Góp ý Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi: Đừng sửa theo kiểu “rượu cũ, bình cũng cũ”

Theo kế hoạch, đầu tuần tới, Thường vụ QH sẽ cho ý kiến lần đầu tiên về Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) sửa đổi - dự kiến sẽ được thông qua tại kỳ họp QH vào tháng 10. Cần phải sửa những gì để đạo luật này thực sự là công cụ pháp lý có hiệu lực cho công cuộc chống tham nhũng tại Việt Nam? Ông Jairo Acuna Alfaro, cố vấn chính sách của UNDP tại Việt Nam đã có bài góp ý về dự án luật này trên Pháp luật TP Hồ Chí Minh.

Xét từ quan điểm chính sách, thách thức của Việt Nam nằm ở nghịch lý rằng đất nước này có một hệ thống chính sách và khung pháp lý chính thống rất toàn diện (ở nhiều cấp độ) song tham nhũng vẫn bị xem là phổ biến và là vấn đề thực tiễn.

Vì vậy, trước khi trình QH dự thảo Luật PCTN sửa đổi, có lẽ việc cần làm là cân nhắc liệu chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của luật hay cần có cách tiếp cận và chiến lược sửa đổi khác. Khi mà “bước đột phá” trong PCTN không chỉ đến từ những thay đổi “từng phần” mà hơn hết là từ việc sửa đổi căn bản khuôn khổ pháp lý hiện hành.

Ba yếu tố sau đây có thể cần được cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình sửa đổi. Một là làm thế nào để đưa các chế tài vào văn bản luật về PCTN. Hai là khái niệm và khung pháp lý cho trách nhiệm giải trình của người đứng đầu. Ba là cơ cấu lại các cơ quan PCTN làm sao độc lập và tự chủ hơn.

Chưa phải là “cây gậy”

Kết quả tổng kết việc thực hiện Luật PCTN của Chính phủ chỉ ra rằng khung khổ pháp lý hiện thiếu biện pháp chế tài và các cơ chế thực thi có hiệu quả để đưa các điều khoản về PCTN vào cuộc sống. Luật PCTN có phạm vi và lĩnh vực điều chỉnh rất rộng, song chỉ là tập hợp các quy định về thanh tra và các biện pháp phòng ngừa của nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Hệ quả dễ thấy là sau gần bảy năm đạo luật có hiệu lực, chưa cán bộ, công chức nào phải giải trình do không tuân thủ Luật PCTN. Nói một cách dân dã hơn, vấn đề nổi cộm hiện nay thể hiện ở việc Luật PCTN chưa phải là “cây gậy” để buộc phải thực thi và tuân thủ.

Vì vậy, các nhà làm luật cần thảo luận thêm về các biện pháp “đột phá”, thay vì những sửa đổi “manh mún” theo cách thức cũ. Luật sửa đổi cần có những điều chỉnh căn bản, bao gồm các biện pháp chế tài cụ thể hoặc dẫn chiếu các điều khoản liên quan có tính chất chế tài từ trong các đạo luật có sức mạnh răn đe, như BLHS, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Cán bộ, công chức... Nhờ đó có thể xử lý hiệu quả hơn các hành vi tham nhũng cũng như sửa đổi hành vi trong khu vực Nhà nước.

Siết trách nhiệm người đứng đầu

Luật PCTN hiện nay đề cao khái niệm “chế độ trách nhiệm” với một mục riêng về “chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng”. Tuy nhiên, sau gần bảy năm luật có hiệu lực, quy định này dường như chưa phát huy tác dụng.

Lý do thứ nhất, những điều khoản này thiếu rõ ràng và cần phải sửa đổi căn bản. Những vụ việc thua lỗ và có dấu hiệu tham nhũng của các DNNN mà Thanh tra Chính phủ phát hiện cần được xem là những “án lệ” để luật sửa đổi có những biện pháp mạnh mẽ hơn về trách nhiệm của người đứng đầu. Một trong những biện pháp đó có thể là yêu cầu tạm đình chỉ ngay cán bộ, công chức có dấu hiệu tham nhũng, thay vì cho phép tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác hoặc cho tạm dừng ngay các lợi ích như lương hưu và phụ cấp.

Lý do thứ hai, quy định như hiện hành dẫn tới diễn giải và áp dụng luật theo hướng cho dù có tham nhũng xảy ra, người đứng đầu ở cơ quan, đơn vị ấy chẳng hề dính líu. Có chăng, họ có trách nhiệm vì họ là người đứng đầu thôi. Ngoài ra, chế độ trách nhiệm, như thể hiện trong luật, còn có thể được diễn giải rằng những người đứng đầu ấy đều được tuyển chọn và bổ nhiệm một cách công tâm, cạnh tranh và công khai, minh bạch; và họ vào được các vị trí đứng đầu với tâm thế trong sạch và minh bạch. Giả định như vậy thì câu hỏi tiếp theo đặt ra là ai giám sát người đứng đầu? Và có cách gì để tăng cường giám sát, theo dõi một cách độc lập từ các cơ quan bên ngoài đối với người đứng đầu?

Cơ quan chống tham nhũng cần độc lập hơn

Một trong những cơ chế giám sát ấy thuộc về tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN. Cho đến nay, Đảng đã quyết định Ban Chỉ đạo trực thuộc Bộ Chính trị do tổng bí thư đứng đầu. Song điều cần lưu ý là kinh nghiệm trước đây của Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia khác cho thấy cơ chế tự điều phối song thiếu tính độc lập cần thiết có thể không đem lại kết quả như mong đợi.

Là thành viên Công ước LHQ về chống tham nhũng, Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng các điều 6 và 36 về cơ quan chuyên trách chống tham nhũng. Công ước tôn trọng các nguyên tắc căn bản của hệ thống pháp luật quốc gia, song yêu cầu mỗi thành viên đảm bảo có một hoặc một số cơ quan PCTN hoặc cơ quan chuyên trách “được trao cho sự độc lập cần thiết… để có thể thực hiện nhiệm vụ một cách có hiệu quả và không phải chịu bất kỳ sự ảnh hưởng trái pháp luật nào”.

Như vậy, yếu tố quan trọng cần được xem xét thấu đáo đó là tính độc lập của thiết chế PCTN. Gợi ý sau đây không chỉ áp dụng với Ban Chỉ đạo về PCTN mà còn với cả Thanh tra Chính phủ: Người đứng đầu các thiết chế này, thay vì thay đổi theo nhiệm kỳ của Chính phủ năm năm một lần, nên được bổ nhiệm theo hướng (i) có nhiệm kỳ dài hơn, đến 10-15 năm chẳng hạn; (ii) theo quy trình tuyển dụng theo cơ chế thực tài; và (iii) do QH xem xét bổ nhiệm.

Tóm lại, điều quan trọng đối với quá trình sửa đổi khuôn khổ pháp lý về PCTN đó là làm thế nào để có thể thảo luận và vận dụng cách làm mới, thay vì tiếp tục với câu chuyện “rượu cũ, bình cũng cũ”.

Jairo Acuna Alfaro/Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh