MTTQ Việt Nam góp ý kiến về Dự thảo Luật Hòa giải cơ sở: Phát huy vai trò công tác dân vận trong tình hình mới

Tại Hà Nội, các hội đồng tư vấn về: Dân chủ pháp luật; kinh tế; văn hóa xã hội của UBTƯ MTTQ Việt Nam đã đóng góp ý kiến về Dự thảo Luật Hòa giải cơ sở do Bộ Tư pháp soạn thảo. Nhiều ý kiến đã tán thành về sự cần thiết của Luật, cũng như nâng cao vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải cơ sở.

 

Ngày 25-12-1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Và ngày 18-10-1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh. Tuy nhiên sau 13 năm, thực hiện Pháp lệnh và Nghị định, hoạt động hòa giải ở cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Chính vì lẽ đó, Luật Hòa giải cơ sở được Bộ Tư pháp xây dựng, và sẽ được trình Chính phủ cho ý kiến tại phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật diễn ra vào tháng 7-2012.

Dự thảo Luật Hòa giải cơ sở gồm 5 chương, 29 điều. Hòa giải cơ sở được thực hiện nhằm giúp các bên tự giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, góp phần giữ gìn tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân; củng cố, phát huy đạo lý, truyền thống tốt đẹp trong gia đình, dòng họ và cộng đồng các dân tộc Việt Nam; giảm bớt vụ việc khiếu kiện, phòng ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân và giữ gìn trật tự xã hội, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Phạm vi của Luật Hòa giải cơ sở là những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ ở cơ sở gồm: Mâu thuẫn, xích mích giữa các cá nhân với nhau; tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên ở cơ sở phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, đất đai, hôn nhân và gia đình; những vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính; hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhưng người bị hại đã không yêu cầu hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và cơ quan tiến hành tố tụng không khởi tố vụ án hoặc đình chỉ vụ án hình sự theo quy định của pháp luật; những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, Luật này quy định không hòa giải một số vụ việc như: Tội phạm hình sự; hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý vi phạm hành chính; kết hôn trái pháp luật; các tranh chấp phát sinh từ giao dịch trái pháp luật; các tranh chấp xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước; các vi phạm pháp luật và tranh chấp khác mà theo quy định của pháp luật không được hòa giải.

MTTQ Việt Nam góp ý kiến về Dự thảo Luật Hòa giải cơ sở: Phát huy vai trò công tác dân vận trong tình hình mới

Nâng cao vị thế của Mặt trận trong công tác hòa giải. (Nguồn: www.mattran.org.vn)

Ông Nguyễn Duy Lãm, Vụ trưởng Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Tổ trưởng Tổ biên soạn Luật Hòa giải cơ sở cho biết, điểm nổi bật đáng chú ý trong việc xây dựng Luật Hòa giải cơ sở đó là nâng cao vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải cơ sở. "Hòa giải cơ sở là hoạt động của dân, do dân tự quản, do đó Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên phải có vị trí, vai trò quan trọng trong hoạt động hòa giải cơ sở”.

Không nên quy định thời gian hòa giải

Qua 15 ý kiến phát biểu, nhiều vị đại biểu cũng nhận định rằng, việc ban hành Luật là cần thiết, đồng thời Luật đã có đổi mới về nhận thức, khi nâng cao vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải cơ sở. Theo như nhận định của GS. Lưu Văn Đạt, Chủ nhiệm HĐTV về Dân chủ pháp luật, UBTƯMTTQ Việt Nam, thì "đây là một sự đổi mới về tư duy”, còn nguyên Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Đỗ Duy Thường nhìn nhận rằng "đây là một sự đổi mới về nhận thức”. Bên cạnh tán thành về sự cần thiết, và vai trò của Mặt trận trong dự án Luật này, thì nhiều ý kiến cho rằng, Luật không nên quy định về mức thời gian hòa giải. Theo đó, luật quy định rằng, thời hạn hòa giải không quá 30 ngày, kể từ ngày tổ hòa giải nhận được yêu cầu hoặc hòa giải viên trực tiếp chứng kiến, biết vụ việc. Đối với những vụ việc phức tạp, theo yêu cầu của các bên thì thời hạn hòa giải có thể kéo dài thêm, nhưng không quá 45 ngày. Ông Phạm Văn Thảo, nguyên Phó Chủ tịch MTTQ TP. Hà Nội cho rằng, không nên quy định thời gian hòa giải, vì có nhiều vụ việc đơn giản thì hòa giải nhanh, trong khi lại có nhiều vụ phức tạp phải mất 1-2 năm mới giải quyết xong. Chủ nhiệm HĐTV về Văn hóa-xã hội, UBTƯ MTTQ Việt Nam cũng cho rằng, thời gian giúp con người xóa đi mặc cảm, mâu thuẫn cho nên không nên đưa vấn đề thời gian vào trong luật. "nếu vì áp lực thời gian mà hòa giải cho xong là không nên” - ông Nguyễn Túc nhấn mạnh.

Qua thảo luận, nhiều ý kiến của các vị đại biểu cũng cho rằng, trong luật cần quy định phải có biên bản hòa giải. Theo luật sư Lê Đức Tiết, Phó Chủ nhiệm HĐTV về Dân chủ pháp luật, UBTƯ MTTQ Việt Nam, thì cần quy định phải có biên bản hòa giải, nhưng chỉ là cơ sở các bên tự nguyện chứ không ép buộc. Nhà thơ Bằng Việt, Ủy viên HĐTV về Văn hóa-xã hội, UBTƯ MTTQ Việt Nam cũng tán thành về việc biên bản hòa giải, nhưng "nếu biên bản hòa giải không thành thì họp lần thứ 2, và không nên quá 2 lần vì không thể theo đuổi mãi”. Trong khi đó bà Hà Thị Nga, Ủy viên HĐTV về Dân chủ pháp luật, UBTƯ MTTQ Việt Nam lại cho rằng "không nên đặt vấn đề mấy lần biên bản mà nếu khu dân cư đề nghị thì nên hòa giải, bởi hòa giải là động viên người ta, và tự nguyện chứ không thể áp đặt”. 

H.Vũ/daidoanket.vn