Báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Cơ quan ban hành: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Ngày ban hành: 21/08/2020
Số hiệu:56 /BC-TLĐ
Mô tả:
Tài liệu trình tại phiên họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
7-bc-long-ghep-gioi-dt-Luat-CD--sd-.docx
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Số: 56 /BC-TLĐ
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2020
|
BÁO CÁO
LỒNG GHÉP VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA LUẬT CÔNG ĐOÀN
I. GIỚI THIỆU VỀ BÁO CÁO
1. Việc thực hiện báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Thực hiện Nghị quyết số 106/2020/QH14ngày10/6/2020 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn sẽ được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 và thông qua tại kỳ họp thứ 11. Theo Nghị quyết số 977/NQ-UBTVQH14ngày15/7/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được phân công là cơ quan chủ trì soạn thảo Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
Từ góc độ bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, tuân thủ quy định của Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã thực hiện như sau:
Từ giai đoạn lập hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật (tháng 5,6/2019), trình hồ sơ Dự án Luật (tháng 11/2019) đến các cơ quan có thẩm quyền và tiến hành xây dựng Dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, việc đánh giá tác động về giới đã được thực hiện cùng với đánh giá tác động về kinh tế, xã hội, thủ tục hành chính và đánh giá tác động đối với hệ thống pháp luật theo quy định tại Điều 35 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Điều 6 Nghị định 34/2026/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đến nay đã hoàn thiện Báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
Dự thảo Báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới được soạn thảo trong quá trình hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong thời gian này, dự thảo Báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới cũng được đưa ra tham vấn các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia độc lập tại các hội thảo do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức.
Sau khi tổng hợp, tiếp thu và chỉnh lý, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam báo cáo về việc lồng ghép bình đẳng giới trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn như sau:
2. Bối cảnh xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn và vấn đề giới tổng quan
2.1. Sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Luật Công đoàn số 12/2012/QH13 được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 (sau đây gọi là Luật Công đoàn). Luật Công đoàn đã thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là cơ sở pháp lý quan trọng đáp ứng về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Luật Công đoàn hiện hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho Công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của đất nước, phát huy vai trò, tác dụng và ảnh hưởng rộng lớn của tổ chức công đoàn trong xã hội.
Tuy nhiên, sau hơn 7 năm triển khai thực hiện trên thực tế, cùng với việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật có liên quan, trước đòi hỏi của hội nhập quốc tế và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm gần đây, đã xuất hiện các yêu cầu đòi hỏi Luật Công đoàn cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm:
- Khắc phục một số hạn chế, bất cập của Luật Công đoàn trước yêu cầu tình hình mới như:Đối tượng, phạm vi điều chỉnh còn hẹp so với sự phát triển nhanh, đa dạng của quan hệ lao động và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn; hệ thống tổ chức, việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa cấp ủy, địa phương với tổ chức Công đoàn về công tác tổ chức, cán bộ chưa thật rõ, còn có điểm chưa hợp lý; cơ chế bảo đảm thực thi quyền công đoàn cũng như cơ chế bảo vệ cán bộ Công đoàn chưa đầy đủ và cụ thể, tính khả thi không cao. Trong khi đó việc tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn còn dàn trải, chưa tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, nên vai trò của tổ chức Công đoàn ở nhiều nơi còn mờ nhạt.
- Đảm bảo sự thống nhất, sự phù hợp với nội dung của các luật mới ban hành gần đây, đáp ứng yêu cầu từ việc thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, các chủ trương, nghị quyết của Đảng và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, bảo đảmviệc tiếp tục duy trì lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong Luật Công đoàn do Hiến pháp năm 2013 được ban hành sau khi Luật Công đoàn được thông qua, nên có những nội dung của Luật Công đoàn chưa hoàn toàn tương thích với Hiến pháp. Sau Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề liên quan đến tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, hội nhập quốc tế trong xu thế nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới… Bên cạnh đó, trong những năm gần đây Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động và tổ chức công đoàn như: Luật Việc làm (năm 2013), Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật Doanh nghiệp (năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (năm 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 2015)... Đặc biệt, Bộ luật Lao động vừa được Quốc hội thông qua tháng 11/2019, trong đó có dành riêng Chương X về những quy định riêng đối với lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới và có nhiều nội dung mới về quan hệ lao động như ghi nhận địa vị pháp lý của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bên cạnh tổ chức Công đoàn Việt Nam.
- Đảm sự tương thích với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản, cam kết của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới mà chúng ta tham gia và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thể chế chính trị của Việt Nam, vì hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu, đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW). Cam kết về lao động trong các Hiệp định này yêu cầu các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ thực hiện các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của người lao động theo Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Cụ thể là 4 nhóm quyền theo 8 Công ước cơ bản của ILO: (1) tự do hiệp hội và thúc đẩy quyền thương lượng tập thể theo Công ước số 87 và Công ước số 98; (2) xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc theo Công ước số 29 và Công ước số 105; (3) xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em theo Công ước số 138 và Công ước số 182; (4) xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp theo Công ước số 100 và Công ước số 111. Những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do nêu trên, đã đặt ra yêu cầu rà soát và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và “nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, lao động - công đoàn”
[1].
2.2. Sự cần thiết của việc thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Việc xác định các vấn đề giới và lồng ghép vấn đề bình đẳng giới nhằm đảm bảo và thúc đẩy bình đẳng giới trong quá trình xây dựng, hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn là cần thiết vì lý do chính sau:
- Cần giải quyết những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành Luật Công đoàn liên quan đến bảo đảm và thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động và hoạt động công đoàn (nếu có);
- Cần thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật liên quan đến thúc đẩy bình đẳng giới trong hoạt động công đoàn;
- Tiếp tục nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động quốc tế phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam để thực hiện tốt hơn mục tiêu bình đẳng giới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
2.3. Vấn đề giới tổng quan
Bình đẳng giới không phân biệt đối xử - trong đó có bình đẳng không phân biệt đối xử dựa trên yếu tố giới – là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Luật Bình đẳng giới 2006 quy định “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh”.
Trên cơ sở đó, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong Luật Công đoàn 2012 đã được thực hiện theo yêu cầu của Luật Bình đẳng giới năm 2006. Nguyên tắc đảm bảo bình đẳng giới không phân biệt đối xử về giới được cụ thể hóa tương đối nhất quán trong các chương, điều của Luật Công đoàn 2012. Các quy định của Luật Công đoàn 2012 thể hiện không có sự phân biệt đối xử về giới. Đồng thời phù hợp với tinh thần của Công ước (CEDAW, Điều 4) và Luật Bình đẳng giới năm 2006 (Điều 6, khoản 3,4). Như vậy về cơ bản Luật Công đoàn 2012 đã thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động nói chung, trong đó có lao động nữ. Những quy định đó đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm và thúc đẩy bình đẳng giới trên thực tế.
Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công đoàn 2012 đã đánh giá những kết quả đạt được và chỉ ra một số hạn chế, bất cập. Song không có hạn chế, bất cập nào liên quan đến bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới. Do đó, khi xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn cần kế thừa các quy định đã khẳng định được tính hợp lý, ổn định, hiệu quả trong quá trình thi hành Luật Côngđoàn hiện hành; đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số quy định phù hợp với mục đích, quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật được nêu tại Tờ trình. Tuy nhiên, nội dung sửa đổi, bổ sung cần tuân thủ nguyên tắc bảo đảm không phân biệt đối xử về giới; không cần thiết phát sinh chính sách mới nhằm đảm bảo và thúc đẩy bình đẳng giới trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
3. Quan điểm, định hướng hoàn thiện về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
- Thứ nhất, kế thừa các quy định phù hợp hiện hành đang phát huy hiệu lực trong Luật Công đoàn 2012. Tiếp tục khẳng định nguyên tắc bình đẳng giới và nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới phù hợp với nguyên tắc hiến định tại Hiến pháp năm 2013 và duy trì kỹ thuật lập pháp trung tính về giới trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
- Thứ hai,quán triệt và thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng liên quan đến bình đẳng giới, đặc biệt là Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới.
- Thứ ba, tiếp tục khẳng định chính sách và các biện pháp của Nhà nước Việt Nam bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới thực chất phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Bình đẳng giới, Bộ luật Lao động 2019, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) và các công ước liên quan của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) với bước đi, lộ trình thích hợp trong điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể của Việt Nam.
4.1. Mục tiêu tổng quát
Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu bảo đảm và thúc đẩy bình đẳng giới trong hoạt động công đoàn, đáp ứng yêu cầu thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về bình đẳng giới, không phân biệt đối xử về giới trong mọi lĩnh vực; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế với cam kết thúc đẩy và thực hiện các nguyên tắc và quyền bình đẳng của người lao động tại nơi làm việc theo Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) và các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của ILO, đồng thời phù hợp với các cam kết về lao động của Việt Nam trong hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
4.2. Mục tiêu cụ thể
- Các nội dung sửa đổi, bổ sung nếu bất cập liên quan về vấn đề giới thì phải có giải pháp khắc phục phù hợp với mục tiêu cụ thể của từng chính sách, theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Luật Bình đẳng giới năm 2006.
- Các giải pháp chính sách được lựa chọn nhằm giải quyết vấn đề giới (nếu có) phải được quy phạm hoá thành các điều khoản cụ thể trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, đảm bảo tính hệ thống, nhất quán và khả thi của mục tiêu lồng ghép vấn đề bình đẳng giới.
II. KẾT QUẢ LỒNG GHÉP VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÔNG ĐOÀN
1. Đánh giá chung kết quả lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn gồm 3 Điều, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
- Điều 2. Bổ sung, thay thếmột số từ, cụm từ tại một số điều, khoản của Luật Công đoàn.
- Điều 3. Hiệu lực thi hành.
Theo đó, Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung nội dung tại 14 điều trên tổng số 33 điều của Luật Công đoàn
[2]; sửa kỹ thuật 5/33
[3] điều của Luật Công đoàn 2012. Qua rà soát, về cơ bản Dự thảo Luật đãkế thừa các quy định phù hợp hiện hành đang phát huy hiệu lực trong Luật Công đoàn 2012.Tiếp tục khẳng định nguyên tắc bình đẳng giới và nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới phù hợp với nguyên tắc hiến định tại Hiến pháp năm 2013. Luật Công đoàn 2012 và dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn đã thể hiện khá rõ nét về sự lồng ghép giới, bình đẳng giới trong các văn bản luật, cụ thể như sau:Trong Luật Công đoàn 2012 và dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn đều không có từ “phụ nữ” và “nam giới”; các từ được dùng thống nhất trong các điều luật là “người lao động” hoặc “đoàn viên” để chỉ người lao động làm việc trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nói chung không phân biệt người đó là nam hay nữ.
2. Đánh giá vấn đề lồng ghép giới trong chính sách sửa đổi, bổ sung
2.1. Chính sách 1: Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy Công đoàn và cơ chế quản lý cán bộ công đoàn
2.1.1. Vấn đề bất cập
Chính sách được xây dựng để giải quyết một thực trạng bất cập làtrên thực tế, tổ chức Công đoàn thực hiện việc quản lý, sử dụng tài chính công đoàn đồng bộ theo ngành dọc từ cấp Tổng Liên đoàn đến công đoàn cơ sở, tự thu kinh phí công đoàn để chi hoạt động, trả tiền lương cho cán bộ, nhưng cấp ủy lại phân bổ chỉ tiêu biên chế như các đoàn thể sử dụng Ngân sách Nhà nước. Việc cấp ủy địa phương quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu, giúp việc, quản lý, phân bổ chỉ tiêu biên chế như hiện nay và so sánh tương quan giữa các địa phương là chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động công đoàn
[4].
Khía cạnh giới của vấn đề bất cập: Nguyên tắc tổ chức hiện hành chưa đảm bảo tính chủ động của tổ chức công đoàn trong việc quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu, giúp việc của công đoàn cấp tỉnh (ví dụ việc có tồn tại ban Tuyên giáo-Nữ công hay không để đảm bảo công tác vận động nữ công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ) được quan tâm chú trọng góp phần tích cực chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho lao động nữ); mặt khác với nguyên tắc tổ chức hiện hành, tổ chức công đoàn cũng khó chủ động trong việc đào tạo, quy hoạch, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ nữ cán bộ công đoàn.
2.1.2. Mục tiêu của chính sách
Nhằm tăng cường tính chủ động và độc lập cho tổ chức Công đoàn trong việc chỉ đạo triển khai các hoạt động công đoàn và đào tạo, quy hoạch, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công đoàn nói chung, nữ cán bộ công đoàn nói riêng, nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, chăm lo tốt hơn cho đoàn viên, người lao động, trong đó có lao động nữ.
2.1.3. Giải pháp chính sách được lựa chọn
Sửa đổi, bổ sung Điều 23.Bảo đảm về tổ chức, cán bộ theo hướng:
“...Cơ quan có thẩm quyền quyết định số lượng cán bộ công đoàn là cán bộ, công chức, viên chức theo đề xuất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Công đoàn cấp trên quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách khác sau khi trao đổi với người sử dụng lao động...”
Đồng thời, quy định cụ thể hơn hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam tại Điều 7. Hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam theo hướng:
“Công đoàn Việt Nam là tổ chức thống nhất được tổ chức theo địa giới hành chính và theo ngành, bao gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cấp trung ương; cấp tỉnh, ngành trung ương; cấp trên trực tiếp cơ sở và cấp cơ sở.
Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định cụ thể từng cấp công đoàn”.
2.1.4. Tác động giới của giải pháp:
Giải pháp trên có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện và cơ hội để tổ chức công đoàn chủ động trong việc quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu giúp việc (trong đó có bộ phận tham mưu giúp việc về công tác nữ công) và chủ động trong việc đào tạo, quy hoạch, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ nữ cán bộ công đoàn, góp phần nâng cao tỷ lệ nữ tham gia ban thường vụ, ban chấp hành công đoàn các cấp, tham gia thường trực Liên đoàn lao động tỉnh và góp phần nâng cao tỷ lệ nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện tốt mục tiêu bình đẳng giới.
Theo số liệu thống kê tính đến tháng 5/2019, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các cấp công đoàn như sau:
Cấp Tổng Liên đoàn: Chủ tịch, Phó Chủ tịch là 0/05 (chiếm 0%); tỷ lệ nữ trong Đoàn Chủ tịch là 05/22 (chiếm 22,7%); tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành là 39/161 (chiếm 24,2%).
LĐLĐ tỉnh, thành phố, công đoàn ngành trung ương và tương đương:Chủ tịch 17/83 đơn vị (chiếm 20,4%), Phó Chủ tịch73/208đơn vị (chiếm 35%), tỷ lệ nữ trong Ban Thường vụ 310/940 (chiếm 31,2%), tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành là 1.029/3.078 (chiếm 32,2%). Trong đó có 04 nữ lãnh đạo công đoàn cấp tỉnh là đại biểu Quốc hội (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,Đồng Nai, Bình Dương).
Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở: tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành là 8.884/23.940 (chiếm 37%).
Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn: tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành là 238.498/475.478 (chiếm 50,2%).
Thời gian qua, về cơ bản các cấp công đoàn đã quan tâm, chỉ đạo hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn. Số cán bộ công đoàn chuyên trách cơ bản được trang bị lý luận và nghiệp vụ công tác công đoàn, số cán bộ không chuyên trách được quan tâm bồi dưỡng qua nhiều hình thức như: Tập huấn, hội nghị, hội thảo, qua giao ban công tác định kỳ, qua chỉ đạo, hướng dẫn của công đoàn cấp trên. Nhiệm kỳ 2013-2018, các cấp công đoàn đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên đề cho 1.242.077 lượt cán bộ công đoàn các cấp, trong đó có trên 50% là nữ.
Chất lượng lao động nữ CNVCLĐ đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nhiều nữ CNVCLĐ đã được tín nhiệm và đề bạt giữ những chức vụ, vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội. Đội ngũ nữ trí thức, nữ khoa học được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, đóng góp quan trọng trong hoạch định chính sách, ứng dụng thực tiễn (từ 2006 đến 2016, tỷ lệ thạc sỹ tăng từ 30,5% lên 43%, nữ tiến sỹ tăng từ 17% lên 21%, nữ giáo sư tăng từ 5,1% lên 8,4%, nữ phó giáo sư từ 11,7% lên 26,3%). Đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, ngày càng khẳng định vai trò, khả năng trong lãnh đạo, quản lý
[5].
Mặc dù công tác cán bộ nữ đã được quan tâm như phân tích nêu trên, nhưng số cán bộ công đoàn là nữ giữ vị trí chủ chốt, có quyền ra quyết định còn thấp so với mục tiêu bình đẳng giới, do vậy việc chủ động trong công tác tổ chức cán bộ của tổ chức công đoàn là rất cần thiết để thúc đẩy mục tiêu bình đẳng giới.
2.2. Chính sách 2: Hoàn thiện cơ chế tài chính công đoàn trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự ra đời của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam
2.2.1. Vấn đề bất cập
Luật Công đoàn 2012 đã dành 04 điều quy định về tài chính, tài sản công đoàn: Tài chính công đoàn (Điều 26); Quản lý, sử dụng tài chính công đoàn (Điều 27); Tài sản công đoàn (Điều 28); Kiểm tra, giám sát tài chính công đoàn (Điều 29). Khoản 2, Điều 26 Luật Công đoàn 2012 quy định: “Kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động”. Khoản 2, Điều 27 quy định rõ những nhiệm vụ tài chính công đoàn được sử dụng hoạt động, trong đó có nhiệm vụ tổ chức hoạt động về giới và bình đẳng giới. Tuy nhiên, việc nắm bắt và hiểu đúng cách thức thu, tỷ lệ phân chia tài chính công đoàn giữa các cấp công đoàn chưa tạo được sự lan tỏa rộng khắp, chưa nhận được sự đồng thuận cao, khiến cho có một số ý kiến cho rằng kinh phí 2% chỉ nhằm để phục vụ cho công đoàn cấp trên cơ sở trở lên, hoặc để “trả lương”, “nuôi” bộ máy tổ chức công đoàn, có người hoài nghi về mục đích sử dụng nguồn kinh phí này. Luật Công đoàn 2012 cũng chưa quy định cụ thể về trích kinh phí cho các cấp công đoàn theo tỷ lệ phù hợp, theo hướng công đoàn cấp trên phục vụ công đoàn cấp dưới, công đoàn cơ sở phục vụ đoàn viên công đoàn, người lao động. Đồng thời chưa quy định rõ việc Công đoàn Việt Nam thực hiện công khai tài chính theo quy định của pháp luật.Mặt khác, việc thu, chi, sử dụng kinh phí công đoàn như hiện nay chỉ phù hợp trong điều kiện Việt Nam có duy nhất một tổ chức công đoàn (Công đoàn Việt Nam).
Khía cạnh giới của vấn đề bất cập: Quy định về tài chính, tài sản công đoàn trong Luật Công đoàn 2012 đã tạo điều kiện để thực hiện tốt các chức năng cơ bản của tổ chức công đoàn, đặc biệt là đại diện, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho cả lao động nam và lao động nữ. Nếu cho rằng kinh phí 2% chỉ nhằm để phục vụ cho công đoàn cấp trên cơ sở trở lên hoặc để trả lương, nuôi bộ máy tổ chức công đoàn là chưa đúng (nội dung này đã được phân tích trong báo cáo đánh giá tác động chính sách của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn) và sẽ khó khăn cho việc thu nộp kinh phí công đoàn, ảnh hưởng tới nguồn thu tài chính công đoàn, làm hạn chế điều kiện chăm lo, đại diện bảo vệ tốt hơn cho lao động nam và lao động nữ cũng như hạn chế việc thực hiện các chức năng của tổ chức công đoàn đã được pháp luật quy định. Việc trích kinh phí cho các cấp công đoàn cũng cần được quy định cụ thể hơn theo hướng tập trung phục vụ đoàn viên công đoàn, người lao động để góp phần thực hiện tốt hơn công tác vận động nữ CNVCLĐ, hướng tới bình đẳng thực chất giữa nam và nữ.
2.2.2. Mục tiêu của chính sách
Đảm bảo ổn định nguồn thu kinh phí công đoàn; quản lý, sử dụng hiệu quả tài chính công đoàn, quy định cụ thể về trích kinh phí cho các cấp công đoàn theo tỷ lệ phù hợp, hướng về cơ sở và chăm lo tốt hơn cho người lao động, trong đó có lao động nữ. Quy định rõ việc Công đoàn Việt Nam thực hiện công khai tài chính theo quy định của pháp luật. Đảm bảo sự minh bạch, công khai trong việc sử dụng kinh phí công đoàn, tạo sự bình đẳng giữa các tổ chức đại diện người lao động trong doanh nghiệp.
2.2.3. Giải pháp chính sách được lựa chọn
Kế thừa cơ bản các quy định hiện hành đang còn phù hợp đã được quy định tại các điều 26,27,28,29 Luật Công đoàn 2012. Trên cơ sở duy trì nguồn thu 2% kinh phí công đoàn, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn bổ sung quy định về việc miễn, giảm kinh phí công đoàn tạo cơ sở pháp lý nhằm hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh dẫn đến không có khả năng đóng kinh phí công đoàn phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế, xã hội thời gian qua; bổ sung quy định về phân phối kinh phí công đoàn tại khoản 2 Điều 27, đồng thời sửa đổi, bổ sung quy định nhằm đảm bảo công khai, minh bạch trong công tác quản lý, sử dụng tài sản, tài chính công đoàn như đã nêu trong dự thảo và báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
2.2.4. Tác động giới của giải pháp
Việc kế thừa cơ bản các quy định hiện hành đang còn phù hợp đã được quy định tại các điều 26,27,28,29 Luật Công đoàn 2012, đặc biệt là việc duy trì nguồn thu 2% kinh phí công đoàn có ý nghĩa quan trọng góp phần thúc đẩy bình đẳng giới. Cụ thể, khoản 3 Điều 27 Luật Công đoàn 2012 quy định về quản lý, sử dụng tài chính công đoàn, trong đó liệt kê 12 nhiệm vụ sử dụng tài chính công đoàn cho các hoạt động thực hiện quyền, trách nhiệm của Công đoàn và duy trì hoạt động của hệ thống công đoàn, bao gồm các nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức hoạt động, phát triển đoàn viên, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, thăm hỏi, trợ cấp đoàn viên công đoàn, người lao động..., trong đó điểm g) Điều 27 quy định nhiệm vụ chi “Tổ chức hoạt động về giới và bình đẳng giới”; điểm h) và i) Điều 27 quy định:“Thăm hỏi, trợ cấp cho đoàn viên công đoàn và người lao động khi ốm đau, thai sản, hoạn nạn, khó khăn; tổ chức hoạt động chăm lo khác cho người lao động; Động viên, khen thưởng người lao động, con của người lao động có thành tích trong học tập, công tác”. Các quy định này không những không ám chỉ sự phân biệt nam-nữ theo khía cạnh bất bình đẳng giới, mà ngược lại, còn thể hiện sự am hiểu về khoa học giới của những nhà làm luật, sự lồng ghép giới một cách nhuần nhuyễn trong quá trình xây dựng pháp luật, thể hiện những thành quả của Chính phủ Việt Nam về vấn đề bình đẳng giới.
Cụ thể hóa nhiệm vụ chi về giới và bình đẳng giới, tại Quyết định số 1910/QĐ-TLĐ ngày 19 tháng 12 năm 2016 của Tổng Liên đoàn về thu chi, quản lý tài chính công đoàn cơ sở, Tổng Liên đoàn đã dành 1 mục (3.7) để cụ thể hóa điểm g Điều 27 Luật Công đoàn 2012, cụ thể là quy định công đoàn cơ sở được chi tổ chức các hoạt động về giới và bình đẳng giới bao gồm:
“Chi cho các hoạt động tuyên truyền về giới, bình đẳng giới và lồng ghép giới các hoạt động về dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống bạo lực gia đình; Chi hỗ trợ mua đồ dùng, thiết bị mẫu giáo, nhà trẻ tại đơn vị (nếu có); hỗ trợ đoàn viên và người lao động có con gửi nhà trẻ, học mẫu giáo; Chi tuyên truyền, tổ chức hoạt động nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, ngày Gia đình Việt Nam 28/6, ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3, ngày Dân số 26/12; Chi hoạt động của Ban Nữ công quần chúng, Câu lạc bộ nữ công cơ sở, hội thi cán bộ nữ công giỏi, hội thi chuyên đề nữ công, phong trào thi đua giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Các quy định này tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức công đoàn quan tâm nhiều hơn trong việc tổ chức các hoạt động về giới, bình đẳng giới. Trong những năm qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tham gia hiệu quả trong việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp tới người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng, đặc biệt là tham gia trong quá trình sửa đổi Bộ Luật Lao động 2012, 2019 trong đó có Chương X về những quy định riêng đối với lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới; đề xuất và phối hợp với các cơ quan nhà nước để xây dựng, ban hành các quy định của pháp luật về bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử về giới và có những chính sách ưu tiên hơn đối với lao động nữ, về quyền của lao động nữ, cũng như hỗ trợ cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. Điều lệ Công đoàn, các nghị quyết và chương trình hành động của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn cũng như Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam qua các kỳ Đại hội luôn xác định công tác vận động nữ CNVCLĐ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Tính đến tháng 5 năm 2019, tổng số CNVCLĐ cả nước là 12.325.791 người trong đó nữ là 7.885.077 người (chiếm 63.97%), cả nước có 126.878 công đoàn cơ sở với 10.384.828 đoàn viên công đoàn trong đó 5.815.259 đoàn viên nữ chiếm 56%
[6]. Bởi vậy, những quy định về bình đẳng giới trong Luật Công đoàn năm 2012 và hướng dẫn chi về bình đẳng giới cho công đoàn cơ sở là điều kiện thuận lợi để các cấp công đoàn triển khai công tác vận động nữ CNVCLĐ, các hoạt động về giới, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữnhư tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên quan tới lao động nữ, bình đẳng giới; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với lao động nữ; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho lao động nữ; tổ chức phong trào thi đua trong nữ đoàn viên, người lao động; tổ chức các hoạt động nhân kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10; các cấp công đoàn đã dành nhiều sự quan tâm đến hoạt động nữ công, về công tác cán bộ nữ, tỷ lệ lao động nữ tham gia Ban Chấp hành công đoàn các cấp nhiệm kỳ sau cao hơn so với nhiệm kỳ trước. Ban nữ công quần chúng (BNCQC) được thành lập ở công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở và công đoàn cơ sở có trách nhiệm tham mưu cho ban chấp hành công đoàn cùng cấp về công tác nữ công, đến nay cả nước đã thành lập được 55.998 ban nữ công quần chúng, trong đó cấp trên trực tiếp cơ sở 1393 BNCQC, cấp cơ sở có 54.605 BNCQC. Hoạt động tuyên truyền, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân, viên chức, lao động nữ được quan tâm; nhiều công đoàn cơ sở đã thương lượng, đưa vào thỏa ước lao động tập thể một số phúc lợi dành riêng cho lao động nữ. Vận động công nhân, viên chức, lao động, tích cực xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; thông qua phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” các cấp công đoàn đã biểu dương, khen thưởng hàng ngàn nữ công nhân, viên chức, lao động xuất sắc; hoạt động chăm lo cho công nhân, viên chức, lao động nữ và chăm lo cho con CNVCLĐ được chú trọng, một số vấn đề bức xúc trong CNVCLĐ như nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo cho con CNVCLĐ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất được quan tâm nhiều hơn…
Từ góc độ tác động giới của giải pháp, Tổng Liên đoàn đề nghị duy trì quy định về nguồn thu 2% kinh phí công đoàn và dành một mục quy định về chi cho các hoạt động về giới, bình đẳng giới trong Luật sửa đổi, bổ sung một điều của Luật Công đoàn 2012.
2.3. Chính sách 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật công đoàn để phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật, nhất là Bộ luật Lao động 2019
2.3.1. Vấn đề bất cập
Do Hiến pháp năm 2013 được ban hành sau khi Luật Công đoàn đã được thông qua nên có một số nội dung của Luật Công đoàn chưa hoàn toàn tương thích với Hiến pháp. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động và tổ chức công đoàn như Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015, Luật Việc làm năm 2013, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015...Đặc biệt, Bộ Luật Lao động 2019 vừa được Quốc hội thông qua tháng 11/2019, trong đó có nhiều nội dung mới về quan hệ lao động, về quyền công đoàn tại doanh nghiệp có khác biệt so với các quy định của Luật Công đoàn.
Khía cạnh giới của vấn đề bất cập: Một số nội dung của Luật Công đoàn nếu chưa tương thích và đồng bộ với Hiến pháp 2013 và các luật khác có liên quan sẽ gây khó khăn trong triển khai tổ chức thực hiện, ảnh hưởng tới quyền lợi đoàn viên người lao động cả nam và nữ.
2.3.2. Mục tiêu của chính sách
Xây dựng Luật Công đoàn phù hợp với các quy định của Hiến pháp 2013, thống nhất, đồng bộ với các luật khác có liên quan, đồng thời thể chế hóa các nghị quyết của Đảng về tổ chức công đoàn. Đảm bảo tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn liên quan đến vấn đề lao động, công đoàn, bình đẳng giới.
2.3.3. Giải pháp chính sách được lựa chọn
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn 2012 tại Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn về cơ bản đã kế thừa các quy định có liên quan tại Luật Công đoàn 2012 đồng thời có sửa đổi, bổ sung một số nội dung để đảm bảo tính phù hợp, tương thích với Hiến pháp 2013, Bộ luật Lao động 2019 cũng như thể chế hóa các quy định của Đảng về các vấn đề có liên quan. Cụ thể như sau:
+ Sửa đổi, bổ sung Điều 1. Công đoàn đảm bảo tương thích với Hiến pháp năm 2013 như sau:
Điều 1. Công đoàn Việt Nam: “Công đoànViệt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sáthoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệpvề những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”.
Theo đó bỏ cụm từ “ là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam” và bổ sung rõ khái niệm “Công đoàn Việt Nam”và sắp xếp lại cụm từ “thanh tra, kiểm tra, giám sát”.
+ Bổ sung quyền gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tại Điều 5. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
Bổ sung khoản 3 Điều 5: “...Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập, hoạt động hợp pháp, tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam thì có quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam theo trình tự, thủ tục do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định”.
+ Sửa đổi, bổ sung các hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn tại Điều 9. Những hành vi bị nghiêm cấm
Điều 9 được sửa đổi, bổ sung theo hướng phân loại nhóm hành vi một cách rõ ràng theo các tiêu chí cụ thể và quy định chi tiết hơn các hành vi phân biệt đối xử và can thiệp, thao túng chống công đoàn sẽ góp phần khắc phục, hạn chế tình trạng chèn ép của người sử dụng lao động đối với người lao động, cán bộ công đoàn, công đoàn trong thực hiện các phần việc liên quan đến công đoàn. Đồng thời tạo điều kiện để người lao động, cán bộ công đoàn, tổ chức công đoàn có thể hoạt động công đoàn tốt hơn.
Bên cạnh đó, bổ sung một điểm tại khoản 2 Điều 9 quy định về cấm phân biệt đối xử về giới trong các hành vi bị nghiêm cấm.
+ Bổ sung Điều 14. Quyền tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Bổ sungkhoản 2 Điều 14. “Công đoàn chủ trì giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và của người lao động”.
+ Sửa đổi, bổ sung về quyền, trách nhiệm của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với người lao động ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở tại Điều 17.
Sửa đổi, bổ sung Điều 17 theo hướng “Ở cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, công đoàn cấp trên có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu, trừ các trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 63 và Điều 65 Bộ luật Lao động”.
2.3.4. Tác động giới của giải pháp
+ Việc sửa đổi quy định về “Công đoàn” tại Điều 1 nhằm xác định rõ và diễn đạtchuẩn mực hơn về địa vị pháp lý và trách nhiệm của Công đoàn Việt Nambảo đảm phù hợp với Hiến pháp 2013 và xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng của Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh mới. Đồng thời, việc sửa đổi trên cũng gián tiếp khẳng định rõ nét tư tưởng bình đẳng giới, được thể hiện trong Luật Công đoàn 2012: công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và người lao động (gọi chung là người lao động)…. Ở đây, không phân biệt người lao động đó là nam hay là nữ đều được công đoàn đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, được giải quyết tranh chấp về quyền công đoàn không phân biệt là nam hay nữ.
Trong thời gian qua công tác tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động đã được Đảng, Nhà nước và tổ chức công đoàn quan tâm với việc ban hành các chính sách, đầu tư kinh phí và tổ chức triển khai thực hiện thường xuyên, do vậy tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo có xu hướng tăng nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ vẫn còn ở mức thấp, đồng thời cũng thấp hơn so với lao động nam (18,8%, so với 24,02%); tỷ lệ lao đông nữ có trình độ “dạy nghề” thấp hơn nhiều so với lao động nam (3,9% so với 11,6%). Tuy nhiên, ở nhóm trung học chuyên nghiệp và cao đẳng, nam giới đang bất lợi so với nữ, chỉ số khoảng cách giới tương ứng là 1,3 và 1,7
[7]. Do đó việc kế thừa, giữ nguyên những nội dung đã tương thích với Hiến pháp 2013 đảm bảo nguyên tắc không phân biệt lao động nam, lao động nữ trong tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động sẽ góp phần tích cực hướng tới mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới.
+ Việc cho phép tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp gia nhập hệ thống Công đoàn Việt Nam giúp mở rộng diện bao phủ, tăng cường sức hút của Công đoàn trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động, khẳng định vai trò và vị trí của Công đoàn Việt Nam, phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động. Bên cạnh đó, việc tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được gia nhập Công đoàn Việt Nam dự báo sẽ cho phép nhiều người lao đông hơn (cả nam và nữ) được đại diện, chăm lo, bảo vệ một cách hiệu quả. Lao động nữ có thêm cơ hội, điều kiện và năng lực để tham gia, hoạt động trong tổ chức đại diện của mình, góp thêm tiếng nói trong đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho lao động nữ trong quan hệ lao động thông qua thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể; các điều kiện lao động cũng như cải thiện thu nhập của lao động nữ tiến tới bình đẳng thực chất giữa lao động nam và lao động nữ.
+ Việc làm rõ những nội dung tham gia, kiểm tra, giám sát như trong sửa đổi, bổ sung Điều 1 và quy định quyền chủ động giám sát của Công đoàn tạikhoản 2 Điều 14 sẽ thuận lợi hơn cho hoạt động của tổ chức công đoàn khi tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệpvề những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động, đặc biệt là việc thực hiện những quy định riêng đối với lao động nữ thời gian qua còn nhiều bất cập như nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo, khám chuyên khoa phụ sản cho lao động nữ, chính sách giảm thuế đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ….
+ Việc quy định vai trò của công đoàn cấp trên cơ sở đối với những nơi chưa có tổ chức đại diện NLĐ mang lại các lợi ích sau: (1) đại diện bảo vệ người lao động khi chưa thành lập được công đoàn cơ sở, thực hiện chức năng Hiến định của tổ chức chính trị - xã hội là đại diện, bảo vệ NLĐ nói chung, không chỉ riêng đoàn viên của tổ chức; (2) Tạo điều kiện để công đoàn cấp trên cơ sở tiếp cận với người lao động và người sử dụng lao động ở doanh nghiệp để tuyên truyền vận động người lao động thành lập và hoạt động Công đoàn. Việc Công đoàn cấp trên cơ sở đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động ở doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn cơ sở cũng chỉ mang tính quá độ, khi tổ chức công đoàn cơ sở được thành lập thì công đoàn cấp trên cơ sở sẽ chỉ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ công đoàn cơ sở trong quan hệ lao động.
+ Việc sửa đổi về hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn nhằm đảm bảo tính khoa học, chặt chẽ của kỹ thuật lập pháp, thuận lợi trong nhận diện vi phạm để xử lý và tương thích với quy định của Bộ luật Lao động 2019, góp phần khắc phục, hạn chế tình trạng chèn ép của người sử dụng lao động đối với người lao động, cán bộ công đoàn, công đoàn trong thực hiện các phần việc liên quan đến công đoàn. Đồng thời tạo điều kiện để người lao động, cán bộ công đoàn, tổ chức công đoàn có thể hoạt động công đoàn tốt hơn, bảo vệ tốt hơn cho quyền lợi của người lao động, cả nam và nữ.
Bên cạnh đó, nhằm hạn chế nguy cơ tiềm ẩn có thể phát sinh về giới và bình đẳng giới trong hoạt động công đoàn; đảm bảo nội luật hóa Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau (1951) và Công ước số 111 về phân biệt đối xử trong làm việc và nghề nghiệp (1958) trong hoạt động công đoàn đồng thời đảm bảo tính tương thích với Luật Bình đẳng giới 2006, dự thảo cần bổ sung quy định về cấm phân biệt đối xử về giới trong các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 9 theo hướng:
“Điều 9. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Cản trở, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền công đoàn.
2. Phân biệt, đối xử đối với người lao động và cán bộ công đoàn vì lý do thành lập, gia nhập hoặc hoạt động công đoàn, bao gồm:
a) Yêu cầu tham gia hoặc không tham gia hoặc ra khỏi tổ chức công đoàn để được tuyển dụng, giao kết hoặc gia hạn hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc;
b) Xử lý kỷ luật lao động, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, chấm dứt hợp đồng làm việc, không tiếp tục giao kết hoặc gia hạn hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, chuyển người lao động làm công việc khác;
c) Phân biệt đối xử về tiền lương, thời giờ làm việc và các quyền và nghĩa vụ khác trong quan hệ lao động;
d) Phân biệt đối xử về giới;
đ) Thông tin không đúng sự thật nhằm hạ thấp uy tín của cán bộ công đoàn đối với người lao động;
e) Hứa hẹn, cung cấp lợi ích vật chất, lợi ích phi vật chất để người lao động, cán bộ công đoàn rút khỏi hoặc không tham gia hoặc có hành vi chống lại công đoàn;
g) Chi phối, cản trở, gây khó khăn liên quan đến công việc nhằm làm suy yếu hoạt động của tổ chức công đoàn.
3. Sử dụng biện pháp kinh tế hoặc biện pháp khác để can thiệp, thao túng vào quá trình thành lập và hoạt động của công đoàn nhằm làm vô hiệu hóa hoặc làm suy yếu việc thực hiện các chức năng của tổ chức Công đoàn.
4. Trốn đóng, chậm đóng kinh phí công đoàn; đóng kinh phí công đoàn không đúng mức quy định; đóng kinh phí công đoàn không đủ số người thuộc đối tượng phải đóng;
5. Lợi dụng quyền công đoàn để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.”.
III. KẾT LUẬN
1. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn đã được thực hiện nghiêm túc theo đúng yêu cầu về nội dung và trình tự, thủ tục do Luật Bình đẳng giới 2006 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định. Trong thành phần Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn đảm bảo tỷ lệ nhất định nam, nữ thành viên và sự tham gia của đại diện của các Ban, đơn vị trực thuộc Tổng Liên đoàn và các cơ quan liên quan.
2. Trong cả 3 chính sách lớn được sửa đổi, bổ sung đều đảm bảo khi lựa chọn giải pháp để giải quyết vấn đề không làm phát sinh vấn đề mới về giới do các chính sách mới tạo ra, ngược lại góp phần bảo đảm bình đẳng giới và thúc đẩy bình đẳng giới trong hoạt động công đoàn và trong các quan hệ lao động, công đoàn chịu tác động của mỗi chính sách.
3. Kết quả đánh giá lồng ghép vấn đề bình giới, đối với tất cả các chính sách có trong Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn và các chính sách bổ sung ở giai đoạn soạn thảo đều đã được quan tâm để thể chế hoá (quy phạm hoá) thành các điều, khoản trong Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, về cơ bản, là đầy đủ, nhất quán theo các nguyên tắc đảm bảo, thúc đẩy bình đẳng giới, không phân biệt đối xử về giới.
Báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới phản ánh kết quả lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, mức độ đạt được của từng mục tiêu chính sách, trong đó có mục tiêu bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới, thể hiện cụ thể qua việc quy phạm hoá các giải pháp đã được lựa chọn trên cơ sở đánh giá tác động giới thành các chương, điều, khoản liên quan, nhằm giải quyết thấu đáo hơn các khía cạnh giới liên quan đến giải pháp chính sách, cả từ góc độ thể chế và góc độ tổ chức, giám sát thi hành thể chế./.
Trên đây là Báo cáo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn./.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (b/c);
- Ủy ban về các vấn đề xã hội của QH;
- Ủy ban Pháp luật của QH;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Tư pháp (b/c);
- Lưu: VT, Ban QHLĐ.
|
TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Trần Văn Thuật
|
[1]Điểm 2.2 Mục III Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
[2]Các điều 1, 4, 5,7, 9, 14, 17, 23, 24, 26, 27, 28, 29, 30
[3]Các điều 10, 11, 13, 20, 22
[4]Xem mục 5, phần II Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công đoàn 2012
[5]Báo cáo 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
[6] Số liệu của Ban Tổ chức Tổng Liên đoàn, tính đến tháng 5/2019
[7]ILSSA tính toán từ số liệu Điều tra Lao động – Việc làm của TCTK năm 2015.
Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong của dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Cơ quan ban hành: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Ngày ban hành: 21/08/2020
Số hiệu:55/BC-TLĐ
Mô tả:
Tài liệu trình tại phiên họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
6-bc-danh-gia-tac-dong-dt-Luat-CD--sd-.docx
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Số:55 /BC-TLĐ
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 21 tháng8năm 2020
|
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
TRONG DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA LUẬT CÔNG ĐOÀN
I. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ BẤT CẬP TỔNG QUAN
1. Bối cảnh xây dựng chính sách
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (Nghị quyết số 18);Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết số 18; Nghị quyết số 106/2020/QH14ngày10/6/2020 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020; Nghị quyết số 977/NQ-UBTVQH14ngày15/7/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được phân công là cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với tư cách là cơ quan chủ trì soạn thảo tiến hành đánh giá tác động của chính sách trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, nhằm cung cấp thông tin, góp phần củng cố cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn, giúp cho Quốc hội có đầy đủ cơ sở trong việc quyết định thông qua dự án Luật này.
Sau hơn 7 năm áp dụng, thực thi Luật Công đoàn, đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập từ thực tiễn. Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 và chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhiều đạo luật có liên quan được ban hành, sửa đổi, đòi hỏi phải sửa đổi Luật Công đoàn nhằm cụ thể hóa Hiến pháp, chủ trương của Đảng và đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế - xã hội, thị trường lao động, quan hệ lao động và việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đã đặt ra các yêu cầu, đòi hỏi Luật Công đoàn cần phải được tiếp tục hoàn thiện. Như vậy, cả về cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn ở Việt Nam, đòi hỏi Luật Công đoàn cần được sửa đổi.
2. Mục tiêu xây dựng chính sách
Việc soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn bảo đảm mục đích sau:
- Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ chức Công đoàn để phát triển mạnh hơn, hiệu quả hơn trước đòi hỏi ngày càng cao của người lao động, thị trường lao động,góp phần thúc đẩy xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; phát huy vai trò quan trọng của tổ chức Công đoàn trong việc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
- Khắc phục những bấp cập từ thực tiễn, những tồn tại, hạn chế về kỹ thuật lập pháp của Luật Công đoàn 2012.
- Xây dựng Luật Công đoàn phù hợp, tương thích với các quy định của Hiến pháp năm 2013, các đạo luật khác có liên quan; thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết mới của Đảng.
- Xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ,quyền và cơ chế đảm bảo để công đoàn thực hiện tốt chức năng, phát huyvai trò trong thời kỳ mới, khi có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ra đời; góp phần quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Công đoàn Việt Nam đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức này.
- Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, người sử dụng lao động đối với tổ chức và hoạt động của Công đoàn.
- Bảo đảm về mặt pháp lý vững chắc và khoa học đối với các nguồn lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển Công đoàn Việt Nam, đó là công tác tổ chức cán bộ, bảo vệ cán bộ công đoàn, bảo đảm tài chính cho tổ chức công đoàn hoạt động.
- Đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế, công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), với xu hướng phát triển của phong trào công nhân và công đoàn thế giới trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra có nhiều tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến nền kinh tế, doanh nghiệp và người lao động.
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH
Để đạt được các mục tiêu sửa đổi Luật Công đoàn như đã đặt ra, đề xuất sửa đổi Luật Công đoàn sẽ tập trung đánh giá tác động của các nhóm chính sách cơ bản. Mỗi nhóm chính sách này sẽ bao gồm các chính sách cụ thể, có chính sách kế thừa, cụ thể hóa các quy định của pháp luật hiện hành và có các chính sách mới được đề xuất.
Trong phạm vi hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, do điều kiện về thời gian, nguồn lực, kỹ thuật đánh giá tác động nên báo cáo đánh giá tác động tập trung vào 3 nhóm chính sách cụ thể trong quá trình lập hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật. Cụ thể:
1. Chính sách 1: Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy Công đoàn và cơ chế quản lý cán bộ công đoàn
1.1. Xác định vấn đề bất cập
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội thống nhất từ trung ương tới cơ sở, gồm 4 cấp: (1) Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; (2) Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn; (3) Công đoàn cấp trên cơ sở; (4) Công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức của giai cấp công nhân và người lao động, đại diện cho họ trước hết là để “chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng” của mọi người lao động trong mọi thành phần kinh tế. Cùng với đó, Công đoàn còn được Hiến định những chức năng quan trọng mà không phải tổ chức chính trị - xã hội nào cũng có, đó là “tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội; tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Xét về tiêu chí kết nạp thành viên, Công đoàn là tổ chức kết nạp rộng rãi các thành viên, không phân biệt độ tuổi, giới tính đối với tất cả những người hiện đang lao động (cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động đang làm việc trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, có hoặc không có quan hệ lao động) là đối tượng vận động và tập hợp vào tổ chức của mình.
Là tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy của Công đoàn chịu sự điều chỉnh của quy định pháp luật (Luật Công đoàn) và các quy định của Đảng.
Điều 6 Luật Công đoàn 2012 quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn theo hướng:
“1. Công đoàn được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.
Theo quy định của Hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng, tổ chức bộ máy, biên chế của cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ở trung ương, giao Ban Tổ chức Trung ương quản lý; ở cấp tỉnh, cấp huyện giao ban tổ chức tỉnh ủy quản lý, định kỳ báo cáo Ban Bí thư.
Quy định số 212 – QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện (Quy định số 212) phân cấp thẩm quyền quyết định tổ chức bộ máy như sau: (1) Ban Thường vụ cấp ủy cấp tỉnh quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu, giúp việc; giao và quản lý, quyết định số lượng cấp phó của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; (2) Ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện xem xét, quyết định biên chế của các cơ quan.
Qua quá trình thực hiện, việc quản lý, phân bổ, bố trí biên chế cán bộ công đoàn theo các quy định hiện nay của Đảng và các quy định pháp luật đã bộc lộ một số điểm chưa phù hợp:
Thứ nhất, cơ chế cấp ủy địa phương giao biên chế cho tổ chức Công đoàn địa phương trong gói biên chế được cấp trên giao cho khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội dẫn đến sự không đồng bộ về biên chế trong cùng một cấp công đoàn. Ví dụ hai địa phương có điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế, xã hội giống nhau nhưng do hai cấp ủy khác nhau quyết định giao biên chế nên số lượng biên chế cán bộ công đoàn của hai địa phương có thể khác nhau. Hoặc căn cứ để Trung ương giao biên chế cho các địa phương hiện nay chủ yếu căn cứ vào số dân và số lượng đảng viên trên địa bàn, trong khi số lượng cán bộ công đoàn được bố trí cần dựa vào số cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trên địa bàn và xu hướng phát triển kinh tế của địa phương. Thực tế cho thấy, không phải địa bàn có đông dân cư và nhiều đảng viên thì đương nhiên có nhiều công nhân, viên chức, lao động. Ví dụ, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An có số dân và đảng viên nhiều hơn tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai, nhưng số lượng công nhân, lao động lại ít hơn nhiều. Bên cạnh đó, việc phân bổ biên chế không đồng bộ với việc đảm bảo nguồn tài chính; tình trạng không điều tiết được từ nơi thừa sang nơi thiếu trong phạm vi cả nước cũng như trong phạm vi của tỉnh, thành phố… cũng là vấn đề bất cập trong quản lý biên chế cán bộ công đoàn hiện nay.
Thứ hai, các quy định về cán bộ công đoàn còn chưa rõ ràng, chưa phân biệt rõ giữa cán bộ công đoàn là công chức trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp với cán bộ công đoàn chuyên trách trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Trên thực tế hiện nay ngoài số lượng cán bộ công đoàn đang làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp được xác định là công chức theo Luật cán bộ công chức…thì có một số lượng không nhỏ cán bộ công đoàn đang làm việc chuyên trách trong các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Các đối tượng này hiện nay chưa được định danh rõ ràng nên việc tuyển dụng, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ có nhiều khó khăn, vướng mắc. Trường hợp xác định cán bộ công đoàn chuyên trách trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập là công chức như những cán bộ công đoàn làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp thì rất khó khăn vì các quy định về quản lý biên chế, quản lý cán bộ theo pháp luật về cán bộ công chức hết sức chặt chẽ trong khi môi trường doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập hết sức năng động, linh hoạt và ngày càng tăng thêm theo sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước.
Những phân tích trên đây cho thấy, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ công đoàn trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để phù hợp với thông lệ quốc tế, ngoài các quy định về tổ chức và cán bộ của Công đoàn được quy định trong các văn bản của Đảng, Điều lệ của Công đoàn, đòi hỏi phải pháp luật hóa, đưa vào nội dung đề xuất sửa đổi Luật Công đoàn những vấn đề có tính nguyên tắc, định hướng.
1.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
- Thể chế hóa Nghị quyết số 18 của Ban Chấp hành Trung ương đề cập đến việc sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn, trong đó, tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế; xây dựng tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt độngcủa tổ chức công đoàn phù hợp với điều kiện mới
- Nhằm tăng cường tính chủ động và độc lập cho tổ chức Công đoàn trong việc đào tạo, quy hoạch, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công đoàn, nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
1.3. Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
- Phương án 1:
- Sửa đổi, bổ sung Điều 23 Bảo đảm về tổ chức, cán bộ theo hướng: Cơ quan có thẩm quyền quyết định số lượng cán bộ công đoàn là cán bộ, công chức, viên chức theo đề xuất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Công đoàn cấp trên quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách khác sau khi trao đổi với người sử dụng lao động.
- Đồng thời, quy định cụ thể hơn hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam tại Điều 7 theo hướng: Công đoàn Việt Nam là tổ chức thống nhất được tổ chức theo địa giới hành chính và theo ngành, bao gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cấp trung ương; cấp tỉnh, ngành trung ương; cấp trên trực tiếp cơ sở; cấp cơ sở. Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định cụ thể từng cấp công đoàn.
- Phương án 2: Giữ nguyên quy định như hiện hành.
1.4. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn
- Phương án 1:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Quy định số 212 - QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Bí thư về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội cấp tỉnh, cấp huyện quy định: “Việc quản lý, giao biên chế đối với cơ quan liên đoàn lao động cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương”.
Nếu nội dung sửa đổi Luật Công đoàn nêu trên được thực hiện, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam sẽ căn cứ vào số lượng đoàn viên, số lượng công đoàn cơ sở; tính chất, mức độ phức tạp của quan hệ lao động và khả năng cân đối về tài chính công đoàn, chủ động xây dựng phương án phân bổ biên chế cán bộ công đoàn là công chức, viên chức cho từng năm hoặc cho một nhiệm kỳ; đề xuất Ban Tổ chức Trung ương xem xét quyết định và thông báo giao chỉ tiêu biên chế cán bộ công đoàn cấp tỉnh, cấp huyện cho các Ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh để triển khai thực hiện. Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ công đoàn cấp tỉnh cấp huyện tiếp tục thực hiện như các quy định hiện hành của Đảng.
Đối với cán bộ công đoàn chuyên trách khác (cán bộ công đoàn chuyên trách công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập) sẽ do công đoàn cấp trên thỏa thuận với người sử dụng lao động để bố trí; bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tế khối lượng công việc và khả năng cân đối nguồn thu của công đoàn cơ sở.
Quy định này đảm bảo tuân thủ nguyên tắc: Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam (Ban Tổ chức Trung ương) quyết định biên chế công chức trong tổ chức chính trị xã hội; khắc phục được những vướng mắc bất cập trong thời gian qua. Đồng thời, tạo điều kiện để tổ chức Công đoàn chủ động bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách (không phải là công chức) ở đơn vị, doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
a) Tác động tích cực
Việc sửa đổi, bổ sung quy định giao quyền chủ động đề xuất số lượng cán bộ công đoàn là công chức, viên chức trong toàn hệ thống và làm rõ hơn tính thống nhất trong tổ chức của Công đoàn Việt Nam mang lại những ý nghĩa như sau:
+ Tạo ra sự đồng bộ về biên chế trong hệ thống công đoàn. Khắc phục tình trạng các phương có điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế, xã hội giống nhau nhưng được giao số lượng biên chế khác nhau.
Căn cứ để xác định biên chế cho các LĐLĐ cấp tỉnh, cấp huyện được xác định dựa trên yêu cầu nhiệm vụ (dựa trên các tiêu chí số lượng đoàn viên, người lao động; số lượng công đoàn cơ sở; tính chất, mức độ phức tạp của quan hệ lao động) là đáp ứng yêu cầu biên chế phải được xác định trên cơ sở vị trí việc làm và phù hợp với tính chất, đặc thù của tổ chức công đoàn, khắc phục tình trạng cào bằng trong phân bổ biên chế.
+ Phân bổ biên chế đi đôi với việc cân đối nguồn tài chính đảm bảo chi hành chính và chi cho hoạt động phong trào của các cấp công đoàn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính công đoàn. Đồng thời nâng cao trách nhiệm trong quản lý biên chế; quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ công đoàn.
+ Việc quy định bộ công đoàn chuyên trách khác (cán bộ công đoàn chuyên trách công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập) sẽ do công đoàn cấp trên thỏa thuận với người sử dụng lao động để bố trí; bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tế khối lượng công việc và khả năng cân đối nguồn thu của công đoàn cơ sở; trước hết đã định danh làm rõ từng loại cán bộ công đoàn chuyên trách, từ đó sẽ có các quy định cụ thể để quản lý, sử dụng đối với từng đối tượng. Đặc biệt, việc xác định cán bộ công đoàn chuyên trách công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập không phải là công chức sẽ định hướng để tổ chức công đoàn chủ động trong việc bố trí cán bộ công đoàn làm việc trong các doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp ngoài công lập đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động công đoàn trong các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước.
b) Tác động tiêu cực
+ Có ý kiến cho rằng đề xuất thay đổi này còn chưa phù hợp với các quy định hiện hành của Đảng như Quy định số 29-QĐ/TW ngày 25/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng
[1], Quy định số 212-QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Bí thư về “chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách của UBMTTQ và tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện”. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 2 Quy định số 212 - QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Bí thư về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội cấp tỉnh, cấp huyện quy định: “
Việc quản lý, giao biên chế đối với cơ quan liên đoàn lao động cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương”. Do vậy, nếu nội dung sửa đổi tại Điều 23 được Quốc hội thông qua, việc quản lý, giao biên chế đối với cơ quan liên đoàn lao động cấp tỉnh, cấp huyệnsẽ được hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với quy định của pháp luật. Việc sửa đổi nội dung này không làm thay đổi các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là Đảng lãnh đạo công tác cán bộ.
+ Có ý kiến cho rằng quy định đối với cán bộ công đoàn chuyên trách khác (không phải là công chức, viên chức) do công đoàn cấp trên quyết định là chưa có tiền lệ. Tuy nhiên một trong các chủ trương lớn của Đảng hiện nay là đẩy mạnh giao quyền tự chủ cho các chủ thể. Đối với đơn vị sự nghiệp tự chủ chi thường xuyên đã được tự chủ quyết định số lượng người làm việc của đơn vị. Việc quy định cho công đoàn cấp trên được quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách ở cơ sở dựa trên cơ sở cân đối nguồn thu của công đoàn cơ sở thực chất là giao quyền tự chủ quyết định số lượng người làm việc cho các công đoàn cơ sở tự cân đối được nguồn thu để chi trả lương và các hoạt động của công đoàn cơ sở. Việc này là hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Đảng hiện nay.
+ Việc thay đổi cơ chế có thể dẫn đến việc một số cấp ủy địa phương thấy khó khăn trong công tác quản lý cán bộ công đoàn, vì lý do: các tổ chức chính trị - xã hội khác đều do cấp ủy địa phương chủ động phân bổ biên chế ngoại trừ hệ thống Công đoàn. Tuy nhiên, đây cũng là một bước đổi mới, tạo điều kiện cho công đoàn có sự chủ động và sự linh hoạt trong tuyển dụng, đào tạo và bố trí cán bộ công đoàn.
Một số quốc gia như Trung Quốc, Nga cũng có quy định về tính thống nhất trong tổ chức bộ máy của công đoàn. Ví dụ: Luật Công đoàn Trung Quốc, bên cạnh việc ghi nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, cũng quy định: “Tổng Công hội Trung Quốc là một tổ chức thống nhất toàn quốc”. Luật Công đoàn Nga quy định: “Công đoàn và các công đoàn cấp trên của họ phải độc lập đề ra và khẳng định các qui chế hoạt động của mình, các điều lệ, và cơ cấu tổ chức của các tổ chức đoàn cơ sở; Công đoàn phải thành lập bộ máy tổ chức của mình, tổ chức các hoạt động, triệu tập các cuộc họp, các hội nghị và đại hội cũng như các lễ nghi khác”.
- Phương án 2: Giữ nguyên quy định như hiện hành.
a) Tác động tích cực: Không tốn kinh phí sửa đổi, bổ sung pháp luật và chi phí thực hiện luật; duy trì sự ổn định của các quy định hiện hành.
b) Tác động tiêu cực: Nếu giữ nguyên quy định như hiện hành thì không khắc phục được những bất cập như đã phân tích ở trên.
1.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề xuất lựa chọn phương án 1 như đã phân tích ở trên.
2. Chính sách 2: Hoàn thiện cơ chế tài chính công đoàn trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự ra đời của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam.
2.1. Xác định vấn đề bất cập
Luật Công đoàn năm 2012 có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Tài chính, tài sản công đoàn được quy định cụ thể từ Điều 26 đến Điều 29 trong Luật, bao gồm các quy định: Tài chính công đoàn (Điều 26); Quản lý, sử dụng tài chính công đoàn (Điều 27); Tài sản công đoàn (Điều 28); Kiểm tra, giám sát tài chính công đoàn (Điều 29). Ngay sau khi có Luật Công đoàn năm 2012, Tổng Liên đoàn đã tổ chức triển khai tới các cấp công đoàn.
Khoản 2, Điều 26 Luật Công đoàn 2012 quy định: “Kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động”.
Vấn đề quy định về tài chính công đoàn trong Luật là cần thiết nhằm bảo đảm cho các cấp công đoàn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Tài chính công đoàn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, gồm: (1) đoàn phí công đoàn (ĐPCĐ) do đoàn viên đóng, (2) kinh phí công đoàn (KPCĐ) do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng, (3) ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ, (4) các khoản thu khác (trong đó, có thu từ hoạt động kinh tế công đoàn). Việc xác định nguồn tài chính công đoàn tại Luật Công đoàn 2012 đã được xem xét một cách toàn diện, thấu đáo trên cơ sở đặc thù tổ chức Công đoàn Việt Nam, trong mối quan hệ với Luật Ngân sách nhà nước, tính lịch sử của quá trình hình thành nguồn tài chính công đoàn cũng như yêu cầu, nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo (Từ năm 1957 đã thu kinh phí 2% ổn định cho tới nay).
Trong thời gian qua, vấn đề thu, chi, sử dụng nguồn KPCĐ nhận được sự quan tâm của tổ chức, cá nhân. Trong thực tế, việc thu – chi kinh phí công đoàn tuân thủ các quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Tổng Liên đoàn. Đặc biệt, kể từ khi có Luật Công đoàn năm 2012, công tác thu - chi tài chính công đoàn có tính pháp lý cao hơn, bài bản và minh bạch hơn trong quá trình thực hiện. Cụ thể như sau:
- Đối tượng đóng KPCĐ 2% rộng hơn: Luật Công đoàn năm 2012, Nghị định 191/2013/NĐ-CP và các quy định về tài chính của tổ chức Công đoàn đã quy định rõ nguồn thu của tổ chức công đoàn, trong đó quy định cụ thể đối tượng đóng KPCĐ 2% không phân biệt doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đơn vị chưa có tổ chức công đoàn. Từ đó người lao động tại các đơn vị chưa có tổ chức công đoàn có nguồn kinh phí để được Công đoàn Việt Nam chăm lo, bảo vệ….Các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp đều có nghĩa vụ đóng KPCĐ 2%, tạo sự bình đẳng trong toàn hệ thống, đồng thời không trở thành quy định “khuyến khích” các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp tìm mọi cách để không thành lập tổ chức công đoàn.
- Đổi mới mạnh mẽ việc phân cấp thu tài chính công đoàn: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã giao việc thu kinh phí công đoàn 2% chủ yếu cho Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở và LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn Ngành TW và tương đương. Từ năm 2013, không thực hiện thu tập trung KPCĐ khu vực hành chính, sự nghiệp trung ương (HCSNTW) về cấp Tổng Liên đoàn (trước đây TLĐ thu 2% kinh phí của khu vực HCSNTW). Đến năm 2016, việc thu kinh phí công đoàn đã được cụ thể hóa tại Điều 7, Quyết định 1908/QĐ-TLĐ ngày 19/12/2016 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn về thu, chi quản lý tài chính sử dụng tài chính công đoàn. Từ năm 2018, Tổng Liên đoàn thực hiện việc hướng dẫn thu kinh phí công đoàn và phân phối tự động khu vực sản xuất kinh doanh tập trung qua tài khoản của Tổ chức Công đoàn tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam. Đồng thời, chỉ đạo Liên đoàn Lao động (LĐLĐ tỉnh), ngành hạn chế việc thu tài chính, phân cấp thu về cho công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, tạo sự tự chủ về nguồn tài chính cho cấp trên trực tiếp cơ sở, giảm áp lực thu KPCĐ đối với công đoàn cơ sở (CĐCS) để CĐCS tập trung thu tốt đoàn phí công đoàn (ĐPCĐ). Đây là biện pháp khuyến khích thu và hạn chế thất thu tài chính công đoàn.
- Đổi mới trong công tác phân phối tài chính công đoàn: Trong giai đoạn 2012 - 2020 nguồn tài chính của tổ chức công đoàn được dành cho CĐCS là chủ yếu. Thực hiện Nghị quyết 07b/NQ-TLĐ, từ năm 2016 nguồn KPCĐ dành cho CĐCS mỗi năm tăng 1%. Năm 2020, tỷ lệ phân phối cho các cấp công đoàn như sau: Nguồn thu tại cấp CĐCS được sử dụng bao gồm 70% nguồn thu kinh phí công đoàn, 60% nguồn thu đoàn phí, 100% nguồn thu khác; Tại công đoàn cấp trên cở sở trở lên sử dụng phần còn lại của nguồn thu KPCĐ và ĐPCĐ. Từ đó CĐCS sẽ có thêm điều kiện để chăm lo, bảo vệ cho đoàn viên và người lao động.
- Về tổng thu tài chính công đoàn: Tổng thu trong 7 năm (từ năm 2013 đến năm 2019) là 100.354 tỷ đồng, trong đó đoàn phí công đoàn là 25.245 tỷ đồng, chiếm 25,1% tổng số thu; kinh phí công đoàn là 62.829 tỷ đồng, chiếm 62,6% tổng số thu; NSNN hỗ trợ 332 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng số thu; các khoản thu khác là 11.947 tỷ đồng chiếm 11,9% tổng số thu.
