Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp về dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Bộ Công an
Ngày ban hành: 07/08/2020
Số hiệu:724/BC-BCA
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
4.-BC-GT,-TT-thẩm-định-gửi-CP-0608.doc
BỘ CÔNG AN
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số: 724 /BC-BCA
|
Hà Nội, ngày 07 tháng 8 năm 2020
|
BÁO CÁO
GIẢI TRÌNH TIẾP THU Ý KIẾN THẨM ĐỊNH CỦA BỘ TƯ PHÁP
Về dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Kính gửi: Chính phủ
Ngày 28/7/2020, Bộ Tư pháp đã tổ chức họp Hội đồng thẩm định để thẩm định dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi). Trên cơ sở Báo cáo thẩm định số 154/BCTĐ-BTP ngày 31/7/2020 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã tổ chức nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định đối với dự án Luật, cụ thể như sau:
I. Sự phù hợp của nội dung dự thảo Luật với mục đích, yêu cầu và các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật; phạm vi điều chỉnh của dự án Luật
1. Sự phù hợp của nội dung dự thảo Luật với mục đích, yêu cầu và các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật
- Bộ Tư pháp đề nghị tiếp tục rà soát, nghiên cứu kỹ các mục tiêu, giải pháp của từng chính sách để cụ thể hoá đầy đủ, chính xác các chính sách trong từng quy định của dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã rà soát, nghiên cứu kỹ các mục tiêu, giải pháp của từng chính sách để thể chế hoá đầy đủ các chính sách trong dự thảo Luật.
2. Về phạm vi điều chỉnh của dự án Luật
a) Bộ Tư pháp đề nghị rà soát các quy định tại dự thảo Luật, bảo đảm phù hợp với chủ trương tại Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy; nghiên cứu, tham khảo các quy định có liên quan tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Phòng, chống HIV/AIDS để có quan điểm và hướng xử lý chính thức về vấn đề này, bảo đảm xác định phạm vi điều chỉnh tại dự thảo Luật được đầy đủ, toàn diện, đúng trọng tâm, phù hợp với mọi đối tượng và yêu cầu của công tác phòng, chống ma túy trong tình hình mới.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã rà soát các quy định pháp luật phù hợp Chỉ thị 36 và trong quá trình tiếp thu sẽ bám sát tiến độ cũng như nội dung của các dự thảo Luật nêu trên để có những quy định phù hợp và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Về biện pháp cai nghiện bắt buộc: Hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, hiện nay các cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được tổ chức lại theo mô hình đa chức năng, bao gồm các chức năng: cai nghiện bắt buộc, cai nghiện tự nguyện và điều trị thay thế nên nếu vẫn gọi các cơ sở này là cơ sở cai nghiện bắt buộc không còn phù hợp. Để phù hợp với thực tiễn, Điều 34 dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) quy định đây là “cơ sở cai nghiện công lập”. Do đó, Bộ Công an đề nghị Bộ Tư pháp, cơ quan chủ trì soạn thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính cân nhắc sửa tên biện pháp này thành “biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc”.
b) Bộ Tư pháp đề nghị các vấn đề cụ thể liên quan trực tiếp tới các nội dung quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy… phải được điều chỉnh ngay trong Luật để phù hợp với phạm vi, thẩm quyền điều chỉnh cũng như bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện thống nhất, đồng bộ. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa thể hiện rõ các nội dung nêu trên, chưa có sự tách bạch nội dung điều chỉnh giữa biện pháp phòng ngừa và biện pháp ngăn chặn.
Về vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau: Các biện pháp phòng ngừa tuy không được liệt kê cụ thể trong các điều Luật nhưng nội dung này đã được thể hiện trong các quy định về trách nhiệm phòng, chống ma túy (Chương II), kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy (chương III), quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (chương IV), cai nghiện ma túy (chương V). Hơn nữa, đặc thù công tác phòng, chống ma túy là công tác phòng ngừa và đấu tranh luôn gắn kết chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau: làm tốt công tác phòng ngừa góp phần hỗ trợ công tác đấu tranh và ngược lại làm tốt công tác đấu tranh cũng góp phần phòng ngừa hiệu quả.
c) Nhiều quy định trong các nội dung này đang được dự thảo Luật giao Chính phủ và các bộ, ngành quy định chi tiết, trong đó bao gồm các vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, thủ tục hành chính… (như Điều 13 giao Chính phủ quy định về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm; khoản 4 Điều 28 giao Chính phủ quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của cơ sở xác định tình trạng nghiện và trình tự, thủ tục việc xác định tình trạng nghiện,…). Do đó, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát, cân nhắc để quy định cụ thể ngay tại Luật các vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật, hạn chế việc giao Chính phủ và các bộ, ngành ban hành văn bản quy định chi tiết.
Về vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau:
+ Việc quy định về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy có nhiều nội dung liên quan đến hoạt động nghiệp vụ bí mật của các cơ quan chuyên trách, nếu quy định cụ thể trong Luật sẽ không phù hợp. Do đó, Bộ Công an đề nghị giữ nguyên như dự thảo.
+ Về điều kiện, tiêu chuẩn của cơ sở xác định tình trạng nghiện: Đây là điều kiện, tiêu chuẩn chuyên ngành, chuyên sâu về y tế; không có quy định trực tiếp tới quyền con người, quyền công dân; các loại ma túy mới đang liên tục được sản xuất ra thị trường, mỗi loại ma túy sẽ có những quy trình để xác định tình trạng nghiện riêng nên việc quy định cụ thể nội dung này trong luật sẽ rất khó và không đảm bảo tính bền vững của điều luật. Do đó, theo quan điểm của Bộ Công an không nên quy định ở Luật mà quy định ở các văn bản dưới luật mới bảo đảm tính linh hoạt và phù hợp.
+ Về trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện: Việc lưu giữ người để xác định tình trạng nghiện liên quan trực tiếp quyền con người, quyền công dân, được quy định ở giai đoạn lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, Bộ Công an xin tiếp thu, để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền quy định nội dung này tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
II. Ý kiến thẩm định về từng nội dung
1. Về bảo đảm tính hợp Hiến, tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật
a) Bộ Tư pháp cho rằng về cơ bản, các quy định tại dự thảo Luật bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc và quy định của Hiến pháp năm 2013. Một số quy định trong dự thảo Luật có liên quan trực tiếp tới quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát để bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
Tại dự thảo Luật điều chỉnh một số nội dung có liên quan trực tiếp tới các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức các cơ quan điều tra, Luật Xử lý vi phạm hành chính… Để bảo đảm hơn nữa tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật hiện hành, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát các quy định cụ thể của dự thảo Luật với các Luật có liên quan để xác định rõ các nội dung cần thiết được điều chỉnh, các nội dung sẽ áp dụng theo các quy định hiện hành trên cơ sở quy định dẫn chiếu hoặc trực tiếp mà không cần thiết phải quy định tại dự thảo Luật (nội dung cụ thể xem tại mục III.9 Báo cáo này).
Bộ Công an tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp để điều chỉnh vào dự thảo Luật.
2. Sự phù hợp của nội dung dự thảo Luật với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước
a) Bộ Tư pháp cho rằng về cơ bản, các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phòng, chống ma túy đã được xác định tại Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới; Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020; Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 05/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy trong tình hình mới… Tuy nhiên, qua rà soát, Bộ Tư pháp nhận thấy, một số quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Chỉ thị số 36-CT/TW như: xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù và ưu tiên đầu tư nguồn lực, trang thiết bị chuyên dụng cho công tác phòng, chống ma túy, chú trọng xã hội hóa công tác cai nghiện và tạo việc làm cho người sau cai… cần được cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu kỹ để tiếp tục thể chế hóa đầy đủ vào dự thảo Luật.
Về vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau:
+ Để thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Chỉ thị số 36-CT/TW, Bộ Công an đã xây dựng quy định tại khoản 4 Điều 5 dự thảo: “Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, cơ quan thực hiện công tác cai nghiện ma túy, điều trị nghiện ma túy bằng thuốc thay thế”.
+ Về nội dung “chú trọng xã hội hóa công tác cai nghiện và tạo việc làm cho người sau cai” đã được thể hiện trong dự thảo Luật tại điều 33 và điều 42.
3. Về tính tương thích của dự thảo Luật với các điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
Qua rà soát, Bộ Tư pháp nhận thấy nội dung trong dự thảo Luật về cơ bản không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát và đánh giá, bảo đảm tính tương thích của dự thảo Luật với các điều ước có liên quan, như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em; Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961; Nghị định thư sửa đổi, bổ sung năm 1972 của Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 (bảo lưu các Điều 36 (2b) về dẫn độ; Điều 48 (2) về giải quyết tranh chấp); Công ước về các chất hướng thần năm 1971 (bảo lưu các Điều 22 (2b) về dẫn độ, Điều 31 (2) về giải quyết tranh chấp); Công ước chống buôn bán bất hợp pháp chất ma túy và hướng thần năm 1988 (bảo lưu các Điều 6 về dẫn độ, Điều 32 (2-3) về giải quyết tranh chấp).
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an rà soát để tiếp thu, chỉnh lý vào dự thảo cho phù hợp.
4. Sự cần thiết, tính hợp lý và chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính trong dự thảo Luật
Dự thảo Luật có một số quy định phát sinh thủ tục hành chính như trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập, việc thành lập và hoạt động của các cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân... Tuy nhiên, trong hồ sơ gửi Bộ Tư pháp thẩm định chưa có nội dung đánh giá tác động về thủ tục hành chính đối với các quy định này. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung nội dung đánh giá tác động đối với các quy định có phát sinh thủ tục hành chính và xây dựng Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính theo quy định.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã xây dựng Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính bổ sung vào Hồ sơ dự án Luật.
5. Điều kiện bảo đảm về nguồn nhân lực, tài chính bảo đảm thi hành Luật, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
a) Bộ Tư pháp cho rằng một số quy định tại dự thảo Luật cần phải có các nguồn lực về tài chính, tổ chức bộ máy, con người để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện, như: về bảo đảm kinh phí xét nghiệm và đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm (khoản 6 Điều 26); đảm bảo kinh phí tổ chức cai nghiện bắt buộc (khoản 3 Điều 29); về giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức thực hiện cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng (khoản 5 Điều 32), về trang bị cho cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy (điểm d khoản 5 Điều 34)… Tại Tờ trình, cơ quan chủ trì soạn thảo chưa có báo cáo về điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện các quy định này. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá và bổ sung vào Tờ trình việc dự kiến các điều kiện đảm bảo (dự kiến nguồn lực con người, nguồn tài chính…) để thực hiện các nội dung nêu trên của dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, đây là nội dung cần phải nghiên cứu đánh giá toàn diện, Bộ Công ăn sẽ nghiên cứu tiếp tục đánh giá bổ sung vào dự án luật trong quá trình xây dựng.
b) Bộ Tư pháp cho rằng hồ sơ gửi Bộ Tư pháp đã có Báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, tuy nhiên, báo cáo này mới đánh giá trên cơ sở các chính sách đề xuất xây dựng Luật, chưa có những đánh giá cụ thể về vấn đề giới trong từng quy định có liên quan của dự thảo Luật. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại nội dung của Báo cáo lồng ghép bình đẳng giới, trên cơ sở đó bổ sung những đánh giá cụ thể về để bảo đảm bình đẳng giới trong các quy định có liên quan của dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an xây dựng Báo cáo lồng ghép bình đẳng giới bổ sung vào Hồ sơ dự án Luật trình Chính phủ.
6. Về vấn đề xin ý kiến Chính phủ
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Cơ quan chủ trì soạn thảo đưa ra vấn đề cần xin ý kiến Chính phủ với hai loại ý kiến như sau: loại ý kiến thứ nhất “Không cần thiết bổ sung khái niệm "Điều trị nghiện" và đổi tên Chương "Cai nghiện ma túy" thành "Cai nghiện, điều trị nghiện ma túy"; loại ý kiến thứ hai bổ sung khái niệm: "Điều trị nghiện ma túy là biện pháp can thiệp chuyên môn y tế bằng dùng thuốc hoặc không dùng thuốc, kết hợp với các can thiệp về tâm lý, hành vi… Bộ Tư pháp nhận thấy, vấn đề xin ý kiến nêu trên còn mang tính kỹ thuật, không thuộc nội dung/vấn đề quan trọng còn quan điểm khác nhau giữa các bộ, ngành, do đó, đề nghị cân nhắc về sự cần thiết lấy ý kiến Chính phủ về nội dung này.
Tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã chỉnh sửa và đưa ra 02 vấn đề cần xin ý kiến Chính phủ với hai loại ý kiến như sau:
VĐ1: Việc chấp hành hình phạt tù trong khi đang cai nghiện bắt buộc
+ Nhóm ý kiến thứ nhất: Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy mà bị phát hiện thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu bị tòa án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
+ Nhóm ý kiến thứ hai: Giữ nguyên như quy định cũ: Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội, nếu thời gian bị phạt tù ít hơn thời gian cai nghiện ma túy thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù phải tiếp tục cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đề xuất quy định tại dự thảo Luật theo nhóm ý kiến thứ nhất.
VĐ2: Quy định về trình tự, thủ tục đưa người nghiện từ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
+ Nhóm ý kiến thứ nhất: Chính phủ quy định chi tiết việc lập hồ sơ đưa người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện ma túy bắt buộc. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện ma túy bắt buộc đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tại Tòa án nhân dân.
+ Nhóm ý kiến thứ 2: Giao Chính phủ quy định chi tiết việc lập hồ sơ và quy định trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đề xuất quy định tại dự thảo Luật theo nhóm ý kiến thứ nhất.
c) Tại Chỉ thị 36-CT/TW đã xác định ma túy là tệ nạn xã hội và cần nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện và quản lý sau cai, làm giảm số người nghiện ma túy mới, coi trọng công tác cai nghiện tập trung và quản lý người nghiện ngoài xã hội không để gây ra các vụ phạm tội… Theo đó, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo thể hiện rõ trong Tờ trình quan điểm xây dựng Luật trong bối cảnh hiện nay là nhằm thiết lập các biện pháp phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy; thiết lập các biện pháp phòng ngừa và xử lý đối với người sử dụng ma túy và nghiện ma túy dưới cả hai góc độ: xử lý nghiêm vi phạm pháp luật về ma túy và thiết lập biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa người sử dụng ma túy trở thành nghiện ma túy, thiết lập các biện pháp cai nghiện ma túy phù hợp với từng đối tượng trên cơ sở xác định nghiện ma túy là một hiện tượng bệnh lý của người nghiện ma túy.
Về vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau: Bộ Công an cho rằng nghiện ma túy là tệ nạn vì họ là người chủ động sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần dẫn đến tình trạng nghiện. Hiện nay, công tác tuyên truyền về tác hại của ma túy được tiến hành rất sâu rộng. Mọi người đều nhận thức được tác hại của ma túy nhưng nhiều người vẫn cố tình sử dụng trái phép. Đây là thói quen xấu gây nhiều hệ lụy cho cộng đồng cần loại trừ ra khỏi đời sống xã hội.
7. Về hồ sơ, trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản và ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo
7.1. Về hồ sơ, trình tự, thủ tục soạn thảo
a) Bộ Tư pháp đề nghị bổ sung Báo cáo đánh giá thủ tục hành chính để hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật theo đúng quy định tại Điều 58 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trước khi trình Chính phủ cho ý kiến vì trong dự án Luật phát sinh các thủ tục hành chính.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã bổ sung Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính vào hồ sơ dự án Luật.
B) Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xác định rõ những nội dung kế thừa, những nội dung được đề xuất sửa đổi, bổ sung, quy định mới nhằm đáp ứng điều kiện, bối cảnh hiện nay (quan điểm thứ ba) vào Tờ trình dự án luật.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã chỉnh lý vào nội dung Tờ trình.
c) Bộ Tư pháp đề nghị tại phần 2 Mục IV dự thảo Tờ trình cũng cần nêu những nội dung cụ thể mới được đề xuất để các cơ quan thẩm quyền có đầy đủ thông tin khi xem xét, quyết định. Ngoài ra, một số nhận định tại dự thảo Tờ trình còn chưa chính xác, như: nhận định mâu thuẫn với Luật Xử lý vi phạm hành chính về việc thẩm quyền đưa vào cơ sở cai nghiện, Luật Phòng, chống ma túy quy định thẩm quyền đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc Chủ tịch UBND cấp huyện, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định thẩm quyền này thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện. Luật Phòng, chống ma túy quy định biện pháp quản lý sau cai nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định cũng cần được rà soát để chỉnh lý lại cho phù hợp hơn.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã nghiên cứu, tiếp thu ý kiến này để chỉnh sửa lại một số từ ngữ cho chính xác.
7.2. Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo
a) Ý kiến của Bộ Tư pháp đề nghị:
+ Rà soát thêm các quy định tại dự thảo Luật để bảo đảm ngôn ngữ, kỹ thuật trình phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật này. Cụ thể:
+ Một số quy định còn chung chung, cần được rà soát để quy định cụ thể hơn nhằm bảo đảm tính minh bạch của dự thảo Luật, như: quy định:“Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy” (Điều 2); quy định “các cơ quan khác” (khoản 1 Điều 48); quy định “các cơ quan hữu quan khác” và “các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật” (khoản 3 Điều 13); quy định:“đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền” (khoản 1 Điều 15), quy định trường hợp cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức do tham gia phòng, chống ma túy mà bị thiệt hại về tài sản thì được Nhà nước đền bù (khoản 2 Điều 12)...
Bộ Công an giải trình như sau: Luật Phòng, chống ma túy quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, chính sách chung về công tác phòng chống ma túy cũng như trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành, cơ quan, tổ chức… để thực hiện công tác này. Do đó nhiều từ ngữ trong Luật sẽ chỉ quy định chung, không chi tiết, cụ thể.
b) Tại Khoản 3 Điều 12 dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của cơ quan Công an, Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và chính quyền các cấp chưa phù hợp với tên gọi và nội dung của Điều này là “chính sách đối với người tham gia phòng, chống ma túy”. Bộ Tư pháp đề nghị cân nhắc đưa nội dung này vào từng quy định về trách nhiệm cụ thể của mỗi cơ quan tương ứng, không thiết kế thành quy định riêng.
Bộ Công an giải trình như sau: Khoản 3 được quy định để đảm bảo sự an toàn cho cá nhân, gia đình, tổ chức tham gia các hoạt động phòng, chống ma túy nên đề nghị được giữ nguyên như dự thảo.
c) Khoản 2 Điều 13 dự thảo Luật quy định: “Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện quy định tại điểm d, điểm đ và điểm e khoản 1 Điều này theo yêu cầu của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy” chưa phù hợp với tên gọi và nội dung của Điều Luật là “Trách nhiệm, quyền hạn của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy”. Do đó, Bộ Tư pháp đề nghị nghiên cứu, cân nhắc đưa nội dung này vào các Điều 7, 8, 9, 10, 11 quy định về trách nhiệm cho phù hợp.
Bộ Công an giải trình như sau: điều luật thiết kế như vậy để đảm bảo dễ theo dõi nên đề nghị được giữ nguyên như dự thảo.
8. Về nội dung cụ thể của dự thảo Luật
8.1. Ý kiến của Bộ Tư pháp: Các biện pháp phòng, chống ma túy, kiểm soát ma túy chưa được xác định rõ ràng mà chủ yếu lồng ghép trong các quy định về trách nhiệm phòng, chống ma túy (Chương II), kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy (chương III), quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (chương IV), cai nghiện ma túy (chương V). Bộ Tư pháp đề nghị Bộ Công an nghiên cứu, chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng: quy định rõ các hoạt động hợp pháp về ma túy và các biện pháp kiểm soát đối với các hoạt động này; các biện pháp phòng ngừa đối với ma túy, như các biện pháp tuyên truyền, phổ biến về tác hại của ma túy, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống ma túy để nâng cao nhận thức, ý thức của nhân dân đối với ma túy; các biện pháp phòng ngừa ma túy phù hợp với từng đối tượng, địa bàn, khu vực. Trên cơ sở các biện pháp phòng ngừa này sẽ xác định rõ trách nhiệm tổ chức thực hiện của các cơ quan, tổ chức phù hợp với mỗi biện pháp. Đồng thời, tại dự thảo Luật cần xác định rõ các biện pháp đấu tranh, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy, trong đó tội phạm ma túy sẽ bị xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các trường hợp xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng ma túy trái phép, người nghiện ma túy theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý mang tính chất là biện pháp phòng, chống ma túy trong quản lý nhà nước theo quy định tại Luật này.
Bộ Công an giải trình như sau: Luật Phòng, chống ma túy quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, chính sách chung về công tác phòng, chống ma túy cũng như trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành, cơ quan, tổ chức… để thực hiện công tác này. Do đó nhiều từ ngữ trong Luật sẽ chỉ quy định chung, không chi tiết, cụ thể. Các biện pháp phòng ngừa tuy không được liệt kê cụ thể trong các điều Luật nhưng nội dung này đã được thể hiện trong các quy định về trách nhiệm phòng, chống ma túy (Chương II), kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy (chương III), quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (chương IV), cai nghiện ma túy (chương V). Hơn nữa, đặc thù công tác phòng, chống ma túy là công tác phòng ngừa và đấu tranh luôn gắn kết chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau: làm tốt công tác phòng ngừa góp phần hỗ trợ công tác đấu tranh và ngược lại làm tốt công tác đấu tranh cũng góp phần phòng ngừa hiệu quả. Các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy liên quan đến nhiều lĩnh vực do nhiều Bộ ngành quản lý nên không thể quy định chi tiết, cụ thể vào luật mà cần có các văn bản dưới luật hướng dẫn về sau. Do đó, về vấn đền này, Bộ Công an đề nghị được giữ nguyên như bố cục dự thảo.
8.2. Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
a) Bộ Tư pháp nhận thấy: một số từ ngữ được giữ như Luật hiện hành cần được nghiên cứu để sửa đổi cho phù hợp với những thay đổi lớn trong thực tiễn, như “người nghiện ma túy” (khoản 15 Điều 3) cần nghiên cứu để bao quát đến việc sử dụng các loại ma túy mới, đặc biệt là ma túy tổng hợp và tác hại, hậu quả của các loại ma túy này gây ra cho người sử dụng.
Về vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau: Thực tế ngày càng có nhiều các loại ma túy mới và liên tục được bổ sung vào danh sách các chất ma túy do Chính phủ quy định. Tuy nhiên, khái niệm người nghiện ma túy như dự thảo đã bao quát hết người nghiện các loại chất ma túy và đảm bảo được tính khoa học, đầy đủ. Do đó, Cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị giữ nguyên quy định này như dự thảo.
b) Ý kiến của Bộ Tư pháp: Đối với một số từ ngữ đã được giải thích trong các văn bản chuyên ngành (như thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần… tại khoản 5, 6, 7 Điều 3 dự thảo Luật đã được giải thích tại các khoản 17, 18, 19 Luật Dược), nếu không có nội hàm mới thì không quy định lại trong dự thảo Luật. Bên cạnh đó, một số từ ngữ như “phòng, chống ma túy”, “tội phạm về ma túy”; các thuật ngữ về “các hoạt động hợp pháp liên quan” và “kiểm soát các hoạt động hợp pháp” đã rõ về nội dung và không có cách hiểu khác nhau, đề nghị cân nhắc sự cần thiết phải giải thích tại Luật này. Đồng thời, đối với các từ ngữ bổ sung tại khoản 5, 6, 11, 16, 17 Điều 3 cần được rà soát, cân nhắc kỹ để bảo đảm việc đưa ra nội hàm của mỗi từ ngữ phải chính xác, bao quát và đúng mục tiêu, phạm vi điều chỉnh của Luật, thống nhất với các quy định tại văn bản quy phạm pháp luật khác.
Về vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau: Việc giải thích từ ngữ như dự thảo đảm bảo cho sự đầy đủ của Luật. Mặc dù một số từ ngữ, thuật ngữ đã được giải thích trong các văn bản chuyên ngành nhưng cũng cần thiết tập hợp nhắc lại ở đây vì nó có tính liên quan và đầy đủ cho công tác phòng, chống ma túy.
8.3. Về hành vi bị nghiêm cấm (Điều 4)
Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát kỹ các quy định về tội phạm ma túy trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), các quy định về hành vi bị nghiêm cấm trong Luật Đầu tư, các hành vi, hoạt động bị xử phạt vi phạm hành chính về ma túy… để xác định chính xác và thống nhất về các hành vi, hoạt động bị cấm liên quan đến ma túy tại dự thảo Luật. Một số hành vi bị cấm như vi phạm các quy định về giao nhận, quản lý tiền chất… cũng cần phải được làm rõ hơn nội hàm và thống nhất với quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 để xác định chính xác trường hợp bị nghiêm cấm (như các quy định tại khoản 2, khoản 5 Điều 4 dự thảo Luật…).
Về vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau: Điều luật được xây dựng trên cơ sở rà soát những hành vi không những liên quan trực tiếp mà cả gián tiếp đến ma túy trong các Luật có liên quan như Luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật dược, Luật Hải quan…
8.4. Về chính sách trong phòng, chống ma túy (Điều 5) và nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy (Điều 6)
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc không quy định Điều 5 và Điều 6 dự thảo Luật vì các nội dung về chính sách đã được thể hiện tại Điều 12, Điều 29, nội dung về hợp tác quốc tế đã được thể hiện tại Chương VII dự thảo Luật. Mặt khác, nội dung tại khoản 1 Điều 5 không phù hợp với tên Điều, nội dung tại khoản 2 Điều 6 thuộc trách nhiệm tuân thủ theo pháp luật về cư trú và xuất nhập cảnh.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an đã chuyển nội dung Điều 6 xuống chương Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
8.5. Về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 8)
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật giao Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát, phản biện hoạt động phòng, chống ma túy ở cơ quan, nhà trường, các cơ sở giáo dục và địa bàn dân cư. Tuy nhiên, theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì cơ quan này thực hiện giám sát và phản biện xã hội về các vấn đề sự cần thiết, sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tính đúng đắn, khoa học, khả thi; đánh giá tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của dự thảo văn bản; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, Nhân dân, tổ chức (khoản 2 Điều 33 Luật). Để bảo đảm thống nhất, phù hợp với các quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, việc giám sát sẽ được thực hiện theo quy định của Luật Mặt trận tổ quốc mà không cần thiết quy định nội dung này tại dự thảo Luật.
Bộ Công an tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đã chỉnh sửa bỏ nội dung khoản 2 Điều 33 cho phù hợp.
8.6. Về trách nhiệm, quyền hạn của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy (Điều 13)
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật giao Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy trong việc thực hiện các hoạt động quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này. Bộ Tư pháp nhận thấy, các nội dung trên cần được quy định trong các điều khoản cụ thể của dự thảo Luật, không nên khái quát thành nhiệm vụ chung và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Về vấn đề này, Bộ Công an xin báo cáo như sau: việc quy định về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy có nhiều nội dung liên quan đến hoạt động nghiệp vụ bí mật của các cơ quan chuyên trách, nếu quy định cụ thể trong luật sẽ không phù hợp. Do đó, Bộ Công an đề nghị giữ nguyên như dự thảo.
8.7. Về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy (Chương III)
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc, quy định ngay trong dự thảo Luật các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp kiểm soát mang tính nguyên tắc và giao cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành quy định và tổ chức thực hiện các biện pháp kiểm soát trong từng lĩnh vực để bảo đảm rõ ràng, thuận lợi trong quá trình áp dụng.
Về vấn đề này, Bộ Công an xin báo cáo như sau: Các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy liên quan đến nhiều lĩnh vực do nhiều Bộ, ngành quản lý nên không thể quy định chi tiết, cụ thể vào Luật mà sẽ giao cho Chỉnh phủ quy định chi tiết sau.
8.8. Về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (Chương IV)
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật bổ sung quy định về xác định người sử dụng trái phép chất ma túy theo hướng người có xét nghiệm dương tính với chất ma túy là việc sử dụng chất ma túy của người đó “là không hợp pháp” (Điều 24). Bộ Tư pháp nhận thấy, quy định này chưa thể hiện rõ cách xác định như thế nào là “không hợp pháp” trong sử dụng ma túy để làm căn cứ cho việc xác định trường hợp sử dụng trái phép ma túy và phân biệt với người nghiện ma túy, trong khi đó, tại Điều 3 dự thảo Luật đã giải thích nội hàm, nhận diện đối với người nghiện ma túy và người sử dụng trái phép chất ma túy (khoản 15, khoản 16). Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại các quy định tại dự thảo Luật để chỉnh lý lại nội dung về xác định là người sử dụng trái phép chất ma túy, bảo đảm thống nhất với nội hàm khái niệm về người sử dụng trái phép chất ma túy tại khoản 16 Điều 3 và có sự phân biệt với các trường hợp xác định người nghiện ma túy, tránh quy định chung chung, khó áp dụng trên thực tiễn.
Bộ Công an tiếp thu ý kiến này của Bộ Tư pháp để chỉnh lý Điều 24 cho thống nhất với khoản 16 Điều 3 dự thảo.
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Về quy định quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 25): Dự thảo Luật quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phân công cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng phối hợp với gia đình, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy không thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 01 năm đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên và 06 tháng đối với người chưa thành niên kể từ ngày phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy để giúp họ không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và kịp thời ngăn chặn các hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bộ Tư pháp nhận thấy, quy định này mang tính chất của biện pháp quản lý hành chính nhưng có sự tương đồng với việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, dự thảo đưa ra quy định Cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời hạn 02 ngày kể từ thời điểm ra quyết định phải chuyển quyết định xử phạt cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú, nhưng quy định này thuộc nội dung về ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và chưa phù hợp với Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, trường hợp cơ quan chủ trì soạn thảo xác định đây là một trong các biện pháp để phòng ngừa việc tiếp tục sử dụng trái phép ma túy dẫn tới nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép ma túy mà không phải là biện pháp xử lý hành chính, thì cần chỉnh lý lại quy định này để có sự phân biệt với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm phù hợp, khả thi.
Về việc này, Bộ Công an xin báo cáo như sau:
+ Quy định “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phân công cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng phối hợp với gia đình, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy” đây không phải là biện pháp xử lý hành chính, không để lại hệ quả pháp lý, không ảnh hưởng đến quyền nhân thân của họ mà chỉ nhằm mục đích động viên, giúp đỡ người sử dụng trái phép chất ma túy.
+ Về ý kiến cho rằng quy định “Cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời hạn 02 ngày kể từ thời điểm ra quyết định phải chuyển quyết định xử phạt cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú” chưa phù hợp với Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bộ Công an đã nghiên cứu và thấy rằng quy định như vậy để đảm bảo cho việc theo dõi, quản lý, giúp đỡ người sử dụng trái phép chất ma túy của chính quyền địa phương và quy định như vậy cũng phù hợp với Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính “Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản, người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt phải gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cơ quan thu tiền phạt và cơ quan liên quan khác (nếu có) để thi hành”.
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Về trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy, gia đình, cơ quan, tổ chức (Điều 26 dự thảo Luật): đề nghị cân nhắc quy định tại điểm a khoản 1 về việc quy định trách nhiệm người sử dụng trái phép chất ma túy tự khai báo về hành vi của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc… vì rất khó khả thi do hầu hết người sử dụng có tâm lý che dấu, e ngại việc khai báo việc sử dụng ma túy của mình. Đối với quy định về trách nhiệm cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy làm việc có trách nhiệm theo dõi, quản lý, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy chấm dứt việc sử dụng trái phép chất ma túy cũng chưa thật sự hợp lý vì cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy làm việc không có trách nhiệm phải theo dõi cũng như chưa có biện pháp để thực hiện việc quản lý, giáo dục các đối tượng này.
Về vấn đề này, Bộ Công an xin báo cáo như sau: Quy định trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy như vậy để nhằm mục đích gắn trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy là cần thiết nên Bộ Công an đề nghị giữ nguyên như dự thảo; Đối với quy định về trách nhiệm cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy làm việc, Bộ Công an tiếp thu để chỉnh sửa từ ngữ cho phù hợp.
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Vềthống kê người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 27): Dự thảo Luật quy định “Trong thời hạn 01 năm đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên, 06 tháng đối với người chưa thành niên kể từ ngày kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt vi hành chính hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà không phát hiện người đó có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy”. Bộ Tư pháp nhận thấy, việc quy định thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chỉ trong khoảng thời gian như dự thảo Luật là chưa rõ mục đích của việc thống kê, do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc quy định này nhằm bảo đảm khả thi trong quá trình thực hiện. Tương tự, đề nghị rà soát lại nội dung về thống kê quy định tại Điều 46 dự thảo Luật.
Về vấn đề này, Bộ Công an xin báo cáo như sau: Quy định về thống kê như vậy để đánh giá đúng thực trạng tình hình người sử dụng trái phép, người nghiện ma túy. Từ đó, Nhà nước có những chính sách quản lý, theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy để phòng ngừa người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng ma túy; người nghiện ma túy có biện pháp cai nghiện hiệu quả, không tái nghiện ma túy. Thời hạn này cũng phù hợp với thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
8.9. Về cai nghiện ma túy (Chương V)
a) Ý kiến của Bộ Tư pháp: đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc, thiết kế lại Chương V về cai nghiện ma túy theo hướng: i) quy định rõ nguyên tắc, các hình thức, biện pháp cai nghiện ma túy; ii) mỗi hình thức cai nghiện cần quy định rõ đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng, thời hạn, tổ chức thực hiện. Trong trường hợp các luật khác có quy định nội dung này và phù hợp thì dự thảo Luật chỉ quy định các nội dung cơ bản và viện dẫn tới các quy định cụ thể có liên quan để bảo đảm tính thống nhất. Đồng thời, đề nghị bổ sung quy định về việc quản lý, lưu giữ và thời gian xác định tình trạng nghiện đối với đối tượng nghiện ma túy vì đây là biện pháp cần thiết để xác định một người có bị nghiện hay không và là căn cứ áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc.
Về vấn đề này Bộ Công an xin báo cáo như sau: Bộ Công an nhận thấy cấu trúc các điều luật và nội dung quy định dự thảo Luật về cơ bản đã đảm bảo đầy đủ cho các hình thức, biện pháp cai nghiện và đối với mỗi hình thức cai nghiện cũng đã quy định rõ đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng, thời hạn, tổ chức thực hiện. Bộ Công an nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp để chỉnh sửa thêm một số nội dung cho phù hợp.
b) Về chính sách của Nhà nước về cai nghiện ma túy
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Tại Điều 29 dự thảo Luật quy định “hỗ trợ kinh phí thực hiện cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy”, tuy nhiên, Bộ Tư pháp nhận thấy, quy định này chưa thực sự phù hợp với mục tiêu tại chính sách khuyến khích xã hội hóa công tác cai nghiện tự nguyện là giảm đầu tư, chi ngân sách của Nhà nước. Theo đó, để có cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá rõ hơn về tính khả thi, các tác động tích cực, tiêu cực về kinh tế, xã hội cũng như chi phí của quy định này đối với kinh phí Nhà nước.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau:
Thứ nhất, xã hội hóa không chỉ là huy động tài chính, đẩy gánh nặng tài chính lên vai người dân và trao cho tư nhân đảm nhiệm một số nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của nhà nước, mà xã hội hóa phải là:Mở rộng không gian và quyền tham gia vào công tác cai nghiện phục hồi và hỗ trợ hoà nhập cộng đồng; tạo cơ chế để các cá nhân, tổ chức tham gia vào các quyết sách liên quan đến vấn đề sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy; tạo cơ chế, chính sách cụ thể và minh bạch để động viên mọi nguồn lực của xã hội (cả trong và ngoài nước) chung tay chia sẻ cùng Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước phải chịu trách nhiệm về những phân khúc quan trọng nhất, đòi hỏi nhiều nguồn lực nhất trong công tác cai nghiện phục hồi và hoà nhập cộng đồng; Nhà nước phải quản lý chất lượng và giá các loại dịch vụ cai nghiện, hỗ trợ hoà nhập cộng đồng. Xây dựng cơ chế cung cấp dịch vụ trong cai nghiện phục hồi để mọi đối tượng đều có thể tiếp cận các dịch vụ cai nghiện phục hồi một cách thuận lợi nhất, sẵn có nhất, với chi phí thấp nhất.
Thứ hai, các chính sách khuyến khích xã hội hóa công tác cai nghiện hiện nay chưa đủ thu hút các nguồn lực xã hội, nên cần phải luật hóa các chính sách hỗ trợ đã có trong thời gian qua theo hướng tăng cường, cụ thể, minh bạch dễ thực hiện và khả thi hơn.
Thứ ba, về tính khả thi, các tác về kinh tế, xã hội cũng như kinh phí hỗ trợ thực hiện cai nghiện ma túy: Hiện nay, chúng ta đang thực hiện Nghị định 80/2018/NĐ-CP ngày 17/5/2018 của Chính phủsửa đổi bổ sung 1 số điều của Nghị định 147/2003/NĐ-CP ngày 02/12/2003 của Chính phủ quy định về điều kiện, thủ tục cấp phép và quản lý hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện; Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh chưa thấy phát sinh khó khăn, vướng mắc. Hơn nữa, xuất phát từ thực tế, người nghiện cũng là người yếu thế trong xã hội, phần lớn không có điều kiện về kinh tế nên chính sách Nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với người cai nghiện tự nguyện cũng góp phần khuyến khích, thu hút họ tham gia cai nghiện tự nguyện.
Do đó, Ban Soạn thảo cho rằng quy định như dự thảo Luật là phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.
c) Về cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng
- Ý kiến của Bộ Tư pháp:
+ Tại Điều 32 dự thảo Luật quy định cai nghiện ma túy tự nguyện tại cộng đồng là việc người nghiện ma túy đăng ký tự nguyện cai nghiện với sự giám sát của cơ quan chuyên môn và hỗ trợ của các dịch vụ cơ bản tại cộng đồng, bao gồm tư vấn, xây dựng kế hoạch cai nghiện ma túy; khám, kiểm tra sức khỏe,... Để bảo đảm tính khả thi và thuận lợi khi áp dụng, đề nghị quy định rõ cách thức thực hiện việc cai nghiện tự nguyện, cơ chế giám sát của cơ quan chuyên môn cũng như việc hỗ trợ dịch vụ cơ bản tại dự thảo Luật.
+ Đối với quy định về thời hạn và địa điểm cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng được thực hiện theo thỏa thuận giữa người cai nghiện ma túy và cơ quan cung cấp dịch vụ, đề nghị quy định rõ việc thỏa thuận để tránh tùy nghi khi áp dụng, đồng thời quy định rõ cơ quan cung cấp dịch vụ cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoạt động theo cơ chế nào để bảo đảm hiệu quả cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng. Tương tự, đề nghị rà soát lại khoản 2 Điều 35 dự thảo Luật để chỉnh lý phù hợp.
+ Ngoài ra, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo làm rõ việc được cấp Giấy chứng nhận đã hoàn thành chương trình cai nghiện cho người nghiện (khoản 3 Điều 32, khoản 3 Điều 35 dự thảo Luật) có được xác định là người đó đã hết nghiện (cai nghiện thành công) hay chỉ là xác nhận việc hoàn thành thời gian cai nghiện theo quy trình.
+ Tại khoản 5 Điều 32 giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức thực hiện cai nghiện ma túy, nhưng chưa quy định biện pháp, cách thức và các nguồn lực bảo đảm thực hiện. Bộ Tư pháp nhận thấy, để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả của quy định, dự thảo Luật cần quy định rõ các biện pháp, cách thức và nguồn lực bảo đảm cho việc thực hiện trách nhiệm tổ chức cai nghiện của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, trong đó cần lưu ý tới việc bảo đảm thực hiện đúng chủ trương tinh gọn bộ máy nhà nước, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tương tự, đề nghị rà soát lại khoản 3 Điều 47, khoản 4 Điều 49 dự thảo Luật.
