Thực hiện Kế hoạch số 734/KH-UBTVQH15 ngày 22/01/2024 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 về triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, trên cơ sở kết quả rà soát của các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kiểm toán nhà nước, Tổng Thư ký Quốc hội đã tổng hợp và xây dựng Báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Tổ chức Quốc hội.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội đất nước có nhiều chuyển biến, Nghị quyết 27-NQ/TW và các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, các phát biểu chỉ đạo quan trọng của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra yêu cầu ngày càng cao đối với tổ chức và hoạt động của Quốc hội, cùng với việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đồng thời, các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua cũng quy định nhiều nội dung mới liên quan tới việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục hoạt động của Quốc hội, việc tổ chức nghiên cứu, rà soát các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội sau gần 9 năm thi hành có ý nghĩa thiết thực nhằm xác định những quy định còn phù hợp, cần kế thừa, những quy định trong tổ chức thực hiện có khó khăn, vướng mắc, chưa thống nhất, không thực sự phù hợp hoặc không đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới; trên cơ sở đó, đề xuất nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong Luật Tổ chức Quốc hội, các luật, nghị quyết có liên quan.
- Bám sát và thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chủ trương, đường lối về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Bám sát và cụ thể hóa đầy đủ, đúng đắn quy định của Hiến pháp về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, tổ chức và hoạt động của Quốc hội; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
- Kịp thời đề xuất luật hóa những đổi mới, cải tiến trong hoạt động của Quốc hội đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn; phát huy tính dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
- Xem xét, đánh giá kết quả thực hiện các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội số 57/20214/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 65/2020/QH14, trọng tâm là trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (từ năm 2021 đến nay), từ đó, xem xét, đánh giá về sự phù hợp của các quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội trên cơ sở đối chiếu với:
- Đề xuất, kiến nghị những nội dung cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung trong Luật Tổ chức Quốc hội; đề xuất, kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết khác có liên quan (nếu có) và đề xuất, kiến nghị khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức, hoạt động của Quốc hội.
Trên cơ sở kế hoạch và đề nghị của Tổng Thư ký Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức nghiên cứu, rà soát việc thực hiện các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mình, các nội dung thuộc phạm vi, lĩnh vực phụ trách và các quy định khác có liên quan; Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kiểm toán nhà nước, Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã phối hợp tích cực tổ chức nghiên cứu, rà soát nội dung trong Luật Tổ chức Quốc hội có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mình; từ đó, kiến nghị, đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung (nếu có).
Các quy định tại Chương I của Luật Tổ chức Quốc hội về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội đã cụ thể hóa, thể chế hóa những điểm mới quan trọng của Hiến pháp năm 2013, quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, nền tảng đối với toàn bộ hoạt động của Quốc hội. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và để triển khai các thẩm quyền được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội đã ban hành một số luật, nghị quyết để quy định về quy trình, thủ tục, cách thức tiến hành đối với một số lĩnh vực cụ thể, ví dụ: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (cụ thể hóa về thẩm quyền trong lĩnh vực lập pháp), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (cụ thể hóa thẩm quyền trong lĩnh vực giám sát), Luật Trưng cầu ý dân (cụ thể hóa thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân quy định tại Điều 19 của Luật Tổ chức Quốc hội); các luật để cụ thể hóa việc thực hiện các thẩm quyền về xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước như: Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp....
Thực hiện quy định của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 và các luật, nghị quyết có liên quan, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV và XV, Quốc hội đã triển khai toàn diện các mặt công tác và đạt nhiều kết quả cả về lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng của đất nước, tiếp tục thực hiện đúng vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; tuân thủ nguyên tắc hoạt động “làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số”; trong đó, kết quả nổi bật là:
Tính riêng trong năm 2024, Quốc hội đã ban hành 31/61 luật, chiếm tỷ lệ 50,8% tổng số luật được ban hành từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến nay. Đặc biệt, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã thông qua 18 luật, 04 nghị quyết quy phạm pháp luật; cho ý kiến lần đầu về 10 dự án luật, hoàn thành khối lượng nhiệm vụ lập pháp lớn nhất tại 01 kỳ họp tính trong 02 nhiệm kỳ gần đây, thực hiện đổi mới mạnh mẽ về tư duy và phương thức tiến hành công tác lập pháp theo Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Tô Lâm; đồng thời, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, thực hiện nghiêm Quy định số 178-QD/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
Việc bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm các chức danh trong bộ máy nhà nước được thực hiện theo đúng định hướng của Đảng, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, nhận được sự đồng thuận cao.
a) Về hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội theo các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội:
- Việc giám sát hoạt động cơ quan nhà nước chưa được quy định rõ về phạm vi, cơ chế thực hiện nên trong thực tế triển khai còn vướng mắc. Việc Quốc hội giám sát, thực hiện cơ chế hiến định về kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp thông qua xét báo cáo, chất vấn tại kỳ họp và thông qua hoạt động giám sát của Quốc hội còn dàn trải, chưa tập trung làm sâu sắc những vấn đề lớn, quan trọng trong hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp, tư pháp, chưa rõ phạm vi, đối tượng với tính chất là “giám sát tối cao”; chưa có các thiết chế bảo đảm thực thi quyền giám sát tối cao của mình…
- Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội có lúc còn bị động, phụ thuộc nhiều vào tiến độ và nội dung trình của Chính phủ và các cơ quan. Việc hệ thống hóa thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về hoạt động giám sát, các luật, nghị quyết và dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH, đặc biệt là các nghị quyết (bao gồm cả nghị quyết quy phạm pháp luật và các nghị quyết khác) còn chưa đầy đủ, chưa được cập nhật kịp thời; gây khó khăn cho việc tra cứu, rà soát. Việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Quốc hội, nhất là hoạt động lập pháp, giám sát... chưa có nhiều đột phá; hiện còn thiếu các phần mềm ứng dụng cần thiết phục vụ công tác rà soát, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; hạ tầng công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế.
- Việc nghiên cứu, hoàn thiện quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội và luật khác có liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội để triển khai có hiệu quả yêu cầu tại Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc “luật hóa đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội”, “đổi mới quy trình quyết định về ngân sách nhà nước bảo đảm thực chất, đi đôi với giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành các nghị quyết bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách” còn hạn chế.
- Còn có vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng chưa có quy định cụ thể về quy trình, thủ tục thực hiện nên chưa bảo đảm đầy đủ cơ sở pháp lý trong trường hợp cần thực hiện trong thực tiễn, cụ thể: khoản 3 Điều 17 của Luật Tổ chức Quốc hội quy định: “Quốc hội quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia”, tuy nhiên, đến nay nội dung này mới đang được các cơ quan xây dựng dự thảo (theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, dự án này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025)).
- Quy định về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Điều 12 và Điều 13 Luật Tổ chức Quốc hội hiện đang bị ngưng hiệu lực (theo quy định tại Điều 20 của Nghị quyết số 96/2023/QH15 ngày 23/6/2023 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn), tuy nhiên, Nghị quyết 96/2023/QH15 không xác định thời gian kết thúc việc ngưng hiệu lực.
Các quy định tại Chương II của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 về đại biểu Quốc hội được triển khai thực hiện và phần lớn quy định được áp dụng ổn định từ năm 2016 đến nay. Bên cạnh đó, một số nội dung cụ thể về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân... được sửa đổi, bổ sung năm 2020 và áp dụng chủ yếu trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.
Hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách ngày càng được nâng cao về chất lượng, tính chuyên nghiệp, chuyên sâu, khẳng định rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong hoạt động của Quốc hội. Đặc biệt, tại các Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, các đại biểu Quốc hội đã phát huy bề dày kinh nghiệm, kiến thức chuyên sâu, đóng góp nhiều ý kiến chất lượng, tâm huyết, góp phần quan trọng trong việc chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật, nhất là đối với những dự án luật có nội dung phức tạp, nhạy cảm, còn có nhiều ý kiến khác nhau, đảm bảo chất lượng cao nhất trình Quốc hội.
Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động, tích cực đổi mới hình thức, công tác phối hợp tham gia xây dựng pháp luật, giám sát, tổ chức tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị của cử tri, khiếu nại, tố cáo của công dân, thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
- Tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách, đại biểu nữ chưa đạt hoàn toàn so với yêu cầu; việc cơ cấu đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm ở một số vị trí công tác có ảnh hưởng đến việc bố trí thời gian tham gia hoạt động của Quốc hội. Một số đại biểu chưa tích cực chuẩn bị, tham gia đóng góp ý kiến, chất lượng phát biểu chưa cao; có đại biểu vi phạm pháp luật bị bãi nhiệm hoặc mất quyền đại biểu Quốc hội. Việc theo dõi, đôn đốc giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri còn hạn chế.
- Quy định của Luật Tổ chức Quốc hội về việc đưa ra để cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội chưa được cụ thể hóa, cần tiếp tục làm rõ về cơ sở lý luận để tổ chức thực hiện.
3.1. Kết quả thực hiện
a) Về Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Các quy định tại Chương III của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 về Ủy ban Thường vụ Quốc hội được triển khai trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, sau đó, được sửa đổi, bổ sung một số điều và áp dụng trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV. Trên cơ sở các quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản có liên quan
[23], Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kiện toàn tổ chức, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của cơ quan thường trực của Quốc hội, đồng thời, thường xuyên đổi mới, cải tiến phương thức hoạt động, đề cao tính chủ động, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan.
- Về cơ cơ bản, cơ cấu tổ chức của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 vẫn giữ như Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong 02 nhiệm kỳ gần đây đều duy trì ổn định có
18 thành viên
[24], gồm Chủ tịch Quốc hội,
04 Phó Chủ tịch Quốc hội và
13 Ủy viên đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội, Trưởng Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội – Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
- Trên cơ sở quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, bám sát các nghị quyết của Quốc hội, các văn bản pháp luật có liên quan và tình hình thực tiễn, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chủ động xây dựng và ban hành chương trình công tác hằng năm, hằng quý, trong đó xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm, dự kiến cụ thể chương trình các phiên họp, đồng thời đề ra các biện pháp để triển khai hiệu quả chương trình công tác, thực hiện toàn diện các nhiệm vụ về lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng, công tác đối ngoại và các công tác khác theo thẩm quyền; đồng thời, giải quyết nhiều vấn đề đột xuất, quan trọng, phức tạp, cấp bách mới phát sinh, kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đóng góp vào kết quả chung trong hoạt động của Quốc hội. Các thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được phân công, phân nhiệm rõ ràng, chủ động triển khai nhiệm vụ, tăng cường phối hợp, giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoàn thành các nhiệm vụ đề ra.
Bên cạnh đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tích cực đổi mới, cải tiến cách thức tiến hành phiên họp, linh hoạt trong tổ chức thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế. Hoạt động tại các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày càng dân chủ, sôi nổi, thẳng thắn, tập trung vào những vấn đề trọng tâm cần xem xét. Việc thảo luận, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày càng đi vào nền nếp, đúng quy trình, tiết kiệm thời gian nhưng vẫn bảo đảm chất lượng. Việc biểu quyết các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền được tiến hành công khai, minh bạch, bảo đảm dân chủ, khách quan. Nghị quyết, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành kịp thời, làm căn cứ quan trọng để các cơ quan hữu quan triển khai thực hiện.
Kể từ đầu nhiệm kỳ khóa XIV cho đến nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức
136 phiên họp (gồm
98 phiên họp thường kỳ,
05 phiên họp chuyên đề pháp luật,
33 phiên họp khác, trong đó, tại nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đã tổ chức các phiên chuyên đề pháp luật và phiên họp giữa 02 đợt họp của kỳ họp Quốc hội) để xem xét, cho ý kiến về tất cả các nội dung chuẩn bị trình Quốc hội, xem xét, quyết định, ban hành
07 pháp lệnh,
89nghị quyết quy phạm pháp luật
[25]; tiến hành giám sát
13 chuyên đề
(chi tiết tại phụ lục số 4), tổ chức chất vấn tại
13 phiên họp; triển khai thực hiện có hiệu quả thẩm quyền mới về phê chuẩn bổ nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tại
51 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để triển khai chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, góp phần tinh gọn tổ chức bộ máy, phát huy tiềm năng, lợi thế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự ở địa phương; tổ chức nhiều hội nghị quan trọng, trong đó có
12 hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách,
02 Hội nghị toàn quốc triển khai luật, nghị quyết của Quốc hội khóa XV; lần đầu tiên tổ chức Hội nghị tổng kết công tác Hội đồng nhân dân; Hội nghị tổng kết công tác của Đoàn đại biểu Quốc hội; Diễn đàn Kinh tế - Xã hội; Diễn đàn Người lao động; Phiên họp giả định Quốc hội trẻ em…
Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được quan tâm, tiến hành nền nếp, bài bản, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan theo từng lĩnh vực công tác, tránh bị động và hạn chế tối đa chồng chéo trong công việc, nhất là trong lĩnh vực giám sát, thẩm tra hoặc phối hợp thẩm tra các dự án, dự thảo, báo cáo và trong lĩnh vực đối ngoại. Việc hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân tiếp tục được quan tâm, bảo đảm kịp thời, rõ ràng, tạo thuận lợi cho hoạt động của Hội đồng nhân dân các địa phương. Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tích cực tham dự và chỉ đạo các kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Hội nghị Thường trực Hội đồng nhân dân khu vực...
Thực hiện quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội đã phát huy vai trò, trách nhiệm, triển khai thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, góp phần mang lại những kết quả tích cực trong hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội thường xuyên trao đổi, làm việc với Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban, các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương để nắm rõ tình hình, kịp thời cho ý kiến chỉ đạo để các cơ quan triển khai thực hiện.
3.2. Vấn đề còn hạn chế, bất cập hoặc cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
- Việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội trên cơ sở các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội còn có một số hạn chế, bất cập như: tính ổn định của chương trình làm việc thường kỳ chưa cao; vẫn phải thường xuyên điều chỉnh nội dung, chương trình phiên họp, trong đó, nhiều nội dung được bổ sung sát phiên họp; tình trạng chậm gửi hồ sơ tài liệu phiên họp chưa được khắc phục; việc chỉ đạo, đôn đốc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có lúc chưa thật quyết liệt; công tác giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân chưa đạt hiệu quả rõ nét, chưa được thực hiện thường xuyên...
- Bên cạnh đó, qua thực tiễn triển khai và rà soát các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, có một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện là:
(1) Tại khoản 5 Điều 44 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2020) quy định: “Tại kỳ họp cuối năm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi báo cáo công tác của mình đến đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp cuối của mỗi khóa Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình báo cáo công tác nhiệm kỳ để Quốc hội xem xét, thảo luận”. Quy định này là phù hợp với thực tiễn đang triển khai hiện nay. Tuy nhiên, còn có sự không thống nhất giữa quy định này với điểm a khoản 2 Điều 13 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, cũng như dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (bản trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8), cụ thể là: Luật Tổ chức Quốc hội chỉ quy định về việc gửi báo cáo công tác hằng năm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến đại biểu Quốc hội, còn với báo cáo công tác nhiệm kỳ thì Quốc hội mới xem xét, thảo luận; trong khi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân và dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật này thì quy định việc Quốc hội thảo luận đối với báo cáo công tác hằng năm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
(2) Tại khoản 7 Điều 47 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2020) quy định:
“căn cứ vào yêu cầu, tình hình thực tiễn, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định triệu tập hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trước mỗi kỳ họp Quốc hội để thảo luận, cho ý kiến về các dự án, đề án, báo cáo trước khi trình Quốc hội”: quy định này có điểm chưa thực sự linh hoạt do giới hạn thời điểm tổ chức hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách chỉ là
“trước mỗi kỳ họp Quốc hội”. Bên cạnh đó, mặc dù Luật quy định khá rộng về phạm vi các nội dung được xem xét tại Hội nghị
(các dự án, đề án, báo cáo) nhưng trong thực tế chủ yếu chỉ thảo luận đối với các dự án luật đã được chỉnh lý để trình Quốc hội xem xét thông qua
[26]; không thảo luận tại Hội nghị đối với các dự án luật trình lần đầu hoặc các đề án, báo cáo khác.
(3) Tại khoản 5 Điều 58 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc “Xem xét, đánh giá kết quả thực hiện chương trình hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế hằng năm của Quốc hội”, tuy nhiên, trong Luật Tổ chức Quốc hội mới chỉ quy định thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc“Thông qua chương trình hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế hằng năm của Ủy ban thường vụ Quốc hội” mà chưa quy định về thẩm quyền ban hành “chương trình hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế hằng năm của Quốc hội”.
(4) Tại khoản 1 Điều 61 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định “Ủy ban thường vụ Quốc hội họp thường kỳ mỗi tháng một phiên”, tuy nhiên quy định này khó khả thi trong trường hợp thời gian kỳ họp của Quốc hội diễn ra liên tục trong cả tháng; bên cạnh đó, quy định tại Điều 62 về trình tự, thời hạn xem xét, quyết định, thông báo về chương trình phiên họp chưa có sự phân biệt giữa phiên họp thường kỳ và các phiên họp khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
(5) Tại khoản 2 Điều 63 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định “
Các tài liệu phục vụ phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được gửi đến các thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội chậm nhất là 05 ngày trước ngày bắt đầu phiên họp”. Quy định này chưa thống nhất với quy định tại Điều 70 và Điều 73 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
[27]; hơn nữa, việc bảo đảm tuân thủ các thời hạn trong một số trường hợp khó khả thi.
(6) Tại Điều 65 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 mới chỉ quy định về trường hợp khi Chủ tịch Quốc hội vắng mặt thì một Phó Chủ tịch Quốc hội được Chủ tịch uỷ nhiệm thay mặt thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Quốc hội, mà chưa có quy định về trường hợp khi chưa kiện toàn được vị trí Chủ tịch Quốc hội do có thay đổi về công tác nhân sự trong nhiệm kỳ.
4. VỀ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỔ CHỨC QUỐC HỘI VỀ HỘI ĐỒNG DÂN TỘC, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI
4.1. Kết quả thực hiện
Các quy định tại Chương IV của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 về Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã tạo khung pháp lý khá đầy đủ và cụ thể cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội. Theo đó, số lượng các cơ quan của Quốc hội tiếp tục kế thừa và được giữ ổn định như ở giai đoạn 2007-2016
[28], bao gồm Hội đồng Dân tộc và 09 Ủy ban của Quốc hội; đồng thời, trong quá trình thực hiện, tên gọi của một số Ủy ban, cơ cấu Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban và một số nội dung cụ thể khác có sự thay đổi, điều chỉnh nhất định (khi sửa đổi, bổ sung Luật vào năm 2020).
Trên cơ sở quy định của Luật, các cơ quan của Quốc hội đã thực hiện điều chỉnh cơ cấu tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thuộc lĩnh vực phụ trách; chủ động xây dựng, ban hành quy chế hoạt động và thực hiện ký kết các quy chế phối hợp
[29] với các cơ quan, tổ chức hữu quan nhằm cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình, thủ tục tiến hành các hoạt động, phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các tiểu ban, các thành viên; chủ động bố trí nguồn lực, thời gian và cân đối nội dung hoạt động hợp lý, tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia và bảo đảm nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Một số Ủy ban đã thành lập các tiểu ban
[30] để tăng tính chuyên môn hóa trong hoạt động. Bộ phận Thường trực của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được tổ chức cơ bản phù hợp, bảo đảm sự chuyên sâu theo lĩnh vực, phát huy được sở trường của từng thành viên, huy động tối đa sức mạnh tập thể, giải quyết tốt công việc của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban. Nhiều đại biểu thành viên Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm hoạt động Quốc hội hoặc kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với lĩnh vực phụ trách của Hội đồng, Ủy ban mà mình là thành viên nên có đóng góp tích cực trong việc thực hiện các công việc của Hội đồng, Ủy ban.
Các phiên họp toàn thể của Hội đồng, các Ủy ban được tổ chức theo nhiều hình thức linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, đúng quy định của pháp luật. Các nội dung thuộc trách nhiệm của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực các Ủy ban đều được đưa ra thảo luận dân chủ, công khai tại các phiên họp hoặc gửi xin ý kiến từng thành viên để tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu, hoàn chỉnh.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV và khóa XV, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, huy động được trí tuệ tập thể, tập trung nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động, thực sự là “công xưởng” trong triển khai mọi hoạt động của Quốc hội và đã hoàn thành khối lượng công việc rất lớn cả về lập pháp, giám sát và thẩm tra, trình Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Các báo cáo thẩm tra đã thể hiện rõ chính kiến, mang tính phản biện sâu sắc, có cơ sở khoa học và thực tiễn, đề xuất được nhiều phương án xử lý, nhất là đối với các vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau để hoàn thiện các dự án luật, dự thảo nghị quyết, là cơ sở quan trọng để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến và biểu quyết thông qua dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết. Hoạt động giám sát chuyên đề, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức các phiên giải trình, các hoạt động khảo sát… được đẩy mạnh, tập trung vào những vấn đề chuyên môn sâu của từng cơ quan, góp phần thúc đẩy, tạo sự chuyển biến đối với nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực mà cử tri, dư luận xã hội quan tâm. Bên cạnh đó, các cơ quan của Quốc hội đã chủ động và linh hoạt trong hoạt động đối ngoại, tăng cường trao đổi chuyên môn, góp phần đáng kể trong thúc đẩy quan hệ giữa các cơ quan tương ứng của nghị viện các nước.
4.2. Vấn đề còn hạn chế, bất cập hoặc cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
Thực tiễn triển khai các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội cho thấy tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban còn có những hạn chế nhất định như: một số vấn đề mới phát sinh trong trường hợp khẩn cấp nên khó xác định thuộc lĩnh vực Ủy ban nào phụ trách
[31]; số lượng thành viên kiêm nhiệm trong Hội đồng Dân tộc, Ủy ban còn cao, trong đó nhiều người giữ chức vụ chủ chốt ở các Bộ, ngành, địa phương nên một số hoạt động của Ủy ban chưa có sự tham gia đầy đủ của các thành viên
[32]; việc bố trí thành các Tiểu ban, trong đó có Trưởng Tiểu ban, thành viên Tiểu ban có nơi, có lúc đã hành chính hóa hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban; sự phối hợp giữa một số cơ quan của Quốc hội có lúc chưa chặt chẽ, dẫn đến việc xem xét, thẩm tra những nội dung có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều Ủy ban chưa đạt hiệu quả cao; việc phối hợp, chia sẻ thông tin, kết quả nghiên cứu trong các cơ quan của Quốc hội còn hạn chế;
thời gian tiến hành các phiên họp thẩm tra hạn chế nên một số trường hợp chưa thảo luận sâu các vấn đề lớn cũng như các điều, khoản cụ thể, chưa thực sự kiên quyết đối với văn bản trình chậm tiến độ, hồ sơ không đầy đủ, chất lượng chưa bảo đảm; nguồn lực cho công tác thẩm tra còn hạn chế; chưa có cơ chế hiệu quả để phát huy một cách thiết thực trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học cũng như thu thập, xử lý đầy đủ ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức có liên quan và các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách trong quá trình các cơ quan của Quốc hội tổ chức thẩm tra, chỉnh lý các dự án, dự thảo...
5. VỀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỔ CHỨC QUỐC HỘI VỀ KỲ HỌP QUỐC HỘI
5.1. Kết quả thực hiện
Các quy định tại Chương V của Luật Tổ chức Quốc hội về kỳ họp Quốc hội đã được giữ ổn định từ năm 2014 đến nay. Để cụ thể hóa các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết ban hành Nội quy Kỳ họp Quốc hội
[33]. Sau gần 09 năm kể từ khi Luật Tổ chức Quốc hội có hiệu lực thi hành, đến nay, Quốc hội đã tiến hành
28 kỳ họp
(trong đó, có 01 kỳ họp cuối nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII; 11 kỳ họp thường lệ trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV; 8 kỳ họp thường lệ và 08 kỳ họp bất thường trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV).
- Việc tổ chức các kỳ họp thường xuyên được cải tiến, đổi mới, giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả qua mỗi kỳ họp. Hoạt động của Quốc hội tại các kỳ họp ngày càng sôi nổi, dân chủ, công khai, minh bạch, thu hút sự quan tâm của cử tri và Nhân dân. Việc xây dựng dự kiến nội dung, chương trình các kỳ họp được tiến hành chặt chẽ, bám sát vào chủ trương, chỉ đạo của Trung ương Đảng, các quy định của pháp luật, đề nghị của Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, bảo đảm khoa học, phù hợp với tình hình thực tế, tính chất, yêu cầu của từng nội dung, tiết kiệm thời gian, kinh phí, góp phần nâng cao hiệu quả kỳ họp. Việc điều chỉnh chương trình bảo đảm chặt chẽ, linh hoạt, kịp thời bổ sung nhiều nội dung mang tính thời sự, cấp thiết.
- Việc triệu tập đại biểu Quốc hội về dự các kỳ họp Quốc hội được tiến hành đúng thời gian theo quy định. Quy định về khách mời, dự thính tại phiên họp Quốc hội được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm đúng thành phần, đối tượng; đồng thời, tại các kỳ họp, đại diện Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố cũng được mời tham gia dự thính để theo dõi trực tiếp một số phiên họp toàn thể của Quốc hội, thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động của Quốc hội, tạo điều kiện để cử tri giám sát hoạt động của Quốc hội, đồng thời góp phần tuyên truyền sâu rộng về hoạt động của Quốc hội.
- Công tác chuẩn bị và gửi tài liệu kỳ họp được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quan tâm, chỉ đạo sát sao, trong đó, ngoài các tài liệu chính thức, các cơ quan đã cung cấp nhiều tài liệu tham khảo phong phú, đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu của đại biểu Quốc hội
[34]. Việc quản lý, sử dụng và lưu trữ tài liệu đúng quy định pháp luật. Từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIV, với việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công tác cung cấp thông tin, tài liệu đã có bước đột phá, tăng cường cung cấp văn bản điện tử, giảm tối đa tài liệu giấy (phát hành toàn bộ tài liệu kỳ họp dưới hình thức tài liệu điện tử, trừ tài liệu mật), bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, thuận tiện, tiết kiệm; qua đó, hỗ trợ tích cực các đại biểu Quốc hội trong việc nghiên cứu, xem xét, quyết định các nội dung của kỳ họp, góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội và Quốc hội.
- Các hình thức làm việc tại kỳ họp được thực hiện đúng quy định, bảo đảm chặt chẽ, phù hợp với tính chất từng nội dung họp. Các phiên họp được tổ chức đúng trình tự, đổi mới theo hướng đi vào thực chất, góp phần từng bước chuyển từ “Quốc hội tham luận” sang “Quốc hội thảo luận và tranh luận”. Trong đó, các phiên họp toàn thể được cải tiến để ngày càng phù hợp hơn với tình hình thực tế, tận dụng hiệu quả tối đa thời gian họp
[35]; việc thảo luận, tranh luận tại các phiên họp toàn thể diễn ra sôi nổi, có nhiều ý kiến phản biện sâu sắc, có tính xây dựng, đi thẳng vào các vấn đề.
Các cuộc họp của Quốc hội được tổ chức họp công khai, trừ một số phiên họp có nội dung bí mật nhà nước Quốc hội họp kín, không mời báo chí nhưng có công bố kết quả công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng sau phiên họp. Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo nghiên cứu việc đổi mới cách thức tổ chức kỳ họp, theo đó kết hợp giữa phương thức họp trực tuyến và họp tập trung trực tiếp. Từ kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV đến nay, các kỳ họp thường kỳ được chia thành 02 đợt họp, với thời gian nghỉ giữa 02 đợt họp là 07 đến 09 ngày để các cơ quan có thời gian nghiên cứu tiếp thu, giải trình các ý kiến đại biểu Quốc hội, hoàn thiện các dự thảo luật, nghị quyếttrước khi trình Quốc hội thông qua tại đợt 2 của kỳ họp và các vị đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm có thời gian giải quyết công việc ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Từ nửa cuối nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đến nay, nhiều phiên họp toàn thể được tăng cường truyền hình, phát thanh trực tiếp; hoạt động truyền thông, đưa tin về kỳ họp Quốc hội ngày càng chuyên nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để cử tri và Nhân dân theo dõi.
- Công tác điều hành các phiên họp toàn thể của Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội bảo đảm đúng quy định, linh hoạt, sát diễn biến thực tế, tạo điều kiện để nhiều đại biểu Quốc hội được phát biểu, thảo luận, tranh luận, hướng đại biểu tập trung vào những vấn đề trọng tâm; tạo không khí thảo luận dân chủ, sôi nổi. Việc biểu quyết tại phiên họp toàn thể được thực hiện bằng hình thức phù hợp với tính chất của từng nội dung, phù hợp với quy định trong Nội quy kỳ họp Quốc hội
[36].
5.2. Vấn đề còn hạn chế, bất cập hoặc cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
- Mặc dù đã có những cải tiến nhưng nhìn chung, vẫn chưa có sự thay đổi lớn trong phương thức họp Quốc hội để có thể rút ngắn hơn nữa thời gian họp toàn thể mà vẫn bảo đảm yêu cầu, chất lượng, hiệu quả. Khối lượng công việc tập trung tại các kỳ họp ngày càng lớn, gây sức ép cho công tác chuẩn bị và tiến hành kỳ họp. Một số phiên thảo luận tại Tổ còn mang tính hình thức, chất lượng, hiệu quả chưa cao. Việc gửi tài liệu kỳ họp đến các vị đại biểu Quốc hội có lúc vẫn chưa đảm bảo đúng thời hạn quy định.
- Theo quy định tại Điều 83 của Hiến pháp và Điều 90 của Luật Tổ chức Quốc hội, mỗi năm Quốc hội họp 02 kỳ họp thường kỳ, tuy nhiên, trên thực tế, tại năm cuối cùng của nhiệm kỳ Quốc hội (năm tổ chức bầu cử), Quốc hội tổ chức 03 kỳ họp, trong đó có 01 kỳ họp diễn ra vào tháng 3 và kỳ họp này chưa được xác định rõ là kỳ họp thường lệ hay kỳ họp bất thường.
- Quy định tại Điều 97 của Luật Tổ chức Quốc hội về thời hạn gửi tài liệu đến đại biểu Quốc hội chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp, các tài liệu khác phải được gửi đến đại biểu Quốc hội chậm nhất là 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp là không phù hợp, thiếu khả thi đối với các kỳ họp bất thường hoặc đối với một số nội dung cấp bách được bổ sung vào chương trình kỳ họp thường kỳ. Bên cạnh đó, Điều 91 quy định thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về dự kiến chương trình kỳ họp bất thường của Quốc hội chậm nhất là 04 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp, quy định này đối với kỳ họp bất thường về công tác nhân sự có nội dung thuộc bí mật nhà nước là chưa thật sự phù hợp.
6. VỀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỔ CHỨC QUỐC HỘI VỀ TỔNG THƯ KÝ QUỐC HỘI, VĂN PHÒNG QUỐC HỘI, CÁC CƠ QUAN THUỘC UBTVQH VÀ KINH PHÍ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI
6.1. Kết quả thực hiện
- Chức danh Tổng Thư ký Hội đồng Nhà nước được quy định lần đầu tiên trong Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước số 01-LCT/HĐNN7 năm 1981
[37]. Đến năm 2014, cùng với Văn phòng Quốc hội, thiết chế Tổng Thư ký Quốc hội (TTKQH) được tái lập và quy định tại Điều 98 của Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13. Giúp việc cho Tổng Thư ký Quốc hội là Ban Thư ký. Các quy định này được cụ thể hóa trong Nội quy kỳ họp Quốc hội và các văn bản có liên quan.
Tổng Thư ký Quốc hội đã thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, đặc biệt đã tổ chức các hoạt động tham mưu, phục vụ theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Tổng Thư ký Quốc hội đã có nhiều đổi mới, cải tiến trong việc tham mưu, phục vụ dự kiến chương trình làm việc cũng như về quy trình, thủ tục thực hiện hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tổ chức nghiệp vụ thư ký ngày càng bài bản, hiệu quả; tập hợp, tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời; cung cấp thông tin, tài liệu tham khảo phục vụ đại biểu Quốc hội với hình thức đa dạng, phong phú, có chất lượng; ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng một số phần mềm
[38] hỗ trợ hiệu quả các hoạt động điều hành, thảo luận, tranh luận, cung cấp thông tin kỳ họp, tra cứu, phục vụ tài liệu...
Đặc biệt, công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động của Quốc hội được tăng cường, có nhiều đổi mới, sáng tạo về nội dung và hình thức; việc định hướng thông tin được chú trọng, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh; qua đó, góp phần nâng cao nhận thức và sự ủng hộ đối với các quyết sách của Quốc hội, đưa chính sách, pháp luật nhanh chóng đi vào cuộc sống, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa cử tri, Nhân dân với Quốc hội.
Ban Thư ký được tổ chức theo mô hình kiêm nhiệm, không làm xáo trộn về tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội, không tạo thêm đầu mối tổ chức, không tăng thêm biên chế do các thành viên Ban Thư ký làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, là trưởng các đơn vị tham mưu, giúp việc của các cơ quan, sử dụng bộ máy, công chức của vụ, đơn vị mà mình trực tiếp phụ trách để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tham mưu giúp việc Tổng Thư ký Quốc hội, đồng thời là cầu nối giữa Tổng Thư ký Quốc hội và các cơ quan liên quan trong việc tham mưu, phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội trong triển khai các nhiệm vụ của Quốc hội. Các thành viên Ban Thư ký đã nỗ lực, chủ động, tích cực phối hợp hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp việc, góp phần đáng kể vào kết quả hoạt động của Tổng Thư ký Quốc hội.
- Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Quốc hội được nghiên cứu, từng bước cải tiến, có sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng, có sự liên thông, phối hợp chặt chẽ, không chồng chéo và tận dụng được tối đa nguồn lực. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Văn phòng Quốc hội cơ bản bảo đảm hợp lý về số lượng và chất lượng, được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chất lượng công tác tham mưu, phục vụ của Văn phòng Quốc hội được nâng cao, tính chủ động, chuyên nghiệp, chuyên môn hóa được tăng cường, góp phần quan trọng vào việc phục vụ Quốc hội hoàn thành khối lượng lớn công tác lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng của đất nước.
Văn phòng Quốc hội cũng đã thực hiện tốt việc bảo đảm cơ sở vật chất và các điều kiện khác cho hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; tạo điều kiện cho đại biểu Quốc hội trong việc trình dự án luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh. Văn phòng Quốc hội tăng cường phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan, tổ chức hữu quan để nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chủ động trong công tác tham mưu, phục vụ các hoạt động của Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội.
- Căn cứ thẩm quyền quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập 03 cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm: Ban Công tác đại biểu, Ban Dân nguyện và Viện Nghiên cứu lập pháp. Các cơ quan này đã có nhiều đổi mới về phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao, cụ thể là:
+ Ban Công tác đại biểuđã tích cực, chủ động tham mưu, phục vụ triển khai các công việc được Đảng đoàn Quốc hội, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao, trọng tâm là công tác tổ chức bộ máy và nhân sự cấp cao, công tác quản lý cán bộ thuộc diện Đảng đoàn Quốc hội quản lý (quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,...); lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; theo dõi, hướng dẫn hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội; hướng dẫn và giám sát về tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân; thực hiện chế độ, chính sách đối với đại biểu Quốc hội và cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và xây dựng các Đề án quan trọng.
+ Ban Dân nguyện đã nỗ lực phấn đấu, đạt được kết quả khá toàn diện trong việc giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp công dân; xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo; tổng hợp, chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết kiến nghị cử tri.
+ Viện Nghiên cứu lập pháp đã thực hiện các công tác nghiên cứu khoa học lập pháp, tổ chức thông tin khoa học lập pháp để tham mưu chính sách, tư vấn, hỗ trợ, phục vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Văn phòng Quốc hội.
- Các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội về kinh phí hoạt động của Quốc hội được thực hiện nghiêm túc, giúp triển khai thuận lợi các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
6.2. Vấn đề còn hạn chế, bất cập hoặc cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
- Một số nội dung về chức năng, nhiệm vụ của Tổng Thư ký Quốc hội còn có điểm trùng lặp, chưa phân định rõ với chức năng, nhiệm vụ của Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; chưa có quy định về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Thư ký Quốc hội trong trường hợp Tổng Thư ký Quốc hội vắng mặt hoặc chức danh Tổng Thư ký Quốc hội chưa được kiện toàn.
- Công tác phối hợp giữa Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội với các cơ quan của Quốc hội còn có lúc, có việc chưa bảo đảm chất lượng, tiến độ đề ra; công tác nghiên cứu khoa học còn hạn chế, chưa phát huy tốt vai trò của đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm; chưa hình thành được hệ thống cơ sở khoa học cả về lý thuyết và thực tiễn, làm cơ sở cho việc xem xét, quyết định các chính sách của Quốc hội; cách thức tuyển dụng và đào tạo công chức trong các cơ quan giúp việc Quốc hội chưa thực sự phù hợp với yêu cầu đặc thù của các cơ quan giúp việc của Quốc hội …
- Kinh phí, các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Quốc hội còn hạn chế, chưa động viên, thu hút được nhiều người có năng lực nổi trội tham gia vào các cơ quan giúp việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
7. ĐÁNH GIÁ CHUNG
7.1. Về sự phù hợp của các quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội với các yêu cầu trong Nghị quyết của Đảng
Nhìn chung, Luật Tổ chức Quốc hội đã bảo đảm bám sát, thể chế hoá, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối lớn của Đảng về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (chi tiết tại phụ lục số 1), trong đó:
- (1) Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội: Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh…”. Nghị quyết số 28-NQ/TW xác định: “Đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội trong thực hiện chức năng lập pháp, giám sát tối cao, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước”. Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; phát huy tính dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động, bảo đảm Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Đối với thẩm quyền của Quốc hội trong việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu “luật hóa đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội”, “đổi mới quy trình quyết định về ngân sách nhà nước bảo đảm thực chất, đi đôi với giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành các nghị quyết bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách”.
