Luật Đầu tư công: Một khái niệm, hai quan điểm
- 08/09/2012
Cho đến nay, vẫn có hai quan điểm khác nhau về đầu tư công.Cuộc “tranh cãi” về khái niệm đầu tư công với hai quan điểm khác nhau diễn ra từ năm 2007 đến nay và chưa có hồi kết. Bởi, đầu tư công là khái niệm có nội hàm rất khác nhau tùy theo góc nhìn của từng đối tượng.
Cho đến nay, vẫn có hai quan điểm khác nhau về đầu tư công. Quan điểm thứ nhất cho rằng, đầu tư công là toàn bộ nội dung liên quan đến đầu tư sử dụng vốn nhà nước, bao gồm hoạt động đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư sử dụng vốn nhà nước không nhằm mục đích thu lợi nhuận vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội (gọi tắt là nhóm 1); các hoạt động đầu tư, kinh doanh sử dụng vốn nhà nước, đặc biệt là quản lý các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước (gọi tắt là nhóm 2).
Quan điểm thứ hai khẳng định,đầu tư công chỉ bao gồm các hoạt động đầu tư bằng vốn nhà nước cho các dự án, chương trình không vì mục tiêu thu lợi nhuận, tức là giới hạn trong phạm vi các hoạt động đầu tư thuộc nhóm 1.
Cuộc “tranh cãi” về khái niệm đầu tư công với hai quan điểm khác nhau diễn ra từ năm 2007 đến nay và chưa có hồi kết. Bởi, đầu tư công là khái niệm có nội hàm rất khác nhau tùy theo góc nhìn của từng đối tượng. Chẳng hạn, nếu xét theo nguồn vốn đầu tư thì bất kỳ khoản đầu tư nào, đầu tư vào đâu với mục đích gì đều là đầu tư công nếu nguồn vốn đầu tư là của nhà nước, tức là của chung, không của riêng cá nhân hoặc pháp nhân nào. Song, nếu xét theo mục đích đầu tư thì đầu tư công lại được hiểu là chỉ bao gồm đầu tư vào những chương trình, dự án phục vụ cộng đồng, không có mục đích thu lợi nhuận.
Dù cách hiểu, cách diễn đạt có những khác nhau, song điểm chung nhất là hoạt động đầu tư có nguồn vốn của nhà nước (từ ngân sách nhà nước, do nhà nước vay, nhà nước bảo lãnh khoản vay...). Hơn nữa, không thể loại bỏ việc đầu tư vốn nhà nước cho các hoạt động kinh doanh dưới hình thức cấp vốn, cho vay, bảo lãnh khoản vay cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước ra khỏi phạm vi đầu tư công để không bị luật điều chỉnh.
Vì vậy, để có thể ban hành luật điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn nhà nước, xin kiến nghị:
Không thể ban hành một luật chung điều chỉnh hoạt động đầu tư của cả nhóm 1 và 2 nêu trên. Với một luật bao hàm phạm vi rộng , tính khả thi sẽ không cao. Bởi, hoạt động đầu tư từ nguồn vốn nhà nước thuộc nhóm 1 và 2 có sự khác nhau rất cơ bản. Chẳng hạn, hiệu quả đầu tư của các chương trình, dự án thuộc nhóm 1 sẽ được đánh giá hoàn toàn khác với hiệu quả đầu tư của các dự án thuộc nhóm 2. Với các dự án thuộc nhóm 2, việc xác định sản lượng hòa (hoặc doanh thu hòa vốn), các chỉ tiêu IRR, ROI, NPV, thời gian hoàn vốn... có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhưng các chương trình, dự án thuộc nhóm 1 không thể tính được các chỉ tiêu này.
Đối tượng tham gia, trình tự lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư; các hợp đồng kinh tế phục vụ thực hiện dự án... đối với các chương trình, dự án thuộc hai nhóm nói trên cũng hoàn toàn khác nhau. Mối liên hệ giữa Luật Đầu tư công với các luật, pháp lệnh đã ban hành đối với các chương trình, dự án thuộc 2 nhóm cũng có sự khác nhau rất lớn; chủ đầu tư của các chương trình, dự án thuộc nhóm 1 và nhóm 2 cũng khác nhau cơ bản...
Đổi tên “Luật Đầu tư công” thành “Luật Đầu tư vốn nhà nước cho các chương trình, dự án không có mục đích kinh doanh”, bổ sung phạm vi điều chỉnh của luật nội dung mua sắm của Chính phủ. Bởi lẽ, có khá nhiều nội dung quan trọng trong việc mua sắm của Chính phủ (bao gồm cả chính quyền địa phương các cấp) chưa được đề cập trong Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước như kế hoạch đầu tư mua sắm; lập, thẩm định, phê duyệt dự án; đấu thầu mua sắm...
Triển khai soạn thảo dự thảo “Luật Đầu tư vốn nhà nước vào hoạt động kinh doanh”. Bởi lẽ, với phạm vi điều chỉnh của “Luật Đầu tư vốn nhà nước cho các chương trình, dự án không có mục đích kinh doanh”, còn một phần rất lớn vốn đầu tư của nhà nước do các doanh nghiệp nhà nước đầu tư và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đầu tư sử dụng vốn đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước đang được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản dưới luật.
