiểm soát có là chủ sở hữu hưởng lợi hay không hoặc khi không có cá nhân nào thực hiện kiểm soát thông qua các quyền lợi sở hữu thì nhận dạng của những cá nhân (nếu có) thực hiện kiểm soát pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý thông qua các phương tiện khác.
(i.iii) Trường hợp không có cá nhân nào được xác định theo điểm (i.i) hoặc (i.ii) nêu trên, tổ chức tài chính cần phải nhận dạng và thực hiện biện pháp hợp lý để xác thực danh tính của cá nhân có liên quan là người giữ vị trí quản lý cấp cao.
(ii) Đối với các thỏa thuận pháp lý:
(ii.i) Tín thác - nhận dạng người thiết lập tín thác, người nhận ủy thác, người bảo hộ (nếu có), những người thụ hưởng hoặc nhóm người thụ hưởng
[35] và bất cứ cá nhân nào khác thực sự kiểm soát cuối cùng của tín thác (bao gồm cả thông qua một chuỗi kiểm soát/quyền sở hữu);
(ii.ii) Các loại thỏa thuận pháp lý khác – nhận dạng người có vị trí tương đương.
Khi khách hàng hoặc chủ sở hữu nắm quyền kiểm soát là một công ty được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán và là đối tượng phải thực hiện các yêu cầu công khai (hoặc bởi các quy tắc của sở giao dịch chứng khoán hoặc thông qua luật hoặc các công cụ pháp lý khác) áp đặt các yêu cầu để đảm bảo tính minh bạch đầy đủ của quyền sở hữu hưởng lợi, hoặc là một công ty con thuộc phần lớn sở hữu của công ty đó thì không cần thiết phải nhận dạng và xác thực nhận dạng của bất kỳ cổ đông hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của những công ty như vậy.
Các dữ liệu nhận dạng liên quan có thể có được từ cổng đăng ký công, từ khách hàng hoặc từ các nguồn đáng tin cậy khác.
D. CDD ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI THỤ HƯỞNG CỦA CÁC HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
6. Đối với việc kinh doanh bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm liên quan đến đầu tư, bên cạnh các biện pháp CDD theo yêu cầu đối với khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi, các tổ chức tài chính cần phải thực hiện các biện pháp CDD sau đây đối với người thụ hưởng của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm liên quan đến đầu tư khác ngay sau khi những người thụ hưởng được xác định hay được chỉ định:
(a) Đối với những người thụ hưởng được xác định là những cá nhân, pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý có tên cụ thể - lấy tên của cá nhân, pháp nhân, thỏa thuận pháp lý đó;
(b) Đối với những người thụ hưởng được chỉ định theo đặc điểm hoặc theo nhóm (ví dụ như vợ, chồng hoặc con vào thời điểm mà sự kiện bảo hiểm xảy ra) hoặc theo các cách khác (ví dụ như theo một di chúc) - có đầy đủ thông tin liên quan đến người thụ hưởng để thỏa mãn tổ chức tài chính rằng danh tính của người thụ hưởng có thể được xác định vào thời điểm hoàn trả.
Các thông tin thu thập theo điểm (a) và/hoặc (b) cần phải được ghi lại và duy trì theo quy định của Khuyến nghị 11.
7. Đối với cả hai trường hợp nêu tại điểm 6(a) và (b) trên đây, việc xác thực nhận dạng của những người thụ hưởng cần phải diễn ra vào thời điểm hoàn trả.
8. Người thụ hưởng của một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cần phải được tổ chức tài chính xem là một yếu tố rủi ro liên quan trong việc xác định liệu các biện pháp CDD tăng cường có được áp dụng hay không. Nếu tổ chức tài chính xác định người thụ hưởng là một pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý có rủi ro cao hơn thì sau đó các biện pháp CDD tăng cường cần phải bao gồm các biện pháp hợp lý để nhận dạng và xác thực nhận dạng của chủ sở hữu hưởng lợi của người hưởng lợi tại thời điểm hoàn trả.
9. Trường hợp tổ chức tài chính không thể thực hiện theo các đoạn 6-8 nêu trên thì họ phải cần xem xét việc lập báo cáo giao dịch đáng ngờ.
E. DỰA VÀO NHẬN DẠNG VÀ XÁC THỰC NHẬN DẠNG ĐÃ THỰC HIỆN
10. Các biện pháp CDD nêu trong Khuyến nghị 10 không có nghĩa là các tổ chức tài chính cần phải nhận dạng và xác thực nhận dạng của khách hàng mỗi khi khách hàng đó thực hiện một giao dịch. Một tổ chức được quyền dựa vào các bước nhận dạng và xác thực nhận dạng mà họ đã thực hiện, trừ khi có nghi ngờ về tính xác thực của thông tin đó. Ví dụ về các tình huống có thể khiến một tổ chức có nghi ngờ như vậy có thể là khi có nghi ngờ rửa tiền liên quan đến khách hàng đó hoặc khi có sự thay đổi quan trọng trong cách mà tài khoản của khách hàng hoạt động không phù hợp với hồ sơ kinh doanh của khách hàng.
F. THỜI GIAN XÁC THỰC THÔNG TIN
11. Ví dụ về các trường hợp (bên cạnh những trường hợp được đề cập ở trên đối với người thụ hưởng của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ), khi có thể cho phép việc xác thực thông tin hoàn thành sau khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh, vì điều quan trọng là không làm gián đoạn hoạt động kinh doanh bình thường, bao gồm:
· Kinh doanh không trực tiếp.
· Các giao dịch chứng khoán. Trong ngành chứng khoán, các công ty và trung gian có thể được yêu cầu thực hiện các giao dịch rất nhanh chóng, theo các điều kiện thị trường tại thời điểm khách hàng liên hệ với họ và việc thực hiện giao dịch có thể được yêu cầu trước khi việc xác thực nhận dạng được hoàn thành.
12. Các tổ chức tài chính cũng cần thông qua các quy trình quản lý rủi ro phù hợp với các điều kiện để một khách hàng có thể tiến hành các mối quan hệ kinh doanh trước khi xác thực. Những quy trình này cần phải bao gồm một tập hợp các biện pháp, chẳng hạn như hạn chế số lượng, loại và/hoặc giá trị của các giao dịch có thể được thực hiện và kiểm soát các giao dịch lớn hoặc phức tạp được thực hiện ngoài các qui tắc thông thường của loại quan hệ đó.
G. CÁC KHÁCH HÀNG HIỆN TẠI
13. Cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính áp dụng các biện pháp CDD với các khách hàng hiện tại
[36] trên cơ sở tính chất quan trọng và rủi ro; và tiến hành theo dõi các mối quan hệ hiện tại đó vào các thời điểm thích hợp, có tính đến liệu các biện pháp CDD trước đây đã thực hiện chưa và tính đầy đủ các dữ liệu đã thu được.
H. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TRÊN CƠ SỞ RỦI RO[37]
14. Các ví dụ dưới đây không phải là những yếu tố bắt buộc của các chuẩn mực của FATF và được đưa vào để hướng dẫn. Các ví dụ không nhằm bao hàm một cách toàn diện tất cả các trường hợp và mặc dù được coi là những tiêu chí hữu ích, các yếu tố này vẫn có thể không phù hợp cho mọi tình huống.
Rủi ro cao hơn
15. Trong những trường hợp rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố cao hơn, thì/ khi đó các biện pháp CDD tăng cường cần phải được thực hiện. Khi đánh giá rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố liên quan đến các loại khách hàng, các quốc gia hoặc khu vực địa lý và các sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc các kênh phân phối cụ thể, các ví dụ về những tình huống tiềm ẩn rủi ro cao hơn (ngoài quy định trong các Khuyến nghị từ 12 đến 16) bao gồm:
(a) Các yếu tố rủi ro khách hàng:
· Mối quan hệ kinh doanh được thực hiện trong trường hợp bất thường (ví dụ: khoảng cách địa lý xa không giải thích được giữa tổ chức tài chính và khách hàng).
· Các khách hàng không cư trú.
· Các pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý là phương tiện nắm giữ tài sản cá nhân.
· Các công ty có cổ đông vô danh hoặc có những cổ phiếu vô danh.
· Hoạt động kinh doanh dùng nhiều tiền mặt.
· Cơ cấu sở hữu của công ty xuất hiện những yếu tố bất thường hoặc quá mức xét về bản chất kinh doanh của công ty.
(b) Các yếu tố rủi ro quốc gia hoặc khu vực địa lý
[38]:
· Các quốc gia đã được xác định bởi các nguồn đáng tin cậy, như các báo báo cáo đánh giá đa phương hoặc đánh giá chi tiết hoặc các báo cáo giám sát, là những quốc gia không có hệ thống AML/CFT đầy đủ.
· Các quốc gia chịu sự trừng phạt, cấm vận hoặc các biện pháp tương tự, ví dụ như do Liên hợp quốc ban hành.
· Các quốc gia được xác định bởi các nguồn đáng tin cậy là có mức độ nghiêm trọng về tham nhũng hoặc hoạt động tội phạm khác.
· Các quốc gia hoặc các khu vực địa lý được xác định bởi các nguồn đáng tin cậy là nơi cung cấp tài trợ hoặc hỗ trợ cho các hoạt động khủng bố hoặc có tổ chức khủng bố bị chỉ định hoạt động trong phạm vi lãnh thổ của họ.
(c) Các yếu tố rủi ro sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc kênh phân phối:
· Ngân hàng tư nhân.
· Các giao dịch vô danh (có thể bao gồm tiền mặt).
· Các mối quan hệ kinh doanh hoặc giao dịch không gặp mặt trực tiếp.
· Thanh toán nhận được từ các bên thứ ba không rõ hoặc không phải là đối tác.
Rủi ro thấp hơn
16. Có những trường hợp có thể có rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ cho khủng bố thấp hơn. Trong những trường hợp như vậy và với điều kiện là đã có phân tích đầy đủ về rủi ro bởi quốc gia hoặc tổ chức tài chính, thì có thể là hợp lý khi một quốc gia cho phép các tổ chức tài chính của mình áp dụng các biện pháp CDD đơn giản.
17. Khi đánh giá các rủi ro rửa tiền và tài trợ cho khủng bố liên quan đến loại khách hàng, các quốc gia hoặc khu vực địa lý và các sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc các kênh phân phối cụ thể, các ví dụ về tình huống rủi ro tiềm ẩn thấp hơn bao gồm:
(a) Các yếu tố rủi ro về khách hàng:
· Các tổ chức tài chính và DNFBPs – khi mà họ chịu sự điều chỉnh của những yêu cầu phòng, chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố phù hợp với các Khuyến nghị của FATF, đã thực hiện hiệu quả những yêu cầu này và được giám sát hoặc kiểm soát một cách hiệu quả phù hợp với các Khuyến nghị để đảm bảo tính tuân thủ đối với các yêu cầu.
· Các công ty đại chúng niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán và là đối tượng điều chỉnh của các yêu cầu công khai (hoặc bởi các quy tắc của sàn giao dịch chứng khoán hoặc thông qua pháp luật hoặc các công cụ bắt buộc khác), mà những yêu cầu này đặt ra để đảm bảo tính minh bạch đầy đủ về quyền sở hữu hưởng lợi.
· Các cơ quan hành chính công hoặc doanh nghiệp công ích.
(b) Các yếu tố rủi ro về sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc kênh phân phối:
· Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có mức phí bảo hiểm thấp (ví dụ như phí bảo hiểm hàng năm ít hơn 1.000 USD/EUR hoặc phí bảo hiểm một lần ít hơn 2.500 USD/EUR).
· Các hợp đồng bảo hiểm cho các chương trình hưu trí nếu không có lựa chọn kết thúc sớm và hợp đồng đó không thể được sử dụng làm tài sản thế chấp.
· Một chương trình hưu trí, trợ cấp hoặc chương trình tương tự cung cấp lợi ích hưu trí cho người lao động khi mà các khoản đóng góp được thực hiện bằng cách khấu trừ từ tiền lương và các quy tắc của chương trình này không cho phép chuyển nhượng lợi ích của thành viên theo chương trình.
· Các sản phẩm hoặc dịch vụ tài chính cung cấp những dịch vụ hạn chế và được xác định một cách thích hợp cho một số loại khách hàng chỉ để nhằm mục tiêu mở rộng sự tiếp cận đối với các dịch vụ tài chính.
(c) Các yếu tố rủi ro quốc gia:
· Các quốc gia được xác định bởi các nguồn đáng tin cậy, như các báo cáo đánh giá đa phương hoặc báo cáo đánh giá chi tiết là có hệ thống AML/CFT hiệu quả.
· Các quốc gia được xác định bởi các nguồn đáng tin cậy là có mức độ thấp về tham nhũng hoặc hoạt động tội phạm khác.
Trong quá trình đánh giá rủi ro, các quốc gia hoặc các tổ chức tài chính có thể, khi thích hợp, xét đến tính đa dạng có thể có của rủi ro rửa tiền và tài trợ cho khủng bố giữa các vùng hoặc khu vực địa lý khác nhau trong một quốc gia.
18. Có rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố thấp hơn cho mục tiêu nhận dạng và xác thực nhận dạng không nghiễm nhiên có nghĩa là khách hàng đó có rủi ro thấp hơn trong tất cả các loại biện pháp CDD, đặc biệt là trong việc theo dõi liên tục các giao dịch.
Các yếu tố rủi ro
19. Khi đánh giá các rủi ro rửa tiền và tài trợ cho khủng bố liên quan đến các loại khách hàng, các quốc gia hoặc khu vực địa lý và các rủi ro về sản phẩm, dịch vụ, giao dịch hoặc các kênh phân phối, tổ chức tài chính cần phải tính đến yếu tố rủi ro liên quan đến những loại rủi ro đó. Cá yếu tố này hoặc đơn lẻ hoặc kết hợp, có thể làm tăng hoặc giảm các rủi ro tiềm ẩn đặt ra, do đó ảnh hưởng đến mức độ thích hợp của các biện pháp CDD.
Ví dụ, các yếu tố như vậy bao gồm:
· Mục đích của tài khoản hoặc mối quan hệ.
· Mức tài sản được gửi bởi một khách hàng hoặc quy mô của các giao dịch được thực hiện.
· Tính thường xuyên và quá trình quan hệ kinh doanh.
CÁC BIỆN PHÁP CDD TĂNG CƯỜNG
20. Các tổ chức tài chính cần phải kiểm tra, ở mức hợp lý có thể, cơ sở và mục đích của tất cả các giao dịch lớn bất thường, phức tạp và tất cả các khía cạnh bất thường của các giao dịch không có mục đích kinh tế hay mục đích hợp pháp rõ ràng. Khi rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ cho khủng bố cao hơn, các tổ chức tài chính cần phải được yêu cầu thực hiện các biện pháp CDD tăng cường, phù hợp với những rủi ro đã được xác định. Đặc biệt, họ cần phải tăng mức độ và tính chất trong hoạt động giám sát đối với mối quan hệ kinh doanh, để xác định liệu những giao dịch hoặc hoạt động đó có bất thường hoặc đáng ngờ hay không. Ví dụ về các biện pháp CDD tăng cường có thể được áp dụng cho những mối quan hệ kinh doanh có rủi ro cao hơn bao gồm:
· Lấy thêm thông tin về khách hàng (ví dụ như nghề nghiệp, khối lượng tài sản, thông tin có sẵn từ cơ sở dữ liệu công cộng, internet…) và cập nhật thường xuyên hơn các dữ liệu nhận dạng khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi.
· Lấy thêm thông tin về bản chất dự kiến của mối quan hệ kinh doanh.
· Lấy thông tin về nguồn gốc của tiền hoặc nguồn gốc sự giàu có của khách hàng.
· Lấy thông tin về lý do giao dịch được dự định hoặc thực hiện
· Có được sự chấp thuận của quản lý cấp cao để bắt đầu hoặc tiếp tục mối quan hệ kinh doanh.
· Thực hiện kiểm soát tăng cường mối quan hệ kinh doanh bằng cách tăng số lượng và thời gian kiểm soát được áp dụng và lựa chọn các khía cạnh của các giao dịch cần kiểm tra kỹ hơn.
· Yêu cầu khoản thanh toán đầu tiên được thực hiện thông qua tài khoản đứng tên của khách hàng với một ngân hàng theo các chuẩn mực CDD tương tự.
CÁC BIỆN PHÁP CDD ĐƠN GIẢN HÓA
21. Khi rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố thấp hơn, các tổ chức tài chính có thể được phép thực hiện các biện pháp CDD đơn giản hóa, nhưng cần phải tính đến bản chất của rủi ro thấp hơn đó. Các biện pháp đơn giản hóa cần phải tương ứng với các yếu tố rủi ro thấp hơn (ví dụ như các biện pháp đơn giản hóa có thể chỉ liên quan đến các biện pháp chấp nhận khách hàng hoặc các khía cạnh của giám sát liên tục). Ví dụ về các biện pháp có thể là:
· Xác thực nhận dạng khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi sau khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh (ví dụ như nếu các giao dịch tài khoản tăng trên một ngưỡng tiền đã xác định).
· Giảm tần suất cập nhật nhận dạng khách hàng.
· Giảm mức độ theo dõi và kiểm soát giao dịch, dựa trên một ngưỡng tiền hợp lý.
· Không thu thập thông tin cụ thể hoặc không thực hiện các biện pháp cụ thể để hiểu về mục đích và bản chất dự kiến của mối quan hệ kinh doanh, nhưng suy luận ra được mục đích và bản chất từ các loại giao dịch hoặc mối quan hệ kinh doanh đã thiết lập.
Các biện pháp CDD đơn giản hóa không được chấp nhận khi có bất cứ sự nghi ngờ rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố hoặc khi mà các kịch bản rủi ro cụ thể cao hơn xuất hiện.
Các ngưỡng
22. Ngưỡng được chỉ định cho các giao dịch vãng lai theo Khuyến nghị 10 là 15.000 USD/EUR. Các giao dịch tài chính trên ngưỡng được chỉ định bao gồm các tình huống khi giao dịch được tiến hành đơn lẻ hoặc trong một loạt các giao dịch liên quan đến nhau
Theo dõi thường xuyên
23. Cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính đảm bảo rằng các tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin thu thập trong quá trình CDD được cập nhật và phù hợp thông qua việc thực hiện rà soát hồ sơ hiện có, đặc biệt đối với các loại khách hàng có rủi ro cao hơn.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 12 (PEPs)
Các tổ chức tài chính cần phải tiến hành các biện pháp hợp lý để xác định xem liệu chủ sở hữu hưởng lợi của một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và/hoặc khi được yêu cầu, chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng có phải là PEPs không. Việc này cần phải làm chậm nhất là tại thời điểm hoàn trả. Trường hợp rủi ro cao được xác định, ngoài việc thực hiện các biện pháp CDD bình thường, các tổ chức tài chính cần phải được yêu cầu:
(a) Thông báo cho quản lý cấp cao trước khi thanh toán các khoản thu của hợp đồng đó;
(b) Thực hiện rà soát tăng cường toàn bộ mối quan hệ kinh doanh với người có hợp đồng bảo hiểm đó và xem xét lập một báo cáo giao dịch đáng ngờ.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 13 (NGÂN HÀNG ĐẠI LÝ)
Các mối quan hệ tương tự mà các tổ chức tài chính cần áp dụng các tiêu chí từ (a) đến (e) bao gồm, ví dụ như những mối quan hệ được thiết lập đối với các giao dịch chứng khoán hoặc giao dịch chuyển vốn, dù là giao dịch cho tổ chức tài chính ở nước ngoài hay cho các khách hàng của mình.
Khái niệm “tài khoản có thể thanh toán” chỉ những tài khoản đại lý được sử dụng trực tiếp bởi các bên thứ ba để thanh toán các hoạt động thay mặt cho chính họ.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 14 (DỊCH VỤ CHUYỂN TIỀN HOẶC GIÁ TRỊ)
Một quốc gia cần phải không áp đặt một hệ thống cấp phép hoặc đăng ký riêng đối với cá nhân hoặc pháp nhân đã được cấp phép hoặc đăng ký như các tổ chức tài chính (như được xác định bởi các khuyến nghị của FATF) trong quốc gia đó, mà theo sự cấp phép hoặc đăng ký đó, họ được phép thực hiện các dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị và cũng được coi là những đối tượng áp dụng đầy đủ các nghĩa vụ theo các khuyến nghị của FATF.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 15 (CÔNG NGHỆ MỚI)
1. Đối với mục đích áp dụng các Khuyến nghị của FATF, các quốc gia nên coi tài sản ảo là "tài sản", "tiền thu được", "quỹ", "quỹ hoặc tài sản khác" hoặc "giá trị tương ứng" khác. Các quốc gia nên áp dụng các biện pháp liên quan theo các Khuyến nghị của FATF về tài sản ảo và nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo (VASP).
2. Theo Khuyến nghị số 1, các quốc gia cần xác định, đánh giá và hiểu rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến
[39] xuất hiện từ các hoạt động tài sản ảo, các hoạt động hoặc tổ chức của các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo. Dựa trên đánh giá đó, các quốc gia nên áp dụng cách tiếp cận dựa trên rủi ro để đảm bảo rằng các biện pháp ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tiền rửa tiền và tài trợ khủng bố tương xứng với những rủi ro đã được xác định. Quốc gia nên thực hiện các bước thích hợp để quản lý và giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến mà nhận định. Các quốc gia cần yêu cầu các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo xác định, đánh giá và thực hiện hành động hiệu quả để giảm thiểu rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến.
3. Tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo phải được cấp phép hoặc đăng ký. Ở mức tối thiểu, tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo cần được yêu cầu cấp phép hoặc đăng ký tại (các) khu vực pháp lý nơi tổ chức hình thành
[40]. Trong trường hợp tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo là một thể nhân, họ phải được cấp phép hoặc đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nơi đặt trụ sở kinh doanh của họ. Các khu vực pháp lý cũng có thể yêu cầu các tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo cung cấp sản phẩm và/ hoặc các dịch vụ cho khách hàng, hoặc tiến hành các hoạt động tại khu vực pháp lý của họ để được cấp phép hoặc đăng ký ở khu vực pháp lý này. Các cơ quan có thẩm quyền nên thực hiện các biện pháp pháp lý cần thiết hoặc các biện pháp quy định để ngăn chặn tội phạm hoặc cộng sự của họ nắm giữ, hoặc trở thành chủ sở hữu thụ hưởng, một lợi ích đáng kể hoặc kiểm soát, hoặc nắm giữ chức năng lực quản lý trong tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo. Các quốc gia cần hành động để xác định thể nhân hoặc pháp nhân thực hiện các hoạt động cung ứng dịch vụ tài sản ảo mà không có giấy phép hoặc đăng ký cần thiết, và áp dụng các biện pháp trừng phạt thích hợp.
4. Một quốc gia không cần áp đặt một hệ thống cấp phép hoặc đăng ký riêng biệt đối với cá nhân hoặc pháp nhân đã được cấp phép hoặc đăng ký làm tổ chức tài chính (như đã định nghĩa trong khuyến nghị của FATF) trong quốc gia đó, theo đó giấy phép hoặc đăng ký, là được phép thực hiện các hoạt động của tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo và đã tuân theo đầy đủ các các nghĩa vụ áp dụng theo Khuyến nghị của FATF.
5. Các quốc gia cần đảm bảo rằng các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo phải tuân theo đầy đủ các quy định và giám sát hoặc giám sát về phòng chống rửa tiền/ tài trợ khủng bố và đang thực hiện hiệu quả các khuyến nghị liên quan của FATF nhằm giảm thiểu rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố phát sinh từ tài sản ảo. Các tổ chức cung ứng dịch vụ tài ảo phải tuân theo hệ thống hiệu quả để giám sát và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu phòng chống rửa tiền/ tài trợ khủng bố quốc gia. Các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo cần được giám sát hoặc theo dõi bởi cơ quan có thẩm quyền (không phải SRB), cơ quan này sẽ tiến hành giám sát dựa trên cở sở rủi ro hoặc quan sát. Giám sát viên cần có đủ quyền hạn để giám sát hoặc quan sát để đảm bảo sự tuân thủ của các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo về các yêu cầu chống rửa tiền và tài trợ khủng bố bao gồm quyền tiến hành kiểm tra, bắt buộc cung cấp thông tin và áp đặt lệnh trừng phạt. Giám sát viên phải có quyền áp dụng một loạt các hình thức kỷ luật và các biện pháp trừng phạt tài chính, bao gồm quyền thu hồi, hạn chế hoặc đình chỉ giấy phép hoặc đăng ký của tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo, nếu có.
6. Các quốc gia cần đảm bảo rằng một loạt các các biện pháp trừng phạt, dù là hình sự, dân sự hay hành chính, đều có sẵn để đối phó với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo không tuân thủ các yêu cầu phòng chống rửa tiền/ tài trợ khủng bố, phù hợp với Khuyến nghị số 35. Các biện pháp trừng phạt không chỉ áp dụng cho các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo, mà còn cho các giám đốc và quản lý cấp cao của họ.
7. Đối với các biện pháp phòng ngừa, các yêu cầu nêu trong các Khuyến nghị 10 đến 21 áp dụng cho các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo, phải tuân theo các tiêu chuẩn sau:
(a) R. 10 – Các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo được yêu cầu thẩm định khách hàng đối với các giao dịch không thường xuyên được chỉ định trên ngưỡng là 1.000 USD / EUR.
(b) R. 16 - Các quốc gia phải đảm bảo rằng nguổn gốc tổ chức cung ứng dịch vụ tài ảo có và lưu các thông tin bắt buộc và chính xác về người khởi tạo, và các thông tin bắt buộc về người thụ hưởng
[41]trong giao dịch tài sản ảo, cung cấp
[42] các thông tin trên cho tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo thụ hưởng hoặc tổ chức tài chính (nếu có) một cách ngay lập tức và an toàn, và cung cấp theo yêu cầu của cơ quan chức năng phù hợp. Các quốc gia phải đảm bảo rằng tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo thụ hưởng có và lưu thông tin bắt buộc người khởi tạo, các thông tin bắt buộc và chính xác về người thụ hưởng trong chuyển giao tài sản ảo và cung cấp thông tin đó theo yêu cầu của các cơ quan chức năng phù. Các yêu cầu khác của R. 16 (bao gồm việc giám sát sự sẵn có của thông tin và thực hiện đóng băng và cấm các giao dịch với cá nhân và tổ chức được chỉ định) áp dụng trên cơ sở tương tự như được nêu trong R. 16. Các nghĩa vụ giống nhau áp dụng cho các tổ chức tài chính khi gửi hoặc nhận chuyển nhượng tài sản ảo thay mặt cho một khách hàng.
8. Các quốc gia phải cung cấp một cách nhanh chóng, hữu ích và hiệu quả về phạm vi rộng nhất có thể của hợp tác quốc tế liên quan đến rửa tiền, tội phạm nguồn và tài trợ khủng bố liên quan đến tài sản ảo, trên cơ sở được nêu trong các Khuyến nghị 37 đến 40. Đặc biệt, các giám sát viên của tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo cần trao đổi thông tin kịp thời và mang tính xây dựng đối với các đối tác nước ngoài của họ, bất kể bản chất hoặc tình trạng của giám sát viên và sự khác biệt trong danh pháp hoặc trạng thái của tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 16 (CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ)
A. MỤC TIÊU
1. Khuyến nghị 16 đã được phát triển với mục tiêu ngăn chặn khủng bố và các tội phạm khác sử dụng chuyển tiền điện tử không hạn chế để di chuyển các quỹ của chúng hoặc để phát hiện sự lạm dụng đó nếu nó xảy ra. Cụ thể, KN này nhằm mục đích đảm bảo rằng các thông tin cơ bản về người khởi tạo và người thụ hưởng trong các giao dịch chuyển tiền điện tử luôn có ngay lập tức:
(a) Cho các cơ quan thực thi pháp luật và/ hoặc các cơ quan công tố thích hợp để giúp họ phát hiện, điều tra và truy tố những kẻ khủng bố hoặc tội phạm khác và lần theo dấu vết tài sản của chúng;
(b) Cho các đơn vị tình báo tài chính để phân tích hoạt động đáng ngờ hoặc bất thường, cũng như chuyển giao khi cần thiết;
(c) Cho các tổ chức tài chính đặt lệnh, trung gian và thụ hưởng có thể nhận dạng và báo cáo các giao dịch đáng ngờ, thực hiện các yêu cầu tiến hành phong tỏa và tuân thủ các nguyên tắc cấm thực hiện các giao dịch với các cá nhân và tổ chức bị chỉ định theo các nghĩa vụ đã nêu trong các Nghị quyết có liên quan của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như Nghị quyết số 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa và Nghị quyết 1373 (2001) liên quan đến ngăn chặn và chống chủ nghĩa khủng bố và tài trợ khủng bố.
2. Để đạt được những mục đích này, các quốc gia cần phải có khả năng lần theo dấu vết tất cả các khoản chuyển tiền điện tử (EFT). Vì mối đe dọa tài trợ khủng bố tiềm ẩn trong các khoản chuyển tiền điện tử nhỏ, nên các quốc gia cần phải tối thiểu hóa các ngưỡng có tính đến rủi ro các giao dịch chuyển sang giao dịch ngầm và tầm quan trọng của việc mở rộng tiếp cận dịch vụ tài chính. FATF không có ý định áp đặt các chuẩn mực cứng nhắc hoặc đòi hỏi một quá trình hoạt động duy nhất mà lại tác động bất lợi tới hệ thống thanh toán.
B. PHẠM VI
3. Khuyến nghị 16 áp dụng cho các khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới và chuyển tiền điện tử trong nước, bao gồm cả các khoản thanh toán theo chuỗi và thanh toán theo tài liệu hồ sơ.
4. Khuyến nghị 16 không định bao gồm các loại hình thanh toán dưới đây:
(a) Bất cứ khoản chuyển tiền nào bắt nguồn từ một giao dịch được thực hiện có sử dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng hoặc thẻ trả trước để mua hàng hóa hoặc dịch vụ, miễn là mã số các loại thẻ này gắn liền với tất cả các khoản tiền được chuyển sau các giao dịch. Tuy nhiên, khi các thẻ này được sử dụng như một hệ thống thanh toán để thực hiện chuyển tiền điện tử từ người này tới người khác thì giao dịch lại được điều chỉnh bởi Khuyến nghị số 16 và các thông tin cần thiết phải được đưa vào trong nội dung bức điện;
(b) Các khoản tiền chuyển và thanh toán giữa các định chế tài chính mà cả người khởi tạo và người thụ hưởng đều là các tổ chức tài chính hành động thay mặt cho chính họ.
5. Các quốc gia có thể thông qua một ngưỡng tối thiểu đối với các khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới (không cao hơn 1.000 EUR hoặc 1.000 USD), theo đó các yêu cầu dưới đây cần phải được áp dụng:
(a) Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng các định chế tài chính phải đưa vào các điện chuyển tiền: (i) tên của người khởi tạo; (ii) tên người thụ hưởng; và (iii) số tài khoản của các bên hoặc số tham chiếu duy nhất của giao dịch. Các thông tin như vậy không cần phải xác thực tính chính xác, trừ khi có nghi ngờ về rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố, trong trường hợp đó, các định chế tài chính cần phải xác thực các thông tin gắn liền tới khách hàng của mình;
(b) Tuy nhiên, các quốc gia có thể yêu cầu đối với các giao dịch chuyển tiền xuyên biên giới dưới ngưỡng cũng bao gồm các thông tin chính xác theo yêu cầu về người khởi tạo.
C. CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ ĐẠT CHUẨN XUYÊN BIÊN GIỚI
6. Thông tin kèm theo các khoản chuyển tiền điện tử đạt chuẩn luôn phải chứa đựng:
a) Tên của người khởi tạo;
b) Số tài khoản của người khởi tạo được sử dụng để giao dịch;
c) Địa chỉ của người khởi tạo, số chứng minh thư nhân dân, số nhận dạng khách hàng
[43] hoặc ngày sinh và nơi sinh;
d) Tên người thụ hưởng;
e) Số tài khoản của người thụ hưởng được sử dụng để giao dịch.
7. Trong trường hợp không có tài khoản, cần phải có số tham chiếu duy nhất của giao dịch cho phép lần theo dấu vết của giao dịch.
8. Nếu nhiều khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới từ một người khởi tạo được gộp vào một đợt để chuyển cho những người thụ hưởng thì chúng có thể được miễn các yêu cầu ở đoạn 6 về thông tin người khởi tạo với điều kiện chúng đã có các thông tin về số tài khoản của người khởi tạo hoặc số tham chiếu duy nhất của giao dịch (như được mô tả tại đoạn 7 nêu trên) và đợt chuyển tiền đó đã chứa đựng thông tin cẩn thận và theo yêu cầu về người khởi tạo, thông tin đầy đủ về người thụ hưởng có thể lần theo dấu vết tại quốc gia người thụ hưởng.
D. CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ TRONG NƯỚC
9. Các thông tin kèm theo các khoản chuyển tiền điện tử trong nước cũng phải bao gồm thông tin về người khởi tạo như đối với các khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới, trừ khi những thông tin này có sẵn cho các tổ chức tài chính thụ hưởng và các cơ quan chức năng thích hợp bằng các hình thức khác. Trong trường hợp thứ hai, tổ chức tài chính ra lệnh chỉ cần đưa vào số tài khoản hoặc số tham chiếu duy nhất của giao dịch, với điều kiện số này hoặc thông tin nhận dạng cho phép lần theo dấu vết về người khởi tạo hoặc người thụ hưởng thông qua các giao dịch đã thực hiện.
10. Các thông tin cần phải được sẵn sàng cung cấp bởi tổ chức tài chính ra lệnh trong vòng 3 ngày làm việc sau khi nhận được yêu cầu từ tổ chức tài chính thụ hưởng hoặc từ các cơ quan thích hợp. Các cơ quan thi hành pháp luật cần phải có đủ thẩm quyền để bắt buộc đưa ra thông tin này ngay lập tức.
E. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH RA LỆNH, TRUNG GIAN VÀ THỤ HƯỞNG
Tổ chức tài chính ra lệnh
11. Tổ chức tài chính đặt lệnh cần phải đảm bảo các khoản chuyển tiền điện tử đạt chuẩn chứa đựng thông tin chính xác và theo yêu cầu về người khởi tạo và thông tin theo yêu cầu về người thụ hưởng.
12. Tổ chức tài chính đặt lệnh cần phải đảm bảo các khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới dưới bất cứ ngưỡng nào được áp dụng chứa đựng tên người khởi tạo và tên người thụ hưởng, số tài khoản của từng người và số tham chiếu duy nhất của giao dịch.
13. Tổ chức tài chính đặt lệnh cần phải duy trì tất cả các thông tin về người khởi tạo và người thụ hưởng đã thu thập được phù hợp với Khuyến nghị số 11.
14. Tổ chức tài chính đặt lệnh không được phép thực hiện các khoản chuyển tiền điện tử nếu không tuân thủ các yêu cầu nêu trên.
Tổ chức tài chính trung gian
15. Đối với các khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới, các tổ chức tài chính thực hiện một khâu trung gian trong chuỗi giao dịch chuyển tiền điện tử cần phải đảm bảo rằng tất cả các thông tin về người khởi tạo và người thụ hưởng được duy trì trong điện chuyển tiền.
16. Khi những hạn chế về kỹ thuật cản trở việc các thông tin theo yêu cầu về người khởi tạo và người thụ hưởng trên các điện chuyển tiền điện tử xuyên biên giới không được duy trì trong các điện chuyển tiền điện tử trong nước thì tổ chức tài chính trung gian nhận điện cần phải lưu giữ hồ sơ ít nhất 5 năm tất cả các thông tin nhận được từ định chế tài chính ra lệnh hoặc từ định chế tài chính trung gian khác.
17. Một tổ chức tài chính trung gian cần phải tiến hành các biện pháp thích hợp để nhận dạng các khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới không đủ các thông tin theo yêu cầu về người khởi tạo hoặc người thụ hưởng. Các biện pháp như vậy cần phải nhất quán với quá trình xử lý thông suốt.
18. Một định chế tài chính trung gian cần phải có các chính sách và quy trình dựa trên cơ sở rủi ro hiệu quả để xác định: (i) khi nào thực hiện, từ chối hoặc tạm dừng các khoản chuyển tiền điện tử thiếu thông tin về người thụ hưởng và người khởi tạo theo yêu cầu; và (ii) hành động phù hợp tiếp sau đó.
Tổ chức tài chính thụ hưởng
19. Một tổ chức tài chính thụ hưởng cần phải thực hiện các biện pháp phù hợp để nhận dạng các khoản chuyển tiền điện tử xuyên biên giới không đủ các thông tin theo yêu cầu về người khởi tạo hoặc người thụ hưởng. Các biện pháp như vậy có thể bao gồm sự kiểm soát sau giao dịch hoặc kiểm soát trong quá trình thực hiện giao dịch nếu khả thi.
20. Đối với các khoản chuyển tiền điện tử đạt chuẩn, tổ chức tài chính thụ hưởng cần phải xác thực nhận dạng người thụ hưởng, nếu nhận dạng chưa được xác thực trước đó và duy trì thông tin này phù hợp với Khuyến nghị số 11.
21. Định chế tài chính thụ hưởng cần phải có các chính sách và quy trình hiệu quả dựa trên cơ sở rủi ro để xác định: (i) khi nào thực hiện, từ chối hoặc tạm ngừng các khoản chuyển tiền điện tử không đủ các thông tin về người khởi tạo hoặc người thụ hưởng theo yêu cầu và (ii) hành động phù hợp sau đó.
F. Các nhà cung cấp dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị
22. Các nhà cung cấp dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị (MVTS) cần phải được yêu cầu tuân thủ tất cả các yêu cầu có liên quan của Khuyến nghị 16 tại các quốc gia mà họ hoạt động một cách trực tiếp hay là thông qua các đại lý của họ. Trong trường hợp một nhà cung cấp MVTS kiểm soát cả bên ra lệnh và bên thụ hưởng của một khoản chuyển tiền điện tử thì nhà cung cấp MVTS:
(a) Cần phải tính đến tất cả các thông tin từ cả bên ra lệnh và bên thụ hưởng để xác định có phải lập STR không; và
(b) Cần phải lập STR ở bất kỳ quốc gia nào bị tác động bởi khoản chuyển tiền điện tử đáng ngờ và sẵn sàng cung cấp thông tin giao dịch liên quan cho FIU.
Chú giải các thuật ngữ cụ thể được sử dụng trong Khuyến nghị này
|
Chính xác
|
Dùng để miêu tả thông tin đã được xác thực về tính chính xác
|
Chuyển tiền theo đợt
|
Là việc chuyển gộp một số khoản chuyển tiền điện tử cá nhânđược gửi đến cùng các tổ chức tài chính, nhưng có thể có hoặc không có ý định cuối cùng chuyển đến những người khác nhau
|
Người thụ hưởng
|
Đề cập đến cá nhân hoặc pháp nhân hoặc một thoả thuận pháp lý được xác định bởi người khởi tạo như là người nhận khoản chuyển tiền điện tử theo yêu cầu.
|
Tổ chức tài chính hưởng lợi
|
Đề cập đến tổ chức tài chính tiếp nhận khoản chuyển tiền điện tử từ tổ chức tài chính ra lệnh trực tiếp hoặc thông qua một tổ chức tài chính trung gian và sẵn sàng chuyển khoản tiền tới người thụ hưởng.
|
Thanh toán theo hồ sơ tài liệu
|
Đề cập đến khoản chuyển tiền điện tử kết hợp một thông điệp thanh toán do tổ chức tài chính ra lệnh gửi trực tiếp tới tổ chức tài chính thụ hưởng với hướng dẫn lộ trình của vốn (tài liệu) từ tổ chức tài chính đặt lệnh tới tổ chức tài chính thụ hưởng thông qua 1 hoặc nhiều tổ chức tài chính trung gian
|
Chuyển tiền điện tử xuyên biên giới
|
Đề cập đến bất kỳ khoản chuyển tiền điện tử nào mà tổ chức tài chính ra lệnh và định chế tài chính thụ hưởng ở các quốc gia khác nhau. Thuật ngữ này cũng đề cập đến bất kỳ một chuỗi chuyển tiền điện tử nào, trong đó có ít nhất một định chế tài chính liên quan đặt tại 1 quốc gia khác.
|
Chuyển tiền điện tử trong nước
|
Đề cập đến bất kỳ khoản chuyển tiền điện tử nào mà tổ chức tài chính ra lệnh và tổ chức tài chính thụ hưởng ở trong cùng một quốc gia. Thuật ngữ này vì vậy đề cập đến bất kỳ một chuỗi chuyển tiền điện tử nào diễn ra trọn vẹn trong lãnh thổ 1 quốc gia, thậm chí ngay cả khi hệ thống được sử dụng để chuyển thông điệp thanh toán có thể được đặt ở một quốc gia khác. Thuật ngữ này cũng đề cập đến bất kỳ chuỗi chuyển tiền điện tử nào diễn ra hoàn toàn trong phạm vi biên giới của Khu vực kinh tế Châu Âu (EEA) [44]
|
Tổ chức tài chính trung gian
|
Đề cập đến một định chế tài chính trong một chuỗi thanh toán hoặc thanh toán qua hồ sơ tài liệu tiếp nhận và chuyển một khoản chuyển tiền điện tử thay mặt cho định chế tài chính ra lệnh và tổ chức tài chính thụ hưởng hoặc một tổ chức tài chính trung gian khác.
|
Tổ chức tài chính ra lệnh
|
Đề cập đến một tổ chức tài chính khởi xướng chuyển tiền điện tử và chuyển các quỹ sau khi nhận yêu cầu chuyển tiền điện tử thay mặt cho người khởi tạo.
|
Người khởi tạo
|
Đề cập đến người nắm giữ tài khoản, người đã cho phép chuyển tiền điện tử từ tài khoản đó hoặc khi không có tài khoản thì là cá nhân hoặc pháp nhân đã đặt lệnh cho tổ chức tài chính ra lệnh thực hiện chuyển tiền điện tử.
|
Chuyển tiền điện tử tiêu chuẩn
|
Nghĩa là chuyển tiền điện tử xuyên quốc gia vượt bất kì ngưỡng nào có thể áp dụng được đã được mô tả tại đoạn 5 của Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Theo yêu cầu
|
Được sử dụng để mô tả một tình huống trong đó tất cả các yếu tố về thông tin theo yêu cầu đều hiện hữu. Tiểu đoạn 6(a), 6(b), 6(c) đưa ra thông tin theo yêu cầu về người khởi tạo. Tiểu đoạn 6(d) và 6(e) đưa ra thông tin theo yêu cầu về người hưởng lợi.
|
Thanh toán nối tiếp
|
đề cập đến một chuỗi thanh toán tuần tự trực tiếp trong đó chuyển khoản ngân hàng và thông điệp thanh toán kèm theo đi cùng nhau từ tổ chức tài chính đặt lệnh đến tổ chức tài chính thụ hưởng trực tiếp hoặc thông qua một hoặc nhiều tổ chức tài chính trung gian (ví dụ: ngân hàng đại lý)
|
Xử lý thông suốt
|
Đề cập đến các giao dịch thanh toán được thực hiện bằng điện tử không cần sự can thiệp thủ công.
|
Số tham chiếu duy nhất của giao dịch
|
Đề cập đến sự kết hợp các chữ cái, chữ số hoặc biểu tượng, do nhà cung cấp dịch vụ thanh toán xác định phù hợp với các cách thức về thanh toán và hệ thống thanh toán hoặc hệ thống thông điệp được sử dụng cho chuyển tiền điện tử
|
Chuyển tiền điện tử
|
Đề cập đến bất kỳ giao dịch nào được thực hiện thay mặt cho người khởi tạo thông qua một định chế tài chính bằng các phương tiện điện tử với ý định chuyển một khoản tiền cho ngườ thụ hưởng tại tổ chức tài chính thụ hưởng bất kể là người khởi tạo và người thụ hưởng có cùng là một người hay không [45].
|
CHÚGIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 17 (DỰA VÀO BÊN THỨ BA)
1. Khuyến nghị này không áp dụng đối với các mối quan hệ đại lý hoặc thuê cung ứng. Trong trường hợp dựa vào bên thứ ba, thì bên thứ ba đó phải là đối tượng của các yêu cầu về CDD và lưu giữ thông tin phù hợp với Khuyến nghị 10, 11 và được quản lý, giám sát và kiểm soát. Thông thường, bên thứ ba sẽ có mối quan hệ kinh doanh với khách hàng và mối quan hệ này độc lập với mối quan hệ được thiết lập giữa khách hàng với tổ chức tài chính dựa vào và có thể áp dụng quy trình của chính mình trong việc thực hiện các biện pháp CDD. Điều này có thể ngược lại với trường hợp đại lý hoặc thuê cung ứng, theo đó tổ chức được thuê cung ứng áp dụng các biện pháp CDD thay mặt cho tổ chức tài chính ủy quyền tuân theo các quy trình và chịu sự kiểm soát của định chế tài chính ủy quyền về việc thực hiện hiệu quả những quy trình đó bởi tổ chức được thuê cung ứng.
2. Để phục vụ cho mục đích của Khuyến nghị 17, thuật ngữ các cơ quan chức năng có liên quan nghĩa là (i) cơ quan của quốc gia đến cần phải đưa vào để hiểu về các chính sách của tập đoàn và kiểm soát ở cấp độ tập đoàn và (ii) cơ quan nước chủ nhà cần phải đưa vào để kiểm soát các chi nhánh/ công ty con.
3. Thuật ngữ các bên thứ ba nghĩa là các tổ chức tài chính hoặc DNFBPs được giám sát hoặc kiểm soát và là những đơn vị đáp ứng được các yêu cầu của Khuyến nghị số 17.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 18 (KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ CÁC CHI NHÁNH NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC CÔNG TY CON)
1. Các chương trình chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố của các tổ chức tài chính cần phải bao gồm:
(a) Việc xây dựng các chính sách, quy trình và kiểm soát nội bộ, bao gồm các quy định về quản lý tuân thủ phù hợp và quy trình sàng lọc đầy đủ nhằm đảm bảo chuẩn mực cao khi tuyển dụng nhân viên;
(b) Chương trình đào tạo nhân viên liên tục; và
(c) Chức năng kiểm toán độc lập để kiểm tra hệ thống.
2. Loại và phạm vi các biện pháp được tiến hành cần phải thích hợp, có tính đến rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố và quy mô hoạt động kinh doanh.
3. Các quy định quản lý tuân thủ cần phải gồm cả việc chỉ định một cán bộ tuân thủ ở cấp quản lý.
4. Các chương trình chống rửa tiền và tài trợ khủng bố của các tập đoàn tài chính phải được áp dụng cho tất cả các chi nhánh và công ty con thuộc sở hữu đa số của tập đoàn tài chính. Các chương trình này phải bao gồm các biện pháp từ (a) đến (c) ở trên, và phải phù hợp với hoạt động kinh doanh của các chi nhánh và công ty con do đa số sở hữu. Các chương trình này cần được thực hiện một cách hiệu quả ở cấp chi nhánh và các công ty con do đa số sở hữu. Các chương trình này cần bao gồm các chính sách và thủ tục để chia sẻ thông tin cần thiết phục vụ mục đích CDD và quản lý rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố. Các chức năng tuân thủ, kiểm toán và / hoặc chống RT/TTKB cấp tập đoàn phải được cung cấp với thông tin khách hàng, tài khoản và giao dịch từ các chi nhánh và công ty con khi cần thiết phục vụ các mục đích chống RT/TTKB. Điều này phải bao gồm thông tin và phân tích các giao dịch hoặc hoạt động có vẻ bất thường (nếu phân tích đó đã được thực hiện); và có thể bao gồm một STR, thông tin cơ bản của nó hoặc thông tin là đã gửi một STR. Tương tự, các chi nhánh và công ty con phải nhận được thông tin đó từ các chức năng cấp tập đoàn này khi có liên quan và phù hợp với việc quản lý rủi ro. Cần có các biện pháp bảo vệ thích hợp về tính bảo mật và việc sử dụng thông tin được trao đổi, bao gồm cả việc ngăn chặn tình trạng giới hạn. Các quốc gia có thể xác định phạm vi và mức độ của việc chia sẻ thông tin này, dựa trên mức độ nhạy cảm của thông tin và mức độ liên quan của nó với quản lý rủi ro chống RT/TTKB.
5. Trong trường hợp có các hoạt động ở nước ngoài, mà những yêu cầu tối thiểu về AML/CFT ở quốc gia chủ nhà kém chặt chẽ hơn so với những yêu cầu ở quốc gia mẹ, thì các định chế tài chính phải được yêu cầu đảm bảo rằng các chi nhánh, công ty con mà họ sở hữu phần lớn vốn tại quốc gia chủ nhà thực hiện các yêu cầu của quốc gia mẹ, trong phạm vi các luật và quy chế của quốc gia chủ nhà cho phép. Nếu quốc gia chủ nhà không cho phép thực hiện một cách phù hợp các biện pháp nêu trên thì các tập đoàn tài chính cần phải áp dụng các biện pháp bổ sung thích hợp nhằm quản lý rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố và thông báo cho các giám sát viên quốc gia của họ. Nếu các biện pháp bổ sung không hiệu quả, các cơ quan chức năng tại quốc gia mẹ cần phải cân nhắc tới các hành động giám sát bổ sung, kể cả việc áp đặt kiểm soát bổ sung lên tập đoàn tài chính đó, bao gồm cả việc yêu cầu tập đoàn tài chính đóng cửa hoạt động ở quốc gia đang hoạt động, nếu thích hợp.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ 19 (CÁC QUỐC GIA CÓ RỦI RO CAO)
1. Các biện pháp cập nhật theo dõi thông tin khách hàng tăng cường mà các tổ chức tài chính có thể thực hiện bao gồm các biện pháp đã được nêu tại đoạn 20 của phần chú giải cho Khuyến nghị số 10 và bất kỳ các biện pháp nào khác có hiệu quả tương tự trong việc giảm thiểu rủi ro.
2. Ví dụ về các biện pháp phòng, chống mà các quốc gia thực hiện bao gồm các biện pháp sau và bất kỳ biện pháp nào khác có hiệu quả tương tự trong việc giảm thiểu rủi ro:
(a) Yêu cầu các định chế tài chính áp dụng các yếu tố cụ thể trong tăng cường cập nhật theo dõi thông tin khách hàng;
(b) Đưa ra cơ chế báo cáo tăng cường hoặc báo cáo một cách hệ thống về các giao dịch tài chính;
(c) Từ chối việc thành lập công ty con hoặc chi nhánh hay văn phòng đại diện của các định chế tài chính từ quốc gia đang bị quan ngại hoặc xem xét đến một thực tế đó là định chế tài chính liên quan đến từ một quốc gia không có hệ thống AML/CFT đầy đủ;
(d) Cấm các tổ chức tài chính thành lập các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở các quốc gia bị quan ngại hoặc xem xét đến một thực tế là chi nhánh hoặc văn phòng đại diện đó có thể ở tại một quốc gia không có hệ thống chống RT/TTKB đầy đủ;
(e) Hạn chế các mối quan hệ kinh doanh hoặc giao dịch tài chính với các quốc gia được xác định hoặc người ở các quốc gia đó;
(f) Cấm các tổ chức tài chính dựa vào các bên thứ ba đặt trụ sở tại quốc gia đang bị quan ngại để thực hiện các yếu tố trong quá trình CDD;
(g) Yêu cầu các định chế tài chính rà soát và sửa đổi hoặc chấm dứt, nếu cần thiết, các mối quan hệ đại lý với các định chế tài chính ở quốc gia đang bị quan ngại;
(h) Yêu cầu tăng cường thanh tra, giám sát và/hoặc các yêu cầu kiểm toán độc lập đối với các chi nhánh và công ty con của tổ chức tài chính được đặt tại quốc gia đang bị quan ngại;
(i) Yêu cầu tăng cường các đòi hỏi về kiểm toán độc lập đối với các tập đoàn tài chính liên quan đến bất kỳ chi nhánh hoặc công ty con nào của tập đoàn này được đặt tại quốc gia đang bị quan ngại.
Cần phải có sẵn các biện pháp hiệu quả nhằm đảm bảo rằng các tổ chức tài chính được thông tin về những quan ngại đối với yếu kém trong hệ thống chống RT/TTKB của các quốc gia khác.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 20 (BÁO CÁO CÁC GIAO DỊCH ĐÁNG NGỜ/STR)
1. Dẫn chiếu tới hoạt động phạm tội trong khuyến nghị 20 là dẫn chiếu tới tất cả các hành động phạm tội cấu thành tội phạm nguồn của tội rửa tiền hoặc ít nhất là dẫn chiếu tới những tội có thể là tội phạm nguồn theo yêu cầu của Khuyến nghị 3. Các quốc gia được khuyến khích thông qua lựa chọn đầu tiên trong các lựa chọn nêu trên.
2. Dẫn chiếu tới tài trợ khủng bố trong Khuyến nghị số 20 là đề cập đến tài trợ cho các hành động khủng bố cũng như các tổ chức khủng bố hoặc những cá nhân khủng bố, ngay cả khi thiếu sự liên kết tới một hoặc nhiều hành động khủng bố cụ thể.
3. Tất cả các giao dịch đáng ngờ, bao gồm các giao dịch mới có ý định thực hiện, phải được báo cáo bất kể lượng tiền giao dịch là bao nhiêu.
4. Yêu cầu báo cáo cần phải là một nghĩa vụ bắt buộc trực tiếp và bất kỳ nghĩa vụ báo cáo giao dịch đáng ngờ gián tiếp hay ngụ ý nào, cho dù vì lý do có thể khởi tố vì tội rửa tiền hay tài trợ khủng bố hay lý do nào khác (được gọi là “báo cáo gián tiếp”), đều không được chấp nhận.
--------------------------------------------------------------
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 22 VÀ 23 (DNFBPS)
1. Các ngưỡng được chỉ định cho các giao dịch như sau:
- Sòng bạc (theo Khuyến nghị 22) - USD / EUR 3.000
- Đối với người kinh doanh kim loại quý và người kinh doanh đá quý khi thực hiện bất kỳ giao dịch tiền mặt nào (theo Khuyến nghị 22 và 23) - USD / 15.000 EUR.
Các giao dịch tài chính vượt ngưỡng được chỉ định bao gồm các trường hợp trong đó giao dịch được tiến hành hoạt động đơn lẻ hoặc trong một loạt các giao dịch liên quan đến nhau.
2. Các Chú giải áp dụng cho các tổ chức tài chính cũng có liên quan đến các DNFBP, nếu có. Theo mục đích của R.23, các yêu cầu đề cập đến "nhóm tài chính" trong R.18 áp dụng cho các nhóm DNFBP hoạt động theo cơ cấu giống như các nhóm tài chính. Ngoài ra, các quốc gia nên xem xét áp dụng các yêu cầu đối với các chương trình toàn nhóm đối với các DNFBP hoạt động trong các cấu trúc khác chia sẻ quyền sở hữu chung, quản lý hoặc kiểm soát tuân thủ để các cấu trúc đó có thể giảm thiểu rủi ro ML / TF tốt hơn bằng cách áp dụng các chương trình toàn nhóm. Loại và mức độ của các biện pháp được thực hiện phải phù hợp với hoạt động kinh doanh được tiến hành, nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố và quy mô của doanh nghiệp. Ví dụ, như quy định trong INR.18, các quốc gia có thể xác định phạm vi và mức độ chia sẻ thông tin, dựa trên mức độ nhạy cảm của thông tin và mức độ liên quan của nó với quản lý rủi ro AML / CFT.
3. Để tuân thủ các Khuyến nghị 22 và 23, các quốc gia không cần ban hành luật hoặc các phương tiện có hiệu lực thi hành chỉ liên quan đến luật sư, công chứng viên, kế toán và các doanh nghiệp và ngành nghề phi tài chính được chỉ định khác, miễn là các doanh nghiệp hoặc ngành nghề này được bao gồm trong luật hoặc có thể thi hành nghĩa là bao gồm các hoạt động cơ bản.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 22 (DNFBPs – CẬP NHẬT THEO DÕI THÔNG TIN KHÁCH HÀNG)
1. Các đại lý bất động sản cần phải tuân thủ các yêu cầu của Khuyến nghị số 10 liên quan đến cả Bên mua và Bên bán tài sản.
2. Các sòng bạc cần phải thực hiện Khuyến nghị số 10, bao gồm việc nhận dạng và xác thực nhận dạng khách hàng khi các khách hàng của họ tham gia vào các giao dịch tài chính bằng hoặc lớn hơn 3.000 USD/EUR. Việc thực hiện nhận dạng khách hàng tại cửa sòng bạc có thể hiệu quả, nhưng không cần thiết. Các quốc gia phải yêu cầu các sòng bạc đảm bảo rằng họ có thể kết nối thông tin theo dõi khách hàng đối với một khách hàng cụ thể tới các giao dịch mà khách hàng đó đã thực hiện tại sòng bạc.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 23 (DNFBPs – CÁC BIỆN PHÁP KHÁC)
1. Luật sư, công chứng viên, các chuyên gia pháp lý độc lập khác và các kế toán viên hành động như các chuyên gia pháp lý độc lập, không bị yêu cầu phải báo cáo các giao dịch đáng ngờ nếu các thông tin liên quan có được trong các trường hợp họ phải giữ bí mật nghề nghiệp hoặc được hưởng những đặc quyền của ngành nghề pháp lý đó.
2. Các quốc gia tự xác định những vấn đề thuộc đặc quyền ngành nghề pháp lý và bí mật nghề nghiệp. Thông thường các thông tin này là các thông tin mà luật sự, công chứng viên hoặc các chuyên gia pháp lý độc lập khác nhận được từ hoặc thu được thông qua một trong số các khách hàng của họ: (a) trong quá trình xác định tình trạng pháp lý của khách hàng hoặc (b) trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của họ là bảo vệ hoặc đại diện cho khách hàng đó trong hoặc liên quan đến các quá trình tố tụng pháp lý, hành chính, phân xử hay hòa giải.
3. Các quốc gia có thể cho phép các luật sư, công chứng viên, các chuyên gia pháp lý độc lập khác và các kế toán viên gửi các báo cáo giao dịch đáng ngờ (STRs) của họ cho các tổ chức tự quản có liên quan, với điều kiện là có các hình thức hợp tác phù hợp giữa các tổ chức này với FIU.
4. Khi các luật sư, công chứng viên, các chuyên gia pháp lý độc lập khác và các kế toán viên hành động như các chuyên gia pháp lý độc lập tìm cách khuyên ngăn khách hàng không tham gia vào hoạt động phi pháp, thì điều đó không được tính là tiết lộ thông tin.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 24 (TÍNH MINH BẠCH VÀ QUYỀN SỞ HỮU HƯỞNG LỢI CỦA PHÁP NHÂN)
1. Các cơ quan có thẩm quyền phải có thể thu thập hoặc có quyền truy cập kịp thời các thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về chủ sở hữu hưởng lợi và kiểm soát của các công ty và pháp nhân khác (thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi
[46]) được thành lập
[47] ở quốc gia đó, cũng như các công ty và pháp nhân có rủi ro RT/TTKB và có đủ mối liên kết
[48] với quốc gia của họ (nếu chúng không được tạo ra trong nước). Các quốc gia có thể lựa chọn các cơ chế mà họ dựa vào để đạt được mục tiêu này, mặc dù họ cũng phải tuân thủ các yêu cầu tối thiểu được nêu dưới đây. Các quốc gia nên sử dụng kết hợp nhiều cơ chế để đạt được mục tiêu
2. Là một phần của quá trình được mô tả trong đoạn 1 về đảm bảo rằng có sự minh bạch đầy đủ liên quan đến pháp nhân, các quốc gia cần có cơ chế:
(a) xác định và mô tả các loại, hình thức và đặc điểm cơ bản khác nhau của pháp nhân trong nước;
(b) xác định và mô tả các quy trình: (i) việc thành lập các pháp nhân đó; và (ii) thu thập và ghi lại thông tin cơ bản và chủ sở hữu hưởng lợi;
(c) công bố công khai các thông tin trên;
(d) đánh giá rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố liên quan đến các loại pháp nhân khác nhau được thành lập trong nước, và thực hiện các bước thích hợp để quản lý và giảm thiểu rủi ro mà họ xác định được; và
(e) đánh giá rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố mà quốc gia của họ phải đối mặt, liên quan đến các loại pháp nhân nước ngoài khác nhau, và thực hiện các bước thích hợp để quản lý và giảm thiểu rủi ro mà họ xác định
[49].
A. THÔNG TIN CƠ BẢN
3. Để xác định chủ sở hữu hưởng lợi của các công ty
[50], các cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu một số thông tin cơ bản nhất định về công ty, tối thiểu phải bao gồm thông tin về cơ cấu sở hữu và kiểm soát hợp pháp của công ty. Điều này sẽ bao gồm thông tin về tình trạng và quyền hạn của công ty, các cổ đông và giám đốc.
4. Tất cả các công ty được thành lập ở một quốc gia phải được đăng ký trong danh sách đăng ký công ty.
[51] Cho dù sử dụng việc kết hợp cơ chế nào để thu thập và lưu giữ thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi (xem phần B), thì cần có một bộ thông tin cơ bản về công ty cần được thu thập và lưu giữ bởi công ty đó
[52] làm điều kiện tiên quyết cần thiết. Thông tin cơ bản tối thiểu được một công ty thu thập và lưu giữ phải là:
(a) tên công ty, bằng chứng thành lập, hình thức pháp lý và tình trạng, địa chỉ của văn phòng đăng ký, quyền hạn điều chỉnh cơ bản (ví dụ: biên bản ghi nhớ và các điều khoản của hiệp hội), danh sách giám đốc và số nhận dạng duy nhất như mã số thuế hoặc số tương đương (nơi công ty tồn tại);
[53] và
(b) sổ đăng ký cổ đông hoặc thành viên của mình, trong đó có tên của các cổ đông và thành viên, số cổ phần mà mỗi cổ đông nắm giữ
[54] và loại cổ phần (bao gồm cả bản chất của quyền biểu quyết liên quan).
5. Sổ đăng ký công ty
[55] phải lưu giữ tất các các thông tin cơ bản được nêu ở đoạn 4(a) trên đây.
6. Công ty phải duy trì các thông tin cơ bản nêu tại khoản 4 (b) trong nước, tại văn phòng đăng ký của mình hoặc tại một địa điểm khác đã thông báo cho cơ quan đăng ký công ty. Tuy nhiên, nếu công ty hoặc cơ quan đăng ký công ty nắm giữ thông tin chủ sở hữu hưởng lợi trong nước, thì sổ đăng ký cổ đông không cần phải ở trong nước, miễn là công ty có thể cung cấp thông tin này ngay lập tức theo yêu cầu.
B. THÔNG TIN CHỦ SỞ HỮU HƯỞNG LỢI
7. Các quốc gia phải thực hiện cách tiếp cận đa hướng để đảm bảo rằng chủ sở hữu hưởng lợi của một công ty có thể được xác định một cách kịp thời bởi cơ quan có thẩm quyền. Các quốc gia nên quyết định, trên cơ sở rủi ro, bối cảnh và tính trọng yếu, hình thức đăng ký hoặc cơ chế khác mà họ sẽ sử dụng để cho phép các cơ quan có thẩm quyền tiếp cận thông tin một cách hiệu quả và phải có văn bản về quyết định của họ. Điều này nên bao gồm:
a) Các quốc gia phải yêu cầu các công ty thu thập và nắm giữ thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về chủ sở hữu hưởng lợi của công ty; hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền ở mức tối đa có thể để xác định chủ sở hữu hưởng lợi, bao gồm cả việc cung cấp thông tin kịp thời cho các cơ quan có thẩm quyền; và hợp tác với các tổ chức tài chính / DNFBP để cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của công ty.
b) (i) Các quốc gia phải yêu cầu thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân do cơ quan hoặc cơ quan công quyền nắm giữ (ví dụ: cơ quan thuế, FIU, cơ quan đăng ký công ty hoặc cơ quan đăng ký chủ sở hữu hưởng lợi). Thông tin cần không chỉ chỉ được nắm giữ bởi một cơ quan duy nhất.
[56]
b) (ii) Các quốc gia có thể quyết định sử dụng một cơ chế thay thế thay cho (b) (i) nếu nó cũng cung cấp cho các cơ quan chức năng quyền truy cập hiệu quả vào thông tin BO đầy đủ, chính xác và cập nhật. Đối với những mục đích này, việc chỉ dựa vào thông tin cơ bản hoặc thông tin hiện có là không đủ, nhưng phải có một số cơ chế cụ thể cung cấp khả năng truy cập thông tin một cách hiệu quả.
c) Các quốc
gia phải sử dụng bất kỳ biện pháp bổ sung thêm nào cần thiết để đảm bảo có thể xác định được chủ sở hữu hưởng lợi của một công ty; bao gồm thông tin ví dụ được nắm giữ bởi các cơ quan quản lý hoặc sở giao dịch chứng khoán; hoặc được thu thập bởi các tổ chức tài chính và / hoặc DNFBP theo các Khuyến nghị 10 và 22.[57]
8. Tất cả các cá nhân, cơ quan chức năng và các tổ chức được đề cập ở trên, và bản thân công ty (hoặc người quản lý, người thanh lý hoặc những người khác liên quan đến việc giải thể công ty), phải duy trì thông tin và hồ sơ được đề cập trong ít nhất năm năm sau ngày khi công ty bị giải thể hoặc không còn tồn tại, hoặc năm năm sau ngày công ty không còn là khách hàng của tổ chức trung gian chuyên nghiệp hoặc tổ chức tài chính.
C. TIẾP CẬN KỊP THỜI THÔNG TIN ĐẦY ĐỦ, CHÍNH XÁC VÀ CẬP NHẬT
9. Các quốc gia cần có cơ chế đảm bảo rằng thông tin cơ bản và thông tin có lợi về chủ sở hữu hưởng lợi, bao gồm thông tin được cung cấp cho cơ quan đăng ký công ty và bất kỳ thông tin sẵn có nào được đề cập trong đoạn 7, là đầy đủ, chính xác và cập nhật.
Thông tin
đầy đủ là thông tin đủ để xác định
[58] (các) thể nhân là (các) chủ sở hữu hưởng lợi, và các phương tiện và cơ chế thông qua đó họ thực hiện quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát có lợi.
Thông tin chính xác là thông tin đã được xác minh để xác nhận tính chính xác bằng cách xác minh danh tính và tình trạng của chủ sở hữu hưởng lợi bằng cách sử dụng các tài liệu, dữ liệu hoặc thông tin đáng tin cậy, có nguồn gốc/ được thu thập một cách độc lập. Mức độ của các biện pháp xác minh có thể thay đổi tùy theo mức độ rủi ro cụ thể.
Các quốc gia nên xem xét các biện pháp bổ sung khi cần thiết để hỗ trợ tính chính xác của thông tin về quyền sở hữu có lợi, ví dụ: báo cáo chênh lệch.
Thông tin cập nhật là thông tin hiện tại và cập nhật nhất có thể, đồng thời được cập nhật trong một khoảng thời gian hợp lý (ví dụ: trong vòng một tháng) sau bất kỳ thay đổi nào.
10. Các cơ quan có thẩm quyền, và cụ thể là các cơ quan thực thi pháp luật và FIU, phải có tất cả các quyền cần thiết để có thể truy cập kịp thời vào thông tin cơ bản và chủ sở hưởng lợi do các bên liên quan nắm giữ, bao gồm quyền truy cập nhanh chóng và hiệu quả vào thông tin được nắm giữ hoặc có được bởi cơ quan công hoặc cơ quan hoặc cơ quan có thẩm quyền khác về thông tin cơ bản và chủ sở hữu hưởng lợi và / hoặc về các tổ chức tài chính hoặc DNFBP nắm giữ thông tin này. Ngoài ra, các quốc gia phải đảm bảo các cơ quan công cấp quốc gia và các cơ quan khác khi thích hợp có quyền truy cập kịp thời vào thông tin cơ bản và chủ sở hữu hưởng lợi đối với pháp nhân trong quá trình mua sắm công.
11. Các quốc gia phải yêu cầu cơ quan đăng ký công ty của họ tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính, DNFBP và các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác truy cập kịp thời vào thông tin công khai mà họ nắm giữ và tối thiểu là thông tin được đề cập trong đoạn 4 (a) ở trên. Các quốc gia cũng nên xem xét tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính và DNFBP tiếp cận kịp thời với thông tin được đề cập trong đoạn 4 (b) ở trên và thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi được lưu giữ theo đoạn 7 ở trên, và có thể xem xét tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận thông tin này.
D. NHỮNG TRỞ NGẠI TỚI TÍNH MINH BẠCH
12. Các quốc gia cần thực hiện các biện pháp để ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro của việc lạm dụng cổ phiếu vô danh và chứng quyền vô danh
[59] bằng cách cấm phát hành cổ phiếu vô danh mới và chứng quyền vô danh; và, đối với bất kỳ cổ phiếu vô danh và chứng quyền cổ phiếu vô danh hiện có, bằng cách áp dụng một hoặc nhiều cơ chế sau đây trong một khung thời gian hợp lý
[60]:
a. chuyển đổi chúng thành một hình thức đã đăng ký; hoặc
b. cố định chúng bằng cách yêu cầu chúng phải được nắm giữ với một tổ chức tài chính theo quy định hoặc trung gian chuyên nghiệp, có quyền truy cập thông tin kịp thời bởi các cơ quan có thẩm quyền; và
c. trong khoảng thời gian trước khi (a) hoặc (b) được hoàn thành, yêu cầu người sở hữu công cụ ghi tên phải thông báo cho công ty và công ty phải ghi lại danh tính của họ trước khi bất kỳ quyền nào liên quan đến nó có thể được thực hiện.
13. Các quốc gia cần thực hiện các biện pháp để ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro của việc lạm dụng quyền sở hữu cổ phần được chỉ định và giám đốc danh nghĩa, bằng cách áp dụng một hoặc nhiều cơ chế sau:
a. yêu cầu các cổ đông và giám đốc danh nghĩa tiết lộ tình trạng được đề cử của họ và danh tính của người được đề cử của họ cho công ty và cho bất kỳ cơ quan đăng ký liên quan nào và để thông tin này được đưa vào sổ đăng ký liên quan và thông tin được lấy, nắm giữ hoặc ghi lại bởi cơ quan hoặc cơ quan công quyền hoặc cơ chế thay thế được đề cập trong đoạn 7. Tư cách người được đề cử phải được đưa vào thông tin công khai;
b. yêu cầu các cổ đông và giám đốc danh nghĩa phải được cấp phép
[61], vì tư cách được đề cử của họ và danh tính của người được đề cử của họ phải được cơ quan công quyền hoặc cơ quan hoặc cơ chế thay thế nêu trong đoạn 7 thu thập, nắm giữ hoặc ghi lại và để họ duy trì thông tin xác định người đề cử của họ và thể nhân thay mặt cho người được đề cử đang hành động cuối cùng
[62] và cung cấp thông tin này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu
[63]; hoặc
c. thực thi một lệnh cấm sử dụng các cổ đông được đề cử hoặc các giám đốc được đề cử.