Vấn đề này, Bộ Công an giải trình như sau:
Thứ nhất, việc giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức thực hiện cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng là phù hợp thẩm quyền vì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không phải là cơ quan cung cấp dịch vụ mà là người đại diện cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung tổ chức, chỉ đạo các đơn vị, cơ sở chuyên môn cung cấp các dịch vụ cai nghiện và hỗ trợ phục hồi; đồng thời phù hợp tình hình thực tiễn vì hiện nay công tác này giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, nhưng hơn 10 năm triển khai cho thấy không bảo đảm tính khả thi (về chuyên môn, về thẩm quyền, về nguồn lực);
Thứ hai, dự thảo Luật quy định theo hướng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện sử dụng các đơn vị hiện có như: bệnh viện/trung tâm y tế huyện/trạm y tế cung cấp dịch vụ cắt cơn cắt cơn, điều trị những rối loạn do sử dụng ma túy; Trung tâm công tác xã hội/Điểm tư vấn chăm sóc hỗ trợ điều trị nghiện tại cộng đồng/Điểm vệ tinh của cơ sở cai nghiện ma túy các dịch vụ cai nghiện, thì tư vấn, kết nối dịch vụ giáo dục, tạo việc làm ...; các trường trung cấp nghề/cao đẳng nghề thì cung cấp dịch vụ dạy nghề. Như vậy, huy động tốt các nguồn lực hiện có và bảo đảm thực hiện đúng chủ trương tinh gọn bộ máy nhà nước, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 vì không thành lập mới các đơn vị, cơ sở cung cấp các dịch vụ cai nghiện;
Thứ ba, cơ chế cung cấp dịch vụ và cơ chế giám sát các hoạt động cung cấp dịch vụ sẽ phải thực hiện theo quy định chuyên ngành của từng dịch vụ do các Bộ, ngành ban hành. Tuy nhiên, Bộ Công an xét thấy đây hoạt động chuyên môn do nhiều đơn vị cung cấp khác nhau, hay thay đổi nên sẽ phải tiếp thu và sẽ quy định cụ thể trong các Nghị định của Chính phủ theo hướng (i) quy định rõ cơ chế phối hợp và cách thức thực hiện cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy tự nguyện tại cộng đồng; (ii) Nhà nước ban hành quy trình, quy chuẩn đơn giá các loại dịch vụ cai nghiện, hỗ trợ hoà nhập cộng đồng, làm cơ sở để quản lý chất lượng và bảo đảm mọi đối tượng đều có thể tiếp cận các dịch vụ cai nghiện phục hồi một cách thuận lợi nhất, sẵn có nhất, với chi phí thấp nhất.
d) Về cơ sở cai nghiện ma túy
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Tại dự thảo Luật quy định có 2 loại hình cơ sở cai nghiện là cơ sở cai nghiện tư nhân và cơ sở cai nghiện công lập (Điều 33, Điều 34) và việc cai nghiện tự nguyện được thực hiện ở các cơ sở cai nghiện này (Điều 35), trong khi đó, tại khoản 2 Điều 29 quy định về chính sách của nhà nước tổ chức cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc và tại khoản 2 Điều 36 dự thảo Luật quy định việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, tại khoản 4 Điều 34 quy định cơ sở cai nghiện ma túy công lập có trách nhiệm tiếp nhận và tổ chức cai nghiện ma túy cho người bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc. Do đó, để bảo đảm thống nhất trong các quy định, đề nghị Bộ Công an cân nhắc, thống nhất cách xác định các cơ sở cai nghiện tại dự thảo Luật theo tiêu chí loại hình tổ chức hoặc thực hiện biện pháp cai nghiện, trên cơ sở đó quy định về mô hình, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cách thức tổ chức và biện pháp bảo đảm thực hiện hoạt động cai nghiện phù hợp với biện pháp cai nghiện của mỗi loại hình cơ sở cai nghiện.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau:
Hiện nay, phần lớn các Cơ sở cai nghiện công lập đã chuyển sang các cơ sở đa chức năng, tức là tiếp nhận, cai nghiện cho cả các đối tượng cai nghiện tự nguyện và đối tượng cai nghiện bắt buộc theo Đề án Đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020, quy định này bảo đảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có và giải quyết tốt yêu cầu của thực tiễn. Do đó, không thể xác định cơ sở cai nghiện theo biện pháp cai nghiện (tự nguyện hay bắt buộc), mà phải đa chức năng. Tuy nhiên, để bảo đảm tính thông nhất, Bộ Công an thấy rằng cần phải chỉnh lý Khoản 2 Điều 36 là “2. Thời hạn, trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng biện pháp
cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện thực hiện theo Luật Xử lý vi phạm hành chính.” Đồng thời, đề nghị cơ quan chủ trì dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính dự thảo sửa đổi Điều
95 Luật xử lý vi phạm hành chính theo hướng sửa “Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” thành “
Biện pháp đưa đicai nghiện bắt buộc”.
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Ngoài ra, đối với quy định về thành lập, tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân, cơ sở cai nghiện ma túy công lập, Bộ Tư pháp cho rằng, các cơ sở này chỉ khác nhau về thẩm quyền thành lập và quản lý, còn chức năng, nhiệm vụ, hoạt động cơ bản của hai loại hình này đều nhằm thực hiện các biện pháp cai nghiện ma túy. Do đó, các quy định về điều kiện đầu tư, bố trí cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, về phương pháp, biện pháp chuyên môn nghiệp vụ trong cai nghiện và quản lý người cai nghiện, về quyền hạn và trách nhiệm đối với hiệu quả của hoạt động cai nghiện... cần có sự tương đồng. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc, rà soát lại các quy định tại Điều 33, Điều 34 dự thảo Luật để quy định thống nhất các nội dung áp dụng chung cho các loại hình cơ sở cai nghiện này, làm cơ sở cho Chính phủ quy định cụ thể cho mỗi loại hình, tránh tạo sự khác biệt quá lớn giữa các cơ sở cai nghiện.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau:
Cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân và Cơ sở cai nghiện ma túy công lập không khác nhau về phương tiện kỹ thuật, về phương pháp, biện pháp chuyên môn nghiệp vụ trong cai nghiện và quản lý người cai nghiện, về quyền hạn và trách nhiệm đối với hiệu quả của hoạt động cai nghiện, nhưng có sự khác nhau về chức năng, nhiệm vụ nên thẩm quyền thành lập và quản lý khác nhau. Về quy mô hoạt động thì Cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân cần phải quy định linh hoạt để phù hợp với năng lực đầu tư, quản lý và chuyên môn của tư nhân và thúc đẩy, tạo điều kiện tối đa phát triển chính sách xã hội hóa công tác cai nghiện ma túy. Do đó, Bộ Công an đề xuất giữ nguyên như dự thảo là phù hợp .
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Đối với quy định về cơ sở cai nghiện ma túy công lập (Điều 34): tại Điều 36 dự thảo Luật quy định việc cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Hiện nay, các quy định về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy định tại các điều 95, 96, 103, 104, 105,… của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số
221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Nghị định số
136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
221/2013/NĐ-CP. Do đó, đề nghị Bộ Công an cân nhắc, xác định rõ các quy định cụ thể liên quan tới việc tổ chức cai nghiện bắt buộc tại các cơ sở cai nghiện công lập được quy định tại dự thảo Luật này hay được thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Trên cơ sở đó, đề nghị rà soát các quy định tại điểm a khoản 2 (quy định cơ sở cai nghiện được bố trí khu lưu trú tạm thời đối với người xác định tình trạng nghiện ma túy và chờ lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc); điểm c khoản 5 (quy định người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma túy công lập được quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật để quản lý, giáo dục, chữa trị cho người cai nghiện ma túy và yêu cầu chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân giúp đỡ khi cần thiết; kiểm tra hành chính người nghiện ma túy, đồ vật trong cơ sở cai nghiện ma túy khi phát hiện có cất giấu chất ma túy, các vật dụng cấm trong người, đồ vật); điểm d khoản 5 (quy định cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy công lập được truy tìm người cai nghiện ma túy bỏ trốn)… là các quy định phù hợp với trường hợp cai nghiện bắt buộc có được quy định tại dự thảo Luật này.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau: Bộ Công an xin tiếp thu, chính lý dự thảo Luật theo hướng: những quy định về nội dung thực hiện các biện pháp cai nghiện ma túy sẽ quy định ở dự thảo Luật này như cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ sở cai nghiện ma túy công lập; còn những những quy định mang tính cưỡng chế thi hành biện pháp xử lý hành chính sẽ kiến nghị cơ quan chủ trì quy định tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính nghiên cứu, bổ sung các biện pháp cưỡng chế cũng như thẩm quyền cho người đứng đầu cơ sở cai nghiện cũng như cán bộ quản lý tại các cơ sở này. Xuất phát từ thực tế, có nhiều người trong số những người bị đưa đi cai nghiện bắt buộc không chấp hành việc cai nghiện mà có ý thức chống đối rất cao (vụ học viên cai nghiện chém cán bộ cơ sở cai nghiện tại Bình Thuận; vụ học viên gây rối phá trại tại Tiền Giang, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu...) nhưng người đứng đầu cơ sở cai nghiện cũng như cán bộ quản lý không có biện pháp cưỡng chế để ngăn chặn những hành vi vi phạm này.
đ) Về các trường hợp áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Điều 36 dự thảo Luật quy định các trường hợp áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên và trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo Luật Xử lý vi phạm hành chính. Bộ Tư pháp cho rằng, để bảo đảm phù hợp với mục tiêu sửa đổi và phạm vi điều chỉnh, tại dự thảo Luật này cần xác định rõ cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính đối với một số trường hợp nghiện ma túy, trong đó, quy định cụ thể các trường hợp phải áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc và việc áp dụng thực hiện theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính là phù hợp. Quy định theo hướng này sẽ vừa bảo đảm xác định đầy đủ, cụ thể các biện pháp xử lý đối với người nghiện ma túy trong dự thảo Luật, vừa bảo đảm thống nhất với các quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Hiện nay, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Quốc hội để trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10, trong đó có dự kiến sửa đổi, bổ sung các quy định về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Do đó, đề nghị Bộ Công an phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và các cơ quan của Quốc hội để xác định rõ các nội dung cần được điều chỉnh trong dự thảo Luật này, nội dung được điều chỉnh trong Luật xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm sự thống nhất, liên thông, nhất quán trong các quy định về áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc.
Đồng thời, đề nghị nghiên cứu kỹ các trường hợp áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc để quy định chính xác từng trường hợp bị áp dụng và các trường hợp không bị áp dụng biện pháp này. Tại Điều 28 Luật Phòng, chống ma túy hiện hành không có quy định về trường hợp không áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định các trường hợp không áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau: Về các trường hợp không áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc do Luật Xử lý vi phạm hành chính đã quy định nên không thiết kế quy định nội dung này tại đây. Bộ Công an sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp để đảm bảo sự thống nhất của Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) và Luật Xử lý vi phạm hành chính.
e) Về cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Đề nghị Bộ Công an cân nhắc kỹ việc đưa tất cả các đối tượng từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện ma túy bắt buộc từ 6 tháng đến 12 tháng tại khoản 2 Điều 39. Bộ Tư pháp cho rằng, việc cai nghiện đối với người chưa thành niên từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi phải bảo đảm có các biện pháp cai nghiện phù hợp với thể chất, sự phát triển tâm sinh lý và mục đích chăm sóc, giáo dục đối tượng này, phù hợp với các quy định tại Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, các khuyến nghị của tổ chức bảo vệ trẻ em và về phòng, chống ma túy đối với đối tượng đặc thù này. Trong đó, đề nghị cân nhắc đối với nhóm đối tượng trong độ tuổi trẻ em (từ đủ 12 đến dưới 16 tuổi) cần phải có các biện pháp cai nghiện phù hợp, kết hợp với chăm sóc, bảo vệ, giáo dục phù hợp với các quy định của Luật trẻ em; đối với nhóm đối tượng trong trong độ tuổi thanh niên (từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi) cần có các biện pháp cai nghiện phù hợp, kết hợp với giáo dục, lao động, rèn luyện thể chất, tinh thần và hướng nghiệp sau khi cai nghiện, tái hòa nhập cộng đồng… Bên cạnh đó, tại dự thảo Luật quy định đưa đối tượng này vào cơ sở cai nghiện công lập để cai nghiện bắt buộc nhưng chỉ quy định cơ sở cai nghiện công lập bố trí khu vực dành riêng cho đối tượng từ 12 đến 18 tuổi, chưa có quy định cụ thể về các biện pháp cai nghiện phù hợp với đặc điểm, yêu cầu riêng của đối tượng này. Các quy định tại khoản 4, 5, 6 Điều 39 cũng chỉ giao Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định chi tiết việc lập hồ sơ, trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện công lập để cai nghiện bắt buộc mà không giao quy định cụ thể về biện pháp và cách thức tổ chức cai nghiện.
Ngoài ra, tại Luật Xử lý vi phạm hành chính còn có các nguyên tắc, biện pháp xử lý đối với người chưa thành viên vi phạm pháp luật phù hợp với mục tiêu, chính sách xử lý đối với đối tượng từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi. Do đó, việc dự thảo Luật chỉ quy định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện bắt buộc đối với mọi đối tượng từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 36 là cần được cân nhắc thêm để bảo đảm có sự cân xứng trong các biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên trong các văn bản pháp luật.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau:
Thứ nhất, về vấn đề “đưa tất cả các đối tượng từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập”:
Cai nghiện cho người từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi được coi là một dịch vụ hỗ trợ hay biện pháp chăm sóc thay thế đối với trẻ em có "hoàn cảnh đặc biệt" theo Luật Trẻ em, không coi là biện pháp xử lý hành chính. Khoản 1 Điều 39 đã quy định đối tượng từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi được lựa chọn biện pháp cai nghiện tự nguyện, chỉ áp dụng biện pháp bắt buộc khi tình trạng nghiện ma túy ảnh hưởng đến việc phát triển bình thường của trẻ. Như vậy, tức là việc áp dụng biện pháp bắt buộc chỉ là sau cùng khi không còn biện pháp nào tốt hơn cho họ. Về thẩm quyền, trình tự thủ tục, dự thảo đã quy định thống nhất với Luật Trẻ rm, Luật Thanh niên và tương thích với các Công ước Quốc tế về quyền trẻ em.
Thứ hai, về các vấn đề: “phải bảo đảm có các biện pháp cai nghiện phù hợp với thể chất, sự phát triển tâm sinh lý và mục đích chăm sóc, giáo dục đối tượng này, phù hợp với các quy định tại Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em”; vấn đề phân lập người từ “12 đến dưới 16 tuổi” và “từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi” và quy đinh chi tiết các biện pháp can thiệp, hỗ trợ phù hợp với đặc điểm, yêu cầu riêng của các đối tượng này, Bộ Công an xin tiếp thu, chỉnh lý tại dự thảo Luật theo hướng sửa khoản 5 Điều 39 như sau: “Chính phủ quy định chi tiết việc lập hồ sơ đưa người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện bắt buộc; chế độ cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi”.
g) Về cai nghiện ma túy cho người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh trường giáo dưỡng
Ý kiến của Bộ Tư pháp: Điều 40 dự thảo Luật quy định “Nhà nước tổ chức cai nghiện ma túy với các phương pháp, hình thức phù hợp đối với người nghiện ma túy trong trại tạm giam, trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng. Cơ quan quản lý các cơ sở này phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền ở địa phương”, tuy nhiên quy định này chưa xác định cụ thể phương pháp cai nghiện thích hợp cho các đối tượng và cơ chế, cách thức của việc phối hợp. Bộ Tư pháp nhận thấy, trong chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở này không có hoạt động cai nghiện, nhưng trên thực tế phải tổ chức hoạt động cai nghiện cho các đối tượng đang bị tạm giam, thi hành án phạt tù hoặc trong các cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng. Để hoạt động cai nghiện tại các cơ sở này được hiệu quả, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo quy định cụ thể các phương pháp, biện pháp, điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện cai nghiện, cơ chế phối hợp giữa các cơ sở với chính quyền địa phương tại dự thảo Luật để bảo đảm thuận lợi, khả thi khi thực hiện.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau: Bộ Công an sẽ phối hợp với các Bộ , ngành có liên quan để xây dụng cơ chế phối hợp đảm bảo thực hiện quy định này.
h) Về can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Điều 44 dự thảo Luật tiếp tục xác định biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy là biện pháp làm giảm hậu quả tác hại liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện ma túy gây ra cho bản thân, gia đình, cộng đồng và giao Chính phủ quy định cụ thể. Tại Luật phòng chống HIV/AIDS có quy định về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV gồm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và việc điều trị nghiện bằng thuốc thay thế hiện đang được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 90/2016/NĐ-CP. Theo đó, Bộ Công an cần giải trình rõ các biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy có bao gồm biện pháp can thiệp quy định tại Luật Phòng, chống HIV/AIDS và Nghị định số 90/2016/NĐ-CP, trên cơ sở đó xác định cụ thể hơn các biện pháp can thiệp, nguyên tắc, cách thức, thẩm quyền áp dụng biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy tại dự thảo Luật. Ngoài ra, hiện nay sự xuất hiện của các loại ma túy tổng hợp với những tác hại, hậu quả gây ra cho người sử dụng và hệ quả từ người sử dụng cho gia đình, cộng đồng rất lớn, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có các biện pháp can thiệp giảm tác hại của việc sử dụng ma túy tổng hợp. Theo đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các quy định về biện pháp can thiệp giảm tác hại của việc sử dụng ma túy tổng hợp vào dự thảo Luật. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ quy định chi tiết về các biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy phù hợp với tình hình thực tiễn.
Bộ Công an sẽ phối hợp với Bộ Y tế để nghiên cứu, làm rõ các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong quy định của Chính phủ.
i) Về huy động nguồn lực xã hội trong tổ chức cai nghiện ma túy:
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Đề nghị cân nhắc quy định việc ngân sách nhà nước thuộc kinh phí tại điểm a khoản 1 Điều 45 để xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy, phòng, chống tái nghiện ma túy, can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy nhằm bảo đảm phù hợp với tên Điều.
Bộ Công an tiếp thu ý kiến này để chỉnh sửa tên điều luật thành: “Nguồn lực trong tổ chức cai nghiện ma túy và hỗ trợ sau cai nghiện”.
k) Ý kiến của Bộ Tư pháp: Ngoài ra, để cai nghiện ma túy thành công phải có sự hỗ trợ lâu dài, kiên trì từ phía gia đình, cộng đồng cũng như toàn thể xã hội đối với người nghiện thông qua việc dạy nghề, tạo việc làm, thực hiện các liệu pháp tâm lý, thường xuyên quan tâm, động viên người nghiện xóa bỏ mặc cảm, vượt qua cám dỗ để không tái nghiện, có các biện pháp để giúp người nghiện tái hòa nhập cộng đồng cũng như các biện pháp thay đổi nhận thức, thái độ của cộng đồng đối với người nghiện ma túy. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc để bổ sung các quy định cụ thể về các biện pháp này tại dự thảo Luật, bảo đảm các biện pháp, giải pháp cai nghiện được đồng bộ, bền vững hơn.
Về vấn đề này, Bộ Công an báo cáo như sau: Nội dung này đã được quy định tại Điều 42 dự thảo Luật.
8.10. Về nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy (Chương VI)
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Khoản 8 Điều 49 dự thảo Luật quy định Bộ Công an có trách nhiệm: “Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn việc lập hồ sơ và tổ chức đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, giữ gìn an ninh, trật tự tại các cơ sở cai nghiện, kiểm tra hoạt động cai nghiện ma túy tại cộng đồng và trong các cơ sở cai nghiện”. Tuy nhiên, việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quy định tại Điều 103 Luật Xử lý vi phạm hành chính, Cơ quan Công an chỉ có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài liệu và lập hồ sơ đề nghị quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Khoản 1 Điều 110 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị có trách nhiệm tổ chức thi hành…”. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc chỉnh lý quy định tại khoản 8 Điều 46 dự thảo Luật cho phù hợp với quy định nêu trên của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Tiếp thu ý kiến của Bộ Tư pháp, Bộ Công an chỉnh lý khoản 8 Điều 48 như sau: “Hướng dẫn việc thu thập tài liệu lập hồ sơ và tổ chức đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc…”
- Về chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ phòng, chống ma túy (Điều 61): Bộ Tư pháp nhận thấy, tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã đưa ra giải pháp Không gắn mức lương của cán bộ, công chức, viên chức với việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định chính sách, chế độ không có tính chất lương, do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc nội dung nêu trên để bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng.
Về vấn đề này, Bộ Công an xin tiếp thu không quy định chế độ đặc thù đối với cán bộ công chức, viên chức, người lao động thuộc cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, thực hiện công tác cai nghiện và điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Tuy nhiên, thể chế hóa quan điểm của Đảng tại Chỉ thị 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy: “Tăng cường nguồn lực cho công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy”; “Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù và ưu tiên đầu tư nguồn lực”, tại Điều 5 của dự thảo Luật quy định: "Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, cơ quan thực hiện công tác cai nghiện ma túy, điều trị nghiện ma túy bằng thuốc thay thế."
8.11. Về hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy (Chương VII)
- Ý kiến của Bộ Tư pháp: Nội dung tại Chương này chưa có sự thay đổi so với quy định tại Luật Phòng, chống ma túy năm 2000. Trong khi đó, từ năm 2010 đến nay, các quy định pháp luật về hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp đã được hoàn thiện (Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Pháp lệnh về ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế năm 2007, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015...). Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì rà soát, chỉnh sửa để bảo đảm sự thống nhất của Chương VII dự thảo Luật với các văn bản pháp luật nêu trên, đặc biệt là quy định về các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp, về nguyên tắc hợp tác quốc tế trong phòng, chống ma túy… Ngoài ra, đề nghị cân nhắc chuyển nội dung của Điều 6 xuống Chương hợp tác quốc tế về phòng chống ma túy và thiết kế lại các điều trong chương này cho logic, tránh trùng lặp.
Bộ Công an tiếp thu và chỉnh lý vào dự thảo để phù hợp với pháp luật về tương trợ tư pháp đối với các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp.
8.12. Về khen thưởng và xử lý vi phạm (Chương VIII)
- Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc không quy định nội dung về khen thưởng và xử lý kỷ luật theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Công an không quy định nội dung chương về khen thưởng và xử lý kỷ luật trong dự thảo Luật.
Trên đây là bản tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định đối với dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Bộ Công an báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Văn phòng Chính phủ (để phối hợp);
- Bộ Tư pháp (để phối hợp);
- Lưu: VT, BCA (C04), 5b.
|
BỘ TRƯỞNG
(Đã ký)
Đại tướng Tô Lâm
|
Biểu đánh giá tác động của Thủ tục hành chính về dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Bộ Công an
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
6.1.-Đánh-giá-theo-biểu-mẫu-01A.ĐG-KSTT.doc
Phụ lục I
BIỂU MẪU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH (BIỂU MẪU 01A/ĐG-KSTT)
(Ban hành kèm theo Thông tư số 07/2014/TT-BTP ngày 24 tháng 02 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)
BỘ CÔNG AN
|
Biểu mẫu 01A/ĐG-KSTT
|
BIỂU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
Tên dự án, dự thảo: Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TẠI DỰ ÁN, DỰ THẢO
|
1. Nội dung cụ thể trong ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần quản lý?
|
a) Nội dung 1: Cấp và thu hồi các giấy phép trong kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
- Nêu rõ lý do Nhà nước cần quản lý: Việc cấp và thu hồi các giấy phép trong kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy nhằm đảm bảo các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy có đủ điều kiện, khả năng triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng các hoạt động đó vào mục đích pháp luật cấm. Đối với các trường hợp vi phạm, không còn đủ điều kiện, khả năng thực hiện thì bị thu hồi giấy phép đã cấp.
- Nêu rõ điều, khoản, và tên văn bản quy định: Khoản 14 Điều 3, Điều 14, Điều 18, Khoản 5 Điều 46, Khoản 10 Điều 48, Khoản 8 Điều 52, Khoản 3 Điều 53 Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
b) Nội dung 2: Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy
- Nêu rõ lý do Nhà nước cần quản lý: Tăng cường quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy nhằm đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, ngăn chặn hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và các hành vi gây mất trật tự an toàn xã hội, giảm số người nghiện, giúp người sử dụng trái phép chất ma túy rời xa ma túy.
- Nêu rõ điều, khoản và tên văn bản quy định: Điều 25, Khoản 1 Điều 27 Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
c) Nội dung 3: Cấp phép hoạt động cai nghiện ma túy
- Nêu rõ lý do Nhà nước cần quản lý: Hình thành hành lang pháp lý cho việc thành lập các cơ sở cai nghiện tư nhân, làm cơ sở quản lý, giám sát chất lượng dịch vụ tại các cơ sở cai nghiện tư nhân.
- Nêu rõ điều, khoản và tên văn bản quy định: Điều 33 Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
|
2. Nội dung quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cụ thể của cá nhân, tổ chức cần được bảo đảm?
|
a) Nội dung 1: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có đủ điều kiện, khả năng thực hiện các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, có nhu cầu tổ chức hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy phục vụ mục đích kinh doanh, y tế... cần gửi hồ sơ xin phép đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Nêu rõ lý do Nhà nước cần quy định: Cá nhân, cơ quan, tổ chức được cấp phép tiến hành các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy để phục vụ nhu cầu, mục đích hợp pháp của mình, đồng thời có nghĩa vụ phải tuân thủ các quy định của pháp luật khi tiến hành các hoạt động đó. Các trường hợp vi phạm, không còn đủ điều kiện, khả năng thực hiện thì bị thu hồi giấy phép đã cấp.
- Nêu rõ điều, khoản, và tên văn bản quy định: Khoản 14 Điều 3, Điều 14, Điều 18, Khoản 5 Điều 46, Khoản 10 Điều 48, Khoản 8 Điều 52, Khoản 3 Điều 53 Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
b) Nội dung 2: Ngưởi sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy cần được phân loại, áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp.
- Nêu rõ lý do Nhà nước cần quản lý: Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành yêu cầu thực hiện việc xác định tình trạng nghiện của cơ quan có thẩm quyền. Người nghiện thì phải áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Nêu rõ điều, khoản và tên văn bản quy định: Điều 25, Khoản 1 Điều 27 Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
c) Nội dung 3: Cấp phép hoạt động cai nghiện ma túy
- Nêu rõ lý do Nhà nước cần quản lý: Các cơ sở cai nghiện tư nhân có đủ điều kiện, năng lực cung cấp dịch vụ cai nghiện thì được cấp giấy phép. Người nghiện cai nghiện tự nguyện có thể lựa chọn cơ sở cai nghiện tư nhân cung cấp dịch vụ cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc vào cơ sở cai nghiện tập trung.
- Nêu rõ điều, khoản và tên văn bản quy định: Điều 33 Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
|
3. Những biện pháp có thể sử dụng để thực hiện yêu cầu quản lý nhà nước; bảo đảm quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nêu trên?
|
a) Đối với Nội dung 1 tại Mục [I.1] và [I.2]:
- Quy định TTHC:
|
Báo cáo Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Bộ Công an
Ngày ban hành: 30/07/2020
Số hiệu:690/BC-BCA
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
5.-BAO-CAO-BINH-DANG-GIOI-29T7.docx
BỘ CÔNG AN
Số: 690/BC-BCA
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2020
|
BÁO CÁO
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo
Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Thực hiện Nghị quyết số 106/2020/QH14 ngày 10/6/2020 của Quốc hội khóa XIV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 đã bổ sung dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, theo đó dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV (tháng 10/2020) và xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 11 khóa XIV (tháng 3/2021). Theo phân công của Văn phòng Chính phủ tại công văn số 1562/VPCP-PL ngày 29/02/2019 về việc chỉnh lý dự thảo Đề nghị Chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh năm 2021, trong đó Thủ tướng Chính phủ phân công Bộ Công an chủ trì soạn thảo dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi). Căn cứ Nghị quyết số 121/NQ-CP ngày 21/12/2019 của Chính phủ về Hội nghị Chính phủ với địa phương và Phiên họp thường kỳ tháng 12 năm 2019, Chính phủ đã thống nhất cơ bản thông qua các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) do Bộ Công an trình. Bộ Công an đã xây dựng hồ sơ dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và nghị định hướng dẫn thi hành.
Thực hiện quy định của Luật Bình đẳng giới năm 2006 về đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật, Bộ Công an báo cáo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng dự án Luật phòng, chống ma túy (sửa đổi) như sau:
I. TÌNH HÌNH CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG MA TÚY CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ LỒNG GHÉP BÌNH ĐẲNG GIỚI
Thực tiễn thi hành LuậtPCMT năm 2000 được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2001 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008 (sau đây gọi chung là Luật PCMT) đã tạo hành lang pháp lý cho công tác PCMT, góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh PCMT, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện Luật PCMT đã thu được nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực như: công tác quản lý nhà nước về PCMT đi vào nề nếp và có hiệu quả; nhận thức của cán bộ, công chức các cấp và đông đảo người dân trong xã hội về tác hại của ma túy được nâng lên; công tác cai nghiện ma túy, tổ chức tốt cai nghiện và quản lý sau cai được đổi mới; công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy đạt được nhiều kết quả tốt,.... Những kết quả triển khai Luật PCMT nêu trên đã giúp kiềm chế sự gia tăng của tệ nạn ma túy, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, cụ thể như sau:
1. Công tác chỉ đạo triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy
Để triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy, ngày 11/1/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/2008/CT-TTg về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy và Nghị quyết số 16/2008/QH12 của Quốc hội, trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã ban hành các kế hoạch triển khai thi hành trong đơn vị mình, tổ chức các Hội nghị triển khai thi hành Luật.
Công tác chỉ đạo triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy đã được tiến hành một cách nghiêm túc, kịp thời và có khoa học, đảm bảo các điều kiện cần thiết để đưa các quy định của Luật vào đời sống xã hội, áp dụng bình đẳng cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biết giới tính, độ tuổi, dân tộc …góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy.
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng,chống ma túy:
Thực hiện Luật Phòng, chống ma túy, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống ma túy, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, tích cực, chủ động triển khai nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công tác phòng, chống ma túy: Phát hành tài liệu, sách, tranh ảnh, tờ rơi, tờ gấp, đĩa CD, mở các chuyên trang, chuyên mục trên sóng phát thanh, Đài truyền hình, báo in, báo điện tử, đến các phương thức tuyên truyền trực quan như mít tinh, cổ động, triển lãm, trưng bày pano, áp phích, tổ chức các cuộc nói chuyện, tọa đàm, tuyên truyền miệng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật và kiến thức về phòng, chống ma túy. Hằng năm, hưởng ứng tháng hành động phòng, chống ma túy, Ngày toàn dân phòng, chống ma túy (26/6), Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm tổ chức lễ ra quân, mít tinh lớn, thu hút được sự tham gia của các cấp, các ngành, các đoàn thểvà đông đảo quần chúng nhân dân, được truyền hình trực tiếp đến nhân dân cả nước nhằm biểu dương sức mạnh của tổ chức chính trị - xã hội.
Công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy được tiến hành rộng rãi trong công chức, viên chức, người lao động, học sinh, sinh viên áp dụng bình đẳng cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giới tính được đẩy mạnh và thu được những kết quả tích cực.
3. Công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Hiện nay, cả nước có khoảng 600 đơn vị kinh doanh nhập khẩu tiền chất, số lượng tiền chất nhập khẩu khoảng 450 nghìn tấn và 500 nghìn lít các loại tiền chất và hóa chất có chứa tiền chất mỗi năm phục vụ kinh doanh, dùng cho sản xuất công nghiệp và xử lý môi trường. Số lượng tiền chất nhập khẩu hàng năm tăng từ 10-15% do nhu cầu sử dụng của các đơn vị ngày một tăng cao do chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Chính phủ đã tạo điều kiện cho các Công ty có vốn đầu tư nước ngoài vào đầu tư sản xuất hàng gia công theo hình thức Doanh nghiệp chế xuất đã sử dụng một lượng lớn tiền chất, các Công ty này chủ yếu mua tiền chất từ các công ty nội địa và làm thủ tục hải quan xuất, nhập khẩu tại chỗ. Hiện nay,Việt Nam mới sản xuất được 02 tiền chất đó là sulphuric acid và hydrochloric acid còn lại 100% là nhập khẩu.
4. Công tác cai nghiện ma túy
Tình hình người nghiện ngày càng diễn biến phức tạp, theo thống kê, năm 2009 số người nghiện có hồ sơ quản lý cả nước là 146.731 người, năm 2018 số người nghiện cả nước là 225.099 người, tăng 72.368 người so với năm 2009. Công an các địa phương đã chủ động tiến hành điều tra, nắm tình hình người nghiện và phối hợp với các lực lượng có liên quan lập hồ sơ đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc, mở hồ sơ quản lý người sử dụng ma túy, từ đó đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương nhiều kế hoạch, đề án trong quản lý người nghiện ở địa bàn cư trú. Năm 2009 lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy đã phối hợp với Công an cơ sở lập hồ sơ và đưa trên 10.000 người nghiện ma túy vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc; năm 2010 trên 10.000 người; năm 2011: 7.705 người, năm 2012: 3.790 người; năm 2013: 2.462 người; năm 2014: 3.825 người; năm 2015: 1.894 người; năm 2016: 6.975 người; 6 tháng đầu năm 2017: 5.599 người nghiện ma túy được lập hồ sơ và đưa vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống ma túy hàng năm của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý năm 2017 là 222.582 người, năm 2018 là 225.099 người. Sau khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực, từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2018, theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý 69.241 trường hợp đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Người nghiện có ở tất cả các địa phương, có ở mọi thành phần, mọi lứa tuổi song chủ yếu ở lớp trẻ (0,1% dưới 16 tuổi; 76% dưới 35 tuổi). Khoảng 1.600 người tử vong do sốc quá liều hàng năm;khoảng 50% người nghiện có các vấn đề về sức khỏe tâm thần.Tỷ lệ phạm nhân phạm tội về ma túy đang ở các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ là 41,04%, tỷ lệ phạm nhân có tiền sử nghiện ma túy là 28,58%. Công tác cai nghiện ma túy được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới tính.
Tính đến tháng 6/2020 trên cả nước có 36.374 người nghiện ma túy cai nghiện tại các trung tâm cai nghiện do Bộ lao động thương Binh và xã hội quản lý trong đó có 538 là phụ nữ chiếm gần 1,48% (số liệu do Cục phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ lao động Thương binh và xã hội cung cấp).
5. Công tác đấu tranh với tội phạm về ma túy
Thực hiện Luật Phòng, chống ma túy, các bộ đã chỉ đạo lực lượng chuyên trách tăng cường nắm tình hình, tổ chức đấu tranh mạnh mẽ trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, tập trung vào tuyến Tây Bắc, Bắc miền Trung và Tây Nam, các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, các thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh...); đẩy mạnh công tác phối hợp, nhất là phối hợp với các địa phương và các lực lượng chức năng của các nước có chung đường biên giới để triển khai các hoạt động khảo sát, phối hợp kiểm tra, ngăn chặn từ xa... qua đó, nhiều tổ chức, đường dây mua bán, vận chuyển ma túy lớn trong nước và xuyên quốc gia được phát hiện, bắt giữ, thu giữ lượng ma túy lớn. Đồng thời, chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phổ mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm ma túy; tổ chức triệt xóa các điểm, tụ điểm ma túy phức tạp.
Từ năm 2009 đến hết năm 2018, Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Hải quan đã phát hiện, điều tra bắt giữ 203.624 vụ/306.924 đối tượng phạm tội về ma túy; thu giữ 9.329,823 kg và 2.635 bánh Heroine; 1.996,180 kg thuốc phiện; trên 25.000 kg cần sa tươi, khô, khoảng 6.968 kg ma túy tổng hợp; 9.275.257 viên ma túy tổng hợp và nhiều loại ma túy khác cùng nhiều vũ khí, phương tiện, tài sản có liên quan.
Đã đề nghị truy tố 142.275 vụ với 171.354 bị can; Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý xét xử 155.584 vụ án với 199.680 bị cáo phạm tội về ma túy, chất lượng truy tố, xét xử các vụ án về ma túy của ngành Kiểm sát, Tòa án các cấp được nâng lên, cơ bản đảm bảo đúng người đúng tội.
Quá trình đấu tranh với tội phạm về ma túy được thực hiện đồng bộ, thống nhất không có sự phân biệt về giới.
6. Công tác hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy:
Trong công tác xây dựng, đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy: Việt Nam đã ký các hiệp định song phương về phòng, chống ma túy với Chính phủ các nước: Campuchia, Lào, Trung Quốc, Liên bang Nga, Myanmar, Hungary, Thái Lan, Hoa Kỳ và các hiệp định hợp tác trong phòng, chống tội phạm với hầu hết các nước trong khu vực và các đối tác, có ý nghĩa quan trọng về phòng, chống ma túy trên thế giới. Hoạt động hợp tác song phương với các nước đã được tăng cường theo hướng đi sâu giải quyết các công việc cụ thể và mang tính thực tiễn. Cơ chế giao ban giữa các tỉnh đã hình thành và dần đi vào thường xuyên. Việt Nam đã hỗ trợ nâng cao năng lực cho lực lượng phòng, chống ma túy Lào và Campuchia thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, đầu tư kinh phí và phương tiện.
Trong quá trình hợp tác quốc tế trong phòng, chống ma túy luôn tuân thủ Hiến chương LHQ năm 1945 nội dung về các quyền giữa phụ nữ và nam giới; Tuyên ngôn thế giới về quyền con người; Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949; Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952; Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957; Công ước về đăng ký kết hôn, tuổi tối thiểu khi kết hôn và việc kết hôn tự nguyện năm 1962... Các văn bản nêu trên được quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong quá trình hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
II. VỀ LỒNG GHÉP VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT PHÒNG, CHỐNG MA TÚY (SỬA ĐỔI)
Thực hiện quy định của Luật bình đẳng giới năm 2006 về bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật, Bộ Công an đã quán triệt, thực hiện tinh thần bình đẳng giới trong quá trình xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
1. Về quá trình nghiên cứu thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong việc tổ chức xây dựng dự án Luật PCMT (sửa đổi)
Thực hiện Điều 21 Luật Bình đẳng giới và các quy định có liên quan của Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản pháp luật, Ban soạn thảo, Tổ biên tập của dự án Luật PCMT (sửa đổi) được thành lập, cơ cấu thành phần dựa trên ba yêu cầu cơ bản:
- Thứ nhất, bảo đảm được quy định chung của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Thứ hai, đáp ứng được những đặc thù về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự án Luật;
- Thứ ba, đáp ứng được yêu cầu về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong thực hiện dự án Luật với sự tham gia của đại diện cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có liên quan đến vấn đề giới.
- Hiện nay, danh sách của các cơ quan tham gia Ban soạn thảo, Tổ Biên tập Luật PCMT (sửa đổi) có 4/36 là nữ (chiếm 11%), Tổ Biên tập có 10/47 là nữ (chiếm 21%). Trong đó có sự tham gia đại diện của cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
- Trong các các nội dung về mục tiêu, quan điểm cơ bản, những định hướng lớn của dự án Luật thì cơ quan chủ trì soạn thảo đều nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp lồng ghép nội dung giới và bình đẳng giới với sự tham gia không chỉ của các thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập mà còn có sự tham gia của đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan đến vấn đề giới.
2. Xác định vấn đề giới trong Luật PCMT
4.1. Tầm quan trọng của lồng ghép giới trong dự án Luật PCMT
Tại Khoản 1 Điều 7 Luật bình đẳng giới năm 2006(Luật BĐG) quy định “Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.”
Tại Khoản 2 Điều 21 Luật BĐG quy định: “Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, chuẩn bị báo cáo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này và phụ lục thông tin, số liệu về giới có liên quan đến dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.”
Do vậy, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) là một khâu quan trọng không thể thiếu trong trình tự, thủ tục xây dựng Luật.