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) tiếp tục khẳng định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Theo đó,Luật đã dành Chương đầu tiên để quy định cụ thể về vị trí, chức năng; nhiệm kỳ Quốc hội; nguyên tắc và hiệu quả hoạt động của Quốc hội; các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Các quy định của Luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội cơ bản đã bảo đảm phù hợp với các quan điểm nêu trên.
Bên cạnh đó, các yêu cầu trong nghị quyết của Đảng cũng đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước trong Luật Tổ chức Quốc hội và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Theo đó, Quốc hội kiểm soát quyền hành pháp
[39], quyền tư pháp
[40], chính quyền địa phương
[41], nhưng đồng thời Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cũng có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp và chịu sự kiểm soát của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước
[42] và của Nhân dân, cử tri. Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật để thực hiện yêu cầu đối với việc ban hành luật về ngân sách nhà nước.
- (2) Về đại biểu Quốc hội: Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu đề cao vai trò trung tâm của đại biểu Quốc hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp; gắn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với đơn vị bầu cử và cử tri; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội; hoàn thiện cơ chế giám sát của cử tri và cơ chế, phương thức, tiêu chí đánh giá đối với đại biểu Quốc hội; bảo đảm các điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện tốt vai trò trung tâm của mình.
Nghị quyết số 18-NQ/TW yêu cầu “Thực hiện tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra; nghiên cứu việc giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp”.
Đối chiếu với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội và thực tiễn hoạt động của đại biểu Quốc hội trong thời gian qua, các nội dung nêu trên cơ bản đã được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các văn bản có liên quan như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Nội quy kỳ họp Quốc hội
[43]... Đến nay, hầu hết các quy định vẫn đang phát huy hiệu lực, thể hiện đầy đủ, rõ nét vai trò và vị trí trung tâm quan trọng của đại biểu Quốc hội trong hiệu quả hoạt động chung của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý để đại biểu Quốc hội thực hiện tốt vai trò của mình. Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đang chỉ đạo sửa đổi
Nghị quyết liên tịch 525/2012/NQLT/UBTVQH13-ĐCTUBTWMTTQVN về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội để đáp ứng yêu cầu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW đối với việc đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri.
Đối với các yêu cầu khác trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, Nghị quyết 18-NQ/TW (về tiêu chuẩn cụ thể, cơ cấu đại biểu Quốc hội, việc tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp, cơ chế giám sát của cử tri và cơ chế, phương thức, tiêu chí đánh giá đối với đại biểu Quốc hội; bảo đảm các điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội; cơ chế thực hiện quyền của đại biểu Quốc hội...) thì cần tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hóa, thể chế hóa đầy đủ hơn nữa, bảo đảm khả thi, hiệu quả thực chất và sửa đổi hoặc bổ sung quy định có liên quan (nếu cần thiết) trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Đề án bầu cử đại biểu Quốc hội, các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến hoạt động tiếp xúc cử tri, xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đại biểu Quốc hội.
- (3) Về Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội: Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp quy định; đề cao vị trí, vai trò, kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo hướng rành mạch, chủ động, trách nhiệm, chuyên sâu, nhạy bén.
Nghị quyết số 18-NQ/TW yêu cầu “Quy định số lượng với tỷ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, Ủy viên thường trực, ủy viên chuyên trách của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội theo hướng giảm số lượng cấp phó và ủy viên thường trực”.
Luật Tổ chức Quốc hội có 46/102 điều quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Ngoài ra, nội dung này còn được quy định trong các luật có liên quan như Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Trưng cầu ý dân và các văn bản khác như: Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quy chế làm việc mẫu của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Trên cơ sở các quy định này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thực hiện tốt nhiệm vụ là cơ quan thường trực của Quốc hội; cơ cấu tổ chức đã được điều chỉnh, sắp xếp một bước; hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban ngày càng chuyên nghiệp, cơ bản đáp ứng yêu cầu.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định để tiếp tục kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức làm việc, nâng cao hơn nữa năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đề ra trong nghị quyết của Đảng.
- (4) Về Kỳ họp Quốc hội: Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu “tăng hợp lý số kỳ họp của Quốc hội”.
Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành, Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, ngoài ra có thể có kỳ họp bất thường. Thực tế trong thời gian gần đây, các kỳ họp Quốc hội đã được tổ chức tương đối linh hoạt, có thể tổ chức liên tục hoặc theo hai hay nhiều đợt; họp trực tiếp hoặc trực tuyến, kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến; cùng với kỳ họp thường lệ, một số kỳ họp bất thường cũng được tổ chức để Quốc hội xem xét, quyết định những vấn đề cần thiết, cấp bách thuộc thẩm quyền. Việc tổ chức các kỳ họp bất thường, họp theo hình thức trực tuyến hoặc trực tiếp kết hợp trực tuyến đã được cụ thể hóa trong Nội quy kỳ họp Quốc hội và Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số điều khoản của Nội quy kỳ họp Quốc hội. Do vậy, việc thể chế hóa yêu cầu nêu trên của Nghị quyết không nhất thiết phải sửa đổi quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội.
- (5) Về Tổng Thư ký Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội và kinh phí hoạt động của Quốc hội: Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu “hoàn thiện thiết chế Tổng Thư ký Quốc hội, Ban Thư ký Quốc hội”.
Qua rà soát cho thấy, Luật Tổ chức Quốc hội đã có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Thư ký Quốc hội và quy định giúp việc cho Tổng Thư ký Quốc hội có Ban Thư ký. Các quy định này tiếp tục được cụ thể hóa trong Nội quy kỳ họp Quốc hội, các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động của Ban Thư ký và đang được thực hiện ổn định, hiệu quả.
7.2. Về sự phù hợp của các quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội với Hiến pháp, các luật, nghị quyết có liên quan, thực tiễn hoạt động của Quốc hội thời gian qua và yêu cầu trong thời gian tới
Trên cơ sở nghiên cứu, rà soát và thực tiễn triển khai các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội cho thấy, các quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đã cơ bản phù hợp, bám sát các quy định tại Chương V (từ Điều 69 đến Điều 85) của Hiến pháp, các văn bản pháp luật có liên quan; điều chỉnh toàn diện các vấn đề phát sinh trong thực tiễn hoạt động của Quốc hội thời gian qua. Hầu hết các quy định bảo đảm tính khả thi, nhất quán về nội dung, tương thích với các quy định có liên quan, vẫn đang phát huy hiệu lực và được triển khai thực hiện ổn định, hiệu quả, là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần ổn định tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, được minh chứng cụ thể trong các kết quả quan trọng, nổi bật đã đạt được của Quốc hội từ nhiệm kỳ khóa XIV đến nay.
Bên cạnh đó, có một số ít quy định còn trùng lặp, chưa thống nhất với các luật, nghị quyết có liên quan hoặc cần tiếp tục hoàn thiện để góp phần khắc phục hạn chế, khó khăn trong thực tiễn triển khai thực hiện; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cao hơn của thực tiễn đất nước khi bước vào kỷ nguyên mới.
III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị những nội dung qua rà soát cho thấy đã phù hợp, cần tiếp tục kế thừa
Qua rà soát cho thấy trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) có những quy định đã được tổ chức thực hiện ổn định, bảo đảm tính đồng bộ với hệ thống pháp luật và phù hợp với thực tiễn, chưa cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, có thể tiếp tục duy trì thực hiện như những quy định về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hầu hết các quy định về đại biểu Quốc hội; các quy định về Kỳ họp Quốc hội.
2. Kiến nghị những nội dung qua rà soát cần sửa đổi, bổ sung trong Luật Tổ chức Quốc hội
2.1. Về rà soát, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp; bảo đảm việc kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp
Hiện nay, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được xác định trong Luật Tổ chức Quốc hội, các luật chuyên ngành cũng có các quy định về thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
(chi tiết tại Phụ lục số 8[44]).