E. CÁC TƯ CÁCH PHÁP NHÂN KHÁC
14. Đối với các quỹ trợ cấp, Anstalt, Waqf
[64] và các công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn, các quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp tương tự và áp đặt các yêu cầu tương tự, như các biện pháp yêu cầu đối với các công ty có tính đến sự khác biệt về loại hình và cấu trúc của chúng.
15. Đối với các loại hình pháp nhân khác, các quốc gia cần phải tính đến sự khác biệt về hình thức, cấu trúc của các pháp nhân đó và ở các mức độ rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố khác nhau gắn liền với từng loại hình pháp nhân, trên quan điểm nhằm đạt được mức độ phù hợp cho tính minh bạch. Ít nhất, các quốc gia cần phải đảm bảo rằng các pháp nhân nên lưu giữ hồ sơ và đảm bảo tính chính xác và cập nhật đối với các loại thông tin cơ bản tương tự cần phải được lưu giữ cẩn thận và cập nhật bởi các pháp nhân đó và các cơ quan chức năng truy cập thông tin như vậy được kịp thời. Các quốc gia cần phải xem xét lại các rủi ro về rửa tiền và tài trợ khủng bố gắn liền với các pháp nhân này và căn cứ vào mức độ của rủi ro, xác định các biện pháp cần phải thực hiện để đảm bảo rằng các cơ quan chức năng có thể truy cập được kịp thời các thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về quyền sở hữu hưởng lợi của các pháp nhân như vậy.
F. TRÁCH NHIỆM VÀ CHẾ TÀI
16. Cần phải có quy định trách nhiệm rõ ràng nhằm tuân thủ các yêu cầu trong Chú giải này cũng như trách nhiệm pháp lý và các chế tài hiệu quả, tương xứng và có tính chất răn đe phù hợp cho bất kỳ pháp nhân hay cá nhân nào không tuân thủ đúng theo các yêu cầu này.
G. HỢP TÁC QUỐC TẾ
17. Các quốc gia phải cung cấp một cách nhanh chóng, có tính xây dựng và hiệu quả phạm vi hợp tác quốc tế rộng rãi nhất có thể liên quan đến thông tin cơ bản và chủ sở hữu hưởng lợi, trên cơ sở nêu trong các Khuyến nghị 37 và 40. Điều này phải bao gồm (a) tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài tiếp cận thông tin cơ bản do cơ quan đăng ký công ty nắm giữ; (b) trao đổi thông tin về cổ đông; và (c) sử dụng quyền hạn của mình, theo quy định của pháp luật trong nước, để lấy thông tin chủ sở hữu hưởng lợi thay mặt cho các đối tác nước ngoài. Các quốc gia cần giám sát chất lượng hỗ trợ mà họ nhận được từ các quốc gia khác để đáp ứng các yêu cầu về thông tin cơ bản và chủ sở hữu hưởng lợi hoặc các yêu cầu hỗ trợ trong việc xác định các chủ sở hữu hưởng lợi đang cư trú ở nước ngoài. Phù hợp với các Khuyến nghị 37 và 40, các quốc gia không nên đặt ra các điều kiện hạn chế quá mức đối với việc trao đổi thông tin hoặc hỗ trợ, ví dụ: từ chối yêu cầu với lý do liên quan đến tài chính, bao gồm thuế, các vấn đề, bí mật ngân hàng, v.v. mục đích của việc xác định chủ sở hữu hưởng lợi cần được duy trì theo cách thức dễ tiếp cận để tạo điều kiện cho hợp tác quốc tế nhanh chóng, mang tính xây dựng và hiệu quả. Các quốc gia nên chỉ định và công khai (các) cơ quan chịu trách nhiệm trả lời tất cả các yêu cầu quốc tế về thông tin BO.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 25 (TÍNH MINH BẠCH VÀ QUYỀN SỞ HỮU HƯỞNG LỢI CỦA CÁC THỎA THUẬN PHÁP LÝ)
1. Các quốc gia cần phải yêu cầu người nhận ủy thác theo bất cứ một ủy thác nhanh nào được điều chỉnh theo luật của mình nhằm thu thập và lưu giữ thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về quyền sở hữu hưởng lợi liên quan tới tín thác. Cần phải gồm các thông tin về nhận dạng người ủy thác, người nhận ủy thác và người bảo hộ (nếu có), người hưởng lợi hoặc lớp người hưởng lợi và bất cứ cá nhân nào khác có quyền kiểm soát thực sự cuối cùng đối với tín thác. Các quốc gia cũng cần phải yêu cầu người nhận ủy thác của bất cứ một ủy thác nào được quy định theo luật lưu giữ các thông tin cơ bản về các đại lý được điều chỉnh khác và các nhà cung cấp dịch vụ ủy thác, bao gồm các nhà tư vấn hoặc quản lý đầu tư, kế toán viên và tư vấn viên về thuế.
2. Tất cả các quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp đảm bảo rằng người nhận ủy thác khai báo về tình trạng của mình cho các định chế tài chính và DNFBPs khi họ, với vai trò là người nhận ủy thác thiết lập mối quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện một giao dịch vãng lai nào vượt ngưỡng. Luật hoặc các công cụ pháp lý có tính bắt buộc cần phải không ngăn cấm người nhận ủy thác cung cấp cho cơ quan chức năng bất kỳ thông tin nào liên quan đến ủy thác
[65]; hoặc cung cấp cho các tổ chức tài chính và DNFBPs, theo yêu cầu, thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi và tài sản ủy thác được nắm giữ hoặc quản lý theo các điều khoản thỏa thuận kinh doanh.
3. Các quốc gia được khuyến khích đảm bảo rằng các cơ quan, cá nhân và tổ chức có liên quan khác lưu giữ các thông tin về tất cả các ủy thác mà họ có quan hệ. Các nguồn thông tin tiềm năng về các ủy thác, người nhận ủy thác và các tài sản ủy thác gồm:
· Các cơ quan đăng ký (ví dụ một cơ quan đăng ký trung ương về tín thác và tài sản tín thác); hoặc các cơ quan đăng ký tài sản đối với đất đai, nhà cửa, các phương tiện, cổ phiếu hoặc các tài sản khác.
· Các cơ quan chức năng khác nắm giữ thông tin về tín thác và người nhận ủy thác (ví dụ các cơ quan thuế thu thập thông tin về tài sản và thu nhập liên quan tới tín thác).
· Các đại lý hoặc nhà cung cấp dịch vụ ủy thác, bao gồm các nhà tư vấn hoặc quản lý đầu tư, luật sư hoặc các nhà cung cấp dịch vụ tín thác và công ty.
4. Các cơ quan chức năng, đặc biệt các cơ quan thực thi pháp luật cần phải có toàn quyền được tiếp cận một cách kịp thời các thông tin do người nhận ủy thác và các bên khác nắm giữ, đặc biệt là các thông tin do các tổ chức tài chính và DNFBPs nắm giữ về (a) quyền sở hữu hưởng lợi, (b) về nơi cư trú của người nhận ủy thác và (c) bất kỳ tài sản nào được tổ chức tài chính hoặc DNFBPs giữ hoặc quản lý liên quan đến bất cứ người nhận ủy thác nào mà họ có quan hệ kinh doanh hoặc họ đã thực hiện một giao dịch vãng lai.
5. Các nhà nhận ủy thác chuyên nghiệp cần phải được yêu cầu lưu giữ thông tin đã được đề cập ở đoạn 1 ít nhất trong 5 năm sau khi kết thúc một ủy thác mà họ tham gia. Các quốc gia được khuyến khích yêu cầu các nhà nhận ủy thác không chuyên và các cơ quan, cá nhân và tổ chức được đề cập tại đoạn 3 ở trên lưu giữ thông tin ít nhất trong 5 năm.
6. Các quốc gia cần phải yêu cầu bất cứ thông tin nào được lưu giữ theo đoạn 1 ở trên phải được giữ cẩn thận và cập nhật nhất nếu có thể và các thông tin cần phải được cập nhật trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi có bất cứ sự thay đổi nào.
7. Các quốc gia cần phải xem xét các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận bất kỳ thông tin nào liên quan đến tín thác được nắm giữ bởi các cơ quan, cá nhân và tổ chức đề cập ở đoạn 3 hoặc các tổ chức tài chính và DNBFPs đã thực hiện các yêu cầu nêu trong Khuyến nghị 10 và 22.
8. Theo khuyến nghị này, các quốc gia không buộc phải có công nhận pháp lý đối với tín thác. Các quốc gia cần không đưa yêu cầu của đoạn 1, 2 và 6 vào quy định của pháp luật với điều kiện là các nghĩa vụ thích hợp để đạt kết quả như vậy đã tồn tại đối với người nhận ủy thác (ví dụ thông qua luật thông lệ hoặc luật án lệ).
Các thỏa thuận pháp lý khác
9. Liên quan đến các loại thỏa thuận pháp lý khác với cấu trúc hoặc chức năng tương tự, các quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp tương tự như đối với tín thác, với quan điểm đạt được mức độ tương tự về tính minh bạch. Ít nhất, các quốc gia cần phải đảm bảo các thông tin tương tự như đã nêu cụ thể ở trên liên quan đến tín thác cần phải được lưu giữ cẩn thận và cập nhật và những thông tin như vậy có thể được các cơ quan chức năng truy cập một cách kịp thời.
Hợp tác quốc tế
10. Các quốc gia cần phải cung cấp hợp tác quốc tế một cách nhanh chóng, hiệu quả và mang tính xây dựng liên quan đến các thông tin, bao gồm các thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi, về tín thác và các thỏa thuận pháp lý khác trên cơ sở đã nêu tại Khuyến nghị 37 và 40. Điều này cần phải bao gồm: (a) tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng nước ngoài tiếp cận được bất cứ thông tin nào được các cơ quan đăng ký hoặc các cơ quan trong nước nắm giữ; (b) trao đổi trong nước các thông tin có thể có về tín thác và các thỏa thuận pháp lý khác; và (c) sử dụng quyền hạn của các cơ quan chức năng phù hợp luật trong nước, để thu thập các thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi thay mặt cho cơ quan đối tác nước ngoài.
Nghĩa vụ pháp lý và chế tài xử phạt
11. Các quốc gia cần đảm bảo có quy định rõ ràng về trách nhiệm tuân thủ các yêu cầu được nêu trong Bản chú giải này; và những người nhận ủy thác hoặc là phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với bất kỳ sự không thực hiện nghĩa vụ nêu tại đoạn 1, 2, 6 và 5 (nếu thích hợp); hoặc phải có các chế tài xử phạt hiệu quả, tương ứng và mang tính răn đe, dù đó là các biện pháp hình sự, dân sự hoặc hành chính đối với việc không tuân thủ
[66]. Các quốc gia cũng cần đảm bảo có các biện pháp xử phạt hiệu quả, tương ứng và mang tính răn đe, dù đó là các biện pháp hình sự, dân sự hoặc hành chính, đối với việc không cho phép các cơ quan chức năng tiếp cận thông tin liên quan đến ủy thác nêu tại đoạn 1 và 5 một cách kịp thời.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 25 (TÍNH MINH BẠCH VÀ QUYỀN SỞ HỮU HƯỞNG LỢI CỦA CÁC THỎA THUẬN PHÁP LÝ)
1. Các quốc gia cần phải yêu cầu người nhận ủy thác theo bất cứ một ủy thác nhanh nào được điều chỉnh theo luật của mình nhằm thu thập và lưu giữ thông tin đầy đủ, chính xác và cập nhật về quyền sở hữu hưởng lợi liên quan tới tín thác. Cần phải gồm các thông tin về nhận dạng người ủy thác, người nhận ủy thác và người bảo hộ (nếu có), người hưởng lợi hoặc lớp người hưởng lợi và bất cứ cá nhân nào khác có quyền kiểm soát thực sự cuối cùng đối với tín thác. Các quốc gia cũng cần phải yêu cầu người nhận ủy thác của bất cứ một ủy thác nào được quy định theo luật lưu giữ các thông tin cơ bản về các đại lý được điều chỉnh khác và các nhà cung cấp dịch vụ ủy thác, bao gồm các nhà tư vấn hoặc quản lý đầu tư, kế toán viên và tư vấn viên về thuế.
2. Tất cả các quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp đảm bảo rằng người nhận ủy thác khai báo về tình trạng của mình cho các tổ chức tài chính và DNFBPs khi họ, với vai trò là người nhận ủy thác thiết lập mối quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện một giao dịch vãng lai nào vượt ngưỡng. Luật hoặc các công cụ pháp lý có tính bắt buộc cần phải không ngăn cấm người nhận ủy thác cung cấp cho cơ quan chức năng bất kỳ thông tin nào liên quan đến ủy thác
[67]; hoặc cung cấp cho các tổ chức tài chính và DNFBPs, theo yêu cầu, thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi và tài sản ủy thác được nắm giữ hoặc quản lý theo các điều khoản thỏa thuận kinh doanh.
3. Các quốc gia được khuyến khích đảm bảo rằng các cơ quan, cá nhân và tổ chức có liên quan khác lưu giữ các thông tin về tất cả các ủy thác mà họ có quan hệ. Các nguồn thông tin tiềm năng về các ủy thác, người nhận ủy thác và các tài sản ủy thác gồm:
· Các cơ quan đăng ký (ví dụ một cơ quan đăng ký trung ương về tín thác và tài sản tín thác); hoặc các cơ quan đăng ký tài sản đối với đất đai, nhà cửa, các phương tiện, cổ phiếu hoặc các tài sản khác.
· Các cơ quan chức năng khác nắm giữ thông tin về tín thác và người nhận ủy thác (ví dụ các cơ quan thuế thu thập thông tin về tài sản và thu nhập liên quan tới tín thác).
· Các đại lý hoặc nhà cung cấp dịch vụ ủy thác, bao gồm các nhà tư vấn hoặc quản lý đầu tư, luật sư hoặc các nhà cung cấp dịch vụ tín thác và công ty.
4. Các cơ quan chức năng, đặc biệt các cơ quan thực thi pháp luật cần phải có toàn quyền được tiếp cận một cách kịp thời các thông tin do người nhận ủy thác và các bên khác nắm giữ, đặc biệt là các thông tin do các tổ chức tài chính và DNFBPs nắm giữ về (a) quyền sở hữu hưởng lợi, (b) về nơi cư trú của người nhận ủy thác và (c) bất kỳ tài sản nào được tổ chức tài chính hoặc DNFBPs giữ hoặc quản lý liên quan đến bất cứ người nhận ủy thác nào mà họ có quan hệ kinh doanh hoặc họ đã thực hiện một giao dịch vãng lai.
5. Các nhà nhận ủy thác chuyên nghiệp cần phải được yêu cầu lưu giữ thông tin đã được đề cập ở đoạn 1 ít nhất trong 5 năm sau khi kết thúc một ủy thác mà họ tham gia. Các quốc gia được khuyến khích yêu cầu các nhà nhận ủy thác không chuyên và các cơ quan, cá nhân và tổ chức được đề cập tại đoạn 3 ở trên lưu giữ thông tin ít nhất trong 5 năm.
6. Các quốc gia cần phải yêu cầu bất cứ thông tin nào được lưu giữ theo đoạn 1 ở trên phải được giữ cẩn thận và cập nhật nhất nếu có thể và các thông tin cần phải được cập nhật trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi có bất cứ sự thay đổi nào.
7. Các quốc gia cần phải xem xét các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận bất kỳ thông tin nào liên quan đến tín thác được nắm giữ bởi các cơ quan, cá nhân và tổ chức đề cập ở đoạn 3 hoặc các tổ chức tài chính và DNBFPs đã thực hiện các yêu cầu nêu trong Khuyến nghị 10 và 22.
8. Theo khuyến nghị này, các quốc gia không buộc phải có công nhận pháp lý đối với tín thác. Các quốc gia cần không đưa yêu cầu của đoạn 1, 2 và 6 vào quy định của pháp luật với điều kiện là các nghĩa vụ thích hợp để đạt kết quả như vậy đã tồn tại đối với người nhận ủy thác (ví dụ thông qua luật thông lệ hoặc luật án lệ).
Các thỏa thuận pháp lý khác
9. Liên quan đến các loại thỏa thuận pháp lý khác với cấu trúc hoặc chức năng tương tự, các quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp tương tự như đối với tín thác, với quan điểm đạt được mức độ tương tự về tính minh bạch. Ít nhất, các quốc gia cần phải đảm bảo các thông tin tương tự như đã nêu cụ thể ở trên liên quan đến tín thác cần phải được lưu giữ cẩn thận và cập nhật và những thông tin như vậy có thể được các cơ quan chức năng truy cập một cách kịp thời.
Hợp tác quốc tế
10. Các quốc gia cần phải cung cấp hợp tác quốc tế một cách nhanh chóng, hiệu quả và mang tính xây dựng liên quan đến các thông tin, bao gồm các thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi, về tín thác và các thỏa thuận pháp lý khác trên cơ sở đã nêu tại Khuyến nghị 37 và 40. Điều này cần phải bao gồm: (a) tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng nước ngoài tiếp cận được bất cứ thông tin nào được các cơ quan đăng ký hoặc các cơ quan trong nước nắm giữ; (b) trao đổi trong nước các thông tin có thể có về tín thác và các thỏa thuận pháp lý khác; và (c) sử dụng quyền hạn của các cơ quan chức năng phù hợp luật trong nước, để thu thập các thông tin về quyền sở hữu hưởng lợi thay mặt cho cơ quan đối tác nước ngoài.
Nghĩa vụ pháp lý và chế tài xử phạt
11. Các quốc gia cần đảm bảo có quy định rõ ràng về trách nhiệm tuân thủ các yêu cầu được nêu trong Bản chú giải này; và những người nhận ủy thác hoặc là phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với bất kỳ sự không thực hiện nghĩa vụ nêu tại đoạn 1, 2, 6 và 5 (nếu thích hợp); hoặc phải có các chế tài xử phạt hiệu quả, tương ứng và mang tính răn đe, dù đó là các biện pháp hình sự, dân sự hoặc hành chính đối với việc không tuân thủ
[68]. Các quốc gia cũng cần đảm bảo có các biện pháp xử phạt hiệu quả, tương ứng và mang tính răn đe, dù đó là các biện pháp hình sự, dân sự hoặc hành chính, đối với việc không cho phép các cơ quan chức năng tiếp cận thông tin liên quan đến ủy thác nêu tại đoạn 1 và 5 một cách kịp thời.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 26 (QUẢN LÝ VÀ GIÁM SÁT CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH)
Phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên rủi ro
1. Phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên rủi ro đề cập đến: (a) quy trình chung mà theo sự hiểu biết của mình về rủi ro, đơn vị thanh tra, giám sát phân bổ nguồn lực của mình cho việc thanh tra, giám sát AML / CFT; và (b) quy trình cụ thể của các tổ chức giám sát áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát AML / CFT dựa trên rủi ro.
2. Việc áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro để thanh tra, giám sát các hệ thống và kiểm soát AML / CFT của các tổ chức tài chính cho phép các cơ quan thanh tra, giám sát chuyển nguồn lực sang những lĩnh vực được cho là có rủi ro cao hơn. Nhờ đó, các cơ quan giám sát có thể sử dụng các nguồn lực của mình một cách hiệu quả hơn. Điều này có nghĩa là đơn vị thanh tra, giám sát: (a) cần hiểu rõ về các rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố hiện hữu ở một quốc gia; và (b) cần có quyền truy cập tại chỗ và từ xa tất cả các thông tin liên quan về các rủi ro trong nước và quốc tế cụ thể liên quan đến khách hàng, sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức được thanh tra, giám sát, bao gồm cả chất lượng của chức năng tuân thủ của tổ chức hoặc tập đoàn tài chính. Tần suất và cường độ thanh tra, giám sát AML / CFT tại chỗ và từ xa các tổ chức / tập đoàn tài chính phải dựa trên rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố, và các chính sách, kiểm soát nội bộ và thủ tục liên quan đến tổ chức / tập đoàn, đã được xác định bởi đánh giá của đơn vị thanh tra, giám sát về hồ sơ rủi ro của tổ chức / tập đoàn và về rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố hiện có trong nước.
3. Việc đánh giá hồ sơ rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố của một tổ chức / tập đoàn tài chính, bao gồm cả các rủi ro không tuân thủ, cần được xem xét định kỳ và khi có các sự kiện hoặc diễn biễn lớn trong quản lý và hoạt động của tổ chức / tập đoàn tài chính, phù hợp với các thông lệ đã được thiết lập của quốc gia để thanh tra, giám sát liên tục. Việc đánh giá này không nên tĩnh: nó sẽ thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh diễn biến như thế nào và các mối đe dọa tiến triển như thế nào.
4. Thanh tra, giám sát AML / CFT đối với các tổ chức / tập đoàn tài chính áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro cần tính đến mức độ tùy ý được phép theo RBA đối với tổ chức / tập đoàn tài chính và bao gồm việc xem xét rủi ro theo cách thích hợp các đánh giá dựa trên quyết định này, về tính đầy đủ và việc thực hiện các chính sách, kiểm soát và quy trình nội bộ của họ.
5. Các nguyên tắc này nên áp dụng cho tất cả các tổ chức / tập đoàn tài chính. Để đảm bảo giám sát AML / CFT hiệu quả, người giám sát cần xem xét đặc điểm của các tổ chức / tập đoàn tài chính, đặc biệt là sự đa dạng và số lượng các tổ chức tài chính, và mức độ được phép quyết định đối với họ theo RBA.
Nguồn lực của cơ quan thanh tra, giám sát
6. Các quốc gia cần đảm bảo rằng các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính có đủ nguồn lực tài chính, nhân lực và kỹ thuật. Các cơ quan này phải có đủ tính độc lập và tự chủ trong hoạt động để đảm bảo không bị ảnh hưởng hoặc can thiệp không đáng có. Các quốc gia cần có các quy trình để đảm bảo rằng cán bộ của các cơ quan chức năng này duy trì tính chuyên nghiệp cao các tiêu chuẩn, bao gồm các tiêu chuẩn liên quan đến tính bảo mật, và phải có tính liêm chính cao và có kỹ năng thích hợp.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 28 (QUẢN LÝ VÀ GIÁM SÁT DNFBPs)
1. Phương thức tiếp cận trên cơ sở rủi ro đối với giám sát đề cập đến: (a) một quá trình chung, theo đó cơ quan giám sát hoặc tổ chức tự quản (SRB) theo sự hiểu biết về rủi ro phân bổ nguồn lực của mình để giám sát AML/CFT; và (b) một quá trình cụ thể về giám sát hoặc kiểm soát các DNFBPs có áp dụng phương thức tiếp cận trên cơ sở rủi ro về AML/CFT.
2. Cơ quan giám sát hoặc SRB cần phải xác định tần suất và cường độ của các hoạt động giám sát hoặc kiểm soát đối với các DNFBPs trên cơ sở hiểu biết về các rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố, có tính đến đặc điểm của các DNFBP, đặc biệt là tính đa dạng và số lượng, nhằm đảm bảo việc giám sát và kiểm soát AML/CFT một cách hiệu quả. Điều này có nghĩa là phải có một hiểu biết rõ ràng về các rủi ro ML/TF: (a) hiện có tại quốc gia đó và (b) gắn với loại DNFBP cũng như khách hàng, sản phẩm và dịch vụ của họ.
3. Các cơ quan giám sát hoặc SRBs đánh giá tính đầy đủ của các chính sách, quy trình và kiểm soát nội bộ về AML/CFT của DNFBPs cần phải xem xét một cách hợp lý hồ sơ rủi ro ML/FT của những DNFBPs đó và mức độ thận trọng cho phép đối với các tổ chức này theo RBA.
4. Các cơ quan giám sát hoặc SRBs cần phải có đầy đủ thẩm quyền để thực hiện chức năng của mình (bao gồm thẩm quyền kiểm soát và xử phạt) và có đủ nguồn lực về tài chính, nhân lực và kỹ thuật. Các quốc gia cần phải có sẵn các quy trình để đảm bảo đội ngũ nhân viên của các cơ quan này duy trì các chuẩn mực ngành nghề cao, bao gồm cả các chuẩn mực liên quan đến tính bảo mật, sự liêm chính cao và có kỹ năng phù hợp.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 29 (ĐƠN VỊ TÌNH BÁO TÀI CHÍNH)
A. Khái quát
1. Chú giải này giải thích những nhiệm vụ và chức năng chính của một đơn vị tình báo tài chính (FIU) và làm rõ hơn về các nghĩa vụ được quy định trong chuẩn mực. FIU là một phần của và đóng vai trò trung tâm trong mạng lưới hoạt động về AML/CFT của một quốc gia và hỗ trợ công việc cho các cơ quan chức năng khác. Vì có nhiều mô hình FIU khác nhau, nên Khuyến nghị số 29 không đánh giá việc lựa chọn một mô hình FIU cụ thể của từng quốc gia mà áp dụng chung cho tất cả các loại FIU.
B. Các chức năng
(a) Nhận
2. FIU hoạt động như một tổ chức trung tâm nhận những thông tin từ các tổ chức báo cáo. Ở mức tối thiểu, những thông tin này cần phải bao gồm các báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR), theo yêu cầu tại Khuyến nghị số 20, 23 và các thông tin khác theo quy định của pháp luật trong nước (ví dụ như báo cáo giao dịch tiền mặt, báo cáo chuyển tiền điện tử và các khai báo/công khai trên cơ sở các ngưỡng khác).
(b) Phân tích
3. Phân tích của FIU cần phải mang lại giá trị bổ sung cho thông tin mà FIU nhận được và đang nắm giữ. Trong khi tất cả các thông tin cần phải xem xét thì việc phân tích có thể tập trung hoặc vào từng thông tin đơn lẻ nhận được hoặc vào thông tin được chọn lọc thích hợp, phụ thuộc vào loại và khối lượng thông tin nhận được và phụ thuộc vào việc dự kiến sử dụng sau khi chuyển giao. FIU cần phải được khuyến khích sử dụng phần mềm phân tích để xử lý thông tin hiệu quả hơn và hỗ trợ việc thiết lập các đường dẫn liên quan. Tuy nhiên, những công cụ này không thể thay thế hoàn toàn được yếu tố phân tích đánh giá của con người. FIU cần phải thực hiện các loại phân tích sau:
· Phân tích hoạt động: sử dụng thông tin có thể có và có thể thu thập được để xác định các mục tiêu cụ thể (ví dụ như các cá nhân, tài sản, mạng lưới và tổ chức phạm tội), để lần theo dấu vết của các giao dịch hoặc hoạt động cụ thể và để xác định mối liên hệ giữa các mục tiêu này với các khoản thu có thể có từ tội phạm, rửa tiền, các tội phạm nguồn hoặc tài trợ cho khủng bố.
· Phân tích chiến lược: sử dụng thông tin có thể có và có thể thu thập được, bao gồm cả dữ liệu có thể do các cơ quan có thẩm quyền khác cung cấp, để xác định xu hướng và khía cạnh liên quan đến ML/FT. Thông tin này sau đó được FIU hoặc các cơ quan nhà nước khác sử dụng để xác định mối đe dọa và tính dễ bị tổn thương liên quan đến ML/FT. Phân tích chiến lược cũng có thể hỗ trợ việc xây dựng các chính sách và mục tiêu cho FIU hoặc ở phạmvi rộng hơn, cho các tổ chức khác trong cơ chế AML/CFT.
(c) Chuyển giao
4. FIU cần phải có thể tự chuyển giao và chuyển giao theo yêu cầu thông tinvà kết quả phân tích của mình đến các cơ quan chức năng phù hợp. Cần phải sử dụng các kênh chuyên dụng, bảo đảm và an toàn để chuyển giao thông tin.
· Tự chuyển giao: FIU cần phải được cho phép chuyển giao thông tin và kết quả phân tích của mình cho các cơ quan chức năng khi có cơ sở nghi ngờ rửa tiền, các tội phạm nguồn hoặc tài trợ khủng bố. Dựa trên kết quả phân tích của FIU, việc chuyển giao thông tin cần phải được lựa chọn và cho phép cơ quan tiếp nhận tập trung vào các thông tin/vụ việc liên quan.
· Chuyển giao thông tin theo yêu cầu: FIU cần phải có thể phản hồi các yêu cầu về thông tin từ các cơ quan chức năng theo Khuyến nghị số 31. Khi FIU nhận được yêu cầu như vậy từ một cơ quan chức năng, thì quyết địnhtiến hành phân tích và/hoặc chuyển giao thông tin cho cơ quan đã yêu cầucần phải được do chính FIU đưa ra.
C. Tiếp cận thông tin
(a) Thu thập thông tin bổ sung từ các tổ chức báo cáo
5. Bên cạnh những thông tin mà các tổ chức báo cáo cho FIU (theo chức năng thu nhận), FIU cần phải có thể thu thập và sử dụng thông tin bổ sung từ các tổ chức báo cáo khi cần để thực hiện phân tích một cách phù hợp. Thông tin mà FIU cần phải được phép thu thập có thể bao gồm thông tin mà các tổ chức báo cáo được yêu cầu phải lưu giữ theo các khuyến nghị liên quan của FATF (Khuyến nghị số 10, 11 và 22).
(b) Tiếp cận thông tin từ các nguồn khác.
6. Để thực hiện phân tích phù hợp, FIU cần phải tiếp cận trong phạm vi rộng nhất có thể các thông tin tài chính, hành chính và thực thi pháp luật. Điều này cần phải bao gồm cả thông tin từ các nguồn mở hoặc công khai, cũng như các thông tin liên quan được thu thập và/hoặc được lưu giữ bởi hoặc thay mặt cho các cơ quan khác và khi thích hợp, cả các số liệu thương mại được lưu giữ.
D. An toàn và bảo mật thông tin
7. Thông tin mà FIU nhận được, xử lý, nắm giữ hoặc chuyển giao phải được bảo vệ an toàn, chỉ được trao đổi và sử dụng phù hợp với các quy trình, chính sách đã thống nhất và các luật, quy chế có thể áp dụng được. Vì vậy, một FIU phải có sẵn các quy tắc để kiểm soát sự an toàn và bảo mật của những thông tin, bao gồm cả các quy trình về việc xử lý, lưu trữ, chuyển giao và bảo vệ cũng như tiếp cận thông tin. FIU cần phải đảm bảo tất cả cán bộ của mình được kiểm tra an ninh cần thiết và hiểu về trách nhiệm của họ trong việc xử lý và chuyển giao các thông tin nhạy cảm và bảo mật. FIU cần phải đảm bảo rằng có sự hạn chế trong việc tiếp cận đến cơ sở vật chất và thông tin, bao gồm cả hệ thống công nghệ thông tin của mình.
E. Độc lập trong hoạt động
8. FIU cần phải độc lập và tự chủ trong hoạt động, có nghĩa là FIU cần phải có thẩm quyền và khả năng thực hiện chức năng của mình một cách tự do, bao gồm cả quyền tự chủ quyết định phân tích, yêu cầu và/hoặc chuyển giao thông tin cụ thể. Trong tất cả các trường hợp, điều này có nghĩa là FIU có quyền độc lập để chuyển tiếp hoặc chuyển giao thông tin cho các cơ quan chức năng.
9. Một FIU có thể được thành lập như là một đơn vị trong một cơ quan hiện có. Trong trường hợp FIU là một đơn vị thuộc cơ cấu của một cơ quan khác thì các chức năng cơ bản của FIU cần phải được tách biệt rõ ràng với các chức năng của cơ quan khác này.
10. FIU cần phải được cung cấp đầy đủ nguồn lực về tài chính, nhân lực và kỹ thuật, theo cách đảm bảo được tính tự chủ và độc lập và cho phép FIU thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả. Các quốc gia cần phải có sẵn các quy trình để đảm bảo rằng đội ngũ nhân viên của FIU duy trì các chuẩn mực ngành nghề cao, bao gồm cả các chuẩn mực liên quan đến tính bảo mật và cần phải là những người rất liêm chính cũng như có kỹ năng phù hợp.
11. FIU cũng cần phải có thể tiến hành thỏa thuận hoặc tham gia một cách độc lập với các cơ quan chức năng trong nước hoặc các đối tác nước ngoài trong việc trao đổi thông tin.
F. Sự ảnh hưởng hoặc can thiệp phi lý
12. FIU cần phải có thể thu thập hoặc sắp xếp các nguồn lực cần thiết để thực hiện chức năng của mình, trên cơ sở thông thường hoặc riêng biệt, thoát ra khỏi bất kỳ sự tác động hoặc can thiệp về chính trị của Chính phủ hoặc của ngành, điều này có thể ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động của FIU.
G. Nhóm Egmont
13. Các quốc gia cần phải đảm bảo rằng FIU đã quan tâm đến Tuyên bố của Nhóm Egmont về mục đích và các nguyên tắc trao đổi thông tin giữa các Đơn vị tình báo tài chính đối với các vụ rửa tiền và tài trợ khủng bố (những tài liệu này đưa ra các hướng dẫn quan trọng về vai trò, chức năng của FIU và các cơ chế trao đổi thông tin giữa các FIU). FIU cần phải xin gia nhập thành viên của Nhóm Egmont.
H. Báo cáo giao dịch tiền mặt lớn
14. Các quốc gia cần phải xem xét đến tính khả thi và tính hữu ích của một hệ thống, nơi mà các tổ chức tài chính và DNFBPs sẽ báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ trong nước và quốc tế vượt một ngưỡng nhất định.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 30 (TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT)
1. Cần phải có các cơ quan thực thi pháp luật được chỉ định có trách nhiệm bảo đảm rằng rửa tiền, các tội phạm nguồn và tài trợ cho khủng bố được điều tra thích hợp thông qua việc thực hiện các cuộc điều tra tài chính. Các quốc gia cũng cần phải chỉ định một hoặc nhiều các cơ quan chức năng để nhận dạng, lần theo dấu vết và tiến hành phong tỏa và niêm phong tài sản là hoặc có thể là đối tượng để tịch thu.
2. Một “cuộc điều tra tài chính” có nghĩa là một cuộc thẩm tra đối với các khía cạnh tài chính có liên quan tới hoạt động phạm tội, với quan điểm để:
- Nhận dạng phạm vi mạng lưới phạm tội và/hoặc mức độ phạm tội;
- Nhận dạng và lần theo dấu vết các khoản thu phạm tội, các quỹ của khủng bố hoặc các tài sản khác là hoặc có thể là đối tượng để tịch thu; và
- Thiết lập chứng cứ có thể được sử dụng cho các quá trình tố tụng hình sự.
3. Một cuộc “Điều tra tài chính song song” đề cập việc thực hiện một cuộc điều tra tài chính bên cạnh hoặc trong bối cảnh của một cuộc điều tra tội phạm (truyền thống) về rửa tiền, tài trợ khủng bố và /hoặc tội phạm nguồn. Các điều tra viên của cơ quan thực thi pháp luật đối với các tội phạm nguồn cần phải hoặc là được trao quyền để tiến hành điều tra bất kỳ tội gì liên quan tới rửa tiền và tài trợ khủng bố trong suốt cuộc điều tra song song hoặc có thể chuyển các vụ việc đến một cơ quan khác để tiếp tục những cuộc điều tra như vậy.
4. Các quốc gia cần phải cân nhắc thực hiện các biện pháp pháp lý, bao gồm cả về mặt luật pháp ở cấp độ quốc gia để cho phép các cơ quan chức năng đang điều tra các vụ việc rửa tiền và tài trợ khủng bố được trì hoãn hoặc hủy bỏ việc bắt giữ người tình nghi và/hoặc tịch thu tiền với mục đích nhận dạng được những người liên quan trong các hoạt động như vậy hoặc để thu thập chứng cứ. Không có các biện pháp như vậy, việc sử dụng các quy trình như chuyển giao có kiểm soát và hoạt động đặc tình sẽ bị cản trở.
5. Khuyến nghị 30 cũng áp dụng cho các cơ quan chức năng không phải là cơ quan thực thi pháp luật, về thực chất, nhưng có trách nhiệm theo đuổi các cuộc điều tra tài chính đối với các tội phạm nguồn, trong phạm vi là các cơ quan chức năng này thực hiện những chức năng nêu trong Khuyến nghị 30.
6. Các cơ quan thực thi chống tham nhũng với quyền lực thực thi của mình có thể được chỉ định để điều tra các tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố phát sinh từ hoặc liên quan tới các tội tham nhũng theo Khuyến nghị 30; và các cơ quan này cũng cần phải có đủ quyền lực để nhận dạng, lần theo dấu vết và tiến hành phong tỏa và niêm phong tài sản.
7. Toàn bộ các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan chức năng khác được đề cập ở trên cần phải được tính đến khi các quốc gia sử dụng các nhóm liên ngành trong các cuộc điều tra tài chính.
8. Các cơ quan thực thi pháp luật và cơ quan công tố cần phải có đủ nguồn lực tài chính, nhân lực và kỹ thuật. Các quốc gia cần phải có sẵn các quy trình để đảm bảo đội ngũ cán bộ của các cơ quan này có tiêu chuẩn ngành nghề cao, bao gồm cả các các tiêu chuẩn liên quan tới tính bảo mật và cần phải có phẩm chất liêm chính cao và có kỹ năng phù hợp.
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 32 (VẬN CHUYỂN TIỀN MẶT)
A. Mục tiêu
1. Khuyến nghị 32 được xây dựng với mục tiêu đảm bảo rằng những kẻ khủng bố và các tội phạm khác không thể tài trợ được cho các hoạt động của chúng hoặc rửa được các khoản thu từ hoạt động tội phạm của chúng thông qua việc vận chuyển tiền và các công cụ vô danh có thể chuyển nhượng được qua biên giới. Đặc biệt, nó có mục đích đảm bảo các quốc gia có các biện pháp để: (a) phát hiện việc vận chuyển tiền và các công cụ vô danh có thể chuyển nhượng được qua biên giới; (b) dừng hoặc giữ tiền và các công cụ vô danh có thể chuyển nhượng được bị nghi là liên quan tới tài trợ khủng bố hoặc rửa tiền; (c) dừng hoặc giữ tiền hoặc các công cụ vô danh có thể chuyển nhượng được đã không khai báo hoặc khai báo sai; (d) áp dụng các hình phạt phù hợp đối với việc không khai báo hoặc khai báo sai; và (e) có thể tịch thu tiền hoặc công cụ vô danh có thể chuyển nhượng được có liên quan tới rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố.
B. Các loại hệ thống có thể được thực thi để giải quyết vấn đề vận chuyển tiền
2. Các quốc gia có thể đáp ứng các nghĩa vụ của mình theo Khuyến nghị 32 và chú giải này bằng việc thực hiện một trong các loại hệ thống dưới đây. Tuynhiên, các quốc gia không phải sử dụng cùng một loại hệ thống cho việc vận chuyển vào hoặc ra khỏi biên giới tiền hoặc các công cụ vô danh có thể chuyển nhượng được.
Hệ thống khai báo
3. Mọi cá nhân vận chuyển tiền hoặc các công cụ vô danh có thể chuyển nhượng được (BNIs) qua biên giới có giá trị vượt quá một mức định trước, ngưỡng tối đa là 15.000 USD/EUR được yêu cầu nộp bản khai báo trung thực cho các cơ quan chức năng được chỉ định. Các quốc gia có thể lựa chọn từ ba loại hệ thống khai báo khác nhau sau: (i) hệ thống khai báo bằng văn bản cho tất cả du khách; (ii) hệ thống khai báo bằng văn bản cho những du khách mang lượng tiền tệ hoặc BNIs vượt quá ngưỡng nêu trên; (iii) hệ thống khai báo miệng. Ba hệ thống này được mô tả dưới đây dưới hình thức đơn giản của chúng. Tuy nhiên, cũng không bất thường khi các quốc gia lựa chọn một hệ thống hỗn hợp.
(a) Hệ thống khai báo bằng văn bản cho tất cả du khách: Trong hệ thống này, mọi du khách được yêu cầu điền bản khai báo bằng văn bản trước khi nhập cảnh vào quốc gia đó. Bản này có thể bao gồm các câu hỏi có nội dung chung hoặc theo các mẫu khai báo hải quan. Trên thực tế, du khách phải thực hiện khai báo xem họ có mang tiền hoặc BNIs không (ví dụ, tích câu trả lời vào các ô “có” hoặc “không”).
(b) Hệ thống khai báobằng văn bản cho du khách mang lượng tiền hoặc BNIs vượt quá ngưỡng: Trong hệ thống này, tất cả du khách mang lượng tiền hoặc BNIs vượt quá ngưỡng quy định được yêu cầu điền mẫu khai báo bằng văn bản. Trong thực tế, du khách không phải điền vào bất kỳ mẫu khai báo nào nếu họ không mang tiền hoặc BNIs vượt quá ngưỡng quy định.
(c) Hệ thống khai báo miệng cho du khách: Trong hệ thống này, du khách được yêu cầu khai báo miệng nếu họ mang tiền hoặc BNIs trên ngưỡng quy định. Thông thường, việc này được làm ở các điểm kiểm tra hải quan thông qua việc yêu cầu du khách lựa chọn giữa “kênh đỏ” (có hàng hóa phải khai báo) và “kênh xanh” (không có gì để khai báo). Việc lựa chọn kênh của du khách được coi là khai báo miệng. Trên thực tế, du khách không khai báo bằng văn bản nhưng được yêu cầu chủ động báo cáo cho nhân viên hải quan.
Hệ thống công khai:
4. Các quốc gia có thể lựa chọn một hệ thống theo đó du khách được yêu cầu cung cấp cho các cơ quan chức năng thông tin phù hợp theo yêu cầu. Trong những hệ thống như vậy, không có yêu cầu đối với du khách phải khai báo bằng văn bản trước hay bằng miệng. Trong thực tế, du khách cần đưa ra câu trả lời trung thực theo yêu cầu của cơ quan chức năng.
C. Các yếu tố bổ sung có thể áp dụng cho cả hai hệ thống
5. Cho dù hệ thống nào được áp dụng thì các quốc gia cũng phải đảm bảo rằng hệ thống của họ có các yếu tố sau:
(a) Hệ thống khai báo/công khai cần phải áp dụng cho cả việc vận chuyển tiền và BNIs vào và ra khỏi quốc gia.
(b) Khi phát hiện việc khai báo/công khai về tiền hoặc BNIs không trung thực hoặc không khai báo công khai, các cơ quan chức năng cần phải có quyền yêu cầu và có được thông tin thêm từ người vận chuyển về nguồn gốc của tiền và BNIs và mục đích sử dụng chúng.
(c) Thông tin có được thông qua quá trình khai báo/công khai cần phải có sẵn cho FIU hoặc là thông qua một hệ thống mà FIU được thông báo về các vụ vận chuyển qua biên giới đáng ngờ, hoặc bằng cách làm cho thông tin khai báo công khai có thể có cho FIU theo những con đường khác.
(d) Ở cấp độ trong nước, các quốc gia cần phải đảm bảo có sự phối hợp phù hợp giữa các cơ quan hải quan, cơ quan nhập cư và các cơ quan chức năng khác liên quan về các vấn đề liên quan tới việc thực thi Khuyến nghị 32.
(e) Trong hai trường hợp dưới đây, các cơ quan chức năng cần phải có thể dừng hoặc giữ tiền hoặc BNIs trong một khoảng thời gian hợp lý để xác định chắc chắn xem liệu bằng chứng về rửa tiền hoặc tài trợ cho khủng bố có thể tìm thấy không: (i) khi có nghi ngờ về rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố; hoặc (ii) khi có việc khai báo sai hoặc không công khai.
(f) Hệ thống khai báo/công khai cần phải cho phép các biện pháp mạnh nhất có thể có để hợp tác và hỗ trợ quốc tế phù hợp với các Khuyến nghị từ 36 đến 40. Để tạo điều kiện cho việc hợp tác như vậy, trong các trường hợp khi: (i) có một bản khai báo hoặc công khai vượt quá ngưỡng tối đa 15.000 USD/EUR; hoặc (ii) khi có việc khai báo sai hoặc không khai báo; hoặc (iii) khi có nghi ngờ rửa tiền hoặc tài trợ cho khủng bố, thì thông tin này cần phải được lưu giữ để các cơ quan chức năng sử dụng. Ít nhất, thông tin sẽ gồm: (i) lượng tiền hoặc BNIs được khai báo công khai hoặc bị phát hiện; và (ii) dữ liệu nhận dạng người mang chúng.
(g) Các quốc gia cần phải thực hiện Khuyến nghị 32 theo các nguyên tắc bảo vệ nghiêm ngặt để đảm bảo sử dụng thông tin phù hợp và trong bất cứ trường hợp nào cũng không có sự hạn chế: (i) đối với thanh toán thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia; hoặc (ii) sự tự do dịch chuyển nguồn vốn.
D. Các hình phạt
6. Người khai báo hoặc công khai không trung thực cần phải chịu các hình phạt mang tính chất răn đe, tương xứng và hiệu quả, dù đó là các hình phạt hành chính, dân sự hay hình sự. Người thực hiện việc chuyển tiền và BNIs qua biên giới liên quan tới rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc các tội phạm nguồn cũng cần phải chịu các hình phạt mang tính chất răn đe, tương xứng và hiệu quả, dù đó là các hình phạt hành chính, dân sự hay hình sự và cần phải là đối tượng của các biện pháp, nhất quán với khuyến nghị 4, để có thể tịch thu các khoản tiền và BNIs này.
7. Các cơ quan có trách nhiệm thực hiện Khuyến nghị 32 cần phải có đủ nguồn nhân lực, kỹ thuật và tài chính. Các quốc gia cần phải có sẵn các quy trình để đảm bảo rằng đội ngũ nhân viên của các cơ quan này duy trì những chuẩn mực ngành nghề cao, bao gồm cả các tiêu chuẩn liên quan tới tính bảo mật và cần phải là những người rất liêm chính và có kỹ năng phù hợp.
E. Vàng, kim loại quý và đá quý
8. Để phục vụ các mục tiêu của Khuyến nghị 32 thì vàng, kim loại quý và đá quý không được đưa vào, mặc dù chúng có tính thanh khoản cao và sử dụng trong các tình huống cụ thể như là các công cụ trao đổi hoặc có giá trị chuyển đổi. Những vật này có thể hoặc được quy định trong các luật và quy chế về hải quan. Nếu một quốc gia phát hiện sự dịch chuyển vàng, kim loại quý, đá quý qua biên giới bất bình thường, thì quốc gia đó cần phải xem xét thông báo, khi phù hợp, cho cơ quan dịch vụ hải quan hoặc các cơ quan chức năng khác của các quốc gia nơi xuất phát của các vật này hoặc của quốc gia nơi các vật này được chuyển đến và cần phải hợp tác với quan điểm hướng tới việc thiết lập nguồn gốc, điểm đến và mục đích vận chuyển các vật này và để có thể có hành động phù hợp.
Giải thích cho các thuật ngữ cụ thể được sử dụng trong Khuyến nghị này
Khai báo sai
|
Đề cập tới việc không trình bày đúng về giá trị của tiền hoặc BNIs được vận chuyển hoặc không trình bày về dữ liệu liên quan được yêu cầu cung cấp khi khai báo hoặc khi được yêu cầu bởi cơ quan có thẩm quyền. Điều này bao gồm cả việc không khai báo theo yêu cầu.
|
Công khai không trung thực
|
Đề cập tới việc không trình bày đúng về giá trị của tiền hoặc BNIs được vận chuyển hoặc không trình bày về dữ liệu liên quan khác được hỏi khi yêu cầu công khai hoặc được yêu cầu bởi các cơ quan chức năng. Điều này bao gồm cả việc không thực hiện công khai theo yêu cầu.
|
Vận chuyển thực tế qua biên giới
|
Đề cập đến bất kỳ việc vận chuyển thực tế tiền hoặc BNIs vào hoặc ra khỏi biên giới từ một quốc gia này sang quốc gia khác. Thuật ngữ này bao gồm các phương thức vận chuyển sau: (1) vận chuyển thực tế bởi một cá nhân hoặc trong phương tiện vận tải hoặc hành lý kèm theo của cá nhân đó; (2) vận tải biển tiền hoặc BNIs trong các công-tơ-nơ hàng hóa (3) cá nhân hoặc pháp nhân gửi tiền hoặc BNIs trong cácgói hàng.
|
Liên quan đến rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố
|
Được sử dụng để mô tả tiền hoặc BNIs, đề cập đến tiền hoặc BNIs là: (i) các khoản thu hoặc được sử dụng có nguồn gốc từ việc phạm tội hoặc dự định sử dụng hoặc được phân bố để sử dụng cho tài trợ cho khủng bố, hành động khủng bố hoặc tổ chức khủng bố; hoặc (ii) các khoản thu được rửa từ các tội rửa tiền hoặc các tội phạm nguồn hoặc các công cụ được sử dụng hoặc dự định sử dụng trong quá trình thực hiện các tội phạm này.
|
CHÚ GIẢI CHO KHUYẾN NGHỊ SỐ 38 (HỖ TRỢ PHÁP LÝ ĐA PHƯƠNG: PHONG TỎA VÀ TỊCH THU)
1. Các quốc gia cần phải xem xét việc thiết lập một quỹ tịch thu tài sản, đưa vào đó tất cả hoặc một phần tài sản bị tịch thu, sẽ được sử dụng cho việc thi hành pháp luật, y tế, giáo dục hoặc các mục đích thích hợp khác. Các quốc gia cần phải thực hiện các biện pháp như vậy, bởi nó có thể là cần thiết để họ có thể chia sẻ tài sản tịch thu được trong số hoặc với các quốc gia khác, đặc biệt là khi việc tịch thu lại là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp của các hành động phối hợp thi hành pháp luật.
2. Liên quan đến yêu cầu hợp tác được đưa ra trên cơ sở các thủ tục tịch thu không trên cơ sở kết án, các quốc gia không cần phải có cơ quan hành động trên cơ sở những yêu cầu như vậy, nhưng cần có thể được làm như vậy, ít nhất trong trường hợp khi thủ phạm không thể có mặt do tử vong, biến mất, vắng mặt hoặc
không nhận biết được thủ phạm.
CHÚ GIẢI KHUYẾN NGHỊ SỐ 40 (CÁC HÌNH THỨC HỢP TÁC QUỐC TẾ KHÁC)
A. Các nguyên tắc có thể áp dụng cho tất cả các hình thức hợp tác quốc tế khác
Trách nhiệm đối với các cơ quan đưa ra yêu cầu
1. Khi đưa ra yêu cầu hợp tác, các cơ quan chức năng cần phải cố gắng tốt nhất để cung cấp thông tin thực tế, đầy đủ và khi thích hợp, thông tin pháp luật bao gồm việc chỉ ra bất kỳ nhu cầu khẩn cấp nào để có thể thực hiện yêu cầu hợp tác một cách hiệu quả và kịp thời, cũng như dự đoán trước được việc sử dụng thông tin được cung cấp. Theo yêu cầu, cơ quan chức năng đưa ra yêu cầu cần phải phản hồi cho cơ quan chức năng nhận được yêu cầu về việc sử dụng và tính hữu ích của các thông tin thu thập được.
Các biện pháp hạn chế không chính đáng
2. Các quốc gia cần phải không được nghiêm cấm hoặc đặt ra các điều kiện hạn chế không chính đáng hoặc không hợp lý về việc cung cấp, trao đổi thông tin hoặc hỗ trợ. Cụ thể, các cơ quan chức năng cần phải không từ chối yêu cầu hỗ trợ với lý do là:
(a) Yêu cầu đó cũng được cho là có liên quan tới các vấn đề tài chính; và/hoặc
(b) Luật pháp yêu cầu các định chế tài chính hoặc DNFBPs (ngoại trừ khi thông tin tìm kiếm liên quan được nắm giữ trong các trường hợp áp dụng tính bảo mật về nghề nghiệp và đặc quyền pháp lý) giữ bí mật hoặc bảo mật; và/hoặc
(c) Đang có một cuộc thẩm tra, điều tra hoặc tố tụng tại nước được yêu cầu, trừ khi sự hỗ trợ đó có thể cản trở điều tra, hoặc tố tụng đó; và/ hoặc
(d) Bản chất hoặc vị trí (dân sự, hành chính, thực thi pháp luật…) của cơ quan đối tác yêu cầu khác với bản chất hoặc vị trí của đối tác nước ngoài.
Sự bảo đảm đối với thông tin được trao đổi
3. Thông tin trao đổi cần phải được sử dụng cho mục đích mà thông tin được lựa chọn và cung cấp hướng tới. Bất kỳ việc cung cấp thông tin nào cho các cơ quan khác hoặc bên thứ ba hoặc bất kỳ việc sử dụng thông tin này cho các mục đích hành chính, điều tra, tố tụng hoặc xét xử, không theo những mục đích đã được chấp thuận ban đầu, cần phải có sự ủy quyền cho phép trước của cơ quan chức năng được yêu cầu.
4. Các cơ quan chức năng cần phải duy trì tính bảo mật thích hợp đối với bất cứ yêu cầu về hợp tác và thông tin được trao đổi, để bảo vệ tính toàn vẹn của cuộc điều tra hoặc thẩm tra
[69], phù hợp với nghĩa vụ của cả hai bên liên quan đến tính bí mật và bảo vệ thông tin. Ít nhất các cơ quan chức năng cần phải bảo vệ thông tin được trao đổi theo phương thức giống như việc họ bảo vệ thông tin tương tự nhận được từ các nguồn trong nước. Các quốc gia cần phải thiết lập sự kiểm soát và bảo vệ để đảm bảo các thông tin được trao đổi bởi các cơ quan chức năng được sử dụng theo cách thức được ủy quyền. Việc trao đổi thông tin cần phải được thực hiện một cách bảo mật và thông qua các kênh hoặc các cơ chế đáng tin cậy. Các cơ quan chức năng được yêu cầu có thể, nếu thích hợp, từ chối cung cấp thông tin nếu cơ quan đưa ra yêu cầu không thể bảo vệ các thông tin một cách hiệu quả.
Quyền hạn tìm kiếm thông tin
5. Các cơ quan chức năng cần phải có thể thực hiện các cuộc thẩm tra thay mặt cho đối tác nước ngoài và trao đổi với các đối tác nước ngoài tất cả thông tin mà họ có thể thu thập được trong nước nếu như các cuộc thẩm tra này được tiến hành trong nước.
B. Các nguyên tắc có thể áp dụng đối với các hình thức hợp tác quốc tế cụ thể
6. Các nguyên tắc chung ở trên cần phải được áp dụng cho tất cả các hình thức trao đổi thông tin giữa các đối tác hoặc các bên không là đối tác theo các đoạn dưới đây.
Trao đổi thông tin giữa các đơn vị tình báo tài chính (FIU)
7. Các FIU cần phải trao đổi thông tin với các FIU nước ngoài, không tính đến vị trí tương ứng của chúng cho dù đó là đơn vị hành chính, thực thi pháp luật, tòa án hoặc dạng khác. Để làm được điều này, các FIU cần phải có cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc hợp tác trong các vấn đề về rửa tiền, các tội phạm nguồn và tài trợ khủng bố.
8. Khi đưa ra yêu cầu hợp tác, các FIU cần phải nỗ lực hết sức để cung cấp đầy đủ thông tin thực tế và khi thích hợp cả thông tin pháp lý, bao gồm mô tả vụ việc đang được phân tích và mối liên hệ tiềm ẩn với quốc gia được yêu cầu. Khi được yêu cầu và bất cứ khi nào có thể, các FIU cần phải cung cấp phản hồi cho các đối tác nước ngoài của mình về việc sử dụng thông tin được cung cấp, cũng như kết quả phân tích đã được thực hiện dựa trên cơ sở thông tin được cung cấp.
9. Các FIU cần phải có quyền trao đổi:
(a) Mọi thông tin theo yêu cầu mà FIU có thể truy cập được hoặc có được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp theo Các khuyến nghị của FATF, cụ thể là theo Khuyến nghị số 29; và
(b) Bất kỳ thông tin nào khác mà các FIU có quyền hạn có được hoặc truy cập được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, trong phạm vi nội địa, tùy thuộc vào nguyên tắc có đi có lại.
Trao đổi thông tin giữa các giám sát viên tài chính[70]
10. Các giám sát viên tài chính cần phải hợp tác với các đối tác nước ngoài của mình, không kể đến bản chất hay địa vị pháp lý tương ứng. Hợp tác hiệu quả giữa các giám sát viên tài chính là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát AML/CFT đối với các định chế tài chính một cách hiệu quả. Để làm được điều này, các giám sát viên tài chính cần phải có cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc hợp tác, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về giám sát có thể áp dụng được, đặc biệt là trao đổi thông tin giám sát liên quan tới hoặc phù hợp với các mục đích AML/CFT.
11. Các giám sát viên tài chính cần phải có thể trao đổi với các đối tác nước ngoài thông tin họ có thể có trong nước, bao gồm cả thông tin do các tổ chức tài chính nắm giữ và theo một phương thức phù hợp với nhu cầu tương ứng của họ. Các giám sát viên tài chính cần phải có thể trao đổi các loại thông tin dưới đây phù hợp với mục đích AML/CFT, đặc biệt là với các giám sát viên liên quan khác cùng có trách nhiệm chia sẻ đối với các tổ chức tài chính trong cùng một nhóm:
(a) Thông tin quản lý, chẳng hạn như thông tin về hệ thống quản lý nội địa, và thông tin chung về lĩnh vực tài chính.
(b) Thông tin thận trọng, đặc biệt là đối với các giám sát viên theo Nguyên tắc cốt lõi (Core Principle Supervisors), chẳng hạn như thông tin về các hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính, quyền sở hữu hưởng lợi, quản lý, tính phù hợp và thích hợp.
(c) Thông tin AML/CFT, chẳng hạn như các quy trình và chính sách AML/CFT nội bộ của các tổ chức tài chính, thông tin theo dõi, cập nhật thông tin khách hàng (CDD), hồ sơ khách hàng, thông tin các mẫu tài khoản và giao dịch.
12. Các giám sát viên tài chính cần phải có thể thực hiện các yêu cầu thay mặt cho các đối tác nước ngoài và nếu thích hợp, ủy quyền hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tác nước ngoài thực hiện yêu cầu của họ trong quốc gia mình, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát nhóm một cách hiệu quả.
13. Bất kỳ việc chuyển giao thông tin được trao đổi hoặc sử dụng thông tin đó cho mục đích giám sát hoặc không phải giám sát cũng cần phải có sự ủy quyền trước đó của các giám sát viên tài chính được yêu cầu, trừ khi giám sát viên tài chính đưa ra yêu cầu có nghĩa vụ pháp lý tiết lộ hoặc báo cáo các thông tin đó. Trong các trường hợp như vậy, ít nhất, giám sát viên tài chính đưa ra yêu cầu cần phải nhanh chóng thông báo cho cơ quan được yêu cầu về nghĩa vụ này. Việc ủy quyền trước bao gồm bất cứ sự ủy quyền trước nào đã nêu trong Bản ghi nhớ (MOU) hoặc Bản ghi nhớ nhiều bên MMOU được ban hành bởi tổ chức đặt ra chuẩn mực về các nguyên tắc cốt lõi được áp dụng đối với thông tin được trao đổi theo MOU hoặc MMOU đó.
Trao đổi thông tin giữa các cơ quan thực thi pháp luật
14. Các cơ quan thực thi pháp luật cần phải có thể trao đổi các thông tin có thể có trong nước với các đối tác nước ngoài phục vụ mục đích điều tra hoặc tình báo liên quan tới hoạt động rửa tiền, tội phạm tiền thân hoặc tài trợ khủng bố, bao gồm cả việc nhận dạng và lần theo dấu vết các khoản thu và các phương tiện phạm tội.
15. Các cơ quan thực thi pháp luật cũng cần phải có thể sử dụng quyền hạn của mình, bao gồm bất kỳ kỹ thuật điều tra nào tuân thủ luật pháp trong nước, để thực hiện các yêu cầu và có được thông tin thay mặt cho các đối tác nước ngoài. Các chế độ và thông lệ đã có điều chỉnh việc hợp tác trong thi hành pháp luật như vậy, chẳng hạn như các thỏa thuận giữa Interpol, Europol hay Eurojust và các quốc gia riêng lẻ, cần phải chi phối bất kỳ sự hạn chế sử dụng nào bị áp đặt do cơ quan thi hành pháp luật được yêu cầu.
16. Các cơ quan thi hành pháp luật cần phải có thể hình thành các đội điều tra chung để thực hiện các cuộc điều tra hợp tác và khi cần thiết, các quốc gia cần phải thiết lập các thỏa thuận song phương hoặc đa phương để có thể có được các cuộc điều tra chung như vậy. Các quốc gia được khuyến khích tham gia vào và hỗ trợ các mạng lưới thực thi pháp luật về AML/CFT hiện hành và xây dựng các thỏa thuận song phương với các cơ quan thực thi pháp luật nước ngoài, bao gồm việc đặt các sĩ quan liên lạc ở nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác hiệu quả và kịp thời.
Trao đổi thông tin giữa các cơ quan không phải là đối tác của nhau
17. Các quốc gia cần phải cho phép các cơ quan chức năng của mình được trao đổi thông tin một cách gián tiếp với các cơ quan không phải là đối tác, có áp dụng các nguyên tắc phù hợp nêu trên. Trao đổi thông tin gián tiếp đề cập đến thông tin được yêu cầu chuyển từ cơ quan được yêu cầu thông qua một hoặc nhiều cơ quan trong nước hoặc nước ngoài trước khi cơ quan đề ra yêu cầu nhận được thông tin đó. Việc trao đổi và sử dụng thông tin như vậy có thể phải có sự ủy quyền của một hay nhiều cơ quan chức năng của quốc gia được yêu cầu. Cơ quan chức năng đưa ra yêu cầu về thông tin cần phải luôn chỉ rõ thông tin phục vụ mục đích gì và thay mặt ai.
18. Các quốc gia cũng được khuyến khích cho phép trao đổi thông tin trực tiếp một cách nhanh chóng và mang tính xây dựng với các cơ quan không phải là đối tác của mình.
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÁC DNFBPs VÀ VASPS
1. Tất cả các yêu cầu đối với các tổ chức tài chính, DNFBPs hoặc VASPs về điều này cần phải được đưa ra hoặc (a) trong luật (xem các yêu cầu cụ thể về vấn đề này trong các Khuyến nghị số 10, 11 và 20), hoặc (b) đối với tất cả các trường hợp khác trong luật hoặc các văn bản pháp lý khác (các quốc gia có quyền quyết định).
2. Trong các Khuyến nghị số 10, 11 và 20, thuật ngữ “luật” đề cập đến bất kỳ quy chế nào được ban hành hoặc chấp thuận thông qua một trình tự của nghị viện hoặc các hình thức tương đương khác trong khuôn khổ hiến pháp của quốc gia đó mà quy chế đó có áp đặt các yêu cầu bắt buộc phải có các hình phạt cho sự không tuân thủ. Các hình phạt cho sự không tuân thủ cần phải hiệu quả, tương xứng và có tính chất răn đe (xem Khuyến nghị số 35). Khái niệm luật cũng bao gồm các quyết định tòa án có áp đặt các yêu cầu phù hợp, có tính ràng buộc và có hiệu lực trên toàn quốc.
3. Thuật ngữ “các văn bản pháp lý” đề cập tới luật, quy chế hướng dẫn, chỉ thị hoặc các tài liệu hay cơ chế khác quy định các yêu cầu buộc phải thực hiện về AML/CFT bằng ngôn ngữ bắt buộc cùng với các hình phạt cho sự không tuân thủ và được một cơ quan chức năng ban hành hoặc thông qua. Các hình phạt cho sự không tuân thủ cần phải hiệu quả, tương xứng và có tính chất răn đe (xem Khuyến nghị số 35).
4. Khi xem xét liệu một tài liệu hay cơ chế có các yêu cầu được tính là văn bản pháp lý hay không, thì cần phải chú ý đến các yếu tố sau:
(a) Tài liệu hoặc cơ chế phải đưa ra hoặc củng cố cho các yêu cầu nhằm giải quyết các vấn đề trong các khuyến nghị của FATF và đưa ra các yêu cầu được nêu rõ ràng và được hiểu như vậy. Ví dụ:
(i) Nếu các biện pháp cụ thể dùng từ sẽ hoặc phải, thì điều đó cần phải được coi là bắt buộc;
(ii) Nếu sử dụng từ cần phải thì điều đó có thể là bắt buộc nếu cả người quản lý và định chế được quản lý chứng minh rằng các hoạt động đã được yêu cầu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và đang được thi hành; ngôn ngữ như: các biện pháp được khuyến khích, được khuyến nghị hoặc các định chế cần phải xem xét dường như ít được coi là bắt buộc. Trong bất kỳ trường hợp nào mà ngôn ngữ yếu hơn được sử dụng, thì sẽ giả định là ngôn ngữ đó không bắt buộc (trừ khi quốc gia có thể chứng minh khác).
(b) Tài liệu/cơ chế phải do cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc thông qua.
(c) Phải có các hình phạt cho sự không tuân thủ (các hình phạt không nhất thiết được quy định trong cùng tài liệu áp đặt hoặc hỗ trợ cho các yêu cầu và có thể quy định ở một tài liệu khác, với điều kiện là có các mối liên kết rõ ràng giữa yêu cầu và hình phạt có thể có). Các hình phạt đó cần phải hiệu quả, tương xứng và có tính răn đe. Điều này bao gồm cả sự xem xét các vấn đề sau:
(i) Cần phải có đầy đủ và sẵn các hình phạt hiệu quả, tương xứng và có tính răn đe nếu người nào không tuân thủ nghĩa vụ của mình;
(ii) Các hình phạt cần phải có thể áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với trường hợp không tuân thủ yêu cầu về AML/CFT. Nếu không có các hình phạt trực tiếp đối với việc không tuân thủ yêu cầu AML/CFT, thì việc sử dụng các hình phạt đối với hành vi vi phạm các yêu cầu rộng hơn, chẳng hạn như không có hệ thống hoặc kiểm soát thích hợp hay không hoạt động theo cách thức an toàn và lành mạnh, sẽ đáp ứng được với điều kiện, ít nhất, việc không đáp ứng một hoặc nhiều yêu cầu về AML/CFT có thể (và đã có nếu thích hợp) chịu các hình phạt đầy đủ mà không cần chứng minh việc không tuân thủ thận trọng bổ sung không liên quan đến AML/CFT; và
(iii) Liệu có chứng cứ thỏa mãn rằng có hay không các hình phạt hiệu quả, tương xứng và có tính chất ngăn chặn đã được áp dụng trong thực tiễn.
5. Trong tất cả các trường hợp, cần phải rõ ràng là các tổ chức tài chính, DNFBPs và VASPs hiểu được các hình phạt sẽ có thể được áp dụng cho sự không tuân thủ và những hình phạt đó là gì.
Thuật ngữ
Thuật ngữ
|
Định nghĩa
|
Tài khoản
|
Đề cập đến “Tài khoản” cần phải được hiểu là bao gồm cả các mối quan hệ kinh doanh tương tự khác giữa các tổ chức tài chính và khách hàng của họ.
|
Chính xác
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 16.
|
Đại lý
|
Đối với mục đích của Khuyến nghị số 14 và 16, đại lý có nghĩa là bất kỳ cá nhân hay pháp nhân nào cung cấp MVTS thay mặt cho một nhà cung cấp MVTS, cho dù bằng hợp đồng với hay theo sự chỉ đạo của nhà cung cấp MVTS.
|
Cơ quan thích
hợp
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 8.
|
NPO liên kết
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 8.
|
Chuyển tiền theo nhóm
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 16.
|
Công cụ vô danh
có thể chuyển
nhượng (BNI)
|
BNI bao gồm các công cụ tiền tệ ở dạng vô danh như: séc du lịch; các công cụ có thể chuyển nhượng (bao gồm séc, kỳ phiếu và các lệnh chuyển tiền) hoặc ở dạng vô danh được ký hậu không hạn chế, được lập cho một người thụ hưởng không có thực, hoặc nếu không thì ở dạng mà quyền được trao ngay khi chuyển giao; các công cụ chưa hoàn chỉnh (bao gồm séc kỳ phiếu và lệnh chuyển tiền) được ký nhưng không viết tên người nhận.
|
Cổ phiếu vô danh và cổ phiếu vô danh đảm bảo
|
Cổ phiếu vô danh đề cập đến các công cụ chuyển nhượng được, có quyền sở hữu hợp pháp với người sở hữu vật lý với các chứng chỉ cổ phiếu, và bất kỳ các công cụ tương tự khác không có khả năng truy xuất nguồn gốc. Nó không đề cập đến các dạng chứng chỉ cổ phiếu phi vật chất hóa và / hoặc đã đăng ký có thể xác định được chủ sở hữu.
Cổ phiếu vô danh đảm bảo đề cập đến các công cụ chuyển nhượng được, có quyền được hưởng quyền sở hữu của một pháp nhân sở hữu chứng chỉ cổ phiếu vô danh mang, và bất kỳ sự bảo đảm hoặc công cụ tương tự nào khác mà không có khả năng truy xuất nguồn gốc. Nó không đề cập đến hình thức bảo đảm phi vật chất hóa và/ hoặc đã đăng ký hoặc các công cụ có thể được xác định chủ sở hữu. Nó cũng không đề cập đến bất kỳ các công cụ chỉ trao quyền đăng ký quyền sở hữu cho một pháp nhân ở các điều kiện cụ thể, nhưng không phải quyền sở hữu hoặc quyền lợi của quyền sở hữu, trừ khi và cho đến khi các công cụ được thực hiện.
|
Chủ sở hữu
hưởng lợi
|
Chủ sở hữu hưởng lợi đề cập tới (các) cá nhân là người sở hữu hoặc kiểm soát cuối cùng [71] đối với một khách hàng [72] và/hoặc là cá nhân mà thay mặt cho người đó, giao dịch đang thực hiện. Khái niệm này cũng bao gồm cả những người thực hiện quyền kiểm soát thực sự cuối cùng đối với một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.
|
Những người thu hưởng
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 8.
|
Người hưởng lợi
|
Nghĩa của thuật ngữ “người hưởng lợi” trong các khuyến nghị của FATF phụ thuộc vào từng bối cảnh:
- Trong luật tín thác, người hưởng lợi là một người hoặc nhiều người được quyền hưởng lợi từ bất kỳ thỏa thuận tín thác nào. Người hưởng lợi có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý. Tất cả các tín thác (không phải là các tín thác từ thiện hoặc không từ thiện được luật pháp quy định) được yêu cầu phải có người hưởng lợi có thể xác định được. Trong khi luôn phải có một số người hưởng lợi cuối cùng có hể xác định được, thì các tín thác có thể không có người hưởng lợi hiện tại được xác định mà chỉ là các khách thể của một quyền lực cho đến khi một vài người được quyền như người hưởng lợi đối với thu nhập hoặc vốn vào ngày đến hạn của một thời kỳ xác định, được biết đến như thời kỳ tích lũy. Thời kỳ này thường trùng với thời kỳ đáo hạn tín thác mà thường được đề cập trong hợp đồng tín thác là thời kỳ ủy thác
- Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hay hợp đồng bảo hiểm gắn với đầu tư khác, người hưởng lợi là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý hoặc một loại người mà sẽ được trả các khoản thu từ hợp đồng khi/nếu xảy ra sự kiện được bảo hiểm được nêu trong hợp đồng bảo hiểm.
Xin tham khảo thêm phần Chú giải cho Khuyến nghị số 10 và 16
|
Định chế tài
chính hưởng lợi
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 16.
|
Cơ quan có thẩm quyền
|
Cơ quan có thẩm quyền đề cập tới tất cả các cơ quan công quyền [73]với những trách nhiệm được chỉ định về chống rửa tiền và/hoặc tài trợ khủng bố. Cụ thể, thuật ngữ này bao gồm FIU; cơ quan có chức năng điều tra và/hoặc truy tố về rửa tiền, các tội phạm nguồn của rửa tiền và tài trợ khủng bố, và niêm phong/phong tỏa và tịch thu tài sản phạm tội; các cơ quan nhận báo cáo về vận chuyển tiền và BNIs qua biên giới; và cơ quan có trách nhiệm giám sát hoặc kiểm soát AML/CFT nhằm đảm bảo các tổ chức tài chính và DNFBPs tuân thủ các yêu cầu về AML/CFT. SRB không được coi là cơ quan chức năng.
|
Tịch thu
|
Thuật ngữ “tịch thu”, bao gồm cả thu giữ nếu có thể áp dụng, có nghĩa là việc tước đoạt vĩnh viễn tiền hoặc tài sản khác theo lệnh của cơ quan chức năng hoặc tòa án. Tịch thu hoặc thu giữ được thực hiện thông qua quy trình xét xử hoặc hành chính, theo đó việc chuyển giao quyền sở hữu tiền hoặc tài sản cụ thể khác được chuyển sang cho Nhà nước. Trong trường hợp này, (các) cá nhân hoặc tổ chức nắm giữ lợi ích đối với tiền hoặc tài sản cụ thể khác tại thời điểm tịch thu hoặc thu giữ sẽ mất tất cả quyền, về nguyên tắc, đối với tiền hoặc tài sản khác bị tịch thu hoặc thu giữ. Lệnh tịch thu hoặc thu giữ thường liên quan đến kết án tội phạm hoặc quyết định của tòa án trong đó tài sản bị tịch thu hoặc thu giữ được xác định là đã bị tước đoạt từ hoặc dự định sử dụng trong việc vi phạm luật.
|
Các nguyên tắc cốt lõi
|
Các nguyên tắc cốt lõi đề cập tới những nguyên tắc cốt lõi cho việc giám sát ngân hàng hiệu quả do Ủy ban Basel giám sát ngân hàng ban hành, Các mục tiêu và nguyên tắc đối với việc quản lý chứng khoán do Tổ chức quốc tế các ủy ban chứng khoán ban hành và Các nguyên tắc giám sát bảo hiểm do Hiệp hội quốc tế các giám sát viên bảo hiểm ban hành.
|
Hoạt động ngân
hàng đại lý
|
Hoạt động ngân hàng đại lý là việc cung cấp dịch vụ ngân hàng của một ngân hàng (“ngân hàng đại lý”) cho một ngân hàng khác (“ngân hàng đối tác”). Các ngân hàng quốc tế lớn thường hoạt động như là các đại lý cho hàng nghìn ngân hàng khác trên khắp thế giới. Ngân hàng đối tác có thể được cung cấp dịch vụ trong phạm vi rộng, bao gồm cả quản lý tiền mặt (ví dụ như các tài khoản có lãi suất với nhiều loại tiền tệ khác nhau), bù trừ séc chuyển tiền điện tử quốc tế, các tài khoản phải trả và dịch vụ ngoại hối.
|
Quốc gia
|
Tất cả các tham chiếu trong các khuyến nghị của FATF tới quốc gia hoặc các quốc gia đều áp dụng ngang bằng với các lãnh thổ hay các thể chế.
|
Thanh toán có
bảo đảm
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 16.
|
Hoạt động phạm
tội
|
Hoạt động phạm tội đề cập tới: (a) tất cả các hoạt động phạm tội có thể cấu thành tội phạm nguồn của tội rửa tiền trong quốc gia; hoặc (b) ở mức tối thiểu, những tội phạm có thể cấu thành tội phạm nguồn như yêu cầu tại Khuyến nghị số 3.
|
Chuyển tiền điện tử qua biên giới
|
Xem chú giải cho Khuyến nghị số 16.
|
Tiền tệ
|
Tiền tệ đề cập tới tiền giấy và tiền kim loại có trong lưu thông như là một phương tiện trao đổi.
|
Các loại tội phạm
được chỉ định
|
Các loại tội phạm được chỉ định có nghĩa là:
n Tham gia vào một nhóm tội phạm có tổ chức và hoạt động tống tiền;
n Khủng bố, bao gồm cả tài trợ khủng bố;
n Buôn bán người và chuyên chở lậu những ngƣời nhập cư trái phép;
n Bóc lột tình dục, bao gồm cả bóc lột tình dục trẻ em;
n Buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần;
n Buôn lậu vũ khí;
n Buôn lậu hàng hóa trộm cắp và các hàng hóa khác;
n Tham nhũng và hối lộ;
n Lừa đảo;
n Làm tiền giả;
n Làm giả và làm nhái các sản phẩm, hàng hóa;
n Tội phạm về môi trường (ví dụ, tội phạm thu hoạch, khai thác hoặc buôn bán các loài động vật và thực vật hoang dã được bảo vệ, kim loại quý và đá quý, tài nguyên thiên nhiên khác hoặc chất thải);
n Giết người, gây thương tích nặng cho người khác;
n Bắt cóc, giam giữ và bắt làm con tin bất hợp pháp;
n Cướp hoặc trộm cắp;
n Buôn lậu; (bao gồm cả thuế và thuế hải quan, thuế tiêu thụ đặc biệt);
n Tội phạm thuế (liên quan đến thuế trực tiếp và thuế gián tiếp);
n Tống tiền;
n Giả mạo giấy tờ;
n Ăn cắp bản quyền; và
n Giao dịch nội gián và thao túng thị trường.
Khi quyết định về phạm vi các tội phạm để đưa vào các tội phạm nguồn theo từng loại tội danh đã liệt kê ở trên, mỗi quốc gia có thể quyết định, phù hợp với luật pháp trong nước, việc quốc gia đó sẽ xác định các tội phạm đó như thế nào và bản chất của bất kỳ các yếu tố cụ thể nào của các tội phạm đó làm cho chúng trở thành các tội phạm nghiêm trọng.
|
Các tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính chỉ
định (DNFBPs)
|
Các ngành nghề phi tài chính chỉ định có nghĩa là:
a) Các sòng bạc [74];
b) Các đại lý bất động sản;
c) Những nhà kinh doanh kim loại quý;
d) Những người kinh doanh đá quý;
e) Các luật sư, công chứng viên, người hành nghề pháp lý độc lập khác và kế toán viên – ở đây nói đến những người hành nghề độc lập, các đối tác hoặc những người chuyên nghiệp được thuê trong các hãng chuyên nghiệp. Điều này không có nghĩa là đề cập tới những người chuyên nghiệp “nội bộ” là các nhân viên của các loại doanh nghiệp khác, cũng không phải là những người chuyên nghiệp đang làm việc cho các cơ quan chính phủ, những người có thể đã phải tuân thủ các biện pháp chống rửa tiền/ chống tài trợ khủng bố.
f) Các nhà cung cấp dịch vụ công ty và tín thác đề cập đến tất cả những người và doanh nghiệp chưa được đề cập ở đâu đó trong các khuyến nghị này và như một doanh nghiệp, cung cấp bất kì những dịch vụ nào dưới đây cho các bên thứ ba:
- Hành động như một đại lý thành lập của các pháp nhân;
- Hành động (hoặc sắp xếp để người khác hành động) như một giám đốc hoặc thư kí cho một công ty, một bên trong quan hệ đối tác hoặc một vị trí tương tự liên quan đến các pháp nhân khác;
- Cung cấp văn phòng đã đăng kí, địa chỉ hoặc địa điểm kinh doanh, địa chỉ thư tín hoặc địa chỉ hành chính cho một công ty, một quan hệ đối tác hay bất kì một pháp nhân hoặc thỏa thuận pháp lý nào khác;
- Hành động (hay sắp xếp để người khác hành động) như là người nhận ủy thác của một tín thác nhanh hoặc thực hiện một chức năng tương tự cho một hình thức khác của thỏa thuận pháp lý;
- Hành động (hay sắp xếp để người khác hành động) như một cổ đông được chỉ định thay cho một người khác.
|
Cá nhân hay tổ chức được chỉ định
|
Thuật ngữ cá nhân hay tổ chức được chỉ định đề cập tới:
(i) Cá nhân, các nhóm, các doanh nghiệp và các tổ chức được chỉ định bởi Ủy ban của Hội đồng Bảo an được thành lập theo nghị quyết 1267 (1999) (Ủy ban 1267) như những cá nhân có liên quan đến Al-Qaida hoặc tổ chức và các nhóm, doanh nghiệp khác gắn với Al-Qaida;
(ii) Các cá nhân, nhóm, các doanh nghiệp và các tổ chức được chỉ định bởi Ủy ban của Hội đồng Bảo an được thành lập theo Nghị quyết 1988 (2011) (Ủy ban 1988) có liên quan đến Taliban tạo nên mối đe dọa đến hòa bình, ổn định và an ninh của Afghanistan hoặc các tổ chức và các nhóm cũng như doanh nghiệp khác gắn với Taliban;
(iii) Bất kỳ cá nhân hay pháp nhân hoặc tổ chức được chỉ định bởi các thể chế hoặc một thể chế siêu quốc gia theo nghị quyết 1373 của Hội đồng Bảo an (2001);
(iv) Bất kỳ cá nhân hay pháp nhân hoặc tổ chức được chỉ định để áp dụng các hình phạt tài chính mục tiêu theo Nghị quyết 1718 (2006) của Hội đồng Bảo an và các nghị quyết kế thừa của Hội đồng Bảo an trong các phụ lục đính kèm với các nghị quyết tương ứng hoặc bởi Ủy ban của Hội đồng Bảo an được thành lập theo Nghị quyết 1718 (2006) (Ủy ban trừng phạt 1718) theo Nghị quyết 1718 (2006) của Hội đồng Bảo an; và
(v) Bất kỳ pháp nhân, cá nhân hoặc tổ chức nào được chỉ định để áp dụng các hình phạt tài chính mục tiêu theo Nghị quyết 2231 (2015) của Hội đồng Bảo an và các nghị quyết kế thừa trong tương lai của Hội đồng Bảo an
|
Chỉ định
|
Thuật ngữ “Chỉ định” đề cập đến việc nhận dạng một người [75] hoặc tổ chức là đối tượng chịu các hình phạt tài chính mục tiêu theo:
- Nghị quyết 1267 (1999) và các nghị quyết kế thừa của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc;
- Nghị quyết 1373 (2001) của Hội đồng Bảo an, bao gồm cả việc xác định các hình phạt liên quan sẽ được áp dụng cho người hoặc tổ chức và việc công bố công khai việc xác định này;
- Nghị quyết 1718 (2006) của Hội đồng Bảo an và các nghị quyết kế thừa;
- Nghị quyết 1737 (2006) của Hội đồng Bảo an và các nghị quyết kế thừa;
- Các Nghị quyết trong tương lai của Hội động bảo an có áp đặt các hình phạt tài chính mục tiêu trong trường hợp tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Theo nghị quyết 2231 của Hội đồng Bảo an (2015) và bất kỳ người kế nhiệm nào trong tương lai các nghị quyết có liên quan, các tham chiếu đến "chỉ định" áp dụng tương tự cho "danh sách".
|
Chuyển tiền điện tử trong nước
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Các công cụ thực thi có tính chất
bắt buộc
|
Xem phần Chú giải về cơ sở pháp lý cho các yêu cầu đối với các tổ chức tài chính và DNFBPs
|
Ex Parte
|
Thuật ngữ “ex parte” đề cập tới vụ xét xử không được thông báo trước và không có sự tham gia của bên liên quan
|
Ủy thác nhanh
|
Ủy thác nhanh đề cập đến một ủy thác rõ ràng được tạo ra bởi người ủy thác thường dưới hình thức chứng từ, ví dụ ủy thác bằng văn bản. Chúng thường khác biệt so với các ủy thác
được thực hiện thông qua việc vận hành của các luật và không phải là kết quả của những dự định hoặc quyết định rõ ràng của người ủy thác nhằm tạo ra ủy thác hoặc thỏa thuận pháp lý tương tự (ví dụ như ủy thác suy diễn)
|
Khai báo khống
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 32
|
Công khai giả
mạo
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 32
|
Tập đoàn tài chính
|
Tập đoàn tài chính có nghĩa là một nhóm bao gồm công ty mẹ hoặc bất kỳ loại pháp nhân nào khác thực hiện các chức năng kiểm soát và điều phối đối với phần còn lại của tập đoàn, cùng với các chi nhánh và / hoặc công ty con tuân theo các chính sách và thủ tục AML / CFT ở cấp độ nhóm
|
Các tổ chức tài
chính
|
Các tổ chức tài chính có nghĩa là bất kỳ cá nhân hoặc pháp nhân nào thực hiện như một hoạt động kinh doanh một hoặc nhiều hoạt động dưới đây hoặc hành động thay mặt cho khách hàng:
1. Nhận tiền gửi và các quỹ phải trả khác từ công chúng [76]
2. Cho vay [77]
3. Cho thuê tài chính [78]
4. Dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị [79]
5. Phát hành và quản lý các phương tiện thanh toán (ví dụ như các thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, séc, séc du lịch, lệnh chuyển tiền, hối phiếu ngân hàng, tiền điện tử).
6. Thỏa thuận và cam kết tài chính.
7. Kinh doanh:
a. Các công cụ thị trường tiền tệ (séc, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, công cụ phái sinh.v.v);
b. Ngoại hối;
c. Các công cụ chuyển đổi, lãi suất và các công cụ chỉ số;
d. Chứng khoán có thể chuyển nhượng được;
e. Kinh doanh nghiệp vụ hàng hóa tương lai
8. Tham gia phát hành chứng khoán và cung cấp các dịch vụ tài chính liên quan đến các lĩnh vực này.
9. Quản lý danh mục đầu tư cá nhân và tập thể.
10. Bảo quản và quản lý tiền mặt hoặc các chứng khoán thanh khoản thay mặt cho người khác.
11. Đầu tư, quản lý hoặc điều hành ngân quỹ hoặc tiền tệ thay mặt cho người khác.
12. Cam kết và thiết lập bảo hiểm nhân thọ và các bảo hiểm khác liên quan đến đầu tư [80].
13. Đổi tiền mặt và ngoại hối.
|
Các đối tác nước ngoài
|
Các đối tác nước ngoài đề cập tới các cơ quan chức năng nước ngoài thực hiện các chức năng và nhiệm vụ tương tự liên quan tới việc hợp tác được lựa chọn, thậm chí ngay cả khi các cơ quan chức năng nước ngoài này có vị thế và bản chất khác biệt (ví dụ như phụ thuộc vào từng quốc gia, giám sát AML/CFT của các khu vực tài chính cụ thể có thể được thực hiện bởi một giám sát viên cũng có trách nhiệm giám sát thận trọng hoặc bởi một đơn vị giám sát thuộc FIU).
|
Phong tỏa
|
Trong bối cảnh các biện pháp dự phòng và tịch thu (ví dụ các Khuyến nghị số 4, 32 và 38), thuật ngữ “phong tỏa” có nghĩa là việc cấm chuyển nhượng, chuyển đổi, thay đổi vị trí hoặc dịch chuyển bất cứ tài sản, thiết bị hay các công cụ nào khác trên cơ sở và trong thời hạn có hiệu lực của một hành động khởi xướng bởi một cơ quan chức năng hoặc tòa án theo cơ chế phong tỏa hoặc cho đến khi có quyết định sung công hoặc tịch thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Để phục vụ mục đích của Khuyến nghị 6 và 7 về việc thực thi các hình phạt tài chính mục tiêu, thuật ngữ “phong tỏa” có nghĩa là cấm chuyển nhượng, chuyển đổi, thay đổi vị trí hoặc dịch chuyển bất cứ khoản tiền hoặc tài sản khác thuộc sở hữu hoặc kiểm soát bởi các tổ chức, cá nhân bị chỉ định trên cơ sở và trong thời hạn có hiệu lực của một hành động do Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khởi xướng hoặc phù hợp với các nghị quyết của Hội đồng Bảo an có thể được cơ quan chức năng hoặc tòa án áp dụng.
Trong mọi trường hợp, tài sản, thiết bị, công cụ, tiền hoặc tài sản khác bị phong tỏa vẫn còn là tài sản của cá nhân hoặc pháp nhân có lợi ích trong đó vào thời điểm phong tỏa và có thể tiếp tục được quản lý bởi bên thứ ba hoặc thông qua các thỏa thuận khác được thiết lập bởi những cá nhân hoặc pháp nhân này trước khi khởi xướng có hành động theo cơ chế phong tỏa hoặc phù hợp với các quy định khác của quốc gia. Như là một phần của việc thực thi phong tỏa, các quốc gia có thể quyết định việc kiểm soát tài sản, thiết bị, công cụ, tiền hoặc tài sản khác như là những biện pháp để bảo vệ khỏi việc tẩu tán.
|
Các nguyên tắc nền tảng của luật pháp quốc gia
|
Điều này đề cập tới các nguyên tắc pháp lý cơ bản theo đó hệ thống pháp luật quốc gia dựa vào và chúng đưa ra khuôn khổ theo đó các luật lệ của quốc gia được ban hành và các quyền lực được thực hiện. Các nguyên tắc nền tảng này thường được chứa đựng hoặc được thể hiện trong hiến pháp hoặc văn bản có giá trị tương đương của một quốc gia hoặc thông qua các quyết định của tòa án cấp cao nhất có quyền đưa ra các chỉ dẫn ràng buộc hoặc giải nghĩa cho luật quốc gia. Mặc dù điều này rất khác nhau giữa các quốc gia, một số ví dụ về các nguyên tắc nền tảng bao gồm quyền được bồi thường, quyền giả định là vô tội và quyền con người được tòa án bảo vệ hiệu quả.
|
Quỹ
|
Thuật ngữ “quỹ” đề cập tới tài sản dưới mọi hình thức, vật chất hoặc phi vật chất, hữu hình hoặc vô hình, động sản hoặc bất động sản, có được và các công cụ hoặc chứng từ pháp lý dưới bất kỳ hình thức nào, gồm cả hình thức điện tử hoặc kỹ thuật số, chứng minh quyền hoặc lợi ích liên quan tới tài sản đó.
|
Quỹ hoặc tài sản
khác
|
Thuật ngữ “quỹ hoặc các tài sản khác” có nghĩa là bất kỳ tài sản nào, bao gồm nhưng không hạn chế ở các tài sản tài chính, các nguồn lực kinh tế, tài sản dưới mọi hình thức, cho dù là vật chất hay phi vật chất, hữu hình hoặc vô hình, động sản hoặc bất động sản, có được và các công cụ hoặc chứng từ pháp lý dưới bất kỳ hình thức nào, gồm cả hình thức điện tử hoặc kỹ thuật số, chứng minh quyền và lợi ích liên quan tới tiền hoặc tài sản đó, bao gồm nhưng không hạn chế ở chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, séc du lịch, séc ngân hàng, lệnh chuyển tiền, cổ phiếu, chứng khoán, trái phiếu, hối phiếu, tín dụng thư và bất kỳ lợi ích, cổ tức hoặc thu nhập nào khác trên hoặc giá trị có từ hoặc bắt nguồn từ các khoản trên hoặc các tài sản khác như vậy.
|
Dữ liệu nhận dạng
|
Thuật ngữ dữ liệu nhận dạng đề cập tới nguồn thông tin, tài liệu, số liệu độc lập và đáng tin cậy.
|
Định chế tài
chính trung gian
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Các tổ chức quốc
tế
|
Các tổ chức quốc tế là các tổ chức được thành lập theo các thỏa thuận chính trị chính thức giữa các quốc gia thành viên có vị trí như các hiệp ước quốc tế; sự tồn tại của các tổ chức này được luật pháp trong các quốc gia thành viên công nhận các tổ chức này không được coi là một định chế cư trú ở quốc gia nơi chúng có trụ sở. Ví dụ về các tổ chức quốc tế bao gồm Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế liên kết như Tổ chức Hàng hải quốc tế; các tổ chức quốc tế khu vực như Ủy ban Châu Âu, các chế định của Liên minh Châu Âu, Tổ chức An ninh và hợp tác ở Châu Âu và Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ; các tổ chức quân sự quốc tế như Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương và các tổ chức kinh tế như Tổ chức thương mại thế giới hoặc Liên hiệp các quốc gia khu vực Đông Nam Á.v.v
|
Luật
|
Xin tham chiếu đến phần chú giải về cơ sở pháp lý cho các yêu cầu đối với các tổ chức tài chính và DNFBPs
|
Các thỏa thuận
pháp lý
|
Các thỏa thuận pháp lý đề cập đến các ủy thác nhanh hoặc các thỏa thuận pháp lý tương tự khác. Ví dụ về các thỏa thuận pháp lý tương tự khác (sử dụng cho mục đích AML/CFT) bao gồm cả ủy thác có bảo đảm của Pháp; tín thác công ty của Đức; đồng ủy thác…
|
Pháp nhân
|
Pháp nhân đề cập tới bất cứ một thực thể nào không phải là cá nhân, có thể thiết lập quan hệ khách hàng lâu dài với một tổ chức tài chính hoặc có sở hữu về tài sản. Nó có thể bao gồm các công ty, tập đoàn, các quỹ, tổ hợp hoặc hiệp hội và các tổ chức tương tự khác.
|
Tội phạm rửa tiền
|
Các tham chiếu tới (ngoại trừ trong Khuyến nghị 13) tội phạm rửa tiền đề cập tới không chỉ một tội hoặc các tội phạm chính mà còn chỉ cả các tội phạm phụ.
|
Dịch vụ chuyển
tiền hoặc giá trị
|
Dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị (MVTS) đề cập tới các dịch vụ tài chính bao hàm việc chấp nhận tiền mặt, séc, các công cụ tiền tệ khác hoặc các công cụ khác chứa đựng giá trị và việc chi trả tổng số tương đương bằng tiền mặt hoặc các hình thức khác cho bên hưởng lợi thông qua các phương tiện liên lạc, nhắn tin, chuyển hoặc thông qua mạng lưới bù trừ mà nhà cung cấp MVTS nằm trong đó. Các giao dịch được thực hiện bởi các dịch vụ này có thể lôi cuốn sự tham gia của một hoặc nhiều bên trung gian và việc chi trả cuối cùng cho bên thứ ba và có thể bao gồm bất cứ phương thức thanh toán mới nào. Đôi khi các dịch vụ này được gắn với các khu vực địa lý nhất định và được mô tả bằng việc sử dụng các thuật ngữ cụ thể, kể cả Hawala, hundi và feichen.
|
Tịch thu không trên cơ sở kết án
|
Tịch thu không trên cơ sở kết án có nghĩa là việc tịch thu thông qua các thủ tục tư pháp liên quan đến tội phạm hình sự mà không yêu cầu việc kết án hình sự
|
Người đề cử (Nominator)
|
Người đề cử là một cá nhân (hoặc một nhóm cá nhân) hoặc pháp nhân đưa ra chỉ thị (trực tiếp hoặc gián tiếp) cho người được đề cử để thay mặt họ hành động với tư cách là giám đốc hoặc cổ đông, đôi khi còn được gọi là “giám đốc bóng” hoặc "đối tác thầm lặng.
|
Cổ đông hoặc giám đốc danh nghĩa (Nominee shareholder hoặc giám đốc)
|
Người được đề cử là một cá nhân hoặc pháp nhân được hướng dẫn bởi một cá nhân hoặc pháp nhân khác (“người đề cử”) để thay mặt họ hành động với tư cách nhất định liên quan đến một pháp nhân.
Giám đốc được đề cử (còn được gọi là “giám đốc thường trú”) là một cá nhân hoặc pháp nhân thường xuyên thực hiện các chức năng của giám đốc trong công ty và chịu sự chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp của người được đề cử. Giám đốc được chỉ định không bao giờ là chủ sở hữu có lợi của pháp nhân.
Cổ đông được đề cử thực hiện các quyền biểu quyết liên quan theo hướng dẫn của người được đề cử và / hoặc nhận cổ tức thay mặt cho người được đề cử. Một cổ đông được đề cử không bao giờ là chủ sở hữu thực sự của một pháp nhân dựa trên số cổ phần mà họ nắm giữ với tư cách là một người được đề cử.
|
Tổ chức phi lợi nhuận (NPOs)
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 8
|
Người khởi tạo
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Định chế tài
chính phát (ra) lệnh
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Các tài khoản
thanh toán thẳng
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 12
|
Vận chuyển qua biên giới
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 32
|
Cá nhân có ảnh hưởng chính trị
(PEPs)
|
PEPs nước ngoài là các cá nhân là hoặc được giao giữ các chức năng công nổi bật bởi một quốc gia nước ngoài, ví dụ như người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ, các nhà chính trị cấp cao, các quan chức chính phủ cấp cao, thẩm phán hoặc sỹ quan quân đội, các nhà quản lý cấp cao của các tập đoàn do nhà nước sở hữu, các viên chức của đảng phái chính trị quan trọng.
PEPs trong nước là các cá nhân, là hoặc được giao giữ các chức năng công nổi bật trong nước, ví dụ như người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ, các nhà chính trị cấp cao, các quan chức chính phủ cấp cao, thẩm phán hoặc các sỹ quan quân đội, các nhà quản lý cấp cao của các tập đoàn do nhà nước sởhữu, các viên chức của các đảng phái chính trị quan trọng.
Những người là hoặc được giao giữ các chức năng nổi bật bởi một tổ chức quốc tế đề cập tới các thành viên quản lý cấp cao, ví dụ như các giám đốc, phó giám đốc và các thành viên của ban điều hành hoặc các vị trí tương đương. Định nghĩa về PEPs không có ý định đề cập đến các vị trí ở cấp trung hoặc sơ cấp trong các loại được liệt kê ở trên
|
Các khoản thu
|
Các khoản thu đề cập tới bất kỳ tài sản nào phát sinh hoặc có được trực tiếp hoặc gián tiếp từ việc thực hiện tội phạm.
|
Tài sản
|
Tài sản đề cập tới bất cứ loại tài sản nào, vật chất hay phi vật chất, động sản hoặc bất động sản, hữu hình hoặc vô hình và các công cụ hoặc chứng từ pháp lý chứng minh cho quyền đối với hoặc lợi ích trong tài sản đó.
|
Chuyển tiền điện
tử chuẩn
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Các biện pháp
hợp lý
|
Thuật ngữ các biện pháp hợp lý có nghĩa là các biện pháp phù hợp và tương xứng với các rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố
|
Liên quan đến
rửa tiền hoặc tài
trợ khủng bố
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 32
|
Được yêu cầu
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Rủi ro
|
Mọi tham chiếu đến rủi ro đề cập tới rủi ro về rửa tiền hoặc/và tài trợ khủng bố. Thuật ngữ này cần phải được đọc cùng với những Chú giải cho Khuyến nghị số 1
|
Được thỏa mãn
|
Khi tham chiếu được dùng cho một tổ chức tài chính được thỏa mãn một vấn đề, mà định chế này phải có thể chứng minh những đánh giá của mình cho các cơ quan chức năng.
|
Niêm phong
|
Thuận ngữ “niêm phong” có nghĩa là việc cấm chuyển nhượng, chuyển đổi, thay đổi vị trí hoặc dịch chuyển tài sản trên cơ sở một hành động khởi xướng bởi một cơ quan chức năng hoặc tòa án theo cơ chế phong tỏa. Tuy nhiên, không giống như hành động phong tỏa, niêm phong bị ảnh hưởng bởi một cơ chế cho phép cơ quan chức năng hoặc tòa án thực hiện kiểm soát đối với tài sản cụ thể. Tài sản bị niêm phong vẫn là tài sản của cá nhân hoặc pháp nhân có quyền lợi đối với tài sản đó ở thời điểm niêm phong mặc dù cơ quan chức năng hoặc tòa án thường sẽ nắm giữ, điều hành hoặc quản lý tài sản bị niêm phong.
|
Tổ chức tự quản (SRB)
|
SRB là một tổ chức đại diện cho một giới chuyên nghiệp (ví dụ luật sư, công chứng, các ngành nghề pháp lý chuyên nghiệp độc lập hoặc các kế toán viên), được thành lập bởi các thành viên từ giới chuyên nghiệp, có vai trò quản lý những người có đủ điều kiện để tham gia hoặc người hoạt động trong nghề và cũng thực hiện một số chức năng giám sát và kiểm soát nhất định. Các tổ chức như vậy cần phải đưa ra các quy tắc bắt buộc để đảm bảo các tiêu chuẩn về đạo đức và nghề nghiệp cao được duy trì bởi những người hành nghề chuyên nghiệp đó.
|
Chuỗi thanh toán
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Bên chuyển
nhượng
|
Bên chuyển nhượng là cá nhân hoặc pháp nhân chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho bên nhận ủy thác thông qua chứng từ ủy thác hoặc các thỏa thuận tương tự.
|
Ngân hàng vỏ
bọc
|
Ngân hàng vỏ bọc có nghĩa là ngân hàng không có sự hiện diện hữu hình ở quốc gia mà nó hoạt động và được cấp giấy phép; và cũng không thuộc các nhóm tài chính được quản lý, chịu sự giám sát toàn diện hiệu quả.
Sự hiện diện hữu hình có nghĩa là sự hiện diện có ý nghĩa đầy đủ về mặt nhận thức và quản lý được đặt trong một quốc gia. Sự tồn tại đơn giản của một đại lý ở địa phương hoặc của các nhân viên cấp thấp không được coi là hiện diện hữu hình.
|
Cần phải
|
Để phục vụ các mục đích đánh giá tuân thủ các khuyến nghị của FATF, từ “cần phải” (should) có cùng nghĩa với “phải” (must).
|
Quá trình xử lý thẳng
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Các giám sát
viên
|
Các giám sát viên đề cập tới các cơ quan chức năng được chỉ định hoặc các đơn vị không có chức năng công có trách nhiệm bảo đảm việc tuân thủ của các định chế tài chính (“giám sát viên tài chính” [81]) và/hoặc DNFBPs đối với các yêu cầu chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố. Các đơn vị không có chức năng công (có thể bao gồm một số loại SRBs nhất định) cần phải có quyền giám sát và trừng phạt các tổ chức tài chính hoặc DNFBPs liên quan đến các yêu cầu AML/CFT. Các đơn vị không có chức năng công này cần phải được trao quyền bởi luật pháp để thực thi các chức năng mà họ thực hiện và chịu sự giám sát của một cơ quan chức năng liên quan đến những chức năng như vậy.
|
Các hình phạt tài chính mục tiêu
|
Thuật ngữ các hình phạt tài chính mục tiêu có nghĩa là cả việc phong tỏa tài sản và lệnh cấm để ngăn chặn nguồn tiền hoặc tài sản khác không cho có sẵn, trực tiếp hoặc gián tiếp, cho lợi ích của những cá nhân hoặc tổ chức bị chỉ định.
|
Kẻ khủng bố
|
Thuật ngữ “kẻ khủng bố” để chỉ bất kỳ cá nhân nào (i) thực hiện hoặc nỗ lực thực hiện các hành vi khủng bố bằng bất kỳ phương tiện nào, trực tiếp hoặc gián tiếp, bất hợp pháp và cố ý; (ii) tham gia với vai trò đồng phạm trong các hành vi khủng bố; (iii) tổ chức hoặc chỉ đạo người khác thực hiện các hành vi khủng bố; hoặc (iv) giúp sức cho việc thực hiện các hành vi khủng bố bởi một nhóm người có cùng mục đích khi việc giúp sức này là có chủ ý và với mục đích hỗ trợ cho hành vi khủng bố hoặc có ý thức về chủ đích của nhóm là thực hiện hành vi khủng bố.
|
Hành vi khủng
bố
|
Một hành vi khủng bố bao gồm:
a. Hành vi cấu thành tội phạm trong phạm vi của, và như được nêu trong một trong các Công ước dưới đây: (i) Công ước ngăn chặn chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay (1970); (ii) Công ước ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng (1971); (iii) Công ước ngăn chặn và trừng trị các tội phạm chống lại người được bảo hộ quốc tế, bao gồm cả các viên chức ngoại giao (1973); (iv) Công ước quốc tế chống bắt cóc con tin (1979); (v) Công ước về bảo vệ an toàn các vật liệu hạt nhân (1980); (vi) Nghị định thư về việc trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế, bổ sung cho Công ước ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng (1988); (vii) Công ước trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại sự an toàn hàng hải (2005); (viii) Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại sự an toàn của những công trình cố định trên thềm lục địa (2005); (ix) Công ước quốc tế trừng trị khủng bố bằng bom (1997) và (x) Công ước quốc tế về trừng trị tài trợ cho khủng bố (1999).
b. Bất kỳ hành vi nào khác có ý định gây chết hoặc sát thương nghiêm trọng cho công dân hoặc cho bất kỳ người nào khác không phải là bên tham chiến trong tình huống có xung đột vũ trang, khi mục đích của hành vi này thực chất hoặc trong tình huống cụ thể là để đe dọa công chúng hoặc để ép buộc một Chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế làm hoặc từ chối không thực hiện bất kỳ hành động nào.
|
Tài trợ khủng bố
|
Tài trợ khủng bố là việc tài trợ cho các hành vi khủng bố và cho những kẻ khủng bố cũng như các tổ chức khủng bố.
|
Lạm dụng tài trợ khủng bố
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 8
|
Tội tài trợ cho
khủng bố
|
Các tham chiếu (ngoại trừ trong Khuyến nghị 4) tới tội phạm tài trợ cho khủng bố đề cập không chỉ một hay nhiều tội phạm chính mà còn cả những tội phạm phụ nữa.
|
Tổ chức khủng
bố
|
Thuật ngữ “tổ chức khủng bố” đề cập tới bất kỳ nhóm khủng bố nào: (i) thực hiện hoặc nỗ lực thực hiện các hành vi khủng bố bằng bất kỳ phương tiện nào, trực tiếp hoặc gián tiếp, bất hợp pháp và cố ý; (ii) tham gia với vai trò đồng phạm trong các hành vi khủng bố; (iii) tổ chức hoặc chỉ đạo người khác thực hiện các hành vi khủng bố; hoặc (iv) giúp sức cho việc thực hiện những hành vi khủng bố bởi một nhóm người có mục đích thường xuyên như vậy khi việc giúp sức này là có chủ ý và với mục đích hỗ trợ cho hành vi khủng bố hoặc có nhận thức về ý định của nhóm là nhằm thực hiện hành vi khủng bố.
|
Các bên thứ ba
|
Phục vụ cho các mục tiêu của các Khuyến nghị 6 và 7, thuật ngữ các bên thứ ba bao gồm nhưng không giới hạn ở các tổ chức tài chính và DNFBPs.
Xem tham chiếu tới Chú giải cho Khuyến nghị số 17.
|
Người được ủy
thác
|
Thuật ngữ “ủy thác và bên được ủy thác” cần phải được hiểu như được mô tả trong và thông nhất với Điều 2 của Công ước Hague về luật có thể áp dụng cho các ủy thác và việc thừa nhận chúng [82].
Người được ủy thác có thể là người hành nghề chuyên nghiệp (ví dụ, phụ thuộc vào thể chế, một luật sư hoặc một công ty tín thác) nếu họ được trả tiền để đóng vai trò là người được ủy thác trong quá trình hoạt động kinh doanh của họ hoặc không phải là người hành nghề chuyên nghiệp (ví dụ một người hành động không nhận thù lao thay mặt cho gia đình).
|
Số tham chiếu
giao dịch duy
nhất
|
Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16
|
Tài sản ảo
|
Tài sản ảo là một đại diện kỹ thuật số về giá trị có thể được giao dịch kỹ thuật số hoặc chuyển nhượng và có thể được sử dụng cho mục đích thanh toán hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm các đại diện kỹ thuật số của tiền tệ fiat, chứng khoán và các tài sản tài chính khác đã được đề cập ở những phần khác trong Khuyến nghị của FATF.
|
Nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo
|
Nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo có nghĩa là bất kỳ thể nhân hoặc pháp nhân nào không được đề cập ở nơi khác theo Đề xuất và với tư cách là một doanh nghiệp tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sau đây hoặc hoạt động cho hoặc thay mặt cho một thể nhân hoặc pháp nhân khác:
i. trao đổi giữa tài sản ảo và tiền tệ fiat;
ii. trao đổi giữa một hoặc nhiều dạng tài sản ảo;
iii. chuyển nhượng [83] tài sản ảo;
iv. bảo quản an toàn và / hoặc quản lý tài sản ảo hoặc công cụ cho phép kiểm soát tài sản ảo; và
v. tham gia và cung cấp các dịch vụ tài chính liên quan đến đề nghị của nhà phát hành và / hoặc bán tài sản ảo.
|
Không chậm trễ
|
Cụm từ không chậm trễ có nghĩa là, một cách lý tưởng, trong phạm vi thời gian chỉ định của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc hoặc của các Ủy ban trừng phạt liên quan (ví dụ Ủy ban 1267, Ủy ban 1988, Ủy ban trừng phạt 1718 và Ủy ban trừng phạt 1737). Vì mục đích của Nghị quyết S/RES/1373 (2001) cụm từ không chậm trễ có nghĩa khi có nền tảng hoặc cơ sởhợp lý để nghi ngờ hoặc tin rằng một người hoặc tổ chức là kẻ khủng bố, một người tài trợ cho khủng bố hoặc là một tổ chức khủng bố. Trong cả hai trường hợp, cụm từ không chậm trễ cần phải được hiểu trong tình huống của sự cần thiết ngăn chặn sự tẩu tán quỹ hoặc tài sản khác có liên quan tới kẻ khủng bố, tổ chức khủng bố, người tài trợ khủng bố và có liên quan tới tài trợ cho việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và sự cần thiết có hành động toàn cầu, phối hợp để cấm và phá vỡ sự lưu thông một cách nhanh chóng.
|
Từ viết tắt
AML/CFT
|
Chòng chống rửa tiền / Chống tài trợ khủng bố
(còn sử dụng cho cuộc chiến chống tài trợ khủng bố)
|
BNI
|
Công cụ vô danh có thể chuyển nhượng
|
CDD
|
Cập nhật theo dõi thông tin khách hàng
|
DNFBP
|
Các lĩnh vực kinh doanh hoặc ngành nghề phi tài chính chỉ định
|
FATF
|
Lực lượng Đặc nhiệm Hành động Tài chính
|
FIU
|
Đơn vị tình báo tài chính
|
IN
|
Chú giải khuyến nghị
|
MVTS
|
Dịch vụ chuyển tiền hoặc giá trị
|
NPO
|
Tổ chức phi lợi nhuận
|
Palermo Convention
|
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia 2000
|
PEP
|
Cá nhân có ảnh hưởng chính trị
|
R.
|
Khuyến nghị
|
RBA
|
Phương thức tiếp cận dựa trên rủi ro
|
SR.
|
Khuyến nghị đặc biệt
|
SRB
|
Tổ chức tự quản
|
STR
|
Báo cáo giao dịch đáng ngờ
|
TCSP
|
Nhà cung cấp dịch vụ công ty và ủy thác
|
Terrorist Financing Convention: Công ước chống tài trợ khủng bố
|
Công ước quốc tế về trừng trị tài trợ cho khủng bố 1999
|
UN
|
Liên Hợp Quốc
|
Vienna Convention
|
Công ước của Liên hợp quốc chống vận chuyển bất hợp pháp các chất ma túy và các chất hướng thần 1988
|
Phụ lục 1: Các tài liệu hướng dẫn của FATF
FATF đã xuất bản phần lớn các tài liệu Hướng dẫn và Thực tiễn Tốt nhất có thể được tìm thấy tại:
www.fatf-gafi.org/documents/guidance/.
Các sửa đổi sau đây đã được thực hiện đối với các Khuyến nghị của FATF kể từ khi văn bản được thông qua vào tháng 2 năm 2012.
Thời gian
|
Loại sửa đổi
|
Các phần có sửa đổi
|
Tháng 2/2013
|
Sự phù hợp của các tiêu chuẩn giữa R.37 và R.40
|
R.37 (d) - trang 27
Việc đưa ra tham chiếu rằng luật bảo mật hoặc bí mật của DNFBP không được ảnh hưởng đến việc cung cấp hỗ trợ pháp lý lẫn nhau, ngoại trừ trường hợp thông tin liên quan được tìm kiếm được lưu giữ trong các trường hợp áp dụng đặc quyền nghề nghiệp hợp pháp hoặc bí mật nghề nghiệp hợp pháp.
|
Tháng 10/2015
|
Sửa đổi Chú giải khuyến nghị R.5 để đưa ra mối đe dọa từ các chiến binh khủng bố nước ngoài
|
INR.5 (B.3) - trang 37
Chèn B.3 để kết hợp yếu tố liên quan của UNSCR 2178 nhằm giải quyết mối đe dọa do các chiến binh khủng bố nước ngoài gây ra. Điều này làm rõ rằng Khuyến nghị 5 yêu cầu các quốc gia hình sự hóa việc tài trợ cho việc đi lại của các cá nhân đến một Quốc gia không phải là Quốc gia cư trú hoặc quốc tịch của họ với mục đích gây án, lập kế hoạch hoặc chuẩn bị hoặc tham gia vào các hành động khủng bố hoặc cung cấp hoặc nhận huấn luyện chống khủng bố.
B.3-11 hiện có trở thành B.4-12.
|
Tháng 6/2016
|
Sửa đổi R.8 và Chú giải khuyến nghị R.8
|
R.8 và INR.8 - trang 13 và 54-59
Sửa đổi tiêu chuẩn về tổ chức phi lợi nhuận (NPO) để làm rõ tập hợp con các NPO cần được đặt dưới sự giám sát và theo dõi. Điều này làm cho INR.8 phù hợp với Báo cáo phân loại của FATF về rủi ro khủng bố lạm dụng NPO (tháng 6 năm 2014) và Các Thông lệ tốt nhất của FATF về chống lạm dụng NPO (tháng 6 năm 2015), trong đó nêu rõ rằng không phải tất cả các NPO đều có rủi ro cao và nhằm mục đích được giải quyết bởi R.8 và điều chỉnh tốt hơn việc thực hiện R.8 / INR.8 với cách tiếp cận dựa trên rủi ro.
|
Tháng 10/2016
|
Sửa đổi Chú giải khuyến nghị R.5 và định nghĩa trong Bảng thuật ngữ về 'Quỹ hoặc tài sản khác'
|
INR. 5 và Bảng chú giải thuật ngữ - trang 37 và 121
Sửa đổi INR.5 để thay thế “quỹ” bằng “quỹ hoặc tài sản khác” trong INR.5, để có cùng phạm vi với R.6. Sửa đổi định nghĩa Thuật ngữ về “quỹ hoặc các tài sản khác” bằng cách thêm các tham chiếu đến dầu mỏ và các tài nguyên thiên nhiên khác, và các tài sản khác có thể được sử dụng để kiếm tiền.
|
Tháng 6/2017
|
Sửa đổi Chú giải khuyến nghị R.7 và định nghĩa trong Bảng thuật ngữ về “Cá nhân hay tổ chức được chỉ định”, “Chỉ định”, “Không chậm trễ”
|
INR. 7 và Bảng thuật ngữ - trang 45-51, 114-115 và 123
Sửa đổi INR.7 và các sửa đổi tương ứng của các định nghĩa trong Bảng thuật ngữ về " Cá nhân hay tổ chức được chỉ định", "Chỉ định" và "Không chậm trễ" để làm cho văn bản phù hợp với yêu cầu của các Nghị quyết gần đây của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và làm rõ việc thực hiện các biện pháp trừng phạt tài chính có mục tiêu liên quan đến tài trợ phổ biến vũ khí hạt nhân.
|
Tháng 11/2017
|
Sửa đổi Chú giải khuyến nghị cho Khuyến nghị 18
|
INR.18 - trang 77
Sửa đổi INR.18 để làm rõ các yêu cầu về chia sẻ thông tin liên quan đến các giao dịch bất thường hoặc đáng ngờ trong các tập đoàn tài chính. Điều này cũng bao gồm việc cung cấp thông tin này cho các chi nhánh và công ty con khi cần thiết để quản lý rủi ro AML / CFT.
|
Tháng 11/2017
|
Sửa đổi Chú giải khuyến nghị cho Khuyến nghị 21
|
R.21 - trang 17
Sửa đổi R.21 để làm rõ sự tương tác của những các yêu cầu với các điều khoản tiết lộ.
|
Tháng 2/2018
|
Sửa đổi Chú giải khuyến nghị cho Khuyến nghị 2
|
R.2 - trang 9
Sửa đổi R.2 để đảm bảo tính tương thích của các yêu cầu AML/CFT và các quy tắc bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư, đồng thời thúc đẩy chia sẻ thông tin liên cơ quan trong nước giữa các cơ quan có thẩm quyền.
|
Tháng 10/2018
|
Sửa đổi Khuyến nghị 15 và bổ sung hai
định nghĩa mới trong Bảng thuật ngữ
|
R.15 và Bảng thuật ngữ - trang 15 và 126-127
Sửa đổi R15 và bổ sung các định nghĩa mới “tài sản ảo” và “nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo” để làm rõ cách áp dụng các yêu cầu AML/CFT trong bối cảnh tài sản ảo.
|
Tháng 6/2019
|
Bổ sung chú giải khuyến nghị cho R.15
|
INR. 15 - trang 70-71
Chèn một ghi chú diễn giải mới đặt ra việc áp dụng Tiêu chuẩn FATF cho các hoạt động tài sản ảo và các nhà cung cấp dịch vụ.
|
Tháng 10/2020
|
Sửa đổi Khuyến nghị 1 và chú giải Khuyến nghị 1
|
R.1 và INR.1 – trang 10 và 31-36
Sửa đổi R.1 và INR.1 để yêu cầu các quốc gia, tổ chức tài chính và DNFBPs xác định và đánh giá rủi ro các vi phạm tiềm ẩn, không triển khai hoặc trốn tránh các hình phạt tài chính mục tiêu liên quan đến tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt như được nêu trong Khuyến nghị 7 và thực hiện hành động giảm thiểu những rủi ro này.
|
Tháng 10/200
|
Sửa đổi Khuyến nghị 2 và chú giải Khuyến nghị 2
|
R.2 và INR.2 – trang 10-11 và 37
Sửa đổi nhỏ R.2 nhằm tham chiếu đến phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt trong bối cảnh hợp tác và điều phối trong nước.
Thêm chú giải mới để đưa ra khuôn khổ liên ngành nhằm tăng cường hợp tác, điều phối và trao đổi thông tin.
|
Tháng 6/2021
|
Sửa đổi INR.15
|
INR.15 – trang 76
Sửa đổi INR.15 nhằm làm rõ khả năng áp dụng yêu cầu về đánh giá và giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt đối với hoạt động tài sản ảo và nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo.
|
Tháng 10/2021
|
Sửa đổi định nghĩa thuật ngữ “các loại tội phạm được chỉ định”
|
Thuật ngữ - trang 120
Sửa đổi định nghĩa thuật ngữ “các loại tội phạm được chỉ định” nhằm làm rõ các loại tội phạm tuộc danh mục “tội phạm môi trường”.
|
Tháng 10/2021
|
Sửa đổi INR.22/23, thuật ngữ và chỉnh sửa các nội dung đi kèm
|
INR 22 & 23, thuật ngữ và INR 26 – trang 88,98,122
Sửa đổi R.23 để làm rõ nghĩa vụ áp dụng chương trình rộng rãi của DNFBPs.
Làm rõ định nghĩa thuật ngữ “tập đoàn tài chính” không hạn chế đến các tổ chức Nguyên tắc lõi và bổ sung nhỏ INR.26
|
Tháng 03/2022
|
Sửa đổi Khuyến nghị 24, INR.24 và thuật ngữ, bổ sung 02 định nghĩa trong bảng Thuật ngữ
|
R.24, INR 24 và thuật ngữ
Sửa đổi R.24 và định nghĩa thuật ngữ trong đó bổ sung định nghĩa mới “người đề cử” và “cổ đông hoặc giám đốc danh nghĩa” nhằm tăng cường các chuẩn mực về chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân.
|
[1] Rủi ro tài trợ phổ biến VKHDHL đề cập một cách chặt chẽ và duy nhất đến về các vi phạm tiềm ẩn, không thực hiện hoặc trốn tránh các nghĩa vụ trừng phạt tài chính mục tiêu được đề cập trong Khuyến nghị 7
[2] Đoạn 1 và 2 của Chú giải diễn giải cho Khuyến nghị 7, và các chú thích liên quan, đưa ra phạm vi nghĩa vụ của Khuyến nghị 7; bao gồm cả việc nó được giới hạn trong các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu và không bao gồm các yêu cầu khác của Nghị quyết HĐBA LHQ. Các yêu cầu của chuẩn mực FATF liên quan đến tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt chỉ giới hạn trong các Khuyến nghị 1, 2, 7 và 15. Do đó, các yêu cầu theo Khuyến nghị 1 về đánh giá và giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt không làm mở rộng phạm vi của các yêu cầu khác theo các Khuyến nghị khác.
[3] Các quốc gia có thể quyết định miễn trừ một loại tổ chức tài chính cụ thể hoặc DNFBP khỏi các yêu cầu xác định, đánh giá, giám sát, quản lý và giảm thiểu rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, miễn là rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt liên quan đến các tổ chức tài chính hoặc DNFBP đó đã được chứng minh là thấp. Tuy nhiên, việc thực hiện đầy đủ các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu theo yêu cầu của Khuyến nghị 7 trong mọi trường hợp là bắt buộc.
[4] Khi thích hợp, các đánh giá rủi ro AML/CFT ở mức siêu quốc gia cần phải được tính đến khi xem xét liệu nghĩa vụ này đã đáp ứng được chưa.
[5] Tùy trường hợp, các đánh giá rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở cấp siêu-quốc gia (supra-national) cần được tính đến khi xem xét liệu nghĩa vụ này đã được đáp ứng hay không.
[6] Thể nhân hoặc pháp nhân.
[7] Khuyến nghị 6 áp dụng đối với tất cả các nghị quyết hiện tại và trong tương lai kế thừa nghị quyết 1267 (1999) và bất kỳ nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nào khác trong tương lai áp đặt các hình phạt tài chính nhằm chống tài trợ khủng bố. Vào thời điểm ban hành Chú giải này (tháng 2/2012), các nghị quyết kế thừa nghị quyết 1267 (1999) là các nghị quyết: 1333 (2000), 1363 (2001), 1390 (2002), 1452 (2002), 1455 (2003), 1562 (2004), 1617 2005), 1735 (2006), 1822 (2008), 1904 (2009), 1988 (2011) và 1989 (2011).
[8] Dựa trên các yêu cầu đã nêu, chẳng hạn, trong Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán trái phép các chất ma túy và hướng thần (1988) (Công ước Viên) và Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (2000) (Công ước Palermo), quy định nghĩa vụ phong tỏa, niêm phong và tịch thu trong bối cảnh chống tội phạm xuyên quốc gia. Ngoài ra, Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố (1999) (Công ước chống tài trợ khủng bố) bao gồm các nghĩa vụ phong tỏa, niêm phong và tịch thu trong trường hợp chống tài trợ khủng bố. Những nghĩa vụ này tồn tại một cách riêng lẻ và nằm ngoài những nghĩa vụ được đề cập trong Khuyến nghị 6 và các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc liên quan đến tài trợ khủng bố.
[9] Các nghị quyết tương ứng của Hội đồng Bảo an không yêu cầu các quốc gia phải nhận dạng cá nhân hay tổ chức và đệ trình lên các Ủy ban của Liên hợp quốc, nhưng phải có sẵn cơ quan và các thủ tục, cơ chế hiệu quả có thể làm việc đó.
[10] Trong trường hợp của Cộng đồng Châu Âu (EU), là một chủ thể đa quốc gia theo Khuyến nghị 6, luật EU áp
dụng như sau: các tài sản của các cá nhân và tổ chức bị chỉ định bị phong tỏa theo các quy định của EU và những
sửa đổi của quy định này. Các quốc gia thành viên EU có thể phải thực hiện các biện pháp bổ sung nhằm thực hiện việc phong tỏa và tất cả các cá nhân và pháp nhân trong EU phải thực hiện phong tỏa và không tạo điều kiện để các cá nhân và tổ chức bị chỉ định có thể có được tài sản.
[11] Các nghị quyết của Hội đồng Bảo an áp dụng đối với tất cả các thể nhân và pháp nhân trong quốc gia đó.
[12] Khuyến nghị 6 áp dụng đối với tất cả các nghị quyết hiện tại hoặc sau này kế thừa Nghị quyết 1267 (1999). Vào thời điểm ban hành Chú giải này (tháng 2/2012), các nghị quyết kế thừa của Nghị quyết 1267 (1999) là: Nghị quyết 1333 (2000), 1367 (2012), 1390 (2012), 1455 (2003), 1526 (2004), 1617 (2005), 1735 (2006), 1822 (2008), 1904 (2009), 1988 (2011) và 1989 (2011).
[13] OP2 của Nghị quyết 1617 (2005) xác định rõ hơn về các tiêu chí của việc “gắn với” Al-Qaida hoặc Usama Bin Laden.
[14] Khuyến nghị 7 tập trung vào các hình phạt tài chính mục tiêu, bao gồm các hạn chế đặc biệt được quy định tại Nghị quyết 2231 (2015).Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc rộng hơn nhiều và miêu tả các hình phạt khác (ví dụ như cấm vận về đi lại) và các loại điều khoản về tài chính khác (ví dụ lệnh cấm về hoạt động tài chính và các điều khoản về theo dõi). Liên quan đến các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu liên quan đến tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt và các quy định tài chính khác, FATF đã ban hành hướng dẫn không bắt buộc và khuyến khích các quốc gia xem xét hướng dẫn này khi thực hiện các UNSCRs.
[15] Thể nhân và pháp nhân.
[16] Khuyến nghị 7 áp dụng đối với tất cả các nghị quyết hiện tại của Hội đồng Bảo an có áp dụng các biện pháp xử phạt tài chính mang tính mục tiêu đối với tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, bất kỳ các nghị quyết kế thừa trong tương lai và bất kỳ nghị quyết nào trong tương lai của Hội đồng Bảo an áp đặt các hình phạt tài chính mang tính mục tiêu trong việc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Vào thời điểm ban hành khuyến nghị này (tháng 2/2012), các nghị quyết của Hội đồng Bảo an áp dụng các hình phạt tài chính mang tính mục tiêu đối với việc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt là: Nghị quyết 1718 (2006), 1737 (2006), 1747 (2007), 1803 (2008), 1874 (2009) và 1929 (2010).
[17] Chẳng hạn, dựa trên các yêu cầu được đề cập tại Hiệp định chống phổ biến hạt nhân, Công ước chống vũ khí sinh học và chất độc màu da cam, Công ước chống vũ khí hóa học và nghị quyết 1540 (2004) của Hội đồng Bảo an. Những nghĩa vụ này tồn tại một cách độc lập và nằm ngoài các nghĩa vụ được đề cập trong Khuyến nghị 7 và chú giải cho Khuyến nghị này.
[18] Khuyến nghị 7 áp dụng đối với tất cả các nghị quyết kế thừa hiện tại và trong tương lai của Nghị quyết 1718
(2006). Tại thời điểm ban hành Chú giải này (tháng 2/2012), các nghị quyết kế thừa Nghị quyết 1718 (2006) là:
Nghị quyết 1874 (2009).
[19] Trong trường hợp Liên minh Châu Âu (EU), được xem là một siêu quốc gia theo Khuyến nghị 7 của FATF, tài sản của cá nhân hay tổ chức bị chỉ định phong tỏa theo các quy định của EU (đã được sửa đổi). Các thành viên EU có thể thực hiện các biện pháp bổ sung để thực hiện phong tỏa và tất cả các thể nhân và pháp nhân trong EU phải thực hiện phong tỏa và không tạo điều kiện để các cá nhân hay tổ chức bị chỉ định có được các quỹ đó.
[20] Các nghị quyết của Hội đồng Bảo an áp dụng đối với tất cả các thể nhân và pháp nhân trong quốc gia đó.
[21] Trong trường hợp cá nhân hay tổ chức bị chỉ định là một tổ chức tài chính, thì các quốc gia cần phải xem xét
hướng dẫn của FATF được ban hành như một phụ lục của tài liệu Thực thi các điều khoản về tài chính của các Nghị quyết Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhằm chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, được thông qua vào tháng 9/2007.
[22] Các quỹ hoặc tài sản của những cá nhân hay tổ chức này bị phong tỏa bất kể là những tài sản này có bị Ủy ban
xác định cụ thể hay không.
[24]Ví dụ, thông tin như vậy có thể được cung cấp bởi các cơ quan quản lý, các cơ quan thuế, FIU, các nhà tài trợ
hay các cơ quan tình báo và thực thi pháp luật.
[25] Trong bối cảnh này, các quy tắc và quy định có thể bao gồm các quy tắc và tiêu chuẩn được áp dụng bởi các tổ chức tự quản lý và các tổ chức kiểm định.
[26] Phạm vi của các biện pháp trừng phạt như vậy có thể bao gồm đóng băng tài khoản, xóa người được ủy thác, phạt tiền, hủy chứng nhận, hủy cấp phép và hủy đăng ký. Điều này sẽ không loại trừ các thủ tục tố tụng dân sự, hành chính hoặc hình sự song song đối với NPO hoặc những người thay mặt họ nếu thích hợp.
[27] Các yêu cầu cấp phép hoặc đăng ký cụ thể cho các mục đích chống tài trợ khủng bố là không cần thiết. Ví dụ, ở một số quốc gia, các NPO đã được đăng ký với cơ quan thuế và được giám sát trong bối cảnh đủ điều kiện để được tạo thuận lợi về thuế (chẳng hạn như tín dụng thuế hoặc miễn thuế).
[28] Thuật ngữ người thụ hưởng đề cập đến những thể nhân, hoặc những nhóm thể nhân nhận được các hình thức hỗ trợ từ thiện, nhân đạo hoặc các hình thức hỗ trợ khác thông qua các dịch vụ của NPO.
[29] Điều này không có nghĩa là các NPO phải xác định từng cá nhân cụ thể, vì yêu cầu như vậy không phải lúc nào cũng khả thi và trong một số trường hợp, sẽ cản trở khả năng cung cấp các dịch vụ cần thiết của các NPO.
[30] Nguồn tài liệu, số liệu hoặc thông tin độc lập và đáng tin cậy sau đây sẽ được dùng như “số liệu nhận dạng”.
[31] Trong những khuyến nghị này, các tham chiếu cho các thỏa thuận pháp lý như các tín thác (hay các thỏa thuận tương tự khác) là khách hàng của định chế tài chính hay DNFBPs hoặc thực hiện giao dịch, đề cập đến những trường hợp khi một cá nhân hay một pháp nhân là người được ủy nhiệm tín thác thiết lập quan hệ kinh doanh hoặc thực hiện giao dịch thay mặt cho những người thụ hưởng hoặc theo các điều khoản của tín thác. Những yêu cầu CDD thông thường đối với khách hàng là cá nhân hay pháp nhân tiếp tục được thực hiện, kể cả đoạn 4 của Chú giải cho Khuyến nghị 10, nhưng những yêu cầu bổ sung liên quan đến tín thác và chủ sở hữu hưởng lợi của tín thác đó (như đã đề cập) cũng phải áp dụng.
[32] Trong việc xác định tính không phù hợp của các biện pháp xác thực nhận dạng cần phải lưu ý tới những rủi ro
rửa tiền và tài trợ khủng bố mà khách hàng và mối quan hệ kinh doanh của họ mang lại.
[33] Các biện pháp (i.i) đến (i.ii) không phải là những lựa chọn thay thế mà là những biện pháp tổng thể, từng biện
pháp được sử dụng khi đã áp dụng các biện pháp trước đó và không nhận dạng được chủ sở hữu hưởng lợi.
[34] Quyền lợi sở hữu kiểm soát phụ thuộc vào cơ cấu sở hữu của công ty. Nó có thể dựa trên một ngưỡng nào đó, ví dụ bất cứ người nào sở hữu hơn một số phần trăm nào đó cổ phần của một công ty (25%)
[35] Đối với những người thụ hưởng của tín thác được chỉ định theo đặc điểm hoặc theo nhóm, các tổ chức tài chính cần phải có thông tin đầy đủ liên quan đến người thụ hưởng để thỏa mãn tổ chức tài chính rằng họ có thể thiết lập nhận dạng của người thụ hưởng vào thời điểm hoàn trả hoặc khi người thụ hưởng có ý định thực hiện quyền của mình.
[36] Các khách hàng hiện tại được tính vào ngày mà các yêu cầu của quốc gia có hiệu lực.
[37] Phương thức tiếp cận trên cơ sở rủi ro (RBA) không áp dụng cho những trường hợp khi mà CDD bắt buộc áp
dụng nhưng có thể được sử dụng để xác định phạm vi hoặc mức độ các biện pháp như vậy.
[38] Theo Khuyến nghị 19, các quốc gia có nghĩa vụ phải yêu cầu các tổ chức tài chính áp dụng CDD tăng cường
khi FATF kêu gọi các biện pháp như vậy phải được thực hiện.
[39] ‘Rủi ro tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt” đề cập một cách chặt chẽ và duy nhất về các vi phạm tiềm ẩn, không thực hiện hoặc trốn tránh các nghĩa vụ trừng phạt tài chính mục tiêu được đề cập trong Khuyến nghị 7
[40] Các tài liệu tham khảo để tạo ra một pháp nhân bao gồm việc thành lập các công ty hoặc bất kỳ cơ chế nào khác đã sử dụng
[41] Như được định nghĩa trong chú giải khuyến nghị số 16, đoạn 6, hoặc thông tin tương đương trong ngữ cảnh tài sản ảo.
[42] Thông tin có thể được gửi trực tiếp hoặc gián tiếp. Thông tin này không cần thiết để được gắn trực tiếp vào việc chuyển giao tài sản ảo.
[43] Số nhận dạng khách hàng là số duy nhất dùng để nhận dạng người khởi tạo đối với tổ chức tài chính khởi tạo giao dịch và là một số khác với số tham chiếu duy nhất của giao dịch được đề cập tại đoạn 7. Số nhận dạng khách hàng phải là một bản ghi được nắm giữ bởi định chế tài chính khởi tạo giao dịch, trong đó bao gồm ít nhất một trong các thông tin sau: địa chỉ khách hàng, số CMND hoặc ngày và nơi sinh.
[44] Một định chế có thể kiến nghị FATF để được chỉ định như một siêu quốc gia cho mục đích và được giới hạn cho việc đánh giá tính tuân thủ đối với Khuyến nghị 16
[45] Điều này được hiểu là việc thanh toán chuyển tiền điện tử có thể xảy ra theo một thoả thuận thanh toán ròng. Chú giải này đề cập đến thông tin phải có trong các chỉ thị được gửi từ tổ chức tài chính ra lệnh tới tổ chức tài chính thụ hưởng, kể cả việc thông qua tổ chức tài chính trung gian, để có thể chi trả tiền cho người nhận. Bất kỳ sự thanh toán ròng nào giữa các tổ chức tài chính có thể là ngoại lệ theo đoạn 4(b).
[46] Thông tin quyền sở hữu hưởng lợi của các pháp nhân là các thông tin được đề cập tại Chú giải cho Khuyến nghị số 10, đoạn 5(b)(i). Các cổ đông nắm quyền kiểm soát được đề cập tại đoạn 5(b)(i) của Chú giải cho Khuyến nghị số 10 có thể được xác định căn cứ trên một ngưỡng, ví dụ bất kỳ cá nhân nào sở hữu nhiều hơn một tỷ lệ phần trăm cổ phiếu nhất định của công ty ( vd. 25%)
[47] Tham chiếu đến việc hình thành một pháp nhân, bao gồm việc hợp tác giữa các công ty hoặc bất kỳ cơ chế nào
khác được sử dụng
[48] Các quốc gia có thể xác định những gì được coi là một liên kết đủ trên cơ sở rủi ro. Ví dụ về kiểm tra mức độ đầy đủ có thể bao gồm, nhưng không giới hạn, khi một công ty có cơ sở thường trú / chi nhánh / đại lý, có hoạt động kinh doanh quan trọng hoặc có quan hệ kinh doanh quan trọng và liên tục với các tổ chức tài chính hoặc DNFBP, theo quy định của AML / CFT, có bất động sản / đầu tư địa phương khác, sử dụng nhân viên, hoặc là cư dân thuế, trong nước.
[49] Điều này có thể được thực hiện thông qua các biện pháp quốc gia và / hoặc siêu quốc gia. Những điều này có thể bao gồm việc yêu cầu thông tin về quyền sở hữu có lợi về một số loại pháp nhân do nước ngoài tạo ra phải được lưu giữ như quy định tại đoạn 7.
[50] Khuyến nghị 24 áp dụng cho tất cả các hình thức pháp nhân. Các yêu cầu được mô tả chủ yếu liên quan đến các công ty, nhưng các yêu cầu tương tự phải được áp dụng cho các loại pháp nhân khác, có tính đến các hình thức và cấu trúc khác nhau của họ - như được nêu trong Phần E.
[51] Đăng ký công ty” đề cập đến việc đăng ký trong một quốc gia của công ty được thành lập hoặc cấp phép tại
quốc gia đó và thông thường được duy trì bởi hoặc cho cơ quan quản lý công ty. Điều này không đề cập đến thông tin được nắm giữ bởi hoặc cho bản thân công ty.
[52] Thông tin này có thể được lưu giữ bởi chính công ty hoặc bên thứ ba thuộc trách nhiệm của công ty.
[53] Thông tin này nên được công khai, như đã nêu trong đoạn 11.
[54] Điều này áp dụng cho chủ sở hữu danh nghĩa của tất cả các cổ phiếu đã đăng ký.
[55] Hoặc một cơ quan nhà nước khác trong trường hợp mã số thuế.
[56] Một cơ quan có thể ghi lại thông tin chủ sở hữu hưởng lợi cùng với các thông tin khác (ví dụ: quyền sở hữu cơ bản và thông tin kết hợp, thông tin thuế) hoặc nguồn thông tin có thể ở dạng nhiều cơ quan đăng ký (ví dụ: cho các tỉnh hoặc huyện, cho các lĩnh vực hoặc cho các loại pháp lý cụ thể người chẳng hạn như NPO), hoặc của một cơ quan tư nhân được cơ quan công quyền giao phó nhiệm vụ này.
[57] Các quốc gia có thể xác định kịp thời xem một công ty có hoặc kiểm soát tài khoản với một tổ chức tài chính trong nước hay không
[58] Ví dụ về thông tin nhằm xác định (các) thể nhân là (các) chủ sở hữu hưởng LỢI bao gồm tên đầy đủ, (các) quốc tịch, ngày và nơi sinh đầy đủ, địa chỉ cư trú, số nhận dạng quốc gia và loại tài liệu, và mã số thuế hoặc số tương đương ở quốc gia cư trú,
[59] Hoặc bất kỳ công cụ tương tự nào khác không có khả năng truy xuất nguồn gốc.
[60] Các yêu cầu này không áp dụng cho cổ phiếu ghi tên mới phát hành và hiện có hoặc chứng quyền cổ phiếu không ghi tên của một công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán và phải tuân theo các yêu cầu về công bố thông tin (theo quy định của sở giao dịch chứng khoán hoặc thông qua luật hoặc các phương tiện có hiệu lực) nhằm đảm bảo tính minh bạch đầy đủ của sở hữu lợi nhuận.
[61] Một quốc gia không cần đưa ra một hệ thống cấp phép hoặc đăng ký riêng biệt đối với thể nhân hoặc pháp nhân đã được cấp phép hoặc đăng ký với tư cách là các tổ chức tài chính hoặc DNFBP (theo định nghĩa của Khuyến nghị FATF) trong quốc gia đó, theo giấy phép hoặc đăng ký đó, được phép thực hiện các hoạt động được đề cử và đã phải tuân theo đầy đủ các nghĩa vụ hiện hành theo các Khuyến nghị của FATF.
[62] Việc xác định chủ sở hữu thụ hưởng trong các tình huống mà người được chỉ định nắm quyền kiểm soát hoặc thực hiện quyền kiểm soát hiệu quả khác đòi hỏi phải xác định danh tính của thể nhân mà người được đề cử cuối cùng, trực tiếp hoặc gián tiếp, hành động.
[63] Đối với các trung gian tham gia vào các hoạt động được đề cử như vậy, cần tham khảo R.22 và R.28 để đáp ứng các yêu cầu liên quan.
[64] Ngoại trừ ở các quốc gia nơi Waqf là thỏa thuận hợp pháp theo R.25.
[65] Các cơ quan chức năng trong nước hoặc các cơ quan chức năng có liên quan của quốc gia khác chiếu theo yêu
cầu thích hợp về hợp tác quốc tế.
[66] Điều này không ảnh hưởng đến các yêu cầu về các chế tài hiệu quả, tương ứng và mang tính răn đe đối với việc
không tuân thủ các yêu cầu nào đó trong các Khuyến nghị.
[67] Các cơ quan chức năng trong nước hoặc các cơ quan chức năng có liên quan của quốc gia khác chiếu theo yêu
cầu thích hợp về hợp tác quốc tế.
[68] Điều này không ảnh hưởng đến các yêu cầu về các chế tài hiệu quả, tương ứng và mang tính răn đe đối với việc
không tuân thủ các yêu cầu nào đó trong các Khuyến nghị.
[69] Thông tin có thể được công khai nếu sự công khai như vậy được yêu cầu để thực hiện yêu cầu về hợp tác.
[70] Điểm này đề cập tới các giám sát viên tài chính là các cơ quan có thẩm quyền.
[71] Dẫn chiếu đến “Sở hữu hoặc kiểm soát cuối cùng” và “kiểm soát thực sự cuối cùng” nói đến các trường hợp
trong đó quyền sở hữu/kiểm soát được thực hiện thông qua một chuỗi quyền sở hữu hoặc bằng các phương tiện
kiểm soát khác so với kiểm soát trực tiếp.
