Cần cơ chế khuyến khích hòa giải viên

Ở Việt Nam, hòa giải từ lâu vốn đã được xem là một truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái trong cộng đồng. Trong bối cảnh đời sống hiện nay, khi những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp về quyền lợi phát sinh một cách thường xuyên hơn, công tác hòa giải càng đóng vai trò quan trọng, giúp hạn chế một phần tình trạng đơn thư khiếu kiện vượt cấp, kéo dài.
Báo cáo tổng kết 13 năm thực hiện Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở cho thấy, công tác hòa giải ở cơ sở đạt được nhiều kết quả. Hiện cả nước có 121.251 tổ hòa giải với  628.530 hoà giải viên. Số lượng tổ hòa giải, hoà giải viên đến nay tăng lên đáng kể so với trước khi có Pháp lệnh. Kết quả hoạt động hòa giải ở cơ sở ngày một nâng cao. Theo số liệu báo cáo của 63 tỉnh, TP trực thuộc Trung ương, tính từ năm 1999 đến tháng 3-2012, tổng số vụ việc nhận hòa giải là 4.358.662, trong đó, hòa giải thành là 3.488.144 vụ, đạt tỷ lệ 80%.
 
Cần cơ chế khuyến khích hòa giải viên
 
Hòa giải có vai trò quan trọng trong việc hóa giải các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư (Ảnh minh họa - PL&XH)
 
Bên cạnh những kết quả và ưu điểm đã đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và tồn tại. Công tác quản lý nhà nước về công tác hòa giải cơ sở ở một số địa phương chưa đạt kết quả cao. Tổ hòa giải ở một số nơi hoạt động còn mang tính hình thức, chiếu lệ hoặc bị hành chính hóa coi đó như cách giải quyết, phân xử buộc các bên phải tuân theo, làm mất đi ý nghĩa, bản chất tự nguyện, tự thỏa thuận của hoạt động hòa giải. Nhiều vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn thuộc phạm vi hòa giải chưa được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. 
 
Đáng quan tâm, điều kiện vật chất phục vụ cho công tác hòa giải ở cơ sở còn rất hạn chế. Kinh phí dành cho công tác hòa giải ở cơ sở còn hạn hẹp, chủ yếu nằm trong kinh phí tuyên truyền, PBGDPL của địa phương nên phần lớn các tổ hòa giải không có kinh phí dành cho hoạt động thường xuyên của tổ. Các chính sách bảo đảm và hỗ trợ những người làm công tác hòa giải chưa được quy định, chưa tạo sự động viên khích lệ thỏa đáng cho các hòa giải viên tham gia vào các hoạt động xã hội. 
 
Việc khắc phục những hạn chế, vướng mắc, tồn tại kể trên của công tác hòa giải ở cơ sở đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Trong đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải cơ sở được đánh giá là hết sức quan trọng và cần thiết. Hiện dự án Luật Hòa giải cơ sở đã được Bộ Tư pháp xây dựng và trình UBTVQH xem xét, cho ý kiến. Hy vọng sau khi dự án Luật được thông qua sẽ tạo được cơ sở pháp lý ổn định, rõ ràng cho công tác hòa giải cơ sở phát triển và mở rộng trong tương lai.

 

Hải Yến/Pháp luật và Xã hội