4.2. Thông tin về giới liên quan đến dự án Luật
Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) là trụ cột pháp lý quan trọng đối với công tác phòng, chống ma túy, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Việc hoàn thiện các quy định của Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) sẽ giúp tăng cường hiệu quả của công tác phòng, chống ma túy, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm và tệ nạn ma túy, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đồng thời, cũng thể hiện trách nhiệm quốc tế của Việt Nam trong thực thi các Công ước quốc tế về phòng, chống ma túy. Những nội dung chính quy định trong Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) gồm: Trách nhiệm phòng, chống ma túy của cơ quan, cá nhân, tổ chức; kiểm soát các hoạt động hợp pháp về ma túy; công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; công tác cai nghiện ma túy; quản lý nhà nước và hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy. Các nội dung này không có quy định trái với các nội dung về bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình quy định tại Chương II của Luật Bình đẳng giới năm 2006 (Luật BĐG), đồng thời cũng không có quy định phân biệt đối xử nam nữ trong các lĩnh vực của công tác phòng, chống ma túy.
4.3. Vấn đề giới trong Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật về ma túy được quy định trong Bộ luật Hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, vấn đề bình đẳng trong hình phạt, xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp xử lý hành chính được giải quyết tại Bộ luật Hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) không điều chỉnh vấn đề này.
Tuy nhiên, trong quy định đối với các Cơ sở cai nghiện ma túy, Bộ Công an xác định vấn đề giữa nam nữ có sự khác biệt đặc thù, do đó, việc cai nghiện tại các Cơ sở cai nghiện cần bố trí khu riêng biệt cho người nghiện là nam giới và người nghiện là nữ giới, có quy định phù hợp để quản lý người nghiện là nam giới và nữ giới trong Cơ sở cai nghiện.
3. Đánh giá việc thực hiện lồng ghép giới trong Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Việc lồng ghép giới trong Luật Phòng, chống (sửa đổi) phải đảm bảo thực hiện các quy định tại Chương III Các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới của Luật BĐG.
Trên cơ sở nội dung và quy định trong dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Bộ Công an xác định cần áp dụng biện pháp quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 19 Luật BĐG: “Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam” để giải quyết vấn đề người nghiện nữ được tách ra cai nghiện ở khu vực riêng, đồng thời vẫn đảm bảo không phát sinh gánh nặng đối với nguồn lực còn hạn chế trong công tác cai nghiện hiện nay.
Để thực hiện được yêu cầu này, trong các Cơ sở cai nghiện công lập hay dân lập đều phải có khu vực riêng cho người nghiện nữ. Đồng thời, cán bộ của trung tâm cai nghiện phụ trách với khu vực riêng cho người nghiện nữ cũng phải là nữ để hạn chế phát sinh các vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi của người nghiện nữ.
4. Kiến nghị giải quyết vấn đề lồng ghép bình đẳng giới trong Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đã quy định cụ thể các khu riêng biệt trong cơ sở cai nghiện, cụ thể:
“Trong cơ sở cai nghiện, những người nghiện ma túy sau đây phải được bố trí vào các khu vực tách riêng với những người nghiện ma túy khác để quản lý và chữa bệnh:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Phụ nữ;
c) Người có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm;”
Quy định như vậy là đáp ứng được yêu cầu đặt ra của việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
Triển khai xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Bộ Công an đã thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập dự án Luật với sự tham gia của đại diện các cơ quan liên quan; trong đó, có thành viên Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập là nữ giới.Tổ Biên tập Luật PCMT (sửa đổi) có 4/36 là nữ (chiếm 11%), Tổ Biên tập có 10/47 là nữ (chiếm 21%). Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) được bảo đảm thực hiện theo quy định của Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành có liên quan. Hồ sơ dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đã được gửi lấy ý kiến tham gia của các cơ quan có liên quan đến vấn đề bình đẳng giới như Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam…
Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) được xây dựng trên quan điểm quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quy định về phòng, chống ma túy phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tốt hơn nữa quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm tính công khai, minh bạch. Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) được xây dựng để áp dụng chung cho mọi công dân, không phân biệt giới tính. Công dân dù là nam hay nữ đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau khi thực hiện công tác phòng, chống ma túy, không phân biệt đối với công dân nam và công dân nữ; việc quản lý công dân nam và nữ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, cai nghiện ma túy đều không không phân biệt nam, nữ.
Như vậy, dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) được xây dựng nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của mọi công dân, không phân biệt nam, nữ và đều có quyền bình đẳng trước pháp luật về phòng, chống ma túy.
II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI, TÁC ĐỘNG VỀ GIỚI CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TRONG XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT PHÒNG, CHỐNG MA TÚY (SỬA ĐỔI)
Bộ Công an xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) trong đó xác định 03 chính sách với những nội dung xây dựng là:
1. Quy định cơ chế quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
Trong các Chỉ thị của Bộ Chính trị, Kết luận của Ban Bí Thư, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCMT và kiểm soát ma túy trong tình hình mới
[1] đều có nhận định, đánh giá chung tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy có xu hướng gia tăng đang diễn biến phức tạp, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là nhận thức, quan điểm của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân về sử dụng trái phép chất ma túy chưa đầy đủ, thống nhất, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chậm đổi mới, chưa đồng bộ. Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 05/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác PCMT và cai nghiện ma túy trong tình hình mới phân công Bộ Công an rà soát, thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy; Quyết định số 13/2019/QĐ-TTg ngày 27/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 127/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chế độ báo cáo thống kê về PCMT cũng đã bổ sung quy định về chỉ tiêu thống kê nhóm người sử dụng trái phép chất ma túy, việc thống kê quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là rất cần thiết nhằm mục đích để đánh giá thực trạng người sử dụng trái phép chất ma túy, từng bước đưa ra các giải pháp để quản lý nhằm giảm thiểu hậu quả của những người sử dụng trái phép ma túy gây ra cho xã hội.
Dự báo trong những năm tới, tình hình tội phạm và nạn nghiện hút ma túy ở nước ta vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, khó lường do áp lực của tình hình tội phạm, tệ nạn ma túy trên thế giới cùng các nước trong khu vực luôn gia tăng. Điều này tác động tiêu cực đến an ninh, trật tự, cũng như hậu quả gây ra đối với xã hội. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong nước từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ kéo theo quá trình đô thị hóa, dịch chuyển lao động và quá trình “thành thị hóa” thanh niên nông thôn, cũng như sự phát triển nhanh chóng các loại hình dịch vụ nhạy cảm (vũ trường, quán bar, nhà hàng, karaoke..) sẽ tác động, lôi kéo người trẻ sử dụng trái phép chất ma túy, gây ra nhiều hệ lụy nguy hiểm cho xã hội. Do vậy, bên cạnh quy định về quản lý người nghiện ma túy như hiện nay thì cần phải có cơ chế để quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, từ đó phòng ngừa, ngăn chặn hậu quả của việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội.
Theo thống kê của Bộ Công an, trong giai đoạn từ năm 2009 - 2018, trên phạm vi cả nước có 365.293 người sử dụng trái phép chất ma túy, trong số này có 56.122 người vi phạm pháp luật, phạm tội chiếm tỷ lệ 15,36%, có 5.337 người gây bất ổn về an ninh, trật tự trên địa bàn chiếm tỷ lệ 1,46%, có 27.655 người đang chấp hành án tại các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ chiếm tỷ lệ 7.57%. Đây là bức tranh tương đối toàn diện về tình hình người sử dụng ma túy ảnh hưởng như thế nào đối với an ninh, trật tự đối với các địa phương, đặc biệt vấn đề này gây bức xúc, phẫn nộ trong dự luận quần chúng nhân dân thời qua. Mặt khác, trong thời gian qua do chưa có cơ chế quản lý người sử dụng trái phép ma túy, nên dẫn đến tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật do người sử dụng ma túy gia tăng như trộm cắp tài sản, cướp, cướp giật tài sản, giết người, cố ý gây thương tích đã và đang gây ra bức xúc cho xã hội.
Chưa có quy định về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, điều này dẫn đến thiếu các cơ chế, chính sách, biện pháp để quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
1.1 Mục tiêu quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy hướng đến là:
Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong PCMT và phòng ngừa tội phạm, tệ nạn ma túy thông qua công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy;Kịp thời có các biện pháp phòng ngừa thích hợp giúp người sử dụng trái phép chất ma túy không trở thành người nghiện ma túy;Giảm thiểu hậu quả do người sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội;Góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội, giảm thiểu tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến sử dụng trái phép chất ma túy.
1.2 Xây dựng các nội dung sửa đổi theo hướng:
- Quy định cơ chế quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy tại xã, phường thị trấn, trong đó, dự kiến sẽ quy định cụ thể về khái niệm người sử dụng ma túy, hình thức quản lý, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng và gia đình trong quản lý người sử dụng ma túy.
-Giữ nguyên hiện trạng của pháp luật hiện hành (không quy định nội dung quản lý người sử dụng ma túy trong Luật PCMT).
- Quy định cơ chế quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh, trong đó, dự kiến sẽ quy định cụ thể về khái niệm người sử dụng ma túy, trách nhiệm của Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
1.3 Tác động của việc quy định cơ chế quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy trong lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng Luật.
- Quy định cơ chế quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy tại xã, phường thị trấn: Nội dung quy định tập trung vào quy định cụ thể về khái niệm người sử dụng ma túy, hình thức quản lý, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng và gia đình trong quản lý người sử dụng ma túy.Đối với nam và nữ có quy đinh cơ chế quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy tại xã, phường, thị trấn như nhau, không có sự phân biệt về giới.
- Bổ sung quy định khái niệm người sử dụng trái phép chất ma túy: Người có xét nghiệm dương tính với chất ma túy mà việc sử dụng chất ma túy của người đó là không hợp pháp thì được xác định là người sử dụng trái phép chất ma túy.Tiêu chí xác định người sử dụng trái phép chất ma túy được áp dụng giống nhau giữa nam và nữ không có sự khác biệt.
- Nội dung quản lý đối với người sử dụng trái phép chất ma túy:
+ Áp dụng biện pháp quản lý tại xã, phường, thị trấn; Việc áp dụng các biện pháp bình đẳng, không phân biết giới tính.
+ Quy định trách nhiệm của gia đình: Gia đình có trách nhiệm theo dõi, quản lý, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy. Kịp thời báo với cơ quan chức năng khi phát hiện người đó có hành vi tiếp tục sử dụng ma túy; trách nhiệm của gia đình đối với nam và nữ được quy định trong Luật không có sự phân biệt về giới.
+ Quy định trách nhiệm của lực lượng Công an cấp xã: chủ trì, phối hợp với các tổ chức đoàn thể địa phương giáo dục, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy tại cộng đồng. Thời gian theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn là 01 năm kể từ ngày phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy; Việc quản lý, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy được thực hiện bình đẳng, không phân biệt về giới.
+ Khi lực lượng Công an cấp xã phát hiện bắt quả tang một người đang sử dụng trái phép chất ma túy thì cần lập biên bản quả tang và đưa người đó đến cơ quan y tế để xác định tình trạng nghiện; việc bắt quả tang người sử dụng trái phép chất ma túy thì các thủ tục có liên quan được tiến hành bình đẳng phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, không gây mâu thuẫn.
+ Sau khi phát hiện một người sử dụng trái phép chất ma túy thì Công an cấp xã có trách nhiệm thông báo cho gia đình, chính quyền nơi người đó cư trú, cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc; Việc thông báo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới tính.
+ Đối với người sử dụng trái phép chất ma túy có nơi cư trú không phải là nơi phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy thì Công an xã nơi phát hiện người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm thông báo cho gia đình đến đưa người đó về và chuyển hồ sơ liên quan đến hành vi sử dụng trái phép chất ma túy cho Công an xã nơi người đó cư trú;việc thực hiện được tiến hành bình đẳng, không phân biệt về giới.
+ Cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy đang học tập, công tác có hình thức kỷ luật và có trách nhiệm phối hợp với Công an cấp xã nơi người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú để quản lý, giáo dục; được thực hiện bình đẳng, không phân biệt về giới.
+ Người sử dụng trái phép chất ma túy và gia đình của họ có trách nhiệm thông báo cho Công an cấp xã nơi họ cư trú về tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy; được thực hiện bình đẳng, không phân biệt về giới.
+ Người sử dụng trái phép chất ma túy phải đi xét nghiệm định kỳ theo yêu cầu của Công an cấp xã nơi người đó cư trú trong thời gian theo dõi, quản lý (6 tháng 1 lần); được thực hiện bình đẳng, không phân biệt về giới.
+ Nếu trong thời gian đang được theo dõi, quản lý do sử dụng trái phép chất ma túy mà người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển nơi cư trú thì có trách nhiệm thông báo cho Công an xã nơi cư trú. Công an xã nơi cư trú có thông báo cho Công an xã nơi người nghiện đến cư trú để tiếp tục theo dõi, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; được thực hiện bình đẳng, không phân biệt về giới.
+ Người sử dụng trái phép chất ma túy ra khỏi danh sách thống kê.
Người sử dụng trái phép chất ma túy đưa ra khỏi danh sách thống kê nếu trong thời gian 01 năm kể từ ngày phát hiện người đó sử dụng trái phép ma túy mà không phát hiện thấy người đó sử dụng trái phép chất ma túy, tiến hành xét nghiệm ở cơ quan Y tế cấp xã không dương tính với ma túy, được thực hiện bình đẳng, không phân biệt về giới.
Tác động về giới
Giải pháp này không có tác động về giới vì quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy được áp dụng chung cho cả nam và nữ nên không có sự phân biệt về giới.
1.4 Tác động của việc quy định giữ nguyên hiện trạng của pháp luật hiện hành (không quy định nội dung quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy trong Luật PCMT)
- Đối với Nhà nước: Không làm phát sinh chi phínghiên cứu để quy định về nội dung quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, chi phí để tổ chức triển khai thi hành trên thực tế (biên soạn tài liệu, tổ chức hội nghị tập huấn trong cơ quan có chức năng, nhiệm vụ PCMT, phổ biến đến quần chúng nhân dân).
Không quy định nội dung này nên công tác quản lý nhà nước về PCMT không được tăng cường, tình hình tội phạm, tệ nạn về ma túy gia tăng gây bất ổn trong xã hội. Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ phải tăng chi ngân sách phục vụ công tác phòng, chống tội phạm về ma túy, tệ nạn xã hội và khắc phục hậu quả để lại cho xã hội do tội phạm, tệ nạn ma túy gây ra (chi phí này sẽ lớn hơn rất nhiều so với chi phí nếu thực hiện theo giải pháp 1).
- Đối với người dân: Không có tác động tích cực nếu chọn chính sách này. Tỷ lệ sử dụng trái phép chất ma túy tiếp tục gia tăng, dẫn tới số lượng người nghiện cũng gia tăng, từ đó làm tình hình tội phạm, tệ nạn về ma túy gia tăng gây mất an ninh, trật tự, bất an trong quần chúng nhân dân, điều này dẫn đến người dân không yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh dẫn đến giảm thu nhập.
Có tác động tiêu cực đối với người dân. Vì nếu không có cơ chế để quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy thì tạo khoảng trống trong quản lý nhà nước về PCMT, phòng ngừa tệ nạn xã hôi, điều này dẫn đến tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ nạn về ma túy diễn biến theo chiều hướng gia tăng làm cho tình hình an ninh, trật tự ngày nghiêm trọng, dẫn đến việc người dân không yên tâm để lao động, sản xuất dẫn đến giảm sút thu thập.
- Đối với doanh nghiệp: Không có tác động tích cực nếu chọn giải pháp này.Có tác động tiêu cực vì không bảo đảm môi trường an ninh, an toàn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nên doanh nghiệp phải bổ sung thêm lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp và các chi phí khác để bảo đảm an ninh, an toàn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Tác động về giới
Giải pháp này không có tác động về giới nên không đánh giá tác động về giới.
1.5 Tác động của việc Quy định cơ chế quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh
Nội dung quy định tập trung vào quy định cụ thể về khái niệm người sử dụng ma túy, hình thức quản lý, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng và gia đình trong quản lý người sử dụng ma túy.
- Bổ sung quy định khái niệm người sử dụng trái phép chất ma túy: Người sử dụng trái phép chất ma túy là người bị bắt quả tang khi đang sử dụng trái phép chất ma túy, người có xét nghiệm dương tính với chất ma túy nhưng cơ quan Y tế không xác định được tình trạng nghiện, được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới tính.
- Nội dung quản lý đối với người sử dụng trái phép chất ma túy:
+ Khi phát hiện người sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa vào Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh để quản lý; được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới.
+ Quy định trách nhiệm của Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh: có trách nhiệm theo dõi, quản lý, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy; kịp có biện pháp để xử lý khi phát hiện người đó có hành vi tiếp tục sử dụng ma túy; thời gian theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy là 01 năm kể từ ngày tiếp nhận người sử dụng trái phép chất ma túy; được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới.
+ Quy định trách nhiệm của lực lượng Công an cấp xã: khi phát hiện hoặc bắt quả tang một người đang sử dụng trái phép chất ma túy thì cần lập biên bản quả tang và đưa người đó đến cơ quan y tế để xác định tình trạng nghiện; lập hồ sơ đưa người đó đến Trung tâm xã hội tỉnh để quản lý; thông báo cho gia đình, chính quyền nơi người đó cư trú, cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc; được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới.
+ Cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy đang học tập, công tác có hình thức kỷ luật và có trách nhiệm phối hợp với Công an cấp xã nơi người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú để lập hồ sơ đưa người đó đến Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh để quản lý; được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới.
+ Người sử dụng trái phép chất ma túy được xét nghiệm định kỳ theo trong thời gian theo dõi, quản lý (6 tháng 1 lần); được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới.
+ Người sử dụng trái phép chất ma túy ra khỏi danh sách thống kê.
Người sử dụng trái phép chất ma túy đưa ra khỏi danh sách thống kê nếu trong thời gian 01 năm kể từ ngày phát hiện người đó sử dụng trái phép ma túy mà không phát hiện thấy người đó sử dụng trái phép chất ma túy, tiến hành xét nghiệm ở cơ quan Y tế không dương tính với ma túy, được thực hiện bình đẳng, không phân biệt giới.
Tác động về giới
Giải pháp này không có tác động về giới vì quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy được áp dụng chung cho cả nam và nữ.
2. Quy định cơ chế, chính sách theo hướng bảo đảm hiệu quả công tác cai nghiện bắt buộc và khuyến khích xã hội hóa công tác cai nghiện tự nguyện
Theo quy định của Luật PCMT có 02 biện pháp cai nghiện ma tuý bao gồm: Cai nghiện ma túy tự nguyện (tự nguyện tại gia đình, cộng đồng và cơ sở cai nghiện); cai nghiện ma túy bắt buộc tại cơ sở cai nghiện và cộng đồng.
- Cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng: Giai đoạn từ 2009 - 2016, cả nước tổ chức cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng cho 51.962 lượt người (chiếm 27,38% tổng số người được cai nghiện theo các hình thức); dạy nghề cho 2.677 lượt người; hỗ trợ tạo việc làm cho 1.762 lượt người. Đến tháng 12/2018, có 2.719 xã, phường, thị trấn thuộc 20 tỉnh, thành phố thành lập Tổ công tác cai nghiện ma túy
[2]. Các hình thức cai nghiện được triển khai phù hợp với điều kiện của địa phương
[3].Một số tỉnh, thành phố có cách làm sáng tạo, đầu tư mạnh các nguồn lực làm cai nghiện tại gia đình, cộng đồng
[4]. Tuy nhiên, hiện nay tính sẵn có của các dịch vụ chưa được bảo đảm, công tác chỉ đạo, điều hành ở nhiều địa phương chưa quyết liệt, thiếu cơ sở vật chất và nhân lực, chuyên môn hạn chế; hoạt động chủ yếu mới dừng ở khâu cắt cơn, thiếu các giải pháp quản lý, hỗ trợ sau cắt cơn, người cai tự nguyện không được hỗ trợ kinh phínên không khuyến khích được nhiều người tự nguyện tham gia. Từ năm 2014, số người cai nghiện tại gia đình, tại cộng đồng giảm mạnh, chỉ còn 5.687 lượt người, tương đương 58% năm 2013; năm 2017 còn 3.566 lượt người và năm 2018 còn 6/63 tỉnh, thành phố tổ chức cai nghiện cho 4.320 lượt người. Theo đánh giá của Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì chi phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho biện pháp cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng là 1,068 triệu đồng/người/lần, mỗi năm bình quân cai nghiện cho 4.320 người. Như vậy, chi phí cho công tác cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng là 4.320 người x 1,068 triệu = 4,613 tỷ đồng.
- Cai nghiện tự nguyện do tổ chức, cá nhân thành lập: Đến nay, có23 cơ sở cai nghiện tự nguyện được cấp phép, nhưng 07 cơ sở đã ngừng hoạt động. Có 02 cơ sở quy mô tiếp nhận dưới 60 lượt người/năm và 13 cơ sở trên 100 lượt người/năm. Tính bình quân hàng năm các cơ sở này đã tiếp nhận khoảng hơn 4.000 lượt người, với chi phí cho 01 người khi vào cơ sở cai nghiện tự nguyện do tổ chức, cá nhân thành lập là 10,671 triệu đồng/người/năm (theo báo cáo của Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội). Hiện nay, phần lớn các cơ sở cai nghiện đã chuyển đổi theo Đề án 2596 nên chất lượng dịch vụ trong công tác cai nghiện có phần được cải thiện, nhưng vẫn còn hạn chế vì chất lượng nguồn nhân lực chưa được cải thiện, tỷ lệ người sử dụng ma túy tổng hợp tăng rất nhanh, trong khi đa số cán bộ chưa có kinh nghiêm, chưa được đào tạo chuyên sâu về quản lý, điều trị cho người nghiện ma túy tổng hợp, chất hướng thần. Tuy nhiên, biện pháp cai nghiện này hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của bên cung cấp dịch vụ và bên mua dịch vụ. Nhà nước tạo hành lang pháp lý và thực hiện các hỗ trợ khi cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay người cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện do các tổ chức, cá nhân thành lập không được bất cứ hỗ trợ nào từ ngân sách như ở các cơ sở cai nghiện công lập và ngoài công lập và đến nay chưa có cơ sở cai nghiện ngoài công lập nào được hỗ trợ, trong khi đây là lĩnh vực đầu tư mang tính xã hội, lợi nhuận không hấp dẫn nhà đầu tư. Vì vậy, mô hình này chưa phát huy được hiệu quả cao.
Công tác cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện công lập:Tính đến tháng 12/2018 cả nước có 79 cơ sở cai nghiện công lập có chức năng tổng hợp, trong đó có cai nghiện tự nguyện và điều trị Methadone; 18 cơ sở cai nghiện chỉ làm cai nghiện tự nguyện và điều trị Methadone, hàng năm các cơ sở cai nghiện ma túy công lập đã tiếp nhận và cai nghiện tự nguyện cho trên 5.000 lượt người.
- Cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện: Giai đoạn 2009-2018, cả nước đã quản lý, cai nghiện bắt buộc cho 289.724 lượt người. Trong đó, lũy kế từ năm 2010 chuyển sang 70.549 người, tiếp nhận mới 219.175 lượt người, trung bình hàng năm đã quản lý, cai nghiện cho khoảng 43.000 lượt người, tương đương trên 20% người nghiện có hồ sơ quản lý. Giai đoạn 2017 – 2018, trung bình hàng năm quản lý, cai nghiện cho khoảng25.000 lượt người với chi phí cho 01 người khi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 15,245 triệu đồng/người/năm (theo báo cáo của Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội).
Những bất cập nêu trên đã gây ra hậu quả tiêu cực cho xã hội trên nhiều mặt. Do chưa huy động được các nguồn lực từ xã hội để thực hiện công tác cai nghiện ma túy, trong khi đó ngân sách nhà nước không đủ để chi cho hoạt động này nên kết quả cai nghiên ma túy chưa đạt được kỳ vọng đề ra, tỷ lệ tái nghiện cao.
2.1 Mục tiêu giải quyết vấn đề
- Tăng cường một bước công tác quản lý nhà nước về công tác cai nghiện ma túy.
- Huy động các nguồn lực từ xã hội vào công tác cai nghiện ma túy, từ đó, nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy.
- Góp phần phòng ngừa và giảm tỷ lệ người nghiện ma túy, qua đó giảm tác hại của tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ nạn ma túy gây ra cho xã hội.
- Tăng cường trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác cai nghiện ma túy.
- Góp phần ổn định xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2 Xây dựng các nội dung sửa đổi theo hướng
2.2.1.Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa công tác cai nghiện tự nguyện và bảo đảm hiệu quả công tác cai nghiện bắt buộc theo hướng Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí các dịch vụ cơ bản cho công tác cai nghiện theo hướng:
- Nghiên cứu bổ sung một số nội dung mới sau:
+ Bổ sung một số quy định về trách nhiệm của Nhà nước: (1) Khuyến khích quyên góp xã hội cho công tác phòng, chống ma túy nói chung và cai nghiện ma túy nói riêng, và nhận được ưu đãi thuế theo pháp luật; (2) Khuyến khích triển khai nghiên cứu khoa học kỹ thuật phòng, chống ma túy, phổ biến kỹ thuật kiểm tra ma tuý tiên tiến, phương pháp trang bị và cai nghiện.
+ Bổ sung quy định trường hợp người nghiện ma túy phải cai nghiện tại các cơ sở bắt buộc: (1) Không thực hiện cai nghiện tại cộng đồng, gia đình; (2) Sử dụng trái phép chất ma tuý trong thời gian cai nghiện tại cộng đồng, gia đình; (3) Vi phạm nghiêm trọng thoả thuận cai nghiện tại cộng đồng, gia đình; (4) Sau khi thực hiện cai nghiện tại cộng đồng, gia đình, cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma tuý; đối với người nghiện nặng nếu đã cai nghiện tại cộng đồng, gia đình mà không cai nghiện thành công thì phải cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Cơ sở cai nghiện bắt buộc phải căn cứ vào yêu cầu điều trị cai nghiện để bố trí, sắp xếp bác sỹ điều trị cho phù hợp.
- Ngoài ra một số nội dung cụ thể khác dự kiến nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung:
+ Sửa đổi, bổ sung Điều 27 Luật PCMT, theo đó sửa đổi, bổ sung các qui định về “cai nghiện tự nguyện tại gia đình, tại cộng đồng” và bãi bỏ quy định về “cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng”.
+ Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 29 Luật PCMT theo hướng: áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp này thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
+ Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 29 Luật PCMT; theo đó, áp dụng biện pháp quản lý, giáo dục, cai nghiện tại gia đình đối với người dưới 18 tuổi, có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người dưới 18 tuổi không có nơi cư trú ổn định hoặc gia đình có yêu cầu thì đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy để quản lý và áp dụng biện pháp giáo dục, cai nghiện đối với họ.
+ Khoản 1 Điều 31 Chương IV Luật PCMT quy định: “Nhà nước áp dụng các biện pháp cai nghiện thích hợp đối với người nghiện ma túy là người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh của trường giáo dưỡng. Cơ quan quản lý cơ sở này phối hợp chặt chẽ với cơ quan y tế địa phương để thực hiện quy định này”.Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trên thực tế gặp nhiều khó khăn do chưa có văn bản hướng dẫn. Do đó, sửa đổi, bổ sung Luật theo hướng quy định rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế việc quản lý người nghiện ma túy là người bị tạm giữ, tạm giam, phạm nhân, trại viên cơ sở giáo dục, học sinh trường giáo dưỡng. Đồng thời, bổ sung các biện pháp can thiệp cắt cơn nghiện đối với người nghiện ma túy là người bị tạm giữ, tạm giam.
+ Bãi bỏ Điều 33 Luật PCMT về quản lý sau cai nghiện, theo đó bãi bỏ qui định về “quản lý sau cai nghiện ma túy” tại cơ sở cai nghiện.
+ Bổ sung các qui định can thiệp dự phòng nghiện ma túy theo chuẩn quốc tế về dự phòng nghiện bao gồm các chương trình can thiệp phổ quát, can thiệp chọn lọc và can thiệp chỉ định; theo đó, tổ chức phòng ngừa đối với nhóm có nguy cơ cao, ngăn chặn, tư vấn, giáo dục… đối với người sử dụng ma túy trái phép.
+ Bổ sung qui định về: xử lý người nước ngoài sử dụng trái phép chất ma túy và điều trị nghiện ma túy cho người nước ngoài tại Việt Nam; tiếp nhận người Việt Nam sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy được nước ngoài trao trả; xử lý đối với trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy không chấp hành các quy định về nghĩa vụ của họ.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về cai nghiện ma túy tự nguyện: Cai nghiện tự nguyện tại cơ sơ cai nghiện công lập hay ngoài công lập đều thực hiện bằng một chính sách xã hội hóa chung, không phân biệt. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đối với các dịch vụ cơ bản, cho tất cả mọi người tự nguyện cai nghiện.
+ Sửa đổi, bổ sungbiện pháp cai nghiện tự nguyện tại gia đình, tại cộng đồng: Biện phápnàybảo đảm tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam, nhất là vấn đề quyền con người, quyền công dân và đây cũng là môi trường tốt để người nghiện nhận được sự chăm sóc, chia sẻ của gia đình, cộng đồng. Do đó, cần duy trì, phát triển biện pháp này, nhưng phải đổi mới toàn diện để bảo đảm tính hợp lý, tính khả thi và hiệu quả. Theo đó: Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho tất cả mọi người tự nguyện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng; giao các Điểm tư vấn, cai nghiện ma túy tại cộng đồng trực tiếp thực hiện; xây dựng đội ngũ cán bộ xã hội chính quy, chuyên nghiệp làm nòng cốt; lấy giải quyết việc làm và hỗ trợ sinh kế bền vững làm trọng tâm.
+ Sửa đổi, bổ sung biện pháp quản lý sau cai tại nơi cư trú: Chuyển từ quản lý bắt buộc sau cai sang hình thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người sau cai, tức là họ có quyền tự nguyện tham gia các chương trình hỗ trợ hòa nhập cộng đồng; quy định cụ thể, rõ ràng về các dịch vụ, mức hỗ trợ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ này; trong tổ chức thực hiện, phải quy định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, không “khoán trắng” cho Ủy ban nhân dân cấp xã như hiện nay. Theo đó, giao Sở Lao động Thương binh - Xã hội là cơ quan chủ trì, trong đó giao các điểm tư vấn, cai nghiện tại cộng đồng trực tiếp thực hiện; Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã là cơ quan phối hợp.
+ Bãi bỏ chính sách “cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng” quy định tại Điều 27 và chính sách quản lý bắt buộc sau cai tại Điều 33.Chuyển các nguồn lực đầu tư cho công tác hỗ trợ hòa nhập cộng đồng tại nơi cư trú.
2.2.2Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa công tác cai nghiện tự nguyện và bảo đảm hiệu quả công tác cai nghiện bắt buộc theo hướng Nhà nước bảo đảm kinh phí các dịch vụ cơ bản cho công tác cai nghiện theo hướng:
- Cũng như giải pháp 1, tại giải pháp 2 cần nghiên cứu bổ sung một số nội dung mới sau:
+ Bổ sung một số quy định về trách nhiệm của Nhà nước: (1) khuyến khích quyên góp xã hội cho công tác phòng, chống ma túy nói chung và cai nghiện ma túy nói riêng, và nhận được ưu đãi thuế theo pháp luật; (2) khuyến khích triển khai nghiên cứu khoa học kỹ thuật phòng, chống ma túy, phổ biến kỹ thuật kiểm tra ma tuý tiên tiến, phương pháp trang bị và cai nghiện.
+ Cơ quan Công an có thể tiến hành kiểm tra khi cần thiết đối với người nghi nghiện, người bị kiểm tra có trách nhiệm phối hợp; trong trường hợp người bị kiểm tra chống đối thì cơ quan Công an có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau khi được phê chuẩn của người phụ trách cơ quan Công an cấp huyện trở lên hoặc người phụ trách đồn Công an.
+ Bổ sung quy định trường hợp người nghiện ma túy phải cai nghiện tại các cơ sở bắt buộc: (1) Không thực hiện cai nghiện tại cộng đồng, gia đình; (2) Sử dụng trái phép chất ma tuý trong thời gian cai nghiện tại cộng đồng, gia đình; (3) Vi phạm nghiêm trọng thoả thuận cai nghiện tại cộng đồng, gia đình; (4) Sau khi thực hiện cai nghiện tại cộng đồng, gia đình, cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma tuý; đối với người nghiện nặng nếu đã cai nghiện tại cộng đồng, gia đình mà không cai nghiện thành công thì phải cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Cơ sở cai nghiện bắt buộc phải căn cứ vào yêu cầu điều trị cai nghiện để bố trí, sắp xếp bác sỹ điều trị cho phù hợp.
- Ngoài ra một số nội dung cụ thể khác dự kiến nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung:
+ Sửa đổi, bổ sung Điều 27 Luật PCMT, theo đó sửa đổi, bổ sung các qui định về “cai nghiện tự nguyện tại gia đình, tại cộng đồng” và bãi bỏ qui định về “cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng”.
+ Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 29 Luật PCMT theo hướng: áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp này thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
+ Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 29 Luật PCMT; theo đó, áp dụng biện pháp quản lý, giáo dục, cai nghiện tại gia đình đối với người dưới 18 tuổi, có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người dưới 18 tuổi không có nơi cư trú ổn định hoặc gia đình có yêu cầu thì đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy để quản lý và áp dụng biện pháp giáo dục, cai nghiện đối với họ.
+ Khoản 1 Điều 31 Chương IV Luật PCMT quy định: “Nhà nước áp dụng các biện pháp cai nghiện thích hợp đối với người nghiện ma túy là người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh của trường giáo dưỡng. Cơ quan quản lý cơ sở này phối hợp chặt chẽ với cơ quan y tế địa phương để thực hiện quy định này”.Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trên thực tế gặp nhiều khó khăn do chưa có văn bản hướng dẫn. Do đó, sửa đổi, bổ sung Luật theo hướng quy định rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế việc quản lý người nghiện ma túy là người bị tạm giữ, tạm giam, phạm nhân, trại viên cơ sở giáo dục, học sinh trường giáo dưỡng. Đồng thời, bổ sung các biện pháp can thiệp cắt cơn nghiện đối với người nghiện ma túy là người bị tạm giữ, tạm giam.
+ Bãi bỏ Điều 33 Luật PCMT về quản lý sau cai nghiện, theo đó bãi bỏ qui định về “quản lý sau cai nghiện ma túy” tại cơ sở cai nghiện.
+ Bổ sung các qui định can thiệp dự phòng nghiện ma túy theo chuẩn quốc tế về dự phòng nghiện bao gồm các chương trình can thiệp phổ quát, can thiệp chọn lọc và can thiệp chỉ định; theo đó, tổ chức phòng ngừa đối với nhóm có nguy cơ cao, ngăn chặn, tư vấn, giáo dục… đối với người sử dụng ma túy trái phép.
+ Bổ sung qui định về: xử lý người nước ngoài sử dụng trái phép chất ma túy và điều trị nghiện ma túy cho người nước ngoài tại Việt Nam; tiếp nhận người Việt Nam sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy được nước ngoài trao trả; xử lý đối với trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy không chấp hành các quy định về nghĩa vụ của họ.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về cai nghiện ma túy tự nguyện: Cai nghiện tự nguyện tại cơ sơ cai nghiện công lập hay ngoài công lập đều thực hiện bằng một chính sách xã hội hóa chung, không phân biệt. Nhà nước bảo đảm kinh phí đối với các dịch vụ cơ bản, cho tất cả mọi người tự nguyện cai nghiện.
+ Sửa đổi, bổ sungbiện pháp cai nghiện tự nguyện tại gia đình, tại cộng đồng: Biện phápnàybảo đảm tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam, nhất là vấn đề quyền con người, quyền công dân và đây cũng là môi trường tốt để người nghiện nhận được sự chăm sóc, chia sẻ của gia đình, cộng đồng. Do đó, cần duy trì, phát triển biện pháp này, nhưng phải đổi mới toàn diện để bảo đảm tính hợp lý, tính khả thi và hiệu quả. Theo đó: Nhà nước bảo đảm kinh phí cho tất cả mọi người tự nguyện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng; giao các Điểm tư vấn, cai nghiện ma túy tại cộng đồng trực tiếp thực hiện; xây dựng đội ngũ cán bộ xã hội chính quy, chuyên nghiệp làm nòng cốt; lấy giải quyết việc làm và hỗ trợ sinh kế bền vững làm trọng tâm.
+ Sửa đổi, bổ sung biện pháp quản lý sau cai tại nơi cư trú: Chuyển từ quản lý bắt buộc sau cai sang hình thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người sau cai, tức là họ có quyền tự nguyện tham gia các chương trình hỗ trợ hòa nhập cộng đồng; quy định cụ thể, rõ ràng về các dịch vụ, mức hỗ trợ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ này; trong tổ chức thực hiện, phải quy định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, không “khoán trắng” cho Ủy ban nhân dân cấp xã như hiện nay. Theo đó, giao Sở Lao động Thương binh – Xã hội là cơ quan chủ trì, trong đó giao các điểm tư vấn, cai nghiện tại cộng đồng trực tiếp thực hiện; Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã là cơ quan phối hợp.
+ Bãi bỏ chính sách “cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng” quy định tại Điều 27 và chính sách quản lý bắt buộc sau cai tại Điều 33.Chuyển các nguồn lực đầu tư cho công tác hỗ trợ hòa nhập cộng đồng tại nơi cư trú.
2.2.3Giữ nguyên quy định của pháp luật hiện hành.
2.3 Đánh giá tác động về lồng ghép bình đẳng giới trong Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa công tác cai nghiện tự nguyện và bảo đảm hiệu quả công tác cai nghiện bắt buộc theo hướng Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí các dịch vụ cơ bản cho công tác cai nghiện
Không có tác động về giới.
3.Xây dựng quy định về phòng, chống ma túy theo hướng đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Trong những năm qua, cụ thể hoá những quy định mang tính nguyên tắc về công tác phòng, chống tội phạm nói chung, công tác PCMT nói riêng trong Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa Chỉ thị số 21-CT-TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới, Kết luận số 95-KL/TW ngày 02/4/2014 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới; Chỉ thị số 25/CT-TTG ngày 05/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy trong tình hình mới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác PCMT. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về công tác phòng, chống ma túy tương đối hoàn chỉnh, là cơ sở pháp lý để tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả công tác PCMT, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật về công tác PCMT cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập như: chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính...; nhiều quy định không còn phù hợp làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả của công tác PCMT, cụ thể như sau:
- Một số quy định của Luật PCMTchưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy định Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự:
+ Điều 3 Luật PCMT quy định nghiêm cấm các hành vi: “Trồng cây có chứa chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán, phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nghiên cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần...”. Tuy nhiên, Điều 259 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thêm một số hành vi mới như: "Vi phạm quy định về tạm nhập, tái xuất, giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát, cho phép sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần".
+ Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy của lực lượng phòng, chống tội phạm ma túy của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng: theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Luật PCMT thì “Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Hải quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan Công an,các cơ quan hữu quan khác thực hiện và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thầntại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soát”. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 164 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự quy định ngoài các quy định về tội phạm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, Bộ đội Biên phòng còn có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra với các tội khác như: trồng cây thuốc phiên, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác chứa chất ma túy; sản xuất trái phép chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
- Một số quy định của Luật PCMTchưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, còn nhiều quy định mâu thuẫn với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể như:
+ Điều 5 Luật PCMT quy định: “Cá nhân, tổ chức nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam về PCMT”.Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp xử lý người nước ngoài sử dụng trái phép chất ma túy còn lúng túng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì các biện pháp xử lý hành chính không áp dụng đối với người nước ngoài, dẫn đến tình trạng người nước ngoài nghiện ma túy nhưng không có biện pháp xử lý, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
+ Khoản 1 Điều 27 Luật PCMTquy định: Trường hợp người nghiện ma túy không tự nguyện cai nghiện thì áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định nội dung này.
+ Khoản 2 Điều 28 Luật PCMT quy định việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính lại quy định Tòa án nhân dân cấp huyện mới có thẩm quyền áp dụng đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cũng tại khoản nàycủa Luật quy định thời hạn cai nghiện bắt buộc là 01 đến 02 năm nhưng khoản 2 Điều 95 Luật Xử lý vi phạm hành chính lại quy định thời gian này là 06 tháng đến 24 tháng.
+ Điều 29 Luật PCMT quy định người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi được áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định người đủ 18 tuổi trở lên mới được áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Điều 30 Luật PCMT quy định về lao động, học tập, chữa bệnh để cai nghiện và góp phần đảm bảo đời sống trong thời gian cai nghiện. Tuy nhiên, Điều 95 Luật Xử lý vi phạm hành chính còn có biện pháp “học văn hóa, học nghề” cho người nghiện từ 18 tuổi trở lên.
+ Điều 32a Luật PCMTquy định “Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội, nếu thời gian bị phạt tù ít hơn thời gian cai nghiện ma túy thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù phải tiếp tục cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì vẫn phải thực hiện cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Trong khi đó, Điều 117 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: Trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính nếu bị Toà án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình phạt tù thì người đó có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
+ Điều 33 Luật PCMT quy định về thời gian quản lý sau cai là 01 đến 02 năm, còn Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định về thời gian quản lý sau cai.
- Quy định tại Luật PCMT đang mâu thuẫn với Luật Đầu tư cụ thể như sau: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 Luật PCMT thì tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành, tuy nhiên tại Điều 41 của Luật PCMT quy định Bộ Công Thương có trách nhiệm ban hành danh mục, quy chế quản lý tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy chế đó, vì vậy, đang có sự mâu thuẫn giữa hai điều này. Mặt khác, theo Điều 7 của Luật Đầu tư thì các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, như vậy Bộ Công Thương không được phép ban hành Danh mục tiền chất công nghiệp.
- Quy định tại Luật PCMT đang mâu thuẫn với Luật Tương trợ tư pháp về trình tự, thủ tục, quy trình hợp tác quốc tế trong đấu tranh PCMT, cụ thể như sau: Theo quy định tại Điều 50 Luật PCMT thì “trong trường hợp Việt Nam và nước có liên quan không cùng tham gia điều ước quốc tế đa phương hoặc chưa ký với nhau điều ước quốc tế song phương thì các cơ quan tư pháp của Việt Nam trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn của mình, được thoả thuận trực tiếp với cơ quan tư pháp của nước có liên quan trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma tuý”, còn khoản 2 Điều 22 Luật Tương trợ tư pháp lại quy định theo hướng “Yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về hình sự phải được lập thành văn bản dưới hình thức ủy thác tư pháp về hình sự theo quy định của Luật này”; bên cạnh đó, Luật PCMT không phân biệt rõ quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia có hoặc không có ký kết điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong đấu tranh về tội phạm ma túy.
Để đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, công tác PCMT nói riêng cần tiến hành sửa đổi các quy định cho phù hợp.
3.1. Mục tiêu giải quyết vấn đề
- Đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Tạo ra cơ chế, chính sách đồng bộ trong công tác PCMT.
3.2 Các giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề:
Sửa đổi toàn diện các nội dung không còn phù hợp của Luật PCMT để đảm bảo đồng bộ, thống nhất với quy định của các Bộ luật, Luật có liên quan đến PCMT;Sửa đổi các nội dung lớn mang tính nguyên tắc trong Luật, các nội dung cụ thể thực hiện theo pháp luật có liên quan; Giữ nguyên quy định của pháp luật hiện hành.
3.3. Đánh giá tác động của các giải pháp đối với đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và các đối tượng khác có liên quan
3.3.1 Sửa đổi toàn diện các nội dung không còn phù hợp của Luật PCMT để đảm bảo đồng bộ, thống nhất với quy định của các Bộ luật, luật có liên quan đến PCMT.
Nội dung tập trung để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
- Chương I. NHỮNG QUY ĐINH CHUNG
+Bổ sung tên gọi cho tất cả các điều luật tại Chương I.
+ Điều 1 về phạm vi điều chỉnh đề nghị sửa đổi “Luật này quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; cai nghiện ma túy; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy; quản lý nhà nước và hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy”.
+ Bổ sung điêu Điều 2 về Đối tượng áp dụng “Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy”.
+ Bổ sung tại Điều 3 các khoản có liên quan đến:Thuốc gây nghiện là thuốc có chứa dược chất kích thích ;Thuốc hướng thần là thuốc có chứa dược chất kích thích hoặc ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác; Thuốc tiền chất là thuốc có chứa tiền chất thuộc Danh mục tiền chất dùng làm thuốc do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành; Thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất là các loại thuốc thú y có chứa các chất…và làm rõ một số khái niệm như: Tệ nạn ma túy là tình trạng nghiện ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy mà chưa đến mức hoặc không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Người sử dụng trái phép chất ma túy là người tự ý hoặc đồng ý cho người khác đưa chất ma túy vào cơ thể mình mà không được sự cho phép của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền; Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tâm lý, xã hội và y tế giúp người nghiện thay đổi nhận thức, hành vi, phục hồi thể chất, tinh thần nhằm giảm sử dụng ma túy, tác hại của ma túy; Cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân là cơ sở cai nghiện ma túy do cá nhân, tổ chức, cơ quan đầu tư, thành lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoạt động; Cơ sở cai nghiện ma túy công lập là cơ sở cai nghiện do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội thành lập.
+ Điều 4 bổ sung các nội dung có liên quan đến tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập. Hướng dẫn trồng cây có chứa chất ma túy, sản xuất trái phép chất ma túy, sử dụng chất ma túy, quảng cáo, tiếp thị chất ma túy trên không gian mạng, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.Giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát chất ma túy, tiền chất; cho phép người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần trái quy định của pháp luật.
- Chương II. TRÁCH NHIỆM PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
+Bổ sung tên gọi cho tất cả các điều luật tại Chương II.
+Xây dựng “Điều 6. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình” với các nội dung nhằm cụ thể hóa trách nhiêm của cá nhân, giá đình trong công tác phòng, chống ma túy như “Thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy; giáo dục thành viên trong gia đình...Thực hiện đúng chỉ định của cơ quan chuyên môn về sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất để chữa bệnh; Hợp tác với cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy; tham gia hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện ma túy, tại cộng đồng và điều trị nghiện bằng thuốc thay thế; theo dõi, giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện ma túy; Cung cấp kịp thời những thông tin về tội phạm và tệ nạn ma túy, việc trồng cây có chứa chất ma túy cho cơ quan Công an hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tham gia xóa bỏ cây có chứa chất ma túy do chính quyền địa phương tổ chức”.
+ Điều 7 sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp trong công tác phòng, chống ma túy như: Tổ chức và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về phòng, chống ma túy trong Nhân dân; Phòng ngừa, ngăn chặn người của tổ chức mình và mọi công dân vi phạm pháp luật về ma túy; Giám sát, phản biện hoạt động phòng, chống ma túy ở cơ quan, nhà trường, các cơ sở giáo dục và địa bàn dân cư; Phối hợp với chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm quyền để vận động cai nghiện ma túy, điều trị nghiện bằng thuốc thay thế; tham gia cảm hóa, giáo dục, dạy nghề, tìm việc làm và giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện ma túy.
+ Xây dựng Điều 11 về chính sách đối với người tham gia phòng, chống ma túy cụ thể và chi tiết hơn để việc thực hiện có hiệu quả như: Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia các hoạt động phòng, chống ma túy được Nhà nước bảo vệ và giữ bí mật; Bị thiệt hại về tài sản thì được Nhà nước đền bù; bị thương tích, tổn hại về sức khỏe hoặc bị thiệt hại về tính mạng thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của Chính phủ…
+ Điều 12 trong dự thảo tiếp tục kế thừa những nội dung của quy định tại Điều 13 Luật phòng, chống ma túy 2000 sửa đổi 2008 và làm rõ hơn một số nội dung liên quan đến cơ quan chuyên trách phòng, chống ma túy trong Công an nhân dân như: Chủ trì thực hiện các hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy; Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, khoa học - kỹ thuật cần thiết để điều tra, phát hiện tội phạm về ma túy; Trưng cầu giám định; Yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan, phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu …Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác, người làm chứng và người bị hại trong các vụ án về ma túy; Phối hợp với cơ quan chức năng chống tội phạm ma túy của các nước và các tổ chức chống tội phạm ma túy quốc tế để trao đổi thông tin và tiến hành điều tra các vụ án liên quan đến tội phạm ma túy xuyên quốc gia.
Ngoài ra còn phân định rõ về trách nhiệm chủ trì của các cơ quan chuyên trách phòng, chống ma túy của Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan là “trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan Công an, các cơ quan hữu quan khác thực hiện và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy tại khu vực và địa bàn quản lý, kiểm soát”
- Chương II. KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG HỢP PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN MA TÚY
+Bổ sung tên gọi cho tất cả các điều luật tại Chương 3.
+Đề nghị bổ sung quy định quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu và sử dụng tiền chất trong lĩnh vực y tế, công nghiệp để tránh thất thoát tiền chất nhằm mục đích sản xuất ma túy tổng hợp.
+Nghiên cứu xây dựng quy định về phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong quản lý tiền chất để trao đổi thông tin kịp thời, đảm bảo công tác kiểm soát tiền chất được đồng bộ, thống nhất. Đặc biệt, nghiên cứu xây dựng quy định về trung tâm kiểm soát các hoạt động thông tin hợp pháp liên quan đến tiền chất và tạo mạng lưới trao đổi thông tin đồng bộ, nhanh chóng và chính xác.
+Xây dựng quy định Điều 14 về hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất nhằm không để thất thoát hoặc các đối tượng xấu lợi dụng phạm tội về ma túy.
+ Tại các Điều 15, Điều 16, Điều 18 quy định việc quản lý xuất khẩu, nhập khẩu các loại thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất …. Việc lập hồ sơ các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
+ Xây dựng Điều 19 về các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của Chính phủ.
+ Điều 21 và Điều 22 quy định cụ thể và chi tiết việc Xử lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thu giữ trong vụ vi phạm pháp luật về ma túy; Xử lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng
- Chương IV. QUẢN LÝ NGƯỜI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Đây là chương được xây dựng mới với các nội dung làm rõ việc xác định người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 23); Quy định về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 24) theo hướng Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn tổ chức phân công cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng cấp phối hợp với gia đình giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy giúp họ không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và kịp thời ngăn chặn các hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội. Quy định trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy, gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan đến người sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 25) và công tác Thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy thống nhất chung trong toàn quốc trong đó giao Bộ Công an kiểm tra, hướng dẫn và tiến hành thống kê (Điều 26).
- Chương V. CAI NGHIỆN MA TÚY
+ Vấn đề cai nghiện ma túy là vấn đề nan giải của nhiều quốc gia trên thế giới, do đó việc xây dựng các quy định có liên quan đến công tác cai nghiện ma túy hết sức phức khó khăn và có nhiều ý kiến trái chiều, tuy nhiên việc lựa chọn phương an để xây dựng quy định theo hướng phù hợp nhất, triển khai thi hành mang lại hiệu quả nhất. Trong Chương V đã làm rõ và bổ sung các căn cứ quan trọng để xác định tình trạng nghiện, thẩm quyền xác định tình trạng nghiện theo hướng: Người sử dụng trái phép chất ma túy bị coi là nghiện ma túy khi được cơ quan Y tế có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện theo hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế; Việc xác định tình trạng nghiện ma túy áp dụng với các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy; người thực hiện các biện pháp cai nghiện ma túy tự nguyện, cai nghiện ma túy bắt buộc….
+ Xác định Chính sách của Nhà nước về cai nghiện ma túy theo hướng: Khuyến khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện và điều trị bằng thuốc thay thế; Tổ chức cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc; Đảm bảo kinh phí tổ chức cai nghiện bắt buộc; hỗ trợ kinh phí đối với người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và tại cơ sở cai nghiện; Khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện việc cai nghiện ma túy tự nguyện cho người nghiện ma túy; hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, sau cai nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy; Tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vào hoạt động cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy, phòng, chống tái nghiện ma túy được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
+ Xác định cụ thể các biện pháp và hình thức tổ chức cai nghiện (tại Điều 30) Các biện pháp cai nghiện ma túy bao gồm: Cai nghiện ma túy tự nguyện; Cai nghiện ma túy bắt buộc. Các hình thức cai nghiện ma túy bao gồm: Cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng; Cai nghiện ma túy tập trung tại cơ sở cai nghiện ma túy.
+ Tại các Điều 31, 32, 33, 34 và 35 quy định hoạt động, hình thức của các biện pháp cai nghiện ma túy theo hướng khuyến khích cai nghiện tự nguyện và khuyến khích tổ chức cá nhân tham gia vào công tác cai nghiện ma túy.
+ Đối với người nước ngoài tại Việt Nam nghiện ma túy được quy định tại điều 37 theo hướng: Người nước ngoài nghiện ma túy phải đăng ký hình thức cai nghiện ma túy tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện ma túy hoặc điều trị nghiện bằng thuốc thay thế và trả phí theo quy định; nếu không đăng ký cai nghiện ma túy hoặc không tham gia điều trị nghiện bằng thuốc thay thế hoặc trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện, điều trị nghiện bằng thuốc thay thế mà có hành vi vi phạm pháp luật hoặc sử dụng trái phép chất ma túy thì áp dụng hình thức trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật Xử lý vi phạm hành chính.
+ Đối tượng nghiện ma túy từ đủ 12 cho đến dưới 18 tuổi quy định tại Điều 38 theo hướng: Cha, mẹ hoặc người giám hộ của người nghiện ma tuý phải khai báo về tình trạng nghiện ma túy và đăng ký tự nguyện cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng, tại các cơ sở cai nghiện ma túy hoặc tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; Trường hợpcha mẹ, người giám hộ không đăng ký tự nguyện cai nghiện ma túy, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, hoặc đã cai nghiện ma túy tự nguyện nhưng vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy hoặc trong quá trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế vi phạm bị chấm dứt điều trị theo quy định và tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện ma túy bắt buộc từ 06 tháng đến 12 tháng; Việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện bắt buộc do Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến tư vấn của cơ quan bảo vệ trẻ em cùng cấp và không coi là việc xử lý vi phạm hành chính; Cơ sở cai nghiện ma túy công lập có trách nhiệm bảo đảm quyền học văn hóa cho người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi trong thời gian cai nghiện bắt buộc.
+ Tại Điều 43 đã xây dựng nội dung quy định hướng đến các biện pháp nhằm làm giảm tác hại của việc sử dụng ma túy theo hướng: làm giảm hậu quả tác hại liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và cộng đồng và giao Chính phủ tiếp tục cụ thể hóa quy định để thực hiện.
- Chương VI. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
Về trách nhiệm các cơ quan quản lý Nhà nước về phòng, chống ma túy, đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
+ Bổ sung, sửa đổi các qui định cụ thể, đầy đủ về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy của: Cảnh sát Biển, Bộ đội Biên phòng, Hải quan và các cơ quan khác trong Công an nhân dân nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy theo khu vực và địa bàn được phân công.
+ Bổ sung trách nhiệm, quyền hạn của bộ, ngành có liên quan.
- Chương VII. HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
+ Để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác đấu tranh với tội phạm ma túy có yếu tố nước ngoài, cần nghiên cứu, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền ký kết thêm các Hiệp định tương trợ tư pháp cũng như Biên bản ghi nhớ giữa Việt Nam với các nước trong đó chú trọng vào các nước hay xảy ra tình trạng mua bán, vận chuyển ma túy vào Việt Nam hoặc ngược lại.
+ Tăng cường công tác hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy bằng việc tiếp tục phát triển mối quan hệ phối hợp với lực lượng phòng, chống ma túy các nước có chung đường biên giới, các nước tiểu vùng sông Mê Kong; đa dạng hóa công tác phòng, chống ma túy với các nước, các nước, các tổ chức Interpol, Aseanpol,... nhất là bạn bè truyền thống, các nước lớn có kinh nghiệm trong công tác phòng, chống ma túy.
Tác động về giới:
- Tác động tích cực: Không có tác động về giới.
- Tác động tiêu cực: Chính sách này không có tác động tiêu cực, không phân biệt đối xử, bất bình đẳng về giới đối với nam và nữ.
3.3.2Sửa đổi các nội dung lớn mang tính nguyên tắc trong Luật, các nội dung cụ thể thực hiện theo pháp luật có liên quan
Nội dung sửa đổi tập trung vào một số vấn đề sau:
- Chương I. NHỮNG QUY ĐINH CHUNG
+Sửa đổi, bổ sung khái niệm “các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy” theo hướng: Hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là các hoạt động sản xuất, bảo quản, tàng trữ, vận chuyển, phân phối, mua bán, sử dụng, trao đổi, nghiên cứu, giám định, xử lý, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển quá cảnh chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và tiền chất trong các lĩnh vực y tế, công nghiệp, nghiên cứu khoa học, huấn luyện nghiệp vụ điều tra tội phạm về ma túy đã được Nhà nước cho phép.
+Sửa đổi, bổ sung khái niệm kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là: Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là hoạt động theo chức năng của các cơ quan có thẩm quyền được thực hiẹn bằng cách áp dụng các biện pháp theo dõi, giám sát và kiểm tra chặt chẽ các hoạt động sản xuất, bảo quản, tàng trữ, vận chuyển, phân phối, mua bán, sử dụng, trao đổi, nghiên cứu, giám định, xử lý, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển quá cảnh chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và tiền chất trong các lĩnh vực y tế, công nghiệp, nghiệp cứu khoa học, huấn luyện nghiệp vụ điều tra tội phạm về ma túy.
- Chương II. TRÁCH NHIỆM PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
+ Sửa đổi bổ sung Điều 13 Luật phòng, chống ma túy 2000 sửa đổi bổ sung 2008 thành Điều 12 trong dự thảo theo hướng:bổ sung nhiệm vụ cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy thuộc Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và Hải quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan Công an, các cơ quan hữu quan khác thực hiện và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy tại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soátvà Chính phủ qui định cụ thể về biện pháp nghiệp vụ trinh sát, điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát Biển và Hải quan trong việc thực hiện và phối hợp với Công an tiến hành các hoạt động phòng, chống tội phạm về ma túy.
- Chương III. KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG HỢP PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN MA TÚY
+ Bổ sung quy định quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu và sử dụng tiền chất trong lĩnh vực y tế, công nghiệp để tránh thất thoát tiền chất nhằm mục đích sản xuất ma túy tổng hợp.
+ Nghiên cứu xây dựng quy định về phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong quản lý tiền chất để trao đổi thông tin kịp thời, đảm bảo công tác kiểm soát tiền chất được đồng bộ, thống nhất. Đặc biệt, nghiên cứu xây dựng quy định về trung tâm kiểm soát các hoạt động thông tin hợp pháp liên quan đến tiền chất và tạo mạng lưới trao đổi thông tin đồng bộ, nhanh chóng và chính xác.
+ Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 24 Luật PCMT trong đó có qui định được phép trích một lượng ma túy từ vật chứng các vụ án đã được đưa ra xét xử và có bản án đã có hiệu lực pháp luật sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học, huấn luyện nghiệp vụ.
- Chương IV. QUẢN LÝ NGƯỜI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
+ Dự thảo xây dựng các điều luật mới có liên quan đến quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy phục vụ công tác phòng ngừa, những quy định nhằm xác định người sử dụng trái phép chất ma túy và việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy nhằm ngăn chặn không để họ tiếp tục sử dụng ma túy dẫn đến tình trạng lệ thuộc, nghiện ma túy. Quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, tổ chức có liên quan đến người nghiện ma túy tại Điều 25.
+ Quy định về công tác Thông kê người sử dụng trái phép chất ma túy và cơ quan tiến hành công tác thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy theo hướng giap Bộ Công an thực hiện.
- Chương V: CAI NGHIỆN MA TÚY
+ Bổ sung quy định về việc Xác định tình trạng nghiện ma túy với các khải niệm về người nghiện mà túy là “Người sử dụng trái phép chất ma túy bị coi là nghiện ma túy khi được cơ quan Y tế có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện theo hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế”; Người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện là :Bác sỹ, y sĩ, được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn về chẩn đoán, Điều trị cắt cơn nghiện ma túy do các cơ quan, tổ chức được Bộ Y tế giao tổ chức tập huấn và cấp chứng chỉ, đang làm việc tại: Các cơ sở y tế quân y, y tế quân dân y; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành Công an; phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc; phòng y tế của các cơ sở có chức năng tiếp nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trạm y tế xã, phường, thị trấn; phòng khám đa khoa khu vực; bệnh viện cấp huyện trở lên và bệnh viện thuộc các bộ, ngành khác.
+ Sửa đổi, bổ sung các qui định về “cai nghiện tự nguyện tại gia đình, tại cộng đồng” và bãi bỏ qui định về “cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng”;
+ Sửa đổi, xây dựng nội dung có liên quan đến cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tại Điều 38 và thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp này thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
+ Bổ sung qui định về: xử lý người nước ngoài sử dụng trái phép chất ma túy và điều trị nghiện ma túy cho người nước ngoài tại Việt Nam; tiếp nhận người Việt Nam sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy được người nước ngoài trao trả; xử lý đối với trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy không chấp hành các quy định nghĩa vụ của họ
+Sửa đổi, bổ sungbiện pháp cai nghiện tự nguyện tại gia đình, tại cộng đồng: Biện phápnàybảo đảm tương thích với các cam kết quốc tế của Việt Nam nhất là vấn đề quyền con người, quyền công dân và đây cũng là môi trường tốt để người nghiện nhận được sự chăm sóc, chia sẻ của gia đình, cộng đồng. Do đó, cần duy trì, phát triển biện pháp này, nhưng phải đổi mới toàn diện để bảo đảm tính hợp lý, tính khả thi và hiệu quả. Theo đó: Nhà nước bảo đảm kinh phí cho tất cả mọi người tự nguyện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng; giao các Điểm tư vấn, cai nghiện ma túy tại cộng đồng trực tiếp thực hiện; xây dựng đội ngũ cán bộ xã hội chính quy, chuyên nghiệp làm nòng cốt; lấy giải quyết việc làm và hỗ trợ sinh kế bền vững làm trọng tâm.
- Chương VI. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
Bổ sung, sửa đổi các qui định cụ thể, đầy đủ về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy của: Cảnh sát Biển, Bộ đội Biên phòng, Hải quan và các cơ quan khác trong Công an nhân dân nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy theo khu vực và địa bàn được phân công.
Tác động về giới:
- Tác động tích cực: Không có tác động về giới.
- Tác động tiêu cực: Chính sách này không có tác động tiêu cực, không phân biệt đối xử, bất bình đẳng về giới đối với nam và nữ.
3.3.4.Quy định theo hướng Giữ nguyên quy định của pháp luật hiện hành, tức là không sửa đổi, bổ sung để bảo đảm thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về PCMT.
Tác động về giới
Giải pháp này không có tác động về giới.
III. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUY ĐỊNH TRONG LUẬT PHÒNG, CHỐNG MA TÚY ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
- Việc xây dựng những quy định áp dụng thống nhất, đồng bộ không phân biệt giới tính trong Luật phòng, chống ma túy (sửa đổi) tạo hành lang pháp lý để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan trong phòng, chống ma túy và toàn dân về bình đẳng giới trong công tác phòng, chống ma túy.
- Các quy định trong Dự thảo luật phòng, chống ma túy phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình Sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Bộ luật Tố tụng Hình Sự năm 2015, Luật Bình đẳng giới năm 2006 và các luật khác có liên quan đồng thời giải quyết những khó khắn vướng mắc trong công tác phòng, chống ma túy thời gian qua, góp phần nâng cao hiệu quả của việc bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội của đất nước.
- Luật phòng, chống ma túy sửa đổi được Quốc hội thông qua sẽ tạo một bước chuyển biến tích cực trong thực tiễn công tác phòng, chống ma túy góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội và chống lại những cáo buộc về nhân quyền liên quan đến bất bình đẳng giới của các thế lực thù địch đối với Việt Nam.
Trên đây là Báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ (để phối hợp);
- Bộ Tư pháp (để phối hợp);
- Lưu: VT, C04.
|
BỘ TRƯỞNG
(đã ký)
Đại tướng Tô Lâm
|
[1]Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo,chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới; Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy; Kết luận số 95-KL/TW ngày 02/4/2014 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 05/6/2017 về tăng cường công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy trong tình hình mới.
[2] Một số tỉnh, tổ công tác cai nghiện ma túy được thành lập ở 100% xã, phường, thị trấn có người nghiện ma túy (Lai Châu, Sơn La, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Nghệ An v.v. . Ở các tỉnh khác Tổ công tác cai nghiện ma túy được thành lập tại các xã, phường trọng điểm về tệ nạn ma túy (Hải Phòng, Bắc Ninh, Hậu Giang, Ninh Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên v.v.)
[3]Thành phố Nam Định: do các trạm y tế xã, phường không đủ điều kiện nên 100% được cắt cơn tại gia đình, trạm y tế xã, phường cấp thuốc hỗ trợ cắt cơn và bố trí cán bộ hỗ trợ theo dõi, chăm sóc y tế trong suốt thời gian cắt cơn cắt.Thành phố Lào Cai, thành phố Thái Nguyên, thành phố Vinh xây dựng các cơ sở cắt cơn tại mỗi xã phường có nhiều người nghiện.
[4]Sơn La: ban hành các chế độ hỗ trợ người cai nghiện tại cộng đồng; đẩy mạnh cai nghiện tại gia đình, cộng đồng song song với tấn công, truy quét tội phạm ma túy…Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Nghị quyết 71/2016/NQ-HĐND điều trị nghiện ma túy tự nguyện không thu phí giai đoạn 2017-2020 cho 200 học viên. Thái Nguyên: thực hiện mô hình cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã theo 3 hình thức: tại Trung tâm, cơ sở y tế xã, phường và tại gia đình.
Biểu mẫu đánh giá tác động của Thủ tục hành chính (Biểu mẫu 01B/ĐG-KSTT)
Cơ quan ban hành: Bộ Công an
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
6.2.-Đánh-giá-theo-biểu-mẫu-01B.ĐG-KSTT.doc
Phụ lục II
BIỂU MẪU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH (BIỂU MẪU 01B/ĐG-KSTT)
(Ban hành kèm theo Thông tư số 07/2014/TT-BTP ngày 24 tháng 02 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)
BỘ CÔNG AN
|
Biểu mẫu 01B/ĐG-KSTT
|
BIỂU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HOẶC QUY ĐỊNH CHI TIẾT
Tên dự án, dự thảo: LUẬT PHÒNG, CHỐNG MA TÚY (SỬA ĐỔI)
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 1: Cấp, thu hồi giấy phép vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
I. CĂN CỨ PHÁP LÝ
(Nêu rõ điều, khoản, điểm và tên văn bản quy định)
|
1. Khoản 14 Điều 3, Điều 14
|
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ, TÍNH HỢP PHÁP CỦA TỪNG BỘ PHẬN CẤU THÀNH TTHC ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HOẶC QUY ĐỊNH CHI TIẾT
(Sử dụng nội dung đánh giá đối với từng bộ phận cấu thành của TTHC tại Phần II Biểu mẫu 01A/ĐG-KSTT)
|
1. Đối tượng thực hiện
a) Đối tượng thực hiện:
- Tổ chức: Trong nước
|
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH 2: Cấp, thu hồi giấy phép xuất, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
I. CĂN CỨ PHÁP LÝ
(Nêu rõ điều, khoản, điểm và tên văn bản quy định)
|
Khoản 14 Điều 3, Điều 18, Khoản 5 Điều 46, Khoản 10 Điều 48, Khoản 8 Điều 52, Khoản 3 Điều 53 Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
|
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ, TÍNH HỢP PHÁP CỦA TỪNG BỘ PHẬN CẤU THÀNH TTHC ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HOẶC QUY ĐỊNH CHI TIẾT
(Sử dụng nội dung đánh giá đối với từng bộ phận cấu thành của TTHC tại Phần II Biểu mẫu 01A/ĐG-KSTT)
|
1. Cơ quan thực hiện
|
- Có được quy định rõ ràng, cụ thể về cơ quan thực hiện không? Có
|
Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Phòng, chống ma túy
Cơ quan ban hành: Bộ Công an
Ngày ban hành: 19/11/2019
Số hiệu:1016 /BC-BCA
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
8.-Bao-cao-Tổng-kết-Luật-PCMT.doc
BỘ CÔNG AN
Số: 1016 /BC-BCA
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2019
|
BÁO CÁO
Tổng kết thi hành Luật Phòng, chống ma túy[1]
Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại Thông báo số 295/TB-VPCP ngày 16/9/2016 của Văn phòng Chính phủ; Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 05/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy trong tình hình mới, theo đó, giao Bộ Công an nghiên cứu đưa dự án Luật Phòng, chống ma túy sửa đổi vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Bộ Công an đã phối hợp các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành tổng kết thi hành Luật Phòng, chống ma túy. Trên cơ sở Báo cáo tổng kết của các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan có liên quan và Công an các đơn vị, địa phương, Bộ Công an xin báo cáo về tình hình và kết quả triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) (trong Báo cáo viết gọn là Luật Phòng, chống ma túy). Báo cáo tổng kết gồm ba phần, cụ thể là:
Phần I. Công tác chỉ đạo, triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy.
Phần II. Thực trạng công tác tổ chức, thi hành Luật Phòng, chống ma túy.
Phần III. Phương hướng đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy trong thời gian tới và những kiến nghị, đề xuất cụ thể.
PHẦN I
CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, TRIỂN KHAI
THI HÀNH LUẬT PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
I. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO TRIỂN KHAI VÀ XÂY DỰNG CÁC VĂN BẢN VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
1. Công tác chỉ đạo triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy
Để triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy, ngày 11/1/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/2008/CT-TTg về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy và Nghị quyết số 16/2008/QH12 của Quốc hội, trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành các kế hoạch triển khai thi hành trong đơn vị mình, tổ chức các Hội nghị triển khai thi hành Luật.
Nhìn chung công tác chỉ đạo triển khai thi hành Luật Phòng, chống ma túy đã được tiến hành một cách nghiêm túc, kịp thời và có khoa học, đảm bảo các điều kiện cần thiết để đưa các quy định của Luật vào đời sống xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy.
2. Công tác ban hành các văn bản về phòng, chống ma túy
Trong những năm qua cụ thể hoá những quy định mang tính nguyên tắc về công tác phòng, chống tội phạm nói chung, công tác phòng, chống ma túy nói riêng trong Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa quan điểm của Đảng trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống ma túy (Chỉ thị số 36-CT/TW), trước đây là Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới (Chỉ thị số 21-CT/TW) và Kết luận số 95-KL/TW ngày 02/4/2014 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW (Kết luận số 95-KL/TW); Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 05/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy trong tình hình mới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống ma túy (Chỉ thị số 25/CT-TTg) (có thống kê ở Phụ lục 01 kèm theo Báo cáo này). Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về công tác phòng, chống ma túy tương đối hoàn chỉnh, là cơ sở pháp lý để tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống ma túy, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật về công tác phòng, chống ma túy cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập như: Chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính...; nhiều quy định không còn phù hợp làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả của công tác phòng, chống ma túy. Để đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, công tác phòng, chống ma túy nói riêng cần tiến hành sửa đổi các quy định trong Luật Phòng, chống ma túy cho phù hợp.
Ngày 05/6/2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 61/2000/QĐ-TTg thành lập Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm. Hiện nay, Chủ tịch Ủy ban quốc gia là Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; 03 phó Chủ tịch là Bộ trưởng các bộ: Công an, Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế; thành viên là lãnh đạo các bộ, ngành. Bộ Công an được giao nhiệm vụ là Cơ quan Thường trực về phòng, chống ma túy của Ủy ban quốc gia. Trên cơ sở quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy, theo trách nhiệm được phân công, Bộ Công an đã tổ chức bộ máy tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công an thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương công tác điều hành, chỉ đạo được đặt dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm (hoặc Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc) do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Trưởng ban, Phó Ban chỉ đạo là lãnh đạo các sở, ban, ngành: Công an, Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội; thành viên Ban Chỉ đạo là lãnh đạo các sở, ban ngành. Thường trực cho Ban Chỉ đạo là Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia và Chương trình phòng, chống ma túy phù hợp với từng giai đoạn: Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 27/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/12/2000 phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống ma túy giai đoạn 2001-2005; Quyết định số 156/2007/QĐ-TTg ngày 25/9/2007 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2010; Quyết định số 1203/QĐ-TTg ngày 31/8/2012 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng, chống ma túy giai đoạn 2012-2015; Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày 07/4/2017 phê duyệt Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020.
II. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
Trong thời gian qua, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống ma túy, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định của Luật Phòng, chống ma túy.
Nội dung tuyên truyền phong phú, tập trung nhiều về tác hại của ma túy, hậu quả do tệ nạn ma túy gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe, giống nòi; tuyên truyền về phương thức, thủ đoạn của tội phạm ma túy và cập nhật loại ma túy mới xuất hiện trên thị trường; nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tác hại và những nguy cơ đe dọa của ma túy đối với vận mệnh tương lai của mỗi người, gia đình và cộng đồng; tuyên truyền những thủ đoạn tinh vi của tội phạm, lôi kéo người tham gia vào tội phạm ma túy hoặc sử dụng chất ma túy; cung cấp kiến thức nhận biết dấu hiệu người nghiện ma túy để kịp thời can thiệp, xử lý; giúp thay đổi nhận thức, tạo sự cảm thông của gia đình và cộng đồng xã hội đối với người nghiện ma túy, tránh sự kỳ thị, chung tay góp sức giúp họ cai nghiện và tìm kiếm việc làm, tái hòa nhập cộng đồng; biểu dương những nhân tố điển hình trong lực lượng vũ trang cũng như các tầng lớp nhân dân đã có thành tích trong đấu tranh phòng, chống ma túy, tấm gương người nghiện đã cai nghiện thành công và những người đã tham gia vào câu lạc bộ giúp người cùng cảnh ngộ thoát nghiện.
Tích cực, chủ động triển khai nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công tác phòng, chống ma túy: Phát hành tài liệu, sách, tranh ảnh, tờ rơi, tờ gấp, đĩa CD, mở các chuyên trang, chuyên mục trên sóng phát thanh, Đài truyền hình, báo in, báo điện tử, đến các phương thức tuyên truyền trực quan như mít tinh, cổ động, triển lãm, trưng bày pano, áp phích, tổ chức các cuộc nói chuyện, tọa đàm, tuyên truyền miệng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật và kiến thức về phòng, chống ma túy. Sân khấu hóa các nội dung liên quan đến đề tài, lồng ghép vào các cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa ở địa bàn dân cư... đã tạo được hiệu ứng xã hội rất sôi nổi, vận động được người dân phá nhổ được nhiều ha cây thuốc phiện trồng trái phép. Hình thức thông tin, tuyên truyền trực quan qua pano, áp phích, băng rôn, tranh cổ động, các bản tin của các đội thông tin tuyên truyền lưu động về phòng, chống ma túy của một số ngành như: văn hóa, thông tin, Bộ đội Biên phòng, Công an, Mặt trận Tổ quốc... cũng đã đến được nhiều vùng sâu, vùng xa, nhất là đối với các làng, xã, bản phức tạp về ma túy. Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thường xuyên tuyên truyền chủ trương, đường lối của đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhằm nâng cao ý thức cảnh giác, đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động liên quan đến ma túy.
Nhiều ban ngành, tổ chức đoàn thể khác cùng thực hiện hình thức tuyên truyền như: Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Nông dân. Nhiều buổi nói chuyện chuyên đề, tọa đàm, sinh hoạt câu lạc bộ của đoàn thanh niên các cấp đã được tổ chức nhằm cung cấp kiến thức phòng, chống ma túy. Việc kẻ vẽ các pano, áp phích, tranh cổ động, khẩu hiệu tuyên truyền phòng, chống ma túy ở các điểm trung tâm tỉnh, thành phố, xã, phường, thị trấn... là hình thức tuyên truyền khá nổi bật và gây sự thu hút lớn, được tổ chức ở hầu hết các địa phương. Nhiều địa phương tổ chức biên tập, phát thanh, tuyên truyền lưu động bằng tiếng dân tộc phù hợp với từng vùng, miền như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Thanh Hóa, Đắk Lắk, Đắk Nông... Từ năm 2008 đến hết năm 2018, các ban, ngành, đoàn thể từ trung ương tới địa phương đã tổ chức treo hàng chục vạn băng zôn, đĩa CD, hàng trăm ngàn tranh cổ động tuyên truyền phòng, chống ma túy.
Hoạt động thông tin truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng đã phát huy những ưu thế tích cực, được thực hiện bằng những biện pháp, hình thức rất phong phú. Hàng năm, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai các hoạt động thông tin, tuyên truyền phòng, chống ma túy sâu rộng đến từng địa bàn dân cư, trường học, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, theo chủ đề “Hãy bảo vệ thế hệ trẻ trước hiểm họa ma túy”; tổ chức và chỉ đạo các phòng Văn hóa – Thông tin, hệ thống đài Truyền thanh – Truyền hình cấp huyện triển khai các hoạt động tuyên truyền hiệu quả, phù hợp với từng nhóm người, văn hóa vùng, miền, địa phương; tăng cường tuyên truyền qua các hoạt động thể dục, thể thao, văn hóa, văn nghệ, mít tinh nhằm tạo phong trào xây dựng xã, phường, thị trấn không tệ nạn ma túy; thông tin tuyên truyền trên hệ thống đài truyền thanh cấp xã, trên các trạm tin, bảng tin, cụm pano cổ động của địa phương; các băng rôn treo trên các tuyến đường, nơi tụ điểm sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của người dân. Các cơ quan thông tin đại chúng như Đài Truyền hình, Đài Phát thanh, báo in, báo điện tử từ trung ương tới địa phương tích cực tham gia tuyên truyền phòng, chống ma túy với những hình thức như dành các chuyên trang, chuyên mục về chủ đề phòng, chống ma túy.
Hàng năm, hưởng ứng tháng hành động phòng, chống ma túy, Ngày toàn dân phòng, chống ma túy (26/6), Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm tổ chức lễ ra quân, mít tinh lớn, thu hút được sự tham gia của các cấp, các ngành, các đoàn thể và đông đảo quần chúng nhân dân, được truyền hình trực tiếp đến nhân dân cả nước nhằm biểu dương sức mạnh của tổ chức chính trị - xã hội
[2]. Ngoài ra, các bộ, ngành, địa phương đều tổ chức các cuộc mít tinh hưởng ứng ngày Quốc tế và Ngày toàn dân phòng, chống ma túy ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền phòng, chống ma túy tới quần chúng nhân dân. Kết quả, từ năm 2008 đến nay, cả nước đã tổ chức hàng vạn sự kiện mít tinh, lễ ra quân phòng, chống ma túy. Ngày 29/9/2014, Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm đã phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam ký kết Chương trình phối hợp truyền thông số 3598/CTr-PHTT về phòng và chống HIV/AIDS, ma túy, mại dâm đến năm 2020. Với quy mô 3 đài quốc gia; 63 đài phát thanh, truyền hình địa phương; 1.020 cơ quan báo, tạp chí in và báo, tạp chí điện tử cùng với khoảng 1.700 trang thông tin điện tử tổng hợp, 208 trang mạng xã hội được cấp phép, về cơ bản đã đáp ứng kịp thời, đúng định hướng, làm cho người dân hiểu và chấp hành pháp luật ngày càng tốt hơn.
Công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy được tiến hành rộng rãi trong công chức, viên chức, người lao động, học sinh, sinh viên được đẩy mạnh và thu được những kết quả tích cực. Ở các địa phương, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng được sự quan tâm, chỉ đạo của các cơ quan trung ương, của các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, các sở, ban, ngành khối nội chính cùng với sự cố gắng của các cơ quan chức năng, nhiều đợt tập huấn, quán triệt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống ma túy đã được tổ chức, thực hiện. Qua đó, đã giúp cho công tác phòng, chống ma túy đã có những chuyển biến và đạt kết quả tích cực.
PHẦN II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC
THI HÀNH LUẬT PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
I. CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG HỢP PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN MA TÚY
- Tình hình xuất, nhập khẩu tiền chất hiện nay: Công tác kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy được quy tại Chương III (từ Điều 15 đến Điều 24) Luật Phòng, chống ma túy, để triển khai thi hành quy định này, Bộ Công an đã tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2001/NÐ-CP ngày 05/11/2001 hướng dẫn việc kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý ở trong nước. Hiện nay, cả nước có khoảng 600 đơn vị kinh doanh nhập khẩu tiền chất, số lượng tiền chất nhập khẩu khoảng 450 nghìn tấn và 500 nghìn lít các loại tiền chất và hóa chất có chứa tiền chất mỗi năm phục vụ kinh doanh, dùng cho sản xuất công nghiệp và xử lý môi trường. Số lượng tiền chất nhập khẩu hàng năm tăng từ 10-15% do nhu cầu sử dụng của các đơn vị ngày một tăng cao do chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Chính phủ đã tạo điều kiện cho các Công ty có vốn đầu tư nước ngoài vào đầu tư sản xuất hàng gia công theo hình thức Doanh nghiệp chế xuất đã sử dụng một lượng lớn tiền chất, các Công ty này chủ yếu mua tiền chất từ các công ty nội địa và làm thủ tục hải quan xuất, nhập khẩu tại chỗ. Hiện nay, Việt Nam mới sản xuất được 02 tiền chất đó là sulphuric acid và hydrochloric acid còn lại 100% là nhập khẩu. Các loại tiền chất chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản. Các loại tiền chất nhập khẩu với số lượng lớn là acetone, toluene, methyl ethyl ketone dùng trong lĩnh vực sản xuất keo dán, làm dung môi trong sản xuất các loại sơn. Tiền chất formic acid, acetic acid chủ yếu được các doanh nghiệp phía Nam nhập khẩu về bán cho Công ty chế biến mủ cao su. Tiền chất có nguy cơ cao acetic anhydride do Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam nhập khẩu dùng trong chế biến tinh bột, các loại tiền chất này được các đơn vị quản lý chặt chẽ phòng tránh thất thoát vào sản xuất ma túy tổng hợp.
- Về sử dụng tiền chất: Các doanh nghiệp sử dụng tiền chất chủ yếu nằm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất thuộc các tỉnh, thành phố như: Thành phố Hà Nội, Bắc Ninh, Thành phố Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, các công ty này chịu sự giám sát của Ban quản lý các Khu chế xuất và Khu công nghiệp đồng thời chịu sự giám sát của cơ quan Hải quan, vì vậy các loại tiền chất nhập khẩu sử dụng đều đúng mục đích.
Về xuất khẩu tiền chất: Hiện nay xuất khẩu tiền chất chủ yếu xuất vào khu chế xuất, khu công nghiệp để xử lý nước thải và sản xuất các loại sơn, keo dán; số lượng tiền chất chủ yếu là sulphuric acid, hydrochloric acid, toluene và acetone. Các đơn vị khi xuất khẩu đều thực hiện xin cấp giấy phép đầy đủ và thực hiện khá tốt chế độ ghi chép và lưu trữ đầy đủ hóa đơn chứng khi xuất bán tiền chất cho các đơn vị.
Nhìn chung các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh và sử dụng tiền chất trong lĩnh vực công nghiệp đã nâng cao ý thức quản lý tốt các loại tiền chất, không để làm thất thoát. Các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tiền chất đã thực hiện nghiêm túc các quy định về quản lý tiền chất, chấp hành việc thanh tra, kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền trong sử dụng tiền chất. Công tác thống kê, báo cáo số liệu xuất nhập khẩu và sử dụng tiền chất đã được cập nhật đầy đủ, chính xác. Công tác tuyên truyền về công tác kiểm soát tiền chất được Bộ Công thương trên khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hội nghị nâng cao năng lực kiểm soát tiền chất cho các doanh nghiệp kinh doanh, xuất nhập khẩu tiền chất công nghiệp do đó nhận thức của các đơn vị sản xuất, kinh doanh được nâng cao rõ rệt, từ chỗ các doanh nghiệp không hiểu biết về tiền chất chỉ quản lý tiền chất như các hóa chất thông thường thì nay việc thực hiện các quy định về kiểm soát tiền chất đã được thực hiện ở hầu hết các đơn vị. Chế độ ghi chép, sổ sách chứng từ, của các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, pha chế, vận chuyển, bảo quản, tàng trữ, mua bán, sử dụng tiền chất đã lập hồ sơ đầy đủ để theo dõi việc xuất, nhập kho về số lượng, chất lượng. Phiếu xuất kho, nhập kho các tiền chất đã không viết chung với các loại hàng hóa, vật tư khác. Vào ngày 30 tháng 6 và ngày 31 tháng 12 hàng năm, tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, pha chế, vận chuyển, bảo quản, tàng trữ, mua bán, sử dụng tiền chất đã kiểm kê tồn kho, làm báo cáo 6 tháng và báo cáo năm gửi Bộ Công Thương theo quy định.
Các đơn vị nhập khẩu các loại tiền chất nguy cơ cao khi nhập khẩu xong một lô hàng đã có báo cáo về tình hình kinh doanh, sử dụng cho sản xuất của doanh nghiệp. Các đơn vị nhập khẩu tiền chất về để sản xuất đã xây dựng định mức tiệu thụ tiền chất trên một đơn vị sản phẩm để theo dõi số lượng tiền chất đã sử dụng trong một năm và báo cáo về Cục Hóa chất. Các đơn vị kinh doanh tiền chất đã tổng hợp số lượng kinh doanh tiền chất, lập danh sách khách hàng theo mẫu và gửi về Cục Hóa chất để theo dõi quản lý.
- Đối với công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy, Bộ Công thương đã triển khai các nhiệm vụ nhằm nâng cao trách nhiệm trong công tác kiểm soát tiền chất, tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về kiểm soát hoạt động mua bán tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp, quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép xuất, nhập khẩu tiền chất, hướng dẫn các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện các quy định về quản lý, sản xuất, kinh doanh tiền chất, góp phần đấu tranh làm giảm tội phạm ma tuý và nguồn cung cấp tiền chất cho sản xuất ma tuý tổng hợp. Năm 2011 Cục Hoá chất - Bộ Công Thương đã triển khai, thực hiện Đề án Tăng cường quản lý và kiểm soát tiền chất với các nội dung như sau: (1) Phối hợp Đài truyền hình Việt Nam xây dựng các bộ phim tài liệu tuyên truyền công tác kiểm soát tiền chất phát sóng trên VTV2 Đài truyền hình nhằm tuyên truyền rộng rãi công tác quản lý tiền chất, mức độ nguy hại khi không quản lý tốt các loại tiền chất có thể sẽ bị lợi dụng để sản xuất trái phép ma túy; (2) Xây dựng cơ sở dữ liệu danh sách, nắm vững và theo dõi được danh sách các công ty đang sản xuất kinh doanh, sử dụng và lưu giữ trong toàn quốc các tiền chất có nguy cơ cao; (3) Phối hợp với Bộ Công an hoàn thiện Trung tâm dữ liệu kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy trong đó ưu tiên cho hoạt động kiểm soát tiền chất; kết nối mạng trao đổi thông tin giữa các Bộ ngành trong các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, cập nhật số liệu xuất nhập khẩu tiền chất vào Trung tâm Dữ liệu để các đơn vị liên quan có thể truy xuất số liệu khi cần; (4) Phối hợp với Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an nghiên cứu và sản xuất 100 bộ Test - Kít phát hiện nhanh các loại tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp để phát cho lực lượng Công an, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển nâng cao công tác kiểm soát tiền chất cho các lực lượng này; (5) Tiến hành hướng dẫn, đôn đốc các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến tiền chất, quản lý các loại tiền chất từ khâu nhập khẩu đến kinh doanh sử dụng. Đặc biệt quản lý chặt chẽ các loại tiền chất có nguy cơ cao; (6) Biên soạn và xuất bản bộ tài liệu về quản lý, kiểm soát tiền chất, xuất bản 5.000 cuốn tài tiệu phát cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tiền chất công nghiệp; (7) Xây dựng trang Web thực hiện chế độ cấp Giấy phép xuất, nhập khẩu tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp trực tuyến; (8) Tổ chức Đoàn liên ngành đi khảo sát học hỏi kinh nghiệm tại Hàn Quốc, Trung Quốc về cách thức quản lý tiền chất của các nước để áp dụng trong quản lý tiền chất tại Việt Nam; (9) Bên cạnh các quy định về quản lý kiểm soát tiền chất, để nâng cao năng lực quản lý tiền chất cho các tổ chức, cá nhân thì Bộ Công thương đã triển khai các hoạt động như tổ chức hội nghị phổ biến, kiểm tra, kiểm soát và thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao sự hiểu biết của người dân, của doanh nghiệp khi thực hiện kinh doanh xuất, nhập khẩu, sử dụng tồn trữ tiền chất, phòng tránh thất thoát vào sản xuất ma túy tổng hợp.
Hàng năm, Bộ Công thương tiến hành đánh giá, rà soát thống kê số lượng tiền chất nhập khẩu, xuất khẩu, kinh doanh và sử dụng, xây dựng cơ sở dữ liệu các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu trong phạm vi cả nước. Tổng hợp số liệu tiền chất công nghiệp xuất, nhập khẩu theo quý, theo năm định kỳ báo cáo Bộ Công an đúng quy định, kịp thời cung cấp số cho các đơn vị phối hợp khi có yêu cầu. Để công tác kiểm soát tiền chất ngày một chặt chẽ, ngăn chặn tình trạng buôn bán, sử dụng tiền chất bất hợp pháp, Bộ Công thương đã chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về kiểm soát hoạt động mua bán tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp, quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép xuất, nhập khẩu tiền chất, hướng dẫn các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện các quy định về quản lý, sản xuất, kinh doanh tiền chất, góp phần đấu tranh làm giảm tội phạm ma tuý và nguồn cung cấp tiền chất cho sản xuất ma tuý tổng hợp.
Để đạt được những kết quả trên thì công tác kiểm tra giám sát tại các đơn vị cũng được Bộ Công thương triển khai thường xuyên. Hàng năm, Bộ đã tổ chức các Đoàn kiểm tra liên ngành gồm có Bộ Công an, Tổng cục Hải quan và Công an các tỉnh đi kiểm tra các đơn vị kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất nhằm đánh giá thực trạng công tác quản lý tiền chất tại các đơn vị, qua đó nắm bắt tình hình để có những chấn chỉnh kịp thời, qua công tác kiểm tra Đoàn kiểm tra đã hướng dẫn các đơn vị chế độ ghi chép, sổ sách, hóa đơn chứng từ đúng quy định. Trên cơ sở kiểm tra, phát hiện những thiếu sót, sơ hở, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục trong công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy. Bộ Công thương đã thực hiện cấp giấy phép xuất, nhập khẩu tiền chất công nghiệp trên hệ thống cổng thông tin một cửa quốc gia tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu tiền chất công nghiệp một cách nhanh chóng thuận tiện.
Hàng năm, Bộ Công thương đã tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu, kinh doanh, tồn trữ tiền chất của các đơn vị theo Quyết định số 127/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 báo cáo Chính phủ và gửi Bộ Công an theo quy định. Ngoài ra Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Công an thực hiện thông báo tiền xuất khẩu đối với các lô hàng xuất khẩu đi nước ngoài theo Quy chế phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy Quyết định số 52/2011/QĐ-TTg ngày 21/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
- Việc kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy trong lĩnh vực y tế: Tình trạng nghiện ma túy diễn biến ngày càng phức tạp, nhu cầu về lượng ma túy ngày càng lớn, điều này đã yêu cầu ngành y tế phải quản lý được thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và tiền chất dùng làm thuốc vừa đáp ứng nhu cầu điều trị, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo đảm chặt chẽ nghiêm ngặt, tránh thất thoát ra ngoài cho các đối tượng xấu lợi dụng.
Bộ Y tế đã chủ động thường xuyên rà soát những sơ hở, bất cập trong chính sách quản lý, rà soát danh mục các thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và tiền chất dùng làm thuốc để ban hành các quy định bổ sung, chỉnh sửa, cập nhật kịp thời. Thường xuyên tổ chức tập huấn, phổ biến các quy định về quản lý thuốc gây nghiện, thuôc hướng thần và tiền chất dùng làm thuốc. Tăng cường quản lý chặt chẽ việc dự trù, sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh, bản quản cấp phát, kê đơn thuốc, theo dõi ghi chép sổ sách, báo cáo về tình hình sử dụng thuốc và nguyên liệu làm thuốc.
Để đáp ứng nhu cầu quản lý đặc thù do điều trị nghiện các chất ma túy Opioid bằng thuốc Methadone là một giải pháp điều trị mới, Bộ Y tế đã ban hành hướng dẫn việc quản lý thuốc Methadone tại Thông tư số 14/2015/TT-BYT. Thông tư đã hướng dẫn chi tiết việc sản xuất thuốc trong nước, nhập khẩu, dự trù và phân phối thuốc, vận chuyển, giao nhận và bảo quản thuốc, cấp phát và sử dụng thuốc Methadone tại các cơ sở và việc quản lý thuốc Methadone trong trường hợp chuyển tiếp điều trị cho bệnh nhân. Việc quản lý thuốc Methadone tại các cơ sở điều trị cũng như tại các tuyến bảo quản và phân phối được thực hiện đúng theo các quy định tại Thông tư số 14/2015/TT-BYT cũng như các quy định của pháp luật về quản lý chất gây nghiện, không để xảy ra tình trạng thất thoát thuốc.
II. CÔNG TÁC CAI NGHIỆN MA TÚY VÀ QUẢN LÝ SAU CAI
1. Tình hình sử dụng trái phép chất ma túy và người nghiện ma túy
Tình hình sử dụng trái phép chất ma túy ở nước ta có diễn biến phức tạp, ma túy sử dụng chủ yếu là Heroin và ma túy tổng hợp, xu hướng sử dụng ma túy tổng hợp ngày càng tăng. Hình thức sử dụng phong phú, đa dạng từ hút, hít sang tiêm chích, uống, ngậm (ma túy tổng hợp, thuốc hướng thần).... Theo thống kê của Bộ Công an, trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2018, trên phạm vi cả nước có tổng số 365.293 người sử dụng trái phép chất ma túy, trong số này có 56.122 người sử dụng trái phép chất ma túy vi phạm pháp luật, phạm tội (chiếm 15,36%), có 5.337 người sử dụng trái phép chất ma túy gây bất ổn về tình hình an ninh, trật tự, có 27.655 người đã từng sử dụng trái phép chất ma túy đang chấp hành án tại các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ
[3]. Tình hình sử dụng trái phép chất ma túy có xu hướng gia tăng đang diễn biến phức tạp, nhất là từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có hiệu lực thi hành thì hành vi sử dụng trái phép chất ma túy không được coi là tội phạm và không xử lý bằng pháp luật hình sự mà xử lý theo quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, theo thống kê năm 2009 người sử dụng trái phép chất ma túy đang ở cộng đồng là 25.286 người (chiếm 6,92%) và hàng năm đều tăng và đến năm 2018 là 49.210 người (chiếm 13,47%), gấp 02 lần năm 2009. Trong thời gian qua, người sử dụng trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp) gây ra tình trạng mất an ninh, trật tự ở nhiều nơi với nhiều vụ án, gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân, có những vụ đối tượng giết chính người thân của mình. Do đó, cần phải có cơ chế để quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy từ đó phòng ngừa, ngăn chặn hậu quả của việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội.
Tình hình người nghiện ngày càng diễn biến phức tạp, theo thống kê, năm 2009 số người nghiện có hồ sơ quản lý cả nước là 146.731 người, năm 2018 số người nghiện cả nước là 225.099 người, tăng 72.368 người so với năm 2009. Công an các địa phương đã chủ động tiến hành điều tra, nắm tình hình người nghiện và phối hợp với các lực lượng có liên quan lập hồ sơ đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc, mở hồ sơ quản lý người sử dụng ma túy, từ đó đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương nhiều kế hoạch, đề án trong quản lý người nghiện ở địa bàn cư trú. Năm 2009 lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy đã phối hợp với Công an cơ sở lập hồ sơ và đưa trên 10.000 người nghiện ma túy vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc; năm 2010 trên 10.000 người; năm 2011: 7.705 người, năm 2012: 3.790 người; năm 2013: 2.462 người; năm 2014: 3.825 người; năm 2015: 1.894 người; năm 2016: 6.975 người; 6 tháng đầu năm 2017: 5.599 người nghiện ma túy được lập hồ sơ và đưa vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống ma túy hàng năm của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý năm 2017 là 222.582 người, năm 2018 là 225.099 người. Sau khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực, từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2018, theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý 69.241 trường hợp đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Người nghiện có ở tất cả các địa phương, có ở mọi thành phần, mọi lứa tuổi song chủ yếu ở lớp trẻ (0,1% dưới 16 tuổi; 76% dưới 35 tuổi). Khoảng 1.600 người tử vong do sốc quá liều hàng năm; khoảng 50% người nghiện có các vấn đề về sức khỏe tâm thần
[4]. Tỷ lệ phạm nhân phạm tội về ma túy đang ở các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ là 41,04%
[5], tỷ lệ phạm nhân có tiền sử nghiện ma túy là 28,58%.
2. Công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai
2.1. Công tác cai nghiện ma túy
2.1.1. Công tác cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng
Đến nay, có 2.719 xã, phường, thị trấn thuộc 20 tỉnh, thành phố thành lập Tổ công tác cai nghiện ma túy
[6]. Giai đoạn 2011 - 2016, cả nước tổ chức cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng cho 51.962 lượt người (chiếm 27,38% tổng số người được cai nghiện theo các hình thức); dạy nghề cho 2.677 lượt người; hỗ trợ tạo việc làm cho 1.762 lượt người
[7]. Đến 12/2018, có 2.719 xã, phường, thị trấn thuộc 20 tỉnh, thành phố thành lập Tổ công tác cai nghiện ma túy. Các hình thức cai nghiện được triển khai phù hợp với điều kiện của địa phương
[8]. Một số tỉnh, thành phố có cách làm sáng tạo, đầu tư mạnh các nguồn lực làm cai nghiện tại gia đình, cộng đồng
[9]. Tuy nhiên, một số quy định về cai nghiện tại gia đình và cộng đồng còn nhiều bất cập; đồng thời, tính sẵn có của các dịch vụ chưa được bảo đảm, nên người nghiện còn gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ; công tác chỉ đạo, điều hành ở nhiều địa phương còn thiếu quyết liệt, thiếu cơ sở vật chất, thiếu nhân lực và hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ; hoạt động chủ yếu mới dừng lại ở khâu cắt cơn, thiếu các giải pháp quản lý, hỗ trợ sau giai đoạn cắt cơn; thiếu chính sách hỗ trợ người cai nghiện tự nguyện nên không khuyến khích được nhiều người tự nguyện tham gia. Từ năm 2014 số người cai nghiện tại gia đình, tại cộng đồng giảm mạnh, chỉ còn 5.687 lượt người, tương đương 58% năm 2013 và đến năm 2017 chỉ còn 3.566 lượt người và năm 2018 còn 6/63 tỉnh, thành phố tổ chức cai nghiện cho 4.320 lượt người.
2.1.2. Công tác cai nghiện tự nguyện
- Công tác cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện công lập: Tính đến 12/2018 cả nước có: 79 cơ sở cai nghiện công lập có chức năng tổng hợp, trong đó có cai nghiện tự nguyện và điều trị Methadone; 18 cơ sở cai nghiện chỉ làm cai nghiện tự nguyện và điều trị Methadone, hàng năm các cơ sở cai nghiện ma túy công lập đã tiếp nhận và cai nghiện tự nguyện cho trên 5.000 lượt người. Biện pháp cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện công lập được coi là biện pháp trọng tâm, cần được quan tâm đầu tư và phát triển, phù hợp với xu hướng trên thế giới. Biện pháp này tận dụng được các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân sự của cơ sở cai nghiện công lập, cung cấp các dịch vụ sẵn có gồm cai nghiện, phục hồi và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng.Hiện nay, phần lớn các cơ sở cai nghiện đã chuyển đổi theo Đề án 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 nên chất lượng dịch vụ có phần được cải thiện, nhưng vẫn còn hạn chế vì chất lượng nguồn nhân lực chưa được cải thiện, tỷ lệ người sử dụng ma túy tổng hợp tăng rất nhanh trong khi đa số cán bộ chưa có kinh nghiêm, chưa được đào tạo chuyên sâu về quản lý, điều trị cho người nghiện ma túy tổng hợp, chất hướng thần.
- Công tác cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ngoài công lập
Tính đến hết năm 2018 có 23 cơ sơ cai nghiện ma túy tự nguyện được cấp phép, nhưng 7 cơ sơ đã ngừng hoạt động. Có 2 cơ sơ quy mô tiếp nhận dưới 60 lượt người/năm và 13 cơ sơ trên 100 lượt người/năm. Tính bình quân hàng năm các cơ sơ này đã tiếp nhận khoảng hơn 4.000 lượt người. Ngoài lực lượng y bác sỹ được đào tạo chuyên môn sâu, còn lại chưa được đào tạo bài bản, nên các hoạt động tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho người nghiện còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, do quy mô nhỏ, lực lượng cán bộ hạn chế nên việc quản lý, chăm sóc những đối tượng có hành vi gây rối rất khó khăn. Mặt khác, hiện nay người sử dụng ma túy tổng hợp tăng rất nhanh, trong khi các cơ sở chưa đủ điều kiện tiếp nhận, điều trị cho những trường hợp có biểu hiện loạn thần.
Với hơn 4.000 lượt người được tiếp nhận cai nghiện hàng năm, tương đương hơn 11% tổng số người được tiếp nhận cai nghiện trong toàn bộ hệ thống cơ sở cai nghiện cả trong và ngoài công lập, tạo cơ hội cho những người muốn đi cai nghiện không phải lo lắng thủ tục hành chính phiền phức. Đồng thời, cũng làm giảm chi ngân sách tương đương trên 11% tổng chi cho công tác cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện ma túy, và góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Hiện nay chưa có cơ chế kiểm soát hợp lý nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ của các đơn vị cung cấp dịch vụ cai nghiện tự nguyện, trong khi tính tự phát của thị trường và của người dân lại phát sinh khá phổ biến nên chất lượng dịch vụ cai nghiện chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa có được niềm tin của người sử dụng dịch vụ. Ngoài ra, một số cơ sơ cai nghiện tự nguyện đặt ở những khu dân cư tập trung gây lo ngại về trật tự, an toàn xã hội cho chính quyền và người dân địa phương. Quy định về xã hội hóa cai nghiện tự nguyện còn bất cập: quy định về cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các cơ sở cai nghiện ma túy chưa tạo điều kiện cho sự phát triển các cơ sở cai nghiện ma túy ngoài công lập (sau 15 năm chỉ có 23 cơ sở được cấp phép).
2.1.3. Công tác cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện
- Công tác cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện đối với người từ đủ 18 tuổi: Giai đoạn 2009 - 2018, cả nước đã quản lý, cai nghiện bắt buộc cho 289.724 lượt người. Trong đó, lũy kế từ năm 2010 chuyển sang 70.549 người, tiếp nhận mới 219.175 lượt người, trung bình hàng năm đã quản lý, cai nghiện cho khoảng 43.000 lượt người, tương đương trên 20% người nghiện có hồ sơ quản lý. Giai đoạn 2017 – 2018, trung bình hàng năm quản lý, cai nghiện cho khoảng 25.000 lượt người. Theo Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, sau khi Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực, từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2018, các Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý 69.241 trường hợp đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đã giải quyết 68.504 trường hợp, đạt 98,94% (áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 65.017 trường hợp, chuyển hồ sơ 368 trường hợp, đình chỉ 2.431 trường hợp, không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 688 trường hợp). Ngoài ra, các Tòa án nhân dân cấp huyện còn thụ lý xem xét 15.920 trường hợp đề nghị hoãn, miễn chấp hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn lại tại Tòa án nhân dân, đã giải quyết 15.869 trường hợp, đạt tỷ lệ 99,68%. Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý 1.788 khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị đối với các quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đã giải quyết 1.785 khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị (đạt 99,83%). Việc quản lý người nghiện ma túy trong cơ sở cai nghiện bắt buộc góp phần bảo đảm ninh trật tự xã hội, làm giảm tỷ lệ tội phạm do người nghiện ma túy gây ra. Tuy nhiên, việc triển khai Luật Phòng, chống ma túy còn gặp nhiều khó khăn do một số quy định chưa phù hợp với thực tế, chưa thống nhất với các luật liên quan như: thời gian cai nghiện bắt buộc, đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, việc tổ chức lao động cho học viên không rõ ràng, minh bạch, chưa tuân theo quy định của Bộ Luật lao động,…
- Công tác cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện đối với người dưới 18 tuổi: trước năm 2014 (khi chưa có Luật Xử lý vi phạm hành chính) các cơ sở cai nghiện trên cả nước đều tiếp nhận chung cả người chưa thành niên và người đã thành niên. Nhiều cơ sở cai nghiện có bố trí khu ở riêng, nhưng không cách ly hoàn toàn với người lớn, lao động và một số hoạt động khác vẫn chung. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh có Trung tâm Thanh thiếu niên 2, được bố trí riêng cho người chưa thành niên nhưng vẫn tiếp nhận cả người đã thành niên. Từ 01/01/2014 (khi Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định chỉ người đủ 18 tuổi trở lên mới được áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) đến nay, việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối với người dưới 18 tuổi không còn được thực hiện, trong khi cai nghiện tự nguyện chưa thu hút được nhiều người tham gia, nên vấn đề người nghiện ma túy dưới 18 tuổi hiện nay đang bị bỏ ngỏ, ở nhiều nơi gây ảnh hưởng không nhỏ tới trật tự xã hội.
2.1.4. Công tác điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone; nghiên cứu bài thuốc và phương pháp cai nghiện
- Công tác điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone:
Tính đến nay, chương trình điều trị Methadone đã được triển khai tại 63/63 tỉnh/thành phố, với 314 cơ sở điều trị và điều trị cho 54.355 bệnh nhân, đạt 67% chỉ tiêu do Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày 20/6/2014 về việc giao chỉ tiêu bệnh nhân được điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone năm 2014 và năm 2015.
Biểu đồ 1. Tăng trưởng bệnh nhân qua các năm (tính đến 30/6/2018)
Bệnh nhân do ngành y tế điều trị chiếm tỷ trọng chủ yếu, chiếm 93,4% trong tổng số bệnh nhân được điều trị Methadone, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý chiếm 6,6% và do ngành Công an quản lý tại Trại giam Phú Sơn 4 chiếm 0,013%. Tính đến nay, trên toàn quốc đã có 02 cơ sở điều trị tư nhân, điều trị cho tổng số 305 bệnh nhân
[[10]].
TT
|
Ngành/lĩnh vực
|
Số cơ sở điều trị
|
Số bệnh nhân
|
Tỷ lệ (%)
|
1
|
Ngành y tế
|
282
|
50.756
|
93.4%
|
2
|
Ngành Công an
|
01
|
7
|
0.013%
|
3
|
Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
|
31
|
3.592
|
6.6%
|
|
Tổng
|
314
|
54.355
|
100%
|
Bảng 1: Tổng hợp tình hình bệnh nhân Methadone theo ngành
Việc điều trị nghiện bằng Methadone đã được đánh giá đem lại nhiều hiệu quả cho người nghiện, số người nghiện các chất dạng thuốc phiện đã giảm, giảm tỷ lệ tiêm chích ma túy trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị, từ đó giúp giảm nguy cơ lây truyền các bệnh qua đường máu như HIV.
- Công tác nghiên cứu bài thuốc và phương pháp cai nghiện: Bộ Y tế tổ chức nghiên cứu, thẩm định và đưa vào ứng dụng tại các trung tâm cai nghiện một số bài thuốc hỗ trợ cắt cơn, cai nghiện ma túy như Cedemex, Bông Sen, CAMAT (BSA52), Heantos; ngoài ra, Bộ Y tế còn sử dụng phác đồ An thần kinh, phương pháp châm cứu hỗ trợ cắt cơn cai nghiện ma túy tại Viện Châm cứu Trung ương; phương pháp dùng thuốc đối kháng Naltrexone trong điều trị chống tái nghiện. Ngoài ra, một số thuốc và phương pháp khác cũng được Bộ Y tế đang tiến hành nghiên cứu, thẩm định hiệu quả điều trị hỗ trợ cai nghiện ma túy.
2.2. Công tác quản lý sau cai nghiện
Từ năm 2009, công tác quản lý sau cai được thực hiện theo Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008), mô hình quản lý sau cai ở các địa phương thực hiện theo Nghị quyết số 16/NQ-QH11 đã kịp thời tổng kết và nhân rộng với các hình thức đa dạng như thành phố Hà Nội, Sơn La, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang... Năm 2009, đã dạy nghề cho 6.921 người, dạy văn hóa cho 3.971 người, có 238 người được tạo việc làm, hỗ trợ vay vốn cho 255 người với 271 triệu đồng.Trong giai đoạn 2010 đến 2015, cả nước đã tổ chức quản lý sau cai cho 58.873 lượt người, trong đó tại nơi cư trú 43.528 lượt người (chiếm 73,5%), tại cơ sở quản lý sau cai cho 15.615 lượt người (chiếm 26,5%) tổ chức dạy văn hóa 22.989 người, dạy nghề cho 42.570 người, hỗ trợ vốn, tạo việc làm cho 15.292 người. Đến 30/12/2015, cả nước đang quản lý sau cai tại cộng đồng 19.327 người, tại Cơ sở quản lý sau cai là 4.242 người, đến 30/9/2017 chỉ còn 923 người. Đến nay, các địa phương không còn quản lý sau cai tại cơ sở quản lý sau cai mà hầu hết đều tổ chức thực hiện theo quy định tại các điều 30, 31 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Điều 114 Luật Xử lý vi phạm hành chính, tức là đưa họ về nơi cư trú để theo dõi, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng.
III. CÔNG TÁC ĐẤU TRANH VỚI TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
Thực hiện Luật Phòng, chống ma túy, các bộ đã chỉ đạo lực lượng chuyên trách tăng cường nắm tình hình, tổ chức đấu tranh mạnh mẽ trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, tập trung vào tuyến Tây Bắc, Bắc miền Trung và Tây Nam, các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, các thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh...); đẩy mạnh công tác phối hợp, nhất là phối hợp với các địa phương và các lực lượng chức năng của các nước có chung đường biên giới để triển khai các hoạt động khảo sát, phối hợp kiểm tra, ngăn chặn từ xa... qua đó, nhiều tổ chức, đường dây mua bán, vận chuyển ma túy lớn trong nước và xuyên quốc gia được phát hiện, bắt giữ, thu giữ lượng ma túy lớn. Đồng thời, chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phổ mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm ma túy; tổ chức triệt xóa các điểm, tụ điểm ma túy phức tạp.
Từ năm 2009 đến hết năm 2018, Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Hải quan đã phát hiện, điều tra bắt giữ 203.624 vụ/306.924 đối tượng phạm tội về ma túy; thu giữ 9.329,823 kg và 2.635 bánh Heroine; 1.996,180 kg thuốc phiện; trên 25.000 kg cần sa tươi, khô, khoảng 6.968 kg ma túy tổng hợp; 9.275.257 viên ma túy tổng hợp và nhiều loại ma túy khác cùng nhiều vũ khí, phương tiện, tài sản có liên quan.
Đã đề nghị truy tố 142.275 vụ với 171.354 bị can
[11]; Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý xét xử 155.584 vụ án với 199.680 bị cáo phạm tội về ma túy, chất lượng truy tố, xét xử các vụ án về ma túy của ngành Kiểm sát, Tòa án các cấp được nâng lên, cơ bản đảm bảo đúng người đúng tội.
Mặc dù kết quả đấu tranh với tội phạm ma túy những năm qua là rất lớn nhưng các loại tội phạm về ma túy ở Việt Nam vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi và có chiều hướng gia tăng. Tính chất và mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động hơn. Số vụ buôn bán, vận chuyển trái phép chất ma túy với số lượng lớn ngày càng nhiều. Tội phạm ma túy có yếu tố nước ngoài cũng diễn biến rất phức tạp. Nhiều vụ buôn bán, vận chuyển ma túy có sự cấu kết giữa người Việt Nam và người nước ngoài hoặc người nước ngoài trực tiếp vận chuyển ma túy vào Việt Nam, nhất là các đối tượng người châu Phi tổ chức các đường dây vận chuyển ma túy vào Việt Nam và đi nước thứ 3 tăng lên. Tình hình sản xuất ma túy tổng hợp, hàm lượng ma túy thành phẩm cao hơn so với trước. Các đối tượng phạm tội là người Việt Nam đã từng sống, lao động ở nước ngoài trực tiếp hoặc móc nối với tội phạm là người nước ngoài để tổ chức sản xuất ma túy ở nhiều địa phương như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nghệ An, Long An, Bắc Ninh, ...
IV. VỀ CÔNG TÁC HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
Trong công tác xây dựng, đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy: Việt Nam đã ký các hiệp định song phương về phòng, chống ma túy với Chính phủ các nước: Campuchia, Lào, Trung Quốc, Liên bang Nga, Myanmar, Hungary, Thái Lan, Hoa Kỳ và các hiệp định hợp tác trong phòng, chống tội phạm với hầu hết các nước trong khu vực và các đối tác, có ý nghĩa quan trọng về phòng, chống ma túy trên thế giới. Hoạt động hợp tác song phương với các nước đã được tăng cường theo hướng đi sâu giải quyết các công việc cụ thể và mang tính thực tiễn. Cơ chế giao ban giữa các tỉnh đã hình thành và dần đi vào thường xuyên. Việt Nam đã hỗ trợ nâng cao năng lực cho lực lượng phòng, chống ma túy Lào và Campuchia thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, đầu tư kinh phí và phương tiện.
Bên cạnh đó, hợp tác với các nước láng giềng, Việt Nam còn tăng cường hợp tác về phòng, chống ma túy với các đối tác chủ yếu trong khu vực và trên thế giới như Thái Lan, Myanmar, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang Nga, Australia... Thông qua các mối quan hệ này, ta đã tranh thủ được nguồn lực của các đối tác tiềm năng, cũng như góp phần ngăn chặn ma túy từ xa vào Việt Nam và từ Việt Nam đi các nước thứ ba. Các địa phương có đường biên giới đã chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các tỉnh biên giới tăng cường phối hợp với các tỉnh giáp biên của nước bạn ký kết kế hoạch hợp tác, tổ chức giao ban định kỳ, đột xuất, trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm nâng cao năng lực đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy; chủ động nắm chắc tình hình, phối hợp đấu tranh, truy bắt tội phạm ma túy, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự khu vực biên giới.
Tích cực tham gia đóng góp tại các diễn đàn đa phương, cung cấp thông tin, tuyên truyền về chính sách, quan điểm và thành tựu của ta trong lĩnh vực này; đồng thời đấu tranh để bác bỏ các thông tin sai lệch liên quan đến công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện tại Việt Nam, cụ thể: (1) Tham gia thương lượng, xây dựng các Nghị quyết, văn kiện về ma túy tại Ủy ban nhân quyền và các vấn đề xã hội Liên hợp quốc, các khóa họp thường niên của Ủy ban Kiểm soát ma túy Liên Hiệp quốc và Khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc (UNGASS) năm 2016, phối hợp xây dựng tuyên bố chung của ASEAN tại các diễn đàn này; (2) Đón báo cáo viên đặc biệt về quyền sưc khỏe thăm Việt Nam (năm 2011), tạo điều kiện đi thăm các trung tâm giáo dục xã hội tại một số tỉnh thanh; phát biểu làm rõ chính sách nhân đạo của ta về vấn đề này khi đối thoại với Báo cáo viên đặc biệt tại Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc tháng 3/2012; (3) Tham gia các cơ chế phối hợp tiểu vùng MeKong: Hội nghị 3 bên về phòng, chống ma túy (Việt Nam, Campuchia, Lào); khuôn khổ Bản thảo thuận về hợp tác kiểm soát ma túy khu vực Tiểu vùng Mekong (MOU 1993); chủ động đưa ra những sáng kiến nâng cao hiệu quả hợp tác như: “Xây dựng Kế hoạch hành động của ASEAN về phòng, chống ma túy 2007-2015”, kế hoạch hành động của các nước tiểu vùng sông Mekong và các dự án hợp tác của khu vực; (4) Tích cực tham gia các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ hợp tác ASEAN; phối hợp tham gia 6 kỳ Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về các vấn đề ma túy (AMMD) từ năm 2012 đến nay, trong đó năm 2018 ta là nước chủ nhà; tham gia các cơ chế phối hợp giữa ASEAN với các nước đối tác; tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), trong đó năm 2017 ra “Tuyên bố ARF về tăng cường hợp tác phòng chống ma túy”.
Tích cực hợp tác với các cơ quan Liên Hiệp Quốc và tổ chức quốc tế (UNODC, INCB, Colombo Plan, INTERPOL…) trong phối hợp triển khai nội dung của 03 Công ước Liên Hiệp Quốc về ma túy; tranh thủ sự hỗ trợ, ủng hộ của các tổ chức này trong công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực, trình độ cán bộ và các dự án hỗ trợ kỹ thuật. Ta đã nhiều lần tiếp đón với lãnh đạo INCB, UNODC đến thăm và làm việc tại Việt Nam. Ta cũng tích cực vận động để ứng cử người Việt Nam vào các tổ chức quốc tế: Năm 2017, Đại sứ Phan Kiều Thu đã trúng cử vị trí Tổng thư ký Kế hoạch Colombo. Tham gia các cơ chế hợp tác đa phương: tham gia ASOD (năm 1996), MOU (1993), tham gia các hoạt động của Liên hợp quốc. Ngoài ra, đã chủ động tiếp xúc, tổ chức các đợt vận động chung và tranh thủ các nhà tài trợ khác như Nhật Bản, Đan Mạch, Hàn Quốc qua các dự án có quy mô nhỏ.
Việc hợp tác quốc tế đã giúp Việt Nam tiếp nhận và chia sẻ hàng nghìn thông tin về tội phạm ma túy với Cảnh sát các nước. Nhiều thông tin đã giúp cho cơ quan chức năng phối hợp đấu tranh triệt phá nhiều đường dây mua bán, vận chuyển ma túy lớn. Thông qua các mối quan hệ này, ta đã tranh thủ được nguồn lực của các đối tác tiềm năng, cũng như góp phần ngăn chặn ma túy từ xa vào Việt Nam và từ Việt Nam đi các nước thứ ba. Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã kêu gọi được hàng chục dự án quốc tế tài trợ cho công tác phòng, chống ma túy ở Việt Nam về các lĩnh vực cai nghiện, đấu tranh, tuyên truyền, trong đó có nhiều dự án được UNODC tài trợ được triển khai tại Việt Nam và đạt kết quả tốt.
V. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
Thực tiễn công tác phòng, chống ma túy thời gian qua cho thấy, đây là một công tác lớn, luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, công tác phòng, chống ma túy đã có nhiều chuyển biến. Công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy đã có sự đổi mới về nội dung đa dạng về hình thức, huy động được sự tham gia của nhiều cấp, nhiều ngành, đông đảo quần chúng và các đối tượng cần tập trung tuyên truyền, giáo dục, đặc biệt là cấp cơ sở; nhiều mô hình tuyên truyền giáo dục phòng, chống ma túy có hiệu quả được triển khai, nhân rộng. Công tác cai nghiện ma túy đã từng bước đổi mới, tổ chức cai nghiện và quản lý sau cai cho một lượng lớn người nghiện nhằm hạn chế sự lan rộng của tệ nạn ma túy; tiếp tục củng cố cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng dịch vụ cai nghiện; khuyến khích và mở rộng cai nghiện tự nguyện; mở rộng chương trình điều trị bằng thuốc Methadone; tiến hành nghiên cứu, thẩm định và cấp phép thuốc điều trị hỗ trợ cai nghiện ma túy cho nhiều loại thuốc, phương pháp điều trị; xây dựng được chính sách hỗ trợ vốn, tạo việc làm cho người sau cai. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy đạt được nhiều kết quả tốt; các lực lượng chuyên trách phòng chống ma túy tăng cường nắm tình hình, tổ chức sơ kết, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác đấu tranh trên các tuyến, địa bàn trọng điểm nhất là tuyến biên giới đường bộ, tuyến đường hàng không, đường biển; đẩy mạnh công tác phối hợp, triển khai các hoạt động khảo sát, phối hợp, kiểm tra, ngăn chặn từ xa.. qua đó, nhiều tổ chức, đường dây tội phạm vận chuyển, mua bán ma túy lớn trong nước và xuyên quốc gia được phát hiện bắt giữ; thu giữ lượng ma túy rất lớn. Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy được thực hiện nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật, tổ chức được nhiều vụ xét xử lưu động, góp phần quan trọng trong giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm ma túy. Qua đó, nhận thức của cán bộ, công chức các cấp và đông đảo người dân trong xã hội về tác hại của ma túy và trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân được nâng lên; đặc biệt là nhận thức của cán bộ, đảng viên về trách nhiệm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng, chống ma túy đã được nâng cao; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và đông đảo các tầng lớp nhân dân từ trung ương đến địa phương tham gia phòng, chống ma túy.
Với nỗ lực, cố gắng của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, hoạt động phòng, chống ma túy đã góp phần tích cực bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của hoạt động phòng, chống ma túy, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, hoạt động này còn nhiều khó khăn, vướng mắc, thiếu sót, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt là trong tình hình hiện nay. Bên cạnh những thuận lợi và kết quả đã đạt được như nêu trên, công tác phòng, chống ma túy cũng còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc như sau:
1. Khó khăn, vướng mắc
1.1. Khó khăn vướng mắc trong quy định của Luật Phòng, chống ma túy
- Một số quy định của Luật PCMT chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy định Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự:
+ Điều 3 Luật PCMT quy định nghiêm cấm các hành vi: “Trồng cây có chứa chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán, phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nghiên cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần...”. Tuy nhiên, Điều 259 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thêm một số hành vi mới như: "Vi phạm quy định về tạm nhập, tái xuất, giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát, cho phép sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần".
+ Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy của lực lượng phòng, chống tội phạm ma túy của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng: theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Luật PCMT thì “Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Hải quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan Công an,các cơ quan hữu quan khác thực hiện và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thầntại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soát”. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 164 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự quy định ngoài các quy định về tội phạm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, Bộ đội Biên phòng còn có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra với các tội khác như: trồng cây thuốc phiên, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác chứa chất ma túy; sản xuất trái phép chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
- Một số quy định của Luật PCMT chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, còn nhiều quy định mâu thuẫn với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể như:
+ Điều 5 Luật PCMT quy định: “Cá nhân, tổ chức nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam về PCMT”. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp xử lý người nước ngoài sử dụng trái phép chất ma túy còn lúng túng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì các biện pháp xử lý hành chính không áp dụng đối với người nước ngoài, dẫn đến tình trạng người nước ngoài nghiện ma túy nhưng không có biện pháp xử lý, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
+ Khoản 1 Điều 27 Luật PCMT quy định: Trường hợp người nghiện ma túy không tự nguyện cai nghiện thì áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định nội dung này.
+ Khoản 2 Điều 28 Luật PCMT quy định việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính lại quy định Tòa án nhân dân cấp huyện mới có thẩm quyền áp dụng đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cũng tại khoản này của Luật quy định thời hạn cai nghiện bắt buộc là 01 đến 02 năm nhưng khoản 2 Điều 95 Luật Xử lý vi phạm hành chính lại quy định thời gian này là 06 tháng đến 24 tháng.
+ Điều 29 Luật PCMT quy định người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi được áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ nhưng Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định người đủ 18 tuổi trở lên mới được áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Điều 30 Luật PCMT quy định về lao động, học tập, chữa bệnh để cai nghiện và góp phần đảm bảo đời sống trong thời gian cai nghiện. Tuy nhiên, Điều 95 Luật Xử lý vi phạm hành chính còn có biện pháp “học văn hóa, học nghề” cho người nghiện từ 18 tuổi trở lên.
+ Điều 32a Luật PCMT quy định “Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội, nếu thời gian bị phạt tù ít hơn thời gian cai nghiện ma túy thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù phải tiếp tục cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì vẫn phải thực hiện cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Trong khi đó, Điều 117 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: Trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính nếu bị Toà án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình phạt tù thì người đó có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
+ Điều 33 Luật PCMT quy định về thời gian quản lý sau cai là 01 đến 02 năm, còn Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định về thời gian quản lý sau cai.
- Quy định tại Luật PCMT đang mâu thuẫn với Luật Đầu tư cụ thể như sau: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 Luật PCMT thì tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành, tuy nhiên tại Điều 41 của Luật PCMT quy định Bộ Công Thương có trách nhiệm ban hành danh mục, quy chế quản lý tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy chế đó, vì vậy, đang có sự mâu thuẫn giữa hai điều này. Mặt khác, theo Điều 7 của Luật Đầu tư thì các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, như vậy Bộ Công Thương không được phép ban hành Danh mục tiền chất công nghiệp.
- Quy định tại Luật PCMT đang mâu thuẫn với Luật Tương trợ tư pháp về trình tự, thủ tục, quy trình hợp tác quốc tế trong đấu tranh PCMT, cụ thể như sau: Theo quy định tại Điều 50 Luật PCMT thì “trong trường hợp Việt Nam và nước có liên quan không cùng tham gia điều ước quốc tế đa phương hoặc chưa ký với nhau điều ước quốc tế song phương thì các cơ quan tư pháp của Việt Nam trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn của mình, được thoả thuận trực tiếp với cơ quan tư pháp của nước có liên quan trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma tuý”, còn khoản 2 Điều 22 Luật Tương trợ tư pháp lại quy định theo hướng “Yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về hình sự phải được lập thành văn bản dưới hình thức ủy thác tư pháp về hình sự theo quy định của Luật này”; bên cạnh đó, Luật PCMT không phân biệt rõ quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia có hoặc không có ký kết điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong đấu tranh về tội phạm ma túy.
1.2. Khó khăn, vướng mắc trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống ma túy
- Công tác tuyên truyền còn dàn trải, một số nơi công tác tuyên truyền còn chưa thực sự xuống tới cơ sở, tới đối tượng có nguy cơ cao; chưa theo sát diễn biến tình hình, chủ yếu vẫn là cảnh báo hiểm họa ma túy; chưa tập trung vào đối tượng có nguy cơ sử dụng trái phép chất ma túy, chưa có biện pháp tuyên tuyên truyền hữu hiệu đối với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, nên kết quả tuyên truyền chưa thấm sâu vào nhận thức của đồng bào.
- Một số tài liệu tuyên truyền còn chưa phù hợp với thời buổi công nghệ thông tin bùng nổ như hiên nay; vẫn thiếu những chương trình tuyên truyền sâu về kỹ năng phòng, tránh các chất có tác dụng như ma túy nhưng chưa được quy định trong danh mục, nên phần lớn thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên chưa có nhận thức đầy đủ, chưa có kỹ năng phòng, tránh ma túy hiệu quả.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền còn mỏng và yếu về kiến thức, kỹ năng tuyên truyền, nhất là trong thời kỳ bùng nổ công nghệ như hiện nay. Một số địa phương chưa thực sự quan tâm cần thiết đến công tác tuyên truyền và hình thức tuyên truyền chưa phong phú, chưa theo kịp sự thay đổi của công nghệ hiện nay.
- Nhiệm vụ tuyên truyền công tác phòng, chống ma túy còn chồng chéo, phân tán cho Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và các đoàn thể xã hội chưa cao, mang tính chất nghĩa vụ, chưa thực sự quan tâm. Để nâng cao hiệu quả công tác này, Luật cần quy định giao nhiệm vụ cho một cơ quan chủ trì công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy. Cơ quan này có nhiệm vụ tham mưu xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, kế hoạch tuyên truyền phòng, chống ma túy trên toàn quốc, khắc phục tình trạng phân tán, dàn trải hiện nay.
1.3. Khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
- Việc theo dõi chống thất thoát tiền chất ở các khâu xuất nhập khẩu, lưu thông, sử dụng và tồn trữ tiền chất còn nhiều bất cập. Các đơn vị nhập khẩu tiền chất về để kinh doanh không chỉ bán lại cho các đối tượng trực tiếp sử dụng mà còn bán cho nhiều đối tượng kinh doanh khác; các đơn vị này lại bán cho các đối tượng khác tạo thành một khâu trung chuyển phức tạp, do đó việc kiểm soát đến khâu cuối cùng còn nhiều khó khăn;
- Nhận thức của doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tiền chất tuy đã được tập huấn, nâng cao nhưng thường xuyên có sự thay đổi về nhân sự nên nhận thức về tiền chất của những người mới vào còn hạn chế. Một số doanh nghiệp kinh doanh tiền chất chưa nắm được mục đích sử dụng của người mua hàng và có thể đây là kẽ hở để tội phạm lợi dụng sản xuất ma tuý bất hợp pháp.
- Đối với công tác quản lý, kiểm soát tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp thì hầu như các doanh nghiệp xin nhập khẩu tiền chất để kinh doanh, một phần bán cho các đơn vị trực tiếp sản xuất và các đơn vị bán lẻ, các đơn vị này lại phân phối tiếp cho các hộ kinh doanh khác..., tạo nên thị trường đa dạng, khó kiểm soát đến khâu cuối cùng. Đây là một trong những vấn đề tồn tại từ nhiều năm nay, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành mới khắc phục được. Một số doanh nghiệp kinh doanh tiền chất chưa nắm được mục đích sử dụng của người mua hàng và có thể đây là kẽ hở để tội phạm lợi dụng sản xuất ma tuý bất hợp pháp. Một số doanh nghiệp thường xuyên xin cấp phép nhập khẩu tiền chất với số lượng lớn, nhiều hơn so với nhu cầu thực nhưng nhập khẩu ít hơn so với số lượng xin cấp phép, làm cho việc thống kê báo cáo không sát với thực tế, dẫn tới việc kiểm soát còn khó khăn.
1.4. Khó khăn, vướng mắc trong công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai
- Một số quy định của Luật Phòng, chống ma túy chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính về độ tuổi áp dụng, thẩm quyền đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; quy định chưa thống nhất đối với trường hợp người đang cai nghiện bắt buộc bị phạt tù; công tác quản lý sau cai; xử lý, quản lý và cai nghiện đối với người nước ngoài; quy định chưa phù hợp về lao động trong cơ sở quản lý sau cai.
- Một số quy định về cai nghiện tại gia đình và cộng đồng còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả không cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực ở trạm y tế cấp xã, chưa bảo đảm, không phù hợp để cắt cơn và hỗ trợ y tế cho quy trình cai nghiện (chỉ có một số ít đơn vị cấp xã ở những nơi kinh tế phát triển có thể đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ này). Thực tế các ban, ngành cấp xã không có kiến thức chuyên môn, kỹ năng về cai nghiện nên họ không quản lý được, đặc biệt ở nhiều nơi công việc này vượt quá khả năng của chính quyền cấp xã, nếu như không được tăng cường các nguồn lực thì sẽ là bất khả thi và họ phải làm hình thức để đối phó với nhiệm vụ. Việc đầu tư xây dựng mới cơ sở điều trị cắt cơn trên địa bàn xã hoặc liên xã rất khó khăn về vốn và năng lực vận hành, đồng thời không bảo đảm tính hiệu quả. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ người sau cai tái hòa nhập cộng đồng, vấn đề tìm việc làm cho người sau cai rất khó khăn do đặc thù công việc kinh doanh; thời gian quản lý sau cai, tái hòa nhập cộng đồng, phần lớn người nghiện không hợp tác, tránh tiếp xúc với các cơ quan chức năng dù họ biết có thể được hỗ trợ cả về tinh thần và vật chất. Do đó, biện pháp cai nghiện tại cộng đồng hiệu quả không cao, nhiều trường hợp, sau khi tập trung cắt cơn ít ngày, họ được đưa trở lại ngay môi trường xã hội và sẽ tái sử dụng ma túy.
- Quy định về xã hội hóa cai nghiện tự nguyện còn bất cập:quy định về cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các cơ sở cai nghiện ma túy chưa tạo điều kiện cho sự phát triển các cơ sở cai nghiện ma túy ngoài công lập (sau 15 năm chỉ có 23 cơ sở được cấp phép, trong đó 7 cơ sở đã ngừng hoạt động), các cơ sở cai nghiện do các tổ chức, cá nhân thành lập lại không được bất cứ hỗ trợ nào từ ngân sách nhà nước, trong khi đây là lĩnh vực không đem lại lợi nhuận cao. Do đó, việc chuyển đổi các cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc thành cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện, thành lập các điểm vệ tinh của cơ sở cai nghiện ma túy còn hạn chế.
- Công tác cai nghiện ma túy cho người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh trường giáo dưỡng chưa thực hiện được vì trại tạm giam, các nhà tạm giữ chưa có nhân lực để thực hiện công tác cai nghiện, nếu gửi người nghiện là đối tượng bị tạm giam, tạm giữ cai nghiện tại cơ sở cai nghiện thì rất khó khăn trong thực hiện các quy trình thủ tục và công tác quản lý.
- Về cơ sở vật chất của cơ sở cai nghiện còn nhiều bất cập: cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhiều cơ sở cai nghiện đã được xây dựng nhiều năm, thiết kế theo quan điểm quản lý "chặt", nằm sàn xi măng, không có giường, một phòng nhiều học viên (khoảng 20-40 học viên/phòng), không có công trình vệ sinh khép kín... dẫn đến khó khăn, bất tiện trong sinh hoạt của học viên, gây bức xúc cho học viên.
- Cán bộ làm công tác cai nghiện nhiều người chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ cai nghiện (kỹ năng, phương pháp tư vấn, trị liệu hành vi, quản lý ca, quản lý trường hợp...); đội ngũ cán bộ chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác cai nghiện tại cộng đồng chưa được củng cố, kiện toàn.
1.5. Khó khăn, vướng mắc trong công tác đấu tranh với tội phạm về ma túy
- Một số quy định của Luật Phòng, chống ma túy chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy của lực lượng phòng, chống tội phạm ma túy của Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển; về các hành vi có liên quan đến phòng, chống ma túy.
- Việc xuất, nhập khẩu, quản lý, sử dụng mẫu vật phục vụ tập huấn, huấn luyện nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu do kinh phí đảm bảo cho việc nhập khẩu mẫu ma túy không có, nhu cầu sử dụng mẫu ma túy trong tập huấn, huấn luyện nghiệp vụ các cơ quan chuyên trách ngày càng cao nên kinh phí chưa được đảm bảo để đáp ứng được nhu cầu.
- Hiệu quả hoạt động kiểm soát, đấu tranh ngăn chặn ma túy thẩm lậu qua biên giới, đường biển, đường hàng không vào Việt Nam tuy đã được nâng lên nhưng chưa tương xứng với thực trạng tình hình, đặc biệt là có nhiều loại ma túy mới thâm nhập và sử dụng nhưng pháp luật chưa quy định nên gây khó khăn trong công tác xử lý; tỷ lệ bắt giữ các đối tượng cầm đầu (chủ đầu nậu về ma túy) còn rất hạn chế. Nhiều đối tượng phạm tội trốn truy nã qua biên giới chưa bắt được.
- Công tác nắm, quản lý địa bàn, đối tượng hoạt động về ma túy còn hạn chế, tỷ lệ phát hiện và triệt xóa các cơ sở sản xuất, chiết xuất, tiêu thụ ma túy (nhất là địa bàn nội địa) thấp; nhiều điểm nóng (địa bàn trung chuyển ma túy) về ma túy như: Lóng Luông, Vân Hồ, Sơn La; Hang Kia-Pà Cò, Mai Châu, Hòa Bình; Lương Phong, Hiệp Hòa và Ngọc Vân, Tân Yên, Bắc Giang đến nay đã được giải quyết nhưng còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức tạp.
- Công tác phối hợp giữa lực lượng Công an, Hải quan, Biên phòng, Cảnh sát biển trong đấu tranh phòng, chống ma túy còn thiếu chặt chẽ, nội dung phối hợp chưa cụ thể và đồng bộ nên hiệu quả hợp tác chưa cao. Việc phối hợp giữa các lực lượng chức năng đấu tranh chống tội phạm ma túy của các tỉnh giáp biên với lực lượng của các nước Lào, Campuchia, Trung Quốc còn nhiều bất cập.
- Phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phục vụ cho công tác phát hiện ma túy, thông tin liên lạc và giám định ma túy, công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy của các lực lượng còn thiếu.
- Chưa có quy định về về xử lý tang vật trong các vụ xử lý hành chính về ma túy nên gây lúng túng và vận dụng khác nhau trong thực tế ở các cơ quan. Theo quy định hiện hành thì “Chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần bị thu giữ trong các vụ án hình sự phải tiêu hủy”, điều này đã gây lãng phí, nhất là việc sử dụng các chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần trong nghiên cứu khoa học, y tế, giám định, huấn luyện động vật nghiệp vụ.
- Nguồn nhân lực thực hiện công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy của các cơ quan ở Trung ương và địa phương còn thiếu về số lượng. Một bộ phận cán bộ, chiến sỹ, công chức nhận thức về công tác đấu tranh phòng, chống ma túy chưa đầy đủ và chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao; cán bộ chuyên trách phòng, chống ma túy một số đơn vị còn yếu về kỹ năng quản lý, kỹ năng nghiệp vụ thu thập xử lý thông tin, phát hiện, điều tra xác minh các đối tượng có nghi vấn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chưa được chú trọng đúng mức. Chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ, chiến sỹ, công chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống ma túy chưa đáp ứng với thực tế, chưa thực sự tạo động lực cho họ yên tâm thực thi nhiệm vụ.
1.6. Khó khăn, vướng mắc trong công tác hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
- Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới chưa góp phần hữu hiệu ngăn chặn từ xa và làm giảm ma túy thẩm lậu vào nước ta. Chính quyền một số địa phương thực hiện chỉ đạo công tác hợp tác quốc tế còn chung chung, đôi khi mang tính hình thức, nội dung phòng, chống ma túy chưa được nêu rõ, thiếu cụ thể. Hợp tác ở cấp tác chiến giữa các lực lượng chuyên trách của hai bên tại khu vực biên giới còn thiếu cơ chế rõ ràng nên chưa thực sự có hiệu quả.
- Việc thực hiện nghĩa vụ còn có hạn chế, nhất là trách nhiệm trong việc báo cáo số liệu cho Liên hợp quốc; cơ chế hợp tác chống ma túy trên biển cũng như các cửa khẩu hàng không, hải cảng của Việt Nam ở các sân bay, hải cảng trọng điểm trong khu vực chưa được hình thành; chưa bố trí được sỹ quan liên lạc ở nước ngoài; còn thiếu cán bộ có trình độ ngoại ngữ của các lực lượng chuyên trách chống tội phạm ma túy.
- Việc thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự liên quan đến tội phạm ma túy của nước ngoài với Việt Nam còn chậm gây khó khăn cho công tác giải quyết vụ án ma túy.
2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
- Nhận thức, quan điểm của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân về sử dụng ma túy, nghiện, cai nghiện ma túy chưa đầy đủ, chưa thống nhất.
- Hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ, thống nhất: Mặc dù Nhà nước ta quan tâm đến công tác xây dựng cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống ma túy nhưng cho đến nay hệ thống văn bản pháp luật về phòng, chống ma túy chưa đồng bộ, thiếu tính hệ thống giữa những quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính. Những quy định về công tác phòng, chống ma túy liên quan đến quyền con người, quyền công dân nhưng đang được điều chỉnh tại các nghị định, thông tư nên không còn phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013; một số quy định của Luật Phòng, chống ma túy không còn phù hợp với thực tiễn hoặc chưa có quy định để điều chỉnh những vấn đề phát sinh trên thực tiễn…
- Công tác tuyền truyền về phòng, chống ma túy chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Do phân công cho hai cơ quan khác nhau (Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cùng thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền nên hoạt động tuyên truyền còn phân tán, chồng chéo, chưa đủ mạnh, thiếu tập trung, thiếu các chương trình hướng tới từng đối tượng cụ thể. Ở nhiều địa phương nhất là ở cơ sở còn yếu, còn mang tính phong trào. Công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy còn dàn trải, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục. Một số nơi công tác tuyên truyền chưa tập trung đúng đối tượng, các đối tượng ở độ tuổi thanh thiếu niên, học sinh ở các cấp bậc học chưa được chú trọng tập trung tuyên truyền. Trong khi đó đây là nhóm đối tượng dễ lôi kéo, dụ dỗ tham gia vào con đường nghiện ngập và các đường dây ma túy.
- Hệ thống tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan chuyên trách về phòng, chống ma túy chưa ổn định, tính chuyên môn hóa chưa cao, còn kiêm nhiệm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan còn chồng chéo, chưa rõ ràng.
- Nguồn nhân lực còn thiếu về số lượng, yếu về năng lực làm việc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chưa được chú trọng đúng mức. Chế độ chính sách giao cho đội ngũ cán bộ, chiến sỹ, công chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy chưa đáp ứng với thực tế.
- Tỷ lệ phát hiện bắt giữ các vụ án ma túy trên biển và qua kiểm tra, kiểm soát hàng hóa, phương tiện ở địa bàn trọng điểm còn thấp. Lượng ma túy nhập lậu vào nước ta vẫn còn nhiều, khả năng ngăn chặn, kiềm chế tội phạm về ma túy từ tuyến đầu chưa thực sự vững chắc. Công tác phối hợp giữa các lực lượng Công an, Hải quan, Biên phòng, Cảnh sát biển trong đấu tranh phòng, chống ma túy còn chưa chặt chẽ. Việc quản lý biên giới đường bộ, cửa khẩu còn nhiều sơ hở, phương tiện nghiệp vụ còn thiếu thốn. Công tác phối hợp trao đổi thông tin, tình hình tội phạm về ma túy giữa các đơn vị chức năng còn nhiều hạn chế, chưa kịp thời, nhất là trong công tác hợp tác quốc tế.
- Điều kiện cơ sở vật chất của các trung tâm cai nghiện điều chưa đảm bảo, chưa thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện đủ quy trình cai nghiện, nội dung, chất lượng còn đơn giản, chưa đáp ứng yêu cầu. Quy định về cai nghiện tại gia đình và cộng đồng và quản lý sau cai hiệu quả không cao.
- Hiệu quả về hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy còn hạn chế; còn phân tán đầu mối, thiếu nguồn nhân lực thực hiện.
PHẦN III
DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI, NẦNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG MA TÚY TRONG THỜI GIAN TỚI
Tệ nạn ma tuý đang là hiểm họa của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới; là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS. Hậu quả, tác hại do tệ nạn ma tuý gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội và an ninh trật tự của đất nước. Trong thời gian tới, tình hình tội phạm ma túy, nghiện ma túy tại Việt Nam còn diễn biến rất phức tạp. Với sự chuyển biến tích cực của tình hình kinh tế, xã hội của nước ta, từng bước thoát khỏi khó khăn, ổn định kinh tế vĩ mô, từng bước hội nhập sâu rộng vào nên kinh tế khu vực và thế giới, không ngừng nâng cao chất lượng đời sống dân sinh. Bên cạnh thuận lợi, Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức từ mặt trái của hội nhập và kinh tế thị trường. Đây là nguyên nhân góp phần làm cho tình hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma túy cũng như những tệ nạn xã hội khác liên quan đến ma túy mặc dù đã được kiềm chế nhưng vẫn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp và có xu hướng ngày càng gia tăng.
Bên cạnh đó, với vị trí địa lý thuận lợi, Việt nam đang trở thành điểm trung chuyển ma túy với số lượng lớn và là thị trường tiêu thụ của ma túy, việc xuất hiện nhiều loại ma túy mới, việc buôn bán, vận chuyển, sản xuất ma túy tổng hợp gia tăng; người sử dụng và người nghiện ma túy tổng hợp tăng nhanh, nhất là trong thanh, thiếu niên và học sinh gây bức xúc trong xã hội. Thực tế đó đặt ra cho công tác phòng, chống ma túy nhiệm vụ hết sức nặng nề và phức tạp. Từ kết quả tổng kết công tác phòng, chống ma túy trong thời gian qua, để tiếp tục khắc phục những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, đồng thời từng bước đổi mới và tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác phòng, chống ma túy, đáp ứng yêu cầu đã đề ra trong Chỉ thị số 36-CT/TW, trước đây là Chỉ thị số 21-CT/TW và Kết luận số 95-KL/TW, Chỉ thị số 25/CT-TTg, trong thời gian tới cần tập trung làm tốt những công việc sau đây:
1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị với công tác phòng, chống ma túy để công tác này đạt kết quả cao nhất
Tội phạm ma túy, nghiện ma túy là hiểm họa của mỗi quốc gia, là nguyên nhân dẫn đến phát sinh nhiều tội phạm và các tệ nạn trong xã hội. Hậu quả do tệ nạn ma túy gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe, giống nòi dân tộc. Theo đó, để công tác phòng, chống ma túy đạt kết quả tốt cần phải đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Do vậy, cần phải xác định rõ công tác phòng, chống ma túy là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, thường xuyên, liên tục của các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn xã hội, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác phòng, chống ma túy. Đồng thời, các cấp ủy đảng, chính quyền cần tập trung chỉ đạo trực tiếp, quyết liệt đối với công tác phòng, chống ma tuý; đưa nội dung này vào chương trình hoạt động, chỉ đạo thường xuyên bằng việc cụ thể hoá thành các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với từng đơn vị, địa phương.
2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống ma túy
Cần nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công tác tuyên truyền về phòng, chống ma túy, từ đó, cần đổi mới nội dung, đa đạng hơn nữa các hình thức tuyên truyền cho phù hợp với từng đối tượng, từng địa phương đặc biệt là các đối tượng dễ bị lợi dụng, chưa có nhận thức đầy đủ, chưa có kỹ năng phòng, tránh ma túy hiệu quả, ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa nhận thức của người dân còn hạn chế. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma túy trong Đảng, cơ quan nhà nước và nhân dân với nhiều hình thức, nội dung thích hợp, chú trọng truyền thông qua mạng xã hội về hiểm họa ma túy để mọi người nhận thức rõ mối hiểm họa từ ma túy, tính cấp bách của công tác phòng, chống ma túy ở nước ta hiện nay. Từ đó, hình thành ý thức tự giác, tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy; hỗ trợ, giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng.
3. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về công tác phòng, chống ma túy
Bám sát tình hình thực tiễn, nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống ma túy, chú trọng việc kết hợp xây dựng đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật nội dung và văn bản quy phạm pháp luật hình thức. Gắn tổ chức thực hiện với công tác kiểm tra, khảo sát thực tế công tác phòng, chống ma túy nhằm phát hiện kịp thời những vướng mắc, khó khăn nảy sinh để đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật về công tác phòng, chống ma túy. Tăng cường hơn nữa việc tổ chức phối hợp giữa các lực lượng trong nước và hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chổng ma túy, nhằm ngăn chặn và kiềm chế tội phạm về ma túy từ tuyến đầu. Theo hướng này, cần sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống ma túy, trong đó cần tập trung làm tốt những công việc sau đây:
- Bộ Công anchủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các bộ có liên quan nghiên cứu xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) bảo đảm chất lượng và tiến độ theo Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội. Luật này điều chỉnh về trách nhiệm phòng, chống ma túy; công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, công tác cai nghiện ma túy; vấn đề hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống ma túy.
- Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các bộ có liên quan rà soát toàn bộ những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống ma túy. Qua đó, đề xuất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
4. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu quả tổ chức công tác phòng, chống ma túy; bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất cho công tác phòng, chống ma túy
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác phòng, chống ma túy nói chung, công tác cai nghiện nói riêng. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, bố trí đủ biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ chuyên trách phòng, chống ma túy có phẩm chất đạo đức, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác cai nghiện ma túy, kiện toàn hệ thống cơ quan chuyên trách phòng, chống tệ nạn xã hôi ổn định, chuyên nghiệp, có trình độ pháp luật đáp ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới; xây dựng chính sách, chế độ đãi ngộ tương xứng để cán bộ, chiến sĩ lực lượng trực tiếp đấu tranh chống tội phạm ma túy yên tâm công tác; chính sách, chế độ thỏa đáng và được trang bị công cụ, phương tiện hoạt động cho cán bộ làm công tác cai nghiện ma túy; nâng cao năng lực hệ thống tổ chức thực hiện công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy. Theo đó, đề nghị Quốc hội tiếp tục quan tâm phân bổ ngân sách để có điều kiện đầu tư cho các cơ quan có nhiệm vụ phòng, chống ma túy có hiệu quả hơn nữa; đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, sửa đổi những quy định về chính sách đãi ngộ, chế độ phụ cấp, khen thưởng đối với cán bộ, chiến sĩ được giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với những loại tội phạm ma túy cho phù hợp với tính chất của loại hình lao động đặc biệt này.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm ma túy trong xây dựng, đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về phòng, chống ma túy không chỉ ở các nước có chung đường biên giới với Việt Nam mà cả các đối tác chủ yếu trong khu vực và trên thế giới; đồng thời, tích cực tham gia tại các diễn đàn đa phương, hợp tác với các cơ quan Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế. Thông qua việc hợp tác này giúp tiếp nhận và chia sẻ thông tin về công tác phòng, chống ma túy trên thế giới, tranh thủ được nguồn lực, hỗ trợ kỹ thuật của các đối tác, cũng như góp phần ngăn chặn ma túy từ xa vào Việt Nam và từ Việt Nam đi các nước thứ ba; đồng thời đẩy mạnh tham gia đấu tranh tại các diễn đàn đa phương để bảo vệ chủ trương, lợi ích của ta về phòng, chống ma túy.
Trên đây là nội dung Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008)./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ;
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các đồng chí Thứ trưởng Bộ Công an;
- Công an các đơn vị, địa phương;
- Lưu: VT, V03(P2).
|
BỘ TRƯỞNG
Đại tướng Tô Lâm
|
[1] Số liệu thống kê trong Báo cáo được tính từ ngày 01/01/2009 (ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 có hiệu lực thi hành) đến 31/12/2018.
[2] Bộ Công an phối hợp với các bộ: Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa Thể thao và Du lịch, Thông tin và Truyền thông, Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành, địa phương tổ chức mít tinh tuyên truyền phòng, chống ma túy tại Hà Nội, Bắc Giang, Ninh Bình, đại học Kinh tế quốc dân, Nhà hát lớn... Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ phát động chiến dịch Tuổi trẻ hành động vì một thế giới không ma túy tại thành phố Hải Phòng; Lễ ra quân tổ chức chương trình phòng, chống ma túy trong trường học và Lễ tuyên dương điển hình tiên tiến về cảm hóa, giáo dục người nghiện ma túy tại thành phố Nam Định; Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức Lễ phát động chiến dịch truyền thông phòng, chống ma túy với chủ đề “Tuổi trẻ chung tay đẩy lùi ma túy”.
[3] Theo thống kê số liệu của 59/63 Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
[4] Bộ Y tế - Báo cáo công tác phòng, chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm và trọng tâm 6 tháng cuối năm 2016.
[5] Báo cáo số 195/BC-BCA-C81 ngày 15/5/2018 của Bộ Công an.
[6] Một số tỉnh, tổ công tác cai nghiện ma túy được thành lập ở 100% xã, phường, thị trấn có người nghiện ma túy (Lai Châu, Sơn La, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Nghệ An v.v. . Ở các tỉnh khác Tổ công tác cai nghiện ma túy được thành lập tại các xã, phường trọng điểm về tệ nạn ma túy (Hải Phòng, Bắc Ninh, Hậu Giang, Ninh Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên v.v.)
[7] Chủ yếu là các công việc yêu cầu kỹ thuật không cao trong các cơ sở sản xuất tư nhân và tại gia đình.
[8] Thành phố Nam Định: do các trạm y tế xã, phường không đủ điều kiện nên 100% được cắt cơn tại gia đình, trạm y tế xã, phường cấp thuốc hỗ trợ cắt cơn và bố trí cán bộ hỗ trợ theo dõi, chăm sóc y tế trong suốt thời gian cắt cơn cắt. Thành phố Lào Cai, thành phố Thái Nguyên, thành phố Vinh xây dựng các cơ sở cắt cơn tại mỗi xã phường có nhiều người nghiện.
[9] Sơn La: tăng cường ngân sách địa phương cho công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng; ban hành các chế độ hỗ trợ người cai nghiện tại cộng đồng; đẩy mạnh cai nghiện tại gia đình, cộng đồng song song với tấn công, truy quét tội phạm ma túy… Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Nghị quyết 71/2016/NQ-HĐND điều trị nghiện ma túy tự nguyện không thu phí giai đoạn 2017-2020 cho 200 học viên. Hiện đã tiếp nhận được 20 học viên điều trị. Tỉnh Thái Nguyên: thực hiện mô hình cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã theo 3 hình thức: tại Trung tâm, cơ sở y tế xã, phường thị trấn và tại gia đình.
[[10]] : Cơ sở điều trị Đại Đồng (Nam Định) 235 bệnh nhân, Cơ sở điều trị Đức Thanh Tâm (thành phố Hồ Chí Minh) 70 bệnh nhân.
[11] Số liệu từ năm 2010 đến năm 2018
Bảng tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý Hồ sơ Dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Bộ Công an
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
9.-BC-GT,-TT-Ý-KIẾN.-17.8.docx
BẢN TỔNG HỢP, GIẢI TRÌNH, TIẾP THU Ý KIẾN GÓP Ý
HỒ SƠ DỰ ÁN LUẬTPHÒNG, CHỐNG MA TÚY (SỬA ĐỔI)
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng tại công văn số 1562/VPCP-PL ngày 29/02/2020 của Văn phòng Chính phủ về việc giao Bộ Công an chủ trì soạn thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi). Bộ Công an đã soạn thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), gửi lấy ý kiến tham gia của 16 Bộ, ngành có liên quan; cơ quan ngang Bộ; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Công an các đơn vị, địa phương.
Đến ngày 19/6/2020, Bộ Công an nhận được ý kiến của:
- 15Bộ, ngành có liên quan: Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng,Bộ Tư pháp, Bộ Tài Chính,Bộ Thông tin và Truyền thông, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam.
- 18 UBND các tỉnh trực tiếp gửi ý kiến tham gia gồm: UBND tỉnh Bắc Kạn, Quảng Bình, Bến Tre, Kiên Giang, Thừa Thiên Huế, Bạc Liêu, Tây Ninh, Hà Giang, Kom Tum, Cà Mau, Điện Biên, Lạng Sơn, TP HCM, Tiền Giang, Đồng Nai, Lào Cai, Hải Phòng, Hòa Bình.
- 27UBND các tỉnh ủy quyền cho Công an tỉnh tham gia gồm: UBND tỉnh Quảng Nam, UBNDTP Cần Thơ, Yên Bái, Thái Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Đồng Nai, Kiên Giang, Đà Nẵng, Phú Yên, Hà Tĩnh, Hưng Yên, Ninh Bình, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Đăk Nông, Bắc Ninh, Lâm Đồng, Long An, Bình Thuận, Vĩnh Long, Hậu Giang, Bình Phước, Ninh Thuận, Hà Nội.
- 58/63 Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- 15 đơn vị thuộc Bộ Công an: Cục CS Quản lý trại giam, CSGDBB, TGD; Cục CS Quản lý tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; Cục CS giao thông; Cục CS hình sự; Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao; Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an; Trường Cao đẳng CSND I; Học viện ANND; Cục Kỹ thuật nghiệp vụ; Cục Pháp chế và cải cách hành chính tư pháp; Cục Cảnh sát QLHC về TTXH; Cục Kế hoạch và tài chính; Văn Phòng cơ quan CSĐT; Cục Đối ngoại; Cục Hậu cần.
- Về cơ bản các ý kiến tham gia đều nhất trí với bố cục, nội dung của dự thảo Tờ trình và dự thảo Luật, các ý kiến chủ yếu tham gia góp ý về câu từ trong từng điều Luật, Bộ Công an đã nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc để hoàn thiện dự thảo Luật.
Trên cơ sở các ý kiến góp ý, Bộ Công an tổng hợp và báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý Hồ sơ dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) như sau:
STT
|
DỰ THẢO LUẬT
|
NỘI DUNG GÓP Ý
|
NỘI DUNG
GIẢI TRÌNH TIẾP THU
|
1 |
Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) |
Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Sửa lại thành "Luật Phòng, chống và kiểm soát ma túy" do tên gọi hiện nay chưa bao hàm được nội dung Chương III - Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy và để phù hợp với Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 (sửa đổi 1972). |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì việc kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến là để phòng ngừa việc vi phạm pháp luật về ma túy |
2 |
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; cai nghiện; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy; hợp tác quốc tế và quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
|
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: đề nghị bổ sung từ “tiền chất” sau cụm từ “kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy”. Lý do nội dung dự thảo Luật quy định kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến tiền chất, đồng thời Khoản 1, Điều 3 chất ma túy không bao gồm tiền chất. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì tại Khoản 11 Điều 3 đã giải thích rõ hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy |
Bộ Y tế: Điều 1 và Điều 2 đề nghị sửa lại các đối tượng có trách nhiệm phòng, chống ma túy cho thống nhất: “…trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an:
trong dự thảo có bổ sung cụm từ “hợp tác quốc tế và quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy”. Trong lý luận quản lý nhà nước về an ninh, trật tự nói chung và phòng, chống ma túy nói riêng đã bao hàm nội dung hợp tác quốc tế. Do đó, mặc dù dự thảo có một chương riêng quy định về hợp tác quốc tế, nhưng dự thảo không cần thiết nêu trong nội dung điều này. Do đó dự thảo chỉ cần bổ sung “quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy” là đủ
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì hoạt động phòng, chống ma túy nói chung và đấu tranh với tội phạm ma túy nói riêng mang tính quốc tế nên cần phải nhấn mạnh nội dung hợp tác quốc tế |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: bổ sung vấn đề cai nghiện ma túy “… quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; cai nghiệnma túy; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy; hợp tác quốc tế và quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.” |
Tiếp thu vì viết rõ như vậy để đủ nghĩa hơn. |
UBND và Công an TP Hải Phòng: đề nghị sửa “Luật này quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; người nghiện chất ma túy; điều trị nghiện chất ma túy...” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì nội dung của dự thảo đã bao hàm nội dung đầy đủ |
3 |
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy.
|
Công an tỉnh Nghệ An: Đề nghị bổ sung “gia đình” vào đối tượng áp dụng vì trong công tác phòng, chống ma túy, nhất là công tác cai nghiện thì không thể thiếu vai trò của gia đình trong quản lý, giáo dục, động viên, khích lệ tinh thần người nghiện ma túy. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì quy định như trong dự thảo là đầy đủ |
4 |
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
4. Tiền chất là các hóa chất cần thiết trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma túy, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành.
5. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều này.
6. Thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất là các loại thuốc thú y được quy định trong các danh mục do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, có chứa các chất quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều này.
7. Cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định.
8. Phòng, chống ma túy là phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
9. Tội phạm về ma túy là các hành vi phạm tội được quy định tại Chương Các tội phạm về ma túy trong Bộ luật Hình sự.
10. Tệ nạn ma túy là tình trạng nghiện ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy mà chưa đến mức hoặc không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
11. Các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy bao gồm các hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, bảo quản, tồn trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập các chất quy định tại các khoản 1, 4, 5 và 6 Điều này, được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.
12. Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là việc cho phép, theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động quy định tại khoản 11 Điều này và phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng các hoạt động đó vào mục đích khác.
13. Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này.
14. Người sử dụng trái phép chất ma túy là người tự ý hoặc đồng ý cho người khác đưa chất ma túy vào cơ thể mình mà không được sự cho phép của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền.
15. Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện tổng thể các can thiệp, hỗ trợ về tâm lý, nhận thức, pháp lý, xã hội và sức khỏe để giúp người nghiện ma túy nâng cao nhận thức và không còn nghiện ma túy.
|
Bộ Y tế:
- Đề nghị làm rõ người nghiện ma túy là người vi phạm pháp luật hay người bệnh.
- Khoản 5 đề nghị bổ sung thuật ngữ “thuốc tiền chất” và sửa đổi thuật ngữ “thuốc gây nghiện”, “thuốc hướng thần” dự thảo Luật để đảm bảo theo đúng quy định của Luật Dược 2016.
