Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp

Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 9, chiều 11/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.

Trong phiên thảo luận, các ĐBQH đều nhận định, dự thảo Nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030 là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự quan tâm nhất quán của Quốc hội và Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn và đời sống của người nông dân.

Tuy nhiên, để việc sử dụng đất nông nghiệp đạt hiệu quả, tránh lãng phí, các ĐBQH đề nghị tiếp tục rà soát kỹ các đối tượng được miễn thuế đất để bảo đảm công bằng và đúng mục tiêu chính sách ban hành; đề xuất Quốc hội giao Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp...

Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị cho rằng, với một tỉnh như Quảng Trị, trên 70% dân số ở khu vực nông thôn, thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, chính sách này không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ trước mắt mà còn là một giải pháp an sinh xã hội thiết thực, góp phần ổn định đời sống và giảm áp lực cho ly nông và ly hương.

Tuy nhiên, theo đại biểu Hà Sỹ Đồng, Ban soạn thảo Nghị quyết cần rà soát kỹ các đối tượng được miễn thuế đất để bảo đảm công bằng và đúng mục tiêu chính sách ban hành. Việc miễn thuế nên tập trung vào người dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã và hộ gia đình thực hành canh tác bền vững, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch.

Đối với các tổ chức, doanh nghiệp tích tụ đất quy mô lớn mà không trực tiếp canh tác hoặc có biểu hiện sử dụng đất kém hiệu quả, cần có các cơ chế sàng lọc, đánh giá cụ thể, tránh tình trạng chính sách bị lợi dụng, gây lãng phí ngân sách và tạo bất bình đẳng trong tiếp cận chính sách ưu đãi.

Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp

Đại biểu Hà Sỹ Đồng - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị

Nêu quan điểm về nội dung trên, đại biểu Thạch Phước Bình – Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Trà Vinh đề nghị trong dự thảo Nghị quyết cũng cần được nhìn nhận một cách toàn diện hơn để phát huy hiệu quả bền vững, khắc phục một số bất cập đã tồn tại trong chính sách hiện hành.

Trước hết, hiện nay, việc áp dụng chính sách miễn thuế vẫn còn mang tính đại trà, chưa có sự phân loại rõ ràng giữa các nhóm đối tượng. Hộ nông dân sản xuất nhỏ, hợp tác xã hoạt động thực tế, các doanh nghiệp lớn hoặc cá nhân sở hữu đất nhưng không trực tiếp sản xuất, cho thuê lại đất đều được miễn thuế như nhau. Điều này dẫn đến sự thiếu công bằng, gây thất thu ngân sách và dễ bị lợi dụng. Do đó, cần thiết phải phân tầng chính sách: miễn toàn bộ cho người trực tiếp sản xuất, giảm hoặc giữ nguyên mức thuế cho các tổ chức, cá nhân không sản xuất thực tế, hoặc không có hoạt động canh tác hiệu quả.

Thứ hai, chính sách miễn thuế hiện nay chưa gắn chặt với điều kiện sử dụng đất hiệu quả. Việc miễn thuế cần phải đi kèm ràng buộc như: không bỏ hoang đất quá 12 tháng; sử dụng đúng mục đích; có hợp đồng rõ ràng nếu cho thuê lại; bảo vệ môi trường đất và tài nguyên sinh thái. Những điều kiện này là cần thiết để tránh tình trạng “ôm đất chờ thời”, đất không sản xuất vẫn được hưởng ưu đãi, gây lãng phí nguồn lực quốc gia.

Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp

Đại biểu Thạch Phước Bình – Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Trà Vinh

Thứ ba, một điểm đáng lưu ý là dự thảo chưa đề cập đến việc tích hợp chính sách miễn thuế với các chương trình hỗ trợ sản xuất nông nghiệp hiện hành. Chính sách thuế nên được xem như một phần trong hệ sinh thái hỗ trợ nông nghiệp, bao gồm: tín dụng ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, bảo hiểm mùa vụ, phát triển chuỗi giá trị và ứng dụng khoa học công nghệ. Khi kết nối chính sách thuế với các hỗ trợ khác, người nông dân sẽ có động lực mạnh hơn trong đầu tư sản xuất, và hiệu quả sử dụng đất được nâng cao rõ rệt.

Thứ tư, để đảm bảo chính sách miễn thuế không trở thành hình thức, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ và minh bạch. Theo đó, đề xuất Quốc hội giao Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, với báo cáo đánh giá định kỳ 2 năm/lần. Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: số lượng đối tượng được miễn thuế; tình trạng sử dụng đất; hiệu quả kinh tế và mức độ thất thu ngân sách. Các địa phương cần có trách nhiệm cập nhật, báo cáo và giải trình khi có sai lệch hoặc lạm dụng chính sách.