Để thực hiện nguyên tắc “phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” quy định tại Hiến pháp và Nghị quyết số 27-NQ/TW, đề nghị cần tiếp tục rà soát nội dung quy định thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tại các luật chuyên ngành để phân tích, đánh giá, làm rõ tính chất, tầm quan trọng của từng vấn đề; trên cơ sở đó, xây dựng các nguyên tắc, tiêu chí để lựa chọn những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và quy định rõ nguyên tắc này trong Luật Tổ chức Quốc hội. Trong đó, đối với các thẩm quyền cụ thể liên quan trực tiếp đến chức năng về hành chính và quyền hành pháp thì nên chuyển giao cho Chính phủ để bảo đảm thực hiện đúng tinh thần của Hiến pháp 2013 và Nghị quyết số 27-NQ/TW; đồng thời, hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương; bảo đảm phù hợp với chức năng của Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và cơ quan chấp hành của Quốc hội gắn với việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa Chính phủ với Quốc hội; bảo đảm, tăng cường tính chủ động, linh hoạt của Chính phủ trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước khi các quan hệ xã hội luôn có sự thay đổi, biến động không ngừng, nhiều khi khó đoán định, dự báo.
Bên cạnh đó, đề nghị tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội và các luật về tổ chức bộ máy khác nhằm xây dựng cơ chế thích hợp bảo đảm tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều có quyền kiểm soát lẫn nhau theo đúng yêu cầu và tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
2.2. Về các nội dung cần sửa đổi, bổ sung để thể chế hóa, cụ thể hóa yêu cầu đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trong tình hình mới và yêu cầu trong các nghị quyết của Đảng
Trên cơ sở quán triệt các định hướng sắp xếp, tinh gọn các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Ban Thư ký Quốc hội của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW
và Bộ Chính trị[45], cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả, hiệu năng hoạt động của các cơ quan, cụ thể là các quy định: (i) về Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại Chương IV; (ii) về Tổng Thư ký Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Chương VI.
Việc sửa đổi các quy định của Luật Tổ chức Quốc hội cần bám sát định hướng sắp xếp theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Hiến pháp, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội; tổ chức hợp lý các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông; hạn chế tổ chức trung gian, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể, thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính; sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bên trong các cơ quan, Văn phòng Quốc hội. Theo đó, đề nghị lưu ý một số nội dung sau trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật có liên quan:
- (1) Theo định hướng của Ban Chỉ đạo Trung ương, sau khi sắp xếp, sáp nhập sẽ thành lập một số Ủy ban mới với tên gọi mới, mỗi Ủy ban mới sẽ thay đổi về quy mô tổ chức bộ máy, nhân sự và chức năng, nhiệm vụ nên có thể có khó khăn nhất định trong việc bảo đảm số lượng tối thiểu theo quy định khi tiến hành Phiên họp toàn thể (Điều 87) và bảo đảm nguyên tắc làm việc theo đa số của Ủy ban; ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các vị đại biểu Quốc hội là thành viên Ủy ban. Vì vậy, cần nghiên cứu, rà soát, sửa đổi cho phù hợp.
Bên cạnh đó, để bảo đảm tính ổn định trong quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, có thể nghiên cứu, cân nhắc việc có nên quy định cụ thể trong Luật về tên gọi, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan của Quốc hội như hiện nay không hay nên quy định theo hướng khái quát hơn (tương tự như cách thể hiện trong Luật Tổ chức Chính phủ, theo đó, mỗi nhiệm kỳ Quốc hội sẽ ban hành Nghị quyết về cơ cấu cụ thể và số lượng các cơ quan của Quốc hội).
- (2) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách theo hướng khái quát, bảo đảm tính khả thi, tránh việc quy định tỷ lệ cụ thể nhưng thực tiễn không bảo đảm theo quy định; quy định về cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban trên cơ sở yêu cầu trong Nghị quyết số 18-NQ/TW về “Thực hiện tăng tỉ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra; nghiên cứu việc giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp. Quy định số lượng với tỷ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, Ủy viên thường trực, ủy viên chuyên trách của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội theo hướng giảm số lượng cấp phó và ủy viên thường trực”, đồng thời, phù hợp với định hướng đổi mới, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan của Quốc hội là “Không bố trí chức danh Ủy viên thường trực, Ủy viên chuyên trách. Các Ủy ban của Quốc hội có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và Ủy viên là đại biểu Quốc hội chuyên trách”.
Bên cạnh đó, khối lượng công việc thường xuyên của Thường trực Ủy ban theo mô hình mới cần giải quyết là rất lớn nên cần nghiên cứu để hoàn thiện vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các chức danh của Thường trực Hội đồng, Ủy ban trong Luật Tổ chức Quốc hội, trong đó có điều kiện, tiêu chuẩn, vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội chuyên trách hoạt động tại các Ủy ban.
- (3) Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị không chỉ diễn ra ở các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội mà còn thực hiện trong toàn bộ các cơ quan trung ương, điều này cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ, cơ cấu đại biểu của các cơ quan hành pháp, cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội. Do đó cũng cần rà soát các quy định liên quan trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Nghiên cứu, làm rõ hơn cơ sở lý luận, cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn của việc xác định số lượng đại biểu Quốc hội; nghiên cứu phương án quy định thời gian đại biểu kiêm nhiệm dành cho hoạt động Quốc hội để bảo đảm khả thi, phù hợp với thực tế (hiện là 1/3 thời gian làm việc trong năm).
- (4) Đối với cơ quan Quốc hội kết thúc hoạt động, cần rà soát các quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của các cơ quan này trong hệ thống pháp luật để sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp, đồng bộ. Bên cạnh đó, trường hợp Ủy ban kết thúc hoạt động mà chức năng, nhiệm vụ được giao cho nhiều cơ quan Quốc hội khác nhau thì đại biểu Quốc hội là thành viên Ủy ban cũng cần bố trí, sắp xếp, bố trí phù hợp để tiếp tục thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban từ nay đến kết thúc nhiệm kỳ đại biểu Quốc hội khóa XV.
- (5) Nghiên cứu sửa đổi Điều 98 và Điều 99 của Luật Tổ chức Quốc hội để phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Tổng Thư ký Quốc hội và Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; sửa đổi đồng bộ các quy định về bộ máy tham mưu giúp việc để bảo đảm phù hợp với định hướng sắp xếp, tinh gọn bộ máy.
- (6) Nghiên cứu, hoàn thiện quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội và luật khác có liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội để triển khai có hiệu quả yêu cầu tại Nghị quyết số 27-NQ/TW về việc “luật hóa đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội”, “đổi mới quy trình quyết định về ngân sách nhà nước bảo đảm thực chất, đi đôi với giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành các nghị quyết bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách”.
2.3. Về các nội dung cần sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, khả thi, khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn
- Nghiên cứu bổ sung vào các điều 6, 7, 15, 50, 51 của Luật Tổ chức Quốc hội quy định về việc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật liên tịch để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Điều 12 và Điều 13 của Luật Tổ chức Quốc hội (hiện đang bị ngưng hiệu lực) để bảo đảm đồng bộ với Nghị quyết số 96/2023/QH15 ngày 23/6/2023 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
- Nghiên cứu, bổ sung quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội hoặc giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về cơ chế và tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội; cụ thể hóa một số quy định về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội (Điều 22); trong đó, đề nghị nghiên cứu bổ sung trong Luật Tổ chức Quốc hội về việc giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể về tiêu chuẩn, tiêu chí theo hướng có sự phân biệt giữa đại biểu hoạt động chuyên trách và đại biểu hoạt động không chuyên trách; tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận về việc cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội (Điều 40) để có quy định phù hợp trong Luật về vấn đề này, trên cơ sở đó nghiên cứu, ban hành văn bản cụ thể hóa về quy trình, thủ tục thực hiện.