Thu tài chính công đoàn cơ bản hoàn thành kế hoạch, trung bình mỗi năm tăng 12%. Tổng thu tài chính công đoàn năm 2019 so với năm 2012 tăng 2,3 lần, trong đó thu kinh phí công đoàn tăng 2,57 lần, đoàn phí công đoàn tăng 2,26 lần, thu khác tăng 1,24 lần. Kết quả này có được là do, một là quỹ tiền lương làm căn cứ đóng đoàn phí và kinh phí công đoàn tăng (do lương cơ sở, lương tối thiểu vùng, số lao động tại các cơ quan đơn vị tăng dần qua các năm), hai là, Tổng Liên đoàn đã đổi mới công tác thu tài chính công đoàn như: Giao dự toán kịp thời, đúng quy định; phối hợp cùng Bảo hiểm xã hội Việt Nam lập dự toán thu cho các đơn vị theo số liệu lao động và quỹ lương đóng BHXH từ đó làm căn cứ xây dựng dự toán số thu KPCĐ và ĐPCĐ; phối hợp với các cơ quan chức năng như cơ quan Thuế, Tòa án, Thanh tra,... để đôn đốc thu kinh phí công đoàn... Những giải pháp mới đã tạo chuyển biến quan trọng về thu tài chính công đoàn.
Việc thu KPCĐ 2% khu vực sản xuất kinh doanh (SXKD): Tổng Liên đoàn đã triển khai thu tập trung qua 01 tài khoản của tổ chức Công đoàn. Sau 3 năm triển khai thu KPCĐ khu vực SXKD qua tài khoản Công đoàn Việt Nam, đã thu được kết quả bước đầu, quan trọng. Việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại giúp cho công tác thu và phân phối nguồn thu được minh bạch, kịp thời. Doanh nghiệp nhận thấy sự ưu việt, minh bạch của phương thức này do đó ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia tạo sự thuận lợi trong quản lý KPCĐ của các cấp công đoàn.
- Về chi tài chính công đoàn từ năm 2013 đến năm 2019 tổng số chi tại các cấp công đoàn là 76.985 tỷ đồng. Trong đó, số chi tập trung nhiều nhất tại cấp CĐCS 56.331 tỷ đồng, chiếm 73,2 % tổng chi; số chi tại cấp quận, huyện là 11.372 tỷ đồng chiếm 14,8% tổng chi; số chi tại cấp tỉnh, ngành 8.395 tỷ đồng, chiếm 10,9% tổng chi; số chi tại cấp Tổng Liên đoàn 576 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng chi;Đơn vị sự nghiệp là 308 tỷ đồng chiếm 0,4% tổng chi, số chi chủ yếu cho đầu tư từ nguồn thu khác tại đơn vị và nguồn hỗ trợ của NSNN. Như vậy sau khi có Luật Công đoàn 2012, Công đoàn Việt Nam đã điều chỉnh giảm tỷ trọng chi tại các cấp trên để tập trung nguồn kinh phí cho cấp CĐCS sử dụng nhằm mục tiêu chi chăm lo, bảo vệ lợi ích cho đoàn viên, người lao động.
Nội dung chi tại các cấp công đoàn trong giai đoạn 2013-2019 như sau:
Tại cấp CĐCS, cơ bản chi chăm lo và bảo vệ quyền lợi cho người lao động với tỷ trọng chi là 81,5%; chi lương, phụ cấp chiếm 13,1%; chi quản lý hành chính chỉ chiếm 5,2%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn TSCĐ chiếm tỉ trọng rất nhỏ, chỉ 0,2%.
Tại cấp quận huyện, chi cho hoạt động chiếm 44,7%; chi lương, phụ cấp chiếm 34,4%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn TSCĐ 4,1%; chi quản lý hành chính 15,9%; chi hoạt động tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở 0,9%.
Tại cấp tỉnh ngành, chi cho hoạt động chiếm 34.6%; chi lương, phụ cấp chiếm 28,6%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn TSCĐ 19,8%; chi quản lý hành chính 16,5%; chi hoạt động tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở 0,5%.
Tại cấp Tổng Liên đoàn, chi cho hoạt động chiếm 36,3%; chi lương, phụ cấp chiếm 30,1%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn TSCĐ 13,3%; chi quản lý hành chính 20,3%.
Nội dung chi hoạt động tại các công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở trở lên cũng chủ yếu là cho các hoạt động chăm lo, bảo vệ đoàn viên và người lao động tại CĐCS.
Tại đơn vị sự nghiệp chi cho hoạt động chiếm 17,6%; chi lương, phụ cấp chiếm 33,9%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn TSCĐ 39,8%; chi quản lý hành chính 8,7%; không có chi hoạt động tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở.
Về đầu tư xây dựng cơ bản, giai đoạn 2013-2019, tổng nguồn vốn đầu tư là 2.368 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư xây dựng tại các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế khoảng hơn 1.268 tỷ đồng từ nguồn NSNN; chi đầu tư xây dựng tại công đoàn cấp trên khoảng 1.100 tỷ đồng từ tài chính công đoàn tích lũy.
Tại các doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, người lao động vẫn được sự quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền lợi của người lao động tại các cấp công đoàn và được quy định cụ thể tại Điều 17, Quyết định 1911/QĐ-TLĐ ngày 19/12/2016 của Tổng Liên đoàn, các công đoàn cấp trên cơ sở căn cứ số kinh phí công đoàn được sử dụng thu từ nơi chưa có tổ chức công đoàn, xây dựng định mức chi để chi chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động. Số chi chưa hết theo dõi trên tài khoản tạm giữ, ngay khi đơn vị thành lập công đoàn cơ sở thì cấp trả toàn bộ số kinh phí tạm giữ cho công đoàn cơ sở. Từ năm 2013 đến năm 2019, tổng số chi tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở là 143 tỷ đồng. Số còn lại chưa chi tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở sẽ được công đoàn cấp trên trả lại cho công đoàn cơ sở khi được thành lập.
Mức chi bình quân trong năm 2012 cho một đoàn viên là 870.000 đồng/năm, người lao động 667.000 đồng/ năm. Mức chi bình quân trong năm 2019 cho một đoàn viên là 1.200.000 đồng/năm, người lao động 1.017.000 đồng/ năm. Trong đó mức chi cho đoàn viên cao hơn người lao động là do một số mục chi tại công đoàn cơ sở người lao động không được hưởng mà chỉ dành cho đoàn viên như chi quà sinh nhật, việc hiếu, hỉ…
- Để tạo cơ sở vật chất cho tổ chức công đoàn nâng cao hiệu quả trong việc chăm lo đoàn viên và người lao động một cách thiết thực, đặc biệt là đoàn viên và người lao động yếu thếtại các Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã được Chính phủ phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng thiết chế công đoàn tại KCN, KCX tại Quyết định số 655/QĐ-TTg ngày 12/5/2017. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 9c/NQ-BCH ngày 18/10/2016 về điều chỉnh giảm tỉ trọng chi hành chính, hoạt động phong trào tại các cấp công đoàn để tạo nguồn kinh phí cho đầu tư xây dựng các thiết chế của công đoàn tại các Khu công nghiệp, Khu chế xuất. Tuy nhiên, năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn đã quyết định dừng việc thực hiện Nghị quyết 9c/NQ-BCH từ ngày 01/01/2021, riêng công đoàn cơ sở khu vực sản xuất kinh doanh dừng việc thực hiện Nghị quyết nêu trên từ 01/01/2020.
Đánh giá về nguồn thu kinh phí công đoàn 2%: Thực tiễn tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam nhiều thập kỷ qua cho thấy nguồn thu kinh phí công đoàn cùng với các nguồn thu khác là cơ sở quan trọng để tổ chức Công đoàn xây dựng được nguồn lực đủ mạnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Đảng giao phó, góp phần nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động, giảm gánh nặng cho Nhà nước trong bối cảnh nguồn lực của Nhà nước còn hạn chế, chăm lo tốt hơn cho người lao động, tạo sự gắn kết lâu dài giữa người lao động với tổ chức công đoàn và doanh nghiệp.
Xét về bản chất và mục đích chi: Trong phân phối các nội dung chi theo quy định, nguồn kinh phí công đoàn cơ bản dành cho phúc lợi, chăm lo, bảo vệ, đào tạo đoàn viên và người lao động (chiếm 84,14% trong tổng chi hoạt động tại 4 cấp)
[2]. Thực chất nguồn thu - chi kinh phí công đoàn thể hiện rõ bản chất tốt đẹp và sự ưu việt của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ ta trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực hiện chăm lo phúc lợi và an sinh cho NLĐ thông qua tổ chức Công đoàn - cầu nối giữa Đảng với NLĐ (đặc biệt là ở những doanh nghiệp FDI sử dụng đông lao động nhưng nhiều nơi chưa có tổ chức cơ sở đảng). Chăm lo tốt cho NLĐ thông qua tổ chức công đoàn cũng chính là hướng tới chăm lo, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết 20 BCH TW Đảng khóa X.
Điều này cũng phù hợp với lịch sử nhiều thập kỷ qua, nguồn thu kinh phí công đoàn xuất phát chủ yếu ở các nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hiện nay, với thể chế chính trị tương đồng Việt Nam, Luật Công đoàn Trung quốc cũng quy định nguồn thu 2% kinh phí công đoàn. Ở Nga, khi thay đổi thể chế chính trị và Đảng cầm quyền thì nguồn kinh phí này cũng không còn.
Đối với CĐCS, phần kinh phí này giữ vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo nguồn tài chính để CĐCS hoạt động, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động.
Đối với doanh nghiệp: Kết quả sản xuất kinh doanh có phần đóng góp quan trọng của NLĐ, ngoài chi phí tiền lương, BHXH thì việc đóng kinh phí công đoàn để chăm lo cho NLĐ cũng là một cách để phát huy vai trò và trách nhiệm xã hội của người sử dụng lao động trong việc phối hợp cùng tổ chức Công đoàn chăm lo cho người lao động, nguồn tài sản vốn quý nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp. Kinh phí công đoàn chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi phí của doanh nghiệp (khoảng 0,2% đối với doanh nghiệp gia công, 0,14% đối với doanh nghiệp khác). Nhưng việc sử dụng mang lại lợi ích cho cả người sử dụng lao động và người lao động, góp phần tạo lập QHLĐ hài hòa, ổn định, người lao động được chăm lo tốt hơn, yên tâm làm việc. Thực tế nhiều doanh nghiệp, kể cả DN FDI đã giao việc chăm lo NLĐ cho công đoàn. Ngoài kinh phí công đoàn, DN còn đầu tư kinh phí từ các quỹ để công đoàn thực hiện nhiệm vụ.
Trong thời gian 7 năm qua, với cách thức thu – chi và phân bổ tài chính ngày càng khoa học, công khai, minh bạch, hướng về cơ sở, Công đoàn Việt Nam đã có một nguồn lực cần thiết để đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, thu hút ngày càng đông đảo người lao động tham gia công đoàn, góp phần quan trọng xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, đóng góp trực tiếp vào các thành tựu kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Trong bối cảnh cần phải tiếp tục “
tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 06-NQ/TW
[3] thì việc tiếp tục bảo đảm nguồn thu kinh phí công đoàn 2% là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, nhiều năm qua, việc nắm bắt và hiểu đúng cách thức thu, tỷ lệ phân chia tài chính công đoàn giữa các cấp công đoàn chưa tạo được sự lan tỏa rộng khắp, chưa nhận được sự đồng thuận cao, khiến cho có một số ý kiến cho rằng kinh phí 2% chỉ nhằm để phục vụ cho công đoàn cấp trên cơ sở trở lên, hoặc để “trả lương”, “nuôi” bộ máy tổ chức công đoàn, có người hoài nghi về mục đích sử dụng nguồn kinh phí này. Để tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa sự công khai, minh bạch trong việc sử dụng kinh phí công đoàn, đoàn phí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn cần bổ sung quy định về trích kinh phí cho các cấp công đoàn theo tỷ lệ phù hợp, theo hướng công đoàn cấp trên phục vụ công đoàn cấp dưới, công đoàn cơ sở phục vụ đoàn viên công đoàn, người lao động. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định về công tác kiểm tra, giám sát, đảm bảo công khai minh bạch trong quản lý, sử dụng tài chính công đoàn.
Mặt khác, việc thu, chi, sử dụng kinh phí công đoàn như hiện nay chỉ phù hợp trong điều kiện Việt Nam có duy nhất một hệ thống công đoàn (Công đoàn Việt Nam). Bộ luật Lao động 2019 đã cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam. Theo đó, ở doanh nghiệp, bên cạnh CĐCS thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam còn có thể có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp mà quyền và trách nhiệm của tổ chức này trong quan hệ lao động được đảm bảo bình đẳng với tổ chức công đoàn. Do đó, vấn đề chia sẻ nguồn kinh phí công đoàn với tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp cũng cần được xem xét, nghiên cứu trong lần sửa đổi Luật Công đoàn này.
Bên cạnh đó, thực tiễn việc thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch Covid – 19 vừa qua cho thấy cần phải xem xét, bổ sung vào Dự thảo Luật nội dung quy định về miễn, giảm kinh phí công đoàn trong các trường hợp bất khả kháng, doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh.
2.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
- Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo Ban Chấp hành Trung ương tại Nghị quyết số 06 tiếptục “tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” và Nghị quyết số 18 “Rà soát, sửa đổi cơ chế quản lý tài chính, nguồn kinh phí công đoàn, bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch và nâng cao hiệu quả”.
- Nhằm đảm bảo sự minh bạch, công khai trong việc sử dụng kinh phí công đoàn, tạo sự bình đẳng giữa các tổ chức đại diện người lao động trong doanh nghiệp.
2.3 Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề
2.3.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về miễn, giảm kinh phí công đoàn.
Trên cơ sở duy trì nguồn thu 2% kinh phí công đoàn, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung trường hợp doanh nghiệp được miễn, giảm kinh phí công đoàn như sau:
- Phương án 1: Bổ sung khoản 6 Điều 26 về các trường hợp doanh nghiệp được miễn, giảm kinh phí công đoàn: “6. Trong trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh dẫn đến không có khả năng đóng kinh phí công đoàn theo khoản 2 Điều này thì được xem xét miễn, giảm theo quy định của Chính phủ.”.
- Phương án 2: Giữ nguyên quy định hiện hành.
2.3.2.Sửa đổi, bổ sung quy định về phân phối kinh phí công đoàn
Trên cơ sở duy trì nguồn thu 2% kinh phí công đoàn tại khoản 2 Điều 26, dự thảo Luật xây dựng 02 phương án về phân phối kinh phí công đoàn tạikhoản 2 Điều 27 như sau:
- Phương án 1:
2. Kinh phí công đoàn theo khoản 2 Điều 26 do công đoàn cấp trên quản lý, sử dụng 25%; 75% còn lại được phân phối cho công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp như sau:
a) Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chỉ có tổ chức công đoàn, công đoàn cơ sở được phân phối toàn bộ kinh phí nêu trên.
b) Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tạm giữ toàn bộ số kinh phí nêu trên, thực hiện chi cho người lao động tại cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và hoàn trả cho công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp khi được thành lập theo điểm a và điểm c khoản 2 điều này.
c) Ở doanh nghiệp có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp thì tổ chức này được phân phối theo số thành viên trên số lao động thu được kinh phí công đoàn.
Việc sử dụng kinh phí công đoàn của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp do Chính phủ quy định.
- Phương án 2:
2. Tại những nơi đã có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, kinh phí công đoàn được phân phối cho các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.
- Phương án 3: giữ nguyên quy định hiện hành
2.3.3. Sửa đổi, bổ sung quy định đảm bảocông khai, minh bạch trong công tác quản lý, sử dụng tài sản, tài chính công đoàn.
- Phương án 1: Sửa đổi, bổ sung Điều 28 Tài sản công đoàn, theo hướng: “Công đoàn Việt Nam thực hiện việc quản lý, sử dụng, khai thác tài sản của Công đoàn theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các quy định pháp luật khác”.
Bổ sung khoản 4 Điều 29 Kiểm tra, giám sát tài chính Công đoàn: “Công đoàn Việt Nam thực hiện công khai tài chínhbằng một hoặc một số hình thức: công bố tại kỳ họp Ban Chấp hành Công đoàn, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng”
- Phương án 2: Giữ nguyên quy định hiện hành
2.4. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn
2.3.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về miễn, giảm kinh phí công đoàn.
a) Tác động tích cực
+Việc bổ sung quy định xem xét miễn, giảm kinh phí công đoàn trong trường hợp doanh nghiệp gặp khó khănphải tạm dừng sản xuất, kinh doanh dẫn đến không có khả năng đóng kinh phí công đoàn là cần thiết, phù hợp với tình hình thực tiễn và nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp.
+ Việc quy định miễn, giảm kinh phí công đoàn cùng với các chính sách miễn giảm thuế khi doanh nghiệp gặp khó khăn sẽ làm giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp duy trì sự tồn tại, giảm số doanh nghiệp bị đào thải khỏi thị trường, bảo vệ việc làm cho người lao động. Từ đó,tăng khả năng tích tụ nguồn vốn cho mục đích tái đầu tư khôi phục sản xuất kinh doanh.Đây cũng chính là giải pháp để tổ chức Công đoàn Việt Nam chia sẻ khó khăn, đồng hành cùng doanh nghiệp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
+Đồng thời, việc giảm kinh phí công đoàn cũng gián tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn chân chính, thực hiện đúng hơn các quy định pháp luật của Nhà nước, hạn chế cáchoạt động trốn, lách đóng kinh phí công đoàn, thuế…vv.
b) Tác động tiêu cực
+ Giả sử phương án này được thực hiện, nguồn tài chính công đoàn của Công đoàn Việt Nam sẽ bị giảm sút, tùy vào mức độ doanh nghiệp bị suy giảm hoạt động.
+ Làm phát sinh thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp và tổ chức công đoàn khi thực hiện quy trình, thủ tục xem xét miễn giảm kinh phí công đoàn; phát sinh Nghị định quy định chi tiết khoản 6 Điều 26.
- Phương án 2: Giữ nguyên quy định hiện hành
a) Tác động tích cực
+ Không tốn kinh phí sửa đổi, bổ sung pháp luật và chi phí thực hiện luật; duy trì sự ổn định của các quy định hiện hành.
+ Duy trì và đảm bảo ổn định nguồn lực tài chính của tổ chức Công đoàn Việt Nam để thực hiện các nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó.
b) Tác động tiêu cực
+ Không giải quyết được yêu cầu từ thực tiễn đặt ra khi doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất kinh doanh không có khả năng đóng kinh phí công đoàn, có thể gây tác động tiêu cực đến quan hệ lao động.
+ Trong bối cảnh doanh nghiệp gặp khó khăn cần sự hỗ trợ, chia sẻ, nếu không sửa đổi quy định về miễn giảm kinh phí công đoàn có thể gây ra những quan điểm thiếu tích cực về vai trò, ý nghĩa của nguồn thu kinh phí công đoàn.
2.4.2. Sửa đổi quy định về kinh phí công đoàn
- Phương án 1 và phương án 2: Nội dung của 02 phương án sửa đổi này đều là duy trì 2% kinh phí công đoàn và có sự phân phốikinh phí giữa tổ chức công đoàn và tổ chức của người lao động tại cơ sở.
a) Tác động tích cực
+ Việc giữ ổn định quy định về nghĩa vụ đóng kính phí công đoàn bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động được thực hiện trong thời gian qua nhằmbảo đảm phúc lợi ổn định cho người lao động theo chính sách từ năm 1957 đến nay, góp phần làm cho tổ chức Công đoàn thực hiện được chức năng chăm lo, giáo dục, tuyên truyền pháp luật,bảo đảm sự thống nhất, bình đẳng về trách nhiệm của cơ quan, đơn vị với doanh nghiệp và giữa các loại hình doanh nghiệp trong chăm lo lợi ích người lao động; hỗ trợ việc thành lập và hoạt động của công đoàn cơ sở, tạo hành lang pháp lý vững chắc về tài chính để bảo đảm cho công đoàn hoạt động và thực hiện quyền, trách nhiệm của công đoàn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Để Công đoàn Việt Nam tiếp tục đổi mới, phát triển nhằm thu hút đông đảo người lao động vào tổ chức trong bối cảnh có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, đòi hỏi phải có nguồn lực về con người, tài chính đủ mạnh.
+ Về bản chất, nguồn thu kinh phí 2% là đóng góp của đơn vị sử dụng lao động cho tổ chức và hoạt động của công đoàn nhằm bảo đảm cho công đoàn thực hiện tốt trách nhiệm chăm lo cho người lao động, đồng thời cũng để đảm bảo vai trò của công đoàn trong việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tuyên truyền, vận động người lao động thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, công tác, góp phần ổn định và phát triển các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Khoản đóng góp này đã hình thành từ khi có Luật Công đoàn năm 1957 và được duy trì ổn định cho đến nay, phù hợp với thể chế chính trị và địa vị pháp lý của tổ chức Công đoàn Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp, vừa là tổ chức chính trị - xã hội, vừa là tổ chức đại diện người lao động. Nguồn thu đoàn phí công đoàn 1% là đóng góp của đoàn viên công đoàn khi tự nguyện tham gia vào tổ chức công đoàn để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên.
+ Kinh tế công đoàn hiện nay chưa thực sự phát triểndo trải qua một thời gian dài bao cấp, chưa chuyển kịp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguồn lực phân tán, chưa được đầu tư tương xứng. Hiện Tổng Liên đoàn đang tập trung xây dựng chiến lược phát triển kinh tế công đoàn nhằm khai thác một cách có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có của các đơn vị kinh tế công đoàn, về lâu dài, đây sẽ là khu vực tạo nên nguồn lực tài chính quan trọng của tổ chức Công đoàn. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước hỗ trợ cho hoạt động của hệ thống công đoàn còn hạn hẹp (khoảng 1%) thì khoản kinh phí này là cách thức mà các doanh nghiệp chia sẻ gánh nặng ngân sách đối với Nhà nước, Chính phủ.
+ Nguồn kinh phí công đoàn, như đã đề cập với số liệu cụ thể nêu trên,được sử dụng tập trung cho nhiệm vụ đại diện,chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; tuyên truyền, vận động người lao động nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công tác, bản lĩnh chính trị, giác ngộ giai cấp, góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy cơ quan, doanh nghiệp phát triển bền vững. Mặc dù mức độ chi giữa các khu vực có khác nhau (khu vực doanh nghiệp thường có mức chi lớn hơn khu vực cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp do yêu cầu nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động khác nhau), nhưng đây là sự chia sẻ cần thiết, thể hiện truyền thống đoàn kết của giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như vậy, nguồn KPCĐđược sử dụng mang lại lợi ích cho cả người lao động và người sử dụng lao động, thúc đẩy xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp; góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng góp không nhỏ vào tiến trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Đảm bảo sự chủ động, linh hoạt và không phụ thuộc vào ngân sách của Chính phủ để giúp Công đoàn có tiếng nói mạnh mẽ, khách quan trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động, phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở trong bối cảnh mới của Việt Nam, khẳng định sự tôn trọng và tuân thủ của nước ta đối với các cam kết quốc tế. Đồng thời, nhằm mục đíchkhông khuyến khích việc tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp nhận tài trợ, không để các thế lực thù địch lợi dụng tài trợ tài chính cho tổ chức này.
So sánh giữa phương án (1) và (2): Phương án 1 có ưu điểm hơn là:
+ Công khai, minh bạch tỷ lệ trích kính phí công đoàn, trong đó, nêu rõ tỷ lệ trích dành cho cơ sở để CĐCS thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động.
+ Giúp các chủ thể có nghĩa vụ phải đóng KPCĐ và toàn xã hội hiểu đúng, nắm rõ tỷ lệ trích KPCĐ cũng như mục đích sử dụng nguồn kinh phí này để từ đó tin tưởng, chấp hành việc đóng KPCĐ; khắc phục tình trạng các lực lượng phản động, không thiện chí lợi dụng việc chưa minh bạch ngay trong Luật về việc trích nộp KPCĐ để tuyên truyền, nói xấu, bôi nhọ Công đoàn Việt Nam nhằm dọn đường cho tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
+ Nếu lựa chọn phương án 1, nguyên tắc và cách thức phân phối kinh phí công đoàn được quy định ngay trong luật, đảm bảo giá trị pháp lý cao hơn.
b) Tác động tiêu cực
+Phương án được thực hiện sẽ có tác động về mặt kinh tế đến các chủ thể liên quan, cụ thể đó là ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận của các doanh nghiệp. Đối với các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập thì đây chính là khoản tiền có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, là sự chia sẻ của Nhà nước đối với hoạt động công đoàn, nhưng Công đoàn không nhận trực tiếp từ Chính phủ để đảm bảo tính khách quan, sự độc lập của Công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi người lao động.Tuy nhiên, tác động tiêu cực sẽ không lớn bởi hầu hết các doanh nghiệp vẫn đang thực hiện nghĩa vụ này. Nhiều doanh nghiệp hiểu rõ khoản đóng góp này được sử dụng 2/3 cho hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp nên chủ doanh nghiệp ủng hộ và chấp hành. Một số chủ doanh nghiệp không ủng hộ vì chưa nắm được việc sử dụng KPCĐ, có chủ doanh nghiệp thắc mắc vì việc thu 2% KPCĐ không có ở hầu hết các nước khác mà doanh nghiệp đầu tư (kinh phí hoạt động công đoàn của công đoàn các nước dựa vào các nguồn chủ yếu: ĐPCĐ, kinh tế công đoàn, Chính phủ hỗ trợ qua các chương trình, dự án, sự hỗ trợ của các đảng chính trị thông qua các doanh nghiệp, quỹ). ĐPCĐ của hầu hết các nước đều thu khoảng trên, dưới 1% nhưng do mức lương của người lao động cao nên giá trị tuyệt đối rất lớn, trong khi ĐPCĐ ở nước ta mặc dù quy định bằng 1% lương nhưng do mức lương của công nhân lao động nước ta thấp, không đáp ứng mức sống tối thiểu nên nhiều nơi để chia sẻ với đoàn viên, công đoàn thu ở mức 10.000 -20.000đ/ người/tháng.Về tổng thể, TổngLiên đoàn cho rằng, mức thu 2% vẫn nằm trong phạm vi chấp nhận được đối với sức chịu đựng của các tổ chức, doanh nghiệp
[4].
- Giả sử phương án này được thực hiệntrên cơ sở đảm bảo bình đẳng, hài hòa lợi ích củađoàn viên (thành viên) các tổ chức cũng như người lao động không phải là đoàn viên (thành viên), nguồn tài chính công đoàn của Công đoàn Việt Nam có khả năng bị giảm sút.
Tại thời điểm này, chưa thể dự đoán có bao nhiêu tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp sẽ được thành lập và đi vào hoạt động sau khi Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực (từ ngày 01/01/2021). Tuy nhiên, theo đánh giá của một số cơ quan có liên quan
[5]thì số lượng tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp chưa phải là vấn đề lớn vì phạm vi thành lập mới ở cấp doanh nghiệp, chưa có liên kết. Việt Nam có sự ổn định về chính trị và phát triển kinh tếthị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Việt Nam đang thực hiện một cuộc cải cách thể chế thận trọng và theo trình tự. Do vậy, rất khó xảy ra tình trạng ra đời nhiều hoặc thành lập ồ ạt của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam sau khi Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực. Mặt khác, việc tổ chức của người lao động phát triển rộng lớn hay không còn phụ thuộc vào quá trình đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam. Sự đổi mới và phát triển của Công đoàn Việt Nam sẽ thu hút người lao động vào hệ thống Công đoàn, hạn chế sự xuất hiện của các tổ chức khác. Giả sử năm đầu tiên sau khi Bộ luật Lao động sửa đổi có hiệu lực, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp thu hút được 1% số lượng đoàn viên của tổ chức Công đoàn (giả sử tỷ lệ kết nạp đoàn viên công đoàn/1 doanh nghiệp đang là 100%) thì sẽ xảy ra khả năng chia sẻ tương đương 1% kinh phí công đoàn.Tuy nhiên, nếu xảy ra phương án này,khả năng giảm sút nguồn thu tài chính công đoàn giảm theo tỷ lệ tương đương0,66% do nguồn thu tài chính công đoàn từ khu vực hành chính sự nghiệp vẫn được giữ nguyên(chiếm 32,14%), chỉ ảnh hưởng ở khu vực sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp)
[6].
- Phương án 3: Giữ nguyên quy định hiện hành
a) Tác động tích cực
+Không tốn kinh phí sửa đổi, bổ sung pháp luật và chi phí thực hiện luật; duy trì sự ổn định của các quy định hiện hành.
+ Duy trì và đảm bảo ổn định nguồn lực tài chính của tổ chức Công đoàn Việt Nam để thực hiện các nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó.
b) Tác động tiêu cực
+ Nếu giữ nguyên quy định hiện hành thì chưa giải quyết được yêu cầu về quản lý, sử dụng kinh phí công đoàn trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp sau khi Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực. Không đảm bảo được quyền bình đẳng giữa các tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp về mặt quan hệ lao động.
+ Có ý kiến cho rằng việc duy trì kinh phí công đoàn 2% dường như không phù hợp với Công ước số 98 về áp dụng nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể. Khoản 2 Điều 2 Công ước này quy định:
“Những hành vi được coi là can thiệp vào nội bộ theo định nghĩa của Điều này, trước hết là những hành vi nhằm dẫn tới việc tạo ra những tổ chức của người lao động được sự chế ngự của một người sử dụng lao động hay một tổ chức của người sử dụng lao động, hoặc nhằm nâng đỡ những tổ chức của người lao động bằng tài chính hay bằng những cách khác, với ý đồ đặt các tổ chức đó dưới sự điều tiết của những người sử dụng lao động hay của những tổ chức của người sử dụng lao động.” Về vấn đề này, Tổng Liên đoàn cho rằng, việc người sử dụng lao động đóng KPCĐ là đóng cho tổ chức Công đoàn Việt Nam nói chung mà đại diện là Tổng Liên đoàn, không phải là khoản kinh phí hỗ trợriêng cho CĐCS. Mục đích đóng KPCĐ là để tạo nguồn lực cho toàn hệ thống nhằmthực hiện nhiệm vụ đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động theo quy định của pháp luật, không phải người sử dụng lao động đóng KPCĐ để thực hiện ý đồ đặt tổ chức công đoàn ở cơ sở dưới sự điều tiết của người sử dụng lao động. Rà soát sự xung đột pháp luật trước khi trình Quốc hội phê chuẩn Công ước 98, hoàn toàn không đề cập đến vấn đề đóng 2% KPCĐ
[7].
+ Thời gian qua, có một số ý kiến kiến nghị xem xét, sửa đổi đối với quy định tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có trách nhiệm đóng kinh phí công đoàn mà không phân biệt cơ quan, tổ chức doanh nghiệp đó đã có hay chưa có tổ chức công đoàn. Tổng Liên đoàn cho rằng, với địa vị pháp lý là một tổ chức chính trị - xã hội được Hiến định tại Điều 10, Hiến pháp năm 2013, Công đoàn không chỉđại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích của đoàn viên công đoàn mà còn có trách nhiệm đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao độngcả nước nói chung; thực hiện trách nhiệm của công đoàn cấp trên trực tiếp trong việc tuyên truyền, vận động, chăm lo, bảo vệ quyền lợi của người lao động tại những nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở như: thương lượng tập thể, đại diện khởi kiện, đại diện quyền lợi của người lao động trong trường hợp chủ doanh nghiệp bỏ trốn, DN phá sản, thăm nom, động viên khi người lao động bị tai nạn, mắc bệnh hiểm nghèo...
[8].Việc giữ nguyên quy định này còn hạn chế được tình trạng các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp gây khó khăn, không tạo điều kiện thành lập công đoàn cơ sở để tránh trách nhiệm đóng KPCĐ, tạorào cản trong việc phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS ở các doanh nghiệp.Mặt khác, việc thực hiện đồng bộ một mức thu đối với tất cả các loại hình doanh nghiêp, các thành phần kinh tế sẽ tạo ra sự canh tranh lành mạnh trong cơ chế thị trường.
2.4.2. Sửa đổi, bổ sung quy định đảm bảocông khai, minh bạch trong công tác quản lý, sử dụng tài sản, tài chính công đoàn.
- Phương án 1: Bổ sung quy định về đảm bảo công khai minh bạch trong công tác quản lý, sử dụng tài chính của Công đoàntại Điều 28 và khoản 4 Điều 29.
a) Tác động tích cực:
+ Xác định rõ trách nhiệm công khai việc quản lý, sử dụng tài chính công đoàn của Tổng Liên đoàn theo quy định của pháp luật.
+ Tạo cơ chế minh bạch hơn trong việc giám sát quản lý, sử dụng tài chính công đoàn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính công đoàn.
b) Tác động tiêu cực
Phát sinh các hoạt động và thủ tục trong công tác tổng hợp, thống kê, thực hiện chế độ công khai theo quy định của pháp luật.
- Phương án 2: Giữ nguyên như hiện hành
a) Tác động tích cực
Không tốn kinh phí sửa đổi, bổ sung pháp luật và chi phí thực hiện luật; duy trì sự ổn định của các quy định hiện hành.
b) Tác động tiêu cực
Chưa đảm bảo thể chế hóa đầy đủ tinh thần các Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết số 18, NQ số 06), đặc biệt là các vấn đề liên quan đến cơ chế quản lý, sử dụng hiệu quả tài sản của tổ chức công đoàn.
2.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn: Tổng Liên đoàn lựa chọn phương án 1.
3. Chính sách 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật công đoàn để phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật, nhất là Bộ luật Lao động 2019
3.1. Xác định vấn đề bất cập
Do Hiến pháp 2013 được ban hành sau khi Luật Công đoàn đã được thông qua, nên có những nội dung của Luật Công đoàn chưa hoàn toàn tương thích với Hiến pháp. Sau Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề liên quan đến tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, hội nhập quốc tế trong xu thế nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới… Bên cạnh đó, trong những năm gần đây Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động và tổ chức công đoàn như: Luật Việc làm (năm 2013), Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật Doanh nghiệp (năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (năm 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 2015)... Đặc biệt, Bộ luật Lao động vừa được Quốc hội thông qua tháng 11/2019, trong đó có nhiều nội dung mới về quan hệ lao động như ghi nhận địa vị pháp lý của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bên cạnh tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Do đó, Luật Công đoàn cần tiếp tục được sửa đổi nhằm đảm bảo sự thống nhất, sự phù hợp với nội dung của các luật mới ban hành gần đây.
3.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề
-Xây dựng Luật Công đoàn phù hợp, tương thích với các quy định của Hiến pháp năm 2013, các đạo luật khác có liên quan, thể chế hóa các nghị quyết của Đảng.
- Đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế, công ước của ILO, với xu hướng phát triển của phong trào công nhân và công đoàn trên thế giới trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra với nhiều tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến nền kinh tế, doanh nghiệp và người lao động.
3.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề
-Phương án 1: Sửa đổi một số quy định của Luật Công đoàn để phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật, cụ thể như sau:
+ Sửa đổi Điều 1 về “Công đoàn” đảmbảo tương thích với Hiến pháp 2013.
Địa vị pháp lý của Công đoàn được quy định tại Điều 1 Luật Công đoàn 2012 như sau: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Điều 10 Hiến pháp 2013 quy định: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Do đó, dự thảo Luật dự kiến sẽ sửa đổi Điều 1 Công đoàn Việt Namtheo hướng bỏ cụm từ “là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam”, bổ sung rõ khái niệm “Công đoàn Việt Nam” và sắp xếp lại cụm từ “tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát”, cụ thể như sau:
“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệpvề những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
+Quy định quyền gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
Trong tương lai, khi Bộ luật Lao động 2019 chính thức có hiệu lực, sẽ có các tổ chức đại diện người lao động không do tổ chức Công đoàn Việt Nam vận động thành lập và nằm ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về “Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” xác định: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là tổ chức công đoàn trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.”
Trong bối cảnh đó, nhằm tăng cường vai trò và sức thu hút của tổ chức công đoàn với các tổ chức đại diện khác của người lao động và đảm bảo phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động 2019, Luật Công đoàn dự kiến bổ sung vấn đề gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, bao gồm quy định về quyền gia nhập, điều kiện, thủ tục xin gia nhập. Trong trường hợp được gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam, tổ chức đó sẽ trở thành tổ chức công đoàn cơ sở, hoạt động theo quy định của Luật Công đoàn, Điều lệ Công đoàn Việt Nam và các văn bản hướng dẫn của Tổng Liên đoàn(chi tiết xin xem tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn).
+Về các hành vi phân biệt, đối xử chống công đoàn
Bộ luật Lao động năm 2019 quy định cụ thể hơn các hành vi phân biệt đối xử, can thiệp thao túng chống công đoàn, đảm bảo tương thích với tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của ILO.Dự thảo Luật dự kiến sẽ sửa đổi bổ sung vấn đề này theo hướng: (1) Phân loại nhóm hành vi một cách rõ ràng theo các tiêu chí cụ thể; (2) Quy định chi tiết hơn các hành vi; (3) Bổ sung thêm việc cấm các hành vi phân biệt đối xử về giới, để đảm bảo vấn đề bình đẳng giới.
Hành vi không công bằng trong lao động chủ yếu là những hành vi phân biệt đối xử của người sử dụng lao động đối với cán bộ công đoàn, đoàn viên và người lao động vì những lý do công đoàn; và những hành vi thao túng, can thiệp vào tổ chức, hoạt động của công đoàn. Nó làm giảm hoặc triệt tiêu năng lực đại diện của công đoàn và gây ra sự e ngại, lo sợ đối với cán bộ công đoàn và người lao động muốn tổ chức và hoạt động công đoàn thực chất.
Hành vi không công bằng trong lao động có thể được tạo vỏ bọc hợp pháp, hoặc chưa được pháp luật quy định nên rất khó nhận diện và ứng phó. Trên thực tế các hành vi này có thể được chia thành 3 nhóm phổ biến đang diễn ra ở cơ sở như sau:
Nhóm (1): Nhóm hành vi cản trở thành lập, gia nhập công đoàn,biểu hiện: hứa hẹn, khuyến khích vật chất để người lao động không tham gia công đoàn; gây áp lực, đe dọa cắt phúc lợi nếu người lao động tham gia công đoàn; gây khó khăn, chống lại việc vận động người lao động gia nhập công đoàn.
Nhóm (2): Nhóm hành vi can thiệp vào công tác tổ chức, nhân sự, tài chính và hoạt động của công đoàn, biểu hiện: đưa ra “tuyên bố/quy định” một số đối tượng không được tham gia làm cán bộ công đoàn; đe dọa, o ép hoặc mặc cả “bổng lộc, chức vụ cao” nếu thôi làm cán bộ công đoàn; giữ con dấu, quản lý tài khoản, kiểm soát chi tài chính công đoàn; cản trở tổ chức đại hội, bầu lãnh đạo CĐCS, can thiệp việc bầu ban chấp hành CĐCS, o ép, đòi giải thể ban chấp hành và CĐCS.
Nhóm (3): Nhóm hành vi phân biệt đối xử, từ chối thương lượng hoặc thương lượng không thiện chí, biểu hiện: chấm dứt hợp đồng lao động ngay khi hết nhiệm kỳ công đoàn vì lý do công đoàn, không giao/bổ nhiệm lại chức vụ chuyên môn đối với cán bộ công đoàn; chuyển cán bộ công đoàn làm công việc khác, địa điểm làm việc khác nhằm gây khó khăn cho hoạt động công đoàn; tạo cớ, “trù úm”, tìm cách phê bình, kỷ luật, làm “mất mặt”, gây mất uy tín của tổ chức công đoàn và cán bộ công đoàn; đưa ra nhiều lý do không chính đáng để trì hoãn tiến hành thương lượng tập thể với công đoàn; dùng lợi ích vật chất (lương, thưởng, chức vụ, học tập, tham quan…) nhằm “mua chuộc” cán bộ công đoàn, hoặc cố tình “gây khó dễ, o ép” làm cán bộ công đoàn nản mà từ bỏ việc đại diện thương lượng, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Ba nhóm hành vi không công bằng phổ biến thường xảy ra tại cơ sở. Pháp luật Việt Nam đã quy định về mức xử phạt đối với các hành vi không công bằng trong lao động tại Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 và Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định cụ thể về mức xử phạt đối với các hành vi không công bằng trong lao động. Theo đó, các cá nhân hoặc tổ chức sẽ bị phạt từ 500.000 đồng đến 40.000.000 đồng khi có hành vi không công bằng trong lao động xảy ra tại cơ sở. Ngoài hình thức phạt tiền, pháp luật còn quy định các chủ thể có hành vi vi phạm phải khắc phục hậu quả gây ra. Công đoàn sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của người lao động nếu như các hành vi không công bằng bị phát hiện và xử lý kịp thời.
Hành vi không công bằng có thể xảy ra cả đối với người lao động trong quá trình phát triển đoàn viên, với cán bộ công đoàn đương chức và cả với ứng viên cán bộ công đoàn hoặc đã thôi chức vụ.
Thực tế thi hành Luật Công đoàn cho thấy, việc thao túng, phân biệt đối xử chống công đoàn diễn ra với nhiều hành vi đa dạng và tinh vi, ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả hoạt động công đoàn. Trong khi đó, những quy định tại Luật Công đoàn hiện hành còn mang tính khái quát, chưa phân loại một cách khoa học nên khó áp dụng trong thực tế.
Qua tổng kết thi hành Luật Công đoàn 2012, bên cạnh các hành vi có tính chất phân biệt đối xử, can thiệp thao túng, việc người sử dụng lao động không thực hiện nghĩa vụ đóng kinh phí công đoàn (chậm đóng, trốn đóng…) diễn ra phức tạp trong thực tiễn cũng cần được bổ sung vào hành vi bị nghiêm cấm.
Vì vậy, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung vấn đề này theo hướng: (1) Phân loại nhóm hành vi một cách rõ ràng theo các tiêu chí cụ thể; (2) Quy định chi tiết hơn các hành vi; (3) Bổ sung thêm việc cấm các hành vi phân biệt đối xử về giới, để đảm bảo vấn đề bình đẳng giới.
Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung cơ chế bảo vệ công đoàn trong Luật, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét để ban hành các văn bản hướng dẫn xử lý hành vi vi phạm quyền công đoàn để đảm bảo tính khả thi. Nội dung sửa đổi của chính sách này nhằm quy định cụ thể, rõ ràng hơn các hành vi can thiệp, thao túng, phân biệt đối xử chống công đoàn so với các quy định hiện hành
[9]. Chính sách này ít tác động đến kinh tế - xã hội, không làm phát sinh thủ tục hành chính, tác động về giới và đồng thời không có tác động đến hệ thống pháp luật hiện hành.
+ Về quyền, trách nhiệm của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
Điều 17, Luật Công đoàn 2012 quy định:“Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu”
Quy định này tương thích với khoản 3, Điều 188 Bộ luật Lao động 2012 về vai trò của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động
[10]”.
Thực hiện điều này, thời gian qua công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đã trực tiếp hỗ trợ, thực hiện quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong xây dựng thang lương, bảng lương, quy chế lương, thưởng, nội quy lao động ở các doanh nghiệp sử dụng trên 10 lao động, chưa có tổ chức công đoàn, góp phần vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đã thực hiện các hoạt động phúc lợi, chăm lo, bảo vệ người lao động tại những nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở (CĐCS) với số tiền 102 tỷ (chiếm 0,9% tổng chi).
Ở những nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở (CĐCS) hoặc có CĐCS nhưng chưa mạnh, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở (đặc biệt là công đoàn khu công nghiệp, khu chế xuất)đã thực hiện: (1) đại diệncho tập thể người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động bị xâm phạm (khi được ủy quyền); (2) đại diện người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động ủy quyền; (3)hỗ trợ bảo vệ quyền lợi người lao động tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động yêu cầu; (4) tham gia tố tụng trong vụ án lao động, hành chính, phá sản doanh nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động và người lao động.
Giai đoạn 2013 - 2018, công đoàn đã đại diện người lao động khởi kiện 1.828 vụ; hỗ trợ bảo vệ 9.418 vụ; bảo vệ quyền lợi cho hàng chục ngàn lao động tại 645 doanh nghiệp có chủ bỏ trốn hoặc phá sản, hỗ trợ giải quyết thanh toán hơn 69 tỷ đồng tiền lương, BHXH cho người lao động
[11], trong đó, đã phát huy được vai trò của công đoàn cấp trên cơ sở tại những nơi chưa có CĐCS (hoặc CĐCS chưa mạnh).
[12]
Bộ luật Lao động được ban hành với quy định cho phép sự ra đời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp (ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam), mở ra cơ hội tăng số doanh nghiệp có tổ chức đại diện người lao động. Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn của quan hệ lao động trong cơ chế thị trường cho thấy, số doanh nghiệp chưa có tổ chức đại diện người lao động vẫn tiếp tục còn nhiều, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, Công đoàn Việt Nam tiếp tục thực hiện quyền đại diện, chăm lo, bảo vệ cho người lao động nói chung theo Điều 10 Hiến pháp phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới, nên quy định này cần được sửa đổi theo hướng:“Ở cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, công đoàn cấp trên có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu, trừ các trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 63, Điều 65 Bộ luật Lao động”.
- Phương án 2: Giữ nguyên quy định hiện hành
3.4. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn
- Phương án 1
a) Tác động tích cực
+ Việc sửa đổi quy định về “Công đoàn” nhằm xác định rõ hơn, diễn đạt chuẩn mực hơn địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam; xác định rõ ràng hơn trách nhiệm của Công đoàn; đảm bảo phù hợp với Hiến pháp 2013 và xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng của Công đoàn Việt Nam.
+ Việc cho phép tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp gia nhập hệ thống Công đoàn Việt Nam giúp mở rộng diện bao phủ, tăng cường sức hút của Công đoàn trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động, khẳng định vai trò và vị trí của Công đoàn Việt Nam, phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động.
+ Việc quy định vai trò của Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với những nơi chưa có tổ chức đại diệnNLĐ mang lại các lợi ích sau: (1) đại diện bảo vệ người lao động khi chưa thành lập được Công đoàn cơ sở, thực hiện chức năng Hiến định của tổ chức chính trị - xã hội là đại diện, bảo vệ NLĐ nói chung, không chỉ riêng đoàn viên của tổ chức; (2) Tạo điều kiện để Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tiếp cận với người lao động và người sử dụng lao động ở doanh nghiệp để tuyên truyền vận động người lao động thành lập và hoạt động Công đoàn; (3) phát huy được sức mạnh thống nhất của hệ thống Công đoàn Việt Nam để bảo vệ, hỗ trợ người lao động trong bối cảnh có nhiều vụ việckhó khăn, phức tạpvượt quá khả năng giải quyết của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở. Việc Công đoàn cấp trên thực hiện quyền, trách nhiệm đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động ở doanh nghiệp chưa có tổ chức Công đoàn cơ sở hoặc tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp cũng chỉ mang tính quá độ, khi tổ chức Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp được thành lập, Công đoàn cấp trên sẽ chỉ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ Công đoàn cơ sở trong quan hệ lao động.
+Việc phân loại nhóm hành vi một cách rõ ràng theo các tiêu chí cụ thể và quy định chi tiết hơn các hành vi phân biệt đối xử và can thiệp, thao túng chống công đoàn sẽ góp phần khắc phục, hạn chế tình trạng chèn ép của người sử dụng lao động đối với người lao động, cán bộ công đoàn, công đoàn trong thực hiện các phần việc liên quan đến công đoàn. Đồng thời tạo điều kiện để người lao động, cán bộ công đoàn, tổ chức công đoàn có thể hoạt động công đoàn tốt hơn. Việc sửa đổi về hành vi phân biệt, đối xử chống công đoàn nhằm đảm bảo tính khoa học, chặt chẽ của kỹ thuật lập pháp, thuận lợi trong nhận diện vi phạm để xử lý và tương thích với quy định của Bộ luật Lao động 2019.
b) Tác động tiêu cực
+ Việc bổ sung quyền gia nhập của tổ chức đại diện người lao động vào hệ thống Công đoàn Việt Nam là nội dung đòi hỏi sự thận trọng, chặt chẽ, có mặt nhạy cảm, xuất hiện nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau; đặc biệt là những lo ngại liên quan đến an ninh, trật tự. Vì vậy, đòi hỏi các quy định của Tổng Liên đoàn phải hết sức chặt chẽ, khoa học.
+ Đến thời điểm hiện nay, do Bộ luật Lao động 2019 chưa có hiệu lực nên chưa thể dự báo tình hình thành lập và hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Sự ra đời của các tổ chức này và sự gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam là vấn đề chưa từng có tiền lệ, có thể gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với quan hệ lao động và hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phương án 2.
a) Tác động tích cực
Không tốn kinh phí sửa đổi, bổ sung pháp luật và chi phí thực hiện luật; duy trì sự ổn định của các quy định hiện hành.
b) Tác động tiêu cực
Không tạo ra sự đồng bộ của hệ thống pháp luật; Luật Công đoàn không tương thích với Hiến pháp và Bộ luật Lao động 2019.
3.5. Kiến nghị giải pháp lựa chọn
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề xuất theo Phương án 1
III. LẤY Ý KIẾN
Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động đối với các chính sách trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn được xây dựng, gửi kèm hồ sơ xin ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
IV. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
1. Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành Luật
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Công đoàn trong phạm vi cả nước.
- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về tổ chức đại diện khác của người lao động.
- Chính phủ phối hợp, thống nhất với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành các Nghị định hướng dẫn việc thực hiện các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
- Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong quản lý nhà nước về tổ chức đại diện của người lao động.
- Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công đoàn và tổ chức đại diện khác của người lao động trong phạm vi địa phương mình.
- Công đoàn các cấp là đối tượng điều chỉnh của Luật Công đoàn, có trách nhiệm tham mưu, đề xuất và triển khai thực hiện các quy định của pháp luật.
2. Giám sát, đánh giá việc thực hiện Luật
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cấp công đoàn chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật.
- Người có hành vi vi phạm các quy định của Luật này, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trên đây là Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn./.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (b/c);
- Ủy ban về các vấn đề xã hội của QH ;
- Ủy ban Pháp luật của QH;
- Văn phòng Chính phủ;
- Lưu: VT, Ban QHLĐ.
|
TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Trần Văn Thuật
|
[1] 17.3. Tổ chức, bộ máy và biên chế của cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam): Ở cấp Trung ương, giao Ban Tổ chức Trung ương quản lý; ở cấp tỉnh, cấp huyện, giao ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy quản lý, định kỳ báo cáo Ban Bí thư (qua Ban Tổ chức Trung ương)”.
[2] Nghị quyết số 20 – NQ/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị lần thứ VI BCH Trung ương Đảng khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước ghi rõ: “ Việc thu kinh phí công đoàn tại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn và của Chính phủ; sử dụng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, sinh hoạt văn hoá, thi đua, khen thưởng, phúc lợi xã hội và các hoạt động khác của công nhân tại chính doanh nghiệp đó”.
[3] Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” (Nghị quyết số 06).
[4]Khi thực hiện, đương nhiên cũng làm giảm một phần (không đáng kể) tiền thuế mà đơn vị sử dụng lao động nộp cho Nhà nước, làm tăng giá sản phẩm (rất nhỏ) hàng hóa, dịch vụ mà những đơn vị này đang cung cấp. Mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành sản xuất, hàng hóa, dịch vụ có cơ cấu giá thành khác nhau. Giả sử bình quân tiền lương chiếm 20% trong cơ cấu giá thành sản phẩm, khi chi phí tiền lương tăng 2% (do trích nộp kinh phí công đoàn) thì giá thành sản phẩm sẽ tăng khoảng 0,4%.
[5]Báo cáo chuyên đề đánh giá tác động bổ sung của quy định về tổ chức đại diện đối với an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
[6]Từ năm 2013 – 2019, thu kinh phí công đoàn khu vực HCSN là 20.196 tỷ đồng (32,14%); khu vực sản xuất kinh doanh là 41,471 tỷ đồng (66%); khu vực chưa có tổ chức công đoàn là 1163 tỷ đồng (1,86%).
[7]Trong hồ sơ đề nghị phê chuẩn Công ước 98, danh mục các Luật cần sửa đổi để đảm bảo tính tương thích với công ước không có Luật Công đoàn.
[8]Từ năm 2013 – 2019, thu kinh phí công đoàn khu vực chưa có tổ chức công đoàn là 1163 tỷ đồng (1,86%); chi 143 tỷ đồng (chiếm 12,3%)
[9](1) Đảm bảo sự đồng bộ với BLLĐ 2019 về các hành vi được coi là PBĐX, can thiệp thao túng chống công đoàn theo tinh thần Công ước 98; (2) Mở rộng hơn đối tượng được bảo vệ chống hành vi PBĐX, không chỉ đối với NLĐ làm việc theo HĐLĐ mà còn đối với NLĐ nói chung (bao gồm CC,VC,NLĐ); không chỉ đối với cán bộ công đoàn mà còn với cả tổ chức công đoàn ; (3) Mở rộng thêm hành vi và chủ thể thực hiện hành vi bị cấm, không chỉ là NSDLĐ trong QHLĐ mà còn gồm các tổ chức, cá nhân khác, cán bộ tổ chức đại diện NLĐ “Lợi dụng quyền công đoàn để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân”.
[10] Điều 188, khoản1 Bộ luật Lao động 2012: Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động; tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động; đối thoại, hợp tác với người sử dụng lao động xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức.
[11]Kết quả đã bảo vệ cho 11.583 NLĐ được nhận làm việc trở lại; số tiền NLĐ nhận được là 90,226 tỷ; 133.502 NLĐ được nâng lương; 382.637 NLĐ được đóng BHXH; 31.344 NLĐ được chi trả trợ cấp thôi việc.
[12]Tại những doanh nghiệp có chủ bỏ trốn hoặc phá sản, nhiều doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở hoặc đã có CĐCS nhưng khi chủ doanh nghiệp bỏ trốn thì CĐCS cũng không còn tồn tại.
Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công đoàn 2012
Cơ quan ban hành: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Ngày ban hành: 21/08/2020
Số hiệu:54/BC-TLĐ
Mô tả:
Tài liệu trình tại phiên họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
5-bc-tong-ket-thi-hanh-Luat-Cong-doan-2012.doc
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Số: 54/BC-TLĐ
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2020
|
BÁO CÁO
TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT CÔNG ĐOÀN 2012
Luật Công đoàn số 12/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.
Triển khai nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn; trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu các báo cáo tổng kết của các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổng kết, đánh giá thi hành Luật Công đoàn từ năm 2013 đến nay trên các phương diện chính, sau đây:
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Công đoàn.
- Tình hình thực hiện các quy định của Luật Công đoàn.
- Những đề xuất sửa đổi, bổ sung.
I. VIỆC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT CÔNG ĐOÀN
7 năm qua, nền kinh tế nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; một số quyền đại diện mới của tổ chức Công đoàn được xác lập, nhiều quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động được quan tâm và cụ thể hóa.
Luật Công đoàn 2012 là cơ sở pháp lý quan trọng cho Công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của đất nước; phát huy vai trò, tác dụng và ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống chính trị - xã hội. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ về tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Công đoàn trong tình hình mới. Luật Công đoàn 2012 được Quốc hội thông qua đã kịp thời thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được nêu ở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác triển khai thi hành Luật Công đoàn, đưa Luật Công đoàn vào cuộc sống là việc làm thường xuyên, liên tục, nên ngay sau khi Quốc hội ban hành Luật Công đoàn 2012, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 22/KH-TLĐ ngày 17 tháng 8 năm 2012 về việc triển khai thực hiện Luật Công đoàn trong các cấp Công đoàn Việt Nam.
Kế hoạch triển khai thực hiện Luật Công đoàn 2012 đã xác định rõ yêu cầu, trách nhiệm của các cấp công đoàn, cụ thể: (1) Tổ chức triển khai thực hiện Luật Công đoàn một cách thống nhất, đồng bộ và hiệu quả; (2) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động, người lao động và công đoàn về vị trí, vai trò và nội dung của Luật Công đoàn, qua đó góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; (3) Nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật về công đoàn.
Thực hiện Kế hoạch nêu trên của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn đã xây dựng, ban hành kế hoạch cụ thể để triển khai, thực hiện Luật Công đoàn 2012 tại cấp mình.
Các cấp Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn đồng cấp tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Công đoàn 2012 dưới nhiều hình thức, như: lồng ghép trong các cuộc họp giao ban, sinh hoạt công đoàn, các buổi tọa đàm, tổ chức hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật trong đoàn viên, người lao động… Các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn đã tổ chức trên 200.000 cuộc tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu những nội dung cơ bản, những điểm mới của Luật Công đoàn 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành
[1] cho đội ngũ báo cáo viên của Công đoàn, cán bộ công đoàn, đoàn viên công đoàn và người lao động. Hệ thống báo chí thuộc tổ chức Công đoàn như Báo Lao động, Báo Người lao động, Lao động Thủ đô, Lao động Nghệ An, Lao động Đồng Nai, các Trang thông tin điện tử, Truyền hình Lao động và Công đoàn... đã tích cực có các tin, bài, phóng sự nhằm tuyên truyền sâu rộng các nội dung liên quan của Luật Công đoàn 2012.
Từ những hoạt động trên đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức cũng như trong hành động của cán bộ công đoàn, đoàn viên và người lao động; xác định rõ trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Luật Công đoàn ở mỗi cấp công đoàn phù hợp với điều kiện cụ thể của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp.
Việc triển khai Luật Công đoàn 2012 cơ bản được các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chủ động thực hiện, từ đó tạo sự thuận lợi trong mối quan hệ công tác giữa công đoàn với chính quyền, chuyên môn đồng cấp để phối hợp thực hiện tốt chức năng, quyền, trách nhiệm của các bên theo quy định.
Có thể khẳng định, qua việc triển khai thi hành Luật Công đoàn 2012 của các cấp công đoàn đã góp phần làm cho công tác pháp luật của Công đoàn ngày càng được coi trọng và có hiệu quả thiết thực; vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, tư vấn pháp luật, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, việc tuyên truyền, phổ biến, thực hiện các quy định của Luật Công đoàn vẫn còn những tồn tại, hạn chế: Việc tuyên truyền, phổ biến Luật ở một số địa phương chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục và chủ yếu tập trung nhiều đối với cán bộ công đoàn, chưa chú trọng tuyên truyền sâu rộng trong công nhân lao động. Một bộ phận cán bộ, đoàn viên, cán bộ quản lý nhà nước hiểu và nhận thức về Luật Công đoàn còn ít, không nắm rõ nội dung Luật, thậm chí cho rằng việc thực hiện Luật Công đoàn và các văn bản hướng dẫn thi hành là trách nhiệm, là việc của riêng tổ chức Công đoàn. Ở một số nơi, việc thực hiện quyền đại diện của Công đoàn còn mang tính hình thức, chất lượng và hiệu quả của đại diện chưa cao, chưa phát huy và thể hiện tốt vai trò là tổ chức “duy nhất” đại diện cho đoàn viên công đoàn, người lao động. Việc chủ động, độc lập thực hiện quyền giám sát của Công đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Một bộ phận người sử dụng lao động chưa tuân thủ các quy định của Luật Công đoàn, chưa tạo điều kiện cho Công đoàn và cán bộ công đoàn hoạt động; chưa phối hợp chặt chẽ với Công đoàn trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, thương lượng, đối thoại tại nơi làm việc, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trích nộp kinh phí công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn 2012 và Nghị định số 191/2013/NĐ-CP
[2] của Chính phủ. Công tác thanh tra, xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về công đoàn chưa được thực hiện nghiêm minh.
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CÔNG ĐOÀN
1. Về địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam
Điều 1, Luật Công đoàn 2012 quy định về địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Đây là quy định đặc biệt quan trọng trong Luật Công đoàn, tạo cơ sở cho việc quy định cụ thể các quyền và trách nhiệm theo lĩnh vực hoạt động của Công đoàn tại các chương tiếp theo, tạo hành lang pháp lý cho Công đoàn thực hiện tốt các chức năng luật định. Về cơ bản, quy định trên đã tương thích và khá thống nhất với các quy định của Hiến pháp, đặc biệt là tương thích với quy tại Điều 9, Điều 10 Hiến pháp năm 2013.
Tuy nhiên, do quy định này được soạn thảo, ban hành trước khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, nên vẫn còn một số chỗ chưa hoàn toàn thống nhất với quy định của Hiến pháp. Trong quá trình triển khai thực hiện đã có nhiều ý kiến đề xuất sửa đổi theo hướng: cần làm mềm hóa, không nhất thiết phải quy định Công đoàn “là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”; đồng thời điều chỉnh về kỹ thuật pháp lý tại Điều 1 của Luật Công đoàn để tương thích với Hiến pháp năm 2013. Do đó, để phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế về tự do công đoàn và thuận lợi hơn trong quan hệ hợp tác của Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và tương thích, đồng bộ, thống nhất với Hiến pháp năm 2013 (Điều 10) đã có 58/83 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương đề xuất cần nghiên cứu, điều chỉnh lại Điều 1 của Luật Công đoàn 2012.
2. Việc xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp công tác
Điều 20, Luật Công đoàn 2012
[3] xác định:
“Quan hệ giữa Công đoàn với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là quan hệ hợp tác, phối hợp để thực hiện chức năng, quyền, trách nhiệm của các bên theo quy định của pháp luật,góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ”.
Thực hiện nội dung này, về cơ bản các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã hợp tác, phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả, tạo sự thuận lợi trong quan hệ giữa công đoàn với chính quyền, chuyên môn đồng cấp để thực hiện tốt chức năng, quyền, trách nhiệm của các bên theo quy định.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Chính phủ đã ký kết, thực hiện Quy chế phối hợp công tác. Các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố đã chủ động trong tham gia xây dựng và triển khai thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố với Liên đoàn Lao động tỉnh/thành phố. Định kỳ hàng năm đánh giá kết quả thực hiện và rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế cho phù hợp với tình hình thực tiễn của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn của địa phương.
Các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương đã chỉ đạo, hướng dẫn các cấp công đoàn trực thuộc chủ động phối hợp với chính quyền, chuyên môn đồng cấp xây dựng và triển khai thực hiện quy chế phối hợp công tác. Qua đó tạo điều kiện cho các cấp công đoàn thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động, có cơ sở tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cũng thực hiện tốt hơn quy định của pháp luật đối với người lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.
Nhìn chung, chất lượng của công tác phối hợp giữa Công đoàn với chuyên môn đồng cấp đã đảm bảo được các yêu cầu đặt ra; quán triệt theo nguyên tắc các bên bình đẳng, hợp tác, tôn trọng, tất cả hướng tới mục tiêu chung là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; vì lợi ích của đoàn viên công đoàn, người lao động; phát huy được vai trò của tổ chức Công đoàn trong tham gia quản lý nhà nước. Việc thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Công đoàn và chuyên môn đồng cấp đã tạo được sự thống nhất cao trong việc nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền, cùng với nhiệm vụ xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; tạo mối quan hệ gắn bó, mật thiết hơn giữa Công đoàn với chuyên môn.
Tuy nhiên, việc xây dựng, thực hiện quy chế phối hợp vẫn còn những khó khăn, bất cập, đó là:
- Nội dung phối hợp còn chung chung, mang tính hình thức, thậm chí khó thực hiện.
- Một số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp không xây dựng, ký kết quy chế phối hợp.
- Công tác phối hợp giữa chuyên môn với công đoàn ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả.
- Việc kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện quy chế phối hợp chưa được tiến hành thường xuyên.
- Một số nơi, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp còn xem nhẹ vai trò của công đoàn cơ sở, Chủ tịch công đoàn cơ sở… nên không muốn xây dựng quy chế phối hợp hoạt động với công đoàn đồng cấp. Cán bộ công đoàn đa phần là kiêm nhiệm, làm cho việc phối hợp gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động...
3. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn
Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn được quy định tại Điều 5 Luật Công đoàn 2012: “Người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.” và “Công đoàn được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ” (khoản 1, Điều 6 Luật Công đoàn). Các quy định về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn cơ bản rõ ràng, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện; quy định rõ chỉ có đối tượng “Người lao động là người Việt Nam” mớicó quyền tham gia vào tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Luật Công đoàn 2012 quy định mang tính nguyên tắc trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với tổ chức Công đoàn cơ bản là thuận lợi, tạo điều kiện cho người lao động thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn. Đa số doanh nghiệp đều có ý thức phối hợp và tạo điều kiện cho công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở; công tác cán bộ công đoàn cơ bản phù hợp để có điều kiện thực hiện chức năng đại diện cho người lao động.
Luật Công đoàn xác định rõ:
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong việc hợp tác, tạo điều kiện để người lao động tự nguyện thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
- Luật Công đoàn và Nghị định của Chính phủ
[4] cũng quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc cản trở thành lập và hoạt động công đoàn; phân biệt đối xử với người lao động, cán bộ công đoàn, can thiệp vào tổ chức và hoạt động công đoàn.