[72] Định nghĩa này cũng cần phải áp dụng đối với chủ sở hữu hưởng lợi của người hưởng lợi trong hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ hoặc hợp đồng bảo hiểm gắn với đầu tư khác.
[73] Nó bao gồm cả các giám sát viên tài chính được hình thành như những cơ quan phi chính phủ độc lập với những
quyền lực được trao.
[74] Các tham chiếu tới Các sòng bạc trong các chuẩn mực của FATF bao gồm cả các sòng bạc trên internet và trên tàu.
[75] Thể nhân hoặc pháp nhân
[76] Bao gồm cả hoạt động ngân hàng tư nhân.
[77] Bao gồm một hay nhiều hoạt động sau: cho vay tiêu dùng; cho vay thế chấp; nghiệp vụ factoring, có hoặc không
truy đòi; và tài trợ cho các giao dịch thương mại (bao gồm cả đặt cọc).
[78] Điều này không mở rộng tới các thỏa thuận cho thuê tài chính liên quan tới các sản phẩm của khách hàng.
[79] Không áp dụng cho bất kỳ cá nhân hoặc pháp nhân nào chỉ cung cấp cho các tổ chức tài chính dịch vụ ghi dữ liệu hoặc các hệ thống hỗ trợ khác để chuyển tiền. Xem phần Chú giải cho Khuyến nghị số 16.
[80] Điều này áp dụng cho cả bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm và bên trung gian bảo hiểm (các đại lý và các nhà môi
giới)
[81] Bao gồm cả các giám sát viên nguyên tắc cốt lõi, những người thực hiện chức năng giám sát liên quan đến việc
thực thi các khuyến nghị của FATF.
[82] Điều 2 Công ước Hague quy định:
Để phục vụ cho các mục tiêu của Công ước này, thuật ngữ “ủy thác” đề cập tới các mối quan hệ pháp lý được tạo
ra – giữa những người đang sống hoặc đã chết- bởi một người, người chuyển nhượng, khi tài sản được đặt dưới sự
kiểm soát của người được ủy thác cho lợi ích của người hưởng lợi hoặc vì một mục đích được xác định.
Một ủy thác phải có các đặc điểm sau:
a. Tài sản tạo thành một nguồn riêng biệt và không phải là một phần tài sản của bên được ủy thác;
b. Quyền đối với tài sản ủy thác sẽ đứng dưới tên của người được ủy thác hoặc tên của người khác thay mặt cho
người được ủy thác;
c. Người được ủy thác có quyền và nghĩa vụ, theo đó người được ủy thác chịu trách nhiệm quản lý, khai thác hoặc
định đoạt tài sản phù hợp với các điều khoản của ủy thác và các nghĩa vụ đặc biệt ràng buộc người được ủy thác
theo quy định của pháp luật.
Quyền bảo lưu của người chuyển nhượng đối với một số quyền lợi, quyền lực nhất định và thực tế rằng người được
ủy thác có thể có quyền như một bên hưởng lợi, không nhất thiết là không phù hợp với sự tồn tại của một ủy thác.
[83] Trong bối cảnh tài sản ảo này, chuyển giao có nghĩa là thực hiện một giao dịch thay mặt cho một thể nhân hoặc pháp nhân khác để di chuyển tài sản ảo từ địa chỉ hoặc tài khoản tài sản ảo này sang địa chỉ hoặc tài khoản tài sản ảo khác.
Tờ trình của Chính phủ về Dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:293 /TTr - CP
Mô tả:
Tài liệu kèm theo Dự thảo trình Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ngày 7-8/9/2022
1-TTr293-CP-ve-DA-Luat-PCRT.doc
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020), Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội khóa XV về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2022, điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2023, Chính phủ trình Quốc hội Dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) (sau đây gọi là “Luật PCRT (sửa đổi)”) như sau:
I. SỰCẦNTHIẾTBANHÀNHLUẬT PCRT
1. Cơ sở chính trị
Một trong các giải pháp được đưa ra tại Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng là nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “PCRT”) là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác PCRT nói riêng và phòng, chống tham nhũng nói chung phát triển và hoàn thiện, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về tham nhũng, rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đồng thời, tại Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ (điểm 1 Phần IV Kế hoạch) và Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là “Ngân hàng Nhà nước”) chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật PCRT phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
2. Cơ sở về thực hiện điều ước quốc tế và cam kết quốc tế
a) Về các điều ước quốc tế
Ngày 18/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 605/QĐ-TTg về Phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Công ước Palécmô bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của Công ước bằng cách nội luật hóa, bao gồm cả các quy định về PCRT như hình sự hóa đầy đủ tội rửa tiền (Điều 6), xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan có thẩm quyền (Điều 7), thành lập một đơn vị tình báo tài chính của quốc gia và thúc đẩy hợp tác quốc tế (Điều 7).
Để triển khai Công ước trên, điểm 2 (a) mục II Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô đã quy định về nhiệm vụ rà soát để hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về phòng, chống tội phạm cho phù hợp với Công ước và Nghị định thư, trong đó có Luật PCRT.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước Liên hợp quốc về Chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần (Công ước Viên 1988) vào tháng 11/1997 và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Công ước Merida) tháng 8/2009.
Công ước Viên chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước Viên không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng khoản 1 Điều 3 Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó.
Công ước Merida yêu cầu các quốc gia thành viên phải: xây dựng các biện pháp chống rửa tiền (Điều 14); phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do phạm tội mà có (Điều 52); thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích và chuyển giao cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ (Điều 58); hình sự hóa các tội phạm liên quan đến tài sản do phạm tội mà có trong đó có tội tham nhũng (Chương 3), đồng thời có các biện pháp xử lý tội tham nhũng hiệu quả, tăng cường hợp tác quốc tế (Chương 4).
Như vậy, theo yêu cầu của các công ước nêu trên, các quốc gia thành viên, tham gia hoặc phê chuẩn công ước đều phải có các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các hành vi buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần, phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia và hành vi tham nhũng, tài trợ khủng bố. Để thực hiện các biện pháp này, các quy định pháp luật về biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố cũng cần được áp dụng có hiệu quả để phòng ngừa, phát hiện các hành vi nêu trên. Do vậy, việc sửa đổi Luật PCRT là một yêu cầu để thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn.
b) Về thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam
Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về PCRT (APG). Việc gia nhập APG khẳng định cam kết và nỗ lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới trong việc xây dựng một thể chế tài chính lành mạnh và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền/tài trợ khủng bố/tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt (RT/TTKB/TTPBVKHDHL) nói riêng. Điều này góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở để Việt Nam tham gia các hoạt động hợp tác song phương, đa phương thông qua các Hiệp định, thỏa thuận quốc tế, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trên thực tế, việc Việt Nam trở thành thành viên của APG đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình Việt Nam tham gia các diễn đàn của Liên Hiệp quốc như hoạt động của Văn phòng phòng chống tội phạm và ma túy, gia nhập và triển khai các Công ước và Nghị quyết có liên quan. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tạo điều kiện thuận lợi trong việc nhận được các chính sách ưu đãi của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á… cũng như sự hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế khác cho sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Việc gia nhập APG cũng tạo điều kiện cho các thành phần trong nền kinh tế mở rộng phạm vi hoạt động ở nước ngoài và hợp tác với các tổ chức quốc tế.
Ngoài ra, với tư cách thành viên của APG, Việt Nam đã được hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo về phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL thông qua các chương trình hỗ trợ phù hợp dành cho các nước thành viên của APG để nâng cao việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, hàng năm, APG xây dựng các mô hình để xem xét các xu hướng RT/TTKB/TTPBVKHDHL mới nổi ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để cung cấp cho các thành viên nhằm phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả hơn. Trước yêu cầu về công tác PCRT trong hình hình mới ngày càng khó khăn, phức tạp, việc tiếp tục là thành viên của APG và nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ của thành viên tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của Việt Nam, qua đó, tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh những lợi ích thành viên nêu trên, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ thành viên của APG. Theo đó, Việt Nam phải cam kết đóng góp vào quỹ của APG hàng năm trên cơ sở quy mô nền kinh tế theo quy định của APG, cam kết thực hiện các chuẩn mực quốc tế về RT/TTKB/TTPBVKHDHL (40 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) ban hành
[1]); cam kết tham gia vào các vòng đánh giá đa phương của APG theo Phương pháp luận đánh giá của FATF. Kể từ khi trở thành thành viên đến nay, Việt Nam đã trải qua 2 lần đánh giá đa phương của APG (năm 2008 và năm 2019).
Tại Hội nghị thường niên lần thứ 20 của APG năm 2017, các quốc gia đã thông qua kế hoạch đánh giá đa phương đối với cơ chế PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Từ ngày 04 đến 15/11/2019, Đoàn đánh giá APG đã thực hiện đánh giá tại chỗ đối với Việt Nam. Quá trình đánh giá đa phương lần thứ hai này của APG đối với Việt Nam gồm việc rà soát khuôn khổ pháp lý thực hiện dựa trên việc tuân thủ của các quốc gia thành viên theo 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đã cập nhật và dựa trên phương pháp luận mới, tập trung vào tình hình và việc thực thi các khuôn khổ pháp lý thông qua đánh giá tính hiệu quả trong quy định tại 11 Mục tiêu trực tiếp của FATF.
Theo phương pháp đánh giá đa phương của APG hiện hành, các quốc gia sẽ bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường nếu có một trong các tiêu chí: (i) Về khuôn khổ pháp lý (TC): Có 1 trong 6 khuyến nghị cốt lõi (các khuyến nghị số 3, 5, 6, 10, 11, 20)
[2] bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ và/hoặc có từ 21/40 KN bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ; (ii) Về hiệu quả thực thi (IO): có 7/11 IO hoặc hơn bị đánh giá hiệu quả Trung bình/Thấp, hoặc có 4/11 IO bị đánh giá hiệu quả Thấp.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương nhận định: (i) Về khuôn khổ pháp lý, quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn những thiếu hụt, không đáp ứng hoặc mới đáp ứng được một phần tại 27/40
[3] Khuyến nghị của FATF, trong 27/40 khuyến nghị này có 5/6 khuyến nghị cốt lõi; (ii) Về hiệu quả thực thi: hiện có 2/11 Mục tiêu trực tiếp (IO) được đánh giá hiệu quả “Khá”
[4]; 2/11 IO được đánh giá là hiệu quả “Trung bình”
[5]; 7 IO bị đánh giá hiệu quả “Thấp”
[6]. Với kết quả đánh giá đa phương này, Việt Nam đã bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường sau đánh giá đa phương của APG và quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF.
Trong một năm, kể từ khi bị áp dụng quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF (từ tháng 3/2022 - 3/2023), Việt Nam sẽ phải làm việc thường xuyên với APG/FATF để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương. Sau thời gian này, nếu Việt Nam không thể hiện được sự tiến bộ đối với 09 IO đang bị xếp hạng ở mức Thấp hoặc Trung bình và không đáp ứng các yêu cầu về cải thiện khuôn khổ pháp lý, Việt Nam sẽ bị đưa vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL (gọi tắt là Danh sách Xám) - Danh sách công khai toàn cầu của FATF.
Khi một quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực. Cụ thể, theo nghiên cứu của IMF
[7], quốc gia bị rơi vào Danh sách Xám sẽ bị giảm sút đáng kể luồng vốn đầu tư của nước ngoài vào quốc gia đó (khoảng 7,6% trên tổng GDP cả nước). Bên cạnh đó, giao dịch tài chính ra nước ngoài của các tổ chức tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán...) tại quốc gia này sẽ bị các nước tính phí cao hơn và giao dịch sẽ phải chịu sự rà soát tăng cường. Các chi phí này ước tính có thể lên tới hàng triệu USD tùy thuộc quy mô nền kinh tế. Hiện nay, trong các nước thành viên của APG, có 23/41 nước bị rơi vào danh sách Xám của FATF, trong đó chỉ có Mông Cổ đã ra khỏi Danh sách Xám trong vòng 01 năm nhờ thực hiện rất nhanh chóng và hiệu quả các hành động khuyến nghị mà APG đưa ra.
Để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, TTKB và TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 5/8/2022), trong đó bao gồm Danh mục 41 hành động quốc gia về PCRT, TTKB, TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 và Phụ lục 83 hành động thực hiện Kế hoạch đến tháng 3/2023. Theo Kế hoạch này, bên cạnh việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn chi tiết, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự liên quan đến tội rửa tiền, tội TTKB, hành vi TTPBVKHDHL; nghiên cứu tính khả thi và đề xuất xây dựng cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội tại Việt Nam; giao Bộ Tư pháp, Bộ Công an phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu, rà soát Luật tương trợ tư pháp; giao Bộ Xây dựng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bất động sản… Bên cạnh đó, các bộ, ngành phải triển khai thực hiện một loạt các hành động khác như: tăng cường, đẩy mạnh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền (Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao); tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát trong PCRT thuộc trách nhiệm của các bộ, ngành có đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành… Như vậy, để khắc phục các thiếu hụt về cơ chế phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL tại Báo cáo đánh giá đa phương, Việt Nam cần phải có rất nhiều nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ tại Kế hoạch hành động quốc gia và các nhiệm vụ này thuộc trách nhiệm của nhiều bộ, ngành khác nhau. Bên cạnh đó, việc đánh giá Việt Nam đã khắc phục được các thiếu hụt để không bị đưa vào Danh sách xám còn phụ thuộc vào quan điểm đánh giá của APG và của FATF.
Việc sửa đổi Luật PCRT thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm khắc phục những thiếu hụt về cơ sở pháp lý so với các khuyến nghị của FATF đã chỉ ra trong Báo cáo đánh giá đa phương. Cụ thể, hiện nay các nội dung sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) liên quan đến
25/40 Khuyến nghị, trong đó có 23/25 Khuyến nghị hiện đang bị xếp hạng không tuân thủ hoặc tuân thủ một phần, 2/25 Khuyến nghị hiện được đánh giá ở mức tuân thủ phần lớn. Qua đối chiếu với dự thảo Luật, dự kiến có 11 Khuyến nghị có thể được coi là đáp ứng[8]; 14 Khuyến nghị có thể được coi là chỉ đáp ứng một phần[9] do còn liên quan đến việc hoàn thiện các văn bản pháp luật khác (như: Bộ Luật hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Phòng, chống khủng bố, các quy định xử phạt vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn quy trình, cơ chế, nguồn thông tin để thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia) và quá trình tổ chức thực hiện.
Trong số 23 Khuyến nghị, có 4 Khuyến nghị cốt lõi liên quan đến Luật PCRT, trong đó 3/4 Khuyến nghị cốt lõi
[10] có thể được coi là đáp ứng phần lớn; 01 Khuyến nghị là khuyến nghị 6 chỉ đáp ứng một phần do liên quan đến việc sửa đổi các quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan đến việc quy định chi tiết quy trình chỉ định danh sách, biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu…
Đối với các Khuyến nghị chưa thể khắc phục do không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT sẽ được kiến nghị sửa đổi, bổ sung tại các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, các văn bản quy định xử phạt vi phạm hành chính… Các nội dung này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 941/QĐ-TTg nêu trên.
3. Cơ sở thực tiễn trong nước về yêu cầu hoàn thiện pháp luật PCRT
Luật PCRT được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Từ đó đến nay, trải qua 10 năm thi hành Luật PCRT, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về PCRT của Việt Nam đã dần được hoàn thiện. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về PCRT được ban hành như: Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP), Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 31/2014/TT-NHNN và Thông tư số 20/2019/TT-NHNN)…
Thứ hai, về hoàn thiện tổ chức, bộ máy, Ban chỉ đạo quốc gia về PCRT đã được thành lập với Trưởng ban là Phó Thủ tướng Chính phủ và thành viên là đại diện lãnh đạo của 16 bộ, ngành của Việt Nam. Kể từ sau khi Luật PCRT được ban hành, hoạt động của Ban chỉ đạo tiếp tục được đẩy mạnh. Ban chỉ đạo đã tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, xây dựng, ban hành các kế hoạch hành động quốc gia về PCRT. Tại các bộ, ngành có liên quan đều có các bộ phận được chỉ định là đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc trách nhiệm của bộ, ngành mình. Ngân hàng Nhà nước với nhiệm vụ được giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền đã thành lập Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, có chức năng cơ bản là tiếp nhận, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ và các báo cáo, thông tin khác liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố, tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách và hoạt động hợp tác quốc tế về PCRT.
Thứ ba, về thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền, các đối tượng báo cáo theo quy định của Luật PCRT, đặc biệt là các tổ chức tài chính như các công ty chứng khoán, bảo hiểm, tổ chức tín dụng đã thiết lập hệ thống PCRT tại tổ chức mình, thực hiện nhận biết, cập nhật và lưu trữ thông tin khách hàng, từ đó phát hiện các giao dịch đáng ngờ để báo cáo cho Cục PCRT. Từ năm 2013 đến nay, Cục PCRT đã tiếp nhận thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các đối tượng báo cáo và đã phân tích, chuyển giao khối lượng lớn thông tin giao dịch đáng ngờ cho cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục điều tra, xử lý góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và phòng, chống tội phạm nói chung. Trên cơ sở thông tin, dữ liệu tiếp nhận và thu thập từ đối tượng báo cáo và từ cơ quan, tổ chức khác, Cục PCRT đã xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về PCRT bao gồm các thông tin giao dịch đáng ngờ và giao dịch giá trị lớn. Thông tin, dữ liệu này bên cạnh việc góp phần hỗ trợ tích cực trong phân tích, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ còn là nguồn thông tin quan trọng cung cấp cho cơ quan điều tra và các cơ quan có thẩm quyền khác trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và các loại tội phạm khác. Trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng, thông tin dữ liệu từ Cục PCRT hỗ trợ cơ quan điều tra trong điều tra, xác định tài sản của đối tượng điều tra để chứng minh tội phạm, xác định tài sản tham nhũng cần thu hồi cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, về hợp tác quốc tế, Luật PCRT đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về trao đổi thông tin liên quan đến rửa tiền. Ngân hàng Nhà nước đã ký kết 10 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin hợp tác với các cơ quan tình báo tài chính nước ngoài Nhật, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nga, Băngladesh, Vương quốc Anh. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực PCRT đã góp phần ngăn chặn kịp thời các tội phạm rửa tiền và các tội phạm xuyên quốc gia, qua đó, Việt Nam cũng đã học hỏi nhiều kinh nghiệm trong công tác PCRT của các quốc gia và tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, việc thực thi công tác PCRT đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân Việt Nam khi mở rộng quan hệ kinh doanh, hợp tác với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật PCRT còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện, cụ thể:
Thứ nhất, Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được ban hành trước năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 Khuyến nghị hiện hành của FATF.
Thứ hai, về đối tượng báo cáo của Luật PCRT, theo quy định hiện hành, đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs); và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs) phù hợp với các hoạt động của đối tượng báo cáo tại thời điểm ban hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phát sinh một số hoạt động mới cần được bổ sung vào đối tượng báo cáo như hoạt động trung gian thanh toán.
Thực tế, về hoạt động trung gian thanh toán, hiện nay khung pháp lý cho hoạt động này tương đối đầy đủ. Tuy nhiên các quy định về PCRT mới chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật nên chưa đảm bảo đầy đủ và hiệu quả. Do đó, cần luật hóa hoạt động này vào đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Đồng thời, trong thực tiễn có thể phát sinh những hoạt động mới có rủi ro về rửa tiền, đặt ra yêu cầu cần phải có quy định tại Luật PCRT để bao trùm được các lĩnh vực, hoạt động mới phát sinh.
Thứ ba,Luật PCRT hiện hành không có quy định về việc đánh giá rủi ro quốc gia, ngành và tại từng đối tượng báo cáo về rửa tiền; đồng thời, quy định về việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa đảm bảo tính đầy đủ, hợp lý. Trong khi đó đây là một trong những yêu cầu thuộc nhóm các vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT.
Thứ tư,về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo, qua quá trình triển khai và đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn một số tồn tại cơ bản như: các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement" theo khuyến nghị của FATF; Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn thiếu các quy định theo yêu cầu mới phát sinh tại 40 Khuyến nghị của FATF như yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trước khi cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ ứng dụng công nghệ mới...
Từ các cơ sở nêu trên, việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) là cần thiết, nhằm phù hợp với các nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế, cam kết quốc tế của Việt Nam, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong công tác phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, việc sửa đổi Luật PCRT 2012 cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định của pháp luật, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL trong thời gian tới. Bên cạnh đó, để đáp ứng kịp thời các yêu cầu trong nước về tăng cường hiệu quả của quy định pháp luật về PCRT cũng như yêu cầu về đáp ứng các khuyến nghị của APG nên việc trình Quốc hội thông qua Luật PCRT (sửa đổi) tại một kỳ họp vào tháng 10/2022 là cần thiết.
III. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG VĂN BẢN
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật PCRT hiện hành như đã đề cập tại điểm 3 Phần I, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCRT; xây dựng hệ thống pháp luật về PCRT phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế về PCRT mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và công tác phòng, chống tội phạm nói chung.
2. Quan điểm xây dựng dự thảo văn bản
a) Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với công tác PCRT. Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
b) Bên cạnh việc kế thừa thì Luật PCRT (sửa đổi) phải khắc phục các vướng mắc, bất cập các quy định của pháp luật PCRT hiện hành; đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động PCRT hiện nay.
c) Tham khảo, cụ thể hóa các chuẩn mực quốc tế về PCRT trên cơ sở phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; tham khảo pháp luật của một số quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định về PCRT.
IV. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ THẢO LUẬT PCRT (SỬA ĐỔI)
Thực hiện Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội Khóa XV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 06/7/2022 của Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì soạn thảo Luật PCRT (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
1. Đã tổ chức tổng kết thi hành Luật PCRT năm 2012 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng như các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, vướng mắc và đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm cung cấp các luận cứ thực tiễn cho việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi), báo cáo Chính phủ.
2. Đã tiến hành phân tích, đánh giá tác động của các chính sách trong dự án Luật PCRT (sửa đổi), đánh giá tác động thủ tục hành chính, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật PCRT (sửa đổi), theo đó, dự án Luật không làm phát sinh thủ tục hành chính mới, không có nội dung liên quan đến bình đẳng giới.
3. Đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật PCRT (sửa đổi) theo Quyết định số 960/QĐ-NHNN ngày 31/05/2022 của Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là Trưởng ban Ban soạn thảo, đại diện các bộ, cơ quan liên quan, các chuyên gia là thành viên Ban soạn thảo và Tổ biên tập theo đúng quy định.
4. Đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); thực hiện rà soát, nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Bộ luật dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật Kinh doanh bảo hiểm…) để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Theo đó, dự thảo Luật phù hợp với Hiến pháp, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành và các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
5. Tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo Luật theo quy định thông qua các hình thức: đăng tải dự thảo Luật lên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước để lấy ý kiến rộng rãi; gửi hồ sơ dự án Luật đề nghị tham gia ý kiến bằng văn bản của các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động; tổ chức hội thảo để lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức có liên quan.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến góp ý của các bộ, ngành, cơ quan, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam, các tổ chức, hiệp hội, đối tượng chịu sự tác động của dự án Luật. Dự thảo Luật bảo đảm tính thống nhất với các Luật và Điều ước quốc tế có liên quan.
6. Dự án Luật PCRT (sửa đổi) đã được Bộ Tư pháp thẩm định theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Báo cáo thẩm định số 115/BCTĐ-BTP ngày 12/7/2022. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ các ý kiến thẩm định tại Báo cáo 224/BC-NHNN ngày 12/7/2022.
7. Sau khi hoàn thiện, NHNN đã báo cáo Chính phủ về dự án Luật PCRT (sửa đổi). Ngày 26/7/2022, tại phiên họp Chuyên đề Pháp luật của Chính phủ, Chính phủ đã thông qua dự án Luật PCRT (sửa đổi) và giao Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện hồ sơ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật.
8. Ngày 03/8/2022, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình số 260/TTr-CP trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật PCRT (sửa đổi).
9. Ngày 09/8/2022, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp với Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức cuộc họp thẩm tra sơ bộ đối với dự thảo Luật PCRT (sửa đổi).
10. Trong các ngày 04/8/2022 và ngày 12/8/2022, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo, Viện nghiên cứu lập pháp của Quốc hội tổ chức Hội thảo lấy ý kiến chuyên gia, đại biểu Quốc hội đối với dự án Luật PCRT (sửa đổi).
11. Từ ngày 16 đến ngày 18/8/2022, trên cơ sở đề nghị của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, cơ quan chủ trì soạn thảo đã làm việc trực tiếp với Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, đại diện Bộ Tư pháp để rà soát dự thảo Luật PCRT (sửa đổi).
12. Ngày 18/8/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, xem xét, cho ý kiến đối với dự án Luật PCRT (sửa đổi).
Tại Thông báo kết luận số 1388/TB-TTKQH ngày 23/8/2022, Chủ tịch Quốc hội đề nghị xem xét xin ý kiến Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đối với dự án Luật tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách dự kiến tổ chức vào tuần đầu tháng 9/2022. Trên cơ sở đó, Chính phủ trình Đại biểu Quốc hội dự Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách dự án Luật PCRT (sửa đổi).
V. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO
Luật PCRT (sửa đổi) được bố cục gồm 4 Chương, 63 Điều, cụ thể:
- Chương I: Những quy định chung.
- Chương II: Biện pháp phòng, chống rửa tiền.
- Chương III: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền.
- Chương IV: Điều khoản thi hành.
Chính phủ xin báo cáo một số nội dung cơ bản của dự án Luật như sau:
1. Phạm vi điều chỉnh PCRT (sửa đổi)
Về cơ bản, dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật PCRT, theo đó phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong PCRT; hợp tác quốc tế trong PCRT. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) cũng quy định việc PCRT nhằm TTKB, TTPBVKHDHL được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
2. Đối tượng báo cáo về PCRT
Dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo PCRT tại Luật PCRT, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung về đối tượng báo cáo, cụ thể:
- Sửa đổi, bổ sung tên gọi của một số hoạt động của đối tượng báo cáo, ví dụ: sửa đổi tên gọi hoạt động cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư thành hoạt động cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý; sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kinh doanh trò chơi có thưởng …. Việc sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động để phù hợp với nội hàm khái niệm của FATF và phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.
- Dự thảo Luật đã luật hóa quy định tại Nghị định 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP, theo đó, bổ sung đối tượng báo cáo là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
- Trong quá trình xây dựng Luật, để đáp ứng khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, đồng thời từ thực tiễn nhu cầu quản lý nhà nước về PCRT, cơ quan chủ trì soạn có đề xuất bổ sung đối tượng báo cáo mới nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh là: tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và cho vay dựa trên nền tảng công nghệ… Tuy nhiên, sau khi tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đánh giá tính khả thi, đồng thời để đảm bảo quy định tại Luật có tính bao quát được các hoạt động phát sinh trong tương lai, dự thảo Luật được điều chỉnh lại theo hướng giao Chính phủ quy định tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động mới phát sinh là đối tượng báo cáo. Đồng thời, tại dự thảo Luật cũng đã bổ sung quy định việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền. Theo đó, trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và việc hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, Chính phủ sẽ xem xét việc bổ sung đối tượng thực hiện các hoạt động mới là đối tượng báo cáo của Luật PCRT. Quy định này cũng đáp ứng một phần khuyến nghị số 15 của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương.
3. Về hợp tác quốc tế về PCRT
Quy định này được kế thừa từ quy định tại Luật PCRT và luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). Theo đó, dự thảo Luật quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế về PCRT, các trường hợp từ chối yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin, quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về PCRT và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong hợp tác quốc tế về PCRT.
4. Quy định về đánh giá mức độ rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo về rửa tiền
Để đáp ứng khuyến nghị của FATF, đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương và phù hợp với thực tiễn triển khai hoạt động đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo về rửa tiền, dự thảo Luật bổ sung các quy định về đánh giá rủi ro quốc gia, đối tượng báo cáo về rửa tiền, cụ thể:
- Bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền.
Theo đó định kỳ 05 năm, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam, trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá; việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, chưa thuộc hoạt động của đối tượng báo cáo quy định tại Luật này.
Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm thực hiện: (i) Phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc thẩm quyền quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định; (ii) Cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo kế hoạch thực hiện sau đánh giá hoặc khi có các rủi ro phát sinh thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành gửi Ngân hàng Nhà nước. Trên cơ sở kết quả cập nhật rủi ro của các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước tổng hợp trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật rủi ro quốc gia, kế hoạch thực hiện sau đánh giá.
Do các tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền mang tính kỹ thuật và có thể thay đổi trong từng thời kỳ, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định về tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
Quy định này được bổ sung trên cơ sở khuyến nghị của FATF. Theo đó Việt Nam phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố của quốc gia mình bao gồm việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền hoặc thiết lập cơ chế nhằm phối hợp các hành động để đánh giá rủi ro quốc gia, từ đó xây dựng, cập nhật chiến lược quốc gia về phòng, chống rửa tiền/tài trợ khủng bố (sau đây gọi là “RT/TTKB”) phù hợp với rủi ro được xác định. Đánh giá rủi ro quốc gia là cơ sở để quốc gia tập trung nguồn lực một cách hiệu quả vào các lĩnh vực ưu tiên/các lĩnh vực rủi ro cao về RT/TTKB và được coi là một trong những trụ cột nền tảng của công tác PCRT theo chuẩn mực quốc tế, qua đó tăng cường năng lực quốc gia trong thực hiện 40 Khuyến nghị của FATF. Việc bổ sung điều mới về “Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền” cũng phù hợp với Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam về PCRT và tài trợ khủng bố. Điều này sẽ luật hóa nghĩa vụ của Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền.
Trên thực tế, căn cứ vào quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 24 Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền; khoản 2, Điều 1 Thông tư 20/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền), Kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 2015-2020 về phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL và các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, các bộ, ngành đã cùng phối hợp hoàn thành đánh giá rủi ro quốc gia (trong đó có cấu phần đánh giá rủi ro ngành) lần 1 cho giai đoạn 2012-2017 trên cơ sở bộ công cụ đánh giá của Ngân hàng thế giới. Kết quả đánh giá đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua và căn cứ kết quả đánh giá, ngày 30/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 474/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro RT/TTKB giai đoạn 2019 – 2020. Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch sau đánh giá rủi ro quốc gia, trong năm 2019 các bộ, ngành đều đã ban hành Kế hoạch hành động triển khai Kế hoạch sau đánh giá rủi ro quốc gia tại bộ, ngành. Hiện nay, các bộ ngành đang tiếp tục phối hợp hoàn thành đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền lần 2 cho giai đoạn 2018 - 2022.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền. Việc bổ sung quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị số 10 và 11 của FATF mà Việt Nam còn thiếu hụt. Dự thảo Luật giao Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tiêu chí, phương pháp đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro, theo đó dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro về rửa tiền tại tổ chức mình, trong đó phải có nội dung về việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
5. Quy định về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng
- Về nhận biết khách hàng, thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng, biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng: dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin nhận biết khách hàng để phù hợp với pháp luật hiện hành, khuyến nghị của FATF, đánh giá của APG; sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, theo đó đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết, cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, đồng thời giao Chính phủ hướng dẫn nội dung này.
- Về nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba: hoạt động này được sửa đổi tên gọi từ hoạt động kinh doanh qua giới thiệu quy định tại Luật PCRT 2012. Đồng thời, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về các yêu cầu đối với bên thứ ba, quy định rõ việc nhận biết, xác minh thông tin khách hàng thông qua bên thứ ba không loại trừ trách nhiệm của đối tượng báo cáo trong việc nhận biết, xác minh thông tin khách hàng.
- Về xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua việc thuê tổ chức khác: Dự thảo Luật kế thừa quy định về việc đối tượng báo cáo có thể thuê tổ chức khác xác minh thông tin khách hàng. Đồng thời, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức thuê xác minh phải bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật và đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức thuê. Việc thuê tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng thực hiện theo thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật có liên quan.
- Về cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị (PEP): dự thảo Luật bổ sung quy định về đối tượng PEP của tổ chức quốc tế, quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với khách hàng này.
- Về quan hệ ngân hàng đại lý: dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải áp dụng các biện pháp nhằm thu thập thông tin, đánh giá việc thực hiện các biện pháp về PCRT, hiểu biết về các trách nhiệm PCRT của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý; trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải đảm bảo rằng tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
- Quy định về trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới, áp dụng công nghệ đổi mới: dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình để nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền đối với các sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới trước khi đưa vào sử dụng; áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
- Về giám sát một số giao dịch đặc biệt: dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật PCRT về các giao dịch đặc biệt mà đối tượng báo cáo phải giám sát, bao gồm: (i) Giao dịch với giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp theo quy định của Chính phủ; (ii) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo. Đối với các giao dịch này, dự thảo quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
- Về minh bạch thông tin của pháp nhân: dự thảo Luật kế thừa quy định yêu cầu về việc cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản, chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân đối với cơ quan đăng ký kinh doanh; bổ sung quy định về việc cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản, chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân của cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân đó; sửa đổi, làm rõ các thông tin cần và những thông tin nếu có (thông tin về danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ, thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân) mà cơ quan đăng ký, cơ quan cấp phép thành lập thực hiện cập nhật, lưu trữ. Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản, chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa quy định tại Luật PCRT, dự thảo Luật quy định cụ thể Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát PCRT, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan, pháp nhân cung cấp thông tin.
- Về minh bạch thông tin thỏa thuận pháp lý: Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý, theo đó quy định về nghĩa vụ của bên nhận ủy thác phải thu thập, lưu giữ thông tin về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có) và cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác và có trách nhiệm cung cấp các thông tin này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cung cấp thông tin cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan khi thiết lập mối quan hệ khách hàng liên quan đến tài sản được ủy thác. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải thực hiện nhận biết và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định đối với những cá nhân, tổ chức liên quan đến ủy thác.
- Về minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận: dự thảo Luật bổ sung quy định về khái niệm tổ chức phi lợi nhuận là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bao gồm tổ chức phi chính phủ nước ngoài, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, các hội, tổ chức tôn giáo được thành lập, đăng ký, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, dự thảo Luật quy định các tổ chức này phải thực hiện cập nhật, lưu trữ hồ sơ về việc tài trợ, tiếp nhận tài trợ của tổ chức phi lợi nhuận và cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu, qua đó đảm bảo yêu cầu về PCRT trong hoạt động của các tổ chức này.
6. Về trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ và báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin về phòng, chống rửa tiền
- Về trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ: Để phù hợp với loại hình, quy mô hoạt động của các đối tượng báo cáo, dự thảo Luật có quy định riêng trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ của đối tượng báo cáo là tổ chức, trừ doanh nghiệp siêu nhỏ và đối tượng báo cáo là cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ
[11]. Theo đó, với đối tượng báo cáo là cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ, quy định nội bộ được giảm bớt một số nội dung (như chính sách, quy trình quản lý rủi ro, quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ …).
Bên cạnh đó, dự thảo Luật bổ sung một số nội dung phải có tại quy định nội bộ về PCRT của đối tượng báo cáo, bao gồm: chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh; chính sách, quy trình quản lý rủi ro; tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng chống rửa tiền. Bổ sung yêu cầu quy định nội bộ phải được áp dụng, phổ biến đến đại lý, chi nhánh, công ty con của đối tượng báo cáo.
- Về báo cáo giao dịch đáng ngờ: Dự thảo Luật luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định cụ thể về các trường hợp đối tượng báo cáo phải thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ. Bên cạnh đó, trên cơ sở rà soát từ thực tiễn quản lý và ý kiến tham gia của các cơ quan, tổ chức, dự thảo Luật sửa đổi một số dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm nhân thọ; bổ sung dấu hiệu đáng ngờ đối với hoạt động trung gian thanh toán tại dự thảo Luật. Về kỹ thuật, dự thảo Luật đã sửa đổi theo hướng tách các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản và dấu hiệu đáng ngờ trong từng lĩnh vực thành các điều riêng để dễ theo dõi và thực hiện.
Luật PCRT năm 2012 giao Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn các giao dịch đáng ngờ mới phát sinh trong từng thời kỳ. Tại dự thảo Luật đã sửa đổi quy định “giao Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn” thành “giao Chính phủ hướng dẫn”. Các dấu hiệu đáng ngờ quy định tại dự thảo Luật được xây dựng từ kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn quản lý của cơ quan nhà nước, thực tế hoạt động tại đối tượng báo cáo. Theo đó, các dấu hiệu này sẽ được cập nhật để đáp ứng được tình hình, yêu cầu công tác phòng chống rửa tiền trong từng thời kỳ. Việc giao Chính phủ hướng dẫn đảm bảo tính cập nhật kịp thời khi có phát sinh những dấu hiệu mới, qua đó đảm bảo được yêu cầu của công tác PCRT. Do đó, về nội dung này Chính phủ đề xuất được giữ như nội dung dự thảo Luật đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Về thời hạn báo cáo giao dịch đáng ngờ, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn: (i) tối đa hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch; hoặc (ii) một ngày làm việc kể từ thời điểm phát hiện giao dịch đáng ngờ, khắc phục những vướng mắc của đối tượng báo cáo trong quá trình thực hiện.
- Về giao dịch chuyển tiền điện tử: Dự thảo Luật bổ sung quy định trách nhiệm của các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
- Dự thảo Luật cũng sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm lưu trữ hồ sơ, báo cáo của đối tượng báo cáo nhằm cụ thể các loại thông tin đối tượng báo cáo phải lưu trữ; quy định trách nhiệm báo cáo, cung cấp hồ sơ, thông tin này cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của đối tượng báo cáo; sửa đổi, bổ sung quy định về bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo nhằm phù hợp với quy định pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước và thực tiễn hoạt động của đối tượng báo cáo.
7. Về thực hiện thu thập, xử lý, phân tích, chuyển giao thông tin về PCRT và áp dụng các biện pháp tạm thời
- Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về việc trao đổi, chuyển giao thông tin PCRT với cơ quan có thẩm quyền trong nước, cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Đồng thời, bổ sung việc giao Chính phủ quy định chi tiết về việc chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT trong nước; giao Chính phủ hướng dẫn về việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT tại Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan có thẩm quyền trong và ngoài nước.
- Về áp dụng các biện pháp tạm thời: dự thảo Luật bổ sung trường hợp trì hoãn giao dịch khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan, bổ sung quy định về thời điểm thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch theo hướng đảm bảo tính kịp thời, phù hợp với yêu cầu của Khuyến nghị số 6 của FATF.
Về biện pháp phong tỏa tài khoản, niêm phong, phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản, dự thảo Luật bổ sung quy định về việc đối tượng báo cáo phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về phong tỏa tài sản, phù hợp với các biện pháp quy định tại pháp luật về tố tụng.
8. Về quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
Về cơ bản, nội dung phân công trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT được kế thừa các quy định tại Luật PCRT năm 2012 và trên cơ sở luật hóa nội dung phân công trách nhiệm của bộ, ngành tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra, dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của bộ, ngành trong việc thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành; sửa đổi, bổ sung trách nhiệm cụ thể một số bộ ngành, bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
9. Về điều khoản thi hành
- Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền”. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm tạo cơ sở để triển khai, thực hiện các yêu cầu về nâng cao tính độc lập của đơn vị tình báo tài chính tại khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG cũng như để đáp ứng yêu cầu của công tác PCRT trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
Theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật PCRT đều giao Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về PCRT. Tại Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đang được giao thực hiện nhiệm vụ này và Cục PCRT là đơn vị thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về PCRT.
Tại khuyến nghị 29 của FATF yêu cầu mỗi quốc gia cần phải thành lập đơn vị tình báo tài chính, trong đó đơn vị tình báo tài chính cần phải được trao đầy đủ thẩm quyền để thu thập các thông tin từ các tổ chức báo cáo, truy cập một cách kịp thời các thông tin tài chính và thực thi pháp luật để thực hiện tốt 3 chức năng chính là (i) tiếp nhận, (ii) phân tích, và (iii) chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố một cách độc lập.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG năm 2022, APG đã chỉ ra việc Cục trưởng Cục PCRT chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mọi hoạt động của Cục PCRT là chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để Cục PCRT thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự chủ; việc Cục PCRT nằm trong Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có thể dẫn đến một số quan ngại về vấn đề bảo mật thông tin và lo ngại về tính độc lập trong hoạt động của đơn vị tình báo tài chính, vốn được coi trọng đặc biệt. Trên cơ sở đó, APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền và tính độc lập cho Cục PCRT để nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
Với mô hình tổ chức, vị trí, chức năng của Cục PCRT hiện nay, chưa đáp ứng được yêu cầu về tính độc lập của đơn vị tình báo tài chính theo chuẩn mực quốc tế, là một trong lý do chính mà Việt Nam chưa gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont) mặc dù đã có đơn gia nhập và đã được công nhận là quan sát viên của Nhóm Egmont từ năm 2010.
Trong hoạt động hợp tác quốc tế, các đơn vị tình báo tài chính trên thế giới được khuyến nghị ký kết Bản ghi nhớ để trao đổi thông tin về PCRT. Theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, người đứng đầu đơn vị tình báo tài chính là người có thẩm quyền ký Bản ghi nhớ (đây là thẩm quyền bắt buộc phải có của đơn vị tình báo tài chính). Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Thỏa thuận quốc tế, Bản ghi nhớ phải được ký nhân danh Tổng cục, cục thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ. Điều này, gây nhiều khó khăn cho Cục PCRT trong quá trình đàm phán ký kết Bản ghi nhớ cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động trao đổi thông tin với đối tác nước ngoài (do nhiều đơn vị tình báo tài chính trên thế giới chỉ chấp nhận việc chia sẻ thông tin sau khi đã ký kết Bản ghi nhớ) và thực hiện các nghĩa vụ của Việt Nam trong APG;
Từ các lý do nêu trên, việc nâng cao năng lực hoạt động của đơn vị đầu mối về PCRT, thúc đẩy thực hiện có hiệu quả các đánh giá của APG, khuyến nghị của FATF đối với tính độc lập đơn vị tình báo tài chính, việc tách chức năng PCRT ra khỏi Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và đơn vị tình báo tài chính thành đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước là cần thiết.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, dự thảo Luật có quy định về đơn vị đầu mối thuộc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ về PCRT tại Luật. Tuy nhiên, để đảm bảo phù hợp chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội không quy định tổ chức, bộ máy tại các Luật chuyên ngành, Chính phủ đã bỏ quy định về đơn vị đầu mối tại dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, để thực hiện khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại báo cáo đánh giá đa phương, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước xây dựng Đề án riêng, báo cáo cơ quan có thẩm quyền về đơn vị đầu mối về PCRT theo quy định. Việc sửa đổi khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước không phải là quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và là quy định cần thiết để Ngân hàng Nhà nước có cơ sở xây dựng Đề án, trình Chính phủ, các cấp có thẩm quyền về việc phân công nhiệm vụ thực hiện chức năng PCRT cho các đơn vị cụ thể thuộc Ngân hàng Nhà nước sau này.
- Dự thảo Luật bổ sung quy định sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật Phòng, chống khủng bố và pháp luật về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (sau đây gọi là “PBVKHDHL”) theo hướng tương đồng với các quy định cụ thể, mới được sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT. Việc sửa đổi, bổ sung này căn cứ trên các khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, theo đó một số yêu cầu sửa đổi, bổ sung pháp luật về PCRT cũng được khuyến nghị đồng thời với sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống khủng bố, tài trợ PBVKHDHL. Với thời hạn phải báo cáo kết quả thực hiện đánh giá của APG vào tháng 3/2023, trong khi việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống khủng bố, pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật phòng, chống khủng bố, pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL tại dự thảo Luật này là cần thiết, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất giữa Luật PCRT và Luật Phòng, chống khủng bố, pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL.
Trên cơ sở Thông báo kết luận số 1388/TB-TTKQH ngày 23/8/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ý kiến thẩm tra sơ bộ của các Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ kính trình Quốc hội Báo cáo nội dung dự kiến tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội về dự án Luật PCRT (sửa đổi) và dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) (xin đính kèm).
Trên đây là Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
[1] FATF là tổ chức liên chính phủ ban hành ra các chuẩn mực thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu. Năm 2004, FATF lần đầu ban hành bộ tiêu chuẩn 40+9 Khuyến nghị bao gồm 40 Khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và 9 Khuyến nghị đặc biệt về phòng, chống tài trợ khủng bố; đến tháng 02/2012 FATF sửa đổi, bổ sung 40+9 Khuyến nghị thành bộ 40 Khuyến nghị mới về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt. 40 Khuyến nghị hiện đang được áp dụng là bộ chuẩn mực quốc tế chung về PCRT/TTKB/VKHD. Hiện nay, hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đang cam kết thực hiện theo các khuyến nghị của FATF trong đó có Việt Nam. (Nguồn trích dẫn: website:
https://www.fatf-gafi.org/about/).
[2] 6 Khuyến nghị chủ chốt và cốt lõi gồm Khuyến nghị 3 (Tội phạm rửa tiền), 5 (tội phạm tài trợ khủng bố), 6 (các hình phạt tài chính mục tiêu), 10 (nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng), 11 (Lưu giữ báo cáo), 20 (báo cáo giao dịch đáng ngờ).
[3] 27/40 khuyến nghị hiện đang bị đánh giá NC hoặc PC: 1, 3, 6, 7, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 34, 35, 38.
[4] Công tác tịch thu, thu hồi tài sản (IO8) và chống tài trợ khủng bố (IO9).
[5] Hiểu biết về rủi ro rửa tiền/tài trợ khủng bố (IO1) và Hợp tác quốc tế (IO2).
[6] 7 IO bị đánh giá thấp liên quan đến công tác thanh tra, giám sát về rửa tiền/tài trợ khủng bố/tài trợ, phổ biến vũ khí, các biện pháp phòng ngừa của các đối tượng báo cáo, pháp nhân và thoả thuận pháp lý, tình báo tài chính, điều tra và truy tố tội rửa tiền, các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu và chống tài trợ, phổ biến vũ khí.
[7] IMF Working Paper WP/21/153.
[8] KN 2, 9, 11, 13, 14, 17, 18, 20, 21, 23, 25
[9] KN 1, 6, 10, 12, 15, 16, 19, 22, 24, 26, 27, 28, 29, 40
[10] Khuyến nghị số: 10, 11, 20
[11] Khoản 1 Điều 5 Nghị định 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp siêu nhỏ là:
“Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng sử dụng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn của năm không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ sử dụng lao động có tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn của năm không quá 3 tỷ đồng.”.
Báo cáo rà soát pháp luật trong nước và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan đến dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo trình UBTVQH tại phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 8/2022)
11-bc-ra-soat-VBQPPL-trong-DA-Luat-PCRTsd---20220809100419.docx
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiến hành rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong nước và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) (gọi tắt là dự thảo Luật) để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện hành. NHNN xin báo cáo kết quả rà soát như sau:
I. TỔ CHỨC THỰC HIỆN RÀ SOÁT
1. Phạm vi, nội dung rà soát
- Về phạm vi rà soát: gồm toàn bộ nội dung dự thảo Luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan theo các nhóm vấn đề: Một số khái niệm và quy định chung; Biện pháp phòng, chống rửa tiền (bao gồm: Thông tin nhận biết khách hàng; Thỏa thuận pháp lý, Minh bạch thông tin của pháp nhân; Bảo đảm bí mật, thông tin tài liệu báo cáo; Phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản); Trách nhiệm các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền; Một số nội dung liên quan đến hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
- Về nội dung rà soát: Đối chiếu các quy định tại dự thảo Luật với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và hệ thống các văn bản QPPL hiện hành gồm các luật, nghị quyết, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư… đảm bảo tính hợp hiến, đồng bộ, thống nhất với các văn bản được rà soát, tránh mâu thuẫn, chồng chéo hoặc khoảng trống pháp lý trong hệ thống pháp luật.
2. Mục đích việc rà soát dự thảo Luật và các văn bản có liên quan
Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự thảo Luật có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục đích, quan điểm xây dựng dự thảo Luật là đảm bảo tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật.
3. Kết quả rà soát
Qua rà soát đã xác định tổng số văn bản được rà soát là 48 văn bản, bao gồm: Hiến pháp; 06 Công ước quốc tế; 17 Luật; 18 Nghị định của Chính phủ; 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 02 Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; 03 Thông tư (Phụ lục I đính kèm).
4. Những nội dung cơ bản của dự thảo Luật
Dự thảo Luật được xây dựng với kết cấu gồm 4 chương, 54 điều quy định những nội dung chính như sau:
Chương I: Những quy định chung. Chương này gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8) trong đó quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, nguyên tắc, chính sách nội dung hợp tác quốc tế, đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về phòng, chống rửa tiền và các hành vi bị cấm.
Chương II: Biện pháp phòng, chống rửa tiền (từ Điều 9 đến Điều 39). Chương này gồm 4 mục, 31 điều:
+ Mục 1: Nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin khách hàng. Mục này gồm 15 điều;
+ Mục 2: Trách nhiệm báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin và xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền. Mục này gồm 10 điều;
+ Mục 3: Thu thập, xử lý, phân tích, giám sát và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền. Mục này gồm 3 điều;
+ Mục 4: Áp dụng các biện pháp tạm thời. Mục này gồm 2 điều.
Chương III: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền (từ Điều 39 đến Điều 53).
Chương IV: Điều khoản thi hành (Điều 54).
II. KẾT QUẢ RÀ SOÁT
A. RÀ SOÁT CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ LIÊN QUAN
1. Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988 (Công ước Viên)
Do mối quan ngại tăng lên trước tình trạng buôn bán bất hợp pháp ma túy quốc tế ngày càng tăng và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ thống ngân hàng, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước Viên năm 1988. Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước Viên không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó. Công ước Viên chỉ quy định tội buôn bán bất hợp pháp ma túy là tội phạm nguồn và không xử lý các khía cạnh mang tính phòng ngừa việc rửa tiền. Công ước có hiệu lực từ tháng 11/1990.
Khoản 1 Điều 3 Công ước Viên quy định về “Tội phạm và hình phạt” như sau:
“1. Theo nội luật của mình, mỗi bên của Công ước sẽ áp dụng những biện pháp cần thiết để coi là tội phạm hình sự những hành vi dưới đây nếu chúng được cố ý thực hiện:
(a) i) Sản xuất, điều chế, chiết xuất, pha chế, chào hàng, phân phối, bán, trao đổi dưới bất cứ hình thức nào như môi giới, gửi, quá cảnh, vận chuyển, nhập khẩu, xuất khẩu ma tuý và các chất hướng thần trái với các quy định của Công ước 1961, Công ước 1961 sửa đổi hoặc Công ước 1971;
ii) Trồng cây thuốc phiện, cây cô ca hay cây cần sa với mục đích sản xuất trái phép ma tuý, trái phép với các quy định của Công ước 1961 và Công ước 1961 sửa đổi;
iii) Tàng trữ hoặc mua bán bất kỳ chất ma tuý hoặc chất hướng thần nào với mục đích thực hiện bất kỳ hoạt động nào quy định tại điểm (i) nói trên;
iv) Điều chế, vận chuyển hay cung cấp phương tiện, nguyên liệu hoặc các chất trong các Bảng I và Bảng II mà biết rõ những chất đó được sử dụng để trồng trọt, sản xuất, điều chế trái phép các chất ma tuý hoặc các chất hướng thần;
v) Tổ chức, chỉ đạo hoặc tài trợ cho bất kỳ hành động phạm tội nào quy định tại các điểm (i), (ii), (iii) hoặc (iv) nói trên;
b) i) Chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó thu được từ bất kỳ hành vi phạm tội nào được quy định tại điểm (a) của khoản này hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội đó với mục đích che giấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc giúp bất kỳ người nào có dính líu vào hành vi phạm tội như vậy trốn tránh trách nhiệm hình sự của hành vi đó;
ii) Che giấu hoặc ngụy trang bản chất thực sự nguồn gốc, địa điểm, chuyển nhượng, chuyển quyền sở hữu tài sản mà biết rõ tài sản đó thu được từ hoạt động phạm tội đã được quy định tại điểm (a) được quy định tại điểm này;
c) Dựa theo những quy định của Hiến pháp và những khái niệm cơ bản của hệ thống pháp luật của từng nước;
i) Việc có được sở hữu, hoặc sử dụng tài sản mà vào thời điểm đó biết rõ đấy là tài sản do phạm tội quy định tại điểm (a) khoản này hoặc do tham gia vào những hoạt động phạm tội đó mà có;
ii) Tàng trữ những phương tiện, nguyên liệu hoặc các chất liệt kê trong Bảng I và Bảng II mà biết rõ những thứ đó đang hoặc sẽ được sử dụng trái phép cho các mục đích trồng, sản xuất hoặc điều chế các chất ma tuý và các chất hướng thần;
iii) Bằng mọi cách kích động hoặc xúi giục người khác phạm tội quy định tại Điều này hoặc sử dụng trái phép các chất ma tuý và các chất hướng thần;
iv) Tham gia, cấu kết hoặc có âm mưu phạm các tội quy định tại Điều này, cũng như có hành vi giúp sức, xúc giục, thúc đẩy hoặc dụ dỗ người khác phạm bất kỳ tội nào quy định tại Điều này.”
2. Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Công ước Palécmô)
Nhằm tăng cường nỗ lực chống tội phạm quốc tế có tổ chức, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước Palécmô năm 2000. Công ước bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của Công ước bằng cách ban hành luật trong nước. Công ước Palécmô có hiệu lực vào ngày 29/9/2003.
Về rửa tiền, Công ước Palécmô bắt buộc mỗi nước thông qua công ước phải:
- Hình sự hóa việc rửa tiền và quy định tất cả các tội nghiêm trọng là tội phạm nguồn của tội rửa tiền, bất kể phạm tội được thực hiện ở trong nước hay ở ngoài nước và cho phép suy đoán về sự cố ý phạm tội từ những tình tiết khách quan.
- Xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền, kể cả nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ và báo cáo giao dịch đáng ngờ.
- Trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính, quản lý, thi hành pháp luật và các cơ quan khác, cả ở trong nước và trên phạm vi quốc tế và xem xét việc thành lập một đơn vị tình báo tài chính để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin; và
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế.
Cụ thể, Điều 6 Công ước Palécmô quy định về “Hình sự hoá hành vi hợp pháp hoá tài sản do phạm tội mà có” như sau:
“1. Phù hợp với những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật trong nước của mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành pháp luật hoặc những biện pháp cần thiết khác để coi các hành vi sau là tội phạm khi chúng được thực hiện một cách cố ý:
(a) (i) Chuyển đổi hay chuyển giao tài sản, dù biết rằng những tài sản này do phạm tội mà có, nhằm che đậy hoặc che dấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc nhằm giúp đỡ bất cứ người nào liên quan đến việc thực hiện một hành vi vi phạm nguồn lẩn tránh những hậu quả pháp lý do hành vi của người đó gây ra;
(ii) Che đậy hoặc che dấu bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm, việc chuyển nhượng, chuyển dịch hoặc quyền sở hữu hay những quyền đối với tài sản, dù biết rằng tài sản này do phạm tội mà có;
(b) Tuỳ theo những khái niệm cơ bản của hệ thống pháp lý của quốc gia:
(i) Giành được, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, dù tại thời điểm nhận được tài sản, biết rằng đó là tài sản do phạm tội mà có;
(ii) Tham gia, liên kết hay thông đồng thực hiện, nỗ lực thực hiện và hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện bất kỳ một hành vi phạm tội nào theo quy định của điều này.
2. Để thực hiện hay áp dụng Khoản 1 của điều này:
(a) Mỗi Quốc gia thành viên sẽ tìm cách áp dụng Khoản 1 Điều này ở phạm vi rộng nhất của các hành vi vi phạm nguồn;
(b) Mỗi Quốc gia thành viên sẽ coi cả những tội phạm nghiêm trọng được định nghĩa tại Điều 2 của Công ước này và những hành vi phạm tội quy định tại Điều 5, 8 và 23 là những hành vi phạm tội nguồn. Đối với các Quốc gia thành viên mà luật pháp của họ định rõ một danh sách các hành vi phạm tội nguồn cụ thể, thì ít nhất họ sẽ gộp vào trong danh sách này một phạm vi tổng thể các hành vi phạm tội có liên quan đến những nhóm tội phạm có tổ chức;
(c) Vì mục đích của Mục (b), những hành vi vi phạm nguồn sẽ bao gồm những hành vi phạm tội được thực hiện nằm trong và ngoài phạm vi quyền tài phán của Quốc gia thành viên liên quan. Tuy nhiên, những hành vi phạm tội được thực hiện ngoài phạm vi quyền tài phán của một Quốc gia thành viên sẽ chỉ cấu thành hành vi phạm tội nguồn khi hành vi có liên quan là một hành vi phạm tội theo pháp luật trong nước của Quốc gia nơi hành vi đó được thực hiện và là một hành vi tội phạm theo pháp luật trong nước của Quốc gia thành viên đang thực hiện hay áp dụng điều này nếu như hành vi đó được thực hiện ở quốc gia này;
(d) Mỗi Quốc gia thành viên sẽ cung cấp cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản sao luật của họ quy định việc áp dụng điều này và bản sao của bất cứ sửa đổi nào liên quan đến những luật này hoặc những văn bản hướng dẫn những luật này.
(e) Nếu những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước của một Quốc gia thành viên đòi hỏi thì có thể quy định rằng những hành vi phạm tội nêu tại Khoản 1 Điều này không áp dụng đối với những người đã thực hiện những hành vi phạm tội nguồn;
(f) Sự nhận thức, ý định hay mục đích được coi là yếu tố cấu thành hành vi phạm tội nêu tại Khoản 1 Điều này có thể được suy ra từ những hoàn cảnh thực tế khách quan.”
Điều 7 Công ước Palécmô quy định về “Các biện pháp chống rửa tiền” như sau:
“1. Mỗi Quốc gia thành viên:
(a) Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thiết lập một thể chế điều chỉnh và giám sát tổng thể trong nước đối với các ngân hàng và định chế tài chính phi ngân hàng và cả các cơ quan khác đặc biệt dễ liên quan đến việc rửa tiền nếu cần, để ngăn ngừa và phát hiện tất cả các hình thức rửa tiền, thể chế này sẽ nhấn mạnh đến những yêu cầu về nhận dạng khách hàng, lưu trữ hồ sơ và báo cáo về những giao dịch có nghi vấn;
(b) Không làm phương hại tới các Điều 18 và 27 của Công ước này, đảm bảo rằng các cơ quan hành chính, lập quy, hành pháp và các cơ quan chống rửa tiền khác (kể cả những cơ quan tư pháp nếu pháp luật trong nước quy định) có khả năng hợp tác và trao đổi thông tin ở cấp độ quốc gia và quốc tế, trong phạm vi các quy định của pháp luật trong nước và để đạt được mục tiêu này sẽ xem xét việc thành lập cơ quan tình báo tài chính hoạt động như một trung tâm quốc gia để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin về nguy cơ rửa tiền.
2. Các quốc gia thành viên sẽ cân nhắc việc áp dụng những biện pháp khả thi để phát hiện và giám sát việc chuyển tiền và các giấy tờ có thể chuyển đổi thành tiền qua biên giới của họ theo cơ chế an ninh để bảo đảm việc sử dụng đúng đắn các thông tin và không cản trở việc vận chuyển vốn hợp pháp dưới mọi hình thức. Những biện pháp này có thể bao gồm cả việc yêu cầu các cá nhân và doanh nghiệp báo cáo về các hoạt động chuyển giao tiền và những giấy tờ có thể chuyển đổi thành tiền với số lượng lớn qua biên giới.
3. Không làm phương hại tới bất cứ quy định nào của Công ước này, khi thiết lập thể chế điều chỉnh và giám sát theo các quy định của Điều này, các quốc gia thành viên nên sử dụng những sáng kiến thích hợp về chống rửa tiền của các tổ chức khu vực, liên khu vực và đa phương như là phương hướng hành động.
4. Các quốc gia thành viên sẽ cố gắng phát triển và thúc đẩy hợp tác toàn cầu, khu vực, tiểu khu vực và song phương giữa các cơ quan tư pháp, hành pháp và điều chỉnh tài chính để chống rửa tiền.”
Như vậy, trên cơ sở Công ước Palécmô, liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần xây dựng, đưa vào Luật phòng, chống rửa tiền các nội dung liên quan đến biện pháp phòng, chống rửa tiền, đơn vị tình báo tài chính và hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
3. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 (Công ước Merida)
Lo ngại về sự liên kết giữa tham nhũng với các loại tội phạm khác, đặc biệt là tội phạm có tổ chức và tội phạm kinh tế, bao gồm cả tội rửa tiền, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước Merida năm 2003. Công ước nhằm mục đích thúc đẩy và tăng cường các biện pháp phòng và chống tham nhũng một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn. Liên quan đến rửa tiền, Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên phải:
- Xây dựng các biện pháp chống rửa tiền như thiết lập cơ chế giám sát các tổ chức tài chính, xác định khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi, lưu giữ hồ sơ và báo cáo về giao dịch đáng ngờ, điện chuyển tiền.
- Thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích, và chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ.
- Hình sự hóa các tội phạm liên quan đến tài sản do phạm tội mà có.
- Phòng ngừa, điều tra, truy tố tham nhũng cũng như phong tỏa, tạm giữ, tịch thu và hoàn trả tài sản có được do phạm các tội được quy định trong Công ước.
- Hợp tác quốc tế.
Các quy định cụ thể trong Công ước liên quan đến chống rửa tiền gồm:
“Điều 14. Các biện pháp chống rửa tiền
1. Mỗi Quốc gia thành viên sẽ:
(a) Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thiết lập một cơ chế giám sát và điều tiết toàn diện trong nước đối với các ngân hàng, các định chế tài chính phi ngân hàng, kể cả các cá nhân hay pháp nhân cung cấp dịch vụ chính thức hoặc không chính thức về chuyển tiền hoặc vật có giá trị, và khi thích hợp, cả những cơ quan khác đặc biệt dễ liên quan đến rửa tiền, nhằm ngăn chặn, phát hiện mọi hình thức rửa tiền; cơ chế điều tiết và giám sát này phải nhấn mạnh đến các yêu cầu về xác định khách hàng và cả người sở hữu hưởng lợi khi thích hợp, lưu giữ hồ sơ và báo cáo về các giao dịch đáng ngờ;
(b) Trên cơ sở không trái với Điều 46 của Công ước này, đảm bảo rằng các cơ quan hành chính, giám sát, thực thi pháp luật và các cơ quan khác chuyên về chống rửa tiền (bao gồm cả các cơ quan tư pháp nếu phù hợp với pháp luật quốc gia) có khả năng hợp tác và trao đổi thông tin ở cấp quốc gia và quốc tế trong phạm vi điều kiện mà pháp luật quốc gia quy định và, nhằm mục đích này, xem xét thành lập một đơn vị tình báo tài chính để hoạt động như một trung tâm quốc gia để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin về hoạt động rửa tiền tiềm tàng.
2. Các Quốc gia thành viên sẽ xem xét thực hiện các biện pháp khả thi nhằm phát hiện, kiểm soát việc di chuyển tiền mặt và các công cụ có giá trị chuyển đổi qua biên giới nước mình, nhưng cũng tuân thủ biện pháp an ninh nhằm đảm bảo sử dụng thông tin đúng đắn và không gây trở ngại dưới bất kỳ hình thức nào tới việc di chuyển các dòng vốn hợp pháp. Những biện pháp như vậy có thể bao gồm biện pháp yêu cầu các cá nhân và tổ chức kinh doanh báo cáo về việc chuyển qua biên giới những lượng tiền mặt lớn và các công cụ có giá trị chuyển đổi khác.
3. Các quốc gia thành viên xem xét thực hiện các biện pháp phù hợp và khả thi yêu cầu các định chế tài chính, kể cả bên chuyển tiền:
(a) Điền vào đơn chuyển tiền qua đường điện tử và các loại thư tín liên quan thông tin chính xác và có ý nghĩa về người gửi tiền;
(b) Duy trì thông tin đó xuyên suốt quá trình chi trả; và
(c) Tăng cường giám sát việc chuyển các khoản tiền không có thông tin đầy đủ về người gửi tiền.
4. Khi thiết lập một cơ chế quản lý và giám sát trong nước theo quy định của Điều này và trên cơ sở không trái các điều khoản khác của Công ước này, các Quốc gia thành viên được khuyến nghị sử dụng các sáng kiến chống rửa tiền có liên quan của các tổ chức khu vực, liên khu vực và đa phương như là định hướng giải quyết vấn đề.
5. Các Quốc gia thành viên sẽ nỗ lực phát triển và thúc đẩy hợp tác song phương, tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu giữa các cơ quan tư pháp, thực thi pháp luật và giám sát tài chính nhằm đấu tranh chống rửa tiền.”
“Điều 52. Phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do phạm tội mà có
1. Không trái với Điều 14 của Công ước này, mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết, căn cứ theo pháp luật quốc gia để yêu cầu các tổ chức tài chính, trong phạm vi quyền tài phán của mình, xác định và nhận dạng khách hàng, áp dụng các biện pháp hợp lý để xác định nhận dạng chủ sở hữu được hưởng lợi của các khoản tiền được gửi trong các tài khoản có giá trị lớn, và tổ chức kiểm tra kỹ các tài khoản được mở hay duy trì bởi hoặc nhân danh các cá nhân đang, hoặc đã từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, hay các thành viên trong gia đình hoặc cộng sự thân thiết của người này. Việc kiểm tra kỹ lưỡng phải được lập kế hoạch hợp lý để phát hiện các giao dịch đáng ngờ nhằm báo cáo các cơ quan có thẩm quyền và không được giải thích để ngăn cản hay ngăn cấm các tổ chức tài chính giao dịch với các khách hàng hợp pháp.
2. Để tạo thuận lợi thi hành các biện pháp quy định tại khoản 1 của Điều này, mỗi quốc gia thành viên, căn cứ vào pháp luật quốc gia và theo các sáng kiến tương ứng của các tổ chức chống rửa tiền của khu vực, liên khu vực và đa phương, sẽ:
(a) Đưa ra khuyến nghị về loại cá nhân hay pháp nhân mà đối với tài khoản của họ, các tổ chức tài chính trong phạm vi thẩm quyền của mình được yêu cầu xem xét kỹ lưỡng về loại tài khoản và giao dịch cần được chú ý đặc biệt và về việc áp dụng các biện pháp mở, duy trì, lưu giữ thông tin thích hợp đối với các loại tài khoản và giao dịch này; và
(b) Nếu thích hợp, thông báo các tổ chức tài chính trong phạm vi thẩm quyền của mình, theo đề nghị của một quốc gia thành viên khác hoặc do mình khởi xướng, về nhận dạng của một tự nhiên cá nhân hoặc pháp nhân nào đó mà tài khoản của đối tượng này, ngoài các đối tượng mà chính các tổ chức tài chính đã nhận dạng, cần được xem xét kỹ lưỡng bởi các tổ chức tài chính.
3. Khi áp dụng khoản 2 (a) của Điều này, mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp để đảm bảo rằng các tổ chức tài chính của mình duy trì một các thích hợp việc lưu giữ thông tin, trong khoảng thời gian hợp lý, về các tài khoản và giao dịch liên quan đến các đối tượng được nhắc đến tại khoản 1 của Điều này, thông tin lưu giữ tối thiểu phải có thông tin nhận dạng của khách hàng và, tới chừng mực có thể, của chủ sở hữu được hưởng lợi.
4. Nhằm phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản có được do phạm các tội được quy định theo Công ước này, mỗi quốc gia thành viên với sự giúp đỡ của các cơ quan quản lý và giám sát của mình sẽ tiến hành các biện pháp thích hợp và có hiệu quả nhằm phòng ngừa việc thành lập các ngân hàng không có sự hiện diện thực tế và không có quan hệ với nhóm tài chính đã được điều chỉnh. Thêm nữa, các quốc gia thành viên có thể xem xét việc yêu cầu các định chế tài chính của mình từ chối tham gia hoặc từ chối duy trì quan hệ ngân hàng với các tổ chức như vậy, đồng thời từ chối thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính nước ngoài mà tài khoản của họ có thể được sử dụng bởi các ngân hàng không có sự hiện diện thực tế và không có quan hệ với nhóm tài chính được điều chỉnh.
5. Mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét việc thiết lập, căn cứ vào pháp luật quốc gia, hệ thống công khai tài chính hiệu quả đối với nhóm công chức nhất định, và quy định chế tài thích hợp đối với việc không chấp hành. Mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét tiến hành các biện pháp cần thiết để cho phép các cơ quan có thẩm quyền chia sẻ những thông tin này với các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên khác khi cần để điều tra, đòi và thu hồi những tài sản có được do phạm những tội quy định trong Công ước này.
6. Mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét áp dụng các biện pháp cần thiết, căn cứ theo pháp luật quốc gia, để yêu cầu nhóm công chức nhất định có lợi ích, có chữ ký hoặc có quyền đối với một tài khoản ở nước ngoài, phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ với tài khoản đó và duy trì những hồ sơ tin thích hợp liên quan đến các tài khoản như vậy. Các biện pháp này phải bao gồm chế tài đối với việc không chấp hành.”
“Điều 58. Đơn vị tình báo tài chính
Các quốc gia thành viên sẽ hợp tác với nhau để phòng và chống việc chuyển tài sản có được do phạm các tội được quy định theo Công ước này và thúc đẩy cách thức và biện pháp nhằm thu hồi các tài sản này. Để đạt được các mục đích này, các quốc gia thành viên sẽ xem xét việc thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích và chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ.”
Như vậy, trên cơ sở Công ước Merida, liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải xây dựng Luật phòng, chống rửa tiền đảm bảo có các nội dung về giám sát các tổ chức tài chính, các biện pháp phòng, chống rửa tiền, thành lập đơn vị tình báo tài chính và hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
4. Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999
Lo ngại về việc các hành vi khủng bố ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn thế giới, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999. Công ước này yêu cầu các nước đã phê chuẩn phải hình sự hóa chủ nghĩa khủng bố, các tổ chức khủng bố và hành vi khủng bố. Theo Công ước, sẽ là bất hợp pháp đối với bất kỳ người nào cung cấp hoặc quyên góp tiền với ý định là số tiền đó sẽ được sử dụng cho hoặc biết rằng số tiền đó được sử dụng để tiến hành bất kỳ một hành vi khủng bố nào được định nghĩa trong các công ước cụ thể khác liệt kê trong phụ lục kèm theo Công ước này.
