Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Toàn cảnh Phiên họp

Dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi) trình tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV giữ nguyên số Điều như Luật hiện hành là 28 Điều được bố cục thành 5 chương; trong đó, sửa 21 điều và giữ nguyên 7 điều. Cho ý kiến tại phiên họp, các ý kiến khẳng định, cùng với Bộ luật Dân sự, Luật Tiếp cận thông tin và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, dự thảo Luật Bảo vệ Bí mật nhà nước (sửa đổi) đã tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, nhằm thể chế hóa quy định tại Điều 21 Hiến pháp về bảo vệ bí mật đời tư và bí mật thông tin, Điều 25 Hiến pháp về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin. Các quy định của dự thảo luật đã đảm bảo cân bằng giữa một bên là bảo vệ bí mật nhà nước, một bên là quyền làm chủ và quyền tiếp cận thông tin của công dân.

Các đại biểu nhất trí cao với việc Chính phủ chủ động trình Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, nhằm kịp thời thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cũng như khắc phục những bất cập, hạn chế đã được nhận diện trong thực tiễn thi hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước hiện hành. Dự thảo luật đã có những điểm mới tiến bộ, đặc biệt trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính.

Đóng dấu mật đã trở thành phản xạ hành chính

Quan tâm đến phân loại thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước và cơ chế giải mật, đại biểu Nguyễn Phương Thủy – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội cho biết, hiện nay không thống kê được số lượng văn bản mật, vì số lượng quá lớn và phân tán nhưng, điều chắc chắn là có không ít tài liệu đang bị mật hóa vượt mức yêu cầu thực tế và chính sự dư thừa bí mật ấy lại đang vô tình gây ra những thiệt hại lãng phí một cách công khai cho quản trị công, cho minh bạch quốc gia và cho quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Cùng quan điểm trên, đại biểu Phạm Văn Hòa – Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp cũng cho biết, thực tiễn kiểm tra, giám sát cho thấy, có nơi việc đóng dấu mật đã trở thành phản xạ hành chính. Cứ tài liệu liên quan đến công tác cán bộ, tài liệu trong quá trình soạn thảo đều là mật. Các tài liệu nội bộ không đóng dấu mật nhưng vẫn phải quản lý sử dụng như tài liệu mật. Thậm chí, có những nội dung đã được báo chí đưa tin rộng rãi nhưng vẫn tiếp tục được đóng dấu mật.

Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội phát biểu

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội phân tích thêm, có trường hợp cơ quan tổ chức đóng dấu mật không phải để bảo vệ lợi ích quốc gia mà để an toàn cho người ký, để tránh bị chất vấn, tránh phải giải trình hoặc thậm chí để che giấu thông tin sai phạm. Hiện tượng này đang tạo ra gánh nặng không nhỏ trong quản lý nhà nước. Bởi, người được giao lưu trữ, in ấn, chuyển giao, bảo quản hay tiêu hủy tài liệu phải tuân thủ hàng loạt các quy định nghiêm ngặt, rất tốn thời gian và công sức.

Trong hoạt động giám sát, giải trình, tiếp cận thông tin phục vụ công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội, không ít lần đại biểu Quốc hội gặp tình huống tài liệu mật không thực sự có nội dung mật, nhưng lại không thể tiếp cận, không thể viện dẫn công khai vì chưa được chính thức giải mật. Có nội dung luật yêu cầu Quốc hội thảo luận công khai như các nội dung liên quan đến dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm, nhưng số liệu, tài liệu cung cấp cho các đại biểu Quốc hội lại được đóng dấu mật. Điều này đi ngược với tinh thần minh bạch, công khai và thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ.

Theo đại biểu có 3 nhóm nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng trên: Thứ nhất, quy định của pháp luật còn rộng và chưa đủ rõ. Trong đó, Điều 7 của dự thảo luật quy định phạm vi bí mật nhà nước là giới hạn thông tin quan trọng chưa công khai nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia dân tộc. Đây là tiêu chí cốt lõi rất đúng về mặt nguyên tắc, nhưng khi áp dụng, nhiều cơ quan có xu hướng chọn phương án mật cho chắc, vì không có tiêu chí định lượng, không có hướng dẫn cụ thể để phân biệt đâu là bí mật cần bảo vệ, đâu là thông tin cần công khai, đến mức nào thì được coi là có thể gây nguy hại.

Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Đại biểu tham gia Phiên họp

Nhóm nguyên nhân thứ hai, thiếu chế tài xử lý hành vi lạm dụng. Luật hiện hành chưa có quy định rõ hậu quả pháp lý đối với trường hợp cố ý đóng dấu mật không đúng quy định, hay sử dụng hình thức văn bản mật để che giấu thông tin, né tránh giải trình. Khi đóng dấu mật sai không bị xử lý, thì hành vi lạm dụng sẽ tiếp tục tồn tại.