- Đề nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung tại Điều 39 của Luật Tổ chức Quốc hội về việc tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội để phù hợp với Điều 5 Quy định số 148-QĐ/TW ngày 23/5/2024 của Bộ Chính trị về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước (ngoài trường hợp đình chỉ đối với cán bộ bị khởi tố thì Quy định số 148 còn quy định đình chỉ trong trường hợp có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có văn bản đề nghị tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ).
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể hơn về Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách (Điều 47) cũng như số lượng Hội nghị tổ chức trong một năm để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của Hội nghị, bảo đảm sự linh hoạt về thời điểm tổ chức hội nghị và các nội dung trình xin ý kiến tại Hội nghị.
- Nghiên cứu, quy định bảo đảm tính khả thi về việc tổ chức phiên họp thường kỳ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hằng tháng (Điều 61), trong đó có việc tổ chức phiên họp thường kỳ trong thời gian diễn ra kỳ họp của Quốc hội; phân biệt rõ và có quy định phù hợp về trình tự, thời hạn xem xét, quyết định, thông báo về chương trình phiên họp thường kỳ và các phiên họp khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 62); nghiên cứu sửa đổi quy định về thời hạn gửi tài liệu phục vụ phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 63), thời hạn gửi tài liệu kỳ họp đến đại biểu Quốc hội (Điều 97) để bảo đảm thống nhất với quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi.
- Nghiên cứu quy định cụ thể phạm vi hướng dẫn hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân, bảo đảm thống nhất, không chồng chéo phạm vi hướng dẫn của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân (quy định tại Điều 25 Luật Tổ chức Chính phủ).
- Đề nghị bổ sung vào Điều 49 của Luật Tổ chức Quốc hội thẩm quyền của Tổng Kiểm toán nhà nước trong việc đề nghị Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh cho phù hợp với Điều 159 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Nghiên cứu bổ sung quy định để có cơ sở xử lý trong trường hợp một số chức danh tại Quốc hội có sự thay đổi nhưng chưa kịp kiện toàn.
- Nghiên cứu sửa đổi quy định về thời hạn công bố dự kiến chương trình các kỳ họp bất thường (Điều 91), nhất là kỳ họp bất thường để xem xét, quyết định về công tác nhân sự để bảo đảm phù hợp với thực tiễn.
- Nghiên cứu quy định cụ thể hơn theo hướng mở rộng các trường hợp thành lập Ủy ban lâm thời (Điều 88) để ứng phó các vấn đề phát sinh trong tình trạng khẩn cấp (tương tự như đại dịch Covid-19).
- Nghiên cứu sửa đổi quy định về tổ chức bộ máy giúp việc cho đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội (Điều 43) theo hướng không quy định quá cụ thể về tên gọi để bảo đảm tính ổn định của Luật.
3. Kiến nghị những nội dung qua rà soát cần sửa đổi, bổ sung trong các luật, nghị quyết có liên quan
Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội để thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy theo chủ trương của Trung ương Đảng cần được nghiên cứu, xem xét, tiến hành đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân... và các luật có liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và hiệu quả. Đồng thời, cần rà soát, nghiên cứu, sửa đổi các luật chuyên ngành (như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư, Luật Kiểm toán nhà nước, các luật về thuế, các luật về tố tụng, Luật Phòng, chống tham nhũng…) do có quy định về tên gọi, nhiệm vụ của các Ủy ban của Quốc hội (trong đó có Ủy ban chấm dứt hoạt động, Ủy ban sáp nhập) theo nguyên tắc: các cơ quan của Quốc hội chủ trì đề xuất sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết quy định về tổ chức bộ máy của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; đối với các luật, nghị quyết khác có liên quan, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung để bảo đảm đồng bộ, thống nhất.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có liên quan đến tổ chức, bộ máy của các cơ quan sau sắp xếp, tinh gọn như: Nghị quyết số 283/2021/NQ-UBTVQH15 ngày 27/8/2021 về Quy chế làm việc mẫu của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; Nghị quyết số 22/2022/UBTVQH15 ngày 12/7/2022 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội, Nghị quyết số 32/2023/UBTVQH15 ngày 15/4/2023 về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Thư ký; Nghị quyết số 1158/NQ-UBTVQH15 ngày 30/8/2024 về ban hành vị trí việc làm của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở Trung ương và cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số 29/2022/UBTVQH15 ngày 12/12/2022 về ban hành Quy chế làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội..
. (Chi tiết tại Phụ lục số 7[46]).
3.2. Về việc nghiên cứu, sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
- Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thể chế hóa kịp thời quan điểm về đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm thực hiện hiệu quả chức năng lập pháp theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội;
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, trong đó, chú trọng việc hoàn thiện các cơ chế để bảo đảm hiệu quả thực chất của việc xem xét báo cáo, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân; quy định trong Luật và các văn bản có liên quan về việc Quốc hội xem xét báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả thực hiện công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, việc giám sát công tác tiếp công dân; sửa đổi quy định tại Điều 13 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để bảo đảm thống nhất với quy định tại Điều 44 của Luật Tổ chức Quốc hội về việc “tại kỳ họp cuối năm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi báo cáo công tác của mình đến đại biểu Quốc hội”...
3.3. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản về hoạt động của đại biểu Quốc hội
- Để tiếp tục thực hiện các yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiêu chuẩn cụ thể, cơ cấu đại biểu Quốc hội, việc tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, giảm hợp lý số lượng đại biểu kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp, đề nghị nghiên cứu tiếp tục cụ thể hóa trong Đề án bầu cử đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ khóa XVI (2026 - 2031) và các nhiệm kỳ tiếp theo.
- Đối với các yêu cầu về gắn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với đơn vị bầu cử và cử tri; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, đề nghị nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cụ thể trong các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu
[47]; Nghị quyết liên tịch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân gửi Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
- Đối với các yêu cầu về hoàn thiện cơ chế giám sát của cử tri và cơ chế, phương thức, tiêu chí đánh giá đối với đại biểu Quốc hội; bảo đảm các điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội; cơ chế thực hiện quyền của đại biểu Quốc hội trong việc đề nghị cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin thì đề nghị nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung trong các Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ quy định các nội dung được giao trong Luật Tổ chức Quốc hội…
- Để thực hiện quyền của đại biểu Quốc hội yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan xem xét lại hoặc yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị giải quyết trong trường hợp xét thấy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp luật (Điều 28 của Luật Tổ chức Quốc hội), đề nghị nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc khiếu nại hoặc vụ việc tố cáo khi đại biểu Quốc hội yêu cầu cơ quan, tổ chức xem lại vụ việc, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, tính khả thi trong triển khai thực hiện.
4. Kiến nghị một số vấn đề khác
- Đề nghị nghiên cứu, ban hành bảo đảm chất lượng các văn bản quy định cụ thể về việc thực hiện một số thẩm quyền của Quốc hội đã được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội như: quy định tại khoản 3 Điều 17 Luật Tổ chức Quốc hội “Quốc hội quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia” (theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, dự án này sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025)).
- Đề nghị tiếp tục nghiên cứu, bảo đảm chế độ, chính sách cho hoạt động của đại biểu Quốc hội tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; có cơ chế động viên, thu hút được nhiều người có năng lực nổi trội tham gia vào các cơ quan giúp việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; xây dựng cơ chế, cách thức tuyển dụng và đào tạo công chức trong các cơ quan giúp việc Quốc hội phù hợp với yêu cầu đặc thù trong tham mưu, phục vụ hoạt động Quốc hội.
*
* *
Trên đây là Báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Tổ chức Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội xin trân trọng báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.