Với những phân tích trên, đại biểu Thạch Phước Bình đề xuất bổ sung vào dự thảo Nghị quyết một số nội dung như: Phân loại rõ đối tượng áp dụng miễn thuế, ưu tiên hộ nông dân, hợp tác xã thực tế sản xuất, đồng thời áp dụng mức miễn/giảm linh hoạt cho tổ chức, cá nhân sử dụng đất không trực tiếp canh tác. Thiết lập điều kiện sử dụng đất đi kèm chính sách miễn thuế, như không bỏ hoang đất quá 12 tháng, sử dụng đúng mục đích, và không vi phạm quy định chuyển nhượng, cho thuê trái phép. Tích hợp chính sách miễn thuế với các chương trình hỗ trợ khác, bao gồm tín dụng ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, bảo hiểm nông nghiệp, đầu tư vào chuỗi giá trị. Xây dựng cơ chế giám sát định kỳ và cơ sở dữ liệu quốc gia, minh bạch thông tin miễn thuế, đảm bảo công bằng và hiệu quả chính sách.

 Sẽ thu hồi Nếu không đưa đất vào sử dụng theo thời hạn

Với những ý kiến đóng góp của các ĐBQH, phát biểu giải trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thuế và miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong những năm qua là nhằm thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần hỗ trợ trực tiếp đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, góp phần khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp và góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả. Việc tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn tới là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng

Về chủ trương tích tụ tập trung đất đai, theo các Kết luận và Nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị và pháp luật về đất đai hiện hành, các trường hợp miễn thuế tại các nghị quyết là phù hợp. Chính vì vậy, trong lần trình dự thảo này, Chính phủ không đề xuất sửa đổi liên quan đến đối tượng hay phạm vi miễn thuế. Dự thảo Nghị quyết vẫn tiếp tục kế thừa các đối tượng đã được rà soát tại các nghị quyết của Quốc hội trước đây.

Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về đất đai, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai và các chế tài xử lý vi phạm về quản lý, sử dụng đất do Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các cơ quan có chức năng quản lý đất đai tại địa phương.

Để khắc phục tình trạng bỏ hoang đất nông nghiệp, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, tại khoản 7 Điều 81 của Luật Đất đai 2024 đã quy định rõ. Theo đó, đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản không được sử dụng trong thời gian 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời gian 18 tháng liên tục, đất trồng rừng không được sử dụng trong thời gian 24 tháng liên tục bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu không đưa đất vào sử dụng theo thời hạn ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ bị thu hồi đất.

Ngoài ra, đất nông nghiệp bỏ hoang bị thu hồi thuộc trường hợp không được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Khoản 3, Điều 101 của Luật Đất đai. Đây sẽ tiếp tục là hình thức hỗ trợ trực tiếp tới người nông dân, là nguồn đầu tư tài chính trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Qua đó, tạo công ăn việc làm cho người nông dân, cải thiện cuộc sống, gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp để phát triển bền vững.

Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát việc thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải

Phát biểu kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải khẳng định, qua thảo luận, các ĐBQH nhất trí kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp để góp góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tiếp tục thực hiện khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp, khuyến khích kinh tế trang trại, góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường quốc tế; tiếp tục hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho khu vực nông thôn, nâng cao thu nhập và đời sống người nông dân, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Các đại biểu còn tham gia ý kiến về phạm vi, đối tượng áp dụng Nghị quyết; điều kiện thụ hưởng chính sách làm sao đảm bảo công bằng, thực chất, hướng tới mục tiêu về phát triển xanh, bền vững và hướng tới chuỗi giá trị sản xuất bền vững của các sản phẩm và có chính sách chú ý đến vùng dân tộc, miền núi. Các đại biểu cũng đề nghị đánh giá hiệu quả của chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, có giải pháp thiết thực, có đánh giá định kỳ giám sát, tăng cường giám sát, thiết lập điều kiện nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, không để xảy ra tình trạng hoang hóa, lãng phí nguồn lực đất đai. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp cho phù hợp với thực tiễn, nhu cầu quản lý trong giai đoạn mới tuân thủ theo đúng các quy hoạch. Ngoài ra, các ĐBQH cũng đề nghị rà soát, hoàn thiện hướng dẫn của Chính phủ về phạm vi, đối tượng áp dụng chính sách, điều kiện thụ hưởng chính sách, trách nhiệm và chế tài thực hiện.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và cơ quan liên quan nghiên cứu các ý kiến phát biểu tại hội trường và các ý kiến thảo luận tại Tổ để tiếp thu, hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết; xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện và trình Quốc hội xem xét, quyết định.

 

Bích Lan - Vũ Hiếu - Thế Anh/Cổng thông tin điện tử Quốc hội