Điều 2 Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố quy định như sau:
“1. Người bị coi là phạm tội theo Công ước này nếu cung cấp hoặc huy động tiền bạc dưới bất kỳ hình thức nào, trực tiếp hoặc gián tiếp, bất hợp pháp và cố ý với mục đích hoặc biết là một phần hoặc toàn bộ tiền bạc đó sẽ được sử dụng nhằm thực hiện:
a) Hành vi cấu thành một tội trong phạm vi và được định nghĩa trong một trong các điều ước liệt kê trong Phụ lục; hoặc
b) Hành vi khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nặng thường dân, hoặc người khác không tham gia tích cực vào hoạt động thù địch trong hoàn cảnh có xung đột vũ trang khi xét về bản chất hoặc hoàn cảnh xảy ra thì hành vi đó có mục đích khủng bố dân cư hoặc ép buộc một Chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế làm hoặc không làm một việc gì.
2…
3. Một hành vi được coi là đã cấu thành một tội nói tại khoản 1 kể cả trong trường hợp số tiền bạc liên quan thực tế chưa được sử dụng để thực hiện một tội nói tại điểm a hoặc điểm b khoản 1.
4. Một người cũng bị coi là phạm tội nếu người đó thực hiện chưa đạt một tội phạm nói tại khoản 1 Điều này.
5. Một người cũng bị coi là phạm tội nếu:
a) Tham gia với tư cách là người đồng phạm vào việc thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 hoặc khoản 4 Điều này;
b) Tổ chức hoặc chỉ đạo người khác thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 hoặc khoản 4 Điều này;
c) Góp phần vào việc thực hiện một hoặc nhiều tội phạm nói tại khoản 1 hoặc khoản 4 Điều 4 này bởi một nhóm người hoặc những người hoạt động nhằm mục đích chung. Sự đóng góp này được coi là cố ý và được:
c1. Thực hiện nhằm thúc đẩy hoạt động phạm tội hoặc mục đích phạm tội của nhóm khi hành động hoặc mục đích đó liên quan đến việc thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 Điều này; hoặc
c2. Thực hiện mà biết mục đích của nhóm là thực hiện một tội phạm nói tại khoản 1 Điều này.”
9 điều ước quốc tế được liệt kê trong Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố chưa đưa ra khái niệm về khủng bố mà chỉ quy định nghiêm cấm, xử lý một số hành vi cụ thể bị coi là khủng bố. Việt Nam đều đã chính thức tham gia 9 điều ước quốc tế này (gồm: Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm 1970; Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng năm 1971; Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao năm 1973; Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979; Công ước bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân năm 1980; Nghị định thư về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế năm 1988; Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải năm 1988; Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn của những công trình cố định trên thềm lục địa năm 1988; Công ước quốc tế về chống khủng bố bằng bom năm 1997.)
5. Công ước ASEAN về chống khủng bố
Trước tình hình khủng bố trên thế giới và khu vực ASEAN gia tăng, trở thành mối đe dọa và thách thức lớn đối với an ninh và sự phát triển của mỗi quốc gia, cộng đồng ASEAN đã thông qua Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007, có hiệu lực năm 2011. Công ước đã tạo ra khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh các hoạt động hợp tác của các nước ASEAN trong lĩnh vực chống khủng bố, trong đó có việc ngăn chặn tài trợ khủng bố.
Cụ thể, khoản 1 Điều VI về “Lĩnh vực hợp tác” quy định:
“1. Phù hợp với pháp luật quốc gia mỗi bên, các lĩnh vực hợp tác theo Công ước này có thể bao gồm các biện pháp thích hợp nhằm:
a. Thực hiện các bước cần thiết để phòng ngừa việc thực hiện các hành vi khủng bố, kể cả bằng việc cảnh báo sớm cho các bên khác thông qua trao đổi thông tin;
b. Ngăn chặn những người tài trợ, lập kế hoạch, tạo điều kiện hoặc thực hiện hành vi khủng bố sử dụng lãnh thổ của mình nhằm mục đích chống lại các bên khác hoặc công dân của các bên khác;
c. Ngăn chặn và trừng trị việc tài trợ cho các hành vi khủng bố;
…
h. Tăng cường trao đổi thông tin tình báo và chia sẻ thông tin;
…
m. Bảo đảm rằng bất kỳ người nào tham gia vào việc tài trợ, lập kế hoạch, chuẩn bị hoặc thực hiện các hành vi khủng bố hoặc vào việc hỗ trợ hành vi khủng bố đều phải bị đưa ra xét xử trước pháp luật.”
Trên cơ sở rà soát các Công ước (Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988; Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000; Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003; Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999; Công ước ASEAN về chống khủng bố) cho thấy, việc sửa đổi, bổ sung những nội dung tại dự thảo Luật là một yêu cầu để thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn.
B. RÀ SOÁT CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Các quy định đồng bộ, tương thích giữa dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
Nội dung của Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) cơ bản phù hợp,không ảnh hưởng tới quy định của pháp luật hiện hành có liên quan, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Kết quả rà soát cụ thể như sau:
a) Mội số khái niệm và quy định chung
(i) Về đối tượng báo cáo
Dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo PCRT tại Luật PCRT, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan. Để phù hợp với nội hàm khái niệm của FATF và phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung tên gọi của một số hoạt động của đối tượng báo cáo, ví dụ: sửa đổi tên gọi hoạt động cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư thành hoạt động cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý, sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kinh doanh trò chơi có thưởng … để phù hợp với pháp luật hiện hành điều chỉnh các hoạt động này.
Dự thảo Luật luật hóa quy định tại Nghị định 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP, theo đó bổ sung đối tượng báo cáo là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
(ii) Về một số khái niệm:
Dự thảo Luật bổ sung một số khái niệm như: “chuyển tiền điện tử”; “ hành vi rửa tiền” tại Điều 3.
- Việc bổ sung quy định liên quan đến “giao dịch chuyển tiền điện tử” tại dự thảo Luật là hoàn toàn phù hợp với các quy định tại Luật Giao dịch điện tử năm 2005 (Điều 4) và đáp ứng kịp thời những quy định về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của NHNN (Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP và Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt).
- Quy định về “ hành vi rửa tiền” tại dự thảo căn cứ theo quy định tại Điều 324 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền.
v Kết quả rà soát: Các quy định chung về đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật kế thừa được pháp luật về PCRT hiện hành đồng thời phù hợp với các Luật có liên quan như: Bộ luật Hình sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Giao dịch điện tử, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp…
b) Quy định về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng
Điều 10 dự thảo Luật quy định về thông tin nhận biết khách hàng. Nội dung về thông tin khách hàng được quy định cụ thể đối với từng đối tượng như khách hàng là cá nhân có một quốc tịch; cá nhân có từ 02 quốc tịch trở lên; cá nhân không quốc tịch và khách hàng là tổ chức...
v Kết quả rà soát: Việc sửa đổi, bổ sung mới một số thông tin nhận biết khách hàng nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn và phù hợp với quy định tại Luật Quốc tịch; Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật cư trú 2020, Luật Căn cước công dân 2014...
c) Quy định về thoả thuận pháp lý, minh bạch thông tin của pháp nhân
Khoản 16 Điều 4 dự thảo Luật quy định về “Thỏa thuận pháp lý” để phù hợp với quy định tại Khuyến nghị số 25 của FATF về “Minh bạch thông tin về thỏa thuận pháp lý” và quy định tại Điều 2 Công ước Hague về Ủy thác. Đồng thời, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về minh bạch thông tin của pháp nhân (Điều 20) và bổ sung quy định minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý (Điều 21).
vKết quả rà soát: Việc quy định minh bạch thông tin của pháp nhân phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành tại Bộ luật Dân sự và Luật Doanh nghiệp.
d) Quy định về bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo:
Điều 33 Dự thảo Luật quy định: “Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ thông tin và tài liệu liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này…”.
v Kết quả rà soát
Việc quy định về bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo được xây dựng phù hợp với quy định tại Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
e) Quy định về phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản
Điều 38 dự thảo Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo và cơ quan có thẩm quyền nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn tiếp nhận các thông tin, báo cáo về phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản.
Hệ thống pháp luật hiện hành có quy định về phong tỏa , niêm phong hoặc tạm giữ tài sản, cụ thể: Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: Điều 114 quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời; Điều 124. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; Điều 125. Phong tỏa tài sản ở nơi gửi; Điều 126. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; Điều 133. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự (Điều 12); Nghị định số 122/2013/NĐ-CP ngày 11/10/2013 của Chính phủ về tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ và xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; xác lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố (Điều 3, Điều 7, Điều 8).
vKết quả rà soát:
Như vậy, việc quy định về phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản tại Điều 38 dự thảo Luật là hoàn toàn phù hợp với các quy định về nội dung này tại Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
g) Quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của bộ, ngành, trong đó bổ sung trách nhiệm trong việc thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về PCRT thuộc lĩnh vực quản lý; luật hóa trách nhiệm quản lý về phòng, chống rửa tiền, cụ thể: từ Điều 41 đến Điều 44 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp; từ Điều 45 đến Điều 49 dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao và Bộ Thông tin và Truyền thông nhằm đảm bảo phù hợp với quy định mới tại Điều 7 về “Đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền” và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của từng Bộ, ngành.
v Kết quả rà soát
Trên cơ sở rà soát các Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, ngành (Nghị định số 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính; Nghị định số 81/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng; Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao; Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường), nội dung tại dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của các Bộ, ngành bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
h) Quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền
Dự thảo Luật quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền (điều 6). Quy định này được kế thừa từ quy định tại Luật PCRT và luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). Theo đó dự thảo Luật quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế về PCRT, các trường hợp từ chối yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin, quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về PCRT và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong hợp tác quốc tế về PCRT.
vKết quả rà soát:
Các quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền tại dự thảo Luật này phù hợp với các quy định về tương trợ tư pháp, dẫn độ, hợp tác quốc tế được quy định tại một số văn bản QPPL như: Luật Tương trợ tư pháp, Luật Điều ước quốc tế, Luật Tố tụng hình sự.
2. Các quy định cần bổ sung trong văn bản pháp luật liên quan
a) Về xử lý vi phạm hành chính
Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) không quy định chương riêng về xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, dự thảo có quy định một số hành vi bị cấm (Điều 8) cũng như có quy định mới về nghĩa vụ đối với đối tượng báo cáo.
Tại Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, Thủ tướng Chính phủ giao NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, Bộ Tư pháp phối hợp “Đưa nội dung xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền, tài trợ cho khủng bố vào Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực”.
Nhằm đảm bảo dự thảo Luật không phát sinh mâu thuẫn với Luật Xử lý vi phạm hành chính và các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực; đảm bảo đáp ứng được các quy định của pháp luật Việt Nam và tình hình thực tiễn trong nước, các chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, các yêu cầu của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia, công nhận; trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, NHNN đã rà soát các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực có liên quan. Qua rà soát, hiện nay một số nội dung xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền đã được quy định tại Nghị định xử phạt hành chính trong một số lĩnh vực (bao gồm: lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; lĩnh vực tài chính; hải quan; kế toán; kiểm toán độc lập; chứng khoán; bảo hiểm). Tuy nhiên, để đảm bảo tính thống nhất của các quy định tại Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi), sau khi Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) được ban hành, các Bộ ngành cần rà soát, báo cáo Chính phủ để đề xuất sửa đổi các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực liên quan theo hướng bổ sung xử lý đối với các hành vi vi phạm mới, các hành vi vi phạm được sửa đổi, bổ sung tại dư thảo Luật.
b) Về các nội dung dẫn chiếu tại Luật Phòng, chống khủng bố 2013 và pháp luật về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
Điều 34 Luật Phòng, chống khủng bố quy định nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng và áp dụng biện pháp tạm thời; Điều 35 Luật Phòng, chống khủng bố quy định về
kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới có nội dung dẫn chiều đến Luật Phòng, chống rửa tiền. Quá trình nghiên cứu sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung những quy định nêu trên tại Luật Phòng, chống khủng bố và pháp luật về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Với thời hạn phải báo cáo kết quả thực hiện đánh giá của APG vào tháng 3/2023, trong khi việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống KB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật phòng, chống KB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL tại dự thảo Luật này là cần thiết. Do đó, Dự thảo Luật bổ sung quy định sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật Phòng, chống KB và pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL theo hướng tương đồng với các quy định mới được sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT.
Nội dung rà soát quy định pháp luật liên quan đến Luật Phòng, chống rửa tiền được chi tiết tại Phụ lục II đính kèm.
IV. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Thông qua hoạt động rà soát các nội dung của dự thảo Luật với hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau cho thấy, về cơ bản, nội dung và hình thức dự thảo Luật đã đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ với các cam kết quốc tế và các văn bản QPPL có liên quan. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền góp phần khắc phục những hạn chế nội tại trong các quy định của pháp luật; giải quyết các bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật phòng, chống rửa tiền đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền.
Bên cạnh đó, việc sửa đổi Luật PCRT thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm khắc phục các thiếu hụt về mặt pháp lý đã chỉ ra trong báo cáo đánh giá đa phương. Từ đó đảm bảo phù hợp với các nghĩa vụ và cam kết quốc tế của Việt Nam, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong công tác PCRT/TTKB/PBVKHDHL của khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, việc này cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT/TTKB/PBVKHDHL trong thời gian tới./.
PHỤ LỤC I
Danh mục các điều ước quốc tế và các văn bản quy phạm pháp luật trong nước phục vụ rà soát xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền
(sửa đổi)
I. Điều ước quốc tế
1. Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988 (Công ước Viên)
2. Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Công ước Palécmô)
3. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 (Công ước Merida)
4. Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố năm 1999
5. Công ước ASEAN về chống khủng bố
6. Công ước Hague về Ủy thác
II. Hiến pháp 2013
III. Bộ luật, Luật của Quốc hội
1. Bộ Luật Dân sự năm 2015
2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
3. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
4. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)
5. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
6. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022
7. Luật Quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
8. Luật Căn cước công dân năm 2014 và Luật Cư trú 2020
9. Luật Doanh nghiệp 2020
10. Luật xuất cảnh, nhập cảnh và quá cảnh của cá nhân người nước ngoài năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
11. Luật Giao dịch điện tử năm 2005
12. Luật Điều ước quốc tế năm 2016
13. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007
14. Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018
15. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
16. Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
17. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016
IV. Nghị định của Chính phủ
1. Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
2. Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt
3. Nghị định số 122/2013/NĐ-CP ngày 11/10/2013 của Chính phủ về tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ và xử lý tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; xác lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố
4. Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ sửa đổi Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt
5. Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
6. Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao
7. Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ
8. Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường
9. Nghị định số 81/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng
10. Nghị định số 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính
11. Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
12. Nghị định số 81/2019/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
13. Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật cư trú
14. Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
15. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
16. Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện
17. Nghị định số 12/2012/NĐ-CP ngày 01/3/2012 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam
18. Nghị định số 88/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 143/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021)
V. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
1. Quyết định 20/2013/QĐ-TTg ngày 18/04/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo.
2. Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền
VI. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Thông tư số 46/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
2. Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 9/12/2019 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 23/2019/TT-NHNN)
3. Thông tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 về hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán./.
Bản thuyết minh dự thảo Luật phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo trình UBTVQH tại phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 8/2022)
13-Thuyet-minh-dt-Luat-PCRTsd---20220809100419-1-.docx
Luật PCRT năm 2012
|
Dự thảo
Luật PCRT (sửa đổi)
|
Thuyết minh lý do sửa đổi
|
Chương I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Luật này quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Luật này quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Sửa khoản 1: bỏ từ “xử lý” do các quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi rửa tiền đã được quy định tại các văn bản pháp luật khác liên quan (Bộ luật hình sự, các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính).
|
2. Việc phòng, chống hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của Bộ luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố.
|
2. Việc phòng, chống rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
- Sửa khoản 2: Theo quy định pháp luật hiện hành về PCKB (Luật PCKB) và PBVKHDHL (Nghị định 81/2019/NĐ-CP) đều dẫn chiếu đến các điều khoản của Luật PCRT năm 2012 quy định về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền của đối tượng báo cáo. Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) kế thừa quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật PCRT năm 2012 và chỉnh sửa lại từ ngữ để đảm bảo chính xác hơn về hành vi tài trợ khủng bố (không chỉ bao gồm hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố), bổ sung thêm cụm từ tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt để tiếp tục điều chỉnh các quy định được dẫn chiếu của pháp luật về chống tài trợ PBVKHDHL.
- Sửa khoản 2: thay cụm từ “Bộ luật hình sự” thành “pháp luật hình sự” để đảm bảo bao quát cả Bộ luật hình sự, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán và các văn bản hướng dẫn khác (nếu có).
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Tổ chức tài chính.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan.
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Tổ chức tài chính.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan.
|
|
3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam; người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam hoặc tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có giao dịch tài chính, giao dịch tài sản khác với tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam; người nước ngoài, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế có các giao dịch với tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
|
- Khoản 3: Bỏ cụm từ “sinh sống tại Việt Nam” để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật, đồng thời nội dung này đã được quy định tại NĐ 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền 2012; bỏ cụm từ “tổ chức phi Chính phủ” do các đối tượng tại khoản 3 dự thảo đã bao gồm đối tượng tổ chức phi Chính phủ.
|
4. Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
|
4. Tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
|
|
Điều 3. Áp dụng Luật phòng, chống rửa tiền, các luật có liên quan và điều ước quốc tế
Việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi rửa tiền được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
|
Bỏ điều này
|
Bỏ Điều này vì nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế đã được quy định tại Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016.
|
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:
|
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Tài sản do phạm tội mà có là tài sản có được trực tiếp hoặc gián tiếp từ hoạt động phạm tội bao gồm cả phần thu nhập hay lợi nhuận sinh ra từ tài sản có được từ hoạt động phạm tội.
Hành vi rửa tiền bao gồm:
|
- Khoản 1:
+ Bổ sung khái niệm “tài sản do phạm tội mà có” để làm rõ hơn nội hàm quy định.
|
a) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự;
|
a) Hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự;
|
|
b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;
|
b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý;
|
+ Điểm b: bỏ đoạn “bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có” do đã có nội dung này tại khoản 1 về mục đích của hành vi rửa tiền.
|
c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.
|
c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản mà biết hay có cơ sở để biết tài sản đó do phạm tội mà có nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.
|
+ Sửa điểm c, thay cụm từ “đã biết rõ” bằng cụm từ “mà biết hay có cơ sở để biết” do việc xác định “đã biết rõ” gặp khó khăn trên thực tế triển khai.
|
2. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.
|
2. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, có thể tồn tại dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó.
|
|
3. Tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
3. Tổ chức tài chính là tổ chức được cấp giấy phép theo quy định pháp luật để thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
Khoản 3: bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” để làm rõ đối tượng điều chỉnh là các tổ chức tài chính được cấp phép hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
a) Nhận tiền gửi;
b) Cho vay;
|
a) Nhận tiền gửi;
b) Cho vay;
|
|
c) Cho thuê tài chính;
|
c) Cho thuê tài chính;
|
|
d) Dịch vụ thanh toán;
|
d) Dịch vụ thanh toán;
|
|
|
đ) Dịch vụ trung gian thanh toán;
|
- Điểm đ: bổ sung loại hình hoạt động “dịch vụ trung gian thanh toán” tại điểm đ khoản 3 nhằm điều chỉnh các đối tượng là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Các tổ chức này cung ứng các dịch vụ tài chính có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền như dịch vụ ví điện tử, dịch vụ thu hộ, chi hộ. Việc bổ sung quy định này cũng phù hợp với khuyến nghị của FATF khi định nghĩa về tổ chức tài chính là đối tượng phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa rửa tiền bao gồm các tổ chức có hoạt động cung cấp dịch vụ chuyển tiền và giá trị (MVTS). Tại báo cáo đánh giá đa phương của APG, tiêu chí 14.1 chỉ rõ: “Tại Việt Nam, các tổ chức cung cấp MVTS là (i) tổ chức tín dụng, (ii) tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán và (iii) đại lý thu đổi ngoại tệ”.
Đồng thời, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán là đối tượng phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền cũng đã được quy định tại Nghị định 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền.
|
đ) Phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, lệnh chuyển tiền, tiền điện tử;
|
e) Phát hành công cụ chuyển nhượng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, lệnh chuyển tiền, tiền điện tử;
|
|
e) Bảo lãnh ngân hàng và cam kết tài chính;
|
g) Bảo lãnh ngân hàng và cam kết tài chính;
|
|
g) Cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ;
|
h) Cung ứng dịch vụ ngoại hối, các công cụ tiền tệ trên thị trường tiền tệ;
|
|
h) Tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán, đại lý phân phối chứng khoán;
i) Quản lý danh mục vốn đầu tư;
k) Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán cho tổ chức, cá nhân khác;
|
i) Môi giới chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán;
k) Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán;
|
- Sửa đổi điểm h, i, k khoản 3 Luật PCRT 2012 thành điểm i, k tại dự thảo luật và sửa đổi từ ngữ quy định tại các điểm này để thống nhất với quy định tại Luật Chứng khoán 2019.
|
l) Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; hoạt động đầu tư có liên quan đến bảo hiểm nhân thọ;
|
l) Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ;
|
- Sửa đổi điểm l khoản 3 thành “Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ”, bỏ cụm từ “hoạt động đầu tư có liên quan đến bảo hiểm nhân thọ”.
Luật Kinh doanh bảo hiểm 24/2000/QH10 có quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ bao gồm: Bảo hiểm trọn đời; Bảo hiểm sinh kỳ; Bảo hiểm tử kỳ; Bảo hiểm hỗn hợp; Bảo hiểm trả tiền định kỳ; Bảo hiểm liên kết đầu tư; Bảo hiểm hưu trí. Theo các quy định này, hoạt động đầu tư có liên quan đến bảo hiểm nhân thọ là một loại hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Do vậy, không cần thiết phải quy định riêng về hoạt động này tại dự thảo Luật.
|
m) Đổi tiền.
|
m) Đổi tiền.
|
|
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan là tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật thực hiện một hoặc một số hoạt động sau đây:
|
- Khoản 4: bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” để làm rõ đối tượng điều chỉnh là các tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính thực hiện các hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
a) Kinh doanh trò chơi có thưởng, casino;
|
a) Kinh doanh trò chơi có thưởng bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược;
|
+ Sửa đổi điểm a khoản 4, theo đó làm rõ hoạt động kinh doanh trò chơi có thưởng, bao gồm: trò chơi điện tử có thưởng; trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet; casino; xổ số; đặt cược, quy định này phù hợp với quy định tại Phụ lục IV Luật Đầu tư quy định các hoạt động kinh doanh có điều kiện liên quan đến “trò chơi” và Nghị định số 03/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 về kinh doanh casino.
|
b) Kinh doanh dịch vụ quản lý bất động sản, môi giới bất động sản; sàn giao dịch bất động sản;
|
b) Kinh doanh bất động sản, trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản;
|
+ Sửa đổi điểm b khoản 4: “Kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản” đề phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật kinh doanh bất động sản 2014.
|
c) Kinh doanh kim loại quý và đá quý;
|
c) Kinh doanh kim loại quý và đá quý;
|
|
d) Cung ứng dịch vụ công chứng, kế toán; dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư;
đ) Dịch vụ ủy thác đầu tư; dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; dịch vụ cung cấp giám đốc, thư ký giám đốc của doanh nghiệp cho bên thứ ba.
|
d) Cung cấp dịch vụ công chứng, kế toán; dịch vụ pháp lý của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư;
đ) Cung cấp dịch vụ thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ giám đốc, thư ký của doanh nghiệp cho bên thứ ba; cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý.
|
+ Điểm d: chỉnh sửa cụm từ “cung ứng” thành “cung cấp” phù hợp với Luật công chứng.
+ Điểm đ: Sửa đổi cụm từ “Dịch vụ ủy thác đầu tư” thành “cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý” để phù hợp với nội hàm khái niệm tại Công ước Hague và nội dung khuyến nghị số 25 của FATF.
|
5. Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.
|
5. Đối tượng báo cáo là tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 3, 4 Điều này. Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động quy định tại khoản 3, 4 Điều này.
|
- Khoản 5: bổ sung quy định “Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động quy định tại khoản 3, 4 Điều này” để phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của quản lý nhà nước.
|
6. Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ hoạt động tội phạm hoặc liên quan tới rửa tiền.
|
6. Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc từ hoạt động tội phạm hoặc liên quan tới rửa tiền.
|
|
7. Giao dịch có giá trị lớn là giao dịch bằng tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt có tổng giá trị bằng hoặc vượt mức do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định, được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một ngày.
|
7. Giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo là giao dịch bằng tiền mặt, bằng vàng hoặc ngoại tệ tiền mặt được thực hiện một hoặc nhiều lần trong một ngày, có tổng giá trị bằng hoặc vượt mức do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định.
|
- Khoản 7: Chỉnh sửa cụm từ “giao dịch có giá trị lớn” thành “giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo” đảm bảo rõ ràng, phân biệt với các quy định tại các điều khoản khác trong luật có đề cập tới các giao dịch có giá trị lớn khác. Nội dung tại khoản này để tham chiếu tới quy định tại Điều 25 về Báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo tại dự thảo luật.
|
8. Khách hàng là tổ chức, cá nhân đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan cung cấp.
9. Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một tài khoản, có quyền chi phối khi khách hàng thực hiện giao dịch cho cá nhân này hoặc cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận ủy thác đầu tư.
10. Quan hệ ngân hàng đại lý là hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác của một ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ cho một ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác.
11. Người khởi tạo là chủ tài khoản hoặc người yêu cầu tổ chức tài chính thực hiện chuyển tiền điện tử trong trường hợp không có tài khoản.
|
8. Người khởi tạo là chủ tài khoản hoặc người yêu cầu tổ chức tài chính thực hiện chuyển tiền điện tử trong trường hợp không có tài khoản
9. Chuyển tiền điện tử là bất kỳ giao dịch nào được thực hiện theo yêu cầu của người khởi tạo thông qua tổ chức tài chính bằng phương tiện điện tử nhằm chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng tại tổ chức tài chính của người thụ hưởng. Người thụ hưởng có thể là người khởi tạo.
10. Khách hàng là tổ chức, cá nhân, đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm do tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan cung cấp.
11. Chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân có quyền sở hữu trên thực tế một tài sản, có quyền chi phối khi khách hàng thực hiện giao dịch cho cá nhân này hoặc cá nhân có quyền chi phối một pháp nhân hoặc một thỏa thuận pháp lý.
12. Quan hệ ngân hàng đại lý là hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác của một ngân hàng tại một quốc gia, vùng lãnh thổ cho một ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác.
|
- Khoản 8: đưa giải thích từ ngữ về người khởi tạo tại khoản 11 Luật PCRT năm 2012 lên khoản 8 của dự thảo luật để đảm bảo sự thống nhất với nội dung mới được bổ sung khoản 9 của dự thảo luật.
- Khoản 9: bổ sung định nghĩa về “Chuyển tiền điện tử” tại khoản 9 của dự thảo luật để thống nhất về cách hiểu và áp dụng pháp luật trên thực tế.
- Khoản 11: thay cụm từ “tài khoản” bằng “tài sản” để chuẩn hóa từ ngữ, thay cụm từ “thỏa thuận ủy thác đầu tư” bằng cụm từ “thỏa thuận pháp lý” để thống nhất quy định tại khoản 16 Điều này.
|
12. Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố và tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập theo quy định của pháp luật.
13. Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền.
|
13. Danh sách đen là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố, tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập và danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định do Bộ Quốc phòng chủ trì lập theo quy định của pháp luật.
14. Danh sách cảnh báo là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền.
|
- Khoản 13: bổ sung cụm từ “danh sách tổ chức, cá nhân bị chỉ định do Bộ Quốc phòng chủ trì lập” để phù hợp với quy định tại Nghị định 81/2019/NĐ-CP ngày 11/11/2019 về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
14. Hoạt động kinh doanh qua giới thiệu là hoạt động kinh doanh với khách hàng thông qua sự giới thiệu của bên trung gian là một tổ chức tài chính khác trong cùng tập đoàn hoặc tổng công ty hoặc thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ môi giới.
|
Bỏ nội dung này.
|
Dự thảo luật bỏ khoản 14 Luật PCRT 2012 do đã thay đổi nội dung “Hoạt động kinh doanh qua giới thiệu” thành hoạt động“Nhận biết, xác minh thông tin khách hàng thông qua bên thứ ba” và được quy định tại Điều 14 của dự thảo luật.
|
15. Lực lượng đặc nhiệm tài chính là tổ chức liên chính phủ, ban hành các chuẩn mực và thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu.
|
15. Lực lượng đặc nhiệm tài chính là tổ chức liên chính phủ, ban hành các chuẩn mực, thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu.
|
|
16. Thỏa thuận ủy quyền là thỏa thuận của tổ chức, cá nhân ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của tổ chức, cá nhân ủy quyền.
|
16. Thoả thuận pháp lý là thỏa thuận ủy thác hoặc các thỏa thuận khác có bản chất tương tự được xác lập theo luật pháp nước ngoài, cho phép bên nhận ủy thác được nhận chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp tài sản từ người ủy thác để thực hiện điều hành, quản lý, giám sát tài sản vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc vì một mục đích được xác định trong thỏa thuận ủy thác.
|
- Khoản 16: Sửa đổi nội hàm khái niệm và tên gọi “Thỏa thuận ủy quyền” thành “Thỏa thuận pháp lý” để phù hợp với quy định tại Khuyến nghị số 25 của FATF về “Minh bạch thông tin về thỏa thuận pháp lý”, phù hợp với quy định tại Điều 2 công ước Hague về Ủy thác. Việc sửa đổi nội hàm khái niệm này cũng nhằm phân biệt với một số khái niệm quy định tại Bộ luật dân sự, Luật Chứng khoán như “ủy thác đầu tư”…
|
|
|
|
|
17. Ngân hàng vỏ bọc là ngân hàng không có sự hiện diện thực tế tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mà tại đó ngân hàng phải được thành lập và cấp phép, đồng thời không có sự liên kết hoặc kiểm soát của bất kỳ tổ chức tài chính nào đã được quản lý và giám sát.
|
- Khoản 17: bổ sung định nghĩa về ngân hàng vỏ bọc. Lý do:
Khoản 3 Điều 7 Luật PCRT 2012 về Hành vi bị cấm quy định cấm đối với việc: “3. Thiết lập và duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng được thành lập tại một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhưng không có sự hiện diện hữu hình tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó và không chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan quản lý có thẩm quyền.”. Nội dung quy định này chính là nội hàm của khái niệm “Ngân hàng vỏ bọc” theo định nghĩa của FATF. Do vậy, nội hàm quy định này được đưa lên phần giải thích từ ngữ về “ngân hàng vỏ bọc” để phù hợp với kỹ thuật soạn thảo các điều khoản của Luật.
|
|
18. Tổ chức phi lợi nhuận được điều chỉnh trong Luật này bao gồm: Hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ nước ngoài được thành lập, đăng ký, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
- Khoản 18: bổ sung định nghĩa về tổ chức phi lợi nhuận, nội dung này đã được quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP, đồng thời, bổ sung thêm hai đối tượng mới là “hội” và “tổ chức tôn giáo” vì đây là các tổ chức có các hoạt động viện trợ, nhận viện trợ và có thể tiềm ẩn các rủi ro rửa tiền. Việc bổ sung này cũng phù hợp, tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động của các loại hình tổ chức phi lợi nhuận.
|
Điều 5. Nguyên tắc về phòng, chống rửa tiền
1. Việc phòng, chống rửa tiền phải thực hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
2. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời; các hành vi rửa tiền phải được xử lý nghiêm minh.
|
Điều 4. Nguyên tắc trong phòng, chống rửa tiền
1. Việc phòng, chống rửa tiền phải thực hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
2. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời; các hành vi rửa tiền phải được xử lý nghiêm minh.
|
Giữ nguyên nội dung quy định tại Luật PCRT năm 2012
|
Điều 6. Chính sách của Nhà nước về phòng, chống rửa tiền
1. Phòng, chống rửa tiền là trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan nhà nước. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 5. Chính sách của Nhà nước trong phòng, chống rửa tiền
1. Phòng, chống rửa tiền là trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân.
|
- Khoản 1: Sửa đổi nhằm quy định rõ phòng, chống rửa tiền không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước mà còn là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân.
|
2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia phòng, chống rửa tiền.
|
2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia phòng, chống rửa tiền.
|
|
3. Ban hành chính sách thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
|
3. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 3: sửa đổi để chuẩn hóa từ ngữ
|
4. Tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống rửa tiền được Nhà nước khen thưởng.
|
|
- Bỏ khoản 4: vì nội dung này đã được quy định tại pháp luật về thi đua, khen thưởng.
|
Chương IV. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền
Điều 46, 47, 48
|
Điều 6. Nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền
|
Cơ cấu lại nội dung Điều 46, 47, 48 Chương IV Luật PCRT 2012 vào Điều 6 Chương I của dự thảo luật.
Đồng thời, bổ sung vào Điều 6 mới tại dự thảo luật các quy định về nội dung hợp tác quốc tế, các trường hợp bị từ chối, quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế … để phù hợp với Khuyến nghị 40 của FATF cũng như để khắc phục các thiếu hụt đã được chỉ ra tại báo cáo của APG. Cụ thể:
|
|
1. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, các bên cùng có lợi, tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
|
- Khoản 1: giữ nguyên nội dung quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật PCRT 2012.
|
|
2. Nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền bao gồm:
a) Hợp tác quốc tế trong việc xác định, phong tỏa tài sản của người phạm tội rửa tiền;
b) Thực hiện tương trợ tư pháp trong hoạt động phòng, chống rửa tiền;
c) Trao đổi thông tin, tài liệu giữa các bộ ngành, cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài liên quan đến phòng chống rửa tiền;
d) Hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền;
đ) Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền.
3. Yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin về phòng, chống rửa tiền có thể bị từ chối trong các trường hợp sau:
a) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp có thể gây tổn hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của Việt Nam;
b) Thông tin được yêu cầu trao đổi, cung cấp không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và các quy định khác của pháp luật Việt Nam;
c) Yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin không có đầy đủ nội dung theo quy định pháp luật;
d) Cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không cam kết hoặc không thực hiện bảo mật thông tin được cung cấp theo chế độ bảo mật tương ứng với quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước của Việt Nam đối với thông tin mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước cung cấp.
|
- Khoản 2, 3: Sửa đổi, bổ sung quy định Điều 47, khoản 2 Điều 48 Luật PCRT 2012 theo hướng cụ thể hơn các nội dung hợp tác quốc tế và các trường hợp từ chối theo yêu cầu Khuyến nghị 38, 39, 40 của FATF về Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền và báo cáo đánh giá đa phương của APG đối với Việt Nam. Các nội dung này cũng đã được quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCRT năm 2012.
|
|
4. Quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại khoản 1, 2, 3 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, các quy định khác của pháp luật có liên quan.
|
- Khoản 4 giữ nguyên nội dung quy định tại khoản 5 Điều 47 Luật PCRT 2012.
|
|
5. Khi có yêu cầu về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông báo kịp thời bằng văn bản về nội dung, thời gian, các bên liên quan và các chương trình hợp tác quốc tế khác cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 5: giữ nguyên quy định tại khoản 4 Điều 48 Luật PCRT 2012.
|
Điều luật mới.
|
Điều 7. Đánh giá rủi ro quốc gia và rủi ro ngành về rửa tiền
1. Định kỳ 05 năm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá.
Trường hợp có rủi ro phát sinh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện cập nhật đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả cập nhật đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá.
Việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền.
2. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm triển khai đánh giá, cập nhật rủi ro ngành về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền và tình hình thực tế hoạt động của ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành; phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc thẩm quyền quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định.
3. Chính phủ quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền.
|
Bổ sung điều mới về “Đánh giá rủi ro quốc gia và rủi ro ngành về rửa tiền” nhằm quy phạm hóa trách nhiệm của các cơ quan của Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá rủi ro quốc gia, đánh giá rủi ro ngành về rửa tiền. Đây được coi là một trong những trụ cột nền tảng của công tác PCRT theo Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro của FATF và báo cáo của APG. Đây cũng là cơ sở pháp lý để Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro định kỳ mà trên thực tế Việt Nam đã và đang thực hiện theo cam kết quốc tế.
Bổ sung quy định các tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành do Chính phủ hướng dẫn.
|
Điều 7. Các hành vi bị cấm
1. Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện thực hiện hành vi rửa tiền.
|
Điều 8. Các hành vi bị cấm
1. Tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện, trợ giúp thực hiện hành vi rửa tiền.
|
- Khoản 1: bổ sung cụm từ “trợ giúp” phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 3. Giải thích từ ngữ của dự thảo luật.
|
2. Thiết lập hoặc duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả.
|
2. Thiết lập hoặc duy trì tài khoản vô danh, nặc danh, mạo danh.
|
- Khoản 2: thay thế cụm từ “tài khoản sử dụng tên giả” bằng cụm từ “nặc danh, mạo danh” do tài khoản nặc danh, mạo danh đã bao gồm tài khoản sử dụng tên giả, bên cạnh đó cụm từ này còn bao hàm các trường hợp: tài khoản sử dụng giấy tờ của người khác, sử dụng giấy tờ giả.
|
3. Thiết lập và duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng được thành lập tại một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhưng không có sự hiện diện hữu hình tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó và không chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
|
3. Thiết lập và duy trì quan hệ kinh doanh với ngân hàng vỏ bọc.
|
- Khoản 3: sửa đổi do định nghĩa ngân hàng vỏ bọc đã được chuyển lên khoản 17 Điều 3. Giải thích từ ngữ của dự thảo luật.
|
4. Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng tại một địa điểm khác.
5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
6. Cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
7. Đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền.
|
4. Cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng.
5. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong phòng, chống rửa tiền xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
6. Cản trở việc cung cấp thông tin phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
7. Đe dọa, trả thù người phát hiện, cung cấp thông tin, báo cáo, tố cáo về hành vi rửa tiền.
|
- Khoản 4: bỏ cụm từ “tại một địa điểm khác” để tránh cách hiểu khác nhau tại quy định này.
|
Chương II. BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Mục 1. NHẬN BIẾT KHÁCH HÀNG VÀ CẬP NHẬT THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
|
Chương II. BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
- Sửa tên mục đảm bảo phù hợp quy định tại nội dung các điều khoản.
|
Điều 8. Nhận biết khách hàng
1. Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
|
Điều 9. Nhận biết khách hàng
1. Tổ chức tài chính phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
|
|
a) Khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức tài chính;
|
a) Khách hàng lần đầu mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với tổ chức tài chính;
|
- Điểm a khoản 1: thay thế cụm từ “giao dịch” thành “quan hệ” để đảm bảo bất kỳ hành vi nào của khách hàng với tổ chức tài chính nhằm sử dụng dịch vụ không chỉ gồm hành vi thiết lập giao dịch đều phải thực hiện biện pháp nhận biết khách hàng. Đồng thời, bổ sung cụm từ “lần đầu” mở tài khoản hoặc thiết lập quan hệ với tổ chức tài chính để phù hợp với thực tiễn triển khai thực hiện hoạt động nhận biết khách hàng của đối tượng báo cáo. Nội dung này cũng đã được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị định 116/2013/NĐ-CP.
|
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo;
|
b) Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị bằng hoặc vượt mức giá trị giao dịch lớn phải báo cáo; hoặc thực hiện giao dịch chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ của người khởi tạo, số tài khoản của người khởi tạo hoặc mã giao dịch trong trường hợp người khởi tạo không có tài khoản;
|
- Điểm b khoản 1: Bổ sung cụm từ “mã giao dịch trong trường hợp không có số tài khoản” trong trường hợp khách hàng không có tài khoản để đáp ứng yêu cầu tiêu chí 16.7, Khuyến nghị 16 của FATF – Chuyển tiền điện tử (phần Chú giải). Quy định này cũng phù hợp với thực tiễn vì có trường hợp khách hàng giao dịch không có tài khoản và đối với mỗi giao dịch tại ngân hàng hiện nay đều có mã giao dịch để quản lý.
|
c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;
d) Có nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.
|
c) Có nghi ngờ giao dịch hoặc các bên liên quan đến giao dịch có liên quan đến hoạt động rửa tiền;
d) Có nghi ngờ về tính chính xác hoặc tính đầy đủ của các thông tin nhận biết khách hàng đã thu thập trước đó.
|
|
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm a khoản 4 Điều 4 của Luật này phải tiến hành các biện pháp nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch có giá trị lớn;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm b khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung cấp dịch vụ môi giới mua, bán và quản lý bất động sản cho khách hàng;
c) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm c khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong trường hợp khách hàng có giao dịch mua, bán kim loại quý, đá quý có giá trị lớn bằng tiền mặt;
d) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm d khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lý tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; điều hành, quản lý hoạt động công ty của khách hàng; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh;
đ) Các tổ chức cung cấp dịch vụ quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 4 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung ứng các dịch vụ thành lập công ty; cung cấp giám đốc, thư ký giám đốc của doanh nghiệp; cung cấp văn phòng đăng ký, địa chỉ hoặc địa điểm kinh doanh; cung cấp dịch vụ đại diện cho công ty; dịch vụ ủy thác đầu tư; dịch vụ cung cấp người đại diện cho cổ đông.
|
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm a khoản 4 Điều 3 của Luật này phải tiến hành các biện pháp nhận biết khách hàng đối với các khách hàng có giao dịch có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm b khoản 4 Điều 3 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung cấp dịch vụ kinh doanh bất động sản cho khách hàng;
c) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm c khoản 4 Điều 3 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng trong trường hợp khách hàng có giao dịch mua, bán kim loại quý, đá quý bằng tiền mặt có giá trị bằng hoặc vượt mức quy định;
d) Tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề quy định tại điểm d khoản 4 Điều 3 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi thay mặt khách hàng chuẩn bị các điều kiện để thực hiện giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà; quản lý tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác của khách hàng; quản lý tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, công ty chứng khoán; điều hành, quản lý hoạt động công ty của khách hàng; tham gia vào hoạt động mua, bán các tổ chức kinh doanh;
đ) Tổ chức cung cấp dịch vụ quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 3 của Luật này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng khi cung ứng các dịch vụ thành lập công ty; cung cấp giám đốc, thư ký của doanh nghiệp cho bên thứ ba; cung cấp thỏa thuận pháp lý.
|
- Khoản 2:
+ Điều chỉnh các nội dung tham chiếu tại khoản 2 để đảm bảo chính xác (do thay đổi số thứ tự các điều của dự thảo Luật).
+ Sửa cụm từ “giá trị lớn” tại điểm a và c bằng cụm từ “giá trị bằng hoặc vượt mức quy định” để đảm bảo rõ ràng và phân biệt với các trường hợp giao dịch giá trị lớn phải báo cáo và giao dịch giá trị lớn bất thường.
+ Sửa đổi từ ngữ tại điểm b, c, d, đ phù hợp với nội dung sửa đổi tại khoản 4 Điều 3 dự thảo Luật phòng, chống rửa tiền.
|
|
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
Bổ sung khoản 3 giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết các trường hợp nhận biết khách hàng; ngưỡng giao dịch phải thực hiện nhận biết khách hàng.
|
Điều 9. Thông tin nhận biết khách hàng
Thông tin nhận biết khách hàng phải có các thông tin chính sau đây:
1. Thông tin nhận dạng khách hàng:
a) Đối với khách hàng cá nhân là người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại, số chứng minh nhân dân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại.
Đối với khách hàng cá nhân là người nước ngoài: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp, thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở Việt Nam;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số điện thoại, số fax; lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông
tin về người thành lập, đại diện cho tổ chức bao gồm các thông tin quy định tại điểm a khoản này.
|
Điều 10. Thông tin nhận biết khách hàng
Thông tin nhận biết khách hàng phải có các thông tin chính sau đây:
1. Thông tin nhận dạng khách hàng (bao gồm cả thông tin người đại diện của khách hàng cá nhân (nếu có)):
a) Đối với khách hàng cá nhân có 01 quốc tịch là:
Người Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số điện thoại liên lạc; số chứng minh nhân dân hoặc số căn cước công dân hoặc số định danh cá nhân hoặc số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký thường trú và nơi ở hiện tại khác (nếu có);
Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; số thị thực nhập cảnh, trừ trường hợp được miễn thị thực theo quy định pháp luật; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài và địa chỉ đăng ký cư trú ở Việt Nam;
Người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nghề nghiệp, chức vụ; số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài;
b) Đối với khách hàng cá nhân là người có từ 02 quốc tịch trở lên, ngoài những thông tin theo quy định tại điểm a Khoản này, đối tượng báo cáo phải thu thập bổ sung thông tin về các quốc tịch, các địa chỉ đăng ký cư trú tại các quốc gia mang quốc tịch;
c) Đối với khách hàng cá nhân là người không quốc tịch: họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp, chức vụ; số giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế (nếu có); số thị thực, trừ trường hợp được miễn thị thực theo quy định pháp luật; cơ quan cấp thị thực nhập cảnh; địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở nước ngoài (nếu có), địa chỉ nơi đăng ký cư trú ở Việt Nam;
d) Đối với khách hàng là tổ chức: tên giao dịch đầy đủ và viết tắt; địa chỉ đặt trụ sở chính; số giấy phép thành lập hoặc mã số doanh nghiệp hoặc mã số thuế; số điện thoại liên lạc; số fax, trang thông tin điện tử (nếu có); lĩnh vực hoạt động, kinh doanh; thông tin về người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức bao gồm các thông tin như quy định tại điểm a, b Khoản này và các thông tin tại điểm này đối với trường hợp người thành lập là tổ chức.
|
Khoản 1: sửa đổi, bổ sung mới một số thông tin nhận biết khách hàng nhằm khắc phục những bất cập trong thực tiễn và phù hợp với quy định tại Luật Quốc tịch; Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Luật cư trú 2020; Luật Căn cước công dân 2014; khắc phục thiếu hụt được chỉ ra tại Khuyến nghị số 10 của FATF về Xác minh thông tin khách hàng.
|
2. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi:
a) Đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi;
b) Đối với khách hàng là pháp nhân hoặc khi cung ứng dịch vụ thỏa thuận ủy quyền, đối tượng báo cáo phải thu thập thông tin về quyền sở hữu và cơ cấu kiểm soát để xác định được cá nhân có lợi ích kiểm soát và chi phối hoạt động của pháp nhân hoặc thỏa thuận ủy quyền đó.
|
2. Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi: Đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết và cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi.
|
- Khoản 2: sửa đổi, bổ sung quy định về “Thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi” và bố cục lại các điểm của khoản này, theo đó đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết, cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi. Quy định này cũng nhằm đáp ứng được yêu cầu của APG đối với việc tuân thủ tiêu chí 10.5 Khuyến nghị 10 – Xác minh thông tin khách hàng, Khuyến nghị 24 - Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân về việc Việt Nam cần có hướng dẫn đối tượng báo cáo cách thức, biện pháp xác định chủ sở hữu hưởng lợi. Nội dung này sẽ được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định của Chính phủ.
|
3. Mục đích của khách hàng trong mối quan hệ với đối tượng báo cáo.
|
3. Mục đích và bản chất của mối quan hệ kinh doanh của khách hàng với đối tượng báo cáo.
|
- Khoản 3: bổ sung quy định về “bản chất của mối quan hệ kinh doanh” để phù hợp với tiêu chí 10.6, Khuyến nghị 10 - Xác minh thông tin khách hàng của FATF. Nội dung này sẽ được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định của Chính phủ.
|
|
4. Chính phủ quy định chi tiết khoản 2 và khoản 3 Điều này.
|
- Bổ sung Khoản 4 giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết nội dung quy định tại khoản 2, 3 Điều này.
|
Đối tượng báo cáo phải thường xuyên cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong suốt thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng; bảo đảm các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành thông qua đối tượng báo cáo phù hợp với những thông tin đã biết về khách hàng, về hoạt động kinh doanh, về rủi ro và về nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
Điều 11. Cập nhật thông tin nhận biết khách hàng
Đối tượng báo cáo phải cập nhật thông tin nhận biết khách hàng trong thời gian thiết lập quan hệ với khách hàng nhằm đảm bảo các giao dịch mà khách hàng đang tiến hành phải phù hợp với các thông tin về khách hàng trong hồ sơ hiện có, những thông tin đã biết về khách hàng, về hoạt động kinh doanh, về rủi ro và về nguồn gốc tài sản của khách hàng.
|
- Bổ sung quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo về cập nhật các tài liệu, dữ liệu, thông tin đảm bảo phù hợp với các hồ sơ hiện có. Bỏ cụm từ “thường xuyên” và “trong suốt”, để đối tượng báo cáo chủ động cập nhật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định, phù hợp với thực tiễn hoạt động của đối tượng báo cáo
Quy định này cũng đáp ứng được yêu cầu của APG đối với việc tuân thủ khuyến nghị của FATF tại Khuyến nghị 10 - Xác minh thông tin khách hàng.
|
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: chứng minh nhân dân, hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: Giấy phép hoặc quyết định thành lập; quyết định đổi tên gọi, chia tách, sáp nhập; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (Giám đốc), Kế toán trưởng.
|
Điều 12. Biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng
1. Đối tượng báo cáo sử dụng các tài liệu, dữ liệu để xác minh thông tin nhận biết khách hàng bao gồm:
a) Đối với khách hàng là cá nhân: Chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn sử dụng và các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền cấp;
b) Đối với khách hàng là tổ chức: Giấy phép hoặc quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Quyết định về tổ chức lại, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động của tổ chức (nếu có); điều lệ của tổ chức; quyết định bổ nhiệm hoặc hợp đồng thuê Tổng giám đốc (Giám đốc), Kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán; các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi.
|
Sửa đổi điều 11 Luật PCRT 2012 nhằm đáp ứng yêu cầu của APG đối với việc tuân thủ Khuyến nghị 10 – Xác minh thông tin khách hàng về việc đối tượng báo cáo sử dụng nguồn thông tin độc lập đáng tin cậy (giấy tờ, thông tin được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp…). Cụ thể:
- Khoản 1: sửa đổi, bổ sung tên các giấy tờ cung cấp phù hợp với Luật Căn cước công dân và Luật Doanh nghiệp; bổ sung quy định về “các tài liệu, dữ liệu liên quan đến người thành lập, người đại diện theo pháp luật của tổ chức, chủ sở hữu hưởng lợi”, “điều lệ của tổ chức” phù hợp quy định của Luật Doanh nghiệp và yêu cầu tại Khuyến nghị 10 của FATF và thống nhất với các thông tin nhận biết khách hàng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 10 dự thảo luật.
|
2. Đối tượng báo cáo có thể thông qua tổ chức, cá nhân khác đã hoặc đang có quan hệ với khách hàng; hoặc thông qua cơ quan quản lý hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để thu thập thông tin và đối chiếu với thông tin khách hàng cung cấp.
|
2. Đối tượng báo cáo có thể thông qua Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các tổ chức được cung ứng dịch vụ định danh, xác thực điện tử; cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác; tổ chức quy định tại Điều 13, 14 Luật này để đối chiếu thông tin khách hàng cung cấp.
|
- Khoản 2:
+ Bổ sung quy định “hoặc thông qua Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các tổ chức được cung ứng dịch vụ định danh, xác thực điện tử” phù hợp với pháp luật hiện hành về việc chia sẻ thông tin trong CSDL quốc gia về cư dân cho cá nhân, tổ chức.
+ Bổ sung quy định “tổ chức quy định tại Điều 13, 14 Luật này” để phù hợp với quy định tại Điều 13, 14.
|
Điều 11. Biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng
….
3. Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Trường hợp này đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức được thuê thực hiện đúng các quy định về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật này và chịu trách nhiệm về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng.
|
Điều 13. Xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua việc thuê tổ chức khác
1. Đối tượng báo cáo có thể thuê các tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để xác minh thông tin nhận biết khách hàng, trừ tổ chức là bên thứ ba quy định tại Điều 14 Luật này.
2. Đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức được thuê bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định pháp luật.
3. Đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức được thuê.
4. Việc thuê tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng thực hiện theo thỏa thuận của các bên và các quy định pháp luật có liên quan.
|
Bố cục lại khoản 3 Điều 11 Luật PCRT năm 2012 thành quy định tại Điều 13 dự thảo luật đảm bảo đầy đủ quy định đối với trường hợp xác minh thông tin khách hàng thông qua việc thuê các tổ chức khác thực hiện. Đồng thời, bổ sung một số yêu cầu đối với hoạt động thuê tổ chức khác xác minh thông tin khách hàng, cụ thể:
- Khoản 1: bổ sung quy định tổ chức khác “được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật”, theo đó việc thành lập và hoạt động của các tổ chức này phải phù hợp với quy định pháp luật có liên quan.
- Khoản 2: bổ sung cụm từ “bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật” để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của cá nhân và pháp nhân đối với các thông tin được thu thập.
- Khoản 4: việc thuê tổ chức khác xác minh thực hiện theo các quy định pháp luật có liên quan, Luật PCRT không điều chỉnh hoạt động thuê tổ chức khác của đối tượng báo cáo.
|
1. Khi tiến hành hoạt động kinh doanh qua giới thiệu, đối tượng báo cáo có thể nhận biết khách hàng thông qua bên trung gian và bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a) Bên trung gian phải thu thập, lưu giữ và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo khi được yêu cầu;
b) Bên trung gian tuân thủ các yêu cầu về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên trung gian là tổ chức nước ngoài;
c) Bên trung gian phải là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
2. Việc nhận biết khách hàng thông qua bên trung gian không loại trừ trách nhiệm của đối tượng báo cáo trong việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng.
|
1. Đối tượng báo cáo có thể nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba và bảo đảm bên thứ ba đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Bên thứ ba là tổ chức tài chính hoặc tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan khác có thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Bên thứ ba thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9, 10, 11, 12 của Luật này hoặc khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức ở nước ngoài;
c) Bên thứ ba phải thu thập, lưu trữ và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng cho đối tượng báo cáo khi được yêu cầu; thực hiện bảo mật thông tin tại Điểm này theo quy định pháp luật;
d) Bên thứ ba phải là đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
2. Bên thứ ba không bao gồm các mối quan hệ đại lý và thuê ngoài.
3. Trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và là công ty con của công ty mẹ là tổ chức tài chính, công ty mẹ phải tuân thủ:
a) Các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, về khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị, lưu trữ hồ sơ, thông tin giao dịch và bảo mật bí mật thông tin tài liệu báo cáo quy định tại Điều 9, 10, 11, 12, 17, 31, 33 của Luật này hoặc các khuyến nghị liên quan của Lực lượng đặc nhiệm tài chính trong trường hợp công ty mẹ của tổ chức tài chính là tổ chức nước ngoài;
b) Việc áp dụng các yêu cầu về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng và lưu trữ hồ sơ, thông tin giao dịch phải được kiểm soát trong toàn hệ thống;
c) Áp dụng các chính sách để giảm thiểu rủi ro đối với các lĩnh vực có rủi ro cao về rửa tiền.
4. Đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả nhận biết, cập nhật xác minh thông tin nhận biết khách hàng của bên thứ ba.
|
- Điều 17 Luật PCRT 2012 được xây dựng phù hợp với khuyến nghị của FATF tại thời điểm năm 2012. Tuy nhiên, hiện nay, khuyến nghị của FATF đã được sửa đổi, trong đó có nội dung sửa đổi liên quan đến khuyến nghị về việc dựa vào bên thứ ba. Do vậy, sửa đổi tại Điều 14 dự thảo luật để chuẩn hóa từ ngữ và phù hợp với yêu cầu của khuyến nghị số 17 của FATF - Dựa vào bên thứ ba (đã được chỉnh sửa, bổ sung).
Ngoài ra, bổ sung các quy định tại khoản 3 về trách nhiệm của bên thứ ba trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và là công ty con của công ty mẹ là tổ chức tài chính theo yêu cầu tại khuyến nghị của FATF.
|
Điều luật mới.
|
Điều 15. Đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo
1. Căn cứ vào kết quả đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền và căn cứ thực tế hoạt động của mình, đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để nhận diện và xác định các rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo. Kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo phải được cập nhật hằng năm và phải được cấp có thẩm quyền của đối tượng báo cáo phê duyệt.
2. Đối tượng báo cáo phải báo cáo kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền quản lý của đối tượng báo cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro được phê duyệt; đồng thời phải phổ biến trong toàn hệ thống của đối tượng báo cáo các kết quả này.
|
Quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu tại tiêu chí 1.10, Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro. Theo nhận định của APG về tiêu chí này, Việt Nam chưa có quy định đầy đủ về trách nhiệm thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền của đối tượng báo cáo.
Đồng thời, điều luật này được thiết kế làm cơ sở cho các đối tượng báo cáo thực hiện tự đánh giá những loại rủi ro về rửa tiền trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình cũng như hỗ trợ cho hoạt động giám sát chung về PCRT của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền.
|
1. Đối tượng báo cáo phải xây dựng quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro theo loại khách hàng, loại sản phẩm, dịch vụ khách hàng sử dụng, nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở chính của khách hàng.
|
Điều 16. Phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro về rửa tiền
1. Căn cứ kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo về rửa tiền, đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình. Quy trình quản lý rủi ro phải bao gồm việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
|
- Khoản 1: sửa đổi làm rõ việc các đối tượng báo cáo sử dụng kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo để xây dựng quy trình quản lý rủi ro, phân loại khách hàng và phù hợp với quy định tại Điều 7, Điều 15 dự thảo luật về trách nhiệm thực hiện đánh giá rủi ro rửa tiền của đối tượng báo cáo.
|
2. Đối với khách hàng có mức độ rủi ro thấp, đối tượng báo cáo có thể áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng ở mức độ thấp hơn nhưng phải bảo đảm thu thập được đầy đủ thông tin về khách hàng quy định tại Điều 9 của Luật này.
3. Đối với khách hàng, giao dịch có mức độ rủi ro cao quy định tại các điều 13, 14, 15, 16 và 17 của Luật này, ngoài việc thực hiện các biện pháp nhận biết quy định tại Điều 9 của Luật này, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp đánh giá tăng cường theo quy định của Luật này.
4. Đối với khách hàng, giao dịch khác có mức độ rủi ro cao không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, ngoài việc thực hiện các biện pháp nhận biết quy định tại Điều 9 của Luật này, đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp đánh giá tăng cường theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
2. Đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng như sau:
a) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền thấp, đối tượng báo cáo có thể áp dụng các biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ sau lần đầu thiết lập quan hệ với khách hàng;
b) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền trung bình, đối tượng báo cáo phải thực hiện nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9, 10, 11, 12 của Luật này;
c) Đối với khách hàng có mức độ rủi ro về rửa tiền cao, đối tượng báo cáo phải thực hiện biện pháp tăng cường bao gồm biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng tăng cường và giám sát chặt chẽ các giao dịch của khách hàng.
|
- Cơ cấu lại khoản 2, 3 và 4 Điều 12 của Luật PCRT năm 2012 thành khoản 2 của dự thảo luật. Cụ thể: sửa đổi, bổ sung làm rõ yêu cầu đối tượng báo cáo áp dụng các biện pháp theo mức độ tương ứng trên cơ sở kết quả phân loại đánh giá rủi ro rửa tiền quy định tại khoản 1 Điều này.
Việc sửa đổi này nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị số 1 - Đánh giá rủi ro và áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro, Khuyến nghị 10 – Xác minh thông tin khách hàng và các chú giải của Khuyến nghị số 1, 10 của FATF cũng như các khuyến nghị hành động nêu tại báo cáo của APG.
|
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết các biện pháp tăng cường và biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ quy định tại Điều này.
|
- Khoản 3: bổ sung quy định giao NHNN hướng dẫn chi tiết về các biện pháp tăng cường và biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng ở mức độ giảm nhẹ do nội dung này mang tính kỹ thuật.
|
Điều 13. Khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị
|
Điều 17. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị
|
- Sửa tên điều để phù hợp với nội hàm của quy định. Đối tượng điều chỉnh của Điều này bao gồm khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và các đối tượng có liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều này.
|
1. Khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức hữu quan của nước ngoài.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo danh sách khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản này trên cơ sở khuyến nghị của tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
1. Cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị là người giữ chức vụ cấp cao trong các cơ quan, tổ chức của nước ngoài và tổ chức quốc tế.
Trên cơ sở khuyến nghị của tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông báo danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị cho các đối tượng báo cáo. Đối tượng báo cáo căn cứ danh sách này và các thông tin thu thập được để rà soát, lập danh sách khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị áp dụng tại đối tượng báo cáo.
|
- Khoản 1: bổ sung cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị bao gồm cả người giữ chức vụ cấp cao trong các tổ chức quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 12.2 Khuyến nghị số 12 của FATF về Cá nhân có ảnh hưởng chính trị. Đồng thời, làm rõ hơn trách nhiệm của đối tượng báo cáo liên quan đến danh sách cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị do NHNN thông báo; bổ sung việc đối tượng báo cáo có thể sử dụng các thông tin khác ngoài danh sách do NHNN thông báo để lập danh sách PEP nước ngoài của mình.
|
2. Đối tượng báo cáo phải có hệ thống quản lý rủi ro để xác định khách hàng nước ngoài là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và áp dụng các biện pháp sau đây:
a) Xây dựng quy chế kiểm soát nội bộ đối với việc mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch khi khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi được xác định là cá nhân có ảnh hưởng chính trị;
b) Thực hiện các biện pháp nhằm nhận biết nguồn gốc tài sản của khách hàng;
c) Tăng cường giám sát khách hàng và quan hệ kinh doanh với khách hàng.
3. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp quy định tại khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người quy định tại khoản 1 Điều này.
|
2. Đối tượng báo cáo phải đảm bảo:
a) Có hệ thống quản lý rủi ro phù hợp nhằm xác định khách hàng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị; người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
b) Được sự chấp thuận của quản lý cấp cao theo quy định nội bộ trước khi thiết lập mối quan hệ kinh doanh với khách hàng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị;
c) Thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị, những người có liên quan đến cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị quy định tại khoản 3 Điều này và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với đối tượng báo cáo; thực hiện giám sát chặt chẽ mối quan hệ kinh doanh với chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu hưởng lợi của người thụ hưởng là cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ nếu cần thiết.
3. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều này đối với khách hàng là cá nhân dưới đây:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Bất kỳ người nào có các mối quan hệ với cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này, gồm:
Đồng chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều này;
Chủ sở hữu hưởng lợi của một hoặc nhiều pháp nhân, thỏa thuận pháp lý được thành lập và hoạt động vì lợi ích của cá nhân nêu tại khoản 1 Điều này.
|
- Sửa đổi khoản 2, 3 Luật PCRT 2012 về các quy định cụ thể mà đối tượng báo cáo phải áp dụng để xác định, nhận biết và áp dụng biện pháp giám sát chặt chẽ đối với cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị và những người có liên quan.
Việc sửa đổi này nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 10.12, 10.13 Khuyến nghị số 10 – Xác minh thông tin khách hàng và đáp ứng một phần yêu cầu Khuyến nghị số 12 - Cá nhân có ảnh hưởng chính trị.
|
Đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với ngân hàng đối tác nước ngoài phải áp dụng các biện pháp sau đây:
1. Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và bảo đảm ngân hàng đối tác phải chịu sự giám sát, quản lý của cơ quan quản lý có thẩm quyền nước ngoài;
2. Đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác;
3. Phải được sự chấp thuận của Tổng giám đốc (Giám đốc) hoặc người được ủy quyền của đối tượng báo cáo trước khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý;
4. Trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo.
|
Điều 18. Quan hệ ngân hàng đại lý
Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải áp dụng các biện pháp nhằm:
1. Thu thập thông tin về ngân hàng đối tác để hiểu biết đầy đủ về bản chất kinh doanh, uy tín của ngân hàng đối tác và thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hoặc các vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền.
2. Đánh giá việc thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác.
3. Hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của ngân hàng đối tác trong quan hệ đại lý.
4. Trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải bảo đảm ngân hàng đối tác đã thực hiện đầy đủ việc nhận biết, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng và có khả năng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng theo yêu cầu của đối tượng báo cáo. Đối tượng báo cáo phải đảm bảo rằng tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
5. Việc thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý của đối tượng báo cáo phải được sự chấp thuận của Tổng giám đốc (Giám đốc) hoặc người được Tổng giám đốc (Giám đốc) của đối tượng báo cáo ủy quyền.
|
Chỉnh sửa quy định này nhằm làm rõ nội hàm trong quan hệ ngân hàng đại lý. Theo quy định này, trường hợp đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán, dịch vụ khác thì phải áp dụng biện pháp phù hợp.
Ngoài ra, sửa đổi, cấu trúc lại khoản 1, 3, 4 Điều 14 của Luật PCRT năm 2012 cũng như bổ sung khoản 3 Điều 18 của dự thảo luật để đảm bảo chính xác về từ ngữ và phù hợp hơn với các yêu cầu tại Khuyến nghị 13 của FATF về Hoạt động ngân hàng đại lý; đồng thời nhằm khắc phục những thiếu hụt pháp lý được chỉ ra tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan tới Khuyến nghị số 13.
|
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy trình nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng công nghệ mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng công nghệ mới và không gặp mặt trực tiếp.
2. Quy trình quy định tại khoản 1 Điều này phải bảo đảm việc cập nhật thông tin khách hàng có hiệu quả như việc cập nhật thông tin khách hàng gặp mặt trực tiếp.
|
Điều 19. Trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới
1. Đối tượng báo cáo phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng đối với:
a) Sản phẩm, dịch vụ mới;
b) Sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
2. Đối tượng báo cáo phải ban hành chính sách, quy trình về quản lý rủi ro nhằm mục đích sau đây:
a) Phát hiện, ngăn chặn việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới vào việc rửa tiền;
b) Quản lý rủi ro về rửa tiền khi thiết lập giao dịch với khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
3. Đối tượng báo cáo phải áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền.
|
- Sửa đổi tên điều và bổ sung khoản 1 quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng.
- Khoản 2: sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 15 của Luật PCRT 2012 phù hợp với thực tế triển khai, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới tại các tổ chức báo cáo nhằm giảm thiểu rủi ro do các loại hình sản phẩm, dịch vụ mới hoặc sản phẩm dịch vụ áp dụng công nghệ đổi mới, tiên tiến có thể tiềm ẩn các rủi ro về rửa tiền.
- Bổ sung khoản 3 quy định trách nhiệm của báo cáo thực hiện các biện pháp để giảm thiểu rủi ro về rửa tiền khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
Các quy định sửa đổi điều này tại dự thảo cũng nhằm đáp ứng các yêu cầu tại Khuyến nghị số 15 về Công nghệ mới của FATF và khắc phục những thiếu hụt được chỉ ra tại báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan đến Khuyến nghị số 15 về Công nghệ mới và Khuyến nghị số 22 về Các DNFBP: Theo dõi cập nhật thông tin khách hàng.
|
|
Điều 20. Giám sát một số giao dịch đặc biệt
|
Sửa đổi tên điều để đảm bảo rõ ràng trong quy định.
Nội dung điều này nhằm đáp ứng khuyến nghị số 19 của FATF về “Các quốc gia có rủi ro cao”, phù hợp với định hướng xây dựng Luật PCRT sửa đổi (chính sách 3) về hoàn thiện các quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo.
|
1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đặc biệt đối với các giao dịch sau đây:
b) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.
|
1. Đối tượng báo cáo phải giám sát đối với các giao dịch đặc biệt sau:
a) Giao dịch với giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp theo quy định của Chính phủ;
b) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo.
|
- Điểm a khoản 1: đây là các nội dung mang tính định lượng, có thể thay đổi theo từng thời kỳ, do đó dự thảo Luật giao Chính phủ hướng dẫn nội dung này.
|
2. Đối tượng báo cáo phải kiểm tra cơ sở pháp lý và mục đích của giao dịch; trường hợp có nghi ngờ về tính trung thực, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải lập báo cáo về giao dịch đáng ngờ gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và có thể từ chối giao dịch đó.
|
2. Đối tượng báo cáo phải thực hiện:
a) Các biện pháp tăng cường phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 Luật này;
b) Kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, đối tượng báo cáo phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
|
- Khoản 2: bổ sung quy định yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường cập nhật thông tin khách hàng phù hợp với mức độ rủi ro nhằm đáp ứng yêu cầu Khuyến nghị 19 của FATF.
|
|
Điều 21. Minh bạch thông tin của pháp nhân
|
- Điều 18 Luật PCRT 2012 được tách ra thành hai phần, gồm Điều 21 dự thảo về Minh bạch thông tin của pháp nhân và Điều 22 dự thảo về Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý.
- Sửa tên Điều 21 "Minh bạch thông tin của pháp nhân" để phù hợp với tên gọi và nội dung của Khuyến nghị 24 của FATF về Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân.
|
1. Sở giao dịch chứng khoán phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp niêm yết.
2. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của các doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán.
|
1. Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật, lưu trữ thông tin chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân; thông tin cơ bản của pháp nhân bao gồm: tên và loại hình pháp nhân, quyết định thành lập, giấy phép hoạt động, tình trạng pháp lý, địa chỉ đặt trụ sở chính, cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm cả danh sách người quản lý pháp nhân, điều lệ.
Các thông tin nêu trên phải lưu trữ tối thiểu 05 năm sau ngày pháp nhân chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.
|
- Khoản 1 và khoản 2 của Luật PCRT 2012 được cơ cấu thành khoản 1 của dự thảo luật để: sửa đổi, bổ sung, làm rõ thông tin về pháp nhân mà cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân phải cập nhật và lưu trữ nhằm đáp ứng tiêu chí 24.1, 24.6, 24.7, 24.9 Khuyến nghị 24 - Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân.
|
3. Tổ chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ pháp lý về soạn thảo thỏa thuận ủy quyền cho khách hàng phải lưu giữ, duy trì và cập nhật thông tin về thỏa thuận ủy quyền và chủ sở hữu hưởng lợi theo thỏa thuận đó.
|
2. Pháp nhân có trách nhiệm thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin nêu tại khoản 1 Điều này.
|
- Khoản 2: Bổ sung trách nhiệm của pháp nhân phải thu thập, cập nhật và lưu trữ thông tin cơ bản, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi nhằm đáp ứng tiêu chí 24.4, 24.6, 24.9 Khuyến nghị 24 - Minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi tại các pháp nhân.
|
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này cung cấp thông tin.
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức quy định tại khoản 1, 2 Điều này cung cấp thông tin.
|
- Khoản 3: Bổ sung cụm từ “về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm” để làm rõ thẩm quyền các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin.
|
Điều 18. Bảo đảm tính minh bạch của pháp nhân và thỏa thuận ủy quyền
1. Sở giao dịch chứng khoán phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp niêm yết.
2. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải lưu giữ và cập nhật thông tin cơ bản về cơ cấu tổ chức, người sáng lập, chủ sở hữu hưởng lợi của các doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán.
|
Điều 22. Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý
1. Trách nhiệm của bên nhận uỷ thác là tổ chức, cá nhân trong thỏa thuận pháp lý:
a) Thu thập, cập nhật các thông tin về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có), cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác và có trách nhiệm cung cấp các thông tin này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; các thông tin phải được lưu trữ ít nhất 05 năm sau khi ngừng tham gia vào hoạt động ủy thác;
|
Đều khoản này được tách ra từ Điều 18 Luật phòng, chống rửa tiền 2012 như đã đề cập ở trên. Điều 22 dự thảo về “Minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý” nhằm đáp ứng yêu cầu tại Khuyến nghị 25 của FATF về “Tính minh bạch và quyền sở hữu hưởng lợi của thỏa thuận pháp lý”. Cụ thể:
- Điểm a Khoản 1 quy định yêu cầu người nhận ủy thác là cá nhân, tổ chức trong thỏa thuận pháp lý phải thu thập, cập nhật và lưu giữ thông tin về các bên tham gia ủy thác, cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác và cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu nhằm đáp ứng tiêu chí 25.1a,b, 25.2, 25.4 Khuyến nghị 25 của FATF.
|
|
b) Cung cấp cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan các thông tin quy định tại điểm a Khoản này và văn bản ủy thác khi thiết lập mối quan hệ khách hàng với tổ chức nêu trên liên quan đến tài sản được uỷ thác.
|
- Điểm b Khoản 1 quy định yêu cầu người nhận ủy thác khai báo với tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan thông tin về tham gia thỏa thuận pháp lý khi thiết lập mối quan hệ với tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính nhằm đáp ứng tiêu chí 25.3 và các thiếu hụt được đánh giá tại tiêu chí 25.3 Khuyến nghị 25 của FATF.
|
3. Tổ chức, cá nhân cung cấp các dịch vụ pháp lý về soạn thảo thỏa thuận ủy quyền cho khách hàng phải lưu giữ, duy trì và cập nhật thông tin về thỏa thuận ủy quyền và chủ sở hữu hưởng lợi theo thỏa thuận đó.
|
2. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải thực hiện nhận biết và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 9, 10, 11, 12 của Luật này đối với những cá nhân, tổ chức liên quan đến uỷ thác theo quy định tại khoản 1 Điều này.
|
- Khoản 2 quy định trách nhiệm của tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải thực hiện nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng tham gia thỏa thuận pháp lý nhằm đáp ứng tiêu chí 10.9 Khuyến nghị 10 của FATF – Xác minh thông tin khách hàng.
|
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về phòng, chống rửa tiền có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này cung cấp thông tin.
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức quy định tại khoản 1, 2 Điều này cung cấp thông tin.
|
- Khoản 3: Bổ sung cụm từ “về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm” để làm rõ thẩm quyền các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin.
|
1. Các tổ chức phi lợi nhuận được thành lập hoặc hoạt động tại Việt Nam phải duy trì, cập nhật hồ sơ có đầy đủ các thông tin về tổ chức, cá nhân tài trợ; tổ chức, cá nhân tiếp nhận tài trợ; số tiền tài trợ và mục đích sử dụng tiền tài trợ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này phải được lưu trữ đầy đủ và cung cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu.
|
Điều 23. Minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận
1. Các tổ chức phi lợi nhuận phải lưu trữ, cập nhật hồ sơ về tổ chức, cá nhân tài trợ và tổ chức, cá nhân tiếp nhận tài trợ có đầy đủ các thông tin sau:
a) Thông tin về tổ chức, cá nhân tài trợ: Tên đầy đủ; địa chỉ; số tiền tài trợ và các thông tin khác (nếu có);
b) Thông tin về tổ chức, cá nhân tiếp nhận tài trợ: Tên đầy đủ; địa chỉ; số tiền tài trợ; phương thức tài trợ và mục đích sử dụng tiền tài trợ và các thông tin khác (nếu có).
2. Tổ chức phi lợi nhuận phải lưu trữ ít nhất 05 năm kể từ thời điểm hoạt động tài trợ hoặc tiếp nhận tài trợ kết thúc đối với:
a) Thông tin được quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Chứng từ, tài liệu liên quan tới việc tài trợ và tiếp nhận tài trợ.
3. Trường hợp tổ chức phi lợi nhuận giải thể hoặc kết thúc hoạt động, hồ sơ nêu tại khoản 2 Điều này phải được bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền quản lý đối với tổ chức phi lợi nhuận đó.
|
- Sửa đổi, bổ sung các quy định chi tiết liên quan đến các hoạt động tiếp nhận tài trợ của tổ chức phi lợi nhuận nhằm phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Các nội dung này được luật hóa từ các quy định chi tiết tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP.
|
|
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu tổ chức quy định tại khoản 1, 2 Điều này cung cấp thông tin.
|
- Khoản 4: Bổ sung để làm rõ thẩm quyền các cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu cung cấp thông tin.
|
Điều 20. Xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Căn cứ vào các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng;
|
Mục 2. TRÁCH NHIỆM XÂY DỰNG QUY ĐỊNH NỘI BỘ VÀ BÁO CÁO, CUNG CẤP, LƯU TRỮ HỒ SƠ, THÔNG TIN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Điều 24. Quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền
1. Đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền với những nội dung chính sau đây:
a) Chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng khi đối tượng báo cáo không thể hoàn thành việc nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và các nội dung khác;
|
Sửa đổi tên mục để bao quát các điều khoản quy định tại mục này
Sửa đổi Điều này nhằm khắc phục những thiếu hụt được chỉ ra tại báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan đến Khuyến nghị số 18 về Kiểm soát nội bộ, chi nhánh nước ngoài và công ty con của FATF. Cụ thể:
+ Điểm a: bổ sung “nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh với khách hàng …’ trong chính sách chấp nhận khách hàng nhằm khắc phục thiếu hụt được chỉ ra tại báo cáo đánh giá đa phương của APG liên quan đến tiêu chí 10.19 Khuyến nghị số 10 của FATF về Xác minh thông tin khách hàng.
|
b) Quy trình, thủ tục nhận biết khách hàng, xác minh và cập nhật thông tin khách hàng;
|
b) Quy trình, thủ tục nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng;
|
|
|
c) Chính sách, quy trình quản lý rủi ro quy định tại khoản 1 Điều 16, khoản 2 Điều 19, khoản 3 Điều 27 Luật này và các nội dung khác;
|
+ Điểm c: bổ sung quy định yêu cầu đối tượng báo cáo phải ban hành quy định nội bộ có nội dung “Chính sách, quy trình quản lý rủi ro …” phù hợp với các quy định mới tại luật này yêu cầu đối tượng báo cáo thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền.
|
c) Giao dịch phải báo cáo;
d) Quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ;
đ) Lưu giữ và bảo mật thông tin;
e) Áp dụng biện pháp tạm thời, nguyên tắc xử lý trong các trường hợp trì hoãn thực hiện giao dịch;
g) Chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
|
d) Giao dịch phải báo cáo;
đ) Quy trình rà soát, phát hiện, xử lý và báo cáo giao dịch đáng ngờ; cách thức giao tiếp với khách hàng thực hiện giao dịch đáng ngờ;
e) Lưu trữ và bảo mật thông tin;
g) Áp dụng biện pháp tạm thời, nguyên tắc xử lý trong các trường hợp trì hoãn thực hiện giao dịch;
h) Chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
|
|
h) Bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;
|
i) Tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền;
|
+ Điểm i: bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải ban hành quy định về “Tuyển dụng nhân sự; đào tạo,…” nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 18.1 Khuyến nghị 18 của FATF.
|
i) Kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
|
k) Kiểm soát và kiểm toán nội bộ việc tuân thủ các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
|
|
2. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý có hiệu quả các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được phổ biến đến từng cá nhân, bộ phận có liên quan của đối tượng báo cáo.
|
2. Nội dung quy định nội bộ phải bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hoạt động có nghi ngờ liên quan tới rửa tiền; phù hợp cơ cấu tổ chức, quy mô hoạt động và mức độ rủi ro về rửa tiền trong hoạt động của đối tượng báo cáo và phải được áp dụng, phổ biến đến đại lý, chi nhánh, công ty con, cá nhân, bộ phận có liên quan của đối tượng báo cáo.
|
- Khoản 2: Bổ sung quy định “áp dụng, phổ biến đến đại lý, chi nhánh, công ty con của đối tượng báo cáo” nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị số 18 của FATF về Kiểm soát nội bộ, chi nhánh nước ngoài và công ty con.
|
3. Đối tượng báo cáo phải thường xuyên đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung phù hợp.
|
3. Hằng năm, đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung phù hợp.
|
- Khoản 3: bổ sung quy định về định kỳ “hằng năm” đối tượng báo cáo phải đánh giá quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền để sửa đổi, bổ sung phù hợp để phù hợp với yêu cầu khuyến nghị của FATF về việc nội dung quy định nội bộ cần phải được thường xuyên xem xét, cập nhật. Việc cụ thể hóa định kỳ “hằng năm” cũng đảm bảo rõ ràng, thuận lợi hơn cho quá trình triển khai, thực hiện của đối tượng báo cáo.
|
|
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định chi tiết Điều này.
|
- Khoản 4: do các nội dung tại Điều này mang tính kỹ thuật, dự thảo Luật bổ sung quy định giao NHNN ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết các nội dung quy định tại Điều này.
|
|
Điều 25. Báo cáo giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi thực hiện các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo.
2. Theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ quy định mức giao dịch giá trị lớn phải báo cáo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
|
Sửa tên điều phù hợp với tên gọi khái niệm đã được sửa đổi tại khoản 7 Điều 3 dự thảo luật. Giải thích từ ngữ.
|
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền. Báo cáo giao dịch đáng ngờ được thực hiện theo mẫu do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.
|
Điều 26. Báo cáo giao dịch đáng ngờ
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi nghi ngờ hoặc có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền theo quy định của Chính phủ.
|
- Khoản 1: bổ sung cụm từ “theo quy định của Chính phủ” theo đó giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết về nội dung cơ sở hợp lý để nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội mà có hoặc liên quan tới rửa tiền.
|
2. Các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản bao gồm:
a) Khách hàng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán;
b) Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính;
d) Số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan do khách hàng cung cấp không thể liên lạc được hoặc không có số này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch;
đ) Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo uỷ quyền của tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo;
e) Các giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo;
g) Các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân này;
h) Giao dịch của khách hàng thực hiện thông qua đối tượng báo cáo không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
|
2. Các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản bao gồm:
a) Khách hàng cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán;
b) Khách hàng thuyết phục đối tượng báo cáo không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính;
d) Số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan do khách hàng cung cấp không thể liên lạc được hoặc không tồn tại số điện thoại này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch;
đ) Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hoặc theo uỷ quyền của tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo;
e) Các giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới tổ chức, cá nhân có trong danh sách cảnh báo;
g) Các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với số tiền lớn không phù hợp với thu nhập, hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân này;
h) Giao dịch của khách hàng thực hiện thông qua đối tượng báo cáo không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
|
|
3. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm:
a) Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không;
b) Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo;
c) Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường;
d) Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt động kinh doanh;
đ) Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; tài khoản của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn;
e) Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu;
g) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
h) Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn;
i) Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng;
k) Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm, trừ trường hợp tổ chức tín dụng yêu cầu;
l) Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay, cho thuê tài chính hoặc uỷ thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch;
m) Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không rõ ràng, minh bạch.
|
3. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm:
a) Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không;
b) Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo;
c) Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn bất thường, tỷ lệ chiết khấu với giá trị cao so với bình thường;
d) Khách hàng mở nhiều tài khoản tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở khu vực địa lý khác nơi khách hàng cư trú, làm việc hoặc có hoạt động kinh doanh;
đ) Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; tài khoản của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn bất thường;
e) Chuyển số tiền lớn từ tài khoản của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu;
g) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chuyển tiền ra nước ngoài không phù hợp với hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được tiền từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
h) Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn;
i) Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng;
k) Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm, trừ trường hợp tổ chức tín dụng yêu cầu;
l) Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay, cho thuê tài chính hoặc uỷ thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch;
m) Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không rõ ràng, minh bạch;
n) Nghi ngờ hoặc có dấu hiệu nghi ngờ sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động công ty hoặc giao dịch giúp cho đối tượng cá nhân khác;
o) Các giao dịch trực tuyến qua tài khoản liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập, địa chỉ giao thức Internet (địa chỉ IP) ở nước ngoài.
|
- Khoản 3:
+ Sửa đổi cụm từ “có giá trị lớn bất thường” để phân biệt đối với các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo theo quy định tại dự thảo luật.
+ Bổ sung điểm n, o tại dự thảo luật để phù hợp với thực tiễn quá trình tiếp nhận báo cáo giao dịch đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng.
|
|
4. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trung gian thanh toán bao gồm:
a) Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên ví điện tử; tiền nạp vào và rút ra nhanh khỏi ví điện tử; doanh số giao dịch lớn trong ngày nhưng số dư ví điện tử rất nhỏ hoặc bằng không;
b) Khách hàng thường xuyên thực hiện nạp tiền nhiều lần với giá trị nhỏ vào một ví điện tử, sau đó thực hiện giao dịch chuyển tiền giá trị lớn sang ví điện tử khác hoặc thực hiện giao dịch rút tiền giá trị lớn về tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ của khách hàng tại ngân hàng hoặc ngược lại;
c) Các giao dịch chuyển tiền thường xuyên có giá trị nhỏ từ nhiều ví điện tử khác nhau về một ví điện tử hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển qua nhiều ví điện tử và các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; thực hiện nhiều giao dịch, mỗi giao dịch gần mức giá trị lớn phải báo cáo; ví điện tử phát sinh nhiều giao dịch chuyển tiền cho ví điện tử khác với thời gian khởi tạo giao dịch nhanh bất thường;
d) Ví điện tử của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý; ví điện tử của khách hàng không giao dịch đột nhiên nhận được một khoản tiền nạp vào có giá trị lớn bất thường;
đ) Giao dịch nạp tiền vào ví điện tử, rút tiền ra khỏi ví điện tử hay chuyển tiền giữa các ví điện tử được thực hiện bởi tổ chức hoặc cá nhân liên quan đến tội phạm tạo ra tài sản bất hợp pháp đã được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng;
e) Có cơ sở hợp lý để nghi ngờ khách hàng sử dụng ví điện tử cá nhân để thực hiện giao dịch liên quan đến hoạt động của tổ chức hoặc giao dịch thay cho đối tượng cá nhân khác;
g) Khách hàng là đơn vị chấp nhận thanh toán vẫn phát sinh giao dịch mặc dù trang thông tin điện tử chính thức hoặc trụ sở của khách hàng này qua xác minh đã ngừng hoạt động;
h) Các giao dịch trực tuyến qua ví điện tử liên tục thay đổi về thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ giao thức Internet (địa chỉ IP).
i) Khách hàng thường xuyên sử dụng thiết bị đăng nhập hoặc địa chỉ IP ở nước ngoài để truy cập vào ví điện tử hoặc thực hiện giao dịch trên ví điện tử; khách hàng thường xuyên sử dụng một thiết bị đăng nhập hoặc một địa chỉ IP để thực hiện giao dịch trên nhiều ví điện tử (không cùng một chủ ví điện tử).
|
- Khoản 4: bổ sung dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trung gian thanh toán phù hợp với việc bổ sung đối tượng báo cáo tại khoản 3 Điều 3 dự thảo luật.
|
4. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
a) Khách hàng yêu cầu mua một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn hoặc yêu cầu thanh toán trọn gói phí bảo hiểm một lần đối với các sản phẩm bảo hiểm không áp dụng hình thức thanh toán trọn gói, trong khi những hợp đồng bảo hiểm hiện tại của khách hàng chỉ có giá trị nhỏ và thanh toán định kỳ;
b) Khách hàng yêu cầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với khoản phí bảo hiểm định kỳ không phù hợp với thu nhập hiện tại của khách hàng hoặc yêu cầu mua hợp đồng bảo hiểm liên quan đến công việc kinh doanh nằm ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng;
c) Người mua hợp đồng bảo hiểm và thanh toán từ tài khoản không phải là tài khoản của mình hoặc bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên;
d) Khách hàng yêu cầu thay đổi người thụ hưởng đã chỉ định hoặc bằng người không có mối quan hệ rõ ràng với người mua hợp đồng bảo hiểm;
đ) Khách hàng chấp nhận tất cả các điều kiện bất lợi không liên quan đến tuổi tác, sức khỏe của mình; khách hàng đề nghị mua bảo hiểm với mục đích không rõ ràng và miễn cưỡng cung cấp lý do tham gia bảo hiểm; điều kiện và giá trị hợp đồng bảo hiểm mâu thuẫn với nhu cầu của khách hàng;
e) Khách hàng hủy hợp đồng bảo hiểm ngay sau khi mua và yêu cầu chuyển tiền cho bên thứ ba; khách hàng thường xuyên tham gia bảo hiểm và nhượng lại hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba;
g) Khách hàng là doanh nghiệp có số lượng hợp đồng bảo hiểm cho nhân viên hoặc mức phí bảo hiểm của hợp đồng đóng phí một lần tăng bất thường;
h) Doanh nghiệp bảo hiểm thường xuyên chi trả bảo hiểm với số tiền lớn cho cùng một khách hàng.
|
5. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ bao gồm:
a) Khách hàng yêu cầu mua một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn bất thường hoặc yêu cầu thanh toán trọn gói phí bảo hiểm một lần đối với các sản phẩm bảo hiểm không áp dụng hình thức thanh toán trọn gói, trong khi những hợp đồng bảo hiểm hiện tại của khách hàng chỉ có giá trị nhỏ và thanh toán định kỳ;
b) Khách hàng yêu cầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với khoản phí bảo hiểm định kỳ không phù hợp với thu nhập hiện tại của khách hàng hoặc yêu cầu mua hợp đồng bảo hiểm liên quan đến công việc kinh doanh nằm ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng;
c) Bên mua bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm từ tài khoản không phải là tài khoản của bên mua bảo hiểm, tài khoản của tổ chức, cá nhân được bên mua hợp đồng bảo hiểm ủy quyền; hoặc thanh toán bằng các công cụ chuyển nhượng không ghi tên;
d) Khách hàng yêu cầu thay đổi người thụ hưởng đã chỉ định hoặc bằng người không có mối quan hệ rõ ràng với người mua hợp đồng bảo hiểm;
đ) Khách hàng chấp nhận tất cả các điều kiện bất lợi không liên quan đến tuổi tác, sức khỏe của mình; khách hàng đề nghị mua bảo hiểm với mục đích không rõ ràng và miễn cưỡng cung cấp lý do tham gia bảo hiểm; điều kiện và giá trị hợp đồng bảo hiểm mâu thuẫn với nhu cầu của khách hàng;
e) Khách hàng hủy hợp đồng bảo hiểm ngay sau khi mua và yêu cầu chuyển tiền cho bên thứ ba; khách hàng thường xuyên tham gia bảo hiểm và nhượng lại hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba;
g) Khách hàng là doanh nghiệp có số lượng hợp đồng bảo hiểm cho nhân viên hoặc mức phí bảo hiểm của hợp đồng đóng phí một lần tăng bất thường;
h) Doanh nghiệp bảo hiểm thường xuyên chi trả bảo hiểm với số tiền lớn cho cùng một khách hàng.
|
- Khoản 5:
+ Sửa đổi cụm từ “có giá trị lớn bất thường” để phân biệt đối với các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo theo quy định tại dự thảo luật.
+ Điểm c: sửa đổi để phù hợp với thực tiễn phát sinh các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ mà NHNN qua quá trình tiếp nhận, thu thập, phân tích thông tin báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các đối tượng báo cáo có được thông tin.
|
5. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm:
a) Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số ngày do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện;
b) Khách hàng thực hiện chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà không có lý do hợp lý;
c) Công ty chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh doanh chứng khoán;
d) Người không cư trú chuyển số tiền lớn từ tài khoản giao dịch chứng khoán ra khỏi Việt Nam;
đ) Khách hàng thường xuyên bán danh mục đầu tư và đề nghị công ty chứng khoán thanh toán bằng tiền mặt hoặc séc;
e) Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán bằng tiền mặt hoặc séc trong khoảng thời gian ngắn hoặc sẵn sàng đầu tư vào các danh mục chứng khoán không có lợi;
g) Tài khoản chứng khoán của khách hàng không hoạt động trong một thời gian dài nhưng đột nhiên được đầu tư lớn không phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng;
h) Giao dịch mua, bán chứng khoán có nguồn tiền từ các quỹ đầu tư được mở ở các vùng lãnh thổ được các tổ chức quốc tế xếp loại là có nguy cơ rửa tiền cao.
|
6. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm:
a) Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số ngày do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện;
b) Công ty chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh doanh chứng khoán;
c) Người không cư trú chuyển số tiền lớn từ tài khoản giao dịch chứng khoán hoặc thanh lý các hợp đồng ủy thác đầu tư chứng khoán để chuyển tiền ra khỏi Việt Nam;
d) Khách hàng thường xuyên bán tất cả cổ phiếu trong danh mục đầu tư và đề nghị công ty chứng khoán ký ủy nhiệm chi để khách hàng rút tiền mặt từ ngân hàng thương mại;
đ) Khách hàng đầu tư bất thường vào nhiều loại chứng khoán không có lợi trong khoảng thời gian ngắn;
e) Tài khoản chứng khoán của khách hàng không hoạt động trong một thời gian dài nhưng đột nhiên được đầu tư lớn không phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng;
g) Giao dịch mua, bán chứng khoán có nguồn tiền từ các quỹ đầu tư được mở ở các vùng lãnh thổ được các tổ chức quốc tế xếp loại là có nguy cơ rửa tiền cao.
h) Nhà đầu tư nước ngoài cư trú ở quốc gia, vùng lãnh thổ có rủi ro cao về rửa tiền góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán tại Việt Nam.
|
- Khoản 6: bỏ điểm b, sửa đổi điểm d, đ, e khoản 5 Điều 22 Luật PCRT năm 2012, bổ sung điểm h để phù hợp với quy định pháp luật về lĩnh vực chứng khoán.
|
6. Dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trò chơi có thưởng, casino bao gồm:
a) Khách hàng có dấu hiệu liên tục cố tình thua tại casino;
b) Khách hàng đổi số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn tại casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng nhưng không tham gia chơi hoặc chơi với số lượng rất nhỏ sau đó đổi lại thành tiền mặt hoặc séc, hối phiếu ngân hàng hoặc chuyển tiền đến tài khoản khác;
c) Khách hàng yêu cầu chuyển tiền thắng cược, trúng thưởng cho bên thứ ba không có mối quan hệ rõ ràng với khách hàng hoặc khi bên thứ ba không có nơi thường trú cùng với khách hàng;
d) Khách hàng bổ sung tiền mặt hoặc séc vào số tiền thắng cược, trúng thưởng và yêu cầu casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng chuyển thành séc có giá trị lớn;
đ) Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng đổi số lượng đồng tiền quy ước thành tiền mặt;
e) Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu bên thứ ba đổi hộ số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn và nhờ bên thứ ba chơi cá cược hộ;
g) Khách hàng nhiều lần trong một ngày mua vé xổ số, vé đặt cược, đổi đồng tiền quy ước ở gần mức giới hạn giao dịch có giá trị lớn;
h) Khách hàng mua lại vé số trúng thưởng có giá trị lớn từ người khác.
|
7. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trò chơi có thưởng bao gồm:
a) Khách hàng có dấu hiệu liên tục cố tình thua tại tổ chức kinh doanh trò chơi có thưởng;
b) Khách hàng đổi số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn bất thường tại casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng nhưng không tham gia chơi hoặc chơi với số lượng rất nhỏ sau đó đổi lại thành tiền mặt hoặc séc, hối phiếu ngân hàng hoặc chuyển tiền đến tài khoản khác;
c) Khách hàng yêu cầu chuyển tiền thắng cược, trúng thưởng cho bên thứ ba không có mối quan hệ rõ ràng với khách hàng hoặc khi bên thứ ba không có nơi thường trú cùng với khách hàng;
d) Khách hàng bổ sung tiền mặt hoặc séc vào số tiền thắng cược, trúng thưởng và yêu cầu điểm kinh doanh trò chơi có thưởng chuyển thành séc có giá trị lớn bất thường;
đ) Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu casino, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng đổi số lượng đồng tiền quy ước thành tiền mặt;
e) Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu bên thứ ba đổi hộ số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn bất thường và nhờ bên thứ ba đặt cược hộ;
g) Khách hàng nhiều lần trong một ngày mua vé xổ số, vé đặt cược, đổi đồng tiền quy ước ở gần mức giới hạn giao dịch có giá trị lớn bất thường;
h) Khách hàng mua lại vé số trúng thưởng có giá trị lớn từ người khác.
|
- Khoản 7:
+ Sửa đổi điểm a cụm từ “casino” thành “tổ chức kinh doanh trò chơi có thưởng” để phù hợp với điểm a khoản 4 Điều 3.
+ Sửa đổi cụm từ “có giá trị lớn bất thường” để phân biệt đối với các giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo theo quy định tại dự thảo luật.
|
7. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản bao gồm:
a) Các giao dịch bất động sản là giao dịch ủy quyền nhưng không có cơ sở pháp lý;
b) Khách hàng không quan tâm đến giá bất động sản, phí giao dịch phải trả;
c) Khách hàng không cung cấp được các thông tin liên quan tới bất động sản hoặc không muốn cung cấp bổ sung thông tin về nhân thân;
d) Giá thỏa thuận giữa các bên giao dịch không phù hợp giá thị trường.
|
8. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản bao gồm:
a) Các giao dịch bất động sản là giao dịch ủy quyền nhưng không có cơ sở pháp lý;
b) Khách hàng không quan tâm đến giá bất động sản, phí giao dịch phải trả;
c) Khách hàng không cung cấp được các thông tin liên quan tới bất động sản hoặc không muốn cung cấp bổ sung thông tin về nhân thân;
d) Giá thỏa thuận giữa các bên giao dịch không phù hợp giá thị trường.
|
|
8. Trong thực tế hoạt động, nếu phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu cơ bản nêu trên, đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ quy định bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này.
|
9. Khi phát hiện dấu hiệu đáng ngờ ngoài các dấu hiệu nêu trên, đối tượng báo cáo, các bộ, ngành có liên quan thông báo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ yêu cầu của công tác phòng, chống rửa tiền trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực.
|
- Khoản 9:
+ Bỏ cụm từ “cơ bản” để chuẩn hóa từ ngữ, tránh nhầm lẫn với cụm từ “các dấu hiệu đáng ngờ cơ bản” theo quy định tại Khoản 2.
+ Bổ sung “các bộ, ngành có liên quan thông báo”: thông tin từ các bộ, ngành liên quan là một trong các cơ sở để NHNN trình Chính phủ bổ sung dấu hiệu giao dịch đáng ngờ mới phát sinh của các ngành, lĩnh vực bên cạnh thông tin từ các đối tượng báo cáo.
|
Đối tượng báo cáo khi cung ứng dịch vụ chuyển tiền điện tử có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Điều 27. Giao dịch chuyển tiền điện tử
1. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi thực hiện các giao dịch chuyển tiền điện tử vượt quá mức giá trị theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Sửa tên điều phù hợp với nội hàm quy định.
|
|
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan đến giao dịch chuyển tiền điện tử phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
|
- Bổ sung Khoản 2 tại dự thảo luật giao cho NHNN hướng dẫn. Các nội dung về chuyển tiền điện tử mang tính kỹ thuật và thay đổi trong từng thời kỳ, việc giao hướng dẫn chi tiết sẽ đảm bảo được tính linh hoạt trong quá trình triển khai thực hiện, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong từng thời kỳ.
|
|
3. Đối tượng báo cáo tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc xem xét, báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
|
- Bổ sung Khoản 3 tại dự thảo luật để khắc phục thiếu hụt được APG chỉ ra tại tiêu chí 16.1, 16.2, 16.3 Khuyến nghị 16 của FATF về Chuyển tiền điện tử.
|
1. Cá nhân khi nhập cảnh, xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng trên mức quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải khai báo hải quan.
|
Điều 28. Khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
1. Cá nhân khi nhập cảnh, xuất cảnh mang theo ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng trên mức quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải khai báo hải quan hoặc khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển nơi không có cơ quan hải quan.
|
+ Khoản 1: bổ sung đơn vị có trách nhiệm tiếp nhận thông tin khai báo hải quan trong trường hợp nơi khai báo không có cơ quan hải quan thì khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển để phù hợp quy định của Luật Hải quan năm 2014.
|
2. Cơ quan Hải quan có trách nhiệm cung cấp thông tin thu thập được quy định tại khoản 1 Điều này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
2. Cơ quan hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển có trách nhiệm thu thập, lưu trữ các thông tin khai báo quy định tại khoản 1 Điều này và cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi có yêu cầu hoặc khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
|
+ Khoản 2: quy định trách nhiệm của Hải quan, Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển phải lưu trữ thông tin thu thập được tại khoản 1 và cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và NHNN khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, TTKB, TTPBVKHD. Quy định này nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan hải quan là đơn vị chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của cá nhân khi xuất, nhập cảnh và có khả năng nắm giữ, thu thập được nhiều thông tin quan trọng để cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, góp phần quan trọng trong công tác phòng, chống rửa tiền. Đồng thời, việc sửa đổi này nhằm phù hợp với điểm 5c Mục C diễn giải Khuyến nghị số 32 của FATF về Vận chuyển tiền mặt.
|
1. Đối tượng báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử hoặc báo cáo bằng văn bản khi chưa thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin tương thích phục vụ cho yêu cầu gửi tệp dữ liệu điện tử đối với các báo cáo được quy định tại các điều 21, 22 và 23 của Luật này theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Trong trường hợp cần thiết, đối tượng báo cáo có thể báo cáo qua fax, điện thoại, thư điện tử, nhưng phải bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu thông tin báo cáo và phải xác nhận lại bằng một trong hai hình thức quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải gửi kèm hồ sơ mở tài khoản đối với các giao dịch thực hiện thông qua tài khoản, thông tin nhận biết khách hàng, các chứng từ và tài liệu khác liên quan đến giao dịch đáng ngờ, các biện pháp phòng ngừa đã thực hiện.
|
Điều 29. Hình thức báo cáo
1. Đối tượng báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử hoặc báo cáo bằng văn bản khi chưa thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin tương thích phục vụ cho yêu cầu gửi tệp dữ liệu điện tử đối với các báo cáo được quy định tại Điều 25, 26 và 27 của Luật này theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Trong trường hợp cần thiết, đối tượng báo cáo có thể báo cáo qua fax, điện thoại, thư điện tử nhưng phải bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu thông tin báo cáo và phải xác nhận lại bằng một trong hai hình thức quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải gửi kèm hồ sơ mở tài khoản đối với các giao dịch thực hiện thông qua tài khoản, thông tin nhận biết khách hàng, các chứng từ và tài liệu khác liên quan đến giao dịch đáng ngờ, các biện pháp phòng ngừa đã thực hiện.
|
Khoản 1: Sửa các điều tham chiếu theo các điều tại dự thảo Luật mới.
|
1. Đối với giao dịch có giá trị lớn và giao dịch chuyển tiền điện tử, đối tượng báo cáo phải:
a) Báo cáo hàng ngày đối với hình thức báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử;
b) Báo cáo trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo bằng văn bản hoặc các hình thức báo cáo khác.
|
Điều 30. Thời hạn báo cáo
1. Đối với báo cáo giao dịch tiền mặt có giá trị lớn phải báo cáo và báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử theo quy định tại Điều 25, 27 Luật này, đối tượng báo cáo phải:
a) Báo cáo hàng ngày trong trường hợp phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo gửi tệp dữ liệu điện tử;
b) Báo cáo trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày phát sinh giao dịch đối với hình thức báo cáo bằng văn bản.
|
- Khoản 1: bổ sung điều khoản tham chiếu tại dự thảo luật để đảm bảo rõ ràng nội dung của quy định.
Đồng thời tại điểm a khoản 1 bổ sung cụm từ “trong trường hợp phát sinh giao dịch”, theo đó đối tượng báo cáo chỉ phải thực hiện báo cáo khi có phát sinh giao dịch.
|
2. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải báo cáo trong thời gian tối đa là 48 giờ, kể từ thời điểm phát sinh giao dịch; trường hợp phát hiện giao dịch do khách hàng yêu cầu có dấu hiệu liên quan đến tội phạm thì phải báo cáo ngay cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
2. Đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, đối tượng báo cáo phải báo cáo trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh giao dịch hoặc 01 ngày làm việc kể từ ngày phát hiện giao dịch đáng ngờ. Ngày phát hiện dấu hiệu đáng ngờ được tính là ngày đối tượng báo cáo chủ động phát hiện hoặc buộc phải phát hiện được dấu hiệu đáng ngờ xét theo hoàn cảnh thực tế khách quan diễn ra giao dịch đáng ngờ.
Trường hợp phát hiện giao dịch do khách hàng yêu cầu có dấu hiệu liên quan đến tội phạm thì phải báo cáo trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm phát hiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 2: sửa đổi quy định theo ngày làm việc thay vì theo giờ nhằm khắc phục vướng mắc của đối tượng báo cáo trong quá trình thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ; quy định cụ thể về xác định “ngày phát hiện dấu hiệu đáng ngờ”. Nội dung các quy định này được luật hóa từ quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP.
|
Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ giao dịch của khách hàng ít nhất 05 năm, kể từ ngày phát sinh giao dịch; hồ sơ về nhận biết khách hàng, chứng từ kế toán và các báo cáo quy định tại các điều 21, 22 và 23 của Luật này kèm chứng từ, tài liệu liên quan ít nhất 05 năm, kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo.
|
Đối tượng báo cáo có trách nhiệm lưu trữ:
1. Hồ sơ, thông tin nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định tại Điều 10, 11, 12 của Luật này; kết quả phân tích, đánh giá của đối tượng báo cáo đối với khách hàng, giao dịch phải báo cáo; các hồ sơ, thông tin khác liên quan đến khách hàng, giao dịch phải báo cáo ít nhất 05 năm kể từ ngày kết thúc giao dịch hoặc ngày đóng tài khoản hoặc ngày báo cáo.
2. Báo cáo giao dịch theo quy định tại Điều 25, 26 và 27 của Luật này và các hồ sơ, thông tin kèm theo giao dịch báo cáo ít nhất 05 năm kể từ ngày phát sinh giao dịch.
|
Sửa đổi, bổ sung làm rõ các loại thông tin, tài liệu cần lưu trữ, đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị số 11 của FATF về “Lưu trữ hồ sơ”.
|
1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, tài liệu lưu trữ và các thông tin liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật này hoặc khi được yêu cầu.
|
1. Đối tượng báo cáo phải cung cấp kịp thời hồ sơ, thông tin theo quy định tại Điều 31 của Luật này cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ.
|
- Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định về các loại thông tin được lưu giữ tại khoản 1 Điều 31 dự thảo Luật và bổ sung thẩm quyền quy định chi tiết Khoản này.
|
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ báo cáo hoặc cung cấp thông tin theo quy định của Luật này không bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo đảm bí mật tiền gửi, tài sản gửi, thông tin về tài khoản, thông tin về giao dịch của khách hàng.
|
2. Đối tượng báo cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ báo cáo hoặc cung cấp thông tin theo quy định của Luật này không bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin.
|
- Khoản 2: Sửa đổi chuẩn hóa từ ngữ
|
1. Thông tin, chứng từ và tài liệu khác liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này được bảo quản theo chế độ mật và chỉ được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
|
1. Đối tượng báo cáo phải tuân thủ quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước và bảo mật thông tin nhận biết khách hàng theo quy định của pháp luật có liên quan đối với hồ sơ thông tin và tài liệu liên quan đến các giao dịch phải báo cáo theo quy định của Luật này.
|
- Khoản 1: Sửa đổi, làm rõ quy định về bảo mật thông tin. Cụ thể, theo quy định tại khoản 25 Điều 3 Quyết định 2182/QĐ-TTg ngày 21/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục bí mật nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng: “Thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về phòng, chống rửa tiền: phòng, chống tài trợ khủng bố về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.” mới là thông tin mật. Hồ sơ thông tin và tài liệu liên quan đến thông tin nhận biết khách hàng thực hiện bảo mật theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
|
2. Đối tượng báo cáo không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
2. Đối tượng báo cáo bao gồm cả người quản lý, người lao động không được tiết lộ thông tin về việc đã báo cáo giao dịch đáng ngờ hoặc các thông tin có liên quan đến giao dịch đáng ngờ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 2: Bổ sung cụm từ “bao gồm cả người quản lý, người lao động” để bao gồm trách nhiệm của cá nhân có liên quan ngoài tổ chức báo cáo nhằm đáp ứng yêu cầu của tiêu chí 21.2 Khuyến nghị số 21 của FATF về Tiết lộ thông tin và tính bảo mật.
|
1. Đối tượng báo cáo có nghĩa vụ báo cáo kịp thời cho cơ quan phòng, chống khủng bố có thẩm quyền, đồng thời gửi báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi phát hiện tổ chức, cá nhân thực hiện giao dịch nằm trong danh sách đen hoặc khi có căn cứ cho rằng tổ chức, cá nhân khác thực hiện hành vi có liên quan đến tội phạm rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố.
2. Căn cứ vào quy định của Luật này và pháp luật về phòng, chống khủng bố, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định thực hiện báo cáo tại khoản 1 Điều này.
|
Bỏ Điều này.
|
Bỏ Điều này vì dự thảo luật khoản 3 Điều 54 đã sửa đổi các điều 34, 35 tại Luật phòng, chống khủng bố 2013 trong đó quy định nghĩa vụ các đối tượng báo cáo trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa PCTTKB theo quy định của pháp luật PCRT.
|
|
Mục 3. THU THẬP, XỬ LÝ, PHÂN TÍCH VÀ CHUYỂN GIAO THÔNG TIN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
Điều 34. Thu thập, xử lý và phân tích thông tin phòng, chống rửa tiền
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp hồ sơ, thông tin, tài liệu cần thiết cho việc phân tích, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền, hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo quy định của Luật này.
|
Sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn triển khai công tác thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền tại NHNN. Cụ thể:
- Bổ sung Khoản 1 quy định thẩm quyền yêu cầu tổ chức cá nhân liên quan cung cấp hồ sơ, thông tin, tài liệu cần thiết cho việc phân tích, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền và hợp tác quốc tế về phòng chống rửa tiền theo quy định của Luật này.
|
1. Tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông tin, tài liệu, hồ sơ về các giao dịch và các thông tin khác theo quy định của Luật này nhằm phục vụ cho việc phân tích, chuyển giao thông tin.
|
2. Tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hồ sơ, thông tin, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này.
|
- Sửa đổi khoản 1 Luật PCRT 2012 thành khoản 2 tại dự thảo luật và chỉnh sửa phù hợp với quy định tại khoản 1 dự thảo luật.
|
2. Thông tin có được từ việc xử lý thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều này là thông tin mật phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
|
|
- Khoản 2 Luật PCRT 2012: Nội dung khoản này đã được chỉnh sửa và đưa vào quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 3 Điều 36 để đảm bảo rõ ràng và phù hợp với quy định tại khoản 25 Điều 3 Quyết định 2182/QĐ-TTg ngày 21/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục bí mật nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, “Thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về phòng, chống rửa tiền: phòng, chống tài trợ khủng bố về phòng, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.” mới là thông tin mật.
|
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin.
|
- Bổ sung khoản 3 nhằm giao NHNN hướng dẫn về việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin.
|
1. Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra có thẩm quyền.
|
Điều 35. Chuyển giao, trao đổi thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước
1. Khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền, trong thời hạn 10 ngày làm việc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm chuyển giao thông tin hoặc hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền là thông tin mật.
|
- Khoản 1: Bổ sung thời hạn chuyển giao thông tin là “10 ngày làm việc” khi có cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch được nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền; sửa đổi quy định NHNN có trách nhiệm “chuyển giao thông tin, hồ sơ vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền để phục vụ việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm”. Việc sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT của NHNN với các cơ quan có thẩm quyền trong nước. Đồng thời, quy định này cũng nhằm đáp ứng một phần yêu cầu tại khuyến nghị số 29 của FATF về “Đơn vị tình báo tài chính”.
Bổ sung quy định về các thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền là thông tin mật để đảm bảo nhất quán với quy định tại Điều 7 Luật bảo vệ bí mật nhà nước và yêu cầu thực tiễn công tác chuyển giao thông tin của NHNN.
|
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền.
|
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
|
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trao đổi thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
|
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trao đổi thông tin với các bộ, ngành liên quan nhằm mục đích phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
|
- Bổ sung khoản 4 về thẩm quyền quy định chi tiết của Chính phủ đối với các nội dung: cơ sở hợp lý để nghi ngờ giao dịch nêu trong thông tin, báo cáo liên quan đến rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền khi tiếp nhận thông tin chuyển giao từ NHNN.
|
Điều luật mới.
|
Điều 36. Trao đổi, chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi yêu cầu tới cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để thu thập bổ sung thông tin phục vụ cho việc xử lý, phân tích và chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền; tiếp nhận thông tin phản hồi, thông tin chuyển giao của cơ quan phòng, chống rửa tiền và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và xử lý thông tin nhận được theo quy định của Luật này.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp nhận yêu cầu đề nghị cung cấp thông tin từ cơ quan có thẩm quyền nước ngoài với mục đích phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền và cung cấp thông tin phản hồi.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển giao thông tin cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài theo quy định của Luật này.
Thông tin giao dịch đáng ngờ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài là thông tin mật.
|
Việc bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT tại NHNN với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Đồng thời, quy định này cũng nhằm đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị số 29 của FATF về “Đơn vị tình báo tài chính” – trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, góp phần hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền đang ngày càng có xu hướng gia tăng trên toàn thế giới.
|
Mục 4. ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
|
Mục 4. ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI
|
|
1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch khi các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội và phải báo cáo ngay bằng văn bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
|
Điều 37. Trì hoãn giao dịch
1. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch trong các trường hợp sau:
a) Ngay khi nghi ngờ hoặc phát hiện các bên liên quan tới giao dịch thuộc danh sách đen hoặc có lý do để tin rằng giao dịch được yêu cầu thực hiện có liên quan đến hoạt động phạm tội;
b) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan;
2. Khi thực hiện biện pháp trì hoãn, đối tượng báo cáo phải báo cáo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 1:
+ Điểm a: bổ sung cụm từ “ngay khi phát hiện” để đảm bảo tính kịp thời và phù hợp với yêu cầu của tiêu chí 6.5 a Khuyến nghị 6 - Xử phạt tài chính mục tiêu liên quan đến khủng bố và tài trợ khủng bố của FATF. Đồng thời, trên thực tế việc áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch khi có liên quan đến các đối tượng thuộc danh sách đen (cá nhân, tổ chức khủng bố hoặc liên quan tới khủng bố, PBVKHDHL) hoặc tội phạm đều là những trường hợp cần phải có các biện pháp ngay lập tức để ngăn chặn trong đó có việc phong tỏa tài khoản (trì hoãn giao dịch là biện pháp phong tỏa tài khoản tạm thời). Do vậy, đối tượng báo cáo phải thực hiện việc trì hoãn ngay khi phát hiện.
+ Điểm b: bổ sung quy định về việc thực hiện trì hoãn giao dịch theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan.
- Khoản 2: làm rõ trách nhiệm báo cáo của đối tượng báo cáo khi thực hiện trì hoãn giao dịch, nội dung này đã được quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 33 Luật PCRT năm 2012.
|
2. Thời hạn áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu áp dụng.
|
3. Thời hạn áp dụng biện pháp trì hoãn giao dịch không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày bắt đầu áp dụng.
|
|
3. Đối tượng báo cáo có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam việc thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
|
4. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1, 2 Điều này.
|
- Bổ sung Khoản 4 giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết nội dung điểm a khoản 1 và về cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này.
|
Điều 34. Phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản
Đối tượng báo cáo phải thực hiện phong tỏa tài khoản hoặc áp dụng biện pháp niêm phong hoặc tạm giữ tài sản của các cá nhân, tổ chức khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và báo cáo việc thực hiện cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Điều 38. Phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản
Đối tượng báo cáo phải thực hiện phong tỏa tài khoản hoặc tạm giữ tài sản của các cá nhân, tổ chức khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
|
Quy trình thủ tục thực hiện phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản được thực hiện theo bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự để phục vụ cho cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án. Qua thực tiễn tiếp nhận thông tin này cho thấy không có nhiều ý nghĩa trong quá trình phân tích, xử lý và chuyển giao thông tin phòng, chống rửa tiền của NHNN. Theo đó, bỏ quy định gửi báo cáo cho NHNN nhằm giảm tải khối lượng tài liệu lưu giữ và giảm trách nhiệm báo cáo cáo của đối tượng báo cáo.
|
Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
|
Bỏ Điều này.
|
Bỏ Điều này do các quy định về xử lý vi phạm đã được quy định tại các văn bản pháp luật khác liên quan (Bộ luật hình sự, các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính).
|
Chương III. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
|
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, chiến lược về phòng, chống rửa tiền.
3. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác phòng, chống rửa tiền; phối hợp công tác phòng, chống rửa tiền và công tác phòng, chống tài trợ khủng bố.
|
Điều 39. Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, chiến lược về phòng, chống rửa tiền.
3. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác phòng, chống rửa tiền; phối hợp công tác phòng, chống rửa tiền và công tác phòng, chống tài trợ khủng bố.
|
Giữ nguyên nội dung quy định tại Luật PCRT năm 2012
|
1. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, kế hoạch về phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 40. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, kế hoạch về phòng, chống rửa tiền.
|
Việc sửa đổi các điều khoản tại Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền, cụ thể:
|
3. Tổ chức đầu mối theo quy định của Chính phủ để thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về hành vi rửa tiền cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, hồ sơ về các giao dịch và các thông tin khác theo quy định của Luật này nhằm phục vụ việc phân tích, chuyển giao thông tin về hành vi rửa tiền.
|
3. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
|
- Khoản 3: bổ sung trách nhiệm NHNN trong phạm vi quản lý nhà nước, tổ chức triển khai các biện pháp PCRT trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, thống nhất với nhiệm vụ các bộ, ngành, cơ quan tổ chức triển khai các biện pháp PCRT thuộc phạm vi quản lý.
|
4. Thông báo kịp thời cho cơ quan phòng, chống khủng bố có thẩm quyền thông tin về hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố theo quy định của Luật này và pháp luật về phòng, chống khủng bố.
|
Bỏ khoản này
|
- Lý do bỏ khoản 4 Luật PCRT 2012: khoản 2 Điều 35 về Chuyển giao, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan có thẩm quyền trong nước đã quy định NHNN “có trách nhiệm phối hợp, trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm”.
|
5. Thanh tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối.
|
4. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
|
- Khoản 4: Sửa đổi, bổ sung để phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động PCRT trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo.
|
6. Hợp tác, trao đổi, cung cấp thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền; trao đổi thông tin với cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác theo quy định của pháp luật.
7. Thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền, làm đầu mối tham gia, triển khai thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách thành viên các tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
8. Đào tạo đội ngũ cán bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cơ quan khác của Chính phủ, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và cá nhân, tổ chức khác về phòng, chống rửa tiền.
|
5. Hợp tác, trao đổi, cung cấp thông tin với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên quan đến rửa tiền.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền theo quy định tại Điều 6 Luật này, làm đầu mối tham gia, triển khai thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách thành viên các tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
Bỏ khoản này
|
- Khoản 5: bỏ nội dung “trao đổi thông tin …theo quy định của pháp luật” tại khoản 6 Điều 37 Luật PCRT năm 2012 do đã có quy định tại khoản 2 Điều 6 dự thảo luật.
Lồng ghép nội dung quy định tại khoản này vào Khoản 8 mới của dự thảo luật.
|
9. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào công tác phòng, chống rửa tiền.
|
7. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào công tác phòng, chống rửa tiền.
|
|
10. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền và, truyền thông về chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống rửa tiền, triển khai công tác đào tạo về phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 8: Bổ sung trách nhiệm của NHNN trong việc truyền thông về chủ trương, chính sách pháp luật về phòng, chống rửa tiền do công tác truyền thông đóng vai trò quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCRT. Bổ sung nội dung “triển khai công tác đào tạo về phòng, chống rửa tiền”, nội dung này đã được quy định tại khoản 8 Luật PCRT 2012.
|
11. Tổng hợp thông tin, định kỳ hàng năm báo cáo Chính phủ về phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
|
9. Tổng hợp thông tin, định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
|
|
|
10. Chủ trì thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
- Khoản 10: Bổ sung trách nhiệm của NHNN trong việc đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền để phù hợp với quy định tại Điều 7 của dự thảo luật về Đánh giá rủi ro quốc gia và rủi ro ngành về rửa tiền.
|
|
11. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành liên quan đề xuất, chủ trì đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 11: Chuyển quy định tại khoản 1 Điều 48 Luật PCRT 2012 thành khoản 12 Điều này để đảm bảo thống nhất với kết cấu của dự thảo Luật.
|
|
12. Giám sát đối tượng báo cáo trong việc thực hiện báo cáo theo quy định tại Điều 25, 26, 27 Luật này; phối hợp cung cấp thông tin giám sát cho cơ quan thanh tra các Bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền.
|
- Khoản 12: Bổ sung nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác giám sát PCRT của NHNN. Việc giám sát PCRT giúp NHNN sớm nhận biết, nhận định được đối tượng báo cáo nào đang có nguy cơ rủi ro về rửa tiền để đưa ra các cảnh báo và phối hợp cung cấp thông tin cho cơ quan thanh tra các bộ, ngành để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền các đối tượng báo cáo tại khoản 3, 4 Điều 3 dự thảo luật.
|
1. Thu thập, tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm liên quan đến rửa tiền.
|
Điều 41. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Thu thập, tiếp nhận, xử lý thông tin đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền; thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
- Khoản 1: bổ sung cụm từ “đấu tranh phòng, chống tội phạm” để đảm bảo đầy đủ và cụm từ “thông báo kết quả xử lý có liên quan cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” để làm rõ hơn trách nhiệm của Bộ Công an theo khuyến nghị của APG sau đánh giá đa phương và phù hợp với thực tiễn triển khai.
|
2. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm về rửa tiền.
3. Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân thuộc danh sách đen quy định tại khoản 12 Điều 4 của Luật này.
5. Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
2. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm về rửa tiền.
3. Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Chủ trì lập danh sách tổ chức, cá nhân thuộc danh sách đen quy định tại khoản 13 Điều 3 của Luật này.
5. Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
- Khoản 4: Sửa điều khoản tham chiếu phù hợp với các điều, khoản tại dự thảo luật.
|
|
6. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các loại tội phạm nguồn có rủi ro cao theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
- Khoản 6: bổ sung nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Công an.
|
|
7. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi, chức năng nhiệm vụ được giao về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Chuyển quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật PCRT 2012 thành Khoản 7 điều này và quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao của Bộ Công an về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, trò chơi có thưởng, casino.
|
Điều 42. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
|
Việc sửa đổi, bổ sung nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Tài chính, cụ thể:
- Khoản 1: sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động trong phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, phù hợp với đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Tài chính, phù hợp với tên gọi được sửa đổi tại khoản 3, 4 Điều 3 dự thảo Luật.
|
2. Thanh tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, trò chơi có thưởng, casino.
|
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.
|
- Khoản 2: Việc sửa đổi, bổ sung phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động PCRT trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1. Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Tài chính.
|
3. Chỉ đạo cơ quan hải quan cung cấp thông tin thu thập được về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới theo quy định tại Điều 24 của Luật này.
|
3. Cung cấp thông tin thu thập được về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới theo quy định tại Điều 28 của Luật này.
|
- Sửa điều khoản tham chiếu phù hợp với dự thảo Luật PCRT sửa đổi.
|
|
4. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, dịch vụ kế toán, trò chơi có thưởng trừ trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
- Khoản 4: bổ sung nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Tài chính.
|
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
2. Thanh tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
|
Điều 43. Trách nhiệm của Bộ Xây dựng
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản trừ việc cho thuê, cho thuê lại bất động sản, dịch vụ tư vấn bất động sản theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
- Sửa đổi, bổ sung các lĩnh vực trong phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng, phù hợp với đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Xây dựng tại khoản 4 Điều 3 dự thảo luật.
- Việc sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Xây dựng nhằm phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động PCRT trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng được Chính phủ giao.
- Quy định tại khoản 3 nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Xây dựng.
|
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức cung ứng dịch vụ công chứng.
|
Điều 44. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
|
- Sửa khoản 1: sửa đổi đảm bảo phù hợp với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp.
|
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
3. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với các đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, bao gồm: luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
4. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực hành nghề luật sư; công chứng theo quy định tại kho định Điều 7 Luật này.
|
- Việc sửa đổi, bổ sung khoản 3, 4 nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Tư pháp phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động PCRT trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp được Chính phủ giao.
- Quy định tại khoản 3 nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Công thương.
|
|
5. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi, chức năng nhiệm vụ được giao về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Chuyển quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật PCRT 2012 thành Khoản 5 điều này và quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao của Bộ Tư pháp về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
Điều luật mới.
|
Điều 45. Trách nhiệm của Bộ Công thương
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng báo cáo là các tổ chức, cá nhân kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ tổ chức, cá nhân kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức, mỹ nghệ.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ hoạt động kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức mỹ nghệ.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý trừ hoạt động kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức mỹ nghệ theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Công thương trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý. Nội dung này được luật hóa từ quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP.
- Quy định tại khoản 2 phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động PCRT trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Công thương được Chính phủ giao.
- Quy định tại khoản 3 nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Công thương.
|
Điều luật mới.
|
Điều 46. Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với pháp nhân được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý. Nội dung này được luật hóa từ quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP.
- Quy định tại khoản 2 nhằm phù hợp với quy định mới tại Điều 7 về “Đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền” và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
|
Điều luật mới.
|
Điều 47. Trách nhiệm của Bộ Nội vụ
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và tổ chức tôn giáo.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện và tổ chức tôn giáo theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 Luật này.
3. Phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Nội vụ trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Nội vụ. Các quy định tại khoản 2, 3 phù hợp với quy định mới tại Điều 7 về “Đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền” và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ.
|
Điều luật mới.
|
Điều 48. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai công tác phòng, chống rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
Bổ sung Điều mới nhằm quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Bộ Ngoại giao trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý của Bộ Ngoại giao.
- Quy định tại khoản 2 nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Ngoại giao.
|
Điều luật mới.
|
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong hoạt động kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet.
2. Căn cứ mức độ rủi ro quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo về rửa tiền để thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng, chống rửa tiền đối với đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet.
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật này; thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro về rửa tiền trong lĩnh vực kinh doanh trò chơi trên mạng viễn thông, mạng internet theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Luật này.
|
Bổ sung Điều mới nhằm phù hợp với quy định trách nhiệm của Bộ Thông tin và truyền thông trong triển khai các nhiệm vụ PCRT liên quan đến đối tượng báo cáo thuộc quyền quản lý.
- Quy định tại khoản 2 phù hợp với mục tiêu thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động PCRT trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông được Chính phủ giao.
- Quy định tại khoản 3 nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Bộ Thông tin và Truyền thông.
|
1. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 50. Trách nhiệm của các bộ ngành khác
1. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
2. Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
3. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành liên quan định kỳ thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 Luật này.
|
Bổ sung khoản 3 nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của các bộ ngành khác.
|
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi rửa tiền; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
|
Điều 51. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi rửa tiền; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
|
|
|
2. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành liên quan định kỳ thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền theo quy định tại Điều 7 Luật này.
|
- Bổ sung khoản 2 nhằm đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 7 dự thảo Luật nhằm đáp ứng yêu cầu của Khuyến nghị 1 của FATF về Đánh giá rủi ro & áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro và thực tiễn nhiệm vụ triển khai đánh giá rủi ro của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
|
|
3. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
- Chuyển quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật PCRT 2012 thành Khoản 3 điều này và quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
|
1. Thực hiện, chỉ đạo việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại địa phương.
2. Phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn đốc thực hiện các đường lối, chính sách, chiến lược, kế hoạch phòng, chống rửa tiền.
3. Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
Điều 52. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp
1. Thực hiện, chỉ đạo việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại địa phương.
2. Phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn đốc thực hiện các đường lối, chính sách, chiến lược, kế hoạch phòng, chống rửa tiền, thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền.
3. Phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền theo thẩm quyền.
|
- Khoản 2: bổ sung cụm từ “thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền”, theo đó bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền. Nội dung này phù hợp với quy định mới tại Điều 7 về “Đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền” và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân các cấp đã được Chính phủ giao.
|
Các cơ quan nhà nước được quy định tại các điều từ Điều 36 đến Điều 44 của Luật này có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
|
Điều 53. Trách nhiệm bảo mật thông tin
1. Các cơ quan nhà nước được quy định tại Chương III của Luật này có trách nhiệm thực hiện chế độ bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật.
|
- Khoản 1: Sửa nội dung tham chiếu.
|
|
2. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 6 Luật này cho các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác phải đảm bảo các thông tin cung cấp được bảo mật và sử dụng đúng mục đích đã nêu tại yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin.
|
- Khoản 2: bổ sung quy định bảo mật thông tin trong hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu chí 40.6, Khuyến nghị số 40 của FATF về Các hình thức hợp tác quốc tế khác.
|
|
Bỏ Chương IV
|
Các nội dung tại Chương IV Luật PCRT 2012 đã được kết cấu lại và đưa vào nội dung quy định tại các Điều 6, 40, 41, 44, 51.
|
1. Hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi thông tin và tương trợ tư pháp về phòng, chống rửa tiền.
|
Bỏ điều này
|
Khoản 1 Điều 46 đã được đưa vào quy định tại khoản 1 Điều 6 dự thảo Luật.
|
4. Các nội dung hợp tác khác về phòng, chống rửa tiền.
5. Quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này được thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
|
Bỏ điều này
|
Nội dung quy định tại Điều 47 Luật PCRT 2012 đã được chỉnh sửa, quy định tại Điều 6. Nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền của dự thảo luật.
|
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành liên quan đề xuất, chủ trì đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế về phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, đào tạo, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền với cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác theo quy định của pháp luật; có quyền từ chối cung cấp thông tin cho cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài và các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác trong trường hợp cần thiết và theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống rửa tiền.
4. Khi có yêu cầu về hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm kịp thời thông báo bằng văn bản về nội dung, thời gian, các bên liên quan và các chương trình hợp tác quốc tế khác cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoặc cho Bộ Tư pháp nếu nội dung liên quan đến tương trợ tư pháp để phối hợp thực hiện.
|
Bỏ điều này
|
- Khoản 1 đã đưa vào quy định tại khoản 12 Điều 40. Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước.
- Khoản 2 đã được đưa vào quy định tại Điều 6. Nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
- Khoản 3 đã đưa vào quy định tại Điều 41. Trách nhiệm của Bộ Công an, Điều 44. Trách nhiệm của Bộ Tư pháp và Điều 51. Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
- Khoản 4 đã đưa vào quy định tại khoản 5 Điều 6. Nội dung hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
|
|
Chương V. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
|
|
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.
|
Điều 54. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày … tháng … năm …. Luật Phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
|
|
|
2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như sau: “1. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng.” .
|
- Khoản 2: Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền”. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm tạo cơ sở để triển khai, thực hiện các yêu cầu tại khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG cũng như để đáp ứng yêu cầu của công tác PCRT trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
Theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật PCRT đều giao Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về PCRT. Tại Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đang được giao thực hiện nhiệm vụ này và Cục PCRT là đơn vị thuộc Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về PCRT.
Tại khuyến nghị 29 của FATF yêu cầu mỗi quốc gia cần phải thành lập đơn vị tình báo tài chính (FIU), trong đó FIU cần phải được trao đầy đủ thẩm quyền để thu thập các thông tin từ các tổ chức báo cáo, truy cập một cách kịp thời các thông tin tài chính và thực thi pháp luật để thực hiện tốt 3 chức năng chính là (i) tiếp nhận, (ii) phân tích, và (iii) chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố một cách độc lập.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG năm 2022, APG đã chỉ ra việc Cục trưởng Cục PCRT chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mọi hoạt động của Cục PCRT là chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để Cục PCRT thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự chủ; việc Cục PCRT nằm trong Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có thể dẫn đến một số quan ngại về tính độc lập trong hoạt động của FIU, vốn được coi trọng đặc biệt. Trên cơ sở đó, APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền và tính độc lập cho Cục PCRT để nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
Với mô hình tổ chức, vị trí, chức năng của Cục PCRT hiện nay là một trong lý do chính mà Việt Nam chưa gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont) mặc dù đã có đơn gia nhập và đã được công nhận là quan sát viên của Nhóm Egmont từ năm 2010.
Việc sửa đổi khoản 1 Điều 49 Luật NHNN nêu trên là cơ sở để NHNN căn cứ quy định pháp luật xây dựng Đề án, trình Chính phủ, các cấp có thẩm quyền quy định đơn vị thuộc NHNN thực hiện chức năng PCRT.
|
|
3. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống khủng bố như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 như sau:
“Điều 34. Thực hiện các biện pháp phòng, chống tài trợ khủng bố và áp dụng biện pháp tạm thời; đánh giá rủi ro quốc gia về phòng, chống tài trợ khủng bố
1. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng; báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ khủng bố thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 33 của Luật Phòng, chống rửa tiền.
2. Ngay khi có nghi ngờ khách hàng hoặc giao dịch của khách hàng liên quan đến tài trợ khủng bố hoặc khách hàng nằm trong Danh sách đen thì tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính báo cáo cho lực lượng chống khủng bố của Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phải áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
3. Định kỳ 05 năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện đánh giá, cập nhật rủi ro quốc gia về tài trợ khủng bố tại Việt Nam và trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá, kế hoạch thực hiện sau đánh giá”.
b) Sửa đổi, bổ sung Điều 35 như sau:
“Điều 35. Kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới
Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện việc kiểm soát vận chuyển tiền mặt, kim khí quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới Việt Nam theo quy định tại Điều 24 của Luật này và Điều 28 của Luật Phòng, chống rửa tiền có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi lợi dụng các hoạt động này để tài trợ khủng bố.”.
|
- Khoản 3, 4: Dự thảo Luật bổ sung quy định sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật Phòng, chống KB và pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL theo hướng tương đồng với các quy định mới được sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT. Việc sửa đổi, bổ sung này căn cứ trên các khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại báo cáo đánh giá đa phương, theo đó một số yêu cầu sửa đổi, bổ sung pháp luật về PCRT cũng được khuyến nghị đồng thời với sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống KB, tài trợ PBVKHDHL. Với thời hạn phải báo cáo kết quả thực hiện đánh giá của APG vào tháng 3/2023, trong khi việc sửa đổi, bổ sung Luật PCKB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật PCKB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL tại dự thảo Luật này là cần thiết.
|
|
4. Các tổ chức tài chính, tổ chức và cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, báo cáo, cung cấp, lưu giữ thông tin, xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt thực hiện theo quy định từ Điều 9 đến Điều 33 của Luật này./.
|
|
Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012.
|
Bỏ điều này.
|
Các nội dung giao Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn đã được quy định cụ thể tại từng điều khoản.
|
Báo cáo đánh giá tác động của chính sách tại đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo trình UBTVQH tại phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 8/2022)
10-bc-NHNN-danh-gia-tac-dong-cs-DA-Luat-PCRTsd---20220809100419-1-.doc
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin báo cáo đánh giá tác động của chính sách tại đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) như sau:
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN
1. Bối cảnh xây dựng chính sách
1.1. Ngày 07/6/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “PCRT”), là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho quá trình xây dựng và phát triển cơ chế PCRT ở Việt Nam. Tiếp đó, ngày 18/6/2012, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “Luật PCRT”) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Từ đó đến nay, trải qua hơn 17 năm (2005 - 2022) xây dựng và hoàn thiện cơ chế PCRT ở Việt Nam nói chung và hơn 09 năm thi hành Luật PCRT nói riêng, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, bao gồm:
(i) Khung pháp lý, cơ chế, chính sách về PCRT đã không ngừng được hoàn thiện. Việt Nam đã ban hành kế hoạch hành động quốc gia về PCRT và tài trợ khủng bố qua từng giai đoạn, ban hành kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2019-2020 và hàng loạt các văn bản pháp luật, quy định về PCRT và liên quan đến lĩnh vực PCRT;
(ii) Cơ cấu tổ chức bộ máy PCRT đã hình thành và dần hoàn thiện. Ban chỉ đạo quốc gia về PCRT được thành lập với Trưởng ban là Phó Thủ tướng Chính phủ và thành viên là lãnh đạo của hầu hết các Bộ, ngành. Tại các Bộ, ngành có liên quan đều có các bộ phận được chỉ định là đầu mối để thực hiện công tác PCRT thuộc trách nhiệm của Bộ, ngành. Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là “Ngân hàng Nhà nước”) được thành lập và thực hiện nhiệm vụ của cơ quan phòng, chống rửa tiền của Việt Nam;
(iii) Các biện pháp phòng ngừa về rửa tiền đã được một số nhóm đối tượng báo cáo triển khai thực hiện nghiêm túc và đã tiến hành báo cáo giao dịch giá trị lớn, giao dịch đáng ngờ theo quy định của pháp luật. Theo đó, Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiếp nhận hàng ngàn thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ và đã phân tích, chuyển giao khối lượng lớn thông tin cho các đơn vị thuộc Bộ Công an và các cơ quan có thẩm quyền khác;
(iv) Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về PCRT, Ngân hàng Nhà nước đã ký kết 10 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin hợp tác với các cơ quan tình báo tài chính nước ngoài bao gồm: Malaysia, Indonesia, Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Bangladesh, Nga, Anh;
Với những thành quả đạt được trong công tác PCRT như nêu trên, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố. Cơ chế phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam đã được hình thành và đang tiếp tục hoàn thiện với hệ thống chính sách, văn bản pháp luật được ban hành cũng như bộ máy gồm các cơ quan, tổ chức, đơn vị chuyên trách và phối hợp triển khai thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
1.2. Qua quá trình gần 10 năm triển khai thi hành Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành, một số bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật PCRT đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cụ thể:
(i) Về đối tượng áp dụng Luật PCRT: Các hoạt động của tổ chức tài chính (FIs) và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs) được liệt kê tại khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT là phù hợp với các hoạt động của đối tượng báo cáo tại thời điểm ban hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phát sinh một số hoạt động mới cần được bổ sung vào đối tượng báo cáo như hoạt động trung gian thanh toán và xem xét đến các loại hình mới có thể có tiềm ẩn rủi ro cao về rửa tiền.
Thực tế, về hoạt động trung gian thanh toán, hiện nay khung pháp lý cho hoạt động này tương đối đầy đủ, tuy nhiên các quy định về phòng, chống rửa tiền áp dụng cho đối tượng này mới chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật, (trong đó, yêu cầu trung gian thanh toán áp dụng các biện pháp phòng, chống rửa tiền như với đối tượng báo cáo) nên chưa thực sự đảm bảo đầy đủ và hiệu quả. Do đó, cần luật hóa tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thành đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Đồng thời, trong thực tiễn có thể phát sinh những hoạt động mới có rủi ro về rửa tiền, đặt ra yêu cầu cần phải kịp thời bổ sung quy định về PCRT phù hợp để điều chỉnh các lĩnh vực, hoạt động phát sinh, tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền.
(ii) Về việc đánh giá rủi ro và thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro: Luật PCRT hiện hành không có quy định về việc đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng tổ chức; đồng thời, quy định về việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa đảm bảo tính đầy đủ, hợp lý. Trong khi đó, đây là một trong những yêu cầu thuộc nhóm các vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF.
(iii) Về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo: Đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn một số tồn tại cơ bản như:
- Các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement" theo khuyến nghị của FATF;
- Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn thiếu các quy định theo yêu cầu mới phát sinh tại 40 Khuyến nghị của FATF như yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trước khi cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ ứng dụng công nghệ mới, các biện pháp nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin còn chưa đầy đủ và phù hợp...;
(iv) Về quy định về việc phân tích, xử lý, chuyển giao thông tin PCRT: Quy định về việc phân tích, xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ của NHNN chưa rõ ràng, đầy đủ. Ngoài ra, các quy định tại Luật PCRT cũng chưa bao quát hết các nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động với vai trò đầu mối thực hiện chức năng PCRT thuộc Ngân hàng Nhà nước như công tác giám sát, cảnh báo, trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước trong thực hiện công tác PCRT.
(v) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành trong công tác PCRT còn chưa đầy đủ như chưa xác định rõ ràng về trách nhiệm quản lý, thanh tra, giám sát PCRT đối với lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý.
(vi) Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được sửa đổi, bổ sung vào năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 khuyến nghị hiện hành của FATF, ảnh hưởng đến việc thực thi cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các khuyến nghị của FATF.
1.3. Theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng, để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là một trong những giải pháp được đặt ra. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về PCRT là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác phòng, chống rửa tiền, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012-2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
1.4. Năm 2019, cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của Việt Nam đã được đánh giá bởi Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG). Căn cứ yêu cầu tại Bộ chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (PCRT/TTKB/PBVKHDHL) hiện được biết đến với tên gọi 40 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), Đoàn đánh giá của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) sau khi đánh giá cơ chế PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL của Việt Nam đã đưa ra các khuyến nghị đối với Việt Nam nhằm khắc phục các thiếu hụt trong cơ chế PCRT/TTKB/PBVKHDHL tại Báo cáo đánh giá đa phương (MER) được thông qua vào tháng 3/2022. Theo đó, ngoài việc sửa đổi Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012, Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung nhiều quy định pháp luật có liên quan tại Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sư, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật tương trợ tư pháp, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán…, các văn bản hướng dẫn các Luật nêu trên và các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực có liên quan cũng như triển khai hàng loạt các biện pháp nhằm thúc đẩy cơ chế thực thi hoạt động có hiệu quả tại các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Để thực hiện các nội dung khuyến nghị của APG tại MER, với vai trò là đơn vị đầu mối, Ngân hàng Nhà nước đã nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan có liên quan xây dựng và trình Chính phủ Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Kế hoạch HĐQG), trong đó bao gồm Danh mục 41 hành động quốc gia về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL áp dụng cho giai đoạn 2021-2025 và Phụ lục 83 hành động phải được thực hiện đến tháng 3/2023 trước kỳ xem xét, đánh giá của FATF sau thời gian quan sát 1 năm. Các hành động này nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL để giải quyết các thiếu hụt về tuân thủ kỹ thuật đã được phát hiện trong MER và đảm bảo việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để cải thiện hiệu quả của hoạt động PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề.
Trong đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền được xác định là một trong những căn cứ quan trọng, là cơ sở để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan khác nhằm khắc phục các thiếu hụt mang tính pháp lý trong cơ chế phòng, chống rửa tiền của Việt Nam. Đây là một trong những khuyến nghị hành động quan trọng mà Việt Nam cần khẩn trương hoàn thành trước tháng 3/2023. Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả tích cực và đánh giá khả quan của APG, FATF, Việt Nam cần nỗ lực triển khai đồng bộ các khuyến nghị hành động của APG song song với việc sửa đổi Luật PCRT. Kết quả đánh giá việc thực hiện các khuyến nghị hành động sẽ phụ thuộc vào nỗ lực của Việt Nam nhưng cũng phụ thuộc vào cả ý kiến chủ quan của Đánh giá viên, rà soát viên và chính sách của FATF, APG trong từng thời kỳ.
Những tồn tại, hạn chế nêu tại điểm 1.2 cũng đã được phản ánh rõ nét trong Báo cáo đánh giá của Đoàn đánh giá APG. Theo Báo cáo của APG khi đánh giá về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam so với 40 Khuyến nghị của FATF, hiện Việt Nam chưa đáp ứng được 27/40 Khuyến nghị của FATF. Trong đó, các quy định về PCRT tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn nhiều hạn chế, Đoàn đánh giá đã đưa ra các kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung liên quan tới nhiều điều khoản của Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn.
Sau khi Báo cáo đánh giá của APG về cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thông qua, Việt Nam có thời hạn đến tháng 3/2023 để khắc phục những thiếu hụt đã được chỉ ra, trong đó có yêu cầu cải thiện khuôn khổ pháp lý nhằm khắc phục thiếu hụt tại 27/40 Khuyến nghị của FATF nêu trong Báo cáo đánh giá. Nếu đến thời hạn này, văn bản sửa đổi của Việt Nam chưa được ban hành và có hiệu lực để cho thấy đã cải thiện các thiếu hụt trọng yếu, APG sẽ xem xét đưa Việt Nam vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (Danh sách xám) và công bố rộng rãi để các nước trên thế giới áp dụng biện pháp rà soát tăng cường đối với luồng tài chính ra, vào Việt Nam.
Từ những nội dung nêu trên, yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) là một yêu cầu thiết yếu để khắc phục những thiếu hụt về mặt pháp lý trong cơ chế PCRT có liên quan đến Luật PCRT, đặt cơ sở cho việc sửa đổi các văn bản có liên quan và tổ chức triển khai nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT ở Việt Nam; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và tội phạm nói chung; đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế về PCRT, hạn chế việc Việt Nam bị đưa vào Danh sách xám của FATF.
2. Mục tiêu xây dựng chính sách
2.1. Mục tiêu chung
Việc xây dựng và ban hành Luật PCRT (sửa đổi) nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ và hiệu quả cho hoạt động PCRT, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung đặc biệt là các tội phạm nguồn tạo ra lượng tiền và tài sản bất hợp pháp lớn như tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo,… và tội phạm rửa tiền nói riêng; tăng cường vị thế của Việt Nam trong mối quan hệ với quốc gia, đối tác nước ngoài; tránh bị áp đặt các biện pháp trừng phạt, kiểm soát và bị hạn chế trong các giao dịch tài chính, ngân hàng; xây dựng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp với các cam kết quốc tế, chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Xuất phát từ những bất cập cần giải quyết nêu trên, việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể như sau:
- Khắc phục những bất cập nội tại của Luật PCRT 2012; đáp ứng những yêu cầu mới phát sinh trong công tác PCRT.
- Phù hợp với chuẩn mực, khuyến nghị quốc tế về PCRT; qua đó, tránh được các hậu quả phát sinh xảy ra đối với quốc gia được coi là có khuyết thiếu nghiêm trọng về cơ chế PCRT.
- Nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng; tăng cường hợp tác quốc tế về PCRT.
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH
Để đạt được các mục tiêu xây dựng Luật PCRT (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước xây dựng Báo cáo đánh giá tác động của chính sách như sau:
1. Chính sách 1: Mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo trong công tác PCRT
1.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động của các tổ chức tài chính và phi tài chính phát triển nhanh chóng với sự xuất hiện của một số loại hình, phương thức cung cấp sản phẩm dịch vụ đa dạng mới. Bên cạnh mặt tích cực, sản phẩm, dịch vụ tài chính mới này cũng tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng cho các mục đích tội phạm nói chung trong đó có rửa tiền.
Các báo cáo, nghiên cứu trong nước và quốc tế đã chỉ ra những rủi ro rửa tiền của các loại hình dịch vụ mới và đặt ra yêu cầu phải có biện pháp phù hợp để phòng ngừa
[1]. Một trong các điều kiện tiên quyết để triển khai hiệu quả các biện pháp PCRT là phải đưa các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong các lĩnh vực này trở thành đối tượng báo cáo và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về PCRT.
Luật PCRT năm 2012 hiện chưa quy định các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và cũng chưa có quy định để bao quát đối với các loại hình mới khác như cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ,...là đối tượng báo cáo nên chưa có cơ sở để yêu cầu các tổ chức này thực hiện một hay một số các biện pháp phòng, chống rửa tiền phù hợp. Do đó, việc bổ sung, mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật PCRT để hạn chế rủi ro rửa tiền là yêu cầu cấp thiết.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Loại hình hoạt động có nguy cơ bị tội phạm lợi dụng để rửa tiền nhưng chưa được liệt kê tại Luật PCRT và sẽ không phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền như nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ, … Tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng luôn có xu hướng dịch chuyển hoạt động của mình đến các khu vực hoặc các lĩnh vực ít chịu sự điều chỉnh của pháp luật và sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, các tổ chức nêu trên sẽ là những mắt xích yếu mà tội phạm lợi dụng để rửa tiền và cũng làm suy giảm hiệu quả phòng, chống rửa tiền của các lĩnh vực khác.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs) là các tổ chức được cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số hoạt động theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật PCRT; và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs) thực hiện một hoặc một số hoạt động theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật PCRT. Tuy nhiên, các hoạt động của FIs và DNFBPs được liệt kê tại khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT hiện chưa bao quát đầy đủ do tại thời điểm ban hành Luật PCRT có những loại hình hoạt động kinh doanh chưa xuất hiện như hoạt động trung gian thanh toán, các sản phẩm công nghệ mới phát sinh ví dụ như liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
1.2. Mục tiêu để giải quyết vấn đề
Tạo cơ sở pháp lý, xây dựng quy định pháp luật cụ thể, đầy đủ nhằm điều chỉnh ở phạm vi bao quát các loại hình đối tượng báo cáo có nguy cơ bị lợi dụng để rửa tiền để có các biện pháp phòng ngừa, phát hiện các giao dịch, phương thức thông qua các đối tượng báo cáo để rửa tiền, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa rửa tiền.
1.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
1.3.1. Giải pháp 1A: Giữ nguyên hiện trạng đối tượng báo cáo tại Luật PCRT.
1.3.2. Giải pháp 1B: Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng bổ sung loại hình hoạt động có rủi ro về rửa tiền mới phát sinh, chưa được quy định tại Luật PCRT là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và bổ sung việc giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động quy định rõ tại Luật và xác định trách nhiệm của đối tượng báo cáo được bổ sung.
1.3.3. Giải pháp 1C:Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng bổ sung cụ thể đối tượng là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tổ chức tài chính được cấp phép thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
1.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
1.4.1. Giải pháp 1A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
a) Tác động về kinh tế
- Chi phí: Thứ nhất, đối tượng thực hiện loại hình hoạt động có nguy cơ bị lợi dụng rửa tiền không phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa về PCRT và không bị thanh tra, giám sát về PCRT; cơ quan có thẩm quyền có thể sẽ không nhận được thông tin, báo cáo liên quan đến PCRT từ nhóm đối tượng này. Thứ hai, việc giữ nguyên quy định như tại Luật PCRT sẽ giới hạn phạm vi đối tượng báo cáo là những tổ chức, cá nhân được liệt kê tại Luật PCRT, do đó, trong trường hợp phát sinh đối tượng báo cáo mới sẽ cần phải sửa Luật PCRT để mở rộng phạm vi đối tượng báo cáo, dẫn đến việc phải thực hiện các thủ tục phức tạp và tốn kém chi phí.
- Lợi ích: Các tổ chức không phải là đối tượng báo cáo nên không phải thực hiện các quy định của pháp luật PCRT, do đó, giảm tải công việc, tiết kiệm nhân lực, vật lực cho các tổ chức này; cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT không phải quản lý nhóm các đối tượng này, do vậy, không phải mất thêm chi phí nhân sự, quản lý. Tuy nhiên, xét trên phạm vi lợi ích chung của xã hội thì điều này lại gây ra các thiệt hại về kinh tế khi tội phạm tiếp tục lợi dụng các lĩnh vực có rủi ro cao để phục vụ cho việc tẩu tán, rửa các tài sản “bẩn” có được do phạm tội cũng như lợi dụng các lĩnh vực này để thực hiện các hoạt động phạm tội.
b) Tác động về xã hội
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không tăng thêm.
- Mặt tiêu cực: Việc đối tượng có hoạt động tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền nhưng không phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền sẽ làm giảm niềm tin của xã hội vào Nhà nước khi không quản lý được các đối tượng có thể bị lợi dụng để rửa tiền. Điều này tạo ra kẽ hở cho hoạt động rửa tiền và làm giảm hiệu quả của chính sách phòng, chống rửa tiền được tạo ra tại các lĩnh vực khác.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thiếu toàn diện, tạo “lỗ hổng” pháp luật để tội phạm có thể lợi dụng loại hình tổ chức chưa được quy định tại Luật để thực hiện các hoạt động phi pháp, dẫn đến mất ổn định an ninh, kinh tế, xã hội.
+ Không có cơ sở pháp lý đầy đủ để xác định thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hoạt động có tiềm ẩn rủi ro cao về rửa tiền.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc không bổ sung loại hình đối tượng báo cáo cung cấp có rủi ro cao về rửa tiền không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT.
1.4.2. Giải pháp 1B: Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng (i) bổ sung loại hình hoạt động có rủi ro về rửa tiền liên quan đến tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và (ii) bổ sung quy định giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo ngoài các hoạt động đã quy định rõ tại Luật; và xác định trách nhiệm của các đối tượng báo cáo được bổ sung.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
+ Đối với đối tượng báo cáo:
Đối tượng trở thành đối tượng báo cáo theo pháp luật PCRT sẽ phải thiết lập cơ chế PCRT tại tổ chức mình và thực hiện các nghĩa vụ PCRT như thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ, giao dịch tiền mặt có giá trị lớn…. Căn cứ vào các yêu cầu báo cáo hiện nay, đối tượng dự kiến được đưa vào nhóm đối tượng báo cáo chỉ phải thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ, báo cáo giao dịch tiền mặt có giá trị lớn khi có phát sinh. Mặt khác, pháp luật PCRT cũng có các quy định về bộ máy làm công tác PCRT (tùy vào điều kiện của tổ chức mà có thể bố trí chuyên trách hoặc kiêm nhiệm) hoặc các nhiệm vụ liên quan đến đào tạo, kiểm toán, xây dựng hệ thống báo cáo... phụ thuộc vào quy mô, loại hình hoạt động của từng loại đối tượng.
Do đó, việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo trong công tác PCRT hầu như không làm thay đổi bộ máy hoạt động của các đối tượng báo cáo được bổ sung. Công việc này cũng sẽ gắn với các nhiệm vụ quản lý, vận hành khác mà đang được giao cho các bộ phận hoặc cán bộ sẵn có như bộ phận kiểm soát rủi ro, tuân thủ, pháp chế, hành chính,... đảm nhận.
+ Đối với cơ quan quản lý:
Việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo về PCRT sẽ làm phát sinh thêm việc giải quyết các công việc của cơ quan quản lý nhà nước như: (i) gia tăng khối lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ, giao dịch giá trị lớn nhận được từ các đối tượng báo cáo mới cần phải phân tích, xử lý; (ii) gia tăng khối lượng công việc liên quan đến hướng dẫn, quản lý, thanh tra, giám sát về PCRT tại các cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm quản lý các đối tượng báo cáo, (iii) gia tăng chi phí phí liên quan đến việc rà soát đánh giá các đối tượng mới có thể có rủi ro về PCRT để đề xuất Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, qua đánh giá sơ bộ, việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo hầu như không làm phát sinh thêm cơ cấu, bộ máy tại các bộ, ngành do nhân lực và bộ máy làm công tác này tại các bộ, ngành hiện nay đều là kiêm nhiệm (trừ đơn vị thực hiện công tác PCRT tại Ngân hàng Nhà nước). Việc tăng cường khối lượng cũng như nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền sẽ trở thành một công cụ quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, do các cơ quan quản lý đang tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nên việc tích hợp chức năng quản lý về phòng, chống rửa tiền về cơ bản chỉ dẫn tới những thay đổi về chất chứ không dẫn đến gia tăng quá nhiều số lượng cán bộ. Bên cạnh đó, việc bổ sung thêm nhiều nguồn thông tin báo cáo từ các đối tượng, lĩnh vực khác nhau để phân tích, xử lý, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc liên quan đến rửa tiền cũng là cơ sở hoàn thiện cơ sở dữ liệu, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm rửa tiền nói riêng. Việc rà soát đánh giá các đối tượng mới có thể có rủi ro về PCRT sẽ tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhằm phòng, chống rủi ro.
Trên thực tế, đối với các cơ quan có vai trò lớn trong công tác PCRT như Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an, việc triển khai mạnh mẽ và đồng bộ công tác PCRT sẽ làm gia tăng khối lượng báo cáo, yêu cầu xử lý thông tin dẫn tới phải có một nguồn lực về nhân lực, vật lực cần thiết. Tuy nhiên, yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực cho Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an đã được thể hiện tại Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014; Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019-2020 ban hành kèm theo Quyết định số 474/QĐ-TTg ngày 30/4/2019. Các yêu cầu này đang được triển khai trên thực tế.
Về cơ bản, việc triển khai chính sách này vẫn đảm bảo đúng với chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Có thể nhận thấy, yêu cầu tăng cường nguồn lực thực hiện công tác PCRT là một đòi hỏi tất yếu của quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, xã hội. Như vậy, việc mở rộng đối tượng báo cáo có thể dẫn đến chi phí triển khai có phát sinh nhưng lợi ích từ việc bảo đảm an ninh, an toàn tài chính, phòng, chống tội phạm và phát triển kinh tế xã hội mang lại sẽ rất lớn, không thể so sánh được.
- Lợi ích:
+ Tạo ra khuôn khổ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền quản lý, thanh tra, giám sát các đối tượng có thể bị lợi dụng để rửa tiền; mở rộng các loại hình đối tượng báo cáo phải thiết lập cơ chế PCRT tại tổ chức mình và thực hiện các nghĩa vụ PCRT như thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ… qua đó giảm thiểu rủi ro rửa tiền xảy ra ở đối tượng báo cáo. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền được cung cấp thêm nhiều nguồn thông tin từ các đối tượng, lĩnh vực khác nhau để phân tích, xử lý, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc liên quan đến rửa tiền, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh PCRT.
+ Việc bổ sung loại hình hoạt động mới phát sinh có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền cần phải chịu sự tác động, điều chỉnh của Luật PCRT sẽ góp phần làm lành mạnh, an toàn và ổn định cho hệ thống tài chính quốc gia; được đánh giá và ghi nhận của cộng đồng quốc tế, qua đó có khả năng được các chính sách ưu đãi (chi phí vay, thời gian vay, thời gian trả nợ, nội dụng vay, hạn mức vay...) cũng như góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tăng cường nhận thức về công tác PCRT đến đối tượng báo cáo được mở rộng. Hoạt động PCRT được tăng cường sẽ góp phần giảm thiểu tội phạm, đặc biệt là các tội phạm kinh tế gắn với tham nhũng, lừa đảo, buôn lậu,… tăng cường trật tự, an toàn xã hội, tăng niềm tin của dân chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không phát sinh.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
Việc mở rộng phạm vi đối tượng báo cáo là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã được quy định tại Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (đã được sửa đổi, bổ sung). Việc bổ sung đối tượng này vào quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật PCRT nhằm đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống quy định pháp luật về PCRT.
+ Đối với các đối tượng báo cáo khác mới phát sinh được Chính phủ quy định dự kiến sẽ là các đối tượng cung ứng các loại hình sản phẩm, dịch vụ mới phát sinh trên thực tiễn, ẩn chứa rủi ro về rửa tiền. Theo đó, các tổ chức thực hiện các loại hình hoạt động này phải tuân thủ đầy đủ các quy định pháp lý trong phòng, chống rửa tiền góp phần làm minh bạch, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức này khi hoạt động của các tổ chức này được pháp luật quy định và công nhận.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc mở rộng phạm vi loại hình đối tượng báo cáo cũng như giao Chính phủ quy định bổ sung các hoạt động mới phát sinh của đối tượng báo cáo sẽ phù hợp với các khuyến nghị có liên quan trong Bộ chuẩn mực quốc tế 40 Khuyến nghị của FATF, cũng như các kiến nghị của Đoàn đánh giá APG đối với cơ chế PCRT/TTKB của Việt Nam. Cụ thể:
+ Khuyến nghị số 1 về đánh giá rủi ro và phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro chỉ ra: “Nếu các quốc gia thông qua những đợt đánh giá rủi ro của họ xác định có các loại hình tổ chức, các hoạt động, ngành nghề kinh doanh hoặc ngành nghề nào mà có rủi ro bị lạm dụng để rửa tiền, tài trợ khủng bố và loại hình đó không nằm trong định nghĩa về định chế tài chính hoặc định chế, ngành nghề phi tài chính chỉ định (DNFBPs), thì quốc gia đó cần phải cân nhắc áp dụng các yêu cầu phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố cho loại hình như vậy”.
+ Khuyến nghị số 15 về Công nghệ mới chỉ ra: “Các quốc gia và các định chế tài chính cần phải nhận dạng và đánh giá rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố có thể phát sinh liên quan đến (a) việc phát triển các sản phẩm mới hoặc hoạt động kinh doanh mới, bao gồm cả cơ chế cung cấp dịch vụ mới và (b) việc sử dụng công nghệ mới và tiến bộ đối với cả sản phẩm mới và sản phẩm hiện có trước đó. Đối với các định chế tài chính, đánh giá rủi ro như vậy cần phải được thực hiện trước khi đưa ra các sản phẩm, hoạt động kinh doanh mới hoặc sử dụng công nghệ mới tiến bộ. Các quốc gia và các định chế tài chính cần phải thực hiện các biện pháp thích hợp để kiểm soát và giảm thiểu những rủi ro đó”
+ Khuyến nghị số 26 về Quản lý và giám sát đối với định chế tài chính chỉ ra: “Các định chế tài chính khác phải được cấp phép, đăng ký và quản lý phù hợp, đồng thời chịu sự giám sát hoặc kiểm soát nhằm mục đích chống rửa tiền…, có xem xét đến rủi ro rửa tiền… trong lĩnh vực đó. Ít nhất, khi định chế tài chính cung cấp dịch vụ chuyển tiền hay giá trị hoặc chuyển đổi tiền tệ thì cần phải được cấp phép hoặc đăng ký và chịu sự giám sát và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu của quốc gia về phòng, chống rửa tiền… bởi các hệ thống hiệu quả”.
+ Khuyến nghị số 27 về Quản lý và giám sát đối với các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính được chỉ định (DNFBPs) đã nêu: “Các quốc gia cần phải đảm bảo các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính chỉ định khác phải là đối tượng điều chỉnh của hệ thống giám sát hiệu quả và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu chống rửa tiền…”.
Như vậy, căn cứ quy định của chuẩn mực quốc tế, việc bổ sung đối tượng báo cáo theo Luật PCRT sẽ thực hiện được một phần trong các yêu cầu tại các khuyến nghị này.
1.4.3. Giải pháp 1C: Sửa đổi điều khoản định nghĩa về đối tượng báo cáo là FIs và DNFBPs (khoản 3, 4 Điều 4 Luật PCRT) theo hướng bổ sung cụ thể đối tượng là tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Cơ bản giống với giải pháp 1B nêu trên.
- Lợi ích: Cơ bản giống với giải pháp 1B nêu trên.
b) Tác động về xã hội:
Cơ bản giống với giải pháp 1B nêu trên. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có khung pháp lý điều chỉnh và quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nên tảng công nghệ (cấp phép/đăng ký...). Trường hợp mới chỉ bổ sung đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) thì cũng chưa xác định được đối tượng để thu thập thông tin, kiểm tra, giám sát về phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó, đây là những vấn đề mới và đều đang trong quá trình nghiên cứu về việc có hay không coi đây là các hình thức kinh doanh hợp pháp và sự cần thiết có cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Chính vì thế, đây là hai lĩnh vực chưa được thừa nhận chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc quy định hai hoạt động này tại dự thảo Luật khi chưa có quy định cụ thể điều chỉnh sẽ tạo ra các quan điểm không thống nhất nên không đảm bảo tính khả thi trong quá trình triển khai.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi: Không đảm bảo tính khả thi vì chưa có đầy đủ quy định pháp lý điều chỉnh, chưa xác định được cơ quan có chức năng thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo, cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nên tảng công nghệ.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc bổ sung loại hình đối tượng báo cáo cung cấp nêu trên đảm bảo đáp ứng một phần yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT vì khuyến nghị của FATF không chỉ dừng ở việc bổ sung tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo vào đối tượng báo cáo mà còn bao gồm các khuyến nghị liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý của hoạt động này (bao gồm các cơ chế cấp phép, tổ chức hoạt động...), trong khi đó, các nội dung này không thể quy định tại Luật PCRT do không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về PCRT.
1.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách, mặt tích cực, tiêu cực của giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn Giải pháp 1B nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, đảm bảo tính khả thi và tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, thu thập thông tin liên quan đến PCRT; việc giao Chính phủ quy định bổ sung sẽ tạo cơ sở để các tổ chức có các hoạt động có thể bị lợi dụng để rửa tiền trở thành đối tượng báo cáo và áp dụng các biện pháp để phòng ngừa rửa tiền, qua đó, giảm thiểu rủi ro rửa tiền.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi).
2. Chính sách 2: Đánh giá mức độ rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT
2.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Khuyến nghị 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF yêu cầu các quốc gia cần phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền và cần phải thực hiện các biện pháp, phương thức tiếp cận trên cơ sở rủi ro nhằm đảm bảo các biện pháp ngăn chặn hoặc giảm thiểu rửa tiền phù hợp với rủi ro được xác định. Phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro bao gồm việc phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro để áp dụng biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường; việc xác định các yếu tố rủi ro của từng đối tượng báo cáo trong mối tương quan với toàn hệ thống các tổ chức báo cáo, đánh giá, xác định mực độ rủi ro của từng loại hình kinh doanh, dịch vụ, lĩnh vực hoạt động của từng đối tượng báo cáo. Trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền có giải pháp phân bổ nguồn lực thanh tra phù hợp khi thực hiện thanh tra các đối tượng báo cáo về PCRT.
Luật PCRT chưa có quy định yêu cầu đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng tổ chức báo cáo. Nghị định số 87/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (Nghị định 87) và Thông tư số 20/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 đã đưa ra hướng dẫn thực hiện một số quy định về PCRT (Thông tư 20) đã bổ sung nội dung đánh giá rủi ro rửa tiền tại đối tượng báo cáo trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền. Tuy nhiên, các quy định này nằm rải rác, chưa đảm bảo tính đồng bộ và chưa toàn diện. Ngoài ra, tại Luật PCRT chưa có quy định về hoạt động thanh tra, giám sát về rửa tiền phải thực hiện trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Thứ nhất, khung pháp lý toàn diện, đồng bộ để triển khai thực hiện đánh giá rủi ro rửa tiền định kỳ cấp quốc gia, ngành và tại tổ chức báo cáo; phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro chưa được hoàn thiện và áp dụng toàn diện trong các hoạt động PCRT của đối tượng báo cáo cũng như của các cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, trong bối cảnh các nguồn lực dành cho công tác PCRT còn hạn chế, phương thức, thủ đoạn rửa tiền của tội phạm ngày càng tinh vi, phức tạp, đặc biệt trong bối cảnh sự phát triển của khoa học, công nghệ dẫn đến hiệu quả công tác PCRT sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
Thứ hai, Việt Nam sẽ không thực hiện được những hành động liên quan đến đánh giá và tiếp cận trên cơ sở rủi ro để khắc phục những khuyết thiếu trong cơ chế PCRT nói chung và hệ thống pháp luật về PCRT nói riêng. Do vậy, trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình phải thực hiện các hành động nhằm khắc phục những thiếu hụt về cơ chế PCRT theo kết quả đánh giá đa phương của APG như đã nêu ở trên, việc không giải quyết vấn đề này sẽ gây ra những hậu quả bất lợi cho Việt Nam.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Nguyên nhân chính gây ra vấn đề Luật PCRT chưa có quy định toàn diện, đồng bộ về việc đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở trên, các khuyến nghị của FATF từ thời điểm ban hành Luật PCRT đến nay đã có nhiều lần sửa đổi. Nghị định 87 và Thông tư 20 hướng dẫn Luật PCRT mặc dù đã quy định về vấn đề này, tuy nhiên, cũng chưa toàn diện, đồng bộ do bị giới hạn là văn bản hướng dẫn của Luật PCRT nên không thể quy định các vấn đề ngoài phạm vi các quy định của Luật PCRT. Ngoài ra, các quy đinh cụ thể cũng có những thiếu hụt.
2.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo hành lang pháp lý để triển khai định kỳ đánh giá rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành, lĩnh vực và tại từng đối tượng báo cáo. Trên cơ sở các mức độ rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành và đối tượng báo cáo, phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro được triển khai thực hiện tại đối tượng báo cáo, tại cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát về PCRT; góp phần làm giảm thiểu chi phí và nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
2.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 2A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
2.3.2. Giải pháp 2B: Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Theo đó, quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro, nguyên tắc áp dụng các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro; việc sử dụng kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, lĩnh vực và từng đối tượng báo cáo; quy định về việc phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro để áp dụng biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường; quy định về việc triển khai xây dựng và áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát về PCRT phải dựa trên kết quả đánh giá rủi ro; quy định cụ thể tiêu chí đánh giá rủi ro rửa tiền cấp quốc gia, cấp ngành, lĩnh vực và tại các đối tượng báo cáo.
2.3.3. Giải pháp 2C: Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT. Theo đó, quy định về nguyên tắc áp dụng các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro; quy định trách nhiệm về đánh giá rủi ro; việc sử dụng kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, lĩnh vực và từng đối tượng báo cáo; quy định về việc phân loại khách hàng theo các mức độ rủi ro để áp dụng biện pháp nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường; quy định về việc triển khai xây dựng và áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát về PCRT phải căn cứ trên kết quả đánh giá rủi ro. Đồng thời, quy định Chính phủ quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền. Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các đối tượng báo cáo thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền tại tổ chức.
2.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
2.4.1. Giải pháp 2A: Giữ nguyên hiện trạng
a) Tác động về kinh tế
- Chi phí: Giải pháp này gần như không làm phát sinh thêm chi phí cho xã hội, các bộ, ngành và các đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, về lâu dài, việc không thực hiện triệt để phương pháp tiếp cận về PCRT trên cơ sở rủi ro có thể gây lãng phí chi phí và nguồn nhân lực do dàn trải nhân lực, thời gian cho tất cả các lĩnh vực, đối tượng, gây giảm hiệu quả của công tác PCRT.
- Lợi ích: Các bộ, ngành, đối tượng báo cáo sẽ không bị phát sinh chi phí, nhân lực cho việc triển khai thực hiện đánh giá rủi ro theo ngành, lĩnh vực và đánh giá tại tổ chức cũng như chi phí xây dựng, triển khai mô hình thanh tra, giám sát PCRT trên cơ sở rủi ro.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không có.
- Mặt tiêu cực: Việc triển khai đánh giá rủi ro rửa tiền cấp quốc gia, ngành, lĩnh vực có thể không được triển khai hoặc triển khai không được toàn diện, không có sự thống nhất, nhất quán theo những hướng dẫn và quy định chung.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi: Việc giữ nguyên quy định như hiện tại sẽ không tạo được khung pháp lý toàn diện, đồng bộ để triển khai thực hiện đánh giá rủi ro rửa tiền định kỳ cấp quốc gia, ngành và tại tổ chức báo cáo và không thể áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro tại các đối tượng báo cáo cũng như tại cơ quan có thẩm quyền.
- Về tính tương thích với khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc giữ nguyên quy định như hiện tại không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF.
2.4.2. Giải pháp 2B:
Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT theo định hướng sau:
+ Bổ sung các quy định về nghĩa vụ định kỳ đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, lĩnh vực, đối tượng báo cáo; trách nhiệm của đối tượng báo cáo, cơ quan có thẩm quyền trong triển khai đánh giá rủi ro định kỳ về rửa tiền; nguyên tắc sử dụng kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, lĩnh vực và từng đối tượng báo cáo.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro (Điều 12 Luật PCRT) để quy định đầy đủ hơn về yêu cầu áp dụng biện pháp nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường tương ứng với nhóm khách hàng, lĩnh vực được phân loại có rủi ro thấp, trung bình hay cao về rửa tiền; xây dựng hệ thống quản lý rủi ro phù hợp.
+ Bổ sung, sửa đổi quy định về việc xây dựng, áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát về PCRT căn cứ kết quả đánh giá rủi ro.
+ Quy định nguyên tắc về việc ban hành tiêu chí đánh giá rủi ro rửa tiền cấp quốc gia, cấp ngành, lĩnh vực và việc hướng dẫn đánh giá tại các đối tượng báo cáo.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Việc định kỳ thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành, lĩnh vực và tại từng đối tượng báo cáo sẽ phát sinh các chi phí ban đầu khi triển khai chương trình đánh giá rủi ro (chi phí xây dựng phương pháp đánh giá, thu thập thông tin, dữ liệu, chi phí nhân công).
- Lợi ích: Phương pháp trên cơ sở rủi ro sẽ góp phần tiết kiệm chi phí quản lý, tiết kiệm nguồn nhân lực cho công tác PCRT, tiết kiệm thời gian (do tập trung nhân lực, thời gian cho các lĩnh vực, đối tượng có rủi ro cao hơn; giảm thiểu nhân lực, thời gian cho các lĩnh vực, đối tượng có rủi ro thấp thay vì dàn trải nhân lực, thời gian cho tất cả lĩnh vực, đối tượng) và đạt được hiệu quả cao hơn trong công tác PCRT. Kết quả đánh giá, xếp hạng về rủi ro rửa tiền ở phạm vi quốc gia, ngành, lĩnh vực là cơ sở để Chính phủ ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động về PCRT; các Bộ, ngành xây dựng được chính sách PCRT hợp lý trong ngành, lĩnh vực mình quản lý; từng đối tượng báo cáo xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa rửa tiền phù hợp, hiệu quả tương ứng với mức độ rủi ro của từng loại khách hàng, sản phẩm, dịch vụ của tổ chức mình.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này nhằm nâng cao hiểu biết về các rủi ro rửa tiền cho các đối tượng báo cáo, cơ quan quản lý và cho toàn xã hội (do các kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền sẽ được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng), qua đó nâng cao nhận thức chung về công tác PCRT, cũng như có phương án đưa ra nhằm hạn chế, giảm thiểu rủi ro đối với tổ chức, ngành và cả quốc gia.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về mặt xã hội của chính sách này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Việc bổ sung quy định về việc định kỳ đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, lĩnh vực và tại từng tổ chức tại Luật PCRT sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro. Kết quả đánh giá, xếp hạng về rủi ro rửa tiền ở phạm vi quốc gia, ngành, lĩnh vực là cơ sở để Chính phủ ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động về PCRT; các Bộ, ngành xây dựng được chính sách PCRT hợp lý trong ngành, lĩnh vực mình quản lý; từng đối tượng báo cáo xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa rửa tiền phù hợp, hiệu quả tương ứng với mức độ rủi ro của từng loại khách hàng, sản phẩm, dịch vụ của tổ chức mình.
+ Việc thực hiện giải pháp này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với các quy định khác tại Luật PCRT và các quy định pháp luật liên quan.
+ Tuy nhiên, việc quy định về quy trình, tiêu chí đánh giá rủi ro trong Luật PCRT sẽ dẫn đến điều khoản luật quy định quá chi tiết và không mang tính linh hoạt khi cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các tiêu chí đánh giá rủi ro khi không còn phù hợp. Bên cạnh đó, tiêu chí đánh giá rủi ro từng ngành, lĩnh vực, tại từng đối tượng báo cáo có sự khác biệt nhất định, không thể có quy định chung áp dụng cho tất cả, dẫn đến có các quy định riêng trong luật điều chỉnh các lĩnh vực riêng biệt, điều này có thể ảnh hưởng đến tính bao quát, toàn diện của một văn bản Luật.
-Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về định kỳ đánh giá rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng đối tượng báo cáo; áp dụng các biện pháp thích hợp quản lý rủi ro về rửa tiền để phù hợp với các khuyến nghị có liên quan trong Bộ 40 khuyến nghị của FATF, cũng như các kiến nghị của Đoàn đánh giá APG đối với cơ chế PCRT/TTKB của Việt Nam. Cụ thể: Khuyến nghị số 1 là khuyến nghị đầu tiên, đặt nền móng trong việc tiếp cận công tác PCRT/TTKB và TTPBVKHD trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF chỉ ra: “Các quốc gia cần phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền... của quốc gia mình; cần thực hiện các biện pháp, bao gồm việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền hoặc thiết lập cơ chế nhằm phối hợp các hành động để đánh giá rủi ro và sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo rủi ro được quản lý một cách hiệu quả. Dựa trên đánh giá đó, các quốc gia cần áp dụng phương thức tiếp cận trên cơ sở rủi ro nhằm đảm bảo các biện pháp ngăn chặn hoặc giảm thiểu rửa tiền... phù hợp với rủi ro được xác định...Các quốc gia cần phải yêu cầu các tổ chức tài chính và ngành nghề phi tài chính được chỉ định xác định, đánh giá và thực hiện các hành động có hiệu quả nhằm giảm thiểu rủi ro rửa tiền...”.
Nguyên tắc tiếp cận trên cơ sở rủi ro theo đó chi phối hầu hết các khuyến nghị có liên quan, trong đó có các khuyến nghị liên quan đến nhóm khách hàng có rủi ro cao (Những người có ảnh hưởng chính trị, Hoạt động ngân hàng đại lý, Công nghệ mới…) bên cạnh đó có Khuyến nghị số 10 của FATF yêu cầu áp dụng các biện pháp đơn giản hóa đối với khách hàng có rủi ro rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố được xác định ở mức thấp. Như vậy, việc bổ sung tại Luật Phòng, chống rửa tiền các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền, đối tượng báo cáo trong việc quản lý, thanh tra, giám sát và thực hiện các nhiệm vụ có liên quan trên cơ sở đánh giá rủi ro về rửa tiền là một nhu cầu và yêu cầu tất yếu của Việt Nam.
2.4.3. Giải pháp 2C:
Sửa đổi và bổ sung tại Luật PCRT các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT theo định hướng sau:
+ Bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền. Theo đó định kỳ, Ngân hàng Nhà nước chủ trì thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền trong trường hợp có rủi ro phát sinh, trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá. Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm triển khai đánh giá, cập nhật rủi ro ngành về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tình hình thực tế hoạt động của ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành; phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc thẩm quyền quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định.
+ Bổ sung quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của quốc gia, ngành, báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền. Quy định đánh giá rủi ro rửa tiền tại đối tượng báo cáo tạo cơ sở để triển khai tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT tại tổ chức báo cáo và phù hợp với yêu cầu, thực tiễn triển khai việc phân loại khách tại các đối tượng báo cáo.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro, theo đó dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình, trong đó phải có nội dung về việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
a) Tác động về kinh tế: Tương tự như giải pháp 2B.
b) Tác động về xã hội: Tương tự như giải pháp 2B
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Việc bổ sung quy định về việc định kỳ đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, lĩnh vực và tại từng tổ chức tại Luật PCRT sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro. Kết quả đánh giá, xếp hạng về rủi ro rửa tiền ở phạm vi quốc gia, ngành, lĩnh vực là cơ sở để Chính phủ ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động về PCRT; các Bộ, ngành xây dựng được chính sách PCRT hợp lý trong ngành, lĩnh vực mình quản lý; từng đối tượng báo cáo xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa rửa tiền phù hợp, hiệu quả tương ứng với mức độ rủi ro của từng loại khách hàng, sản phẩm, dịch vụ của tổ chức mình.
+ Các quy định này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với quy định của pháp luật hiện hành về PCRT và quy định khác của pháp luật.
+ Quy định “Chính phủ quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền” và “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn các đối tượng báo cáo thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền tại tổ chức” sẽ tạo tính linh hoạt và phù hợp hơn trong quy định hướng dẫn; qua đó nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Tương tự như giải pháp 2B.
2.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 2C nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT, góp phần thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
3. Chính sách 3: Hoàn thiện các quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo và cơ quan có thẩm quyền
3.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Trong công tác PCRT, đối tượng báo cáo giữ vai trò quan trọng trong phát hiện và báo cáo các giao dịch đáng ngờ có thể liên quan đến rửa tiền/tài trợ khủng bố và hoạt động tội phạm khác cho cơ quan chức năng để thực hiện điều tra, truy tố, xét xử, kết án tội phạm rửa tiền, tài trợ khủng bố và các tội phạm nguồn khác của tội rửa tiền. Theo quy định của Luật PCRT hiện hành, đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp PCRT, bao gồm: nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng; báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền các giao dịch vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ; lưu giữ và cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền phục vụ cho mục đích PCRT và phòng, chống các hoạt động tội phạm khác; áp dụng các biện pháp tạm thời theo thẩm quyền và theo yêu cầu của cơ quan chức năng nhằm kịp thời ngăn chặn, phong tỏa các giao dịch nhằm tẩu tán hoặc chuyển giao tiền, tài sản phạm tội; cơ quan có thẩm quyền (cơ quan hải quan) phải rà soát, báo cáo các giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý qua biên giới. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Luật PCRT cho thấy một số hạn chế trong quy định của pháp luật dẫn đến các biện pháp phòng ngừa rửa tiền được đối tượng báo cáo áp dụng chưa đạt được hiệu quả cao trong phát hiện và phòng ngừa các giao dịch nghi ngờ có liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố và hoạt động tội phạm khác; việc rà soát báo cáo các giao dịch bao gồm cả giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý qua biên giới còn gặp khó khăn về cách thức triển khai.
Bên cạnh đó, đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, Luật PCRT hiện hành vẫn chưa quy định đầy đủ, toàn diện theo các yêu cầu của FATF.
Những vấn đề còn tồn tại của Luật PCRT cụ thể như sau:
(i) Các quy định liên quan đến nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi chưa đầy đủ, chưa phù hợp với các yêu cầu của FATF, trong quá trình thực hiện còn phát sinh nhiều bất cập;
(ii) Các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement” tại Khuyến nghị của FATF, ngoài ra, trên thực tế, nội dung này chưa được triển khai thực hiện nhất quán, đồng bộ do chưa có quy định điều chỉnh chi tiết;
(iii) Quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh kinh doanh qua giới thiệu chưa phù hợp với khuyến nghị của FATF đã được sửa đổi, trong đó có nội dung sửa đổi liên quan đến khuyến nghị về việc dựa vào bên thứ ba.
(iv) Quy định về quan hệ đại lý chưa đầy đủ, hiện chưa có quy định về các biện pháp phải áp dụng khi đối tượng báo cáo thực hiện vai trò là ngân hàng đại lý; thiếu các quy định yêu cầu đối tượng báo cáo phải đảm bảo ngân hàng đối tác không cho phép tài khoản của đối tượng báo cáo được sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc;
(vi) Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn chưa làm rõ việc khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có phải áp dụng công nghệ đổi mới phải nhận diện và đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền trước khi đưa vào sử dụng, chưa phù hợp với chuẩn mực của FATF;
(vii) Quy định về nghĩa vụ và cách thức báo cáo các giao dịch có giá trị lớn vượt ngưỡng quy định (giao dịch tiền mặt giá trị lớn, chuyển tiền điện tử trong nước, quốc tế) còn có bất cập trong quá trình áp dụng liên quan đến khả năng thu thập được các thông tin để báo cáo của đối tượng báo cáo đặc biệt là đối với các giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế;
(ix) Quy định về thời hạn báo cáo, bảo mật thông tin, lưu giữ thông tin còn chưa rõ ràng, một số nội dung chưa có quy định;
(x) Ngoài ra, các quy định về cơ chế kiểm soát nội bộ PCRT: quy định trách nhiệm và cơ chế kiểm soát nội bộ giữa các chi nhánh, công ty con, công ty liên kết trong cùng tập đoàn về hoạt động PCRT cần được quy định cụ thể hơn.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Nếu các quy định pháp lý về các vấn đề nêu trên không được sửa đổi, bổ sung tại Luật PCRT, việc thực hiện các biện pháp PCRT của các đối tượng báo cáo sẽ không đầy đủ, toàn diện, đồng thời sẽ khó khăn trong việc triển khai công tác PCRT một cách hiệu quả; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo gặp khó khăn, dẫn đến việc thu thập thông tin có thể không đầy đủ, thông tin, dữ liệu được thu thập không được phân tích, sử dụng hiệu quả phục vụ cho công tác PCRT. Những hậu quả này kết hợp với các thiếu sót về các lĩnh vực khác có liên quan, Việt Nam có thể sẽ bị FATF đưa vào danh sách các nước có những thiếu hụt nghiêm trọng trong cơ chế PCRT.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ, chi tiết về các biện pháp phòng ngừa mà đối tượng báo cáo phải thực hiện. Bên cạnh đó, các khuyến nghị của FATF đã được sửa đổi nhiều lần như đã đề cập ở trên, các quy định của Luật PCRT chưa được sửa đổi, điều chỉnh phù hợp.
3.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo hành lang pháp lý đầy đủ, toàn diện cho đối tượng báo cáo thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp phòng, ngừa rửa tiền, giúp phát hiện, báo cáo và ngăn chặn kịp thời các giao dịch liên quan đến rửa tiền và các tội phạm tiền thân của tội rửa tiền; góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, ngừa rửa tiền.
3.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
3.3.1. Giải pháp 3A: Giữ nguyên hiện trạng.
3.3.2. Giải pháp 3B: Sửa đổi và bổ sung các quy định về các biện pháp PCRT được đối tượng báo cáo áp dụng, gồm: nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng của đối tượng báo cáo; rà soát, phát hiện và báo cáo cơ quan PCRT thuộc NHNN các giao dịch vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ; lưu giữ thông tin khách hàng và cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền phục vụ cho mục đích PCRT và phòng, chống các hoạt động tội phạm khác; áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật; trách nhiệm của cơ quan có liên quan trong khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới; trách nhiệm của NHNN trong tiếp nhận và xử lý thông tin; cách thức báo cáo; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo.
3.3.3. Giải pháp 3C:Sửa đổi và bổ sung các quy định về các biện pháp PCRT được đối tượng báo cáo áp dụng, gồm: nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng của đối tượng báo cáo; rà soát, phát hiện và báo cáo cơ quan PCRT thuộc NHNN các giao dịch vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ; lưu giữ thông tin khách hàng và cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền phục vụ cho mục đích PCRT và phòng, chống các hoạt động tội phạm khác; áp dụng các biện pháp tạm thời theo quy định của pháp luật. Sửa đổi, bổ sung quy định về việc khai báo, cung cấp thông tin các giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý qua biên giới, bao gồm các quy định về (i) bổ sung đơn vị có trách nhiệm tiếp nhận thông tin khai báo hải quan trong trường hợp nơi khai báo không có cơ quan hải quan thì khai báo với bộ đội biên phòng, cảnh sát biển và (ii) trách nhiệm của Hải quan, Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển phải lưu trữ thông tin thu thập được tại khoản 1 và cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và NHNN khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, TTKB, TTPBVKHD.
3.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
3.4.1. Giải pháp 3A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
Nếu giữ nguyên hiện trạng quy định của pháp luật, việc thực hiện các biện pháp PCRT của đối tượng báo cáo sẽ không đầy đủ, toàn diện; đối tượng báo cáo sẽ tăng nguy cơ bị tội phạm rửa tiền lợi dụng để rửa tiền do cơ chế PCRT còn hạn chế. Các đối tượng báo cáo đặc biệt là các tổ chức tài chính như các ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm có thể bị ảnh hưởng đến việc xếp hạng uy tín hoạt động do chương trình, chính sách phòng, chống rửa tiền áp dụng tại tổ chức còn thiếu hụt. Theo đó, các tổ chức tài chính có thể gặp các tác động tiêu cực khi thiết lập các mối quan hệ kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Đặc biệt, trong lĩnh vực ngân hàng, việc các ngân hàng bị đánh giá có thiếu hụt trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thiết lập và duy trì quan hệ ngân hàng đại lý với các tổ chức tín dụng ở nước ngoài. Tác động này ảnh hưởng trực tiếp đến các giao dịch tài chính, ngân hàng, làm tăng chi phí các giao dịch thanh toán quốc tế, gián tiếp ảnh hưởng đến các hoạt động thanh toán, kinh doanh, xuất nhập khẩu của các cá nhân, tổ chức Việt Nam với các đối tác nước ngoài.
Bên cạnh đó, Việt Nam có thể sẽ bị FATF đưa vào danh sách các nước có những thiếu hụt nghiêm trọng trong cơ chế PCRT do không có biện pháp khắc phục những thiếu hụt về mặt pháp lý đã được chỉ ra trong báo cáo đánh giá của Đoàn đánh giá APG về cơ chế PCRT của Việt Nam. Khi một quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực. Cụ thể, theo nghiên cứu của IMF
[2], quốc gia bị rơi vào Danh sách Xám sẽ bị giảm sút đáng kể luồng vốn đầu tư của nước ngoài vào quốc gia đó (khoảng 7,6% trên tổng GDP cả nước). Khi đó, giao dịch tài chính ra nước ngoài của các tổ chức tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán...) tại quốc gia này sẽ bị các nước tính phí cao hơn và giao dịch sẽ phải chịu sự rà soát tăng cường. Các chi phí này ước tính có thể lên tới hàng triệu USD tùy thuộc quy mô nền kinh tế.
- Lợi ích: Không làm phát sinh thêm chi phí để các đối tượng báo cáo sửa đổi chính sách, bố trí nhân lực thực hiện quy trình triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về mặt xã hội của giải pháp này hầu như không tăng thêm.
- Mặt tiêu cực: Quy định về các biện pháp PCRT còn thiếu hụt, các biện pháp PCRT toàn diện, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế chưa được đối tượng báo cáo thực hiện đầy đủ, có thể dẫn đến việc các đối tượng báo cáo bị lợi dụng để rửa tiền, gia tăng tội phạm về rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi: Khung pháp lý quy định cho đối tượng báo cáo thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền; cơ quan thẩm quyền thực hiện việc rà soát, thu thập, báo cáo và xử lý thông tin báo cáo về các giao dịch vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý qua biên giới chưa được quy định toàn diện và đồng bộ. Do vậy, điều này ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền nói riêng và công tác PCRT nói chung.
- Về tính tương thích với khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc không sửa đổi, bổ sung các quy định về biện pháp phòng ngừa rửa tiền tại Luật PCRT không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT.
3.4.2. Giải pháp 3B: Sửa đổi các quy định hiện hành về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng; báo cáo, cung cấp và lưu giữ thông tin; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo các định hướng sau:
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng (Điều 9, Điều 10 và Điều 11 Luật PCRT) theo hướng đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với các yêu cầu của 40 Khuyến nghị của FATF; chỉnh sửa các quy định liên quan đến chủ sở hữu hưởng lợi (cách xác định, các yêu cầu thu thập thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi); bổ sung các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận pháp lý.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP) thông qua việc bổ sung PEP của các tổ chức quốc tế, những người có liên quan và các biện pháp áp dụng tương ứng.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về ngân hàng đại lý: quy định các biện pháp phải áp dụng khi đối tượng báo cáo thực hiện vai trò là ngân hàng đại lý.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về giám sát đặc biệt giao dịch.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về báo cáo giao dịch đáng ngờ, mở rộng các dấu hiệu cảnh báo về giao dịch đáng ngờ; sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ và cách thức báo cáo các giao dịch có giá trị lớn vượt ngưỡng quy định (giao dịch tiền mặt giá trị lớn, chuyển tiền điện tử trong nước, quốc tế); quy định Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ quy định, bổ sung các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực có thể phát sinh trong từng thời kỳ.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới theo hướng xác định loại kim loại quý, đá quý thuộc đối tượng phải thống kê, báo cáo theo quy định của pháp luật PCRT; trách nhiệm của cơ quan hải quan trong tổ chức và quản lý thông tin dữ liệu khai báo hải quan, chia sẻ thông tin dữ liệu khai báo hải quan cho cơ quan có thẩm quyền vì mục đích PCRT; trách nhiệm của Cơ quan PCRT thuộc NHNN trong tiếp nhận và xử lý thông tin; cách thức tính toán, xác định giá trị kim loại quý, đá quý vượt ngưỡng quy định phải báo cáo; cách thức báo cáo; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo.
+ Bổ sung quy định về cơ chế kiểm soát nội bộ phòng, chống rửa tiền: quy định trách nhiệm và cơ chế kiểm soát nội bộ giữa các chi nhánh, công ty con, công ty liên kết trong cùng tập đoàn về hoạt động PCRT.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng quy định cụ thể hơn về cách thức, thẩm quyền áp dụng; bổ sung hướng dẫn rà soát giao dịch liên quan tới danh sách đen.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Việc thực hiện chính sách này sẽ làm phát sinh thêm các chi phí, cụ thể:
+ Chi phí phát sinh cho các đối tượng báo cáo bao gồm: chi phí để nghiên cứu, sửa đổi các chính sách, quy trình nội bộ phù hợp với các quy định mới của pháp luật; chi phí thiết lập lại hệ thống, quy trình báo cáo, quy trình nghiệp vụ trong trường hợp đối tượng báo cáo áp dụng công nghệ thông tin như các chương trình phần mềm nghiệp vụ về phòng, chống rửa tiền; chi phí đào tạo bổ sung và đào tạo lại cán bộ về phòng, chống rửa tiền; các đối tượng báo cáo có thể phải bố trí bổ sung nhân sự hoặc tuyển dụng nhân sự mới để thực hiện quy trình triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mới bổ sung.
+ Chi phí phát sinh cho các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tài chính, NHNN, Bộ Quốc phòng,...) bao gồm: chi phí thiết lập hệ thống, trang bị máy móc, phương tiện để sàng lọc, xác định giá trị kim loại quý, đá quý vượt ngưỡng phải báo cáo; xử lý thông tin, dữ liệu báo cáo đưa ra các kết quả, phát hiện phục vụ công tác PCRT; chi phí bổ sung thêm nguồn nhân lực, đào tạo nghiện vụ cho cán bộ thực hiện các công việc nêu trên.
+ Chi phí phát sinh cho tổ chức, cá nhân bao gồm: chi phí thời gian, nhân lực thực hiện khai báo hải quan về các giao dịch qua biên giới. Tuy nhiên, các chi phí này là không đáng kể.
- Lợi ích:
Chính sách được thực hiện sẽ hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng cụ thể, chi tiết và rõ ràng tạo điều kiện cho đối tượng báo cáo thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa về rửa tiền. Việc các đối tượng báo cáo thực hiện tốt biện pháp phòng ngừa trong PCRT đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác phòng ngừa, phát hiện các giao dịch đáng ngờ liên quan tới rửa tiền, đồng thời, giảm thiểu nguy cơ các đối tượng báo cáo bị tội phạm lợi dụng để rửa tiền. Các báo cáo giao dịch giá trị lớn vượt ngưỡng quy định, giao dịch đáng ngờ được phát hiện và được báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền là cơ sở cho việc phát hiện, điều tra, truy tố xét xử tội phạm rửa tiền, tham nhũng và các tội phạm nguồn của tội rửa tiền. Qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm rửa tiền và tham nhũng.
Ngoài ra, việc đối tượng báo cáo có các chương trình PCRT hiệu quả, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đối tượng báo cáo trong quan hệ kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, uy tín của các tổ chức tài chính được xếp hạng cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc thiết lập các mối quan hệ với các đối tác ở nước ngoài, ví dụ như thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý...
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này được thực hiện sẽ góp phần giảm thiểu nguy cơ các đối tượng báo cáo bị tội phạm lợi dụng để rửa tiền; qua đó, giảm thiểu các hoạt động tội phạm rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, tạo lập môi trường xã hội an toàn. Không có tác động tiêu cực về mặt xã hội.
- Tác động tiêu cực về xã hội của giải pháp này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Về cơ bản việc hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng cụ thể, chi tiết và rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho đối tượng báo cáo thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa về rửa tiền và sẽ không làm phát sinh các công việc mới. Các nội dung đề xuất sửa đổi các quy định tại Luật PCRT về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền được xây dựng theo hướng nhằm giải quyết được các vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi các biện pháp PCRT tại Luật PCRT, đảm bảo tính khả thi của các quy định và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức báo cáo triển khai trách nhiệm của mình trong công tác PCRT hiệu quả.
+ Các quy định này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với quy định của pháp luật hiện hành về PCRT và quy định khác của pháp luật.
+ Tuy nhiên, cách thức tính toán, xác định giá trị kim loại quý, đá quý vượt ngưỡng quy định phải báo cáo; cách thức báo cáo; cách thức xử lý thông tin, dữ liệu được báo cáo trong Luật PCRT sẽ dẫn đến điều khoản luật quy định quá chi tiết và không mang tính linh hoạt khi cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các quy định khi có các tình huống thay đổi, phát sinh trong tương lai. Mặt khác, quy định về cách thức tính toán, cách thức xử lý thông tin, dữ liệu là những quy định mang tính nghiệp vụ, kỹ thuật và chuyên biệt nên được hướng dẫn quy định bởi các bộ, ngành chuyên ngành trong các văn bản dưới luật.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về áp dụng các biện pháp phòng ngừa đối với đối tượng báo cáo để phù hợp với các khuyến nghị có liên quan trong Bộ 40 khuyến nghị của FATF, cũng như các kiến nghị của Đoàn đánh giá APG đối với cơ chế PCRT/TTKB của Việt Nam. Cụ thể: khuyến nghị 10 quy định về việc xác định chủ sở hữu hưởng lợi và thu thập thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi khi đối tượng báo cáo thực hiện nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng; từ khuyến nghị 13 đến khuyến nghị 23 quy định về các hoạt động ngân hàng đại lý, giao dịch liên quan tới công nghệ mới, báo cáo giao dịch…
3.4.3. Giải pháp 3C: Sửa đổi các quy định hiện hành về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng, về các sản phẩm, dịch vụ mới, áp dụng công nghệ đổi mới, về cá nhân có ảnh hưởng chính trị, về trách nhiệm báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin và xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền. theo các định hướng sau:
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về nhận biết, cập nhật, xác minh thông tin khách hàng (Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13 và Điều 14 Luật PCRT) theo hướng đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với các yêu cầu của 40 Khuyến nghị của FATF; chỉnh sửa các quy định liên quan đến thỏa thuận pháp lý, minh bạch pháp nhân, minh bạch hoạt động của các tổ chức lợi nhuận..
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về cá nhân có ảnh hưởng chính trị (PEP) bao gồm PEP của các tổ chức quốc tế và những người có liên quan đến PEP và các biện pháp tương ứng.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về quan hệ ngân hàng đại lý: quy định các biện pháp phải áp dụng khi đối tượng báo cáo thực hiện vai trò là ngân hàng đại lý (không chỉ trường hợp đối tượng báo cáo thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với ngân hàng đối tác nước ngoài).
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của đối tượng báo cáo khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới; sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về giám sát một số giao dịch đặc biệt.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ và cách thức báo cáo các giao dịch có giá trị lớn vượt ngưỡng quy định (giao dịch tiền mặt giá trị lớn, chuyển tiền điện tử trong nước, quốc tế).
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về khai báo, cung cấp thông tin về việc vận chuyển tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới; và các trách nhiệm có liên quan.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về quy định nội bộ, thời hạn, hình thức, cách thức thực hiện báo cáo về PCRT.
a) Tác động về kinh tế: Tương tự như giải pháp 3B
b) Tác động về xã hội: Tương tự như giải pháp 3B
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
- Về tính thống nhất và khả thi:
+ Các nội dung đề xuất sửa đổi các quy định tại Luật PCRT về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền được xây dựng theo hướng nhằm giải quyết được các vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi các biện pháp PCRT tại Luật PCRT, đảm bảo tính khả thi của các quy định và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức báo cáo triển khai trách nhiệm của mình trong công tác phòng, chống rửa tiền hiệu quả.
+ Một số nội dung mang tính kỹ thuật liên quan đến các trường hợp nhận biết khách hàng, tiêu chí xác định chủ sở hữu hưởng lợi như quy định về cách thức thu thập, xử lý thông tin, dữ liệu; bổ sung dấu hiệu giao dịch đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực,… quy định theo hướng giao Chính phủ, Bộ quy định cụ thể tại văn bản dưới luật. Quy định trong các văn bản hướng dẫn luật các nội dung này cũng tạo sự linh hoạt trong các quy định, có thể sửa đổi, bổ sung kịp thời theo các yêu cầu thực tiễn phát sinh, do vậy, góp phần nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật.
+ Việc thực hiện giải pháp này không mâu thuẫn hoặc chồng chéo với quy định khác tại Luật PCRT và các quy định pháp luật liên quan.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Tương tự như giải pháp 3B.
3.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 3C nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, tạo điều kiện cho các đối tượng báo cáo thực hiện tốt công tác PCRT.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
4. Chính sách 4: Hoàn thiện các quy định để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền của NHNN
4.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Hiện nay, theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật PCRT đều giao NHNN chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về PCRT. Tại NHNN, Cơ quan, Thanh tra, giám sát ngân hàng đang được giao thực hiện nhiệm vụ này và Cục Phòng, chống rửa tiền là đơn vị thuộc Cơ quan, Thanh tra, giám sát ngân hàng được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về PCRT. Điều này không phù hợp với khuyến nghị của FATF và yêu cầu của thực tiễn triển khai công tác PCRT hiện nay. Tại khuyến nghị 29 của FATF yêu cầu mỗi quốc gia cần phải thành lập đơn vị tình báo tài chính (FIU), trong đó FIU cần phải được trao đầy đủ thẩm quyền để thu thập các thông tin từ các tổ chức báo cáo, truy cập một cách kịp thời các thông tin tài chính và thực thi pháp luật để thực hiện tốt 3 chức năng chính là (i) tiếp nhận, (ii) phân tích, và (iii) chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố một cách độc lập.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG năm 2022, APG đã chỉ ra việc Cục trưởng Cục PCRT chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và Thống đốc NHNN về mọi hoạt động của Cục PCRT là chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để Cục PCRT thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự chủ; việc Cục PCRT nằm trong CQTTGSNH có thể dẫn đến một số quan ngại về vấn đề bảo mật thông tin và lo ngại về tính độc lập trong hoạt động của FIU, vốn được coi trọng đặc biệt. Trên cơ sở đó, APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền và tính độc lập cho Cục PCRT để nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Quy định về việc hiện nay sẽ gây khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của cơ quan đảm nhiệm vai trò đầu mối quốc gia trong công tác thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT.
Với mô hình tổ chức, vị trí, chức năng của Cục PCRT hiện nay, chưa đáp ứng được yêu cầu về tính độc lập của FIU theo chuẩn mực quốc tế, là một trong lý do chính mà Việt Nam chưa gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont) mặc dù đã có đơn gia nhập và đã được công nhận là quan sát viên của Nhóm Egmont từ năm 2010. Do vậy, khuyến nghị 29 – khuyến nghị trung tâm trong công tác về PCRT sẽ tiếp tục bị APG đánh giá chưa tuân thủ đầy đủ.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Nguyên nhân chính gây ra vấn đề là việc giao nhiệm vụ về PCRT tại Luật NHNN chưa đáp ứng được các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế và chưa phù hợp với thực tiễn triển khai.
4.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Tạo hành lang pháp lý đầy đủ để NHNN phân công thực hiện chức năng phân tích, xử lý, chuyển giao và trao đổi thông tin về PCRT một cách phù hợp, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động PCRT của NHNN.
4.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
4.3.1. Giải pháp 4A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
4.3.2. Giải pháp 4B: Sửa đổi, bổ sung các quy định khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền trong trách nhiệm của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
4.3.2. Giải pháp 4C: Sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT hiện hành theo hướng quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc NHNN gắn với các chức năng thu thập, xử lý, chuyển giao thông tin về PCRT; trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước trong việc thực hiện công tác PCRT; giám sát, cảnh báo về PCRT.
4.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
4.4.1. Giải pháp 4A: Giữ nguyên hiện trạng
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Hiệu quả triển khai trách nhiệm của NHNN trong công tác PCRT còn hạn chế, dẫn đến công tác chuyển giao thông tin về giao dịch đáng ngờ cho cơ quan có thẩm quyền chưa thực sự hiệu quả, hoạt động hợp tác trong nước và hợp tác quốc tế về PCRT gặp nhiều khó khăn.
- Lợi ích: Không làm phát sinh thêm chi phí để tổ chức lại bộ máy, triển khai thực hiện trách nhiệm đầu mối quốc gia về PCRT.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về xã hội của giải pháp này hầu như không tăng thêm.
- Mặt tiêu cực: Hiệu quả hoạt động của cơ quan đầu mối về PCRT hạn chế sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả công tác PCRT nói chung đặc biệt là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền, có thể góp phần dẫn đến môi trường xã hội thiếu an toàn, minh bạch.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi: Việc giữ nguyên quy định pháp luật hiện hành sẽ không tạo được khung pháp lý phù hợp cho hoạt động thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT; hợp tác trong nước và quốc tế về PCRT của NHNN.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Việc giữ nguyên quy định pháp luật hiện hành sẽ không đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tại các khuyến nghị của FATF về PCRT.
4.4.2. Giải pháp 4B:Sửa đổi, bổ sung các quy định khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền trong trách nhiệm của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
(i) Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc thực hiện chính sách này sẽ phát sinh thêm chi phí do việc tổ chức lại bộ mày. Tuy nhiên, chi phí này không lớn do đơn vị thực hiện chức năng phân tích, xử lý, chuyển giao và trao đổi thông tin về PCRT đã được thành lập và vận hành từ thời điểm cơ chế PCRT bắt đầu có ở Việt Nam (hơn 15 năm qua), đơn vị này đã có tổ chức, bộ máy và nhân sự để thực hiện nhiệm vụ, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị đầu mối của Ngân hàng Nhà nước về PCRT này sẽ không làm phát sinh nhiều chi phí.
(ii) Đối với đối tượng báo cáo, giải pháp này không gây cản trở đến hoạt động bình thường của các tổ chức, cá nhân là đối tượng báo cáo.
- Lợi ích:
Việc việc tách chức năng PCRT ra khỏi CQTTGSNH tạo cơ sở nâng cấp Cục PCRT thành đơn vị thuộc NHNN là cần thiết. Theo đó, công tác PCRT được đẩy mạnh do quy định rõ ràng, phù hợp với thực tiễn, thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoạt động phân tích và chuyển giao thông tin PCRT được nâng cao chất lượng, do đó, nguồn thông tin chuyển giao từ cơ quan đầu mối về PCRT của Ngân hàng Nhà nước cho các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan điều tra, toà án, viện kiểm sát... được gia tăng thêm giá trị và chất lượng, qua đó hỗ trợ, thúc đẩy công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này được thực hiện sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động PCRT của NHNN, nâng cao hiệu quả chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT cho cơ quan có thẩm quyền. Qua đó, chính sách này sẽ thúc đẩy công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền; giảm thiểu các hoạt động tội phạm rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, tạo lập môi trường xã hội an toàn.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về mặt xã hội của giải pháp này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi:
Việc thực hiện giải pháp này sẽ tạo khung pháp lý toàn diện, đồng bộ cho các hoạt động thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT; hợp tác trong nước và quốc tế về PCRT; cảnh báo, giám sát trong PCRT, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị đầu mối về PCRT thuộc NHNN.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập, phân tích, chuyển giao thông tin về PCRT; hợp tác trong nước và quốc tế về PCRT, giám sát về PCRT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đầu mối về PCRT. Quy định này để phù hợp với khuyến nghị 29 và một số khuyến nghị liên quan về chức năng, thẩm quyền của đơn vị tình báo tài chính với vai trò là cơ quan đầu mối trong công tác PCRT của một quốc gia. Việc sửa đổi các quy định này cũng nhằm khắc phục những khuyết thiếu trong quy định của pháp luật cũng như hạn chế về hiệu quả hoạt động của đơn vị tình báo tài chính của Việt Nam đã được Đoàn đánh giá APG nhận định trong báo cáo đánh giá về cơ chế PCRT của Việt Nam. Điều này cũng góp phần tạo cơ sở Việt Nam gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont), ký kết Bản ghi nhớ (MOU) để trao đổi thông tin về PCRT.
4.4.3. Giải pháp 4C: Sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT hiện hành theo hướng kết cấu một mục riêng tại Luật PCRT quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc NHNN gắn với các chức năng thu thập, xử lý, chuyển giao thông tin về PCRT; trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước trong việc thực hiện công tác PCRT; giám sát, cảnh báo về PCRT.
a) Tác động về kinh tế: Tương tự như giải pháp 4B
b) Tác động về xã hội: Tương tự như giải pháp 4B
b) Tác động về pháp luật:
- Về tính thống nhất và khả thi:
Quy định về vị trí, chức năng và thẩm quyền của cơ quan đầu mối trong công tác PCRT sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đầu mối về PCRT thuộc NHNN với vai trò là cơ quan đầu mối tham mưu, triển khai thực hiện công tác PCRT. Tuy nhiên, việc quy định về đơn vị đầu mối thực hiện chức năng về PCRT không phù hợp với chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong sắp xếp, tổ chức bộ máy của nhà nước.
- Về tính tương thích với các khuyến nghị quốc tế về PCRT: Tương tự như giải pháp 4B.
4.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 4B nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng trong công tác thu thập, phân tích, chuyển giao và trao đổi thông tin về PCRT, củng cố vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan tích cực tham gia trong công tác PCRT.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
5. Chính sách 5: Sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
5.1. Xác định vấn đề bất cập
- Vấn đề bất cập:
Hiện nay, Luật PCRT đã có Chương III quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền gồm: trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, các cơ quan khác của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp (Nghị định số 116/2013/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật PCRT đã quy định bổ sung trách nhiệm của Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Tuy nhiên, điều này cần được luật hóa tại Luật để đảm bảo tính thống nhất. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực dự kiến được bổ sung đối tượng báo cáo như đề xuất ở Chính sách 1 cũng cần phải quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền đối với các lĩnh vực mới này. Ngoài ra một số trách nhiệm mới của một số bộ, ngành như đánh giá rủi ro, thanh tra, giám sát căn cứ vào kết quả đánh giá rủi ro, trách nhiệm đối với những lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý cần được quy định cụ thể.
- Hậu quả nếu vấn đề không được giải quyết:
Nếu không quy định chức năng, nhiệm vụ quản lý, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực cụ thể và các lĩnh vực mới bổ sung (theo Chính sách 1) trong Luật PCRT thì các đối tượng báo cáo trong các lĩnh vực này sẽ không được thanh tra, giám sát đầy đủ về PCRT, dẫn đến những kẽ hở mà tội phạm có thể lợi dụng lĩnh vực hoạt động này để thực hiện các hành vi phạm tội, trong đó có hành vi rửa tiền. Ngoài ra, không có cơ sở để các bộ, ngành triển khai trách nhiệm mới liên quan đến kết nối, cung cấp, chia sẻ thông tin về phòng, chống rửa tiền.
- Nguyên nhân gây ra vấn đề:
Nguyên nhân chính gây ra vấn đề là chưa quy định chức năng, nhiệm vụ quản lý, thanh tra, giám sát phòng, chống rửa tiền đối với một số lĩnh vực thuộc quyền quản lý của các bộ, ngành và các lĩnh vực có rủi ro tiềm ẩn và quy định liên quan đến các trách nhiệm mới đặt ra.
5.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan trong công tác PCRT và trách nhiệm đối với các đối tượng báo cáo, các nhiệm vụ mới phát sinh.
5.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
5.3.1. Giải pháp 5A: Giữ nguyên hiện trạng (giữ nguyên như quy định pháp luật hiện hành)
5.3.2. Giải pháp 5B: Sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác PCRT.
5.4. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
5.4.1. Giải pháp 5A: Giữ nguyên hiện trạng
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí: Không quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro ngành, lĩnh vực đối với các cơ quan quản lý sẽ dẫn đến việc không có cơ sở triển khai đồng bộ. Bên cạnh đó, công tác giám sát, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ thực hiện quy định phòng, chống rửa tiền đối với các đối tượng báo cáo trong một số lĩnh vực sẽ không được triển khai thực hiện, dẫn đến khả năng rất lớn những lĩnh vực này dễ bị tội phạm lợi dụng để thực hiện các hoạt động phi pháp, trong đó có hoạt động rửa tiền.
- Lợi ích: Không làm phát sinh thêm chi phí để các bộ, ngành liên quan đào tạo nhân lực thực hiện công tác PCRT.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Tác động tích cực về xã hội của giải pháp này hầu như không có.
