Bức tranh nợ công, nợ xấu dưới thời Chính phủ nhiệm kỳ mới

Tại những ngày họp đầu kỳ Quốc hội, dự thảo dự án Luật Quản lý nợ công sửa đổi và Dự thảo Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng được trình ra để các đại biểu cho ý kiến.


Những góc cạnh về hai vấn đề này đã được các đại biểu Quốc hội quan tâm thảo luận, các chuyên gia kinh tế chia sẻ những ý kiến. Báo Điện tử Tổ Quốc thực hiện tuyến bài viết về vấn đề này.

Bài 1: Tái cơ cấu nợ công đang đi đúng hướng

Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, nợ công thời gian qua tăng nhanh, đặc biệt là giai đoạn 2011- 2015. Trong khi một loạt nhiệm vụ kinh tế không đạt yêu cầu mà lại phải đáp ứng một loạt nhiệm vụ của Đại hội Đảng XI và ứng phó với tình hình trong nước và quốc tế tác động vào.

Giai đoạn đó, mức tăng trưởng GDP thực tế chỉ đạt 5,9% nhưng phải đáp ứng nhu cầu cho phát triển hạ tầng, an sinh xã hội, an ninh, quốc phòng…

“Do đó cả thời gian dài bội chi rất lớn, vượt trần hết. Cùng với đó là vay ODA, phát hành thêm trái phiếu Chính phủ, huy động lãi suất trong 3 năm 2011- 2013 từ 11- 13%/năm và kỳ hạn danh mục trái phiếu trong nước lúc đó quá ngắn chỉ có 1,84 năm” – Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết.

Thời gian qua, Chính phủ nhiệm kỳ mới đã có nhiều chỉ đạo về vấn đề xử lý nợ công.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, quản lý nợ công đã được cải thiện một bước nhưng vẫn ở mức độ có khả năng rủi ro rất cao khi chiếm hơn 60% GDP, sát trần Quốc hội quy định.

Theo tính toán của giai đoạn trước đây, "đỉnh nợ" được dồn vào năm 2016-2017, nhưng thực chất không phải như vậy vì ta đã cơ cấu lại một bước.

“Đỉnh nợ sẽ rơi vào giai đoạn 2021-2022. Do đó, trong quá trình điều hành chúng ta sẽ phải tiếp tục tái cơ cấu” – Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho hay.

Theo Bộ trưởng Tài chính, thực hiện Nghị quyết Quốc hội, từ 2014- 2016 tập trung phát hành trái phiếu 5 năm trở lên. Năm 2016, Quốc hội cho phép phát hành trái phiếu từ 5 năm trở lên là 70%, 3 năm là 30% và năm 2016 phát hành trái phiếu 5 năm trở lên là 91%. Việc này dẫn tới cơ cấu nợ công thay đổi rất lớn.

Thêm vào đó, lãi suất ở mức 5- 6% đối với kỳ hạn 5- 7 năm, giảm 1 nửa so với giai đoạn trước, kỳ hạn tăng gấp 3 lần, lãi suất giảm 1 nửa.

Ngoài ra, cũng cần cơ cấu thứ 2 đó là tăng nợ vay trong nước lên 59% và giảm nợ vay nước ngoài xuống còn 39%. Việc này nhằm kéo giảm rủi ro tỷ giá, tăng khả năng huy động trong nước lên. “Việc này, chúng ta đang đi đúng hướng”- Bộ trưởng Tài chính cho biết.

An toàn nợ công vẫn bảo đảm

Theo Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân: "an toàn nợ công chiếm 50% hay 65% GDP là do Quốc hội quy định theo từng thời kỳ. Bản chất an toàn nợ công là đi vay tiền, tới hạn, cân đối trả nợ được; còn nếu không có tiền trả nợ phải vay tiếp để trả nợ cũ là không an toàn. Hiện nay về mặt chỉ tiêu an toàn nợ công chúng ta vẫn bảo đảm. Một số người cứ nghi ngờ nhưng giám sát của Quốc hội cho thấy bảo đảm và cơ cấu nợ công tốt hơn”.

Chủ tịch Quốc hội cũng nhận định, Nghị quyết cùng với những chỉ đạo quyết liệt của Quốc hội thời gian qua đã đúng, kịp thời giúp cơ cấu lại nợ công. Quốc hội cũng không chấp nhận việc đi vay hàng năm và chạy tiền trả nợ hàng năm hoặc tình trạng tiền đi vay về chưa phân bổ xong đã đến hạn trả nợ. Và tới đây, mấy năm nữa, Bộ Tài chính sẽ cơ cấu lại được nợ công.

Được biết, giai đoạn 2010 - 2015 huy động vốn vay công ở mức cao với tổng khối lượng khoảng 2.801 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 14% GDP, chiếm 43% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, bình quân tăng 16%/năm.

Kể từ năm 2001 đến nay, nợ công đã có xu hướng gia tăng nhanh: năm 2001 nợ công ở mức 36,5% GDP, năm 2005 ở mức 40,8% GDP, năm 2010 ở mức 50% GDP và năm 2015 ở mức 62,2% GDP. Xét theo quy mô, dư nợ công cuối năm 2015 gấp 2,3 lần năm 2010, gấp 7,6 lần năm 2005 và gấp 14,8 lần năm 2001./.

Thái Linh/Báo điện tử Tổ quốc