Trên cơ sở quy định của Luật Công đoàn 2012 về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, 7 năm qua, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động tiếp tục phát triển về số lượng; chất lượng cơ bản được nâng lên và có nhiều đóng góp trực tiếp, to lớn vào sự phát triển của đất nước.
Các cấp công đoàn đã tập trung triển khai thực hiện việc phát triển đoàn viên với nhiều giải pháp đa dạng và đạt kết quả quan trọng. Tính đến ngày 30/11/2019, cả nước có 126.669 công đoàn cơ sở, với 10.550.777 đoàn viên công đoàn.
Bên cạnh những thuận lợi, kết quả đã đạt được, việc thực hiện các quy định về thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn vẫn tồn tại hạn chế:
- Một bộ phận người sử dụng lao động có những hành vi, tác động cản trở người lao động thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn rất tinh vi, khó xác định như: thuyên chuyển công tác, làm mất uy tín cán bộ công đoàn…
- Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỉ lệ lớn, quy mô sản xuất nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân có số lao động ít nên việc thành lập và duy trì hoạt động gặp nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp không hợp tác, cản trở việc tuyên truyền, vận động thành lập công đoàn cơ sở, gây khó dễ cho cán bộ công đoàn trong quá trình tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật về công đoàn để phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở.
- Nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách thao túng người lao động, chỉ thành lập công đoàn cơ sở với 5 đoàn viên (trong khi doanh nghiệp có rất đông công nhân lao động) vì mục đích sử dụng con dấu công đoàn. Sau khi thành lập, công đoàn cơ sở không hoạt động, không tham gia các hoạt động của công đoàn cấp trên, người sử dụng lao động không đóng kinh phí công đoàn theo quy định.
- Điều 5 Luật Công đoàn 2012, quy định “Người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” mới có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn. Song thực tiễn cho thấy, hiện nay ở nước ta có khoảng trên 90.000 lao động là người nước ngoài đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tại các doanh nghiệp của Việt Nam. Trên thực tế, quan hệ giữa lao động là người nước ngoài với người sử dụng lao động ở một số nơi đã phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp và cần được Công đoàn đại diện, bảo vệ với tư cách là tổ chức chính thống của họ.
Bộ luật Lao động 2019 được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2019 với 435/453 (tỷ lệ 90,06%) đại biểu tán thành. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.
Bộ luật Lao động 2019 quy định cho phép người lao động là người nước ngoài được quyền gia nhập “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”, trong lúc đó, tổ chức này có quyền gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam. Quy định như vậy đã gián tiếp mở ra khả năng cho phép người lao động nước ngoài gia nhập vào tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05 tháng 11 năm 2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng xác định: “Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”.
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng về quyền công đoàn giữa lao động là người Việt Nam và lao động là người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; tăng cường vai trò và sức thu hút của tổ chức công đoàn với các tổ chức đại diện khác của người lao động, đảm bảo phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động 2019; cần đánh giá, nghiên cứu, xem xét sửa đổi Luật Công đoàn theo hướng: Bổ sung quyền gia nhập công đoàn của người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
4. Về các hành vi bị nghiêm cấm
Bảo vệ cán bộ công đoàn, chống các hành vi phân biệt, đối xử chống công đoàn đã, đang được quan tâm, nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động công đoàn. Điều 9 Luật Công đoàn 2012 đã đưa ra 4 nhóm hành vi phân biệt đối xử, bao gồm:
- Cản trở, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền công đoàn.
- Phân biệt đối xử hoặc có hành vi gây bất lợi đối với người lao động vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
- Sử dụng biện pháp kinh tế hoặc biện pháp khác gây bất lợi đối với tổ chức và hoạt động công đoàn.
- Lợi dụng quyền công đoàn để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
Thực tiễn thi hành Luật Công đoàn 2012 cho thấy, việc thao túng, phân biệt đối xử chống công đoàn vẫn diễn ra với nhiều hành vi đa dạng, tinh vi, ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả hoạt động công đoàn. Những quy định được Luật Công đoàn 2012 ghi nhận vẫn còn mang tính khái quát, chưa phân loại một cách khoa học, cụ thể nên khó áp dụng trong thực tế.
Thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn là quyền của người lao động được pháp luật thừa nhận. Song, quyền này có thực hiện được hay không thì cần phải có sự thiện chí từ cả hai phía (người lao động và người sử dụng lao động). Thực tế thời gian qua cho thấy, ở một số doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người sử dụng lao động không tạo điều kiện để người lao động thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn vì cho rằng, doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí tốn kém trong việc bảo đảm cơ sở vật chất cho Công đoàn hoạt động, trả lương cho cán bộ công đoàn trong thời gian nghỉ làm việc để hoạt động công đoàn… nên công tác vận động thành lập công đoàn còn gặp nhiều khó khăn.
Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định về các hành vi vi phạm trong lĩnh vực lao động (có liên quan đến công đoàn), cụ thể:
- Điều 24. Vi phạm quy định về đảm bảo thực hiện quyền công đoàn;
- Điều 24a. Vi phạm quy định về phân biệt đối xử vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn;
- Điều 24b. Vi phạm quy định về sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc các biện pháp khác gây bất lợi đối với tổ chức và hoạt động công đoàn;
- Điều 24c. Vi phạm quy định về đóng kinh phí công đoàn.
Mặc dù pháp luật đã có các quy định cụ thể để xử lý các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực công đoàn; tuy nhiên việc xử lý vi phạm đối với các hành vi này trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, Bộ luật Lao động 2019 đã quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động liên quan đến thành lập, gia nhập và hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở (trong đó có công đoàn cơ sở)
[5].
Để đảm bảo các quy định của Luật Công đoàn về các hành vi bị nghiêm cấm, đảm bảo tính tương thích với Bộ luật Lao động 2019, khắc phục những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn thi hành các quy định của Luật Công đoàn 2012 về vấn đề này, cần nghiên cứu để phân loại các nhóm hành vi, quy định chi tiết hơn các hành vi bị nghiêm cấm. Nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung các hành vi được xác định trong Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ vào Luật Công đoàn; đồng thời xem xét, bổ sung các quy định cấm về phân biệt đối xử về giới, về trốn đóng, chậm đóng kinh phí công đoàn, đóng kinh phí công đoàn không đầy đủ…
Việc phân loại nhóm hành vi một cách rõ ràng theo các tiêu chí cụ thể và quy định chi tiết hơn các hành vi phân biệt đối xử và can thiệp, thao túng chống công đoàn sẽ góp phần khắc phục, hạn chế tình trạng chèn ép của người sử dụng lao động đối với người lao động, cán bộ công đoàn, công đoàn trong thực hiện các phần việc liên quan đến công đoàn. Đồng thời, tạo điều kiện để người lao động, cán bộ công đoàn, tổ chức công đoàn có thể hoạt động công đoàn tốt hơn.
5. Hệ thống tổ chức, bộ máy và cán bộ công đoàn
Hệ thống tổ chức, bộ máy, thực hiện chính sách cán bộ công đoàn các cấp được thực hiện theo quy định của Đảng, của Luật Công đoàn và Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
Quy định số 282-QĐ/TW ngày 01 tháng 4 năm 2015 của Ban Bí thư Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện.
Quy định số 212-QĐ/TW ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Ban Bí thư Trung ương về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện. Theo đó, Ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu, giúp việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh phù hợp với tình hình, đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, theo nguyên tắc:
- Bảo đảm cho các tổ chức thực hiện được chức năng, nhiệm vụ theo Điều lệ của tổ chức đó và quy định của Đảng, Nhà nước có liên quan.
- Tối thiểu 5 người mới lập một đầu mối trực thuộc (gọi chung là ban); thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có thể nhiều hơn nhưng không quá 2 ban; tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Nghệ An không quá 1 ban so với quy định khung.
- Về biên chế: Số lượng cấp phó chuyên trách, biên chế của các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện do ban thường vụ cấp ủy cùng cấp xem xét, quyết định.
Quy định số 29-QĐ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng, quy định: Tổ chức, bộ máy và biên chế của cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cấp Trung ương, giao Ban Tổ chức Trung ương quản lý; ở cấp tỉnh, cấp huyện giao Ban tổ chức tỉnh, thành ủy quản lý, định kỳ báo cáo Ban Bí thư (qua Ban Tổ chức Trung ương).
Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn, đã xây dựng được một hệ thống tổ chức khá chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, tập hợp đông đảo đoàn viên trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đồng thời, từng bước phát triển đoàn viên trong lĩnh vực không chính thức dưới hình thức nghiệp đoàn.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức thống nhất, có 4 cấp cơ bản với hai hình thức tổ chức là theo ngành
[6] và theo đơn vị hành chính
[7].
5.1. Cấp Trung ương là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: Là đại diện cho công nhân lao động trong cả nước; có bộ máy giúp việc là cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với cơ cấu tổ chức gồm các ban chuyên trách, tham mưu giúp việc cho Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
5.2. Cấp tỉnh, thành phố: có 63 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố (theo đơn vị hành chính); 20 Công đoàn ngành Trung ương và tương đương (theo ngành và lĩnh vực).
5.2.1. Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố do Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành lập, giải thể và trực tiếp chỉ đạo các mặt công tác theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam. Nhiệm vụ của Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố được quy định tại Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Ở cấp tỉnh, thành phố có Đảng đoàn Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, các ủy viên do Ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh chỉ định. Đảng đoàn, Ban Chấp hành, Ban thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh ủy, thành ủy về công tác tổ chức, cán bộ, chịu trách nhiệm thực hiện nghị quyết của các cấp ủy đảng về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. Tỉnh ủy, thành ủy quyết định về số lượng cán bộ chuyên trách của cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; thực hiện quản lý và phân cấp quản lý cán bộ công đoàn chuyên trách; quyết định phân công nhiệm vụ, giới thiệu bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố.
Tổ chức, bộ máy của cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố (đến năm 2019) thực hiện theo Quy định số 282-QĐ/TW ngày 01 tháng 4 năm 2015 của Ban Bí thư Trung ương. Theo đó, tùy theo quy mô đoàn viên và công đoàn cơ sở có từ 5 đến 7 ban chuyên trách, tham mưu giúp việc.
Phân loại
|
Tiêu chí
|
Số ban nghiệp vụ
(Ban)
|
Số
biên chế
(Người)
|
Loại
đặc biệt
|
LĐLĐ thành phố Hà Nội,
LĐLĐ thành phố Hồ Chí Minh
|
07
|
60 - 68
|
Loại 1
|
Có từ 100.000 đoàn viên hoặc từ 1.800 công đoàn cơ sở trở lên. |
05 - 07
|
45 - 60
|
Loại 2
|
Có từ 50.000 đoàn viên đến dưới 100.000 đoàn viên hoặc từ 1.000 CĐCS đến dưới 1.800 CĐCS. |
04 - 06
|
25 - 45
|
Loại 3
|
Có dưới 50.000 đoàn viên và dưới 1.000 CĐCS. |
03 - 05
|
25
|
Thống kê 63 cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố có 446 ban; đang thực hiện tinh giản bộ máy, dự kiến còn 376 ban với tổng số biên chế cán bộ công đoàn chuyên trách là 1.953 người.
Đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ ở Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố đã cơ bản được thực hiện theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Công đoàn Việt Nam và đã thu được nhiều kết quả. Những năm qua, một số cấp ủy địa phương đã phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lựa chọn, đào tạo, bố trí được đội ngũ cán bộ công đoàn chủ chốt cấp tỉnh có chất lượng; đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. Nhiều cán bộ công đoàn có năng lực, phẩm chất, uy tín được đề bạt, bổ nhiệm, được giới thiệu để ứng cử các vị trí lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
Đội ngũ cán bộ công đoàn chuyên trách của cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó được tuyển dụng theo Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, tiếp nhận từ các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, một bộ phận cán bộ công đoàn được bổ sung từ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; nhìn chung đảm bảo về điều kiện, tiêu chuẩn, trong đó phần lớn có trình độ đại học trở lên, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, biên chế cán bộ công đoàn chuyên trách tại cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố do cấp ủy địa phương quyết định, không gắn với nguồn kinh phí chi trả tiền lương (cấp ủy quyết định số lượng biên chế, tổ chức công đoàn chi trả tiền lương từ nguồn tài chính công đoàn) phát sinh nhiều vấn đề bất cập trong quản lý và sử dụng biên chế. Cơ chế giao và thực hiện biên chế hiện nay chưa phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động công đoàn, bởi thành viên của tổ chức công đoàn là người lao động, gắn với cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp mà ít phụ thuộc vào quy mô dân số của từng địa phương như các tổ chức chính trị – xã hội khác. Vì vậy, đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu cơ chế điều tiết từ nơi thừa sang nơi thiếu, nhiều cấp ủy giao biên chế cho cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh ở mức tối thiểu, chưa đáp ứng đủ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. Trong điều kiện số lượng đoàn viên và công đoàn cơ sở tăng nhanh liên tục, nếu tất cả các địa phương đều giảm biên chế cán bộ công đoàn sẽ gây áp lực lớn đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của nhiều Liên đoàn Lao động địa phương, nhất là tại các địa phương có đông đoàn viên, công nhân lao động.
Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ công đoàn xảy ra ở nhiều nơi. Năng lực đội ngũ cán bộ công đoàn chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, tính chuyên nghiệp, trình độ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; còn có biểu hiện công chức hóa, hành chính hóa các hoạt động công đoàn; chưa coi trọng công đoàn là một nghề và phải được đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu kỹ năng và nghiệp vụ xây dựng, giải quyết những phát sinh trong quan hệ lao động diễn ra hàng ngày; phải được tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ hoạt động công đoàn, nắm chắc vai trò, nhiệm vụ của công đoàn về thương lượng tập thể, đối thoại tại nơi làm việc, giám sát việc thực hiện an toàn, vệ sinh lao động trong môi trường công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
Công tác quy hoạch cán bộ thực hiện chưa đồng bộ, chưa liên thông giữa các cấp công đoàn. Có nơi cán bộ công đoàn chỉ được đào tạo, rèn luyện, thử thách thực tiễn trong thời gian ngắn nên không giữ được cán bộ giỏi, có năng lực, tâm huyết với nghề. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với quy hoạch và sử dụng cán bộ, gây lãng phí nguồn lực. Đội ngũ cán bộ công đoàn làm nhiệm vụ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ chưa được quan tâm đầu tư xây dựng với yêu cầu, nhiệm vụ.
5.2.2. Công đoàn ngành Trung ương do Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành lập, giải thể và trực tiếp chỉ đạo các mặt công tác theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam; được tổ chức theo chuyên ngành hoặc đa ngành. Là đại diện của công nhân, viên chức, lao động thuộc các thành phần kinh tế có cùng ngành.
Hiện nay, cả nước có 20 Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn. Về biên chế, 18 Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn
[8] có 475 cán bộ công đoàn chuyên trách.
Tuy nhiên, tổ chức bộ máy và hoạt động của Công đoàn ngành Trung ương đang tồn tại nhiều vấn đề; trong khi sự ra đời của các Công đoàn ngành Trung ương là tất yếu, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu tập hợp người lao động cùng ngành, nghề trong một tổ chức, nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Mô hình tổ chức của Công đoàn ngành Trung ương chủ yếu theo bộ máy quản lý nhà nước, dẫn đến việc tham gia, chỉ đạo hoạt động mang tính chất ngành bị chia cắt; trong một công đoàn ngành nhưng có nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, thiếu tính chuyên sâu, dẫn đến bị động, phụ thuộc khi bộ máy quản lý nhà nước thay đổi. Mô hình phân cấp quản lý về công đoàn ngành hiện nay làm cho các công đoàn cơ sở cùng ngành khó khăn trong việc liên kết tạo sức mạnh tập thể của người lao động cùng ngành trong thương lượng tập thể ngành, đặc biệt là thương lượng về tiền lương.
Đoàn viên quản lý trực tiếp đang có xu hướng giảm nhanh, giảm sâu, do đối tượng tập hợp là công nhân lao động tại các doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh (phần lớn các doanh nghiệp nhà nước trung ương đang thực hiện tái cơ cấu, cổ phần hóa).
Tính chất ngành, nghề không rõ; hiện một công đoàn ngành đang quản lý đoàn viên công đoàn và công đoàn cơ sở thuộc nhiều ngành, nghề khác nhau, trong đó có cả đoàn viên là công chức thuộc cơ quan bộ. Ví dụ, Công đoàn Công thương Việt Nam có ngành cơ khí, dệt may, hàng gia dụng, rượu bia…
Sự phối hợp chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở giữa Công đoàn ngành Trung ương và Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố còn vướng mắc, bất cập.
Việc phối hợp giữa Công đoàn ngành Trung ương với cấp ủy để lãnh đạo, chỉ đạo công đoàn cơ sở còn hạn chế. Có cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn và Chủ tịch Công đoàn ngành.
Việc tiếp thu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các Công đoàn ngành quốc gia và quốc tế có những hạn chế nhất định do những khác biệt về thể chế.
5.2.3. Tỷ lệ lãnh đạo nữ trong lãnh đạo quản lý Liên đoàn Lao động cấp tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương (năm 2019): Chủ tịch có 17/83 đơn vị, Phó Chủ tịch có 73/208 người; Ủy viên Ban thường vụ có 310/940 người; Ủy viên Ban Chấp hành có 1.029/3.078 người. Hiện nay, vẫn còn 15 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương chưa có lãnh đạo nữ chủ chốt. Cấp tỉnh có 04 đại biểu Quốc hội là nữ lãnh đạo công đoàn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương).
Chất lượng lao động nữ công nhân viên chức lao động đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nhiều người được tín nhiệm và đề bạt giữ những chức vụ, vị trí chủ chốt trong các cơ quan đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Đội ngũ nữ trí thức, nữ khoa học được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, đóng góp quan trọng trong hoạch định chính sách, ứng dụng thực tiễn (từ 2006 đến 2016, tỷ lệ thạc sỹ tăng từ 30,5% lên 43%, nữ tiến sỹ tăng từ 17% lên 21%, nữ giáo sư tăng từ 5,1% lên 8,4%, nữ phó giáo sư từ 11,7% lên 26,3%). Đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, ngày càng khẳng định vai trò, khả năng trong lãnh đạo, quản lý (Báo cáo 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị).
Mặc dù công tác cán bộ nữ đã được quan tâm, song số cán bộ nữ giữ vị trí chủ chốt, có quyền ra quyết định tỷ lệ còn thấp so với mục tiêu bình đẳng giới. Do vậy, việc chủ động trong công tác tổ chức cán bộ của tổ chức công đoàn là việc làm cần thiết để thúc đẩy mục tiêu bình đẳng giới.
5.3. Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
Theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở bao gồm: Liên đoàn Lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Liên đoàn Lao động cấp huyện); Công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao (gọi chung là Công đoàn các khu công nghiệp); Công đoàn ngành địa phương; Công đoàn Tổng công ty và một số Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở khác.
Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở hiện có 1.310 đơn vị, trong đó: 711 Liên đoàn Lao động cấp huyện, đang quản lý 99.620 công đoàn cơ sở với 4,7 triệu đoàn viên công đoàn. 51 Công đoàn các khu công nghiệp thuộc 48 tỉnh, thành phố, quản lý 6.472 công đoàn cơ sở với trên 2,3 triệu đoàn viên. 279 Công đoàn ngành địa phương, chủ yếu là các ngành giáo dục, y tế, công thương, nông nghiệp, dệt may, giao thông vận tải, xây dựng, viên chức, trực tiếp quản lý 12.562 công đoàn cơ sở với trên 1,2 triệu đoàn viên. 270 Công đoàn Tổng công ty và công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở khác là công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở được tổ chức theo mô hình Tổng công ty nhà nước hoặc các cơ quan, ban, bộ, ngành ở Trung ương.Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn, gọi chung là công đoàn cơ sở được xác định là nền tảng của tổ chức công đoàn, có 4 hình thức: (1) Công đoàn cơ sở không có tổ công đoàn; (2) Công đoàn cơ sở có tổ công đoàn; (3) Công đoàn cơ sở có công đoàn bộ phận, tổ công đoàn; (4) Công đoàn cơ sở có công đoàn cơ sở thành viên, công đoàn bộ phận, tổ công đoàn.
Tuy nhiên, tổ chức bộ máy và biên chế của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở hiện nay còn nhiều bất cập; trong khi số lượng công đoàn cơ sở và đoàn viên phát triển nhanh chóng qua các năm, nhưng số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách từ nhiều năm không được tăng thêm. Đặc biệt, từ khi có Quy định số 282-QĐ/TW (chỉ quy định tối thiểu về biên chế đối với Liên đoàn Lao động cấp huyện), đa số cấp ủy địa phương chỉ giao biên chế tối thiểu (3 người/đơn vị cấp huyện, có nơi hiện tại chỉ có 2 biên chế). Việc không quy định tổ chức bộ máy và biên chế của cơ quan công đoàn khu công nghiệp, công đoàn ngành địa phương và các công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở khác trong Quy định này dẫn đến hầu hết các địa phương, cấp ủy không giao biên chế. Với mục tiêu đổi mới, xây dựng nền móng cơ sở vững chắc trong thời gian tới thì buộc phải tập trung mọi nguồn lực để công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có đủ điều kiện hỗ trợ công đoàn cơ sở hoạt động. Đây là một trong những bất cập lớn nhất hiện nay phải có giải pháp căn bản để khắc phục.
Đội ngũ cán bộ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, nhất là công đoàn cấp huyện, công đoàn ngành địa phương, công đoàn các khu công nghiệp đang thiếu về số lượng, hẫng hụt về nguồn cán bộ có kinh nghiệm thực tiễn từ phong trào công nhân và hoạt động công đoàn ở cơ sở. Một số cán bộ công đoàn cấp huyện chưa theo kịp yêu cầu phát triển của tổ chức công đoàn; thiếu năng động, sáng tạo và kinh nghiệm vận động quần chúng, lúng túng trong tổ chức và hoạt động công đoàn; một bộ phận có trình độ, năng lực nhưng suy giảm nhiệt tình trong công tác do cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn và chính sách thu hút chưa đảm bảo.
5.4. Cấp cơ sở:
Tính đến ngày 30 tháng 11 năm 2019, cả nước có 126.669 công đoàn cơ sở với trên 10.550.777 đoàn viên (trong đó đoàn viên nữ chiếm khoảng 56%).
Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn (từ 5 đoàn viên trở lên) được thành lập ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có sử dụng lao động hoạt động hợp pháp. Điều kiện, thủ tục thành lập, nhiệm vụ chung của công đoàn cơ sở được quy định từ Điều 13 đến Điều 16 Điều lệ Công đoàn Việt Nam; nhiệm vụ cụ thể của từng loại hình công đoàn cơ sở được quy định tại Hướng dẫn thi hành Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống tổ chức Công đoàn, là nơi đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, quy định của Công đoàn và của người sử dụng lao động đến đoàn viên công đoàn, người lao động. Tổ chức Công đoàn mạnh phải bắt nguồn từ công đoàn cơ sở vững, gắn bó chặt chẽ, mật thiết với người lao động.
Hoạt động của công đoàn cơ sở, đặc biệt là ở các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước được công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở hướng dẫn, hỗ trợ; tuy nhiên còn gặp rất nhiều khó khăn; nhiều nơi không nhận được sự hợp tác thiện chí của người sử dụng lao động.
Đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở hầu hết là kiêm nhiệm; hiện nay chỉ có 278/126.669 công đoàn cơ sở bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách (tỷ lệ 0,002%), với tổng số 368 người, chủ yếu ở các doanh nghiệp nhà nước hoặc công ty cổ phần có vốn nhà nước. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ công đoàn cấp cơ sở nhiệt tình, tâm huyết, được đoàn viên tín nhiệm, có ý thức trách nhiệm, có tinh thần đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Tuy nhiên, mô hình công đoàn cơ sở ở nhiều nơi còn tổ chức nhiều cơ cấu trung gian làm giảm đi đầu mối liên hệ trực tiếp giữa Ban Chấp hành công đoàn cơ sở với đoàn viên và người lao động, dẫn đến các hoạt động chưa sâu sát với nhu cầu của đoàn viên, người lao động. Nhiệm vụ của từng loại hình công đoàn cơ sở được quy định tại Điều lệ Công đoàn Việt Nam còn dàn trải, nhiều nội dung bao gồm cả nhiệm vụ chính trị và các mặt công tác công đoàn; trong khi hầu hết cán bộ công đoàn ở cấp cơ sở là không chuyên trách, thường xuyên biến động (từ 30 - 40%), thiếu các điều kiện thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là những nhiệm vụ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động, sự phát triển của đoàn viên công đoàn, người lao động.
Còn nhiều bất cập trong việc xác định mô hình tổ chức, triển khai hoạt động, thu đoàn phí, kinh phí công đoàn đối với công đoàn cơ sở thuộc các tập đoàn, tổng công ty của các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước đóng trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố.
Hầu hết đội ngũ cán bộ công đoàn hoạt động kiêm nhiệm nên có ít thời gian dành cho hoạt động công đoàn; vị thế trong quan hệ lao động chưa bình đẳng, cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn còn nhiều bất cập, đặc biệt đội ngũ Chủ tịch công đoàn cơ sở thay đổi thường xuyên qua mỗi kỳ đại hội nên việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng… gặp nhiều khó khăn; chưa có chính sách thu hút người lao động có tâm huyết, có năng lực làm cán bộ công đoàn chuyên trách ở cơ sở.
Luật Công đoàn là một đạo luật về tổ chức và hoạt động. Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam, một chủ thể, thiết chế hiến định được ghi nhận tại Điều 10 Hiến pháp năm 2013. Sau Luật Công đoàn, không có luật nào khác quy định về tổ chức và hoạt động của công đoàn. Tuy nhiên, hiện nay, cơ cấu và hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam chủ yếu được quy định trong Điều lệ Công đoàn Việt Nam, mà không được quy định cụ thể tại Luật Công đoàn
[9]. Điều này có ảnh hưởng tới tính chính danh và hiệu quả hoạt động của Công đoàn; do đó cần được xem xét, nghiên cứu để bổ sung khi sửa đổi Luật Công đoàn.
6. Về nguyên tắc tổ chức và công tác cán bộ
Điều 6, Luật Công đoàn 2012 quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn như sau:
“1.Công đoàn được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn nêu trên đã tuân thủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và phù hợp với thực tiễn của thể chế chính trị - xã hội của Việt Nam. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn đã tạo điều kiện để tổ chức Công đoàn phát huy dân chủ, huy động sức mạnh tập thể, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong thời gian qua.
Đa số cán bộ chuyên trách công đoàn nhiệt tình, tâm huyết, trách nhiệm, gắn bó với tổ chức công đoàn, đoàn viên và người lao động. Một số cán bộ chuyên trách công đoàn được đề bạt đảm nhận chức vụ cao hơn trong hệ thống chính trị. Nhiều cán bộ chuyên trách công đoàn, nhất là ở công đoàn cơ sở khu vực ngoài nhà nước đã thể hiện bản lĩnh, sáng tạo trong hoạt động, được sự tín nhiệm cao của đoàn viên.
Công tác cán bộ công đoàn cơ bản đảm bảo được nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, bố trí sử dụng, quản lý, khen thưởng kỷ luật và thực hiện chế độ, chính sách cán bộ đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Nhân sự đưa vào quy hoạch, luân chuyển điều động, bầu cử, bổ nhiệm… đều đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Đảng và của tổ chức công đoàn. Từ năm 2013 - 2018, có 63/63 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố hoàn thành việc sắp xếp lại 631 công đoàn giáo dục cấp huyện, 83 công đoàn ngành địa phương có dưới 2.000 đoàn viên. Tập trung triển khai xây dựng Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức trong hệ thống công đoàn, làm cơ sở nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức trong hệ thống Công đoàn Việt Nam thời gian tới.
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện cho thấy việc quản lý, phân bổ, bố trí biên chế cán bộ công đoàn theo các quy định hiện nay của Đảng và các quy định pháp luật đã bộc lộ một số điểm chưa phù hợp, cụ thể:
Thứ nhất, cơ chế cấp ủy địa phương giao biên chế cho tổ chức Công đoàn địa phương trong gói biên chế được cấp trên giao cho khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội dẫn đến sự không đồng bộ về biên chế trong cùng một cấp công đoàn. Ví dụ, hai địa phương có điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội giống nhau nhưng do hai cấp ủy khác nhau quyết định giao biên chế nên số lượng biên chế cán bộ công đoàn của hai địa phương có thể khác nhau. Hoặc căn cứ để Trung ương giao biên chế cho các địa phương hiện nay chủ yếu căn cứ vào số dân và số lượng đảng viên trên địa bàn, trong khi số lượng cán bộ công đoàn được bố trí cần dựa vào số cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trên địa bàn và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thực tế cho thấy, không phải địa bàn có đông dân cư và nhiều đảng viên thì đương nhiên có nhiều công nhân, viên chức, lao động. Ví dụ, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An có số dân và đảng viên nhiều hơn tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai, nhưng số lượng công nhân, lao động lại ít hơn nhiều. Bên cạnh đó, việc phân bổ biên chế không đồng bộ với việc đảm bảo nguồn tài chính; tình trạng không điều tiết được từ nơi thừa sang nơi thiếu trong phạm vi cả nước cũng như trong phạm vi của tỉnh, thành phố… cũng là vấn đề bất cập trong quản lý biên chế cán bộ công đoàn hiện nay.
Thứ hai, các quy định về cán bộ công đoàn còn chưa rõ ràng, chưa phân biệt rõ giữa cán bộ công đoàn là công chức trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp với cán bộ công đoàn chuyên trách trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Trên thực tế hiện nay, ngoài số lượng cán bộ công đoàn đang làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp được xác định là công chức theo Luật Cán bộ công chức… thì có một số lượng không nhỏ cán bộ công đoàn đang làm việc chuyên trách trong các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Các đối tượng này hiện nay chưa được định danh rõ ràng nên việc tuyển dụng, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ có nhiều khó khăn, vướng mắc. Trường hợp xác định cán bộ công đoàn chuyên trách trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập là công chức như những cán bộ công đoàn làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp thì rất khó khăn vì các quy định về quản lý biên chế, quản lý cán bộ theo pháp luật về cán bộ công chức hết sức chặt chẽ trong khi môi trường doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập hết sức năng động, linh hoạt và ngày càng tăng thêm theo sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ công đoàn trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để phù hợp với thông lệ quốc tế, ngoài các quy định về tổ chức và cán bộ của Công đoàn được quy định trong các văn bản của Đảng, Điều lệ của Công đoàn, đòi hỏi phải được luật hóa, đưa vào nội dung đề xuất sửa đổi Luật Công đoàn những vấn đề có tính nguyên tắc, định hướng.
Để tăng cường tính chủ động và đảm bảo sự độc lập cho tổ chức Công đoàn trong hoạt động theo thông lệ, đồng thời tương thích với các Công ước quốc tế, theo đề xuất các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương cần nghiên cứu, sửa đổi nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn trong Luật Công đoàn theo hướng đảm bảo tính tập trung, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở như một số ngành đang thực hiện, như: Tòa án, Viện kiểm sát, Bảo hiểm xã hội...
7. Về quyền của tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
Điều 17, Luật Công đoàn 2012 quy định về quyền, trách nhiệm của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với người lao động ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, như sau: “Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu”.
Quy định này tương thích với khoản 3, Điều 188 Bộ luật Lao động 2012 về vai trò của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động: “Ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như quy định tại khoản 1 Điều này”.
Qua hơn 7 năm thi hành Luật Công đoàn 2012 cho thấy, thời gian qua công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đã trực tiếp hỗ trợ, thực hiện quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong xây dựng thang lương, bảng lương, quy chế lương, thưởng, nội quy lao động ở các doanh nghiệp sử dụng trên 10 lao động, chưa có tổ chức công đoàn, góp phần vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Ở những nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở hoặc có công đoàn cơ sở nhưng chưa mạnh, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở (đặc biệt là công đoàn khu công nghiệp, khu chế xuất) đã thực hiện: (1) Đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động bị xâm phạm (khi được ủy quyền); (2) Đại diện người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động ủy quyền; (3) Hỗ trợ bảo vệ quyền lợi người lao động tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động yêu cầu; (4) Tham gia tố tụng trong vụ án lao động, hành chính, phá sản doanh nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động và người lao động.
Giai đoạn 2013 - 2018, công đoàn đã đại diện người lao động khởi kiện 1.828 vụ; hỗ trợ bảo vệ 9.418 vụ, trong đó, đã phát huy được vai trò của công đoàn cấp trên cơ sở tại những nơi chưa có công đoàn cơ sở (hoặc công đoàn cơ sở chưa mạnh).
[10] Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đã thực hiện các hoạt động chăm lo, hỗ trợ, phúc lợi cho người lao động tại những nơi chưa có công đoàn cơ sở với số tiền 102 tỷ (chiếm 0,9% tổng chi). Bảo vệ quyền lợi cho hàng chục nghìn lao động tại 645 doanh nghiệp có chủ bỏ trốn hoặc phá sản, hỗ trợ giải quyết thanh toán hơn 69 tỷ đồng tiền lương, bảo hiểm xã hội cho người lao động
[11].
Cả về lý luận và thực tiễn của quan hệ lao động trong cơ chế thị trường cho thấy, không có bất cứ quốc gia nào mà tất cả số doanh nghiệp đều được bao phủ bởi tổ chức công đoàn cơ sở. Ở Việt Nam số doanh nghiệp chưa có tổ chức đại diện người lao động vẫn tiếp tục còn nhiều, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, Công đoàn Việt Nam thực hiện quyền đại diện, bảo vệ cho người lao động góp phần vào việc bảo vệ tối đa quyền công đoàn cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đáp ứng các tiêu chuẩn và cam kết quốc tế, Bộ luật Lao động 2019 được ban hành với quy định cho phép sự ra đời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp (ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam), mở ra cơ hội tăng số doanh nghiệp có tổ chức đại diện người lao động. Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn của quan hệ lao động trong cơ chế thị trường cho thấy, số doanh nghiệp chưa có tổ chức đại diện người lao động vẫn tiếp tục còn nhiều, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, Công đoàn Việt Nam tiếp tục thực hiện quyền đại diện, chăm lo, bảo vệ cho người lao động nói chung theo Điều 10 Hiến pháp phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới. Do vậy, việc công đoàn cấp trên có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ người lao động ở những nơi chưa thành lập được công đoàn cơ sở cần được tiếp tục nghiên cứu, xem xét song cần nhấn mạnh việc công đoàn cấp trên có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi “được người lao động ở đó yêu cầu”.
8. Quyền đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động
Việc thực hiện quyền đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động luôn được các cấp công đoàn quan tâm. Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động; tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động. Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có trách nhiệm hỗ trợ công đoàn cơ sở thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như trách nhiệm của công đoàn cơ sở.
Các quy định của Luật Công đoàn về quyền đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động đã đem lại những kết quả tích cực, nổi bật như:
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm đại diện trong nghiên cứu, đề xuất, tham gia có hiệu quả trong Hội đồng tiền lương quốc gia, góp phần đề xuất điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng tăng trên 66%
[12] (giai đoạn 2014 - 2020), cải thiện đời sống đoàn viên, người lao động, thu hẹp khoảng cách giữa tiền lương tối thiểu và mức sống tối thiểu.
Các cấp công đoàn đã hướng dẫn, tư vấn cho đoàn viên, người lao động về quyền, nghĩa vụ của người lao động khi giao kết và thực hiện hợp đồng lao động; đại diện cho tập thể người lao động thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể với nhiều nội dung có lợi hơn so với quy định của Luật và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể tại doanh nghiệp. Tính đến tháng 9/2018, các cấp công đoàn đã đã ký kết được 27.866 bản thỏa ước lao động tập thể, tăng 5% so với năm 2013.
Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở đã tham gia với người sử dụng lao động xây dựng và giám sát việc thực hiện thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động; định kỳ tổ chức đối thoại với người sử dụng lao động để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động.
Công tác tham gia xây dựng và thực hiện dân chủ ở nơi làm việc được các cấp công đoàn quan tâm, triển khai thực hiện. Bình quân hàng năm có 98% cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị cán bộ, công chức và 55% doanh nghiệp có tổ chức công đoàn tổ chức hội nghị người lao động. Các cấp công đoàn có nhiều nỗ lực trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đối thoại tại nơi làm việc. Từ hơn 9.000 cuộc đối thoại định kỳ, hơn 400 cuộc đối thoại đột xuất năm 2014 đã tăng lên 30.641 cuộc đối thoại định kỳ, hơn 3.101 cuộc đối thoại đột xuất vào năm 2017. Thông qua đối thoại, nhiều vấn đề vướng mắc, bức xúc của người lao động được giải quyết kịp thời; nhiều khó khăn của doanh nghiệp được người lao động chia sẻ; vai trò của tổ chức công đoàn được thể hiện rõ nét hơn.
Thực hiện quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, người lao động tại Tòa án theo quy định của pháp luật, Tổng Liên đoàn đã tập trung triển khai hướng dẫn các cấp Công đoàn khởi kiện, tham gia tố tụng dân sự giải quyết các vụ án tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể; cụ thể hóa ký kết chương trình phối hợp công tác với Tòa án nhân dân tối cao và Bảo hiểm xã hội Việt Nam; tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật.
Công đoàn tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong việc cùng với các cấp, các ngành thực hiện Kết luận của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp.
Nhiều nơi Công đoàn đã chủ động, tuyên truyền để người lao động hiểu, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, hăng hái phát huy sáng kiến, sáng tạo, thi đua lao động sản xuất; cử cán bộ bám sát cơ sở, lắng nghe tam tư, nguyện vọng của đoàn viên, người lao động, thông tin kịp thời diễn biến phát sinh ở cơ sở, tích cực phối hợp với người sử dụng lao động, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ổn định tư tưởng, giải quyết kiến nghị, bức xúc trong công nhân lao động, nhất là ở những doanh nghiệp gặp khó khăn, chủ bỏ trốn, doanh nghiệp phá sản, giải thể, ngừng hoạt động... Khi xảy ra ngừng việc tập thể, các cấp công đoàn có vai trò quan trọng góp phần nhanh chóng ổn định tình hình quan hệ lao động.
Hoạt động tham gia đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ, cải thiện điều kiện và môi trường làm việc cho đoàn viên, người lao động được các cấp công đoàn thường xuyên thực hiện. Các cấp Công đoàn đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền về công tác an toàn vệ sinh lao động với nhiều hình thức phong phú, đa dạng đến người sử dụng lao động, người lao động, cán bộ công đoàn, an toàn vệ sinh viên... qua đó nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong việc bảo đảm an toàn vệ sinh lao động. Phong trào quần chúng làm công tác an toàn vệ sinh lao động ngày càng được chú trọng, đặc biệt là phong trào “Xanh - Sạch - Đẹp, Bảo đảm an toàn vệ sinh lao động” tiếp tục được duy trì với nhiều công trình, sáng kiến, đề tài liên quan đến an toàn vệ sinh lao động, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện môi trường và điều kiện lao động, cảnh quan nhà máy, công sở, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động cho người lao động.
Hoạt động chăm lo của tổ chức Công đoàn đã có sự chuyển biến mạnh về chất, hình thành nhiều chương trình với mục tiêu hướng tới sự thiết thực và hiệu quả vì người lao động. Hoạt động trợ vốn tự tạo việc làm cho người lao động tiếp tục phát triển mạnh. Chương trình “Tết Sum vầy” được nhân rộng, có sức lan tỏa lớn. Các hoạt động xã hội chăm lo đoàn viên, người lao động khó khăn, bệnh hiểm nghèo... nhận được sự quan tâm, ủng hộ của đông đảo đoàn viên, người lao động. Các hoạt động chăm lo cho trẻ em, nữ công nhân, lao động có hoàn cảnh khó khăn được duy trì thường xuyên. Đặc biệt, “Tháng công nhân” hàng năm được tổ chức ngày càng thiết thực, hiệu quả, được người sử dụng lao động, người lao động khu vực ngoài nhà nước tích cực tham gia.
Phong trào thi đua yêu nước trong đoàn viên, người lao động, trọng tâm là thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo” đã có những thay đổi quan trọng, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đất nước. Phong trào thi đua liên kết trên công trường trọng điểm quốc gia đạt kết quả nhiều mặt. Một số Công đoàn ngành, Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố đã xây dựng các giải thưởng dành cho người lao động tiêu biểu, tạo thành động lực lớn để phát triển phong trào thi đua yêu nước.
Những thay đổi trên, kết hợp với việc đổi mới công tác đánh giá kết quả hoạt động nên chất lượng hoạt động công đoàn cơ sở sát thực hơn.
Đánh giá về quy định này, có 58/83 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương đã đề xuất: Cần phải quy định cụ thể về các nhóm hành vi phân biệt đối xử, chống công đoàn trong Luật Công đoàn nhằm khắc phục tình trạng quy định khái quát như Luật hiện hành, góp phần đảm bảo cơ chế bảo vệ công đoàn được thực thi hiệu quả.
9. Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội
Quyền tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của tổ chức công đoàn được quy định cụ thể tại Điều 11 Luật Công đoàn. Về cơ bản quyền tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của tổ chức công đoàn được các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, người sử dụng lao động tôn trọng và được thực hiện ở các cấp công đoàn. Nội dung, hình thức tham gia chủ yếu được thực hiện thông qua việc tham gia xây dựng chính sách pháp luật, nội quy, quy chế, các chương trình, kế hoạch, chỉ tiêu phát triển sản xuất, kinh doanh tại cơ quan, doanh nghiệp; công đoàn tham gia trong việc tổ chức, cải tiến lề lối làm việc và thủ tục hành chính nhằn nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, cải thiện điều kiện làm việc, xây dựng môi trường làm việc thân thiện. Tham gia các hội đồng có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn viên, người lao động…
Qua đánh giá của các cấp công đoàn, về cơ bản, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của tổ chức công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn hiện hành là phù hợp.
10. Quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, các cấp công đoàn luôn quan tâm, chú trọng phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động, đặc biệt là đối với người lao động trong các doanh nghiệp, nhằm kịp thời phát hiện, kiến nghị giải quyết những hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực hiện.
Từ năm 2013 - 2019, Ủy ban Kiểm tra công đoàn các cấp đã tổ chức thực hiện 472.839 cuộc kiểm tra, trong đó có 269.260 cuộc kiểm tra cùng cấp, 203.579 cuộc kiểm tra cấp dưới. Thông qua hoạt động kiểm tra đã cho thấy, việc thành lập công đoàn, quyền gia nhập công đoàn của người lao động cơ bản được thực hiện theo quy định của pháp luật. Các cấp công đoàn đã tổ chức thực hiện 435.406 cuộc kiểm tra, giám sát tài chính công đoàn, trong đó có 276.907 cuộc kiểm tra cùng cấp, 158.499 cuộc kiểm tra cấp dưới; kiến nghị thu nộp bổ sung về tài chính công đoàn 452,78 tỷ đồng.
Các cấp công đoàn đã tiếp 41.479 lượt cán bộ, đoàn viên, người lao động; tiếp nhận 28.153 đơn khiếu nại, đơn tố cáo
[13]. Có 21.648 đơn khiếu nại, đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan nhà nước và người sử dụng lao động. Nội dung đơn tập trung vào các vấn đề, như: người sử dụng lao động vi phạm hợp đồng lao động, tiền lương, tiền thưởng, vi phạm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… Công đoàn các cấp đã chủ động, phối hợp tham gia giải quyết; tổ chức các buổi làm việc để thương lượng, hòa giải, đối thoại, kiến nghị giải quyết và giám sát việc giải quyết của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 5 năm qua, các cấp Công đoàn Việt Nam đã chủ động giải quyết 5.301 đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; phối hợp tham gia với các cơ quan nhà nước, người sử dụng lao động giải quyết 16.910 đơn khiếu nại, tố cáo; đại diện, bảo vệ cho 5.302 người lao động được trở lại làm việc; 1.206 người được hạ mức kỷ luật, 40.487 người được hưởng các quyền lợi khác với số tiền được hỗ trợ bồi thường 40,5 tỷ đồng. Nhiều vụ việc phức tạp, khó giải quyết đã được công đoàn kiến nghị, đôn đốc giải quyết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên và người lao động.
Hoạt động tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cấp công đoàn đã được thực hiện tích cực, phát hiện nhiều hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật, đề xuất nhiều giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, xử lý vi phạm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; đồng thời trực tiếp thông tin, hướng dẫn, giải đáp về pháp luật cho cơ quan, đơn vị; góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, người lao động, nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động, công đoàn.
Việc thực hiện quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát đã tích cực góp phần thực hiện tốt công tác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động, các cấp Công đoàn đã nắm chắc hơn tình hình thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước; quy chế dân chủ cơ sở, nắm thực tế đời sống, lao động, việc làm; việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động, từ đó kịp thời kiến nghị, hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động có biện pháp thực hiện ngày càng tốt hơn các quy định của và Nhà nước. Việc thực hiện quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát đã góp phần nâng cao chất lượng thực thi các quy pháp luật của doanh nghiệp, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.
Về cơ bản, quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp theo quy định của Luật Công đoàn 2012 là phù hợp. Tuy nhiên, cần nghiên cứu, xem xét để quy định trong Luật Công đoàn các quy định chi tiết về quyền độc lập giám sát của Công đoàn đối với việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và của người lao động để phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng
[14].
11. Việc thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với công đoàn
Luật Công đoàn 2012 đã xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hỗ trợ, tạo điều kiện cho Công đoàn thực hiện chức năng, quyền, trách nhiệm theo quy định của pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lao động, công đoàn và quy định khác của pháp luật có liên quan đến tổ chức công đoàn, quyền, nghĩa vụ của người lao động; thanh tra, kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về công đoàn; phối hợp với Công đoàn chăm lo và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã lấy ý kiến của Công đoàn khi xây dựng chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến tổ chức công đoàn, quyền, nghĩa vụ của người lao động; phối hợp và tạo điều kiện để Công đoàn tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Các quy định của pháp luật hiện hành về thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với tổ chức công đoàn cơ bản phù hợp với tình hình hoạt động của công đoàn hiện nay.
12. Những bảo đảm hoạt động của công đoàn
- Bảo vệ cán bộ công đoàn về việc làm: Cán bộ công đoàn không chuyên trách được gia hạn hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc theo nhiệm kỳ tham gia Ban chấp hành công đoàn cơ sở; đơn vị sử dụng lao động không được tự ý chấm dứt hợp đồng hoặc thuyên chuyển công tác cán bộ công đoàn không chuyên trách nếu không có sự thoả thuận của công đoàn.
- Bảo đảm về tổ chức, cán bộ: Biên chế đối với công đoàn cấp trên cơ sở, cụ thể là cấp huyện, ngành như hiện nay là quá ít, cần xem xét để tăng cường cho phù hợp; không nên so sánh tổ chức công đoàn với các đoàn thể khác, khi vai trò lịch sử trong điều kiện hiện nay của tổ chức công đoàn khác nhiều so với đoàn thể khác như: quan hệ lao động ngày càng phức tạp, yêu cầu hội nhập càng cao, các yếu tố cạnh tranh về tổ chức khi hội nhập quốc tế và vấn đề kinh phí hoạt động.
- Bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn: Khoản 2, Điều 24 Luật Công đoàn 2012 quy định: “Cán bộ công đoàn không chuyên trách được sử dụng 24 giờ làm việc trong một tháng đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch công đoàn cơ sở; 12 giờ làm việc trong 01 tháng đối với Ủy viên Ban chấp hành, Tổ trưởng, Tổ phó tổ công đoàn để làm công tác công đoàn và được đơn vị sử dụng lao động trả lương. Tuỳ theo quy mô cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà Ban Chấp hành công đoàn cơ sở và đơn vị sử dụng lao động thoả thuận về thời gian tăng thêm”.
Những bảo đảm điều kiện hoạt động cho công đoàn, trong đó bảo đảm thời gian cho cán bộ công đoàn không chuyên trách theo Luật Công đoàn 2012 đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ công đoàn thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn trong thời gian qua.
Tuy nhiên, Bộ luật Lao động 2019 (Điều 176) quy định về bảo đảm thời gian cho thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đã có sự thay đổi. Theo đó “thời gian tối thiểu mà người sử dụng lao động dành cho toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở để thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đại diện trên cơ sở số lượng thành viên của tổ chức” sẽ do Chính phủ quy định. Do đó cần nghiên cứu để sửa đổi quy định của Luật Công đoàn 2012 về vấn đề này, đảm bảo tính tương thích, đồng bộ với Bộ luật Lao động 2019.
13. Về tài chính công đoàn
Vấn đề tài chính công đoàn được quy định cụ thể từ Điều 24 đến Điều 29 Luật Công đoàn 2012. Theo đó, tài chính công đoàn quy định các điều kiện đảm bảo cho tổ chức công đoàn hoạt động, điều kiện đảm bảo cho cán bộ công đoàn, nguồn thu chi tài chính công đoàn, quản lý tài chính, tài sản công đoàn, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn.
- Về công tác xây dựng, ban hành và triển khai văn bản từ khi có Luật công đoàn 2012
Căn cứ Luật Công đoàn năm 2012 và Nghị định 191/2013/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực Tổng Liên đoàn đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định, hướng dẫn để các cấp Công đoàn thực hiện công tác tài chính theo quy định pháp luật hiện hành. Đến nay, các văn bản quy định cơ bản đã đồng bộ, tạo hành lang pháp lý cho công tác tài chính công đoàn từ đó giúp cho công tác tham mưu, công tác thu, chi, quản lý tài chính tài sản công đoàn đảm bảo hiệu quả. Các văn bản đã đảm bảo tính cập nhật kịp thời, phù hợp với các quy định của Nhà nước.
Để thực hiện đồng bộ công tác tài chính công đoàn, đảm bảo hoạt động tài chính công đoàn hiệu quả, hiệu lực, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã trình Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xây dựng, ban hành Nghị quyết 07b/NQ-TLĐ ngày 21 tháng 01 năm 2016 về công tác tài chính công đoàn trong tình hình mới. Nghị quyết đã chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý tài chính công đoàn, đồng thời chỉ ra những thách thức, cơ hội của tổ chức công đoàn, từ đó đề ra định hướng, giải pháp cho hoạt động tài chính công đoàn. Một trong những giải pháp đó là từng bước đồng bộ hóa các quy định tài chính của tổ chức công đoàn, đảm bảo tính đặc thù của tổ chức nhưng không trái quy định của pháp luật để hoạt động tài chính luôn được công khai, minh bạch, hiệu quả; tạo nguồn lực đủ mạnh cho hoạt động công đoàn.
Đến nay, hệ thống văn bản về tài chính công đoàn đã cơ bản tạo hành lang pháp lý cho công tác thu tài chính công đoàn, phân cấp thu, phân phối nguồn tài chính cho các cấp công đoàn, các nội dung chi cho hoạt động công đoàn…
Khi có Luật Công đoàn năm 2012, công tác thu tài chính công đoàn có tính pháp lý cao hơn trong quá trình thực hiện. Luật Công đoàn cũng đã nêu rõ 12 nội dung chi của tổ chức công đoàn, là kim chỉ nam trong đảm bảo hoạt động của tổ chức công đoàn, thực hiện sử dụng nguồn thu thiết thực hiệu quả.
Đối tượng đóng kinh phí công đoàn 2% rộng hơn. Luật Công đoàn năm 2012, Nghị định số 191/2013/NĐ-CP của Chính phủ, các quy định về tài chính của tổ chức Công đoàn Việt Nam đã quy định rõ nguồn thu của công đoàn. Theo đó, đối tượng đóng kinh phí công đoàn 2% không phân biệt doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đơn vị chưa có tổ chức công đoàn.
- Về thu tài chính công đoàn
Tổng thu trong 7 năm (từ năm 2013 đến năm 2019) là 100.354 tỷ đồng, trong đó đoàn phí công đoàn là 25.245 tỷ đồng, chiếm 25,1% tổng số thu; kinh phí công đoàn là 62.829 tỷ đồng, chiếm 62,6% tổng số thu; ngân sách nhà nước hỗ trợ 332 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng số thu; các khoản thu khác là 11.947 tỷ đồng chiếm 11,9% tổng số thu.
Thu tài chính công đoàn cơ bản hoàn thành kế hoạch, trung bình mỗi năm tăng 12%. Tổng thu tài chính công đoàn năm 2019 so với năm 2012 tăng 2,3 lần, trong đó thu kinh phí công đoàn tăng 2,57 lần, đoàn phí công đoàn tăng 2,26 lần, thu khác tăng 1,24 lần. Kết quả này có được là do, (1) Quỹ tiền lương làm căn cứ đóng đoàn phí và kinh phí công đoàn tăng (do lương cơ sở, lương tối thiểu vùng, số lao động tại các cơ quan đơn vị tăng dần qua các năm), (2) Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đổi mới công tác thu tài chính công đoàn như: Giao dự toán kịp thời, đúng quy định; phối hợp cùng Bảo hiểm xã hội Việt Nam lập dự toán thu cho các đơn vị theo số liệu lao động và quỹ lương đóng bảo hiểm xã hội từ đó làm căn cứ xây dựng dự toán số thu kinh phí công đoàn và đoàn phí công đoàn; phối hợp với các cơ quan chức năng như cơ quan Thuế, Tòa án, Thanh tra,... để đôn đốc thu kinh phí công đoàn... Những giải pháp mới đã tạo chuyển biến quan trọng về thu tài chính công đoàn.
Việc thu kinh phí công đoàn 2% khu vực sản xuất kinh doanh: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã triển khai thu tập trung qua một tài khoản của tổ chức Công đoàn. Sau 3 năm triển khai thu kinh phí công đoàn khu vực sản xuất kinh doanh qua tài khoản Công đoàn Việt Nam, đã thu được kết quả bước đầu, quan trọng. Việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại giúp cho công tác thu và phân phối nguồn thu được minh bạch, kịp thời. Doanh nghiệp nhận thấy sự ưu việt, minh bạch của phương thức này do đó ngày càng nhiều doanh nghiệp tham gia tạo sự thuận lợi trong quản lý kinh phí công đoàn của các cấp công đoàn.
Số thất thu kinh phí công đoàn đã giảm dần từng năm, trước đây theo kết luận của Kiểm toán Nhà nước, số thất thu kinh phí công đoàn là gần 20%, đến nay số thất thu chỉ còn khoảng dưới 10% bình quân toàn quốc. Tuy nhiên, tình trạng thất thu kinh phí công đoàn vẫn xảy ra, đặc biệt là tại các doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do ý thức của người sử dụng lao động muốn tránh né việc đóng kinh phí công đoàn. Hiện nay Tổng Liên đoàn đang thực hiện thu kinh phí công đoàn theo quỹ lương của Bảo hiểm xã hội. Trong khi chế tài xử lý trốn đóng, gian lận bảo hiểm xã hội được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì chế tài xử lý vi phạm quy định về đóng kinh phí công đoàn được cụ thể hoá tại khoản c, Điều 24
Nghị định số 88/2015/NĐ-CP bằng hình thức xử phạt hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu đồng. Do vậy, chế tài để xử phạt khi doanh nghiệp trốn đóng kinh phí công đoàn 2% chưa đủ mạnh để doanh nghiệp thực hiện nghiêm pháp luật. Việc chủ doanh nghiệp trốn đóng kinh phí công đoàn 2% ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo vệ, chăm lo, phúc lợi cho đoàn viên, người lao động do công đoàn cơ sở không có nguồn kinh phí để thực hiện các chức năng của mình. Do đó, cần nghiên cứu, đánh giá để bổ sung trong quy định của Điều cấm tại Luật Công đoàn các hành vi về trốn đóng, chậm đóng kinh phí công đoàn, đóng kinh phí công đoàn không đầy đủ…
- Về chi tài chính công đoàn
Từ năm 2013 đến năm 2019 tổng số chi tại các cấp công đoàn là 76.985 tỷ đồng. Trong đó, số chi tập trung nhiều nhất tại cấp công đoàn cơ sở 56.331 tỷ đồng, chiếm 73,2 % tổng chi; số chi tại cấp quận, huyện là 11.372 tỷ đồng, chiếm 14,8% tổng chi; số chi tại cấp tỉnh, ngành 8.395 tỷ đồng, chiếm 10,9% tổng chi; số chi tại cấp Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam 576 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng chi; đơn vị sự nghiệp là 308 tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng chi, số chi chủ yếu cho đầu tư từ nguồn thu khác tại đơn vị và nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước. Như vậy sau khi có Luật Công đoàn 2012, Công đoàn Việt Nam đã điều chỉnh giảm tỷ trọng chi tại các cấp trên để tập trung nguồn kinh phí cho cấp công đoàn cơ sở sử dụng nhằm mục tiêu chi chăm lo, bảo vệ lợi ích cho đoàn viên, người lao động.
Nội dung chi tại các cấp công đoàn trong giai đoạn 2013-2019 như sau:
Tại cấp công đoàn cơ sở, cơ bản chi chăm lo và bảo vệ quyền lợi cho người lao động với tỷ trọng chi là 81,5%; chi lương, phụ cấp chiếm 13,1%; chi quản lý hành chính chỉ chiếm 5,2%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn TSCĐ chiếm tỉ trọng rất nhỏ, chỉ 0,2%.
Tại cấp quận huyện, chi cho hoạt động chiếm 44,7%; chi lương, phụ cấp chiếm 34,4%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn tài sản cố định 4,1%; chi quản lý hành chính 15,9%; chi hoạt động tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở 0,9%.
Tại cấp tỉnh ngành, chi cho hoạt động chiếm 34.6%; chi lương, phụ cấp chiếm 28,6%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn tài sản cố định 19,8%; chi quản lý hành chính 16,5%; chi hoạt động tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở 0,5%.
Tại cấp Tổng Liên đoàn, chi cho hoạt động chiếm 36,3%; chi lương, phụ cấp chiếm 30,1%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn tài sản cố định 13,3%; chi quản lý hành chính 20,3%.
Tại đơn vị sự nghiệp chi cho hoạt động chiếm 17,6%; chi lương, phụ cấp chiếm 33,9%; chi đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa lớn tìa sản cố định 39,8%; chi quản lý hành chính 8,7%; không có chi hoạt động tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở.
Về đầu tư xây dựng cơ bản, giai đoạn 2013 - 2019, tổng nguồn vốn đầu tư là 2.368 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư xây dựng tại các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế khoảng hơn 1.268 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước; chi đầu tư xây dựng tại công đoàn cấp trên khoảng 1.100 tỷ đồng từ tài chính công đoàn tích lũy. Nội dung chi hoạt động tại các công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở trở lên cũng chủ yếu là cho các hoạt động chăm lo, bảo vệ đoàn viên và người lao động tại công đoàn cơ sở.
Tại các doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, người lao động vẫn được sự quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền lợi của người lao động tại các cấp công đoàn và được quy định cụ thể tại Điều 17, Quyết định số 1911/QĐ-TLĐ ngày 19 tháng 12 năm 2016 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các công đoàn cấp trên cơ sở căn cứ số kinh phí công đoàn được sử dụng thu từ nơi chưa có tổ chức công đoàn, xây dựng định mức chi do để chi chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động. Số chi chưa hết theo dõi trên tài khoản tạm giữ, ngay khi đơn vị thành lập công đoàn cơ sở thì cấp trả toàn bộ số kinh phí tạm giữ cho công đoàn cơ sở. Từ năm 2013 đến năm 2019, tổng số chi tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở là 143 tỷ đồng. Số còn lại chưa chi tại nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở sẽ được công đoàn cấp trên trả lại cho công đoàn cơ sở khi được thành lập.
Mức chi bình quân trong năm 2012 cho một đoàn viên là 870.000 đồng/năm, người lao động 667.000 đồng/năm. Mức chi bình quân trong năm 2019 cho một đoàn viên là 1.200.000 đồng/năm, người lao động là 1.017.000 đồng/năm. Trong đó, mức chi cho đoàn viên cao hơn người lao động là do một số mục chi tại công đoàn cơ sở người lao động không được hưởng mà chỉ dành cho đoàn viên như chi quà sinh nhật, việc hỉ…
Để tạo cơ sở vật chất cho tổ chức công đoàn nâng cao hiệu quả trong việc chăm lo đoàn viên và người lao động một cách thiết thực, đặc biệt là đoàn viên và người lao động yếu thế tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã được Chính phủ phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng thiết chế công đoàn tại khu công nghiệp, khu chế xuất tại Quyết định số 655/QĐ-TTg ngày 12 tháng 5 năm 2017. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 9c/NQ-BCH ngày 18 tháng 10 năm 2016 về điều chỉnh giảm tỉ trọng chi hành chính, hoạt động phong trào tại các cấp công đoàn để tạo nguồn kinh phí cho đầu tư xây dựng các thiết chế của công đoàn tại các Khu công nghiệp, Khu chế xuất. Tuy nhiên, năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn đã quyết định dừng việc thực hiện Nghị quyết 9c/NQ-BCH từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, riêng công đoàn cơ sở khu vực sản xuất kinh doanh dừng việc thực hiện Nghị quyết nêu trên từ 01 tháng 01 năm 2020.
Đánh giá về nguồn thu kinh phí công đoàn 2%: Thực tiễn tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam nhiều thập kỷ qua cho thấy nguồn thu kinh phí công đoàn cùng với các nguồn thu khác là cơ sở quan trọng để tổ chức Công đoàn xây dựng được nguồn lực đủ mạnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Đảng giao phó, góp phần nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động, giảm gánh nặng cho Nhà nước trong bối cảnh nguồn lực của Nhà nước còn hạn chế, chăm lo tốt hơn cho người lao động, tạo sự gắn kết lâu dài giữa người lao động với tổ chức công đoàn và doanh nghiệp.
Xét về bản chất và mục đích chi: Trong phân phối các nội dung chi theo quy định, nguồn kinh phí công đoàn cơ bản dành cho phúc lợi, chăm lo, bảo vệ, đào tạo đoàn viên và người lao động (chiếm 84,14% trong tổng chi hoạt động tại 4 cấp)
[15]. Thực chất nguồn thu - chi kinh phí công đoàn thể hiện rõ bản chất tốt đẹp và sự ưu việt của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chăm lo phúc lợi và an sinh cho người lao động thông qua tổ chức Công đoàn - cầu nối giữa Đảng với người lao động (đặc biệt là ở những doanh nghiệp FDI sử dụng đông lao động nhưng nhiều nơi chưa có tổ chức cơ sở đảng). Chăm lo tốt cho người lao động thông qua tổ chức công đoàn cũng chính là hướng tới chăm lo, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Điều này cũng phù hợp với lịch sử nhiều thập kỷ qua, nguồn thu kinh phí công đoàn xuất phát chủ yếu ở các nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay, với thể chế chính trị tương đồng Việt Nam, Luật Công đoàn Trung Quốc cũng quy định nguồn thu 2% kinh phí công đoàn. Ở Nga, khi thay đổi thể chế chính trị và Đảng cầm quyền thì nguồn kinh phí này cũng không còn.
Đối với công đoàn cơ sở, phần kinh phí này giữ vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo nguồn tài chính để công đoàn cơ sở hoạt động, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động.
Đối với doanh nghiệp: Kết quả sản xuất kinh doanh có phần đóng góp quan trọng của người lao động, ngoài chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội thì việc đóng kinh phí công đoàn để chăm lo cho người lao động cũng là một cách để phát huy vai trò và trách nhiệm xã hội của người sử dụng lao động trong việc phối hợp cùng tổ chức Công đoàn chăm lo cho người lao động, nguồn tài sản vốn quý nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp. Kinh phí công đoàn chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi phí của doanh nghiệp (khoảng 0,2% đối với doanh nghiệp gia công, 0,14% đối với doanh nghiệp khác). Nhưng việc sử dụng mang lại lợi ích cho cả người sử dụng lao động và người lao động, góp phần tạo lập quan hệ lao động hài hòa, ổn định, người lao động được chăm lo tốt hơn, yên tâm làm việc. Thực tế nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp FDI đã giao việc chăm lo người lao động cho công đoàn. Ngoài kinh phí công đoàn, doanh nghiệp còn đầu tư kinh phí từ các quỹ để công đoàn thực hiện nhiệm vụ.
Trong thời gian 7 năm qua, với cách thức thu – chi và phân bổ tài chính ngày càng khoa học, công khai, minh bạch, hướng về cơ sở, Công đoàn Việt Nam đã có một nguồn lực cần thiết để đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, thu hút ngày càng đông đảo người lao động tham gia công đoàn, góp phần quan trọng xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, đóng góp trực tiếp vào các thành tựu kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Trong bối cảnh cần phải tiếp tục “tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương số 06-NQ/TW
[16] thì việc tiếp tục bảo đảm nguồn thu kinh phí công đoàn 2% là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, nhiều năm qua, việc nắm bắt và hiểu đúng cách thức thu, tỷ lệ phân chia tài chính công đoàn giữa các cấp công đoàn chưa tạo được sự lan tỏa rộng khắp, chưa nhận được sự đồng thuận cao, khiến cho có một số ý kiến cho rằng kinh phí 2% chỉ nhằm để phục vụ cho công đoàn cấp trên cơ sở trở lên, hoặc để “trả lương”, “nuôi” bộ máy tổ chức công đoàn, có người hoài nghi về mục đích sử dụng nguồn kinh phí này. Để tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa sự công khai, minh bạch trong việc sử dụng kinh phí công đoàn, đoàn phí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn cần bổ sung quy định về trích kinh phí cho các cấp công đoàn theo tỷ lệ phù hợp, theo hướng công đoàn cấp trên phục vụ công đoàn cấp dưới, công đoàn cơ sở phục vụ đoàn viên công đoàn, người lao động. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định về công tác kiểm tra, giám sát, đảm bảo công khai minh bạch trong quản lý, sử dụng tài chính công đoàn.
Mặt khác, việc thu, chi, sử dụng kinh phí công đoàn như hiện nay chỉ phù hợp trong điều kiện Việt Nam có duy nhất một hệ thống công đoàn (Công đoàn Việt Nam). Bộ luật Lao động 2019 đã cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam. Theo đó, ở doanh nghiệp, bên cạnh công đoàn cơ sở thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam còn có thể có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp mà quyền và trách nhiệm của tổ chức này trong quan hệ lao động được đảm bảo bình đẳng với tổ chức công đoàn. Do đó, vấn đề chia sẻ nguồn kinh phí công đoàn với tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp cũng cần được xem xét, nghiên cứu trong lần sửa đổi Luật Công đoàn này.
Ngoài ra, thực tiễn thời gian qua cho thấy, cùng với chính sách giảm thuế và tạm dừng đóng quỹ bảo hiểm xã hội, vấn đề giảm mức đóng kinh phí công đoàn đối với doanh nghiệp gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19 đã được đặt ra nhằm hỗ trợ doanh nghiệp duy trì hoạt động trong bối cảnh dịch bệnh. Nhưng do Luật Công đoàn 2012 không quy định vấn đề này nên việc miễn, giảm kinh phí công đoàn không thể triển khai trong thực tiễn.
Việc quy định miễn, giảm kinh phí công đoàn cùng với các chính sách miễn giảm thuế khi doanh nghiệp gặp khó khăn sẽ làm giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp duy trì sự tồn tại, giảm số doanh nghiệp bị “đào thải” khỏi thị trường, bảo vệ việc làm cho người lao động. Từ đó, tăng khả năng tích tụ nguồn vốn nhằm sử dụng cho mục đích tái đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Đây cũng chính là giải pháp tổ chức Công đoàn Việt Nam chia sẻ khó khăn, đồng hành cùng doanh nghiệp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Đồng thời, việc giảm kinh phí công đoàn cũng gián tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn chân chính, thực hiện đúng hơn các quy định pháp luật của Nhà nước, hạn chế các hoạt động trốn đóng, lách đóng kinh phí công đoàn, thuế… Do vậy, cần xem xét bổ sung quy định về miễn, giảm kinh phí công đoàn khi doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh trong sửa đổi Luật lần này.
III. NHỮNG ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
Qua hơn 7 năm thực hiện, Luật Công đoàn 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phát huy hiệu lực, hiệu quả và đi vào thực tiễn cuộc sống một cách tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, nhằm:
- Giải quyết các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành, cũng như các vấn đề mới phát sinh mà Luật Công đoàn 2012 chưa điều chỉnh.
- Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương, nghị quyết của Đảng về tổ chức Công đoàn, tạo cơ sở cho sự đổi mới và nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý chung về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn trước đòi hỏi của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
- Đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Để đáp ứng được các mục tiêu nêu trên; cần đánh giá, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn theo hướng:
(1) Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến tổ chức bộ máy Công đoàn nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
(2) Sửa đổi vấn đề tài chính công đoàn.
(3) Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm đảm bảo sự thống nhất với hệ thống pháp luật, đặc biệt là Bộ luật Lao động 2019.
Trên đây là Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công đoàn 2012, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trân trọng báo cáo./.
Nơi nhận:
- Uỷ ban về các VĐXH của QH (b/c);
- Ủy ban pháp luật của QH (b/c);
- Thường trực ĐCT TLĐ;
- BST, TBT DA Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của LCĐ;
- Lưu: VT, Ban QHLĐ.
|
TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Trần Văn Thuật
|
[1] - Nghị định số 43/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Điều 10 của Luật công đoàn về quyền, trách nhiệm của công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động;
- Nghị định số 191/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết về tài chính công đoàn;
- Nghị định số 200/2013/NĐ-CP ngày 26/11/2013 quy định chi tiết Điều 11 Luật Công đoàn về quyền, trách nhiệm của công đoàn trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội;
- Thông tư số 14/2014/TT-BQP ngày 15/04/2014 của Bộ Quốc phòng quy định thực hiện quyền, trách nhiệm của công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân viên chức, lao động quốc phòng và tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong Quân đội;
- Thông tư số 24/2015/TT-BCA ngày 22/05/2015 của Bộ Công an quy định về quyền, trách nhiệm của công đoàn trong đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, lao động hợp đồng và tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong Công an nhân dân;
- Thông tư 08/2016/TT-BGDĐT ngày 28/03/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chế độ giảm định mức giờ dạy cho giáo viên, giảng viên làm công tác công đoàn không chuyên trách trong các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
[2] Nghị định số 191/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết về tài chính công đoàn.
[3] Quan hệ giữa Công đoàn với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
[4] Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
[5] Điều 175 Bộ luật Lao động 2019: Các hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động liên quan đến thành lập, gia nhập và hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
[6] Tập hợp công nhân lao động, đoàn viên công đoàn, các tổ chức công đoàn có cùng ngành hoặc lĩnh vực.
[7] Tổ chức theo địa giới hành chính, lãnh thể là tập hợp các tổ chức công đoàn, có các ngành nghề khác nhau, có cùng quyền lợi, nghĩa vụ gắn với nhau trong một địa giới hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện) hoặc nằm trong các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
[8] Không bao gồm Công đoàn Quốc phòng và Công đoàn Công an nhân dân.
[9] Điều 7, Luật Công đoàn 2012 quy định: “Hệ thống tổ chức công đoàn gồm có Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam”.
[10] Kết quả đã bảo vệ cho 11.583 người lao động được nhận làm việc trở lại; số tiền người lao động nhận được là 90,226 tỷ đồng; 133.502 người lao động được nâng lương; 382.637 người lao động được đóng bảo hiểm xã hội; 31.344 người lao động được chi trả trợ cấp thôi việc. Tại những doanh nghiệp có chủ bỏ trốn hoặc phá sản, nhiều doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở hoặc đã có công đoàn cơ sở nhưng khi chủ doanh nghiệp bỏ trốn thì công đoàn cơ sở cũng không còn tồn tại.
[11] Tại những doanh nghiệp có chủ bỏ trốn hoặc phá sản, nhiều doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở hoặc đã có công đoàn cơ sở nhưng khi chủ doanh nghiệp bỏ trốn thì công đoàn cơ sở cũng không còn tồn tại.
[12] Năm 2014 tăng 15,2%, tương tự, năm 2015 là 14,2; năm 2016 là 12,4; năm 2017 là 7,3; năm 2018 là 6,5 ; năm 2019 là 5,3%; năm 2020 là 5,5%.
[13] Trong đó có 25.956 đơn khiếu nại, 2.197 đơn tố cáo.
[15] Nghị quyết số 20 – NQ/TW ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước ghi rõ: “Việc thu kinh phí công đoàn tại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn và của Chính phủ; sử dụng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, sinh hoạt văn hoá, thi đua, khen thưởng, phúc lợi xã hội và các hoạt động khác của công nhân tại chính doanh nghiệp đó”.
[16] Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” (Nghị quyết số 06).
Báo cáo về Tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến đóng góp về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Cơ quan ban hành: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Ngày ban hành: 26/08/2020
Số hiệu:57/BC-TLĐ
Mô tả:
Tài liệu trình tại phiên họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
3-Tong-hop-yk-gop-y-ve-dt-Luat-CD--sd-(1).docx
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG
VIỆT NAM
Số: 57/BC-TLĐ
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2020
|
BÁO CÁO
Tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến đóng góp về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Thực hiện Nghị quyết số 106/2020/QH14 ngày 10/6/2020 của Quốc hội về chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2020, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã hoàn thiện hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn gửi lấy ý kiến Chính phủ, các Bộ, ngành và các đơn vị, tổ chức có liên quan.
Tổng Liên đoàn tổng hợp và tiếp thu, giải trình ý kiến đóng góp về hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, cụ thể như sau:
I. TỔNG SỐ Ý KIẾN NHẬN ĐƯỢC
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã nhận được 06văn bản đóng góp ý kiến của Chính phủ, các Bộ: Nội vụ, Ngoại giao, Tư pháp, Tài chính, Lao động – Thương binh và Xã hội về hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
II. NỘI DUNG GÓP Ý CỤ THỂ
STT
|
Vấn đề
góp ý
|
Nội dung góp ý
|
Cơ quan
góp ý
|
Tiếp thu/
Không tiếp thu
|
Giải trình
|
I
|
VỀ HỒ SƠ DỰ ÁN LUẬT
|
1
|
Về hoàn thiện hồ sơ dự án Luật
|
1. Bổ sung báo cáo đánh giá về sự đồng bộ, thống nhất giữa Luật Công đoàn năm 2012 và dự thảo Luật sửa đổi với hệ thống pháp luật, đặc biệt là BLLĐ 2019; Báo cáo đánh giá về sự tương thích của dự thảo Luật sửa đổi với các tiêu chuẩn, cam kết quốc tế về lao động của Việt Nam.
2. Bổ sung, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật theo hướng phân tích, giải trình, thuyết minh cụ thể thêm các phương án sửa đổi.
|
Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh & XH, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao
Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh &XH
|
Tiếp thu ý kiến
Tiếp thu ý kiến
|
1. TLĐLĐVN sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật.
2. TLĐLĐVN sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật.
|
2
|
Về tên gọi của chính sách
|
1. Đề nghị giải trình rõ về lý do đề xuất việc thay đổi tên chính sách trong hồ sơ dự án Luật so với hồ sơ đề nghị xây dựng Luật [1]
2. Chính sách 3: “Hoàn thiện các quy định của pháp luật công đoàn để phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật, nhất là Bộ luật Lao động năm 2019”, không phải là một chính sách mà đây là một nguyên tắc vì vậy đề nghị tách chính sách 3 thành các nội dung chính sách cụ thể.
|
Chính phủ, Bộ Tư pháp
Bộ Lao động – Thương binh & XH
|
Tiếp thu ý kiến để giải trình
Đề nghị giữ như dự thảo
|
1. Hồ sơ dự án Luật và hồ sơ đề xuất đang có sự khác nhau trong xác định tên chính sách. Vấn đề này xuất phát từ lý do: (1)Trong giai đoạn xây dựng hồ sơ đề nghị, với yêu cầu rà soát toàn diện, một số chính sách được thiết kế với tầm bao quát khá rộng (VD: chính sách 1, chính sách 2). Tuy nhiên, trong quá trình lấy ý kiến các cơ quan có liên quan và hoàn thiện hồ sơ, Tổng Liên đoàn nhận thấy việc xác định tên một số chính sách còn bất cập. Một số chính sách chưa phù hợp, rộng hơn so với nội hàm của chính sách (CS1); (2) Qua rà soát chính sách, một số nội dung nên để ở Điều lệ để đảm bảo tính linh hoạt của tổ chức Công đoàn (CS1); (3) Một số chính sách thực chất là những nội dung cơ bản để đảm bảo sự phù hợp giữa Luật Công đoàn với Hiến pháp và Bộ luật Lao động 2019 (CS4, CS5, CS6). Do vậy, hồ sơ dự án Luật đã có sự điều chỉnh lại tên chính sách cho phù hợp hơn so với hồ sơ đề nghị xây dựng Luật. Các nội dung sửa đổi cơ bản vẫn được giữ nguyên, không phát sinh nội dung chính sách mới so với hồ sơ đề nghị xây dựng Luật.
2. Nội dung chính sách 3 thực chất là sửa đổi các điều luật nhằm đảm bảo sự đồng bộ với Hiến pháp 2013 và hệ thống pháp luật, đặc biệt là Bộ luật Lao động 2019. Việc tách nội dung thành các chính sách riêng sẽ khó đảm bảo tương xứng giữa nội hàm và tên chính sách.
|
II. VỀ CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ
|
1
|
Phạm vi điều chỉnh, tên gọi của Luật
|
1. Đề nghị nêu rõ phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật về việc có điều chỉnh đối với các tổ chức đại diện cho người lao động hay không. Cân nhắc kỹ việc cho phép tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam.
2. Đề nghị xem xét sửa tên gọi của Luật thành “Luật Công đoàn Việt Nam” để phù hợp với Hiến pháp năm 2013.
|
Bộ Tài chính
Bộ Tài chính
|
Đề nghị giữ như dự thảo
Đề nghị giữ như dự thảo
|
1. Đối tượng áp dụng của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn vẫn giữ nguyên như Luật Công đoàn 2012, chỉ điều chỉnh đối với Công đoàn Việt Nam, không điều chỉnh đối với tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Dự thảo Luật bổ sung quy định về vấn đề gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp nhằm thể chế hóa Nghị quyết 06 – NQ/TW về “thu hút tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” và đảm bảo đồng bộ với Bộ luật Lao động 2019.
2. Lần sửa đổi này là sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, do vậy, Tổng Liên đoàn đề nghị không sửa đổi tên Luật. Thông thường, việc sửa đổi tên Luật (nếu có) được tính đến khi xem xét sửa đổi toàn diện.
|
2
|
Về nội dung sửa đổi trong chính sách “Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy công đoàn và cơ chế quản lý cán bộ công đoàn”
|
2.1
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 6: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn,
Điều 23: Bảo đảm về tổ chức cán bộ
|
1. Cần cân nhắc việc bổ sung nguyên tắc tổ chức và hoạt động “thống nhất từ trung ương đến công đoàn cơ sở” tại Điều 6. Vì việc thành lập tổ chức công đoàn và cơ cấu tổ chức trong hệ thống công đoàn cần đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, hạn chế có sự can thiệp của Nhà nước vào các vấn đề mang tính chất nội bộ của tổ chức chính trị xã hội.
2. Đề nghị nghiên cứu kỹ nội dung sửa đổi, bổ sung tại Khoản 2 Điều 23 bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc lãnh đạo, quản lý của Đảng đối với tổ chức chính trị xã hội và phù hợp với Luật Cán bộ, công chức, Quyết định số 212 - QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Bí thư.
|
Chính phủ, Bộ Tư pháp
Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính
|
Tiếp thu ý kiến
Tiếp thu để sửa đổi lại
|
1. Qua lấy ý kiến của các cơ quan, Tổng Liên đoàn nhận thấy: Mong muốn của TLĐLĐVN là tăng cường tính chủ động, độc lập của tổ chức Công đoàn Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nguyên tắc này khó thực hiện vì chưa tương thích với các quy định của Đảng (nếu thực hiện cần phải sửa đổi một số quy định của Đảng). Do vậy, TLĐLĐVN tiếp thu ý kiến về việc không đề nghị bổ sung nguyên tắc “thống nhất từ trung ương đến công đoàn cơ sở” vào khoản 2 Điều 6, giữ nguyên như Luật hiện hành.
2. Về sửa đổi bổ sung Điều 23: Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Quy định số 212 - QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Bí thư về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội cấp tỉnh, cấp huyện quy định: “Việc quản lý, giao biên chế đối với cơ quan liên đoàn lao động cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương”.
Do vậy, TLĐLĐVN tiếp thu ý kiến để sửa đổi theo hướng “mềm hóa” thẩm quyền của Tổng Liên đoàn trong việc đề xuất số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách các cấp tại Điều 23 về bảo đảm tổ chức, cán bộ: Cơ quan có thẩm quyền quyết định số lượng cán bộ công đoàn là cán bộ, công chức, viên chức theo đề xuất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Công đoàn cấp trên quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách khác sau khi trao đổi với người sử dụng lao động.
Quy định này đảm bảo tuân thủ nguyên tắc: Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam (Ban Tổ chức Trung ương) quyết định biên chế công chức trong tổ chức chính trị xã hội; đồng thời, phù hợp với tính chất đặc thù của tổ chức Công đoàn so với các tổ chức chính trị - xã hội khác.
|
3
|
Về nội dung sửa đổi trong chính sách: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính công đoàn trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự ra đời của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”
|
3.1
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 26: Tài chính CĐ
Sửa đổi, bổ sung Điều 26: Tài chính công đoàn
|
1. Cần nghiên cứu, cân nhắc kỹ các phương án sửa đổi về nguồn thu kinh phí công đoàn phù hợp hơn, đáp ứng yêu cầu mới của Bộ luật Lao động 2019 và các cam kết quốc tế.
2. Nên tập trung quy định về kinh phí được bảo đảm cho hoạt động công đoàn trong phạm vi đã được bố trí, không nên quy định về việc phân bổ kinh phí giữa công đoàn và tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp
3. Cân nhắc việc duy trì mức thu 2% kinh phí công đoàn phải đặt trong yêu cầu về việc thiết lập quỹ chung với sự tham gia của 3 bên (Nhà nước, Tổng Liên đoàn, doanh nghiệp).
|
Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh & XH,Bộ Tư pháp
|
Tiếp thu ý kiến
Đề nghị giữ như dự thảo
Đề nghị chưa đặt ra vấn đề thành lập quỹ chung ở thời điểm hiện nay
|
1. TLĐLĐVN tiếp thu các ý kiến và dự kiến điều chỉnh 02 phương án sửa đổi về nguồn thu kinh phí công đoàn tại khoản 2 Điều 27 (xin xem Tờ trình, dự thảo Luật kèm theo).
2. TLĐLĐVN đề nghị giữ như dự thảo và sẽ tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
3. Về việc thành lập quỹ chung từ nguồn kinh phí công đoàn: Thực tiễn hoạt động công đoàn và thực hiện Luật Công đoàn 2012 cho thấy: (1) kinh phí công đoàn cơ bản đảm bảo đáp ứng cho yêu cầu hoạt động của tổ chức công đoàn và đang được sử dụng ổn định; (2) kinh phí công đoàn được sử dụng chủ yếu tập trung cho hoạt động phúc lợi, chăm lo, bảo vệ NLĐ; (3) đây là nguồn thu thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng và chế độ ta trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; quan tâm chăm lo phúc lợi, an sinh cho NLĐ thông qua tổ chức công đoàn; (4) việc hình thành quỹ chung sẽ phát sinh bộ máy quản lý qũy ở các cấp, không phù hợp trong điều kiện tinh giản biên chế hiện nay. Vì vậy, TLĐLĐVN đề nghị chưa đặt ra vấn đề thành lập quỹ chung ở thời điểm hiện nay.
|
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 26: Tài chính công đoàn
Sửa đổi, bổ sung Điều 26: Tài chính công đoàn
|
Một số góp ý khác
1. Xem xét sửa đổi tên “kinh phí công đoàn” cho phù hợp với bối cảnh có thể có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp
2.Nên đưa ra đề xuất các tỷ lệ đóng khác nhau về tỷ lệ kinh phí công đoàn, từ đó so sánh, lựa chọn tỷ lệ đóng phù hợp, có thể vẫn là duy trì 2%
3. Nên chăng không quy định cứng mức đóng kinh phí công đoàn mà cân nhắc quy định một mức tối đa, tạo điều kiện linh hoạt cho việc điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế tại mỗi thời kỳ.
4. Cân nhắc sự phù hợp của nguồn thu kinh phí công đoàn với Công ước 98
|
Bộ Lao động – Thương binh & XH,Bộ Tư pháp
Bộ Lao động – Thương binh & XH, Bộ Tư pháp
Bộ Lao động – Thương binh & XH,Bộ Tư pháp
Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động – Thương binh & XH
|
Đề nghị giữ như dự thảo
Đề nghị giữ như dự thảo
Đề nghị giữ như dự thảo
Đề nghị giữ như dự thảo
|
1. Trong giai đoạn này, TLĐLĐVN đề nghị giữ nguyên tên gọi kinh phí công đoàn, vì các lý do sau: (1) Nguồn gốc tên gọi, nguồn thu xuất phát từ kinh phí dành cho hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam; (2) Trong giai đoạn tới, cơ bản nguồn kinh phí này chủ yếu vẫn dành cho hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam; (3) Nguồn thu này chủ yếu chi cho công tác phúc lợi, chăm lo bảo vệ đoàn viên (có tính chất công đoàn).
2. TLĐLĐVN đã có báo cáo đánh giá cụ thể về: (1) sự cần thiết của KPCĐ; (2) mức độ hợp lý của tỷ lệ 2% KPCĐ. Kết quả báo cáo đánh giá khẳng định: Tỷ lệ thu 2% là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu hoạt động của tổ chức Công đoàn trong thực tiễn,đang phát huy tác dụng và hiệu quả trong việc bảo đảm điều kiện vật chất cho tổ chức Công đoàn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ to lớn của Đảng và Nhà nước giao phó.
3. TLĐLĐVN nhận thấy: Kinh phí công đoàn là nguồn thu có tính chất thường xuyên, ổn định gắn với nghĩa vụ đóng góp của NSDLĐ phải do Quốc hội quyết định.
Thực tiễn quá trình xây dựng pháp luật về công đoàn cho thấy: Luật Công đoàn năm 1957 và Luật Công đoàn năm 1990 đều quy định về tài chính Công đoàn nhưng chỉ quy định chung, mức thu giao cho Chính phủ, Bộ, ngành quy định cụ thể dưới hình thức Nghị định và Thông tư, nên giá trị pháp lý và hiệu lực không cao, làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của công đoàn trong quá trình tổ chức thực hiện các quyền, trách nhiệm theo Luật định. Khắc phục bất cập này, Luật Công đoàn 2012 đã luật hóa quy định về mức thu và tỷ lệ thu kinh phí công đoàn, đảm bảo giá trị pháp lý và hiệu lực cao hơn, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong thi hành. Trong lần sửa đổi này, đề nghị cần tiếp tục kế thừa quan điểm và hướng tiếp cận đó.
4.Về vấn đề này, trong hồ sơ rà soát sự xung đột pháp luật trước khi trình Quốc hội phê chuẩn Công ước 98, hoàn toàn không đề cập đến vấn đề đóng 2% KPCĐ [2].
|
3.2
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 27: Quản lý, sử dụng tài chính công đoàn
|
1. Đề nghị rà soát những nội dung chi nào từ nguồn kinh phí công đoàn là phù hợp, những nội dung chi nào là không phù hợp để có đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể.
2. Bổ sung quy định về việc cho phép sử dụng nguồn tiền trong thời gian tạm thời nhàn rỗi, được gửi có kỳ hạn và đầu tư theo nguyên tắc đảm bảo an toàn, hiệu quả.
|
Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh & XH
Bộ Tài chính
|
Tiếp thu ý kiến
Đề nghị giữ như dự thảo
|
1. TLĐLĐVN tiếp thu và thiết kế lại các nội dung chi Điều 27 theo hướng phù hợp hơn (xin xem Tờ trình, dự thảo Luật kèm theo).
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 27: Quản lý, sử dụng tài chính công đoàn
|
Cân nhắc để rà soát quy định riêng về cơ chế quản lý và mục đích sử dụng khác nhau cho các nguồn tài chính có bản chất khác nhau (4 nguồn thu tài chính công đoàn hiện nay có bản chất và tính chất khác nhau).
|
Chính phủ,
Bộ Lao động – Thương binh & XH
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
Tài chính công đoàn được quản lý và sử dụng theo quy định của pháp luật và quy định của Tổng Liên đoàn. Việc phân tách thành cơ chế quản lý và mục đích sử dụng khác nhau cho các nguồn thu khác nhau có thể thuận lợi trong việc minh bạch nguồn thu - chi. Tuy nhiên, quy định cụ thểsẽ có những khó khăn nhất định trong thực tiễn; mặt khác, cơ bản các nguồn thu đều sẽ được chi cho những mục đích giống nhau (VD: đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp chính đáng cho NLĐ; tổ chức phong trào thi đua; hoạt động văn hóa, thể thao; thăm hỏi, trợ cấp ĐVCĐ, động viên, khen thưởng…). Do vậy, TLĐLĐVN sẽ rà soát để quy định các nguồn chi khoa học, phù hợp hơn tại Điều 27.
|
3.3
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 28: Tài sản công đoàn
|
Đề nghị sửa đổi Điều 28 như sau: “Việc quản lý, sử dụng tài sản công tại Tổng LĐLĐ Việt Nam và các đơn vị thuộc hệ thống của Tổng LĐLĐ Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công”.
|
Bộ Tài chính
|
Tiếp thu ý kiến để sửa đổi
|
TLĐLĐVN tiếp thu và dự kiến sửa đổi, bổ sung Điều 28 theo hướng: “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện việc quản lý, sử dụng, khai thác tài sản của Công đoàntheo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các quy định pháp luật khác”.
|
3.4
|
Điều 29 Kiểm tra, giám sát tài chính công đoàn
|
1. Đề nghị nghiên cứu, sửa đổi theo hướng quy định cụ thể từng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (VD: Kiểm toán nhà nước, Thanh tra Chính phủ; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...) thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính của công đoàn theo quy định của pháp luật.
2. Đề nghị bổ sung quy định về việc Tổng Liên đoàn báo cáo tình tình hình quản lý và sử dụng tài chính công đoàn với Quốc hội; thực hiện công khai tài chính dưới các hình thức.
|
Bộ Tài chính
|
Đề nghị giữ như dự thảo
Tiếp thu ý kiến để sửa đổi
|
1.Việc quy định tại Điều 27 Luật Công đoàn: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toánviệc quản lý, sử dụng tài chính của Công đoàn theo quy định của pháp luật” đã mang tính bao quát, đầy đủ.
2.TLĐLĐVN bổ sung khoản 4 Điều 29 như sau: “4. Công đoàn Việt Nam thực hiện công khai tài chínhbằng một hoặc một số hình thức: công bố tại kỳ họp Ban Chấp hành Công đoàn, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.”.
|
4. Về nội dung sửa đổi trong chính sách: “Hoàn thiện các quy định của pháp luật công đoàn để phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật, nhất là Bộ luật Lao động 2019 “
|
4.1.
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 1: Công đoan
|
1.Việc sửa đổi Điều 1 như dự thảo Luật cần được cân nhắc thận trọng, phải đảm bảo phù hợp với Hiến pháp 2013 và các quy định của Đảng về sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội.
2. Bổ sung rõ khái niệm “Công đoàn Việt Nam” tại Điều 1 theo Điều 10 Hiến pháp.
3.Trong trường hợp cho phép người lao động là người nước ngoài tham gia công đoàn, đề nghị cân nhắc cụm từ “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” tại Điều 1.
|
Chính phủ
Bộ Ngoại Giao
Bộ Ngoại Giao
|
Tiếp thu ý kiến
Tiếp thu ý kiến
Đề nghị giữ như dự thảo
|
1. Việc đề nghị sửa đổi Điều 1 như trong dự thảo Luật đã được giải trình trong hồ sơ dự án Luật. Tuy nhiên, do còn có ý kiến khác nhau về vấn đề này nên TLĐLĐVN tiếp thu ý kiến, chỉ sửa một số cụm từ cho phù hợp với Điều 10 Hiến pháp 2013
2. TLĐLĐVN tiếp thu để sửa Điều 1
3. “Tuyên truyền, vận động NLĐ học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” là chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn Việt Nam với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội. Việc cho phép NLĐ gia nhập, tham gia hoạt động công đoàn không làm thay đổi chức, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn. Do vậy, TLĐLĐVN đề nghị vẫn giữ cụm từ này trong Điều 1.
|
4.2
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 5: Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn
|
1. Đề nghị cân nhắc, nghiên cứu kỹ về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động nước ngoài, đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp và tính chất của tổ chức Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội.
2. Đề nghị không giao Chính phủ quy định chi tiết các khoản 1, khoản 3 Điều 5 mà cân nhắc theo hướng điều chỉnh ngay trong Luật.
|
Chính phủ
Chính phủ
|
Tiếp thu ý kiến
Tiếp thu ý kiến
|
1. Tiếp thu ý kiến, TLĐLĐVN không quy định về quyền gia nhập công đoàn của người lao động nước ngoài trong dự thảo Luật để đảm bảo phù hợp với tính chất đặc thù của công đoàn tổ chức chính trị - xã hội.
2. Tiếp thu ý kiến, TLĐLĐVN bổ sung trong dự thảo Luật điều kiện để được gia nhập công đoàn là “được thành lập hợp pháp, tán thành Điều lệ Công đoàn”; trình tự, thủ tục gia nhập theo quy định của Tổng Liên đoàn.
|
4.3
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 9: Những hành vi bị nghiêm cấm
|
Đề nghị xem xét không quy định lại các nội dung đã được quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Lao động năm 2019. Đồng thời, đề nghị rà soát các quy định tại Công ước ILO số 98 để có thể bổ sung vào dự thảo Luật các hành vi phân biệt đối xử chống lại công đoàn.
|
Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh &XH
|
Tiếp thu ý kiến
|
TLĐLĐVN tiếp thu để sửa đổi, bổ sung Điều 9 theo hướng:
- Đảm bảo sự đồng bộ với Bộ luật Lao động 2019 về các hành vi được coi là phân biệt đối xử (PBĐX), can thiệp thao túng chống công đoàn theo tinh thần Công ước 98.
- Mở rộng hơn đối tượng được bảo vệ chống hành vi PBĐX, không chỉ đối với NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động mà còn đối với NLĐ nói chung (bao gồm CC,VC,NLĐ).
- Mở rộng thêm hành vi và chủ thể thực hiện hành vi bị cấm, không chỉ là NSDLĐ trong QHLĐ mà còn gồm các tổ chức, cá nhân khác, cán bộ tổ chức đại diện NLĐ “Lợi dụng quyền công đoàn để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân”.
|
4.4
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 17: Quyền, trách nhiệm của CĐ cấp trên trực tiếp cơ sở
|
Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định này đảm bảo thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là Bộ luật Lao động 2019.
|
Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh &XH
|
Tiếp thu ý kiến
|
TLĐLĐVN tiếp thu ý kiến góp ý sửa đổi để đồng bộ, thống nhất với Bộ luật Lao động 2019, như sau:“Ở cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu, trừ các trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 63, Điều 65 Bộ luật Lao động”
|
4.5
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 30: Giải quyết tranh chấp về quyền công đoàn
|
Đề nghị rà soát sửa đổi quy định về quyền công đoàn (Điều 4), giải quyết tranh chấp về quyền công đoàn (Điều 30) đảm bảo đồng bộ với Bộ luật Lao động 2019.
|
Bộ Lao động, Thương binh & XH
|
Tiếp thu ý kiến
|
TLĐLĐVN tiếp thu để bổ sung, sửa đổi Điều 4 Điều 30 (Xin xem Tờ trình, dự thảo Luật kèm theo).
|
Nơi nhận:
- Như trên;
- Uỷ ban các vấn đề xã hội của QH (b/c);
- Uỷ ban pháp luật của QH (b/c);
- Văn phòng Chính phủ;
- Lưu VT, Ban QHLĐ.
|
TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Trần Văn Thuật
|
[1] Trong giai đoạn đề nghị xây dựng Luật, TLĐLĐVN xác định có 06 chính sách:
Chính sách 1: Tăng cường vai trò và xác định rõ nhiệm vụ cốt lõi của tổ chức Công đoàn Việt Nam và nhiệm vụ của từng cấp công đoàn trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;
Chính sách 2: Tăng tính chủ động, độc lập của tổ chức Công đoàn Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
Chính sách 3: Đảm bảo minh bạch, công khai tài chính công đoàn bằng việc xác định tỷ lệ phân bổ kinh phí công đoàn trong các cấp công đoàn;
Chính sách 4: Tăng cường bảo vệ người lao động, cán bộ và tổ chức công đoàn bằng việc xác định rõ các hành vi phân biệt đối xử và can thiệp, thao túng chống công đoàn;
Chính sách 5: Mở rộng quyền gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam của tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp;
Chính sách 6: Bảo đảm quyền gia nhập công đoàn của người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
[2]Trong hồ sơ đề nghị phê chuẩn Công ước 98, danh mục các Luật cần sửa đổi để đảm bảo tính tương thích với công ước không có Luật Công đoàn.
Công văn của Bộ Nội vụ về việc cho ý kiến về hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Cơ quan ban hành: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Ngày ban hành: 28/07/2020
Số hiệu:57/BC-TLĐ
Mô tả:
Tài liệu trình tại phiên họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
Vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm.
Tờ trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Cơ quan ban hành: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Ngày ban hành: 26/08/2020
Số hiệu:15 /TTr-TLĐ
Mô tả:
Tài liệu trình tại phiên họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
1-TTr15-TLD-ve-DA-Luat-Cong-doan--sd-(1).doc
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Số: 15 /TTr-TLĐ
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2020
|
TỜ TRÌNH
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn
Kính gửi: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Thực hiện Nghị quyết số 106/2020/QH14 ngày10/6/2020 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn sẽ được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 và thông qua tại kỳ họp thứ 11. Theo Nghị quyết số 977/NQ-UBTVQH14 ngày 15/7/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được phân công là cơ quan chủ trì soạn thảo Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÔNG ĐOÀN
Luật Công đoàn số 12/2012/QH13 được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 (sau đây gọi là Luật Công đoàn). Luật Công đoàn đã thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là cơ sở pháp lý quan trọng đáp ứng về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước trong thời gian qua.
Tuy nhiên, sau hơn 7 năm triển khai thực hiện trên thực tế đã xuất hiện các yêu cầu đòi hỏi Luật Công đoàn cần phải được tiếp tục sửa đổi:
1. Xuất phát từ yêu cầu khắc phục một số hạn chế, bất cập của Luật Công đoàn, đáp ứng hoạt động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới
Luật Công đoàn hiện hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho Công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của đất nước, phát huy vai trò, tác dụng và ảnh hưởng rộng lớn của tổ chức công đoàn trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Công đoàn cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập trước yêu cầu tình hình mới:
- Đối tượng, phạm vi điều chỉnh còn hẹp so với sự phát triển nhanh, đa dạng của lực lượng lao động và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn.
- Hệ thống tổ chức, việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa cấp ủy, địa phương với tổ chức Công đoàn về công tác tổ chức, cán bộ chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp và chưa hợp lý.
- Cơ chế bảo đảm thực thi quyền công đoàn cũng như cơ chế bảo vệ cán bộ Công đoàn chưa đầy đủ và cụ thể, tính khả thi không cao. Trong khi đó việc tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn còn dàn trải, chưa tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, nên vai trò của tổ chức Công đoàn ở nhiều nơi còn mờ nhạt.
2. Yêu cầu từ việc thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, các chủ trương, nghị quyết của Đảng và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Do Luật Công đoàn được ban hành trước khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, nên có những nội dung của Luật Công đoàn chưa hoàn toàn tương thích với Hiến pháp. Sau Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề liên quan đến tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, và hội nhập quốc tế sâu rộng. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động và tổ chức công đoàn như: Luật Việc làm (năm 2013), Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật Doanh nghiệp (năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (năm 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 2015)... Đặc biệt, Bộ luật Lao động vừa được Quốc hội thông qua tháng 11/2019, trong đó có nhiều nội dung mới về quan hệ lao động, về quyền công đoàn tại doanh nghiệp khác biệt so với các quy định của Luật Công đoàn.
Do đó, Luật Công đoàn cần tiếp tục được sửa đổi nhằm đảm bảo sự thống nhất, sự phù hợp với nội dung của các luật mới ban hành gần đây.
3. Yêu cầu từ hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu, đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Cam kết về lao động trong các Hiệp định này yêu cầu các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ thực hiện các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của người lao động theo Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do nêu trên, đã đặt ra yêu cầu rà soát và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và “nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, lao động - công đoàn”
[1].
Do vậy, Luật Công đoàn cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung để bảo đảm sự tương thích với các tiêu chuẩn lao động quốc tế, cam kết của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của Việt Nam.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
1. Mục đích
Mục đích của việc sửa đổi Luật Công đoàn lần này nhằm:
- Giải quyết các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành sau hơn 7 năm áp dụng trên thực tế cũng như các vấn đề mới phát sinh mà luật chưa điều chỉnh.
- Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương, nghị quyết của Đảng về tổ chức Công đoàn, tạo cơ sở cho sự đổi mới và nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý chung về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn trước đòi hỏi của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
- Đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật
- Thứ nhất, Quán triệt và thể chế hoá các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng liên quan đến việc xây dựng, phát triển đất nước, đặc biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
- Thứ hai, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn phải được xây dựng phù hợp với Hiến pháp 2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện hành. Đồng thời quán triệt Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 05/6/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp”, Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 03/9/2019 của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong tình hình mới”, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
- Thứ ba, Kế thừa và giữ nguyên những nội dung đã khẳng định được tính hợp lý, ổn định, hiệu quả trong quá trình thi hành của Luật Công đoàn hiện hành; tập trung sửa đổi, bổ sung những nội dung liên quan đến tổ chức bộ máy, phù hợp với thể chế chính trị và yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Thứ tư, Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong sửa đổi Luật Công đoàn; bảo đảm các quy định của Luật Công đoàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam, và từng bước phù hợp, tương thích với pháp luật quốc tế.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành, triển khai Kế hoạch số 58/KH-TLĐ ngày 10/8/2018 về Tổng kết 5 năm thực hiện Luật Công đoàn 2012; Kế hoạch số 91/KH-TLĐ ngày 26/11/2019 về thực hiện các hoạt động sửa đổi Luật Công đoàn.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã trình hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật (tháng 5, 6/2019); trình hồ sơ dự án Luật (tháng 8/2019) đến các cơ quan có thẩm quyền.
- Trong trong quá trình hoàn thiện hồ sơ Dự án Luật, Tổng Liên đoàn nhận thấy nhiều bất cập, trở ngại nên đã đề nghị “Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho phép lùi thời điểm trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn đến năm 2020 (sau khi Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua). Đồng thời, đề nghị bổ sung Dự án Luật vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020”. Ngày 20/11/2019, Tổng Liên đoàn đã thực hiện lại quy trình: Trình hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật để Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020.
- Ngày 10/5/2020, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 106/2020/QH14 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020. Theo đó, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn sẽ được trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 và thông qua tại kỳ họp thứ 11.
- Trên cơ sở đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến hành xây dựng Dự án Luật, thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập; tổ chức lấy ý kiến của Chính phủ, các bộ, ban, ngành có liên quan, các cấp công đoàn, các chuyên gia và đăng trên website của Tổng Liên đoàn để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân đóng góp xây dựng Dự án Luật. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tiếp thu ý kiến tham gia, hoàn thiện Dự án Luật trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Bố cục
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn gồm 3 Điều, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn.
- Điều 2. Bổ sung, thay thế một số từ, cụm từ tại một số điều, khoản của Luật Công đoàn.
- Điều 3. Hiệu lực thi hành.
2. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Về cơ bản, Dự thảo Luật tiếp tục khẳng định, Luật Công đoàn là luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn Việt Nam – tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của của giai cấp công nhân và của người lao động. Trong bối cảnh pháp luật của Việt Nam đã cho phép việc thành lập “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” nằm ngoài hệ thống Công đoàn Việt Nam, tổ chức này được điều chỉnh chủ yếu bằng pháp luật lao động
[2] . Tuy nhiên một số nội dung có liên quan như vấn đề gia nhập của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp vào tổ chức công đoàn và vần đề chia sẻ kinh phí công đoàn cũng được xem xét quy định vào trong Dự thảo Luật.
3. Nội dung cơ bản
Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sungnội dung tại14 điều
[3]; sửa kỹ thuật tại 5 điều
[4] trong tổng số 33 điều của Luật Công đoàn, cụ thể như sau:
3.1. Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy Công đoàn và cơ chế quản lý cán bộ công đoàn
Là tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy của Công đoàn chịu sự điều chỉnh của pháp luật và các quy định của Đảng.
Luật Công đoàn 2012 quy định những vấn đề cơ bản về tổ chức bộ máy công đoàn như: nguyên tắc hoạt động (Điều 6); hệ thống tổ chức công đoàn (Điều 7); bảo đảm về tổ chức bộ máy (Điều 23).
Theo Quy định số 29-QĐ/TW ngày 25/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng, tổ chức bộ máy, biên chế của cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giao Ban Tổ chức Trung ương quản lý; ở cấp tỉnh, cấp huyện giao ban tổ chức tỉnh ủy quản lý, định kỳ báo cáo Ban Bí thư.
Quy định số 212-QĐ/TW ngày 30/12/2019 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện đã phân cấp thẩm quyền quyết định tổ chức bộ máy như sau: (1) Ban Thường vụ cấp ủy cấp tỉnh quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu, giúp việc; giao và quản lý, quyết định số lượng cấp phó của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; (2) Ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện xem xét, quyết định biên chế của các cơ quan.
Hiện nay, công tác tổ chức cán bộ, sự phân cấp quản lý cán bộ công đoàn còn chưa đảm bảo tính chủ động, độc lập cho tổ chức công đoàn trong việc đào tạo, quy hoạch, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công đoàn. Tại các địa phương có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, tập trung đông công nhân lao động, song định biên cán bộ công đoàn cũng tương đồng như các địa phương khác. Do đó, việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong quan hệ lao động.
Để giảm thiểu những bất cập nêu trên song vẫn bảo đảm tuân thủ nguyên tắc lãnh đạo quản lý của Đảng về công tác tổ chức, Dự thảo Luật dự kiến sửa đổi, bổ sung Điều 23 về Bảo đảm về tổ chức, cán bộ, như sau:
“1. Công đoàn các cấp được bảo đảm về tổ chức và số lượng cán bộ công đoàn để thực hiện chức năng, quyền, trách nhiệm theo quy định của pháp luật.Cơ quan có thẩm quyền quyết định số lượng cán bộ công đoàn là cán bộ, công chức, viên chức theo đề xuất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Công đoàn cấp trên quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách khác sau khi trao đổi với người sử dụng lao động.
2. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và chức danh cán bộ công đoàn trình cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền.”.
Đồng thời, Dự thảo Luật đã quy định cụ thể hơn hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam tại Điều 7: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức thống nhất được tổ chức theo địa giới hành chính và theo ngành, bao gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cấp trung ương; cấp tỉnh, ngành trung ương; cấp trên trực tiếp cơ sở; cấp cơ sở. Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định cụ thể từng cấp công đoàn”.
3.2. Hoàn thiện cơ chế tài chính công đoàn trong bối cảnh mới
Xuất phát từ vị trí pháp lý và chức năng, nhiệm vụ đặc thù của tổ chức Công đoàn Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp, Đảng và Nhà nước đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều nghị quyết, chính sách, pháp luật liên quan đến cơ chế bảo đảm các điều kiện cần thiết cho công đoàn hoạt động, trong đó có bảo đảm về tài chính công đoàn. Luật Công đoàn năm 1957 và Luật Công đoàn năm 1990 đều đã quy định về tài chính Công đoàn. Luật Công đoàn năm 2012 quy định cụ thể vấn đề tài chính, tài sản công đoàn từ Điều 26 đến Điều 29
[5]. Trong đó, khoản 2, Điều 26 quy định: “Kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động”. Đây là các cơ sở pháp lý quan trọng, được thực hiện ổn định và phát huy hiệu quả trong việc bảo đảm điều kiện vật chất cho tổ chức Công đoàn thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó, chăm lo tốt hơn cho người lao động, tạo sự gắn kết lâu dài giữa người lao động với tổ chức công đoàn và doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, vấn đề thu, chi, quản lý, sử dụng tài chính công đoàn
[6] luôn tuân thủ các quy định của pháp luật và được các cơ quan chức năng của nhà nước kiểm tra, kiểm toán và giám sát chặt chẽ, định kỳ thường xuyên.
Qua tổng kết, đánh giá thực hiện Luật Công đoàn 2012 cho thấy, thu đoàn phí công đoàn chiếm 25,1%; thu kinh phí công đoàn chiếm 62,6%; ngân sách nhà nước hỗ trợ và các khoản thu khác là 12,3%.
Chi tài chính công đoàn chiếm tỷ trọng nhiều nhất tại cấp công đoàn cơ sở (chiếm 73,2% tổng chi); cấp quận, huyện chiếm 14,8% và đơn vị sự nghiệp chiếm 0,4%; cấp tỉnh, ngành chiếm 10,9%; số chi tại cấp Tổng Liên đoàn chiếm 0,7%. Như vậy, sau khi có Luật Công đoàn 2012, tỷ trọng chi được tập trung cho công đoàn cơ sở sử dụng với mục đích chăm lo cho người lao động. Trong phân phối các nội dung chi theo quy định, nguồn kinh phí công đoàn cơ bản dành cho phúc lợi, chăm lo, bảo vệ, đào tạo đoàn viên và người lao động, chiếm 84,14% tổng chi hoạt động tại 4 cấp
[7].
Trong bối cảnh cần phải tiếp tục “
tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 06-NQ/TW
[8] thì việc tiếp tục bảo đảm nguồn kinh phí công đoàn trong Luật Công đoàn là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, thực tiễn việc thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch Covid – 19 vừa qua cho thấy cần phải xem xét, bổ sung vào Dự thảo Luật nội dung quy định về miễn, giảm kinh phí công đoàn trong các trường hợp bất khả kháng,
doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh
[9].
Mặt khác, thời gian qua, việc công khai, tuyên truyền để mọi người nắm bắt và hiểu đúng việc thu, chi, sử dụng tài chính công đoàn, nhất là kinh phí công đoàn của Công đoàn Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa tạo được sự lan tỏa rộng khắp, khiến nhiều tổ chức, cá nhân hoài nghi về mục đích sử dụng nguồn kinh phí này. Đồng thời, trong bối cảnh Bộ luật Lao động 2019 đã cho phép thành lập “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”, mà quyền và trách nhiệm của tổ chức này trong quan hệ lao động được đảm bảo bình đẳng với tổ chức công đoàn cơ sở. Do đó, Dự thảo Luật đã bổ sung quy định về tỷ lệ trích kinh phí công đoàn cho các cấp công đoàn và cho tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tại khoản 2 Điều 27 theo 02 phương án như sau:
“2. Kinh phí công đoàn theo khoản 2 Điều 26 do công đoàn cấp trên quản lý, sử dụng 25%; 75% còn lại được phân phối cho công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp như sau:
a) Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chỉ có tổ chức công đoàn, công đoàn cơ sở được phân phối toàn bộ kinh phí nêu trên.
b) Ở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở tạm giữ toàn bộ số kinh phí nêu trên, thực hiện chi cho người lao động tại cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và hoàn trả cho công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp khi được thành lập theo điểm a và điểm c khoản 2 điều này.
c) Ở doanh nghiệp có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp thì tổ chức này được phân phối theo số thành viên trên số lao động thu được kinh phí công đoàn.
Việc sử dụng kinh phí công đoàn của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp do Chính phủ quy định.”.
Phương án 2:
“2. Tại những nơi đã có tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, kinh phí công đoàn quy định tại khoản 2 Điều 26 được phân phối cho các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Chính phủ quy định chi tiết nội dung này”.
Ngoài ra, để đảm bảo công khai, minh bạch hơn nữa trong công tác quản lý, sử dụng tài sản, tài chính công đoàn, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung vào Điều 28 (Tài sản công đoàn): “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện việc quản lý, sử dụng, khai thác tài sản của Công đoàn theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các quy định pháp luật khác”. Đồng thời bổ sung thêm 1 khoản (khoản 4) vào Điều 29 (Kiểm tra, giám sát tài chính Công đoàn), như sau: “4. Công đoàn Việt Nam thực hiện công khai tài chínhbằng một hoặc một số hình thức: công bố tại kỳ họp Ban Chấp hành Công đoàn; niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.”.
3.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật công đoàn để phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật, nhất là Bộ luật Lao động 2019
3.3.1. Bổ sung quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp
Bộ luật Lao động 2019 (có hiệu lực từ 1/1/2021) đã cho phép “
Người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”
[10]. Khoản 3 Điều 172 quy định: “
Trường hợp tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp gia nhập Công đoàn Việt Nam thì thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn”.
Nghị quyết số 06-NQ/TW
[11] của Ban Chấp hành Trung ương xác định:
“Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt động đại diện, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”.
Trong bối cảnh đó, nhằm tăng cường vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam với người lao động và đảm bảo phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động 2019, Dự thảo Luật bổ sung 1 khoản vào Điều 5(Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn) như sau:
“3. Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập, hoạt động hợp pháp, tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam thì có quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam theo trình tự, thủ tục do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định.”.
3.3.2. Sửa đổi, bổ sung Điều 9 (Những hành vi bị nghiêm cấm) theo hướng quy định chi tiết hơn các hành vi phân biệt, đối xử chống công đoàn
Bảo vệ cán bộ công đoàn, chống các hành vi phân biệt, đối xử chống công đoàn đã, đang là các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản được quan tâm, nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động công đoàn. Điều 9 Luật Công đoàn 2012 đã đưa ra 4 nhóm hành vi phân biệt đối xử, bao gồm:
(1). Cản trở, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền công đoàn.
(2). Phân biệt đối xử hoặc có hành vi gây bất lợi đối với người lao động vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
(3). Sử dụng biện pháp kinh tế hoặc biện pháp khác gây bất lợi đối với tổ chức và hoạt động công đoàn.
(4). Lợi dụng quyền công đoàn để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
Thực tế thi hành Luật Công đoàn cho thấy, việc thao túng, phân biệt đối xử chống công đoàn diễn ra với nhiều hành vi đa dạng và tinh vi, ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả hoạt động công đoàn. Trong khi đó, những quy định tại Luật Công đoàn hiện hành còn mang tính khái quát, chưa phân loại một cách khoa học nên khó áp dụng trong thực tế.
Vì vậy, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung vấn đề này theo hướng:
- Phân loại nhóm hành vi một cách rõ ràng theo các tiêu chí cụ thể;
- Quy định chi tiết hơn các hành vi.
- Bổ sung thêm việc cấm các hành vi phân biệt đối xử về giới, để đảm bảo vấn đề bình đẳng giới.
3.3.3. Sửa đổi, bổ sung Điều 10 Luật Công đoàn
Điều 10, Luật Công đoàn là cơ sở pháp lý quan trọng, cụ thể để tổ chức Công đoàn thực hiện có hiệu quả quyền, trách nhiệm của mình trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Tuy nhiên, trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở theo Bộ luật Lao động 2019 thì các quy định tại điều này phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Theo đó, Công đoàn có quyền, trách nhiệm: Đối thoại với người sử dụng lao động; Đại diện cho tập thể người lao động thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thoả ước lao động tập thể; Tham gia với ngườisử dụng lao động xây dựng và giám sát việc thực hiện thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động; Tham gia với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động... theo quy định của pháp luật lao động.
3.3.4. Sửa đổi, bổ sung Điều 17 về quyền và trách nhiệm của công đoàn cấp trên đối với người lao động ở cơ quan, tổ chức, đơn vị doanh nghiệp chưa có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở
Theo Điều 17 Luật Công đoàn thì ở những cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa thành lập công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được người lao động ở đó yêu cầu.
Tổng kết thi hành Luật Công đoàn cho thấy, thời gian qua công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đã có nhiều hoạt động thực hiện quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ cho người lao động ở các doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn thông qua việc tham gia xây dựng thang lương, bảng lương, quy chế lương, thưởng, nội quy lao động, đại diện bảo vệ cho người lao động trong các vụ việc lao động tại các phiên tòa…góp phần vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Cũng qua thực tiễn thi hành Luật Công đoàn 2012 cho thấy, có nhiều vụ việc, nhất là vụ việc phức tạp, công đoàn cấp trên trực tiếp không đủ nguồn lực để thực hiện quyền này khi được người lao động yêu cầu.
Bộ luật Lao động 2019 quy định cho phép sự ra đời của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, mở ra cơ hội tăng số doanh nghiệp có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn của quan hệ lao động trong cơ chế thị trường cho thấy, số doanh nghiệp chưa có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở vẫn tiếp tục còn nhiều, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
[12]. Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, Công đoàn Việt Nam tiếp tục thực hiện quyền đại diện, chăm lo, bảo vệ cho giai cấp công nhân và người lao động nói chung theo Điều 10 Hiến pháp, phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới, nên quy định này cần được sửa đổi, theo hướng: “Ở cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở
và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, công đoàn cấp trên có quyền, trách nhiệm đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi được
người lao động ở đó yêu cầu, trừ các trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 63 và Điều 65 Bộ luật Lao động”.
2.3.5. Sửa đổi, bổ sung Điều 24 về bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn
Khoản 2, Điều 24 Luật Công đoàn quy định: “Cán bộ công đoàn không chuyên trách được sử dụng 24 giờ làm việc trong một tháng đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch công đoàn cơ sở; 12 giờ làm việc trong 01 tháng đối với Ủy viên Ban chấp hành, Tổ trưởng, Tổ phó tổ công đoàn để làm công tác công đoàn và được đơn vị sử dụng lao động trả lương. Tuỳ theo quy mô cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà Ban Chấp hành công đoàn cơ sở và đơn vị sử dụng lao động thoả thuận về thời gian tăng thêm”.
Những bảo đảm điều kiện hoạt động cho công đoàn, trong đó bảo đảm thời gian cho cán bộ công đoàn không chuyên trách theo Luật Công đoàn đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ công đoàn thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn trong thời gian qua.
Tuy nhiên, Bộ luật Lao động 2019 (Điều 176) quy định về bảo đảm thời gian cho thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đã có sự thay đổi. Theo đó “thời gian tối thiểu mà người sử dụng lao động dành cho toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở để thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đại diện trên cơ sở số lượng thành viên của tổ chức” sẽ do Chính phủ quy định.
Để đảm bảo sự đồng bộ thống nhất với Bộ luật Lao động 2019, Dự thảo Luật đã sửa đổi khoản 2, Điều 24 như sau: “2.Cán bộ công đoàn không chuyên trách được đảm bảo thời gian để thực hiện nhiệm vụ công đoàn và được đơn vị sử dụng lao động trả lương theo quy định của pháp luật lao động. Tuỳ theo quy mô cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà Ban Chấp hành công đoàn cơ sở và đơn vị sử dụng lao động thoả thuận về thời gian tăng thêm.”.
2.3.6. Ngoài ra, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 1 “Công đoàn” theo hướng bỏ cụm từ “là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam”, bổ sung rõ khái niệm “Công đoàn Việt Nam” và sắp xếp lại cụm từ “tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát” để đảm bảo tương thích với Điều 10 Hiến pháp 2013. Sửa đổi, bổ sung các Điều 4, Điều 30 để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa các điều trong Dự thảo Luật cũng như với hệ thống pháp luật, nhất là với Bộ luật Lao động 2019.
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
1. Về tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý cán bộ công đoàn
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn hiện tại có điểm còn bất cập. Trên thực tế, tổ chức Công đoàn đang được tổ chức và chỉ đạo hoạt động thống nhất từ trung ương đến cơ sở, lương cán bộ và kinh phí hoạt động công đoàn do tổ chức Công đoàn (đại diện là Tổng Liên đoàn) đảm bảo. Tuy nhiên, công tác tổ chức cán bộ của công đoàn chủ yếu thuộc thẩm quyền của cấp ủy địa phương, do cấp ủy quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu, giúp việc, quản lý, phân bổ chỉ tiêu biên chế như các đoàn thể sử dụng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc tổ chức hiện hành chưa đảm bảo tính chủ động của tổ chức công đoàn trong việc quyết định tổ chức các bộ phận tham mưu, giúp việc của công đoàn cấp tỉnh; đào tạo, quy hoạch, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công đoàn toàn hệ thống trong bối cảnh quan hệ lao động ngày càng đa dạng, phức tạp, đòi hỏi sự linh hoạt; chưa phù hợp với thông lệ quốc tế trước yêu cầu hội nhập sâu rộng.
Vì vậy, có một số ý kiến cho rằng cần sửa đổi, bổ sung nguyên tắc tổ chức hoạt động công đoàn tại Điều 6 theo hướng: Công đoàn được thành lập trên sơ sở tự nguyện, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, thống nhất từ trung ương đến công đoàn cơ sở. Đồng thời bổ sung vào khoản 2, Điều 23 Bảo đảm về tổ chức, cán bộ như sau: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phân bổ cán bộ công đoàn chuyên trách trong toàn hệ thống trên cơ sở tổng số biên chế được cơ quan có thẩm quyền giao.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, công tác tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý cán bộ công đoàn luôn phải đặt đưới sự lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn đang được Ban Bí thư, Bộ Chính trị xem xét. Những nội dung này đã được thể hiện trong Đề án. Vì vậy, Dự thảo Luật không thể hiện theo ý kiến này.
2. Về quyền gia nhập công đoàn của người lao động nước ngoài
Bộ luật Lao động 2019 quy định cho phép người lao động là người nước ngoài làm việc hợp pháp tại Việt Nam được quyền gia nhập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, và “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có quyền gia nhập hệ thống Công đoàn Việt Nam”. Quy định này gián tiếp thừa nhận quyền gia nhập vào hệ thống Công đoàn Việt Nam của người lao động nước ngoài.
Vì vậy, có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung quyền gia nhập công đoàn của người lao động là người nước ngoài làm việc hợp pháp tại Việt Nam theo hướng: cho phép người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được gia nhập và hoạt động tại công đoàn cơ sở thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam, nhưng không được tham gia vào cơ quan lãnh đạo công đoàn.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề nghị cân nhắc, thận trọng vấn đề này, vì Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội. Trong lúc đó, Bộ Luật Lao động đã quy định cho phép người lao động có thể thành lập, gia nhập và hoạt động trong “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”. Vì vậy, nếu người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có nhu cầu gia nhập “công đoàn” để được bảo vệ trong quan hệ lao động thì họ có thể gia nhập vào “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”.
3.Về quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam của “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”
Có ý kiến cho rằng việc “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” gia nhập Công đoàn Việt Nam không nên “do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định” và mở ra nhiều hướng kể cả việc “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” và tổ chức Công đoàn liên kết để hoạt động.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, Nghị quyết số 06-NQ/TW
[13] của Ban Chấp hành Trung ương xác định:
“Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam… thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”.
Thể chế hóa nội dung này, Khoản 3 Điều 172 quy định: “Trường hợp tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp gia nhập Công đoàn Việt Nam thì thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn”.
Như vậy, theo tinh thần ở các văn bản nêu trên, thì “tổ chức của người lao động tại doanhnghiệp”chỉ gia nhập chứ không phải liên kết với Công đoàn Việt Nam, Vì vậy, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thống nhất như Dự thảo Luật đã thể hiện.
4. Về quyền và trách nhiệm của công đoàn cấp trên đối với người lao động ở cơ quan, tổ chức, đơn vị doanh nghiệp chưa có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở
Có ý kiến cho rằng, Bộ luật Lao động 2019 đã quy định, ngoài tổ chức công đoàn, người lao động còn được phép thành lập, gia nhâp và hoạt động trong “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”; Bên cạnh đó các quyền đối thoại, thương lượng chỉ được thực hiện khi tại doanh nghiệp phải có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Vì vậy, đề nghị cân nhắc bỏ quy định này để đảm bảo thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật và phù hợp với bối cảnh mới.
Ngoài những cơ sở đã nêu ở mục 3.3.4 phần IV của Tờ trình này, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thấy rằng, bên cạnh các quyền đối thoại, thương lượng thì còn rất nhiều quyền và lợi ích hợp pháp khác của người lao động cần được bảo đảm và bảo vệ khi người lao động có yêu cầu. Vì vậy, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lựa chọn phương án thể hiện như trong Dự thảo Luật.
VI. DỰ KIẾN NGUỒN LỰC, ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC THI HÀNH VĂN BẢN SAU KHI ĐƯỢC THÔNG QUA
1. Ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
Nếu phương án 2 sửa đổi Điều 27 về phân phối tài chính công đoàn được chấp nhận, thì sau khi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn được thông qua, Bộ Tài chính sẽ chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các bộ, ngành liên quan, xây dựng và trình Chính phủ ban hành văn bản quy định chi tiết và triển khai đúng tiến độ.
2. Tổ chức thực thi luật sau khi ban hành
2.1. Trách nhiệm của Chính phủ
Xây dựng kế hoạch tổ chức thực thi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn với các hình thức phong phú, phù hợp với từng đối tượng: cơ quan quản lý nhà nước; hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp; tổ chức công đoàn và người lao động.
2.2. Trách nhiệm của Công đoàn
Chủ động và phối hợp với cơ quan hữu quan để triển khai thực hiện Luật thông qua các hình thức: tuyên truyền, phổ biến pháp luật; kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật.
3. Nguồn kinh phí để triển khai Luật
Sau khi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn được ban hành, dự kiến kinh phí thực thi gồm:
- Kinh phí để soạn thảo và ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Công đoàn: 200 triệu đồng
- Kinh phí tuyên truyền, phổ biến pháp luật Công đoàn của các cơ quan trung ương và của Tổng Liên đoàn: 2.000 triệu đồng.
- Kinh phí tuyên truyền, phổ biến pháp luật Công đoàn của các cơ quan địa phương: 5.000 triệu đồng.
- Kinh phí thanh tra, kiểm tra, giám sát: được thực hiện lồng ghép trong ngân sách chi thường xuyên của các cơ quan trung ương, địa phương.
Kinh phí bảo đảm cho công tác thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn do ngân sách nhà nước cấp và kinh phí công đoàn theo quy định. Việc sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật phải đúng mục đích, nội dung, chế độ và định mức chi theo quy định của pháp luật về các chế độ chi tiêu tài chính.
Trên đây là Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam kính trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Xin gửi kèm: (1) Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn; (2) Ý kiến của Chính phủ đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn; (3) Báo cáo tổng hợp, giải trình tiếp thu ý kiến góp ý; Bản chụp ý kiến góp ý; (4) Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công đoàn 2012; (5) Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn; (6) Báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật; (7) Các tài liệu bổ sung khác gồm: Báo cáo rà soát Luật Công đoàn với các Luật hiện hành; Báo cáo đánh giá tính tương thích giữa dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn với các tiêu chuẩn lao động quốc tế.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban về các vấn đề xã hội của QH;
- Ủy ban Pháp luật của QH;
- Văn phòng Chính phủ;
- Lưu: VT, Ban QHLĐ.
|
TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Nguyễn Đình Khang
|
[1] Điểm 2.2 Mục III Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
[2] Bộ luật Lao động 2019 và các nghị định hướng dẫn.
[3] Các điều 1, 4, 5, 7, 9, 14, 17, 23, 24, 26, 27, 28, 29, 30.
[4] Các điều 10, 11, 13, 20, 22.
[5] Bao gồm các quy định: Tài chính công đoàn (Điều 26); Quản lý, sử dụng tài chính công đoàn (Điều 27); Tài sản công đoàn (Điều 28); Kiểm tra, giám sát tài chính công đoàn (Điều 29).
[6] Tham khảo mục 13, phần II Báo cáo tổng kết Luật Công đoàn 2012
[7] Nghị quyết số 20 – NQ/TW ngày 28/01/2008 của Hội nghị lần thứ VI BCH Trung ương Đảng khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước ghi rõ: “
Việc thu kinh phí công đoàn tại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn và của Chính phủ; sử dụng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, sinh hoạt văn hoá, thi đua, khen thưởng, phúc lợi xã hội và các hoạt động khác của công nhân tại chính doanh nghiệp đó”.
[8] Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” (Nghị quyết số 06).
[9] Bổ sung vào Điều 26. Tài chính công đoàn:
“6. Trong trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh dẫn đến không có khả năng đóng kinh phí công đoàn theo khoản 2 Điều này thì được xem xét miễn, giảm theo quy định của Chính phủ.”.
[10] Điều 170 Bộ luật Lao động 2019
[11] Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
[12] Hiện nay có 40.718 doanh nghiệp có tổ chức công đoàn, chiếm 19,5% tổng số doanh nghiệp; 68,2% doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động có từ 25 lao động trở lên đã thành lập công đoàn cơ sở.
[13] Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.