- Mặt tiêu cực: Việc không quy định về trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc đánh giá rủi ro ngành, lĩnh vực và không quy định về trách nhiệm của một số bộ ngành trong việc thanh tra, giám sát đối với các đối tượng báo cáo trong một số lĩnh vực sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả trong thực hiện các biện pháp PCRT, thanh tra, giám sát về PCRT, tác động tiêu cực đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và có thể góp phần dẫn đến môi trường xã hội thiếu an toàn.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật
Việc giữ nguyên quy định hiện hành sẽ dẫn đến việc không có đầy đủ quy định pháp lý quy định cơ quan quản lý nhà nước về PCRT đối với lĩnh vực quản lý và những lĩnh vực mới phát sinh nên không có cơ chế đầy đủ để quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các lĩnh vực này và căn cứ để triển khai các nhiệm vụ mới.
5.4.2. Giải pháp 5B: Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về:
+ Trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc triển khai các biện pháp PCRT, công tác thanh tra, giám sát về PCRT đối với từng loại hình đối tượng báo cáo bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
+ Trách nhiệm của các Bộ, ngành trong quản lý về PCRT với những lĩnh vực mới phát sinh đối tượng báo cáo bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
+ Cung cấp thông tin về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: quy định cơ chế hợp tác, chia sẻ, cung cấp thông tin giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về PCRT, tài trợ khủng bố.
a) Tác động về kinh tế:
- Chi phí:
Về việc phát sinh thêm nguồn nhân lực:
Việc sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT hầu như không làm phát sinh thêm hoặc làm thay đổi cơ cấu, bộ máy tại các bộ, ngành. Luật PCRT hiện hành đã phân định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền đối với phần lớn các lĩnh vực quản lý nhà nước. Hiện nay, ngoại trừ Ngân hàng Nhà nước có bộ máy chuyên trách về PCRT, nhân lực và bộ máy làm công tác này tại hầu hết các bộ, ngành đều là kiêm nhiệm. Đối với các cơ quan có vai trò lớn trong công tác PCRT gồm Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an, việc triển khai mạnh mẽ và đồng bộ công tác PCRT sẽ làm gia tăng khối lượng báo cáo, yêu cầu xử lý thông tin và đương nhiên phải có một nguồn lực đủ (bao gồm cả nhân lực, vật lực chú trọng đến công nghệ cao). Tuy nhiên, yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực cho Ngân hàng Nhà nước và Bộ Công an đã được thể hiện tại Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014; Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 474/QĐ-TTg ngày 30/4/2019. Các yêu cầu này đang được triển khai trên thực tế. Về cơ bản, việc triển khai chính sách này vẫn đảm bảo đúng với chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Lợi ích: Công tác PCRT được đẩy mạnh áp dụng đến tất cả các bộ, ngành, cơ quan liên quan (tòa án, viện kiểm sát) trong thể chế chính trị; góp phần đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
b) Tác động về xã hội:
- Mặt tích cực: Chính sách này được thực hiện sẽ thúc đẩy công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền; qua đó, giảm thiểu các hoạt động tội phạm rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng; góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, tạo lập môi trường xã hội an toàn.
- Mặt tiêu cực: Tác động tiêu cực về xã hội của giải pháp này hầu như không có.
c) Tác động đối với hệ thống pháp luật:
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực hiện công tác PCRT được đề xuất phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ, ngành, do đó đảm bảo tính thống nhất với các quy định pháp luật có liên quan và tính khả thi.
5.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Qua phân tích đánh giá các tác động của các chính sách về mặt kinh tế, xã hội đối với giải pháp đưa ra, Cơ quan soạn thảo đề xuất lựa chọn giải pháp 5B nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, củng cố vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan tích cực tham gia trong công tác PCRT.
Để giải quyết triệt để vấn đề bất cập đã nêu, cần thiết phải trình Quốc hội xây dựng Luật PCRT (sửa đổi).
6. Đánh giá chung về các chính sách
6.1. Về tác động của thủ tục hành chính
Các chính sách được đề xuất không làm phát sinh thủ tục hành chính.
6.2. Về tác động về giới
Các chính sách được đề xuất không có tác động đến các vấn đề về bình đẳng giới.
6.3. Về tính tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan
Nhìn chung, các chính sách được đề xuất không trái với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, gồm Công ước Liên hiệp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (UNTOC), Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố.
III. LẤY Ý KIẾN
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tổ chức lấy ý kiến đối với nội dung đánh giá tác động của chính sách nêu trên qua 02 hình thức:
1. Gửi văn bản lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức liên quan, đối tượng chịu sự tác động của chính sách.
2. Đăng tải nội dung dự thảo báo cáo đánh giá tác động của chính sách lên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước để lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân.
IV. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
- Cơ quan giám sát: Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội; Hội đồng dân tộc; Ủy ban của Quốc hội; đại biểu Quốc hội.
- Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chính sách: Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Bộ, ngành có liên quan.
Trên đây là nội dung Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)./.
Báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012-2017 của Việt Nam và đánh giá của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) đối với cơ chế phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của Việt Nam năm 2019; Báo cáo số 255/BC-BTP ngày 29/10/2018 của Bộ Tư pháp về việc rà soát, đánh giá toàn diện thực trang pháp luật, thực tiễn về tài sản ảo ở Việt Nam và quốc tế; nhận diện, đề xuất các định hướng hoàn thiện
[2] IMF Working Paper WP/21/153.
Báo cáo thẩm định dự thảo Luật phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Bộ Tư pháp
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo trình UBTVQH tại phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 8/2022)
4-bc115-BTP-tham-dinh-DA-Luat-Phong-chong-rua-tien-sd---20220809100419.pdf
Vui lòng click vào file đính kèm để tải tài liệu
Tờ trình Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo trình UBTVQH tại phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 8/2022)
1-TTr-CP-ve-DA-Luat-Phong-chong-rua-tien-sd---20220809100419-1-.doc
Kính gửi: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020), Nghị quyết số 50/2022/UBTVQH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội khóa XV về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2022, điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2023, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) như sau:
I. SỰCẦNTHIẾTBANHÀNHLUẬTPHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN (SỬA ĐỔI)
1. Cơ sở chính trị
Một trong các giải pháp được đưa ra tại Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng là nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là PCRT) là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác PCRT nói riêng và phòng, chống tham nhũng nói chung phát triển và hoàn thiện, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đồng thời, tại Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ (điểm 1 Phần IV Kế hoạch) và Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật PCRT phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
2. Cơ sở về thực hiện điều ước quốc tế và cam kết quốc tế
a) Về các điều ước quốc tế
Ngày 18/4/2013, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số 605/QĐ-TTg về Phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Công ước Palécmô bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của Công ước bằng cách nội luật hóa, bao gồm cả các quy định về PCRT như hình sự hóa đầy đủ tội rửa tiền (Điều 6), xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan có thẩm quyền (Điều 7), thành lập một đơn vị tình báo tài chính của quốc gia và thúc đẩy hợp tác quốc tế (Điều 7).
Để triển khai Công ước trên, điểm 2 (a) mục II Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô đã quy định về nhiệm vụ rà soát để hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về phòng, chống tội phạm cho phù hợp với Công ước và Nghị định thư, trong đó có Luật PCRT.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước Liên hợp quốc về Chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần (Công ước Viên 1988) vào tháng 11/1997 và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Công ước Merida) tháng 8/2009.
Công ước Viên chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước Viên không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng khoản 1 Điều 3 Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó.
Công ước Merida yêu cầu các quốc gia thành viên phải: xây dựng các biện pháp chống rửa tiền (Điều 14); phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do phạm tội mà có (Điều 52); thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích và chuyển giao cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ (Điều 58); hình sự hóa các tội phạm liên quan đến tài sản do phạm tội mà có trong đó có tội tham nhũng (Chương 3), đồng thời có các biện pháp xử lý tội tham nhũng hiệu quả, tăng cường hợp tác quốc tế (Chương 4).
Như vậy, theo yêu cầu của các công ước nêu trên, các quốc gia thành viên, tham gia hoặc phê chuẩn công ước đều phải có các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các hành vi buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần, phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia và hành vi tham nhũng, tài trợ khủng bố. Để thực hiện các biện pháp này, các quy định pháp luật về biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố cũng cần được áp dụng có hiệu quả để phòng ngừa, phát hiện các hành vi nêu trên. Do vậy, việc sửa đổi Luật PCRT là một yêu cầu để thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn.
b) Về thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam
Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về PCRT (APG). Việc gia nhập APG khẳng định cam kết và nỗ lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới trong việc xây dựng một thể chế tài chính lành mạnh và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền/tài trợ khủng bố/tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt (RT/TTKB/TTPBVKHDHL) nói riêng. Điều này góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở để Việt Nam tham gia các hoạt động hợp tác song phương, đa phương thông qua các Hiệp định, diễn đàn, thỏa thuận… quốc tế, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trên thực tế, việc Việt Nam trở thành thành viên của APG đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình Việt Nam tham gia các diễn đàn của Liên Hiệp quốc như hoạt động của Văn phòng phòng chống tội phạm và ma túy, gia nhập và triển khai các Công ước và Nghị quyết có liên quan. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tạo điều kiện thuận lợi trong việc nhận được các chính sách ưu đãi của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á… cũng như sự hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế khác cho sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Việc gia nhập APG cũng tạo điều kiện cho các thành phần trong nền kinh tế mở rộng phạm vi hoạt động ở nước ngoài và hợp tác với các tổ chức quốc tế.
Ngoài ra, với tư cách thành viên của APG, Việt Nam đã được hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo về phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL thông qua các chương trình hỗ trợ phù hợp dành cho các nước thành viên của APG để nâng cao việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, hàng năm, APG xây dựng các mô hình để xem xét các xu hướng RT/TTKB/ TTPBVKHDHL mới nổi ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để cung cấp cho các thành viên nhằm phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả hơn. Trước yêu cầu về công tác PCRT trong hình hình mới ngày càng khó khăn, phức tạp, việc tiếp tục là thành viên của APG và nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ của thành viên tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của Việt Nam, qua đó, tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh những lợi ích thành viên nêu trên, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ thành viên của APG. Theo đó, Việt Nam phải cam kết đóng góp vào quỹ của APG hàng năm trên cơ sở quy mô nền kinh tế theo quy định của APG, cam kết thực hiện các chuẩn mực quốc tế về RT/TTKB/TTPBVKHDHL (40 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) ban hành
[1]); cam kết tham gia vào các vòng đánh giá đa phương của APG theo Phương pháp luận đánh giá của FATF. Kể từ khi trở thành thành viên đến nay, Việt Nam đã trải qua 2 lần đánh giá đa phương của APG (năm 2008 và năm 2019).
Báo cáo đánh giá đa phương về công tác PCRT của Việt Nam (Báo cáo đánh giá đa phương) được thông qua tại Hội nghị toàn thể của FATF vào tháng 3/2022 (là kết quả của lần đánh giá đa phương năm 2019). Báo cáo này đánh giá tổng thể thực trạng thể chế và thực tiễn thực thi công tác PCRT tại Việt Nam, qua đó, xác định các thiếu hụt, đề xuất các khuyến nghị Việt Nam cần phải thực hiện về công tác PCRT, trong đó có nội dung hoàn thiện thể chế, pháp luật.
Theo phương pháp đánh giá đa phương của APG hiện hành, các quốc gia sẽ bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường nếu có một trong các tiêu chí: (i) Về khuôn khổ pháp lý (TC): Có 1 trong 6 khuyến nghị cốt lõi (các khuyến nghị số 3, 5, 6, 10, 11, 20)[2] bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ và/hoặc có từ 21/40 KN bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ; (ii) Về hiệu quả thực thi (IO): có 7/11 IO hoặc hơn bị đánh giá hiệu quả Trung bình/Thấp, hoặc có 4/11 IO bị đánh giá hiệu quả Thấp.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương nhận định: (i) Về khuôn khổ pháp lý, quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn những thiếu hụt, không đáp ứng hoặc mới đáp ứng được một phần tại 27/40[3] Khuyến nghị của FATF, trong 27/40 khuyến nghị này có 5/6 khuyến nghị cốt lõi; (ii) Về hiệu quả thực thi: hiện có 2/11 Mục tiêu trực tiếp (IO) được đánh giá hiệu quả “Khá”
[4]; 2/11 IO được đánh giá là hiệu quả “Trung bình”
[5]; 7 IO bị đánh giá hiệu quả “Thấp”
[6]. Với kết quả đánh giá đa phương này, Việt Nam đã bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường sau đánh giá đa phương của APG và quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF.
Trong một năm, kể từ khi bị áp dụng quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF (từ tháng 3/2022 - 3/2023), Việt Nam sẽ phải làm việc thường xuyên với APG/FATF để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương. Sau thời gian này, nếu Việt Nam không thể hiện được sự tiến bộ đối với 09 IO đang bị xếp hạng ở mức Thấp hoặc Trung bình và không đáp ứng các yêu cầu về cải thiện khuôn khổ pháp lý, Việt Nam sẽ bị đưa vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL (gọi tắt là Danh sách Xám) - Danh sách công khai toàn cầu của FATF.
Khi một quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực. Cụ thể, theo nghiên cứu của IMF[7], quốc gia bị rơi vào Danh sách Xám sẽ bị giảm sút đáng kể luồng vốn đầu tư của nước ngoài vào quốc gia đó (khoảng 7,6% trên tổng GDP cả nước). Bên cạnh đó, giao dịch tài chính ra nước ngoài của các tổ chức tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán...) tại quốc gia này sẽ bị các nước tính phí cao hơn và giao dịch sẽ phải chịu sự rà soát tăng cường. Các chi phí này ước tính có thể lên tới hàng triệu USD tùy thuộc quy mô nền kinh tế. Hiện nay, trong các nước thành viên của APG, có 23/41 nước bị rơi vào danh sách Xám của FATF, trong đó chỉ có Mông Cổ đã ra khỏi Danh sách Xám trong vòng 01 năm nhờ thực hiện rất nhanh chóng và hiệu quả các hành động khuyến nghị mà APG đưa ra.
Để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, TTKB và TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025, trong đó bao gồm Danh mục 41 hành động quốc gia về PCRT, TTKB, TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 và Phụ lục 83 hành động thực hiện Kế hoạch đến tháng 3/2023. Theo Kế hoạch này, bên cạnh việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn chi tiết, còn cần phải triển khai thực hiện một loạt các hành động khác liên quan đến trách nhiệm của nhiều bộ, ngành, như: tăng cường, đẩy mạnh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền thuộc trách nhiệm của Bộ Công An, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao; tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát trong PCRT thuộc trách nhiệm của các bộ, ngành có đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành…Như vậy, để khắc phục các thiếu hụt về cơ chế phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL được chỉ ra tại Báo cáo đánh giá đa phương, Việt Nam cần phải có rất nhiều nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ tại Kế hoạch hành động quốc gia và thuộc trách nhiệm của nhiều bộ, ngành. Bên cạnh đó, việc đánh giá Việt Nam đã khắc phục được các thiếu hụt để không bị đưa vào Danh sách xám còn phụ thuộc vào quan điểm đánh giá của APG và của FATF.
Việc sửa đổi Luật PCRT thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm khắc phục những thiếu hụt về cơ sở pháp lý so với các khuyến nghị của FATF đã chỉ ra trong Báo cáo đánh giá đa phương. Cụ thể, hiện nay các nội dung sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT liên quan đến 25/40[8] Khuyến nghị, trong
đó có 23/25[9] Khuyến nghị hiện đang bị xếp hạng không tuân thủ hoặc tuân thủ một phần và có 4/6 Khuyến nghị là Khuyến nghị cốt lõi
[10]. Trong số 4 Khuyến nghị cốt lõi liên quan đến Luật PCRT, 3/4 Khuyến nghị cốt lõi có thể đạt ở mức đáp ứng phần lớn (gồm Khuyến nghị số 10,11,20)
[11]; 1/4 Khuyến nghị cốt lõi ở mức chỉ đáp ứng một phần (Khuyến nghị 6) do khuyến nghị này chủ yếu liên quan đến việc sửa đổi các quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan về các nội dung chi tiết liên quan đến quy trình chỉ định danh sách, biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu…
3. Những vướng mắc, bất cập
Ngày 07 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho quá trình xây dựng và phát triển cơ chế phòng, chống rửa tiền (PCRT) ở Việt Nam. Luật PCRT được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Từ đó đến nay, trải qua 16 năm (2005 - 2022) xây dựng và hoàn thiện cơ chế PCRT ở Việt Nam nói chung và gần 10 năm thi hành Luật PCRT nói riêng, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, qua quá trình gần 10 năm triển khai thi hành Luật PCRT, một số vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật PCRT đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cụ thể:
Thứ nhất, Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được sửa đổi, bổ sung vào năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 Khuyến nghị hiện hành của FATF, ảnh hưởng đến việc thực thi cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các khuyến nghị của FATF.
Thứ hai, về đối tượng báo cáo của Luật PCRT, theo quy định hiện hành, đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs); và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs) phù hợp với các hoạt động của đối thượng báo cáo tại thời điểm ban hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phát sinh một số hoạt động mới cần được bổ sung vào đối tượng báo cáo như hoạt động trung gian thanh toán.
Thực tế, về hoạt động trung gian thanh toán, hiện nay khung pháp lý cho hoạt động này tương đối đầy đủ. Tuy nhiên các quy định về PCRT mới chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật nên chưa đảm bảo đầy đủ và hiệu quả. Do đó, cần luật hóa hoạt động này vào đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Đồng thời, trong thực tiễn có thể phát sinh những hoạt động mới có rủi ro về rửa tiền, đặt ra yêu cầu cần phải có quy định tại Luật PCRT để bao trùm được các lĩnh vực, hoạt động mới phát sinh.
Thứ ba,Luật PCRT hiện hành không có quy định về việc đánh giá rủi ro quốc gia, ngành và tại từng đối tượng báo cáo về rửa tiền; đồng thời, quy định về việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa đảm bảo tính đầy đủ, hợp lý. Trong khi đó đây là một trong những yêu cầu thuộc nhóm các vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT.
Thứ tư,về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo, đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn một số tồn tại cơ bản như: các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement" theo khuyến nghị của FATF; Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn thiếu các quy định theo yêu cầu mới phát sinh tại 40 Khuyến nghị của FATF như yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trước khi cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ ứng dụng công nghệ mới...
Từ các cơ sở nêu trên, việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) là cần thiết, nhằm phù hợp với các nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế, cam kết quốc tế của Việt Nam, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong công tác phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, việc này cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định của pháp luật, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL trong thời gian tới.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG VĂN BẢN
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật PCRT hiện hành như đã đề cập tại điểm 3 Phần I, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCRT; xây dựng hệ thống pháp luật về PCRT phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế về PCRT mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và công tác phòng, chống tội phạm nói chung.
2. Quan điểm xây dựng dự thảo văn bản
a) Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đàng, Nhà nước đối với công tác PCRT. Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
b) Bên cạnh việc kế thừa thì Luật PCRT (sửa đổi) phải khắc phục các vướng mắc, bất cập các quy định của pháp luật PCRT hiện hành; đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động PCRT hiện nay.
c) Tham khảo, cụ thể hóa các chuẩn mực quốc tế về PCRT trên cơ sở phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam; tham khảo pháp luật của một số quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định về PCRT.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ THẢO LUẬT PCRT (SỬA ĐỔI)
Thực hiện Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội Khóa XV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 06/7/2022 của Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì soạn thảo Luật PCRT (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
1. Đã tổ chức tổng kết thi hành Luật PCRT năm 2012 và các VBQPPL có liên quan cũng như các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, vướng mắc và đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm cung cấp các luận cứ thực tiễn cho việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi), báo cáo Chính phủ.
2. Đã tiến hành phân tích, đánh giá tác động của các chính sách trong dự án Luật PCRT (sửa đổi), đánh giá tác động thủ tục hành chính, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật PCRT (sửa đổi), theo đó, dự án Luật không làm phát sinh thủ tục hành chính mới, không có nội dung liên quan đến bình đẳng giới.
3. Đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật PCRT (sửa đổi) theo Quyết định số 960/QĐ-NHNN ngày 31/05/2022 của Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là Trưởng ban soạn thảo, đại diện các bộ, cơ quan liên quan, các chuyên gia là thành viên Ban soạn thảo và Tổ biên tập theo đúng quy định.
4. Đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); thực hiện rà soát, nghiên cứu các VBQPPL có liên quan (Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Bộ luật dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật Kinh doanh bảo hiểm…) để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Theo đó, dự thảo Luật phù hợp với Hiến pháp, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành và các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
5. Tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo Luật theo quy định thông qua các hình thức: đăng tải dự thảo Luật lên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước để lấy ý kiến rộng rãi; gửi hồ sơ dự án Luật đề nghị tham gia ý kiến bằng văn bản của các bộ, ngành cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động; tổ chức hội thảo để lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức có liên quan.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến góp ý của các bộ, ngành, cơ quan, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam, các tổ chức, hiệp hội, đối tượng chịu sự tác động của dự án Luật. Dự thảo Luật bảo đảm tính thống nhất với các Luật và Điều ước quốc tế có liên quan.
6. Dự án Luật PCRT (sửa đổi) đã được Bộ Tư pháp thẩm định theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Báo cáo thẩm định số 115/BCTĐ-BTP ngày 12/7/2022. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ các ý kiến thẩm định tại Báo cáo 224/BC-NHNN ngày 12/7/2022.
7. Sau khi hoàn thiện, NHNN đã báo cáo Chính phủ về dự án Luật PCRT (sửa đổi). Ngày 26/7/2022, tại phiên họp Chuyên đề Pháp luật của Chính phủ, Chính phủ đã thông qua dự án Luật PCRT (sửa đổi) và giao Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện hồ sơ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật.
Trên cơ sở đó, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án Luật PCRT (sửa đổi).
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO
Luật PCRT (sửa đổi) được bố cục gồm 4 Chương, 54 Điều (trong đó, bổ sung mới: 09 Điều; sửa đổi: 43 Điều và hủy bỏ: 07 Điều; giữ nguyên quy định của Luật PCRT 2012: 02 Điều). Cụ thể:
- Chương I: Những quy định chung.
- Chương II: Biện pháp phòng, chống rửa tiền.
- Chương III: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền.
- Chương IV: Điều khoản thi hành.
Chính phủ xin báo cáo một số nội dung cơ bản của dự án Luật như sau:
1. Phạm vi điều chỉnh PCRT (sửa đổi)
Về cơ bản, dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật PCRT năm 2012, theo đó phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong PCRT; hợp tác quốc tế trong PCRT. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) cũng quy định việc PCRT nhằm tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
2. Đối tượng báo cáo về PCRT
Dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo PCRT tại Luật PCRT, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung về đối tượng báo cáo, cụ thể:
- Sửa đổi, bổ sung tên gọi của một số hoạt động của đối tượng báo cáo, ví dụ: sửa đổi tên gọi hoạt động cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư thành hoạt động cung cấp dịch vụ thỏa thuận pháp lý, sửa đổi, bổ sung tên gọi các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kinh doanh trò chơi có thưởng …. Việc sửa đổi, bổ sung này chỉ sửa đổi về tên gọi để phù hợp với nội hàm khái niệm của FATF và phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, không thu hẹp đối tượng báo cáo so với quy định tại Luật PCRT năm 2012.
- Dự thảo Luật đã luật hóa quy định tại Nghị định 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP, theo đó, bổ sung đối tượng báo cáo là các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
- Trong quá trình xây dựng Luật, để đáp ứng khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, đồng thời từ thực tiễn nhu cầu quản lý nhà nước về PCRT, cơ quan chủ trì soạn có đề xuất bổ sung đối tượng báo cáo mới nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh là: tổ chức cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và cho vay dựa trên nền tảng công nghệ… Tuy nhiên, sau khi tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đánh giá tính khả thi, đồng thời để đảm bảo quy định tại Luật có tính bao quát được các hoạt động phát sinh trong tương lai, dự thảo Luật được điều chỉnh lại theo hướng giao Chính phủ quy định các hoạt động mới phát sinh có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền. Đồng thời, tại dự thảo Luật cũng đã bổ sung quy định việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền. Theo đó, trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và việc hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, Chính phủ sẽ xem xét việc bổ sung đối tượng thực hiện các hoạt động mới là đối tượng báo cáo của Luật PCRT. Quy định này cũng đáp ứng một phần khuyến nghị số 15 của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương.
3. Về hợp tác quốc tế về PCRT
Quy định này được kế thừa từ quy định tại Luật PCRT và luật hóa các quy định tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung). Theo đó, dự thảo Luật quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế về PCRT, các trường hợp từ chối yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin, quy trình, thủ tục, phương thức hợp tác quốc tế về PCRT và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong hợp tác quốc tế về PCRT.
4. Quy định về đánh giá mức độ rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo về rửa tiền
Để đáp ứng khuyến nghị của FATF, đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương và phù hợp với thực tiễn triển khai hoạt động đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo về rửa tiền, dự thảo Luật bổ sung các quy định về đánh giá rủi ro quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo về rửa tiền, cụ thể:
- Bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền.
Theo đó định kỳ 05 năm, Ngân hàng Nhà nước chủ trì thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền tại Việt Nam và thực hiện cập nhật rủi ro quốc gia về rửa tiền trong trường hợp có rủi ro phát sinh, trình Chính phủ phê duyệt kết quả đánh giá; việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền được thực hiện đối với cả các hoạt động mới phát sinh có rủi ro về rửa tiền, chưa thuộc hoạt động của đối tượng báo cáo quy định tại Luật này.
Các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm triển khai đánh giá, cập nhật rủi ro ngành về rửa tiền trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tình hình thực tế hoạt động của ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành; phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền trong nội bộ của bộ, ngành mình và đến các đối tượng báo cáo thuộc thẩm quyền quản lý, đồng thời có biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro đã xác định.
Do các tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền mang tính kỹ thuật và có thể thay đổi trong từng thời kỳ, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định về tiêu chí đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền.
Quy định này được bổ sung theo yêu cầu của FATF. Theo đó Việt Nam phải xác định, đánh giá và hiểu về rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố của quốc gia mình bao gồm việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền hoặc thiết lập cơ chế nhằm phối hợp các hành động để đánh giá rủi ro quốc gia, từ đó xây dựng, cập nhật chiến lược quốc gia về phòng, chống RT/TTKB phù hợp với rủi ro được xác định. Đánh giá rủi ro quốc gia là cơ sở để quốc gia tập trung nguồn lực một cách hiệu quả vào các lĩnh vực ưu tiên/các lĩnh vực rủi ro cao về RT/TTKB và được coi là một trong những trụ cột nền tảng của công tác PCRT theo chuẩn mực quốc tế, qua đó tăng cường năng lực quốc gia trong thực hiện 40 Khuyến nghị của FATF. Việc bổ sung điều mới về “Đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền” cũng phù hợp với Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam về PCRT và tài trợ khủng bố. Điều này sẽ luật hóa nghĩa vụ của Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền. Việc bổ sung quy định đánh giá rủi ro ngành hỗ trợ cho các cơ quan quản lý trong việc thực hiện công tác thanh tra, giám sát về PCRT đối với các ngành, lĩnh vực.
Trên thực tế, căn cứ vào quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 24 Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền; khoản 2, Điều 1, Thông tư 20/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền), Kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 2015-2020 về phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL và các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, các bộ ngành đã cùng phối hợp hoàn thành đánh giá rủi ro quốc gia (trong đó có cấu phần đánh giá rủi ro ngành) lần 1 cho giai đoạn 2012-2017 trên cơ sở bộ công cụ đánh giá của Ngân hàng thế giới. Kết quả đánh giá đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua và căn cứ kết quả đánh giá, ngày 30/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 474/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro RT/TTKB giai đoạn 2019 – 2020. Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch sau đánh giá rủi ro quốc gia, trong năm 2019 các bộ, ngành đều đã ban hành Kế hoạch hành động triển khai Kế hoạch sau đánh giá rủi ro quốc gia tại bộ, ngành.
Hiện nay, các bộ ngành đang đang tiếp tục phối hợp hoàn thành đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền lần 2 cho giai đoạn 2018 - 2022.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền và thực tế hoạt động của đối tượng báo cáo; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền. Việc bổ sung quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị số 10 và 11 của FATF mà Việt Nam còn thiếu hụt.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro, theo đó dự thảo Luật quy định đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện và xác định tại tổ chức mình, trong đó phải có nội dung về việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro thấp, trung bình, cao và các biện pháp áp dụng tương ứng với các mức độ rủi ro về rửa tiền của khách hàng.
5. Quy định về nhận biết khách hàng và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng
- Về nhận biết khách hàng, thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng, biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng: dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin nhận biết khách hàng để phù hợp với pháp luật hiện hành, khuyến nghị của FATF, đánh giá của APG; sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, theo đó đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết, cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, đồng thời giao Chính phủ hướng dẫn nội dung này.
- Về nhận biết, xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba: hoạt động này được sửa đổi tên gọi từ hoạt động kinh doanh qua giới thiệu quy định tại Luật PCRT 2012. Đồng thời, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về các yêu cầu đối với bên thứ ba, quy định rõ việc nhận biết, xác minh thông tin khách hàng thông qua bên thứ ba không loại trừ trách nhiệm của đối tượng báo cáo trong việc nhận biết, xác minh thông tin khách hàng.
- Về xác minh thông tin nhận biết khách hàng thông qua việc thuê tổ chức khác: Dự thảo Luật kế thừa quy định về việc đối tượng báo cáo có thể thuê tổ chức khác xác minh thông tin khách hàng. Đồng thời, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải bảo đảm tổ chức thuê xác minh phải bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật và đối tượng báo cáo phải chịu trách nhiệm về kết quả xác minh thông tin nhận biết khách hàng của tổ chức thuê. Việc thuê tổ chức khác để xác minh thông tin nhận biết khách hàng thực hiện theo thỏa thuận của các bên và quy định của pháp luật có liên quan.
- Về cá nhân nước ngoài có ảnh hưởng chính trị (PEP): dự thảo Luật bổ sung quy định về đối tượng PEP của tổ chức quốc tế, quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp thích hợp để xác minh nguồn gốc tài sản của khách hàng và chủ sở hữu hưởng lợi và thực hiện giám sát mối quan hệ kinh doanh trong suốt quá trình giao dịch với khách hàng này.
- Về quan hệ ngân hàng đại lý: dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo khi thiết lập quan hệ với ngân hàng đối tác tại một quốc gia, vùng lãnh thổ khác để cung cấp dịch vụ ngân hàng, thanh toán và các dịch vụ khác cho ngân hàng đối tác phải áp dụng các biện pháp nhằm thu thập thông tin, đánh giá việc thực hiện các biện pháp về PCRT, hiểu biết về các trách nhiệm PCRT của ngân hàng đối tác; trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải đảm bảo rằng tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
- Quy định về các sản phẩm, dịch vụ mới, áp dụng công nghệ đổi mới: dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối với các sản phẩm, dịch vụ mới và sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ đổi mới trước khi đưa vào sử dụng; ban hành chính sách, quy trình về quản lý rủi ro.
- Về giám sát một số giao dịch đặc biệt: dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật PCRT về các giao dịch đặc biệt đối tượng báo cáo phải giám sát, bao gồm: (i) Giao dịch với giá trị lớn bất thường hoặc phức tạp theo quy định của Chính phủ; (ii) Giao dịch với tổ chức, cá nhân tại quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong danh sách do Lực lượng đặc nhiệm tài chính công bố nhằm chống rửa tiền hoặc danh sách cảnh báo. Đối với các giao dịch này, dự thảo quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện các biện pháp tăng cường phù hợp với mức độ rủi ro về rửa tiền; kiểm tra thông tin và mục đích của giao dịch, trường hợp có nghi ngờ về tính chính xác, mục đích của giao dịch, phải xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ và có thể từ chối giao dịch đó.
- Về minh bạch thông tin của pháp nhân: dự thảo Luật kế thừa quy định yêu cầu về việc cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản của pháp nhân, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân đối với cơ quan đăng ký kinh doanh; bổ sung quy định về việc cập nhật, lưu trữ thông tin cơ bản, thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân của cơ quan cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân và chính pháp nhân đó. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa quy định tại Luật PCRT, dự thảo Luật quy định cụ thể Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ về thanh tra, giám sát PCRT, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh, cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân, pháp nhân cung cấp thông tin.
- Về thỏa thuận pháp lý: Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý, theo đó quy định về nghĩa vụ của bên nhận ủy thác phải thu thập, lưu giữ thông tin về bên ủy thác, bên nhận ủy thác, người thụ hưởng, các bên liên quan (nếu có) và cá nhân có quyền kiểm soát cuối cùng đối với ủy thác và có trách nhiệm cung cấp các thông tin này cho các cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; cung cấp thông tin cho tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan khi thiết lập mối quan hệ khách hàng liên quan đến tài sản được ủy thác. Tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan phải thực hiện nhận biết và cập nhật, xác minh thông tin nhận biết khách hàng theo quy định đối với những cá nhân, tổ chức liên quan đến ủy thác.
- Về minh bạch trong hoạt động của tổ chức phi lợi nhuận: dự thảo Luật bổ sung quy định về khái niệm tổ chức phi lợi nhuận bao gồm tổ chức phi chính phủ nước ngoài, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, các hội, tổ chức tôn giáo được thành lập, đăng ký, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, dự thảo Luật quy định các tổ chức này phải thực hiện cập nhật, lưu trữ thông tin về việc tài trợ, tiếp nhận tài trợ của tổ chức phi lợi nhuận và cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu, qua đó đảm bảo yêu cầu về PCRT trong hoạt động của các tổ chức này.
6. Về trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ và báo cáo, cung cấp, lưu trữ hồ sơ, thông tin về phòng, chống rửa tiền
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các nội dung:
- Bổ sung nội dung phải có tại quy định nội bộ về PCRT của đối tượng báo cáo, bao gồm: chính sách chấp nhận khách hàng, trong đó có nội dung về từ chối mở tài khoản, thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thực hiện giao dịch hoặc chấm dứt mối quan hệ kinh doanh; chính sách, quy trình quản lý rủi ro; tuyển dụng nhân sự, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng chống rửa tiền. Bổ sung yêu cầu quy định nội bộ phải được áp dụng, phổ biến đến đại lý, chi nhánh, công ty con của đối tượng báo cáo.
- Về báo cáo giao dịch đáng ngờ, trên cơ sở rà soát từ thực tiễn quản lý và ý kiến tham gia của các cơ quan, tổ chức, dự thảo Luật sửa đổi một số dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm nhân thọ; bổ sung dấu hiệu đáng ngờ đối với hoạt động trung gian thanh toán tại Điều 26 dự thảo Luật.
Về thời hạn báo cáo giao dịch đáng ngờ, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn: (i) tối đa hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch; hoặc (ii) một ngày làm việc kể từ thời điểm phát hiện giao dịch đáng ngờ, khắc phục những vướng mắc của đối tượng báo cáo trong quá trình thực hiện.
- Bổ sung quy định trách nhiệm của các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách, quy trình quản lý rủi ro để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm lưu trữ hồ sơ, báo cáo của đối tượng báo cáo nhằm cụ thể các loại thông tin đối tượng báo cáo phải lưu trữ.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về bảo đảm bí mật thông tin, tài liệu báo cáo nhằm phù hợp với quy định pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước và thực tiễn hoạt động của đối tượng báo cáo.
7. Về thực hiện thu thập, xử lý, phân tích, chuyển giao thông tin về PCRT và áp dụng các biện pháp tạm thời
- Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về việc trao đổi, chuyển giao thông tin PCRT với cơ quan có thẩm quyền trong nước, cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Đồng thời, bổ sung việc giao Chính phủ quy định chi tiết về việc chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT; giao NHNN hướng dẫn về việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn chuyển giao, trao đổi thông tin PCRT tại Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan có thẩm quyền trong và ngoài nước.
- Về áp dụng các biện pháp tạm thời: dự thảo Luật bổ sung trường hợp trì hoãn giao dịch khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại các luật có liên quan, bổ sung quy định về thời điểm thực hiện biện pháp trì hoãn giao dịch theo hướng đảm bảo tính kịp thời, phù hợp với yêu cầu của Khuyến nghị số 6 của FATF.
8. Về quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
Về cơ bản, nội dung phân công trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT được kế thừa các quy định tại Luật PCRT năm 2012 và trên cơ sở luật hóa nội dung phân công trách nhiệm của bộ, ngành tại Nghị định 116/2013/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra, dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của bộ, ngành trong việc thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về rửa tiền; sửa đổi, bổ sung trách nhiệm cụ thể một số bộ ngành, bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
9. Về điều khoản thi hành
- Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 49 Luật Ngân hàng Nhà nước, trong đó bỏ cụm từ “phòng, chống rửa tiền”. Việc sửa đổi, bổ sung nhằm tạo cơ sở để triển khai, thực hiện các yêu cầu về nâng cao tính độc lập của đơn vị tình báo tài chính (FIU) tại khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG cũng như để đáp ứng yêu cầu của công tác PCRT trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
Theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật PCRT đều giao Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về PCRT. Tại Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đang được giao thực hiện nhiệm vụ này và Cục PCRT là đơn vị thuộc Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ về PCRT.
Tại khuyến nghị 29 của FATF yêu cầu mỗi quốc gia cần phải thành lập đơn vị tình báo tài chính (FIU), trong đó FIU cần phải được trao đầy đủ thẩm quyền để thu thập các thông tin từ các tổ chức báo cáo, truy cập một cách kịp thời các thông tin tài chính và thực thi pháp luật để thực hiện tốt 3 chức năng chính là (i) tiếp nhận, (ii) phân tích, và (iii) chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố một cách độc lập.
Tại Báo cáo đánh giá đa phương của APG năm 2022, APG đã chỉ ra việc Cục trưởng Cục PCRT chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mọi hoạt động của Cục PCRT là chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để Cục PCRT thực hiện chức năng của mình một cách độc lập và tự chủ; việc Cục PCRT nằm trong Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có thể dẫn đến một số quan ngại về vấn đề bảo mật thông tin và lo ngại về tính độc lập trong hoạt động của FIU, vốn được coi trọng đặc biệt. Trên cơ sở đó, APG kiến nghị Việt Nam cần có các biện pháp để tăng cường năng lực, thẩm quyền và tính độc lập cho Cục PCRT để nâng cao hiệu quả công tác PCRT.
Với mô hình tổ chức, vị trí, chức năng của Cục PCRT hiện nay, chưa đáp ứng được yêu cầu về tính độc lập của FIU theo chuẩn mực quốc tế, là một trong lý do chính mà Việt Nam chưa gia nhập được Nhóm Các đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont) mặc dù đã có đơn gia nhập và đã được công nhận là quan sát viên của Nhóm Egmont từ năm 2010.
Trong hoạt động hợp tác quốc tế, các FIU trên thế giới được khuyến nghị ký kết Bản ghi nhớ (MOU) để trao đổi thông tin về PCRT. Theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, người đứng đầu FIU là người có thẩm quyền ký MOU (đây là thẩm quyền bắt buộc phải có của FIU). Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Thỏa thuận quốc tế, MOU phải được ký nhân danh Tổng cục, cục thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ. Điều này, gây nhiều khó khăn cho Cục PCRT trong quá trình đàm phán ký kết MOU cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động trao đổi thông tin với đối tác nước ngoài (do nhiều FIU trên thế giới chỉ chấp nhận việc chia sẻ thông tin sau khi đã ký kết MOU) và thực hiện các nghĩa vụ của Việt Nam trong APG;
Từ các lý do nêu trên, việc nâng cao năng lực hoạt động của đơn vị đầu mối về PCRT, thúc đẩy thực hiện có hiệu quả các đánh giá của APG, khuyến nghị của FATF đối với tính độc lập FIU, việc tách chức năng PCRT ra khỏi Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và FIU thành đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước là cần thiết.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, dự thảo Luật có quy định về đơn vị đầu mối thuộc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ về PCRT tại Luật. Tuy nhiên, để đảm bảo phù hợp chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội không quy định tổ chức, bộ máy tại các Luật chuyên ngành, Chính phủ đã bỏ quy định về đơn vị đầu mối tại dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, để thực hiện khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại báo cáo đánh giá đa phương, Chính phủ giao NHNN xây dựng Đề án riêng, báo cáo cơ quan có thẩm quyền về đơn vị đầu mối về PCRT theo quy định. Việc sửa đổi khoản 1 Điều 49 Luật NHNN không phải là quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và là quy định cần thiết để NHNN có cơ sở xây dựng Đề án, trình Chính phủ, các cấp có thẩm quyền về việc phân công nhiệm vụ thực hiện chức năng PCRT cho các đơn vị cụ thể thuộc NHNN sau này.
- Dự thảo Luật bổ sung quy định sửa đổi, bổ sung Điều 34, 35 Luật Phòng, chống khủng bố và pháp luật về phòng, chống tài trợ PBVKHDHL theo hướng tương đồng với các quy định cụ thể, mới được sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT. Việc sửa đổi, bổ sung này căn cứ trên các khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, theo đó một số yêu cầu sửa đổi, bổ sung pháp luật về PCRT cũng được khuyến nghị đồng thời với sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống KB, tài trợ PBVKHDHL. Với thời hạn phải báo cáo kết quả thực hiện đánh giá của APG vào tháng 3/2023, trong khi việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống KB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật phòng, chống KB, pháp luật về tài trợ PBVKHDHL tại dự thảo Luật này là cần thiết.
Trên đây là Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Chính phủ kính trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
(Hồ sơ kèm theo gồm: (1) Tờ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); (2) Tờ trình tóm tắt về dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); (3) Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); (4) Báo cáo số 115/BCTĐ-BTP ngày 12/7/2022 v/v thẩm định Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) của Bộ Tư pháp; (5) Báo cáo số 224/BC-NHNN ngày 12/7/2022 v/v tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đối với dự án Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (6) Bảng tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của Bộ, ngành; (7) Bản chụp ý kiến góp ý của Bộ, ngành; (8) Bảng tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của VCCI và đối tượng chịu tác động của dự án Luật; (9) Báo cáo số 404/BC-NHNN ngày 09/12/2021 v/v tổng kết thi hành Luật Phòng, chống rửa tiền; (10) Báo cáo đánh giá tác động của chính sách đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); (11) Báo cáo rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế có liên quan đến dự thảo; (12) Dự thảo các văn bản quy định chi tiết bao gồm: 01 Nghị định của Chính phủ, 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 01 Thông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (13) Bảng Thuyết minh dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi); (14) Bảng rà soát các quy định sửa đổi, bổ sung tại Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) đáp ứng các khuyến nghị của FATF và xử lý đánh giá của APG; (15) Bản dịch các chuẩn mực quốc tế về phòng chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố & phổ biến vũ khí (cập nhật tháng 03/2022); (16) Báo cáo tóm tắt kết quả đánh giá đa phương của APG và yêu cầu xử lý các thiếu hụt của Việt Nam liên quan đến phòng chống rửa tiền.)
[1] FATF là tổ chức liên chính phủ ban hành ra các chuẩn mực thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các biện pháp pháp lý, quản lý và hành động nhằm chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và những hiểm họa có liên quan khác đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống tài chính toàn cầu. Năm 2004, FATF lần đầu ban hành bộ tiêu chuẩn 40+9 Khuyến nghị bao gồm 40 Khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và 9 Khuyến nghị đặc biệt về phòng, chống tài trợ khủng bố; đến tháng 02/2012 FATF sửa đổi, bổ sung 40+9 Khuyến nghị thành bộ 40 Khuyến nghị mới về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt. 40 Khuyến nghị hiện đang được áp dụng là bộ chuẩn mực quốc tế chung về PCRT/TTKB/VKHD. Hiện nay, hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đang cam kết thực hiện theo các khuyến nghị của FATF trong đó có Việt Nam. (Nguồn trích dẫn: website:
https://www.fatf-gafi.org/about/).
[2] 6 Khuyến nghị chủ chốt và cốt lõi (gồm Khuyến nghị 3 (Tội phạm rửa tiền), 5 (tội phạm tài trợ khủng bố), 6 (các hình phạt tài chính mục tiêu), 10 (nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng), 11 (Lưu giữ báo cáo), 20 (báo cáo giao dịch đáng ngờ).
[3] 27/40 khuyến nghị hiện đang bị đánh giá NC hoặc PC: 1, 3, 6, 7, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 34, 35, 38.
[4] Công tác tịch thu, thu hồi tài sản (IO8) và chống tài trợ khủng bố (IO9).
[5] Hiểu biết về rủi ro rửa tiền/tài trợ khủng bố (IO1) và Hợp tác quốc tế (IO2).
[6] 7 IO bị đánh giá thấp liên quan đến công tác thanh tra, giám sát về rửa tiền/tài trợ khủng bố/tài trợ, phổ biến vũ khí, các biện pháp phòng ngừa của các đối tượng báo cáo, pháp nhân và thoả thuận pháp lý, tình báo tài chính, điều tra và truy tố tội rửa tiền, các biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu và chống tài trợ, phổ biến vũ khí.
[7] IMF Working Paper WP/21/153.
[8] Bao gồm các khuyến nghị: 1, 2, 6, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 40.
[9] Bao gồm các khuyến nghị: 1, 6, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 40.
[10] Khuyến nghị 6 (các hình phạt tài chính mục tiêu), 10 (nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng), 11 (Lưu giữ báo cáo), 20 (báo cáo giao dịch đáng ngờ).
[11] Khuyến nghị cốt lõi số 20 có thể được xếp hạng đáp ứng phần lớn nếu điều khoản thi hành tại khoản 3 Điều 54 được quy định trong Luật.
Tờ trình Dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Ngân hàng nhà nước
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
(Tài liệu kèm theo Dự thảo Luật đăng tải lấy ý kiến nhân dân trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ)
totrinhluat-pcrt-sd.docx
Kính gửi: Chính phủ
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xin trình Chính phủ dự thảo Luật Phòng, chống rửa tiền (sửa đổi) như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH VĂN BẢN
1. Những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế
1.1. Những kết quả đạt được
Ngày 07 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “PCRT”) là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho quá trình xây dựng và phát triển cơ chế PCRT ở Việt Nam. Luật Phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “Luật PCRT”) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Từ đó đến nay, trải qua 16 năm (2005 - 2021) xây dựng và hoàn thiện cơ chế PCRT ở Việt Nam nói chung và hơn 08 năm thi hành Luật PCRT nói riêng, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về PCRT của Việt Nam đã dần được hoàn thiện. Hàng loạt các văn bản pháp luật, quy định về PCRT và liên quan đến lĩnh vực PCRT được ban hành như: Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP) và Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 31/2014/TT-NHNN và Thông tư số 20/2019/TT-NHNN) …
Thứ hai, về hoàn thiện tổ chức, bộ máy, Ban chỉ đạo quốc gia về PCRT đã được thành lập với Trưởng ban là Phó Thủ tướng Chính phủ và thành viên là lãnh đạo của 16 Bộ, ngành của Việt Nam. Kể từ sau khi Luật PCRT được ban hành, hoạt động của Ban chỉ đạo tiếp tục được đẩy mạnh. Ban chỉ đạo đã tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, xây dựng, ban hành các kế hoạch hành động quốc gia về PCRT. Tại các Bộ, ngành có liên quan đều có các bộ phận được chỉ định là đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc trách nhiệm của Bộ, ngành mình. Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là “Ngân hàng Nhà nước”) được thành lập và thực hiện nhiệm vụ của cơ quan phòng, chống rửa tiền. Cục PCRT có chức năng cơ bản là tiếp nhận, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ và các báo cáo, thông tin khác liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố, tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách và hoạt động hợp tác quốc tế về PCRT.
Thứ ba, về thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền, từ năm 2013 đến nay, Cục PCRT đã tiếp nhận hàng ngàn thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ và đã phân tích, chuyển giao khối lượng thông tin lớn cho các đơn vị thuộc Bộ Công an và các cơ quan có thẩm quyền khác. Bên cạnh đó, Cục PCRT đã xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về PCRT liên quan đến các thông tin giao dịch đáng ngờ và hàng triệu giao dịch giá trị lớn từ các đối tượng báo cáo chuyển đến. Thông tin dữ liệu này góp phần hỗ trợ tích cực trong việc phân tích và xử lý giao dịch đáng ngờ cũng như phối hợp với các đơn vị công an, thuế, thanh tra trong công tác đấu tranh chống tội phạm, gian lận thuế và vi phạm pháp luật khác.
Thứ tư, về hợp tác quốc tế về PCRT, Luật PCRT đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về trao đổi thông tin liên quan đến rửa tiền giữa Ngân hàng Nhà nước và các đơn vị tình báo tài chính của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngân hàng Nhà nước đã ký kết 09 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin hợp tác với các cơ quan tình báo tài chính nước ngoài Nhật, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nga, Băngladesh.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực PCRT đã góp phần ngăn chặn kịp thời các tội phạm rửa tiền xuyên quốc gia, qua đó, Việt Nam cũng đã học hỏi nhiều kinh nghiệm trong công tác PCRT của các quốc gia và tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, việc thực thi công tác PCRT đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân Việt Nam khi mở rộng quan hệ kinh doanh, hợp tác với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
[1].
Với những thành quả đạt được trong công tác PCRT như nêu trên, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong công tác phòng, chống rửa tiền. Cơ chế phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển, hoàn thiện với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cùng với việc hoàn thiện bộ máy gồm các cơ quan, tổ chức và đơn vị chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
1.2. Những mặt tồn tại, hạn chế
Qua quá trình hơn 08 năm triển khai thực hiện Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành, một số bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật PCRT đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cụ thể:
Thứ nhất, về đối tượng áp dụng của Luật PCRT, theo quy định hiện hành, đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs); và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính liên quan (DNFBPs). Tuy nhiên, hiện nay có một số hoạt động mới phát sinh như các hoạt động liên quan đến tài sản ảo, cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ... Khung pháp lý của các hoạt động này đang trong giai đoạn nghiên cứu, hoàn thiện, tuy nhiên trong trường hợp khung pháp lý về cấp phép, quản lý của các hoạt động này được ban hành thì quy định tại Luật PCRT hiện nay sẽ chưa bao quát được các hoạt động mới phát sinh này. Đây là các hoạt động có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền do các hoạt động này hầu hết được thực hiện trực tuyến nên các bên tham gia giao dịch có tính ẩn danh cao.
Thứ hai, Luật PCRT hiện hành không có quy định về việc đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành và tại từng tổ chức; đồng thời, quy định về việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa đảm bảo tính đầy đủ, hợp lý. Trong khi đó đây là một trong những yêu cầu thuộc nhóm các vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính quốc tế (FATF)
[2] về PCRT.
Thứ ba,về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo, đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn tồn tại một số lỗ hổng cơ bản như: các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT hiện chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement" được đưa ra tại khuyến nghị của FATF; Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn thiếu các quy định theo yêu cầu mới phát sinh tại 40 Khuyến nghị của FATF như yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trước khi đưa các sản phẩm hoặc dịch vụ ứng dụng công nghệ mới ra thực tiễn...
Thứ tư, các quy định về việc phân tích, xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ của Ngân hàng Nhà nước tại Luật PCRT hiện nay chưa được rõ ràng, chưa thể hiện rõ các quy trình nghiệp vụ cơ bản trong phân tích thông tin từ việc tiếp nhận thông tin, phân tích thông tin theo các quy trình nghiệp vụ và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền. Ngoài ra, các quy định này cũng chưa bao quát hết các nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của đơn vị đầu mối thực hiện chức năng PCRT thuộc Ngân hàng Nhà nước như công tác giám sát, cảnh báo, trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước trong thực hiện công tác PCRT.
Thứ năm, tại Chương III Luật PCRT đã quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong PCRT. Tuy nhiên, xuất phát từ hoạt động quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, hiện nay tại một số lĩnh vực hoạt động chưa có sự phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước như lĩnh vực kinh doanh kim loại quý, đá quý.
Thứ sáu, Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được sửa đổi, bổ sung vào năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 Khuyến nghị hiện hành của FATF, ảnh hưởng đến việc thực thi cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các khuyến nghị của FATF.
2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng, để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là một trong những giải pháp được đặt ra. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về PCRT là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác phòng, chống rửa tiền nói riêng và phòng, chống tham nhũng nói chung phát triển và hoàn thiện, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đồng thời, tại Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ (điểm 1 Phần IV Kế hoạch) và Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật PCRT phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
3. Cơ sở về pháp luật quốc tế và cam kết quốc tế
3.1. Về các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo) vào tháng 6 năm 2012. Ngày 18/4/2013, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số 605/QĐ-TTg về Phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Tại điểm 2(a) mục II Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em ban hành kèm theo Quyết định số 605/QĐ-TTg quy định về những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt để tổ chức thực hiện toàn diện nội dung Công ước và Nghị định thư trên phạm vi cả nước đã quy định về nhiệm vụ rà soát để hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về phòng, chống tội phạm cho phù hợp với Công ước và Nghị định thư, trong đó có Luật PCRT.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về Chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần (Công ước Viên 1988) vào tháng 11/1997, phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Công ước Merida) tháng 8/2009. Để thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của các công ước này, các quốc gia thành viên, tham gia hoặc phê chuẩn công ước đều phải có các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các hành vi buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần, phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia và hành vi tham nhũng. Để thực hiện các biện pháp này, các quy định của pháp luật về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện các hành vi rửa tiền cũng cần được áp dụng có hiệu quả để phòng ngừa, phát hiện các hành vi nêu trên.
Do vậy, việc sửa đổi Luật PCRT là một yêu cầu để thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn.
3.2. Về Báo cáo đánh giá đa phương về công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam
Báo cáo đánh giá đa phương về công tác phòng, chống rửa tiền của Việt Nam (Báo cáo) được thông qua tại Hội nghị toàn thể của FATF (tháng 3/2022). Báo cáo này đánh giá thực trạng thể chế và thực tiễn công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam, xác định các thiếu hụt cũng như khuyến nghị Việt Nam cần thiết phải thực hiện về công tác phòng, chống rửa tiền bao gồm nội dung hoàn thiện thể chế, pháp luật. Về những thiếu hụt trong quy định pháp luật về PCRT, theo Báo cáo khi đánh giá về mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam so với 40 Khuyến nghị của FATF, hiện quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn những thiếu hụt, không đáp ứng hoặc mới đáp ứng được một phần của các yêu cầu tại 27/40 Khuyến nghị của FATF, trong đó các các tồn tại, hạn chế nêu tại điểm 1.2 cũng đã được chỉ ra trong Báo cáo. Sau khi Báo cáo được thông qua (tháng 3/2022), Việt Nam có thời hạn là 01 năm để thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục thiếu hụt nêu trong Báo cáo đánh giá. Nếu hết thời hạn này, Việt Nam chưa thực hiện các biện pháp, trong đó bao gồm cả việc ban hành các văn bản pháp luật (trong đó có Luật PCRT) cho thấy đã cải thiện các thiếu hụt trọng yếu, Chính phủ Việt Nam sẽ phải ký cam kết ở cấp Chính phủ về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện các khuyến nghị hành động của APG để khắc phục những thiếu hụt do FATF đưa ra, đồng thời Việt Nam sẽ bị xem xét đưa vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về cơ chế PCRT, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và công bố rộng rãi để các nước trên thế giới áp dụng biện pháp rà soát tăng cường đối với luồng vốn ra, vào Việt Nam.
Theo những cơ sở nêu trên, việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm khắc phục những hạn chế nội tại trong các quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực quốc tế, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT trong thời gian tới.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG VĂN BẢN
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật PCRT hiện hành như đã đề cập tại điểm 1.2 Phần I, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCRT; xây dựng hệ thống pháp luật về PCRT phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế về PCRT mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và công tác phòng, chống tội phạm nói chung.
2. Quan điểm xây dựng dự thảo văn bản
2.1. Luật cần đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và cần cụ thể hóa các chủ trương, chiến lược, kế hoạch của Chính phủ trong công tác PCRT.
2.2. Luật cần khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế về PCRT.
2.3. Luật cần phải tham khảo, cụ thể hóa các chuẩn mực quốc tế về PCRT trên cơ sở đảm bảo phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam; tham khảo pháp luật của một số quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ THẢO LUẬT PCRT (SỬA ĐỔI)
Thực hiện Nghị quyết số /2022/QH15 ngày / /2022 của Quốc hội Khóa XV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và Quyết định số /QĐ-TTg ngày / /2022 giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì soạn thảo Luật PCRT (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
1. Thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật PCRT (sửa đổi) tại Quyết định số 960/QĐ-NHNN ngày 31 /05/2022. Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là Trưởng ban soạn thảo, đại diện các Bộ, cơ quan liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học là thành viên Ban soạn thảo và Tổ biên tập theo đúng quy định.
2. Tổ chức nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); thực hiện rà soát, nghiên cứu các VBQPPL có liên quan (Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Bộ Luật Hình sự, Luật Phòng, chống khủng bố,…) để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo Luật PCRT (sửa đổi); nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới.
3. Tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo Luật theo quy định thông qua các hình thức: đăng tải dự thảo Luật lên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước để lấy ý kiến rộng rãi; gửi hồ sơ dự án Luật đề nghị tham gia ý kiến đối với cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động; tổ chức hội thảo để lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức có liên quan.
Nghiên cứu, tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý và hoàn thiện dự thảo Luật.
4. Dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) đã được Bộ Tư pháp thẩm định theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Báo cáo thẩm định số /BCTĐ-BTP ngày / / 2022.
Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ dự thảo Luật PCRT (sửa đổi).
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Bố cục
Luật PCRT (sửa đổi) được bố cục gồm 5 Chương, 61 Điều:
- Chương I: Những quy định chung. Chương này gồm 8 Điều;
- Chương II: Biện pháp phòng, chống rửa tiền. Chương này gồm 4 Mục, 32 Điều;
+ Mục 1: Nhận biết khách hàng và cập nhật thông tin khách hàng. Mục này gồm 14 Điều;
+ Mục 2: Trách nhiệm báo cáo, cung cấp và lưu trữ thông tin và xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền. Mục này gồm 10 Điều;
+ Mục 3: Thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền.
Mục này gồm 5 Điều;
+ Mục 4: Áp dụng các biện pháp tạm thời và xử lý vi phạm. Mục này gồm 3 Điều;
- Chương III: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền. Chương này gồm 15 Điều;
- Chương IV: Hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền. Chương này gồm 3 Điều;
- Chương V: Điều khoản thi hành. Chương này gồm 3 Điều.
2. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật
a. Phạm vi điều chỉnh
Dự thảo Luật kế thừa quy định tại Luật PCRT năm 2012, theo đó phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền.
b. Đối tượng báo cáo về PCRT
Dự thảo Luật kế thừa quy định về đối tượng báo cáo PCRT tại Luật PCRT năm 2012, bao gồm tổ chức tài chính và tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan. Bên cạnh đó, để phù hợp khuyến nghị của FATF và đáp ứng kiến nghị của APG tại Báo cáo đánh giá đa phương, dự thảo Luật bổ sung một số hoạt động kinh doanh mới phát sinh có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền mà tổ chức thực hiện hoạt động đó phải thực hiện báo cáo gồm các tổ chức được cấp phép thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ.
Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ, đây là hai hoạt động mới và khung pháp lý điều chỉnh cho các hoạt động này hiện mới đang trong giai đoạn nghiên cứu hoàn thiện. Tuy nhiên, đây là những hoạt động có tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền do các hoạt động này hầu hết được thực hiện trực tuyến nên các bên tham gia giao dịch có tính ẩn danh cao. Dự thảo Luật bổ sung đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính được cấp phép thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo (VASP), cung ứng dịch vụ trung gian kết nối người đi vay và người cho vay dựa trên nền tảng công nghệ, theo đó tạo cơ sở pháp lý để quản lý về PCRT đối với các tổ chức này ngay khi có khung pháp lý điều chỉnh. Quy định tại dự thảo Luật cũng phù hợp với xu hướng chung của pháp luật về PCRT của các quốc gia trên thế giới, ví dụ liên quan đến các VASP, có hơn 90 quốc gia đã quy định các VASP là đối tượng báo cáo tại pháp luật về PCRT trong khi các nội dung về cấp phép, quản lý được quy định tại một văn bản chuyên ngành riêng.
Về hoạt động cung cấp dịch vụ tài sản ảo, tại khuyến nghị số 15 của FATF yêu cầu các quốc gia phải: xác định và đánh giá các rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố phát sinh từ các hoạt động tài sản ảo và các hoạt động của các VASP; yêu cầu các VASP thực hiện các bước thích hợp để xác định, đánh giá, quản lý và giảm thiểu rủi ro rửa tiền và tài trợ khủng bố của họ. Theo đánh giá của APG tại báo cáo đánh giá đa phương, một trong các lý do Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu tại khuyến nghị 15 của FATF do: Việt Nam chưa có báo cáo đánh giá rủi ro rửa tiền/tài trợ khủng bố liên quan đến tài sản ảo; các VASP không có nghĩa vụ phải nhận diện, đánh giá, quản lý và giảm thiểu rủi ro rửa tiền/tài trợ khủng bố... Do đó việc đưa quy định đối tượng báo cáo là các VASP tại dự thảo Luật cũng nhằm đáp ứng một phần khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG.
c. Quy định về các biện pháp phòng ngừa áp dụng đối với đối tượng báo cáo và cơ quan có thẩm quyền
- Về nhận biết khách hàng, thông tin nhận biết khách hàng, cập nhật thông tin nhận biết khách hàng, biện pháp xác minh thông tin nhận biết khách hàng: dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin nhận biết khách hàng để phù hợp với pháp luật hiện hành; sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, theo đó đối tượng báo cáo phải xác định chủ sở hữu hưởng lợi và áp dụng các biện pháp để nhận biết, cập nhật thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi, đồng thời giao Chính phủ hướng dẫn các biện pháp xác định chủ sở hữu hưởng lợi.
- Về khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị: dự thảo Luật bổ sung quy định về đối tượng PEP của tổ chức quốc tế, bổ sung quy định về người có liên quan với cá nhân có ảnh hưởng chính trị; quy định trách nhiệm của đối tượng báo cáo phải có các biện pháp để xác định khách hàng là cá nhân có ảnh hưởng chính trị và áp dụng bổ sung các biện pháp bên cạnh việc nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng thông thường.
- Về ngân hàng đại lý: dự thảo Luật bổ sung các biện pháp đối tượng báo cáo phải áp dụng khi thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý với ngân hàng đối tác nước ngoài bao gồm: thu thập thông tin giám sát về ngân hàng đối tác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, trong đó bao gồm cả thông tin việc ngân hàng đối tác có bị điều tra về rửa tiền hay các vi phạm pháp luật khác hay không; hiểu biết về các trách nhiệm phòng, chống rửa tiền của mỗi tổ chức; trong trường hợp khách hàng của ngân hàng đối tác có thể thanh toán thông qua tài khoản của ngân hàng đối tác mở tại đối tượng báo cáo, đối tượng báo cáo phải đảm bảo rằng tài khoản của ngân hàng đối tác không được phép sử dụng bởi các ngân hàng vỏ bọc.
- Quy định về các sản phẩm, dịch vụ sử dụng công nghệ mới: dự thảo Luật bổ sung quy định đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền đối với tất cả các sản phẩm dịch vụ sử dụng công nghệ mới hiện có và trước khi đưa vào sử dụng hoặc kinh doanh, ban hành quy trình nội bộ áp dụng các biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro vì đây là loại hình sản phẩm, dịch vụ tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền.
- Về nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba: hoạt động này được sửa đổi tên gọi từ hoạt động kinh doanh qua giới thiệu quy định tại Luật PCRT năm 2012, theo đó dự thảo Luật bổ sung các yêu cầu đối với việc nhận biết khách hàng thông qua bên thứ ba, yêu cầu đối với công ty mẹ trong trường hợp bên thứ ba là tổ chức tài chính và là công ty con của công ty mẹ là tổ chức tài chính.
- Về minh bạch thông tin của pháp nhân: dự thảo Luật bổ sung quy định yêu cầu về việc cập nhật, lưu giữ thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của pháp nhân đối với cơ quan đăng ký kinh doanh, cấp phép thành lập, hoạt động cho pháp nhân và chính pháp nhân đó.
- Về thỏa thuận pháp lý: Dự thảo Luật sửa đổi khái niệm “thỏa thuận ủy quyền” tại Luật PCRT năm 2012 thành “thỏa thuận pháp lý, bổ sung quy định về minh bạch thông tin của thỏa thuận pháp lý, đáp ứng yêu cầu tại khuyến nghị 25 của FATF.
- Về trách nhiệm báo cáo, cung cấp và lưu giữ thông tin và xây dựng quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền: Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các nội dung:
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc ban hành hướng dẫn, bổ sung các dấu hiệu giao dịch đáng ngờ theo các ngành, lĩnh vực có thể phát sinh trong từng thời kỳ; bổ sung quy định trách nhiệm của các tổ chức tham gia vào giao dịch chuyển tiền điện tử phải có chính sách và quy trình trên cơ sở đánh giá rủi ro của tổ chức để thực hiện, từ chối, tạm dừng, kiểm soát sau giao dịch hoặc báo cáo giao dịch đáng ngờ các giao dịch chuyển tiền điện tử không chính xác, đầy đủ các thông tin theo yêu cầu.
- Bổ sung trách nhiệm của cơ quan hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển trong lưu trữ thông tin dữ liệu khai báo hải quan, chia sẻ thông tin, dữ liệu khai báo hải quan cho cơ quan có thẩm quyền khi có nghi ngờ liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về thời gian báo cáo giao dịch đáng ngờ: (i) tối đa hai ngày làm việc kể từ thời điểm phát sinh giao dịch; hoặc (ii) một ngày làm việc kể từ thời điểm phát hiện giao dịch đáng ngờ, khắc phục những vướng mắc của đối tượng báo cáo trong quá trình thực hiện.
- Về áp dụng các biện pháp tạm thời và xử lý vi phạm: dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin báo cáo việc thực hiện phong tỏa cho NHNNVN chỉ bao gồm các thông tin liên quan đến tội phạm hình sự.
d) Quy định về đánh giá mức độ rủi ro về rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo và áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT
Để đáp ứng khuyến nghị của FATF, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các quy định về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; áp dụng phương pháp tiếp cận trên cơ sở rủi ro trong công tác PCRT, cụ thể:
+ Bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, ngành về rửa tiền;
+ Bổ sung quy định về trách nhiệm đánh giá rủi ro về rửa tiền tại đối tượng báo cáo trên cơ sở kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền của quốc gia, ngành; đối tượng báo cáo phải xây dựng quy trình quản lý rủi ro nhằm giảm thiểu các rủi ro về rửa tiền đã được nhận diện, báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết quả đánh giá rủi ro hoặc cập nhật kết quả đánh giá rủi ro về rửa tiền và các chính sách, quy trình quản lý rủi ro.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro để quy định đầy đủ hơn về yêu cầu áp dụng biện pháp nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng theo các mức độ giảm nhẹ, trung bình hay tăng cường tương ứng với nhóm khách hàng, lĩnh vực được phân loại có rủi ro thấp, trung bình hay cao về rửa tiền.
đ) Về chức năng, nhiệm vụ Cục PCRT và hoạt động thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về PCRT
Khuyến nghị số 29 về đơn vị tình báo tài chính (FIU) của FATF yêu cầu: FIU cần phải độc lập và tự chủ trong hoạt động bằng cách: (a) có thẩm quyền và khả năng thực hiện chức năng của mình một cách tự do, bao gồm cả quyền tự chủ quyết định phân tích, yêu cầu và/hoặc chuyển giao thông tin cụ thể; (b) có quyền độc lập để chuyển tiếp hoặc chuyển giao thông tin cho các cơ quan chức năng; (c) khi FIU được thành lập như là một đơn vị trong một cơ quan hiện có thì các chức năng cơ bản của FIU cần phải được tách biệt rõ ràng với các chức năng của cơ quan khác này. Theo đánh giá của APG tại báo cáo đánh giá đa phương, Cục PCRT hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu về tính độc lập và tự chủ tại Khuyến nghị số 29 của FATF.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020, nếu không phải là Tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan ngang bộ sẽ không có thẩm quyền ký kết MOU. Với mô hình tổ chức hiện nay là Cục PCRT là đơn vị thuộc CQTTGSNH trực thuộc NHNN sẽ không phải là chủ thể ký kết MOU. Điều này chưa đảm bảo được tính độc lập của FIU theo khuyến nghị của FATF.
Để nâng cao năng lực của cơ quan đầu mối về PCRT của Việt Nam, đáp ứng khuyến nghị của FATF và đánh giá của APG, dự thảo Luật bổ sung quy định Cục PCRT là đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng phòng, chống rửa tiền, thu thập, phân tích và chuyển giao thông tin về PCRT, giám sát PCRT và chuyển giao thông tin giám sát về PCRT, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động PCRT của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin về phòng, chống rửa tiền, trong đó quy định trách nhiệm của Cục PCRT trong việc thu thập, xử lý, chuyển giao thông tin về PCRT.
e) Quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong PCRT
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của bộ, ngành, trong đó bổ sung trách nhiệm trong việc thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro ngành về PCRT thuộc lĩnh vực quản lý; bổ sung trách nhiệm của các Bộ, ngành trong quản lý về phòng, chống rửa tiền với các tổ chức, cá nhân kinh doanh kim loại quý, đá quý, những lĩnh vực mới phát sinh đối tượng báo cáo, bảo đảm phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và tính thống nhất với quy định pháp luật liên quan.
V. NHỮNG VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN
(Sẽ bổ sung sau khi có ý kiến của các Bộ, ngành).
Trên đây là Tờ trình về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước kính trình Chính phủ xem xét, quyết định./
[1] Trong lĩnh vực ngân hàng, một trong các điều kiện thiết yếu để các ngân hàng Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác với các ngân hàng nước ngoài là ngân hàng phải có các chương trình PCRT được thiết lập và thực thi hiệu quả tại tổ chức.
[2]FATF là tổ chức liên chính phủ ban hành ra các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền/chống tài trợ khủng bố với mục tiêu ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp gây hại cho xã hội. Năm 2004, FATF lần đầu ban hành bộ tiêu chuẩn 40+9 Khuyến nghị bao gồm 40 Khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và 9 Khuyến nghị đặc biệt về phòng, chống tài trợ khủng bố; đến tháng 02/2012 FATF sửa đổi, bổ sung 40+9 Khuyến nghị thành bộ 40 Khuyến nghị mới về chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và chống tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt. 40 Khuyến nghị hiện đang được áp dụng là bộ chuẩn mực quốc tế chung về PCRT/TTKB/VKHD. Hiện nay, hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đang cam kết thực hiện theo các khuyến nghị của FATF trong đó có Việt Nam. (Nguồn trích dẫn: website:
https://www.fatf-gafi.org/about/)