Nhóm nguyên nhân thứ ba, vẫn còn khoảng trống pháp lý đối với tài liệu lưu hành nội bộ. Hiện nay, rất nhiều cơ quan đang sử dụng khái niệm hành chính mềm là “các tài liệu nội bộ” nhưng hiện chưa có quy định pháp lý điều chỉnh nhóm tài liệu này. Vì thiếu khung pháp lý nên cán bộ công chức hết sức e ngại, không dám cung cấp thông tin cho các bên có liên quan, không dám đưa dữ liệu lên nền tảng số, không dám ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phân tích văn bản, sợ rủi ro lộ lọt thông tin. Chính sự thiếu rõ ràng đã vô tình trở thành rào cản với chuyển đổi số và cải cách hành chính.

Nghịch lý mật hóa thì dễ, giải mật thì khó, dẫn tới tình trạng đóng dấu mật rồi để đó

Phát biểu tại phiên thảo luận, các đại biểu cũng khẳng định, bất cập không chỉ nằm ở khâu mật hóa, mà còn nằm ở khâu giải mật. Đại biểu Dương Khắc Mai – Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cho biết, trong thực tiễn, một số công chức, đơn vị đang có sự lúng túng nhất định về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước, đặc biệt là việc ban hành các văn bản hành chính. Vẫn còn một số nội dung không có bí mật nhà nước theo danh mục, nhưng vẫn được thể hiện bằng dấu chỉ độ mật nên việc áp dụng luật có lúc không đúng với quy định.

Đại biểu thống nhất việc bổ sung nội dung quy định trường hợp sử dụng bí mật nhà nước của cơ quan, tổ chức khác thì phải xác định độ mật tương ứng theo danh mục bí mật nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực được Thủ tướng Chính phủ ban hành của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước hiện hành. Bên cạnh đó, để việc xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước một cách chính xác, đúng quy định, tránh sự tùy tiện trong xác định nội dung bí mật nhà nước, đại biểu đề nghị khi Chính phủ hướng dẫn chi tiết Điều luật này cần quy định chặt chẽ, rõ ràng và dễ áp dụng trong thực tiễn.

Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Đại biểu Dương Khắc Mai – Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng phát biểu

Theo Điều 10 của dự thảo luật Về xác định bí mật nhà nước và độ mật của bí mật nhà nước, để xác định tài liệu là bí mật nhà nước, chỉ cần người đứng đầu, hoặc cấp phó có ủy quyền của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quyết định. Đại biểu Nguyễn Phương Thủy – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội cho rằng, đây là thủ tục đơn giản, nhanh và tính trách nhiệm rất rõ, nhưng khi giải mật, đặc biệt là đối với các trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 22, thì phải thành lập Hội đồng giải mật, gồm nhiều thành phần, có họp, có biên bản, có hồ sơ lưu trữ. Điều này tạo ra nghịch lý mật hóa thì dễ mà giải mật thì khó. Dẫn tới tình trạng đóng mật rồi để đó, không ai muốn giải mật tài liệu kể cả khi không còn lý do để giữ bí mật. Hệ quả là nhiều tài liệu vốn nên được công khai để phục vụ minh bạch và kiểm soát quyền lực, lại bị treo trong trạng thái mật kéo dài nhiều năm.

Cụ thể hóa phạm vi bí mật nhà nước, lượng hóa tiêu chí để bảo đảm thống nhất khi áp dụng

Từ thực tiễn trên, các đại biểu đề nghị cụ thể hóa phạm vi bí mật nhà nước tại Điều 7 của dự thảo luật. Trong đó, danh mục bí mật nhà nước phải được rà soát chặt chẽ, chỉ giới hạn trong những trường hợp thực sự cần thiết. Có tiêu chí rõ ràng, tránh suy diễn, tránh mật hóa quá mức; trong luật cần lượng hóa tiêu chí để bảo đảm thống nhất khi áp dụng, hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.

Bổ sung một khoản vào Điều 5 của dự thảo luật, nghiêm cấm hành vi cố ý hoặc lạm dụng việc xác định mật đối với thông tin không thuộc phạm vi danh mục bí mật nhà nước, đóng dấu mật để che giấu thông tin, né tránh trách nhiệm giải trình. Theo đại biểu, quy định này không chỉ mang ý nghĩa răn đe, mà còn tạo cơ sở pháp lý để xử lý những trường hợp lạm dụng quyền lực hành chính.

Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Đại biểu tham gia Phiên họp

Đơn giản hóa thủ tục giải mật, chỉ áp dụng cơ chế Hội đồng giải mật đối với nhóm tài liệu có độ tuyệt mật, hoặc tài liệu có yếu tố ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng, làm giảm đáng kể thủ tục hành chính, đồng thời khuyến khích giải mật chủ động và kịp thời. Cùng với đó, ban hành cơ chế pháp lý đối với tài liệu lưu hành nội bộ, giao Chính phủ quy định chi tiết khái niệm, phạm vi lưu hành, chế độ quản lý, xử lý, bảo vệ đối với tài liệu nội bộ. Khi có hành lang pháp lý rõ ràng, các cơ quan nhà nước sẽ yên tâm triển khai chuyển đổi số, áp dụng trí tuệ nhân tạo trong xử lý văn bản, mà không phải lo vướng mắc về pháp lý.

Góp ý về phạm vi bí mật nhà nước, đại biểu Dương Khắc Mai – Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cơ bản thống nhất với phạm vi bí mật nhà nước quy định tại dự thảo. Tuy nhiên, trong giai đoạn bùng nổ của khoa học, công nghệ, sự phát triển của kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập sâu rộng với các nước, cần phải đề cao việc chủ động phòng ngừa, pháp luật phải kịp thời điều chỉnh, xử lý các vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Do đó, đại biểu đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm một khoản tại Điều này, giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ tùy tình hình thực tiễn, ban hành bổ sung phạm vi bí mật nhà nước để giải quyết các vấn đề cần thiết phát sinh trong thực tiễn thi hành.

Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Đại biểu Lê Nhật Thành – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội phát biểu

Đại biểu Lê Nhật Thành – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội cũng đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát quy định tại Điều 7 của dự thảo luật về phạm vi bí mật nhà nước để tiếp tục làm rõ thêm nội dung cho phù hợp với ngành, lĩnh vực sau sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tránh sử dụng các thuật ngữ mang tính định tính, gây khó khăn khi xây dựng Danh mục bí mật nhà nước và đảm bảo tính khả thi khi áp dụng trên thực tế.

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm cá nhân nếu để xảy ra lộ, lọt bí mật nhà nước

Góp ý hoàn thiện quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý bí mật nhà nước tại Điều 25 của dự thảo luật, đại biểu Dương Khắc Mai – Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cho rằng, quy định hiện hành mới chỉ dừng lại ở mô tả trách nhiệm hành chính chung chung, thiếu quy định về trách nhiệm cá nhân và chế tài cụ thể đối với người đứng đầu khi để xảy ra sự cố lộ, lọt bí mật nhà nước do sự buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Điều này làm giảm tính răn đe và hiệu quả quản lý. Do vậy, đại biểu đề nghị bổ sung thêm khoản 4 Điều 25: "4. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm cá nhân theo quy định của pháp luật khi để xảy ra lộ, lọt, mất bí mật nhà nước trong cơ quan, tổ chức, địa phương mình quản lý do không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này."

Đồng tình với đề xuất trên, đại biểu Nguyễn Phương Thủy – Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội cũng đề nghị bổ sung quy định về nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, người quyết định độ mật phải chịu trách nhiệm giải trình trong trường hợp lạm dụng, phải có chế tài xử lý rõ ràng, góp phần thiết lập văn hóa minh bạch trong hoạt động công vụ.

Đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ phạm vi bí mật nhà nước, để đóng dấu mật không trở thành "phản xạ hành chính"

Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa – Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn phát biểu

Đối với quy định về người thực hiện nhiệm vụ chuyên trách bảo vệ bí mật nhà nước, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa – Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn cho biết, khoản 1 Điều 8 Dự thảo Nghị định quy định các cơ quan Trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phân công người thực hiện nhiệm vụ chuyên trách bảo vệ bí mật nhà nước tại văn phòng hoặc đơn vị hành chính, tổng hợp. Đồng thời, khoản 5 Điều 8 quy định: Người thực hiện nhiệm vụ chuyên trách, kiêm nhiệm bảo vệ bí mật nhà nước được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa cho rằng, sau khi sắp xếp bộ máy ở trung ương và sáp nhập các tỉnh, số đầu mối cơ quan có người thực hiện nhiệm vụ chuyên trách bảo vệ bí mật nhà nước không nhiều. “Với vai trò quan trọng, tính chất công việc rất đặc thù của người thực hiện nhiệm vụ chuyên trách bảo vệ bí mật nhà nước, đề nghị nghiên cứu quy định rõ các đối tượng này được phụ cấp ưu đãi trong Luật làm cơ sở cho Chính phủ quy định chi tiết”, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa kiến nghị.

Lan Hương - Cao Hoàng - Nguyễn Hùng/Cổng thông tin điện tử Quốc hội