- Khoản 10 đề nghị sửa như sau: bỏ khái niệm tệ nạn ma túy vì khái niệm này không có nhiều ý nghĩa trong Luật này. Nếu vẫn giữ khái niệm này thì đổi cụm từ “… nghiện ma túy” thành “… sử dụng ma túy” và “tệ nạn ma túy là tình hình sử dụng ma túy và hành vi vi phạm pháp luật khác về ma túy”.
- Đề nghị bổ sung các khái niệm về “cai nghiện ma túy” và “điều trị nghiện ma túy” để thống nhất cách hiểu nội hàm hai khái niệm này.
Khái niệm như sau: “Điều trị nghiện ma túy là biện pháp can thiệp chuyên môn y tế bằng dùng thuốc hoặc không dùng thuốc, kết hợp với các can thiệp về tâm lý, hành vi để giúp cho người nghiện ma túy giảm hoặc ngừng sử dụng ma túy bất hợp pháp, giảm các tác hại do sử dụng ma túy gây ra và cải thiện sức khỏe”.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Tiếp thu
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì cai nghiện ma túy đã bao hàm cả quá trình điều trị nghiện
|
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao:
- Đề nghị quy định cụ thể hơn về “chất gây nghiện” và “chất hướng thần”tại khoản 2 và khoản 3 Điều này bởi nội dung dự thảo quy định 02 chất này còn
trùng lặp, chưa bảo đảm rõ ràng.
- Tại khoản 12, đề nghị chỉnh lý theo hướng: “Kiểm soát các hoạt độnghợp pháp liên quan đến ma túy là việc cho phép, theo dõi, kiểm tra, giám sát cáchoạt động quy định tại khoản 11 Điều này và phòng ngừa, ngăn chặn việc lợidụng các hoạt động đó vào mục đích khácmục đích pháp luật cấm” để bảo đảmtính quy phạm của quy định.
- Khoản 13 quy định người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy,thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào chất này. Khoản 10 quyđịnh tệ nạn ma túy là việc sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy và cáchành vi vi phạm pháp luật về ma túy mà chưa đến mức hoặc không bị truy cứutrách nhiệm hình sự. Trên thực tế, có những trường hợp phải sử dụng thuốchướng thần để điều trị bệnh lý dẫn đến bị lệ thuộc vào chất này, nếu đối chiếu với 02 quy định nêu trên thì cũng bị coi là người nghiện ma túy là không phù hợp. Dovậy, đề nghị chỉnh lý quy định tại khoản 13 theo hướng: người nghiện ma túy là người sử dụng trái phép chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào chất này.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì quy định như trong dự thảo là đầy đủ và thống nhất với Luật Dược
- Tiếp thu
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì nhiều người sử dụng hợp pháp vẫn bị lệ thuộc vào các chất này
|
UBND và Công an TP Hải Phòng:
- Khoản 1 đề nghị sửa “Chất ma túy là các chất được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”; bỏ Khoản 2, 3; Khoản 5,6 đề nghị sửa “tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều này” thành “khoản 1, khoản 4 Điều này”; Khoản 7 đề nghị sửa “cây” thành “ thảo mộc”; Khoản 8 đề nghị sửa “Phòng, chống ma túy là phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.”; Khoản 9 đề nghị bỏ; Khoản 10 đề nghị sửa “Tệ nạn ma túy là tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện chất ma túy, tội phạm về ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật khác về ma túy”.
- Khoản 15 đề nghị sửa thành “Điều trị nghiện các chất ma túy là quá trình thực hiện tổng thể các can thiệp, ...”
- UBND TP Hải Phòng: đề nghị sửa khoản 13 Điều 3 thành: “Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này và có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền”.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì quy định như vậy rõ nghĩa, có nghĩa là phải quy định ma túy là chất gì, sau đó mới quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành để đảm bảo về mặt nội dung.
Khái niệm tệ nạn ma túy trong dự thảo đã đảm bảo sự phân biệt với tội phạm ma túy.
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật cơ bản giữ các từ ngữ được giải thích trong Luật hiện hành, đồng thời bổ sung một số từ ngữ mới. Bộ Tư pháp nhận thấy, một số từ ngữ được giữ nguyên như Luật hiện hành cần được nghiên cứu để có sự sửa đổi cho phù hợp với những thay đổi lớn trong thực tiễn, như về “người nghiện ma túy” tại khoản 13 cần nghiên cứu để bao quát về các loại ma túy mới và tác hại, hậu quả của các loại ma túy này gây ra cho người sử dụng.
Đối với một số từ ngữ đã được giải thích trong các văn bản chuyên ngành như thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần… (khoản 5) đã được quy định tại các khoản 17, 18,19, 20, 21 và khoản 22 Điều 3 Luật Dược và nội hàm giải thích tại dự thảo Luật không có sự khác biệt; một số thuật ngữ như “phòng, chống ma túy”, “tội phạm về ma túy”; các thuật ngữ về “các hoạt động hợp pháp liên quan” và “kiểm soát các hoạt động hợp pháp” đã rõ về nội dung và không có cách hiểu khác nhau, đề nghị cân nhắc không cần thiết phải giải thích tại Luật này.
Đối với các từ ngữ bổ sung tại khoản 5, 6, 9 10, 11, 14, 15 cần được rà soát, cân nhắc kỹ để bảo đảm việc đưa ra nội hàm của mỗi từ ngữ được chính xác, bao quát và đúng mục tiêu, phạm vi điều chỉnh của Luật, thống nhất với các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Quảng Nam: Khoản 13 đề nghị phân biệt rõ người nghiện ma túy và người bệnh do bị tác động, ảnh hưởng của chất ma túy, chất gây nghiện, chất hướng thần. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, hiện nay trong các luật không quy định người nghiện là người bệnh |
Công an tỉnh Sơn La: Khoản 7 đề nghị bổ sung như sau: “…hoặc các loạicây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định”. |
Tiếp thu để phù hợp với quy định của BLHS |
- Cục Cảnh sát giao thông – BCA: Đề nghị chỉnh sửa “Người nghiện ma túy là người sử dụng trái phép chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này.” |
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì nhiều người sử dụng hợp pháp vẫn bị lệ thuộc vào các chất này. Ví dụ như các bệnh nhân phải sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần lâu ngày dẫn đến bị nghiện hoặc người nghiện dùng thuốc thay thế. |
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch đề nghị bổ sung khái niệm dự phòng nghiện. |
- Cơ quan chủ trì soạn thảo đã thống nhất với Cục tệ nạn phòng, chống tệ nạn xã hội là hiện nay chưa đủ điều kiện quy định Dự phòng nghiện trong Luật Phòng, chống ma túy. |
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
- Khoản 6: đề nghị bỏ cụm từ “được quy định trong các danh mục do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành”. Các loại thuốc thú y chưa được cấp phép lưu hành hoặc chưa có trong danh mục do Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành đang trong quá trình kiểm nghiệm, khảo nghiệm vẫn đều được gọi là thuốc thú y.
- Khoản 11: Đề nghị sửa cụm từ “các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy bao gồm…” thành cụm từ “các hoạt động hợp pháp liên quan đến chất ma túy, tiền chất bao gồm…”; Khoản 12: Đề nghị sửa cụm từ “kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là việc…” thành cụm từ “kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến chất ma túy, tiền chất là việc…”, cho phù hợp với nội dung quy định tại Chương III của dự thảo Luật.
|
- Tiếp thu để đầy đủ
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì quy định như trong dự thảo là đầy đủ nội dung
|
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an:
Trong dự thảo trình bày “tội phạm về ma túy là các hành vi phạm tộiđược quy định tại…” “… các hành vi vi phạm pháp luật”. Việc dự thảo để các cụm từ “phạm tội”, “các hành vi” là thừa, không cần thiết, việc không có các cụm từ này vẫn đảm bảo ý nghĩa, nội dung đề cập.
Đề nghị sử dụng cụm từ “lưu trữ” thay cho “tồn trữ” vì có tính phổ biến hơn.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì cần phân biệt tội phạm ma túy với tệ nạn ma túy.
- Sử dụng “tồn trữ” phù hợp với thực tiễn. Vì tồn trữ là cất giữ để dùng về sau. Dùng từ này phù hợp với văn bản pháp luật về Hóa chất.
|
Học viện an ninh: khoản 14 “Người sử dụng trái phép chất ma túy là người bị phát hiện khi đang sử dụng trái phép chất ma túy hoặc có kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy mà người đó không chứng minh được việc sử dụng chất ma túy là hợp pháp”. Thống nhất với nội dung quy định tại Điều 25 về xác định người sử dụng TPCMT. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì quy định trong dự thảo là đầy đủ |
Công an tỉnh Hải Dương: Khoản 15 đề nghị đưa từ “sức khỏe” lên trước từ “về” như sau: “Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện tổng thể các can thiệp, hỗ trợ phục hồi về sức khỏe, tâm lý, nhận thứcxã hội và pháp lýđể giúp người nghiện mt nâng cao nhận thức và không còn nghiện ma túy”, vì để cai nghiện, người nghiện phải phục hồi được thể chất và tâm lý trước, từ đó có nên tảng, cơ sở phục hồi nhận thức đã có và tiếp thu được kiến thức pháp lý. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND TP- Hồ Chí Minh: đề nghị bổ sung giải thích cụm từ “biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy” được quy định tại khoản 1, Điều 42 |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì đã quy định cụ thể |
UBND và Công an tỉnh Điện Biên: đề nghị bổ sung giải thích các thuật ngữ “cai nghiện ma túy tại nhà”, “cai nghiện ma túy tại cộng đồng”, “cai nghiện ma túy tại cơ sở bắt buộc”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị chỉnh sửa như sau:
- Khoản 11: “… các chất quy định tại các khoản 1, khoản 4, khoản 5 và khoản 6 Điều này, được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.”
- Khoản 13: “Người nghiện ma túy là người thường xuyênsử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này”.
- Đề nghị bổ sung khái niệm “thuốc dạng phối hợp”
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND tỉnh Tây Ninh:
- Khoản 2 đề nghị điều chỉnh “Chất gây nghiện là những chất kích thích gây ức chế thần kinh, dẫn đến lệ thuộc gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng”
- Khoản 15 điều chỉnh từ “can thiệp” thành “biện pháp”
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:
Đề nghị sửa khái niệm:
- “Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy đến mức bị thay đổi về tâm thần, thể chất (hoặc cả hai) nếu ngừng sử dụng hoặc giảm liều sử dụng; buộc họ có hành vi phải sử dụng lại chất ma túy”.
- “Chất hướng thần là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh gây rối loạn tâm thần và có thể gây nghiện đối với người sử dụng”.
- “Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tâm lý, xã hội và y tế giúp người nghiện thay đổi nhận thức, thay đổi hành vi, phục hồi thể chất, tinh thần nhằm giảm sử dụng ma túy, giảm tác hại của ma túy”.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Tiếp thu
|
5 |
Điều 4. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Trồng cây có chứa chất ma túy.
2. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán, phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh, nghiên cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Vi phạm các quy định về giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát, cho phép người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần.
3. Sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; xúi giục, cưỡng bức, lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma túy.
4. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy.
5. Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội về ma túy mà có.
6. Chống lại hoặc cản trở việc cai nghiện ma túy.
7. Trả thù hoặc cản trở người có trách nhiệm hoặc người tham gia phòng, chống ma túy.
8. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
9. Các hành vi trái phép khác về ma túy.
|
Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao, BCA, bổ sung hành vi bị nghiêm cấm:
“9. Quảng cáo, mua bán chất ma túy, tiền chất ma túy trên không gian mạng.
10. Hướng dẫn trồng, sản xuất trái phép chất ma túy và sử dụng chất ma túy trên không gian mạng.”
|
Tiếp thu, vì phù hợp với việc phát triển của công nghệ số, mạng Internet hiện nay, tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan chức năng. Hiện đã có Luật an ninh mạng. |
Bộ Tư pháp: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát kỹ các quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật dược, Luật đầu tư… để xác định chính xác các hành vi, hoạt động bị cấm liên quan đến ma túy, tránh việc quy định cấm tất cả các hành vi, hoạt động được phép đối với một số hành vi đối với loại thuốc kinh doanh có điều kiện theo quy định tại Luật dược (như việc sản xuất các loại thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất…). Một số hành vi bị cấm như vi phạm các quy định về giao nhận, quản lý, tồn trữ trái phép chất ma túy, tiền chất, trái phép khác… cũng cần phải được làm rõ hơn nội hàm và thống nhất với quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 để xác định có thuộc trường hợp bị nghiêm cấm hay không. |
Nghiên cứu |
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao:
- Đề nghị cân nhắc tách khoản 2 Điều này thành 02 khoản quy định như sau:
(1) “Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,… thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiềnchất”;
(2) “Giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát, cho phép người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần trái quy định của pháp luật” để bảo đảm quy định rõ 02 trường hợp này.
- Khoản 6 và khoản 7 Điều này là các quy định có tính chất tương tự nhau, đề nghị gộp chung để bảo đảm tính hợp lý, logic.
|
- Tiếp thu
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
Bộ Y tế:
- Khoản 2 đề nghị bổ sung cụm từ “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc” sau cụm từ “thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”.
- Sửa cụm từ “cho phép sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần” thành “sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần hoặc thuốc tiền chất”.
|
- Tiếp thu
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
Công an tỉnh Sơn La:
- Khoản 3 đề nghị bổ sung như sau: “…,cưỡng bức, dụ dỗ,lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Khoản 8 đề nghị bổ sung như sau: “Lợi dụng, lạm dụng, chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.”
- Từ khoản 1 đến khoản 8 liệt kê cụ thể, rõ ràng các hành vi bị nghiêm cấm, tuy nhiên đến khoản 9 lại quy định “Các hành vi trái phép khác về ma túy” quy định như vậy chưa cụ thể, chưa đảm bảo sự thống nhất và tính hợp lý, sẽ khó đảm bảo tính công bằng và tính khả thi
- Đề nghị nghiên cứu, xem xét, bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến người nghiện và quản lý, giám sát người nghiện như: Tổ chức trốn hoặc trốn khỏi nơi quản lý, cơ sở cai nghiện…
|
- Tiếp thu để phù hợp với Bộ luật hình sự;
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, đây là nội dung mang tính "quét", vì có những hành vi trên thực tế sẽ phát sinh.
-Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì Luật ma túy là Luật nội dung, xử lý các hành vi này sẽ theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc Bộ luật hình sự.
|
UBND tỉnh và Công an tỉnh Điện Biên: đề nghị bổ sung quy định nội dung cấm phân biệt đối xử, kỳ thị người sử dụng trái phép chất ma túy và người nghiện ma túy. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, nội dung này quy định trong văn bản pháp luật khác |
Công an tỉnh Ninh Bình: đề nghị sửa khoản 4 “Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phương tiện, dụng cụnhằm mục đích sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy” vì có những dụng cụ được sản xuất không nhằm mục đích phục vụ việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn bị đối tượng dung vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy (bơm kim tiêm, nước cất…). |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định như trong dự thảo đảm bảo tính đầy đủ. |
Công an tỉnh Quảng Ninh: Khoản 5 cụm từ “Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội ma có” sửa thành “Rửa tiền hoặc hợp pháp hóa tài sản do phạm tội về ma túy mà có”. Căn cứ: đảm bảo thuật ngữ đồng bộ với Điều 324 Bộ luật hình sự quy định về Tội rửa tiền. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo đã rõ |
UBND tỉnh Lạng Sơn: bổ sung cụm từ: “Trồng cây có chứa chất ma túy trái phép”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, vì trồng cây có chứa chất ma túy là hoạt động trái phép |
Công an tỉnh Bắc Giang: khoản 2 đề nghị bổ sung cụm từ “tiền chất” : “…Vi phạm các quy định về giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát, cho phép người sử dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần.” Vì trong Bộ luật hình sự có quy định Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất…(Điều 253) hoặc Tội vi phạm các quy định về quản lý chất ma túy, tiền chất…(Điều 259). |
Tiếp thu, để đồng bộ với Bộ luật hình sự |
6 |
Điều 5. Chính sáchcủa Nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Phòng, chống ma túy là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội.
2. Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia phòng, chống ma túy; tổ chức đấu tranh chống các tội phạm về ma túy và sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, nghiệp vụ để tuyên truyền, vận động nhân dân, cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia phòng, chống ma túy; kết hợp phòng, chống ma túy với phòng, chống các loại tội phạm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác.
|
Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam: khoản 2 bổ sung từ “hỗ trợ” cụ thể “Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ, hỗ trợ cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia phòng, chống ma túy;…” |
Tiếp thu, đầy đủ nội dung hơn. |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: bổ sung khoản 2 “Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy; tổ chức đấu tranh chống các tội phạm và tệ nạn ma túy; sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, nghiệp vụ để tuyên truyền, vận độngcán bộ, công chức, viên chức và nhân dân tham gia phòng, chống ma túy; kết hợp phòng, chống ma túy với phòng, chống các loại tội phạm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác.” |
Tiếp thumột phần |
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị chỉnh sửa Khoản 2 như sau: “Nhà nước có chính sách khuyến khích…; chính sách cho người làm công tác cai nghiện ma túy, phòng chống tái nghiện, tổ chức đấu tranh chống các tội phạm về ma túy”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
7 |
Điều 6. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
1. Nhà nước Việt Nam thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi; hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống ma túy.
2. Cá nhân, tổ chức nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam về phòng, chống ma túy.
|
Cục Cảnh sát QLHC về TTXH: Khoản 2 đề nghị bổ sung “cá nhân, tổ chức nước ngoài nếu vi phạm pháp luật phòng, chống ma túy thì bị xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Thanh Hóa: Khoản 2 trên thực tế việc áp dụng các biện pháp xử lý người nước ngoài còn khó khăn. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 5, Luật Xử lý vi phạm hành chính thì các biện pháp xử lý vi phạm hành chính không áp dụng đối với người nước ngoài, dẫn đến tình trạng người nghiện ma túy là người nước ngoài nhưng không có biện pháp xử lý. Đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung nội dung này. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, ý kiến sẽ được tiếp thu, nghiên cứu theo hướng: Người nước ngoài được phép đăng ký cai nghiện tự nguyện tại Việt Nam. |
8 |
Điều 7. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
1. Giáo dục thành viên trong gia đình, thân nhân về tác hại của ma túy và thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy; quản lý, ngăn chặn thành viên trong gia đình tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy.
2. Thực hiện đúng chỉ định của thầy thuốc về sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần để chữa bệnh.
3. Hợp tác với cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm ma túy; tham gia hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện và tại cộng đồng; theo dõi, giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.
4. Cung cấp kịp thời những thông tin về tội phạm và tệ nạn ma túy, việc trồng cây có chứa chất ma túy cho cơ quan Công an hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tham gia triệt phá cây có chứa chất ma túy do chính quyền địa phương tổ chức.
|
- Ý kiến của Cục Đối ngoại, Bộ Công an:
+ Khoản 2: Thay từ "thầy thuốc" thành "cán bộ y tế có thẩm quyền".
+ Khoản 3, khoản 4: Sửa lại thành
"3. Hợp tác với các cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm ma túy, bao gồm việc cung cấp kịp thời thông tin về tội phạm ma túy, tệ nạn ma túy cho cơ quan Công an hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tham gia triệt phá cây có chứa chất ma túy do chính quyền địa phương tổ chức.
4. Tham gia hoạt động cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện và tại cộng đồng; theo dõi, giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện."
|
- Nghiên cứu chỉnh sửa cho phù hợp |
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an: khoản 2 bổ sung các loại thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất. |
Tiếp thu, bổ sung thêm cụm từ "thuốc tiền chất" |
Bộ Quốc phòng: Khoản 4 chỉnh lý như sau“Cung cấp ... cho lực lượng chuyên trách quy định tại Điều 13 Luật này và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tham gia triệt phá cây có chứa chất ma túy do chính quyền địa phương tổ chức”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì lực lượng Công an đã bố trí Công an chính quy về xã |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: đề nghị bổ sung khoản 3 “Hợp tác với cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy;...”. |
Tiếp thu để đầy đủ |
UBND TP Hải Phòng: khoản 3 thay cụm từ “đấu tranh với tội phạm ma túy” bằng “đấu tranh với tệ nạn ma túy”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo và bổ sung “tệ nạn ma túy” |
Công an tỉnh Ninh Bình: đề nghị sửa khoản hai như sau “Thực hiện đúng chỉ định của cơ quan chuyên môn về sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần để chữa bệnh”. |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Quảng Ninh:
- Khoản 3: bổ sung “Hợp tác với cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm, tệ nạn ma túy…”.
- Khoản 4: bổ sung “Phát hiện tố giác, cung cấp kịp thời những thông tin về tội phạm…”
|
- Tiếp thu
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
Công an tỉnh Gia Lai: Khoản 1 đề nghị bổ sung cụm từ “thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy” vào đầu câu để thể hiện trách nhiệm đầu tiên của cá nhân, gia đình là phải chấp hành các quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy, sau đó mới tuyên truyền, giáo dục người thân. |
Tiếp thu vì như vậy nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống ma túy |
Công an tỉnh Tuyên Quang: khoản 4 đê nghị thay từ “triệt xóa” bằng từ “xóa bỏ” để nội dung chính xác, phù hợp hơn |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Quảng Nam: Đề nghị quy định cụ thể, chi tiết quyền và nghĩa vụ của người nghiện ma túy để làm cơ sở pháp lý xử lý đối với người nghiện ma túy, nhân thân người nghiện ma túy khi không hợp tác hoặc trốn tránh trách nhiệm trước cơ quan chức năng. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định này thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Xử lý vi phạm hành chính |
Công an tỉnh Đồng Tháp: Khoản 3 đề nghị bổ sung cụm từ “Tệ nạn ma túy” ngay sau cụm từ “Tội phạm ma túy”. |
Tiếp thu |
UBND TP- Hồ Chí Minh: đề nghị điều chỉnh khoản 1: “Giáo dụcthành viên trong gia đình..” thành “tuyên truyền thành viên trong gia đình…” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Hòa Bình: Khoản 3 đề nghị bổ sung như sau: “Hợp tác với cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm vềma túy, tệ nạn ma túy;….” |
Tiếp thu một phần |
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị chỉnh sửa Khoản 3 như sau: “… giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng…” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Nghệ An: Khoản 3 đề nghị bổ sung như sau: “…;tham gia hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện và tại cộng đồng; tham gia hỗ trợ hoạt động điều trị nghiện tại các cơ sở điều trị;…” |
Tiếp thu, để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động điều trị nghiện. |
9 |
Điều 8. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp
1. Tổ chức và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tuyên truyền, giáo dục nhân dân kiến thức, pháp luật về phòng, chống ma túy; xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, văn minh.
2. Phòng ngừa, ngăn chặn người của tổ chức mình và mọi công dân tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy.
3. Giám sát hoạt động phòng, chống ma túy ở cơ quan, nhà trường, các cơ sở giáo dục khác và địa bàn dân cư.
4. Phối hợp với chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm quyền để vận động cai nghiện ma túy; tham gia giáo dục, dạy nghề, tìm việc làm và giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.
|
Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam: đề nghị sửa tiêu đề và nội dung như sau:
- Tiêu đề: “Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp”
1. “Tổ chức và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về phòng, chống ma túy trong nhân dân; vận động nhân dân tham gia phòng, chống ma túy, tệ nạn ma túy và thực hiện phong trào “Toàn dân tham gia phòng, chống ma túy””.
2. Phòng ngừa, ngăn chặn người của tổ chức mình và mọi công dân vi phạm mọi quy định về phòng, chống tội phạm ma túy và tệ nạn ma túy
3. Giám sát,phản biện hoạt động phòng, chống ma túy trong hệ thống chính trị, nhà trường, các cơ sở giáo dục khác và địa bàn dân cư .
4. Phối hợp với chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm quyền để vận động cai nghiện ma túy; tham giacảm hóa, giáo dục, dạy nghề, tìm việc làm và giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.
|
- Tiếp thu vì phù hợp
- Tiếp thu vì đầy đủ nội dung
- Tiếp thu có chỉnh sửa
- Tiếp thu
- Tiếp thu, bổ sung từ “cảm hóa”
|
Công an tỉnh Tuyên Quang:
Khoản 2 đề nghị thay cụm từ “tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy” bằng cụm từ “thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy”.
|
Tiếp thu có chỉnh sửa
|
UBND tỉnh Lào Cai: Đề nghị chỉnh sửa Khoản 4 như sau: “… giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng…” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Nghệ An: Khoản 4 đề nghị bổ sung cụm từ sau: “…để vận động điều trị nghiện, cai nghiện ma túy;…” |
Tiếp thu vì hiện nay có hoạt động điều trị nghiện bằng thuốc thay thế |
UBND tỉnh Tây Ninh: đề nghị bổ sung“Phối hợp phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn các cá nhân, tổ chức và mọi công dân tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy.” |
Đề nghị không bổ sung |
Công an tỉnh Quảng Ninh:
- Tiêu đề: “Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổchức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội”, để đảm bảo thuật ngữ theo Điều 9 Hiến pháp.
- Khoản 3: cụm từ “các cơ sở giáo dục khác” sửa thành “các cơ sở giáo dục” .
|
- Tiếp thu, phù hợp với ý kiến tham gia của Mặt trận tổ quốc.
- Tiếp thu, phù hợp và đầy đủ hơn.
|
10 |
Điều 9. Trách nhiệm của nhà trường và các cơ sở giáo dục
1. Tổ chức thực hiện chương trình giáo dục về phòng, chống ma túy; giáo dục pháp luật về phòng, chống ma túy và lối sống lành mạnh cho học sinh, sinh viên, học viên; quản lý chặt chẽ, ngăn chặn học sinh, sinh viên, học viên tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy.
2. Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên, học viên về phòng, chống ma túy.
3. Phối hợp với cơ quan y tế và chính quyền địa phương tổ chức xét nghiệm khi cần thiết để phát hiện học sinh, sinh viên, học viên nghiện ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
|
Công an tỉnh Quảng Ninh: khoản 3 đề nghị sửa “Phối hợp với các cơ quan y tế và chính quyền địa phương tổ chức xét nghiệm khi có căn cứ đối với những học sinh, sinh viên, học viên sử dụng hoặc có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy để có biện pháp phòng ngừa”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định như trong dự thảo đã đầy đủ. |
UBND tỉnh Tây Ninh bổ sung:
1. Tổ chức thực hiện chương trình giáo dục tuyên truyền về phòng, chống ma túy; giáo dục pháp luật về ma túy và lối sống lành mạnh cho cán bộ, học sinh, sinh viên, học viên; quản lý chặt chẽ, ngăn chặn cán bộ, học sinh, sinh viên, học viên tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy.
2. Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên, học viên tích cức tham gia về phòng, chống ma túy.
3. Phối hợp với cơ quan y tế và chính quyền địa phương tổ chức xét nghiệm khi cần thiết để phát hiện cán bộ, học sinh, sinh viên, học viên nghiện ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
11 |
Điều 10. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân
1. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức phòng, chống ma túy ở cơ quan, đơn vị mình; phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy; tuyên truyền, động viên cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và nhân dân phát hiện, tố giác, đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy.
2. Tại các vùng xóa bỏ cây có chứa chất ma túy, các cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp để thay thế việc trồng cây có chứa chất ma túy; quy hoạch cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và thị trường phù hợp để nhân dân chuyển hướng sản xuất có hiệu quả.
|
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị chỉnh sửa Khoản 1 như sau: “…phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy;…” |
Tiếp thu để đầy đủ hơn |
Bộ Nội Vụ:
Tại khoản 1 đề nghị nghiên cứu quy định như sau: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức phòng, chống ma túy ở cơ quan, đơn vị mình; phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức, viên chứcvà cán bộ, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang…”
|
Tiếp thu |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: khoản 1 đề nghị bổ sung “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn có trách nhiệm tổ chức phòng, chống ma túy ở cơ quan, đơn vị mình; phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, người lao động thuộc quyền quản lýtham gia tội phạm và tệ nạn ma túy; tuyên truyền, động viên cán bộ, công chức,viên chức, nhân viên, người lao động và nhân dân phát hiện, tố giác, tham gia, đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy.” |
Tiếp thu vì đầy đủ các đối tượng. |
Công an tỉnh Tuyên Quang: khoản 1 đề nghị thay cụm từ “tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy” bằng cụm từ “thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì cần có sự phân biệt giữa tội phạm và tệ nạn ma túy. |
Công an tỉnh Quảng Ninh: Khoản 1 “tuyên truyền, động viên cán bộ, công chức…” sửa thành “tuyên tuyền phổ biến, quán triệt cán bộ, công chức…” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định như trong dự thảo đã đảm bảo tính đầy đủ, phù hợp văn phong của Luật |
Công an thành phố Hà Nội: Khoản 1 bổ sung “viên chức” thành “cán bộ, công chức, viên chức”. |
Tiếp thu, để đảm bảo đầy đủ đối tượng. |
12 |
Điều 11. Trách nhiệm của các cơ quan thông tin, truyền thông
Các cơ quan thông tin, truyền thông có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nhận thức rõ về tác hại của ma túy; chủ trương, chính sách, pháp luật, biện pháp của Nhà nước về phòng, chống ma túy.
|
Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Đề nghị bổ sung trách nhiệm của các cơ quan thông tin, truyền thông trong việc tuyên truyền kết quả của các cơ quan chức năng trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy nhằm phòng ngừa, răn đe các đối tượng có âm mưu phạm tội; tuyên truyền thành quả trong cai nghiện, hòa nhập cộng đồng và phòng, chống tái nghiện |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì theo quy định trong dự thảo đã khái quát bao gồm cả các nội dung này. |
- Cục truyền thông Công an nhân dân: Trách nhiệm của các cơ quan thông tin, truyền thông tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật, biện pháp của Nhà nước về phòng, chống ma túy – đây là hành lang pháp lý để nhân dân biết và thực hiện nên được đặt lên trước sau đó mới đến việc phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nhận thức rõ về tác hại của ma túy. |
Tiếp thu |
Bộ Thông tin và Truyền thông: Trách nhiệm của các cơ quan báo chí, truyền thông
Các cơ quan báo chíthông tin, truyền thông có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nhận thức rõ về tác hại của ma túy; tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật, biện pháp của Nhà nước về phòng, chống ma túy.”
|
Tiếp thu |
UBND TP- Hồ Chí Minh: đề nghị điều chỉnh “Các cơ quan thông tin, truyền thông có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức tuyên truyền, phổ biến để nhân dân nhận thức rõ về tác hại của ma túy…” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
13 |
Điều 12. Chính sách đối với người tham gia phòng, chống ma túy
1. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia các hoạt động phòng, chống ma túy được Nhà nước bảo vệ và giữ bí mật.
2. Trường hợp cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức do tham gia phòng, chống ma túy mà bị thiệt hại về tài sản thì được Nhà nước đền bù; trường hợp cá nhân bị thương tích, tổn hại về sức khỏe hoặc bị thiệt hại về tính mạng thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chế độ, chính sách đặc biệt theo quy định của Chính phủ.
3. Cơ quan Công an, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Viện kiểm sát, Tòa án và chính quyền các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
|
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch cần làm rõ hơn các “chế độ chính sách đặc biệt” là gì? |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, nội dung này sẽ quy định ở các văn bản có liên quan |
Công an tỉnh Hải Dương: khoản 2 đề nghị bỏ từ “đặc biệt” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, cần có từ "đặc biệt để nhấn mạnh" chế độ, chính sách cho các đối tượng này. |
UBND tỉnh Tây Ninh, bổ sung quy định:
Khoản 1. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia các hoạt động phòng, chống ma túy được Nhà nước bảo vệ và giữ bí mật. Được khen thưởng kịp thời khi có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống ma túy.
Bổ sung “ Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác, người làm chứng và người bị hại trong các vụ án về ma túy, khi có yêu cầu”
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Vĩnh Phúc: đề nghị chuyển nội dung Điều 12 và Điều 14 vào quy định trong nội dung Điều 5 cho phù hợp về kỹ thuật lập pháp và bố cục các điều, chương của Luật. Nội dung Điều 12 và Điều 14 đều là các chính sách của nhà nước về phòng, chống ma túy vì vậy nên quy định trong cùng Điều 5. Chương II chỉ quy định riêng về trách nhiệm phòng, chống ma túy của các cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo. Hiện nay không quy định Điều 14 |
Công an tỉnh Quảng trị: tại khoản 3 đề nghị thêm từ “nhân dân” vào sau từ “Viện kiểm sát” và “tòa án”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo đã rõ |
14 |
Điều 13. Trách nhiệm, quyền hạn của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
1. Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân được tiến hành một số hoạt động sau đây:
a) Nòng cốt, chủ trì thực hiện các hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy;
b) Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, kĩ thuật cần thiết để điều tra, phát hiện tội phạm về ma túy;
c) Trưng cầu giám định mẫu vật, mẫu phẩm sinh học cần thiết để phát hiện tội phạm về ma túy;
d) Yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan, phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu, tình hình tài chính và tài khoản tại ngân hàng khi có căn cứ cho rằng có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 8, 9 Điều 4 của Luật này;
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động bưu chính, dịch vụ chuyển phát mở bưu kiện, bưu phẩm, hàng hóa để kiểm tra khi có căn cứ cho rằng trong bưu kiện, bưu phẩm, hàng hóa đó có chứa chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất;
e) Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác, người làm chứng và người bị hại trong các vụ án về ma túy;
g) Phối hợp với các cơ quan chức năng chống tội phạm ma túy của các nước và các tổ chức chống tội phạm ma túy quốc tế để tiến hành trao đổi thông tin và phối hợp điều tra các vụ án liên quan đến tội phạm ma túy xuyên quốc gia.
2. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện quy định tại điểm d điểm đ và điểm e khoản 1 Điều này theo yêu cầu của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy.
3. Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan Công an, các cơ quan hữu quan khác thực hiện và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy tại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soát.
4. Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy trong việc thực hiện các hoạt động quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này.
|
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Điều 13, khoản 1, điểm đ đề nghị bổ sung từ “trái phép” vào cuối câu. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo đã đầy đủ |
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Đề nghị bổ sung cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc VKSND vào khoản 3 Điều này, vì hiện nay ở VKSND các cấp đều có tổ chức đơn vị và Kiểm sát viên chuyên trách thực hiện công tác thực hành quyềncông tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy (như:ở VKSND tối cao, có Vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án ma túy,gồm 24 Kiểm sát viên; ở VKSND cấp tỉnh, có phòng Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án an ninh, ma túy trong đó phân công Kiểm sát viên chuyên trách giải quyết án ma túy; ở VKSND cấp huyện, có Kiểm sát viên chuyên trách giải quyết án ma túy). Việc bổ sung quy định này sẽ bảo đảm phù hợp về tổ chức các đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ đấu tranh, giải quyết các vụ án ma túy ở các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS) hiện nay. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì đây là quy định lực lượng chuyên trách trực tiếp tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm ma túy |
Bộ Y tế: đề nghị bổ sung cụm từ “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc” |
Tiếp thu |
Bộ Quốc phòng: rà soát, bỏ những nội dung quy định về các biện pháp nghiệp vụ cụ thể liên quan đến ma túy vì đã được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành; chỉnh lý khoản 3 Điều nàynhư sau“ … áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, kỹ thuật theo quy định của pháp luật…”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND TP Hải Phòng: điểm a, khoản 1 đề nghị bỏ từ “nòng cốt”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
- Khoản 1 đề nghị bổ sung:
+ Điểm b: Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, khoa học - kĩ thuật cần thiết để điều tra, phát hiện,đấu tranh vớitội phạm về ma túy.
+ Điểm g: Trao đổi thông tin và phối hợp với các cơ quan chức năng chống tội phạm ma túy của các nước và các tổ chức chống tội phạm ma túy quốc tếtiến hành điều tra các vụ án liên quan đến tội phạm ma túy xuyên quốc gia.
- Khoản 2 đề nghị chỉnh sửa: Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều này theo yêu cầu của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy.
|
Tiếp thu, để mang tính đầy đủ hơn.
|
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an: điểm a, khoản 1 “hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy” dài, thừa về mặt nghĩa, chỉ cần nêu “hoạt động phòng, chống tội phạm về ma túy”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, nội dung trong dự thảo đảm bảo tính đầy đủ |
Công an tỉnh Ninh Bình:
- Điểm d, khoản 1 đề nghị bổ sung cụm từ “tổ chức tín dụng” cụ thể “Yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan, phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu, tình hình tài chính và tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khi có căn cứ cho rằng có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 8, 9 Điều 4 của Luật này”
- Điểm đ, khoản 1 đề nghị bổ sung cụm từ “và các tài liệu, vật phẩm khác có liên quan đến hành vi phạm tội về ma túy” vào cuối câu.
|
- Tiếp thu, vì hiện nay có loại hình tổ chức tín dụng ở các địa phương
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định như trong dự thảo là đầy đủ
|
CAT Quảng Nam: Khoản 1 đề nghị bổ sung thêm điểm h “Áp dụng sản phẩm que thử nhanh nhằm phát hiện người sử dụng trái phép chất ma túy”
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, que thử nhanh chỉ xác nhận bước đầu, chưa đủ cơ sở kết luận một người sử dụng ma túy |
Học viện Cảnh sát nhân dân: Khoản 1 đề nghị bổ sung cụm từ “có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp” vào sau cụm tư “chất hướng thần”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo đã đầy đỷ |
Công an tỉnh Hà Tĩnh: Tại điểm đ, khoản 1 đề nghị bỏ từ “doanh nghiệp” và bổ sung thêm cụm từ “hoặc dịch vụ vận tải có vận chuyển hàng hóa, bưu phẩm” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định như dự thảo là phù hợp |
Công an tỉnh Sơn La: Điểm đ, khoản 1 đề nghị ban soạn thảo xem xét, cân nhắc lại vì trái với Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín… không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái pháp luật thư tín, điện thoại, điện tín…” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, việc này chỉ áp dụng đối với đối tượng có dấu hiệu tội phạm ma túy, không phải áp dụng cho mọi công dân. |
Công an tỉnh Quảng Ngãi: Đề nghị chuyển nội dung quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức phòng, chống tội phạm về ma túy tại khoản 2 Điều 13 lên Điều 7 và sửa đổi, bổ sung nội dung và tên gọi điều luật. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo là phù hợp |
Công an tỉnh Bình Dương:
- Khoản 1: điểm a bổ sung “Công an nhân dân làm nòng cốt, chủ trì…”; bỏ chữ “thuốc” ở điểm đ.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo là phù hợp |
Công an thành phố Hà Nội: Khoản 1 bỏ chữ “nòng cốt” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND TP- Hồ Chí Minh: Khoản 1 tại điểm đ và d đề nghị bỏ cụm từ “doanh nghiệp” vì cụm từ “tổ chức” đã bao gồm “doanh nghiệp” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND tỉnh Lào Cai: Điểm e, Khoản 1 đề nghị bổ sung: “… để bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người chứng kiến, người phiên dịch người bị hại và người thân của họ trong các vụ án về ma túy”.
khoản 3 “… theo quy định tại Khoản 1 của điều này để phòng ngừa…”
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
15 |
Điều 14. Xử lý tài sản, phương tiện bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy
1. Phương tiện, tài sản bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy khi bản án, quyết định tịch thu có hiệu lực pháp luật thì được giao cho lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy để phục vụ công tác phòng, chống ma túy.
2. Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục xử lý phương tiện, tài sản quy định tại khoản 1 Điều này.
|
Do đó, việc bổ sung quy định tại Điều 14 dự thảo Luật về việc xử lý tài sản, phương tiện bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy theo hướng giao cho các lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy và theo quy định của Chính phủ là cần được cân nhắc kỹ. Trường hợp cơ quan chủ trì soạn thảo nhận thấy, có những vấn đề đặc thù, không thể áp dụng theo các quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên, thì phải giải trình cụ thể các vấn đề đặc thù đó, đồng thời, quy định cụ thể ngay tại dự thảo Luật các vấn đề về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý tài sản, phương tiện bị tịch thu. Đây là các vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, việc xử lý sẽ hạn chế, tác động trực tiếp tới quyền tài sản của các chủ thể này, do đó, phải được quy định trong Luật để thống nhất thực hiện. Trường hợp không có nội dung, vấn đề đặc thù so với quy định chung, đề nghị cân nhắc không bổ sung quy định mới mà dẫn chiếu tới các văn bản hiện hành.
|
Tiếp thu (hiện nay không còn quy định nội dung này trong dự thảo Luật) |
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Khoản 1 Điều 14 dự thảo Luật quy định “phương tiện, tài sản bị tịch thu
trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy khi bản án, quyết định tịch thu có hiệu lực pháp luật thì được giao cho lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy để phục vụ công tác phòng, chống ma túy”; nhưng quy định tại Điều 13 dự thảo Luật về trách nhiệm, quyền hạn của lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy lại chỉ gồm có: cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy trong Công an nhân dân, cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan. Quy định như vậy sẽ dẫn tới
sự mâu thuẫn với quy định tại Điều 106 BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, theo đó, việc xử lý vật chứng, tài sản trong quá trình giải quyết vụ án sẽ do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định tùy theo từng giai đoạn tố tụng. Nhưng trong dự thảo Luật này thì các cơ quan tiến hành tố tụng này không được quy định là cơ quan chuyên trách trong đấu tranh phòng, chống ma túy. Do vậy, đề nghị bổ sung quy định các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS) có các đơn vị chuyên trách đấu tranh phòng, chống ma túy trong dự thảo Luật để bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này liên quan đến việc xử lý vật chứng trong giải quyết các vụ án về ma túy theo quy định của BLTTHS.
|
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Bộ Tài Chính: Khoản 1 đề nghị sửa: Phương tiện, tài sản bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy khi bản án, quyết định tịch thu có hiệu lực pháp luật thì được quản lý, xử lý theo quy định của Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công. (vì đã được quy định tại Luật quản lý, sử dụng tài sản công). |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Cục Cảnh sát QLHC về TTXH: đề nghị cân nhắc nội dung này cho phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính. |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Bộ Quốc phòng: đề nghị bỏ vì việc xử lý vật chứng đã được quy định tại Điều 106 BộLTTHS 2015 |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Bộ Nội Vụ: tại Khoản 2 Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, điểm d khoản 1 Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 không quy định phương tiện, tài sản bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy thì được giao cho lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy để phục vụ cho công tác phòng, chống ma túy. Do vậy, tại Điều 14 dự thảo Luật, đề nghị nghiên cứu quy định cho thống nhất với 02 Luật trên. |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Thành viên tổ biên tập Lê Thanh Hải, Thanh tra viên chính, Thanh tra Bộ Công thương: Phương tiện, tài sản bị tịch thutrong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy rất đa dạng, cần quy định rõ những loại phương tiện tài sản nào sẽ được giao cho lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy túy để phục vụ công tác phòng, chống ma túy, những loại phương tiện, tài sản nào sẽ được xử lý bằng hình thức khác. |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Công an tỉnh Hải Dương: khoản 1 đề nghị nghiên cứu, biên tập lại để phù hợp với quy định của pháp luật đã được ban hành về sở hữu toàn dân đối với tài sản bị tịch thu sung công quỹ |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
UBND tỉnh Tây Ninh, bổ sung quy định: “Xử lý tài sản, phương tiện bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy”: “Phương tiện… thì toàn bộ phương tiện tài sản đó được giao cho lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy bán đấu giá sung cung quỹ phục vụ công tác phòng, chống ma túy”. |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Công an tỉnh Phú Yên: Khoản 1 đề nghị quy định như sau: “Phương tiện, tài sản bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy khi bản án, quyết định tịch thu có hiệu lực pháp luật thì được xử lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các quy định pháp luật khác liên quan”. |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Công an tỉnh Quảng Ngãi: Khoản 1 đề nghị xem xét lại nội dung quy định việc xử lý tài sản, phương tiện bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy cho phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. |
Không còn quy định nội dung này trong luật |
Công an tỉnh Nghệ an:
- Khoản 1 đề nghị xem xét lại nội dung quy định việc xử lý tài sản, phương tiện bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật về ma túy cho phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Xử lý vi phạm hành chính
- Ngoài ra tài sản thu được rất đa dạng như: tiền, ngoại tệ, ô tô, xe máy…với chất lượng khác nhau, cần có sự phân loại, kiểm định chất lượng trước khi giao cho lực lượng chuyên trách.
|
Không còn quy định nội dung này trong luật |
16 |
Điều 15. Quản lý các hoạt động hợp pháp về ma túy
1. Việc nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, bảo quản, tồn trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất phải được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ quy định về nội dung, điều kiện, thủ tục, cơ chế phối hợp, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện các quy định tại khoản 1 Điều này.
|
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: đề nghị sửa tên Điều “Quản lý các hoạt động hợp pháp về chất ma túy, tiền chất”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, nội dung dự thảo đã đầy đủ và bao hàm hơn. |
Bộ Y tế: Đề nghị sửa cụm từ “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc sau cụm từ “thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”. |
Tiếp thu |
UBND TP Hải Phòng: đề nghị bổ sung Điều quy định về quản lý tiền chất công nghiệp, theo đó việc sản xuất, kinh doanh, sử dụng, tồn trữ tiền chất công nghiệp được thưc hiện theo quy định của Bộ Công thương. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo luật đã đầy đủ |
17 |
Điều 16. Quản lý hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức được vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất phải đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền, chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng hàng của mình và có biện pháp bảo vệ an toàn, không để bị thất thoát.
2. Việc vận chuyển các chất quy định tại khoản 1 Điều này của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Khoản 2: hiện chỉ điều chỉnh các hoạt động trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam, chưa điều chỉnh trên phạm vi lãnh hải và các vùng biển của Việt Nam. Đây là nội dung cần đặc biệt quan tâm vì tội phạm ma túy là tội phạm duy nhất mà các nước được phép tiến hành áp dụng các biện pháp kiểm soát trên các vùng biển theo Điều 27, điều 108 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, phù hợp với Điều 39 Luật Biển Việt Nam năm 2012. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì Điều 1 Hiến pháp đã quy định lãnh thổ bao gồm bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. |
Công an tỉnh Hải Dương: Khoản 1 đề nghị xem xét bổ sung nội dung cấp phép cho cá nhân, tổ chức, cơ quan khi thực hiện vận chuyển chất ma túy, tiền chất… để có cơ sở quản lý, theo dõi, kiểm tra khi cần thiết. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì quy định trong dự thảo đã đảm bảo nội dung. |
Bộ Y tế: Đề nghị bổ sung cụm từ “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc” vào sau cụm từ “thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần” vào mũ điều và nội dung của điều. |
Tiếp thu |
UBND TP Hải Phòng: đề nghị sửa như sau “ doanh nghiệp vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất tuân thủ theo quy định về vận chuyển do các bộ, ngành quy định cụ thể; chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng hàng của mình và có biện pháp bảo vệ an toàn, không để bị thất thoát; gửi thông báo đến cơ quan cấp phép vận chuyển về thời gian thực hiện vận chuyển; lộ trình vận chuyển; hàng hóa; thông tin về người thực hiện vận chuyển gồm lái xe, áp tải xe (nếu có) gồm họ tên, ngày tháng năm sinh, số chứng nhân dân; số xe vận chuyển; số giấy phép vận chuyển trước khi vận chuyển”. |
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
18 |
Điều 17. Quản lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất tại các cơ sở y tế
Việc tồn trữ, bảo quản, kê đơn và bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất để chữa bệnh tại các cơ sở y tế phải thực hiện theo quy định của Bộ Y tế.
|
Công an TP Hà Nội: các Điều 17, 20, 22, 23 sửa cụm từ “thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất” thành “dược chất hướng thần, tiền chất”. |
Tiếp thu, chỉ cần kiểm soát nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, không kiểm soát thuốc dạng phối hợp. |
Bộ Y tế:
- Đề nghị sửa thành “Quản lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc tại cơ sở kinh doanh dược, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở có hoạt động dược không thuộc diện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược” để đảm bảo phù hợp theo quy định tại Luật Dược và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đối tượng được sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc vào các hoạt động hợp pháp (ví dụ nghiên cứu, đào tạo…) bao gồm cơ sở kinh doanh dược, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, đơn vị sự nghiệp…
- Đề nghị sửa nội dung: “Việc bảo quản, kê đơn, cấp phát, sử dụng, tiêu hủy, kinh doanh thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc tại các cơ sở kinh doanh dược, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và các cơ sở có hoạt động dược không thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược thực hiện theo quy định của Luật Dược và các quy định của pháp luật có liên quan”.
|
Tiếp thu
|
19 |
Điều 18. Quản lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
Việc sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, tồn trữ, bảo quản, kê đơn và bán thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất để chữa bệnh cho động vật tại các cơ sở thú y phải thực hiện theo quy định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
|
|
|
20 |
Điều 19. Lập hồ sơ các hoạt động hợp pháp về ma túy
Cá nhân, cơ quan, tổ chức tiến hành các hoạt động quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 của Luật này phải lập hồ sơ về các hoạt động đó theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và thông báo cho các cơ quan có liên quan khi có yêu cầu để phối hợp quản lý, kiểm soát chặt chẽ.
|
|
|
21 |
Điều 20. Nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
1. Chỉ cơ quan, tổ chức có đủ điều kiện do Chính phủ quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép mới được phép nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
2. Các trường hợp vận chuyển quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất phải có giấy phép quá cảnh của Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam. Tổ chức cần vận chuyển quá cảnh phải gửi đơn và hồ sơ xin phép quá cảnh kèm theo giấy phép của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu đến Bộ Công an Việt Nam để làm thủ tục.
Giấy phép quá cảnh được gửi cho tổ chức xin phép, Hải quan cửa khẩu nơi có hàng quá cảnh đi qua và các cơ quan khác có liên quan. Giấy phép quá cảnh có giá trị một lần trong thời hạn được ghi trong giấy phép.
Việc vận chuyển quá cảnh các chất quy định tại khoản 1 Điều này phải theo đúng hành trình đã ghi trong giấy phép quá cảnh. Tổ chức vận chuyển quá cảnh phải làm thủ tục, chịu sự kiểm soát của cơ quan Hải quan và các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Mọi trường hợp vận chuyển các chất, thuốc quy định tại khoản 1 Điều này vào, ra hoặc qua lãnh thổ Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không tuân thủ các quy định khác của pháp luật Việt Nam về vận chuyển, nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh thì đều bị coi là vận chuyển trái phép.
|
Bộ Y tế:
- Đề nghị bổ sung cụm từ “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc”
- Đề nghị sửa đổi nội dung: “Chỉ cơ quan, tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp phép mới được phép nhập khẩu, xuất khẩu chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc”.
|
Tiếp thu
|
Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Khoản 2: hiện chỉ điều chỉnh các hoạt động trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam, chưa điều chỉnh trên phạm vi lãnh hải và các vùng biển của Việt Nam. Đây là nội dung cần đặc biệt quan tâm vì tội phạm ma túy là tội phạm duy nhất mà các nước được phép tiến hành áp dụng các biện pháp kiểm soát trên các vùng biển theo Điều 27, điều 108 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, phù hợp với Điều 39 Luật Biển Việt Nam năm 2012. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì Điều 1 Hiến pháp đã quy định lãnh thổ bao gồm bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. |
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Khoản 2 đề nghị thay cụm từ “chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất” bằng cụm từ “các chất, thuốc quy định tại khoản 1 Điều này”, thống nhất với cách viết tại khoản 3 Điều này và tránh lắp lại. |
Tiếp thu, viết như như vậy gọn và phù hợp hơn. |
Công an tỉnh Quảng Trị: thêm cụm từ “lãnh thổ Việt Nam” thành “…quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy…”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
22 |
Điều 21. Hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh
Việc giao, nhận, vận chuyển, tồn trữ, bảo quản, sử dụng, nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần vì mục đích quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của Chính phủ.
|
|
|
23 |
Điều 22. Vận chuyển, tồn trữ thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất vì mục đích y tế
1. Việc mang theo một số lượng hạn chế thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất dự phòng cho việc sơ cứu, cấp cứu trong cuộc hành trình hoặc du lịch quốc tế trên tàu thủy, tàu bay, tàu hỏa, ôtô hoặc các phương tiện vận tải khác không bị coi là mang hàng xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam.
Người chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện vận tải có trách nhiệm làm thủ tục khai báo với cơ quan Hải quan của Việt Nam, giải trình về số lượng thuốc đã sử dụng và áp dụng các biện pháp an toàn thích hợp để ngăn chặn việc sử dụng không đúng mục đích hoặc vận chuyển trái phép các thuốc đó. Khi cần thiết, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam được tiến hành kiểm tra, kiểm soát trên các phương tiện vận tải đó.
2. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất để chữa bệnh của cá nhân khi nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam được thực hiện theo quy định của Bộ Y tế Việt Nam và phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
|
Bộ Y tế:
- Đề nghị sửa mũ điều thành “vận chuyển, lưu trữ thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất vì mục đích y tế”
- Khoản 1: Đề nghị bỏ “tàu hỏa, ô tô hoặc các phương tiện vận tải khác” để phù hợp với Công ước 1961 về chất ma túy. Về các phương tiện vận tải, hiện nay Việt Nam mới chỉ quy định tàu biển được phép trang bị tủ thuốc, trong đó có cơ số thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất được mang theo hành trình.
Đề nghị bổ sung nội dung: tàu biển của Việt Nam phải thực hiện quy định về tủ thuốc, trang thiết bị y tế, tài liệu hướng dẫn y tế trên tàu biển và biểu mẫu báo cáo y tế theo quy định của Bộ Y tế và Bộ Giao thông vận tải.
- Khoản 2: đề nghị sửa như sau “việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất để điều trị bệnh cho bản thân người nhập cảnh hoặc xuất cảnh được thực hiện theo quy định của Bộ y tế Việt Nam và phải chịu sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam”.
Riêng quy định về thuốc mang theo đối với người quá cảnh lãnh thổ Việt Nam, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tham khảo ý kiến của Bộ Tài chính (Tổng Cục Hải quan) vì hiện nay, luật Dược và các văn bản quy phạm pháp luật về dược có liên quan không quy định trách nhiệm của Bộ Y tế trong tình huống này.
|
-Đề nghịgiữ nguyên từ "tồn trữ" cho thống nhất trong luật. Tiếp thu “thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất vì mục đích y tế”
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì đất nước hội nhập có nhiều xe ô tô du lịch được vào Việt Nam
- Nghiên cứu
- Nghiên cứu
|
Công an tỉnh Ninh Bình: khoản 1 đề nghị cần làm rõ thêm về quy định thế nào là số lượng hạn chế. |
Nghiên cứu, thực chất việc này quy định cụ thể rất khó |
Công an thành phố Hà Nội: Khoản 1 sửa “thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện” thành “thuốc dạng phối hợp có chứa: dược chất gây nghiện”, thêm dấu “:” sau chữ “có chứa” |
Cụm từ này không còn quy định trong dự thảo Luật |
Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Khoản 2: hiện chỉ điều chỉnh các hoạt động trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam, chưa điều chỉnh trên phạm vi lãnh hải và các vùng biển của Việt Nam. Đây là nội dung cần đặc biệt quan tâm vì tội phạm ma túy là tội phạm duy nhất mà các nước được phép tiến hành áp dụng các biện pháp kiểm soát trên các vùng biển theo Điều 27, điều 108 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, phù hợp với Điều 39 Luật Biển Việt Nam năm 2012. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì Điều 1 Hiến pháp đã quy định lãnh thổ bao gồm bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. |
24 |
Điều 23. Xử lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thu giữ trong vụ vi phạm pháp luật về ma túy
1. Chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất trong các vụ án hình sự, vụ vi phạm hành chính phải tịch thu và xử lý như sau:
a) Trả lại cho chủ sở hữu trong trường hợp chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất được sử dụng trong các hoạt động hợp pháp về ma túy bị chiếm đoạt;
b) Sử dụng trong nghiên cứu khoa học, Y tế, công tác giám định, truy nguyên nguồn gốc; đào tạo tập huấn về công tác phòng, chống ma túy; huấn luyện động vật nghiệp vụ;
c) Tiêu hủy theo quy định của pháp luật trong trường hợp không thuộc điểm a, điểm b Khoản này.
2. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xử lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất tại khoản 1 Điều này.
|
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: khoản 1, điểm b đề nghị bổ sung cụm từ “cứu hộ động vât hoang dã, quý hiếm” vào cuối câu. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an thành phố Hà Nội: không quy định riêng điều 23 và điều 24 theo dự thảo này mà giữ nguyên điều 24 theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000. |
Điều luật này giữ nguyên như Luật cũ. |
Bộ Y tế:
- Đề nghị bổ sung cụm từ “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc” sau cụm từ “thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”
- Điểm a Khoản 1 đề nghị sửa như sau “Trả lại cho chủ sở hữu trong trường hợp chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc đạt tiêu chuẩn chất lượng được sử dụng trong các hoạt động hợp pháp về ma túy”.
- Khoản 2 đề nghị xem lại do trường hợp xử lý tang vật vụ án thuộc thẩm quyền của Bộ Công an; Luật Dược, các văn bản quy định có liên quan và văn bản của Bộ Y tế chỉ quy định về hủy thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, tiền chất được sử dụng hợp pháp.
|
- Tiếp thu
- Tiếp thu
- Nghiên cứu
|
Bộ quốc phòng: Điều 23, chỉ quy định về xử lý chất ma túy,… trong trường hợp không xử lý hình sự; trường hợp xử lý hình sự đã được pháp luật quy định.
|
Nghiên cứu, tiếp thu |
25 |
Điều 24. Xử lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng.
1. Việc xử lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Luật này thực hiện theo quy định của Bộ Y tế.
2. Việc xử lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Luật này thực hiện theo quy định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
|
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: khoản 2 đề nghị thay cụm từ “của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn” bằng cụm từ “của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y”. lý do hiện nay xử lý vi phạm hành chính do Chính phủ quy định, không phải cấp bộ. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảovì đây làhoạt động xử lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất kém chất lượng và quá hạn sử dụng. Trong Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định nội dung này. |
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an: dự thảo có nêu việc xử lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng theo quy định của Bộ Y tế, của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Quy định như vậy là không hợp lý vì Luật là văn bản cao nhất, do đó không thể theo quy định của của Bộ Y tế, của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đề nghị sửa thành giao Chính phủ quy định. |
Nghiên cứu, tham khảo Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. |
26 |
Điều 25. Xác định người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Bị phát hiện khi đang sử dụng trái phép chất ma túy.
2. Xét nghiệm có dương tính với chất ma túy mà người đó không chứng minh được việc sử dụng chất ma túy là hợp pháp.
3. Người không chấp hành yêu cầu xét nghiệm chất ma túy của người thi hành công vụ thì cơ quan chức năng có quyền cưỡng chế để thực hiện xét nghiệm.
|
Bộ Tư pháp: Quy định chưa bảo đảm rõ đây là cách thức xác định người sử dụng ma túy hay các trường hợp/điều kiện được coi là người sử dụng trái phép chất ma túy. Trong khi đó, tại Điều 3 dự thảo Luật đã giải thích rõ nội hàm, nhận diện đối với người nghiện ma túy và người sử dụng trái phép chất ma túy (khoản 13, 14). Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại các quy định tại dự thảo Luật để chỉnh lý lại các trường hợp xác định là người sử dụng trái phép chất ma túy bảo đảm thống nhất với nội hàm khái niệm về người sử dụng trái phép chất ma túy tại khoản 14 và có sự phân biệt nhất định với các trường hợp xác định người nghiện ma túy, tránh quy định chung chung, khó áp dụng trên thực tiễn. Bên cạnh đó, đề nghị quy định cụ thể “cơ quan chức năng” và biện pháp“cưỡng chế” để thực hiện xét nghiệm quy định tại khoản 3 là cơ quan nào và biện pháp gì, được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào để bảo đảm tính minh bạch và thuận lợi khi áp dụng. Đồng thời, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo thể hiện rõ cách thức của việc chứng minh việc sử dụng chất ma túy như thế nào là hợp pháp để phân biệt với trường hợp sử dụng trái phép. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an: căn cứ thứ 3 không chính xác, đây là quy định về quyền của người thi hành công vụ. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
UBND tỉnh Lào Cai: bổ sung nội dung “người tự khai nhận với cơ quan chức năng là mình đã sử dụng trái phép chất ma túy” |
Đề nghị không bổ sung |
UBND TP- Hồ Chí Minh: đề nghị điều chỉnh :
“ 1. Đối tượng bị xác định là sử dụng trái phép chất ma túy khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Bị phát hiện khi đang sử dụng trái phép chất ma túy.
b) Xét nghiệm có dương tính với chất ma túy mà người đó không chứng minh được việc sử dụng chất ma túy là hợp pháp.
2. Người không chấp hành yêu cầu xét nghiệm chất ma túy của người thi hành công vụ thì cơ quan chức năng có quyền cưỡng chế để thực hiện xét nghiệm”
|
Nghiên cứu |
UBND tỉnh Lạng Sơn: đề nghị bổ sung thêm khoản quy định: có tài liệu khác chứng minh người đó sử dụng trái phép chất ma túy.
Khoản 3 cần quy định rõ cơ quan nào có quyền cưỡng chế và hình thức cưỡng chế như thế nào đối với trường hợp không chấp hành yêu cầu xét nghiệm chất ma túy của người thi hành công vụ.
|
- Đề nghị không bổ sung
- Nghiên cứu, rất khó quy định về nội dung cưỡng chế trong luật.
|
UBND tỉnh Tiền Giang: đề nghị bổ sung nội dung quy định của việc “xét nghiệm có dương tính với chất ma túy” hoặc giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết việc này Vì, Nghị định số 167/2003/NĐ-CP và NĐ số 165/2013/NĐ-CP của Chính phủ không quy định cụ thể việc sử dụng trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ (que test thử ma túy) là “thiết bị đo, thử chất ma túy; do đó khi lấy kết quả sử dụng que test thử ma túy làm căn cứ lập biên bản vi phạm hành chính là chưa đảm bảo tính pháp lý trong việc lập hồ sơ xử lý vi phạm hành chính” . |
Nghiên cứu |
Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam: khoản 3 đề nghị được tách ra thành một điều riêng quy định về việc bắt buộc xét nghiệm chất ma túy đối với người không tự nguyện khai báo tình trạng sử dụng chất ma túy. |
Nghiên cứu |
Cục Cảnh sát QLHC về TTXH: Khoản 2 về xác định người sử dụng trái phép chất ma túy trong trường hợp xét nghiệm có dương tính với chất ma túy mà người đó không chứng minh được việc sử dụng chất ma túy là hợp pháp. Đề nghị cân nhắc quy định này nhằm đảm bảo thống nhất với nguyên tắc cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. |
Nghiên cứu tiếp thu |
UBND và Công an TP Hải Phòng: cần quy định người sử dụng trái phép chất ma túy chỉ cần thỏa mãn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 hay phải thỏa mãn cả hai.
Khoản 3 đề nghị quy định việc cưỡng chế này trong Luật Xử lý vi phạm hành chính.
|
Tiếp thu, vì quy định như vậy sẽ cụ thể hơn, dễ vận dụng |
Công an tỉnh Vĩnh Phúc: đề xuất sửa như sau:
1. Việc xác định người sử dụng trái phép chất ma túy căn cứ vào một trong các cơ sở sau:
a) Bị phát hiện khi đang sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Xét nghiệm có dương tính với chất ma túy mà người đó không chứng minh được việc sử dụng chất ma túy là hợp pháp;
2. Người không chấp hành yêu cầu xét nghiệm chất ma túy của người thi hành công vụ thì cơ quan chức năng có quyền cưỡng chế để thực hiện xét nghiệm.
|
Tiếp thu một phần
Hiện không quy định "cưỡng chế" để xét nghiệm
|
Công an tỉnh Hà tĩnh: đề nghị bổ sung khoản 4: “Thông qua các biện pháp nghiệp vụ được pháp luật cho phép của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy” |
Đề nghị không bổ sung |
Công an tỉnh Tiền Giang: Đề nghị bổ sung quy định tính pháp lý của việc xét nghiệm có dương tính với chất ma túy hoặc giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết việc “xét nghiệm có dương tính với chất ma túy” |
Đề nghị không bổ sung, hạn chế quy định trong Nghị định, cái gì cụ thể cần quy định trong Luật. |
Công an thành phố Hà Nội: bổ sung như sau:
- Là người mà các cơ quan chức năng có tài liệu chứng minh hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (biên bản vi phạm hành chính, kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy..) nhưng cơ quan y tế chưa đủ căn cứ xác định tình trạng nghiện hoặc chưa tiến hành xác định tình trạng nghiện.
- Những người có tài liệu phản ánh về việc sử dụng trái phép chất ma túy (lời khai của các đối tượng, tự nhận mình sử dụng ma túy, có đơn tố giác về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy…)
vì theo quy định của pháp luật hiện nay, khi xác định một người là người sử dụng trái phép chất ma túy, thì ngoài xét nghiệm dương tính với chất ma túy, còn cần có các tài liệu chứng minh hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của người đó.
- Khoản 3 nên đưa về Điều 26 và cần cụ thể hóa trong Luật các biện pháp cưỡng chế trong quá trình áp dụng.
|
Đề nghị không bổ sung
|
Công an tỉnh Quảng Ngãi: Tại khoản 3 thì việc cưỡng chế xét nghiệm để xác định người sử dụng trái phép chất ma túy có liên quan đến quyền con người, do đó đề nghị dự thảo Luật quy định rõ trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền quyết định cưỡng chế thực hiện xét nghiệm để xác định người sử dụng trái phép chất ma túy hoặc giao Chính phủ quy định. |
Nghiên cứu |
Công an tỉnh Nghệ an: Đề nghị bổ sung thêm trường hợp xác định người sử dụng trái phép chất ma túy: “Quá trình điều tra, xác minh có căn cứ khẳng định người sử dụng trái phép chất ma túy”. |
Đề nghị không bổ sung, không đảm bảo căn cứ |
Bộ Y tế: Đề nghị sửa như sau: “Điều 25: Các trường hợp xác định người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy.
2. Qua kiểm tra hoặc xét nghiệm xác định người có dương tính với chất ma túy mà không chứng minh được việc sử dụng chất ma túy đó là hợp pháp.”
|
Nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện điều luật |
|
Điều 26. Quy định của Nhà nước về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2. Giám sát, quản lý, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy để họ không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và kịp thời ngăn chặn các hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội.
|
Bộ Tư pháp:
- Về quy định của Nhà nước về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túydự thảo Luật quy định nội dung này theo hướng viện dẫn sang Luật xử lý vi phạm hành chính. Đề nghị quy định cụ thể các biện pháp quản lý, phòng, chống ma túy cho các đối tượng sử dụng ma túy trái phép phù hợp với từng độ tuổi và tính chất, mức độ, mục đích của phòng, chống ma túy đối với đối tượng này, không nên quy định theo hướng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Trường hợp xác định việc sử dụng ma túy là hành vi trái pháp luật, cần phải có chế tài xử lý hành chính thì tại Luật xử lý vi phạm hành chính sẽ quy định các biện pháp, hình thức xử phạt phù hợp và bảo đảm thống nhất với các quy định tại Luật này.
Bên cạnh đó, tại Khoản 2 dự thảo Luật chưa quy định cụ thể việc giám sát, quản lý, giáo dục; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm giám sát, quản lý, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể về những vấn đề nêu trên để bảo đảm đầy đủ, toàn diện và bảo đảm tính khả thi.
|
Nghiên cứu, bổ sung
|
UBND tỉnh Lạng Sơn: đề nghị bổ sung thêm khoản quy định: Người nghiện ma túy sau khi bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính bằng hình thức cai nghiện bắt buộc mà vẫn tiếp tục sử dụng ma túy thì sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự.
Tại khoản 2 đề nghị cần xác định rõ tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát, quản lý, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy.
|
- Đề nghị không bổ sung, không phù hợp với quốc tế
- Nghiên cứu
|
Công an tỉnh Vĩnh Long: tên Điều bỏ cụm từ “của nhà nước”. |
Tiếp thu |
UBND TP Hồ Chí Minh: Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì các biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ áp dụng đối với đối tượng là người nghiện ma túy, không quy định biện pháp xử lý hành chính đối với người sử dụng trái phép chất ma túy. Hiện nay hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự…Do đó để đảm bảo chặt chẽ và phù hợp với quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, đề nghị điều chỉnh Khoản 1: “ Người nghiện ma túy, người sử dụng trái phép chất ma túy bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính” |
Nghiên cứu |
Công an TP Cần Thơ: đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định xử lý hình sự với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy |
Đề nghị không bổ sung vì không phù hợp |
UBND và Công an TP Hải Phòng: bổ sung Khoản 2 “…và kịp thời ngăn chặn các hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội, trong thời gian 06 tháng nếu tái phạm thì áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn”. |
Đề nghị không bổ sung |
Học viện Cảnh sát nhân dân: Khoản 1 cần cân nhắc thêm về việc có áp dụng biện pháp xử lý hình sự đối với những người sử dụng trái phép chất ma túy đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà vẫn tái nghiện. |
Đề nghị không bổ sung vì không phù hợp |
Công an tỉnh Phú Yên: Khoản 1 đề nghị bổ sung như sau: “Người sử dụng trái phép chất ma túy có thể bị xử lý hình sự hoặcbị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính”. |
Đề nghị không bổ sung |
Công an tỉnh Nghệ An: Khoản 1 sửa đổi như sau: “Người sử dụng trái phép chất ma túy bị xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp đủ điều kiện áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của Luật Xử lý VPHC thì áp dụng”. |
Đề nghị không bổ sung, dự thảo Luật không còn quy định |
Công an tỉnh Hòa Bình: Khoản 1 đề nghị sửa lại thành: “Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính”. |
Đề nghị không bổ sung vì đã quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính |
27 |
Điều 27. Trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy, gia đình, cơ quan, tổ chức
1. Người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm:
a) Tự khai báo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) hoặc Công an cấp xã nơi cư trú;
b) Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển nơi cư trú có trách nhiệm thông báo cho Công an cấp xã nơi cư trú và nơi đến biết để theo dõi, quản lý.
2. Gia đình người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm:
a) Theo dõi, quản lý, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy không sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Kịp thời báo với cơ quan chức năng khi phát hiện người thân tiếp tục có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngăn chặn người sử dụng trái phép chất ma túy có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội;
c) Hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền và đóng góp một phần kinh phí đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm báo tin ngay cho cơ quan Công an nơi gần nhất.
|
Bộ Tư pháp: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc tên gọi và nội dung tại Điều này, vì Điều 25 dự thảo Luật đã quy định 3 tiêu chí để xác định được người sử dụng trái phép chất ma túy, theo đó, việc quy định trách nhiệm người sử dụng trái phép chất ma túy tự khai báo về hành vi của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc… là khó khả thi trên thực tiễn áp dụng.
Đối với quy định gia đình người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền và đóng góp một phần kinh phí đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm tại dự thảo Luật, Bộ Tư pháp nhận thấy, dự thảo Luật chưa quy định rõ mức hỗ trợ một phần kinh phí, cơ chế thực hiện việc hỗ trợ, đóng góp giữa gia đình và cơ quan có thẩm quyền, do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo quy định cụ thể nội dung này để bảo đảm tính minh bạch của quy định.
|
Nghiên cứu, tiếp thu |
UBND tỉnh và Công an tỉnh Kom Tum tham gia tại điểm b nên quy định thêm “Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú và người thi hành công vụ để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy” cho phù hợp với Khoản 3, điều 25 |
Đề nghị không bổ sung vì đây là xét nghiệm để theo dõi, quản lý người sử dụng khác với trường hợp Khoản 3 Điều 25 |
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao:
Đề nghị chỉnh lý các điểm b và điểm c khoản 1 Điều này theo hướng cụ thể như sau:
“1. Người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm:…
b) Người sử dụng trái phép chất ma túy phải Chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túyKhi chuyển nơi cư trú có trách nhiệm thông báo về hành vi sử dụng chất ma túy của mìnhcho Công an cấp xã nơi cư trú và nơi đến biết để theo dõi, quản lý.”
- Đề nghị bổ sung khoản 2 Điều này chỉnh lý cụ thể: “Gia đình có người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm”.
|
Tiếp thu
|
Bộ Quốc phòng:
Khoản 3 bổ sung cụm từ “Bộ đội Biên phòng” vào sau cụm từ “cơ quan Công an”, vì Bộ đội Biên phòng có thẩm quyền điều tra đối với các tội tổ chức sử dụng và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Điều 27 và Điều 30, bỏ nội dung quy định cá nhân tự khai báo về việc sử dụng ma túy, vì không khả thi; đồng thời, việc này thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
UBND tỉnh Lào Cai: Điểm b, Khoản 1 đề nghị thay đổi cụm từ “… của Công an xã nơi cư trú…” thành “… của cơ quan chức năng có thẩm quyền…” |
Tiếp thu một phần. Đề nghị giữ cụm từ “Công an xã” và bổ sung cụm từ “ hoặc cơ quan chức năng có thẩm quyền” |
UBND tỉnh và Công an tỉnh Hà Giang:
- Điểm b, khoản 1 đề nghị sửa thành: “Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc quản lý, theo dõi và xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan chức năng để xác định tình trạng nghiện ma túy theo quy định”.
- Điểm c, khoản 1 đề nghị sửa thành: “Người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển nơi cư trú thì Công an cấp xã nơi chuyển đi có trách nhiệm thông báo với Công an cùng cấp nơi chuyển đến để phối hợp theo dõi, quản lý”.
|
Tiếp thu, phù hợp hơn.
|
UBND TP Hải Phòng: điểm c khoản 2 đề nghị xem xét bổ sung quy định giải thích “gia đình người sử dụng trái phép chất ma túy” và mức kinh phí mà gia đình phải có trách nhiệm đóng góp hoặc giao thẩm quyền quy định chi tiết về mức kinh phí này để có cơ sở thực hiện trên thực tế. |
Nghiên cứu |
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an:
- Điểm a, khoản 1 không khả thi đề nghị chỉnh lý.
- Điểm b, khoản 1 dự thảo nêu “theo yêu cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú” là không hợp lý vì còn nhiều cơ quan cá nhân khác có thẩm quyền yêu cầu người sử dụng trái phép chất ma túy xét nghiệm, đề nghị sửa “theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền”. dự thảo nêu “để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy” là không hợp lý, cụm từ này chỉ phù hợp nếu dùng với “người nghi sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Điểm c, khoản 1 dự thảo nêu “Công an cấp xã nơi cư trú và nơi đến” chưa rõ, nên thay bằng “nơi đi và nơi đến”.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì gắn với trách nhiệm của Công an cấp xã, bổ sung “cơ quan có thẩm quyền”
- Không còn quy định này trong dự thảo Luật
|
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: điểm a, khoản 2 “Theo dõi, quản lý, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy chấm dứt việc sử dụng trái phép chất ma túy”. |
Tiếp thu, vì rõ nghĩa và phù hợp hơn. |
Công an tỉnh Tuyên Quang: Điểm b, khoản 1 đề nghị bổ sung cụm từ “cơ quan có thẩm quyền yêu cầu xét nghiệm” thành “Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu xét nghiệm,công an cấp xã nơi cư trú để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy;” |
Tiếp thu, đầy đủ và chặt chẽ hơn. |
Công an tỉnh Ninh Bình: Điểm b, khoản 1 đề nghị bỏ cụm từ “cấp xã”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an thành phố Hà Nội: Điểm b Khoản 1 bổ sung như sau: “ Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm theo yê cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy. Trường hợp khi có căn cứ xác định người sử dụng ma túy không tự giác khai báo việc sử dụng trái phép chất ma túy của mình với cơ quan chức năng hoặc có hành vi chống đối khi có yêu cầu xét nghiệm sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế”. |
Nghiên cứu |
Học viện an ninh: dự thảo quy định về trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy, gia đình, cơ quan, tổ chức nhưng chưa đề cập đến trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy đang học tập, công tác hoặc đang quản lý họ nên chưa mang tính chặt chẽ, cần bổ sung trách nhiệm của cơ quan, tổ chức như sau:
a) Theo dõi, quản lý, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy không sử dụng trái phép chất ma túy.
b) Phối hợp với gia đình, cơ quan có thẩm quyền đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi cai nghiện.
|
Nghiên cứu, tiếp thu |
Công an tỉnh Hải Dương: khoản 2 về nội dung “đóng góp một phần kinh phí đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm” đề nghị bổ sung quy định “Chính phủ quy định chi tiết điều này” |
Nghiên cứu, quy định nhà nước đảm bảo kinh phí vì thực tế nếu thu tiền trong trường hợp này tính khả thi không cao. |
Công an tỉnh Vĩnh Phúc: Khoản 1 điểm b,c đề nghị bỏ cụm từ “Người sử dụng trái phép chất ma túy” để phù hợp thống nhất cách trình bày:
b) Phải chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Khi chuyển nơi cư trú có trách nhiệm thông báo cho Công an cấp xã nơi cư trú và nơi đến biết để theo dõi, quản lý.
|
Tiếp thu, đảm bảo về hình thức và văn phong trong luật |
Công an tỉnh Bắc Giang: bổ sung điểm b, Khoản 1: “nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế để xét nghiệm”. |
Cần nghiên cứu thêm |
Công an tỉnh Vĩnh Long: điểm a, Khoản 1 “Tự khai báo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc, và Công an xã, phường, thị trấn ( Công an cấp xã) nơi cư trú”. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
UBND tỉnh Đồng Nai: điểm b Khoản 1 đề nghị bổ sung: “Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú hoặc Công an nơi phát hiện người đó nghi sử dụng trái phép chất ma túy để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy” |
Đề nghị không bổ sung |
Học viện Cảnh sát nhân dân: Điểm c, Khoản 2 quy định người sử dụng trái phép chất ma túy đóng góp một phần kinh phí đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm. Trên thực tiễn là rất khó thực hiện đối với những trường hợp cưỡng chế đi xét nghiệm ma túy. |
Nghiên cứu |
Công an tỉnh Hà tĩnh: Điểm b, Khoản 1 quy định này còn bất cập vì việc xét nghiệm để “xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy” đối với chủ thể đã là “Người sử dụng trái phép chất ma túy” là không phù hợp. |
Nghiên cứu |
Công an tỉnh Phú Yên: Điểm b, Khoản 1 đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: “Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan Công an và cơ quan khác có thẩm quyền để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy. |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Kon Tum: Điểm b, Khoản 1 bổ sung: “ Người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan Công an cấp xã nơi cư trú và người thi hành công vụ để xác định có hay không việc sử dụng trái phép chất ma túy”. |
Đề nghị không bổ sung |
28 |
Điều 28. Thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Công an cấp xã thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú trên địa bàn quản lý.
2. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bị phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà người đó không còn sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách thống kê.
3. Bộ Công an có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn thực hiện việc thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy.
|
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị sửa “Công an cấp xã thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn quản lý”. Vì thực tế Công an cấp xã phải quản lý cả những người nghiện ma túy không nơi cư trú ở xã. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Bắc Giang: Khoản 2 bổ sung “Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bị phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà không có thêm tài liệu chứng minh người đó tiếp tụccó hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách thống kê”. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
Công an tỉnh Nghệ an: khoản 1 không có nội dung quy định về việc quản lý của Công an cấp xã đối với người sử dụng trái phép chất ma túy. Đề nghị quy định Công an cấp xã là lực lượng nòng cốt trong việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú trên địa bàn. Cán bộ y tế cấp xã, đại diện thôn, xóm, khối phố, cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy công tác, học tập, gia đình của người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm phối hợp để quản lý. Đồng thời quy định cụ thể các biện pháp Công an cấp xã có thẩm quyền áp dụng như: yêu cầu xét nghiệm chất ma túy, triệu tập đến trụ sở cơ quan để làm việc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý đối tượng tại địa bàn cơ sở.
Đối với các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy hoạt động lưu động, không thường xuyên có mặt tại nơi cư trú, cần có những quy định thống kê, quản lý phù hợp, có tính khả thi.
|
Nghiên cứu
|
Công an TP Hà Nội:
- Bổ sung vào Khoản 1: Công an cấp xã lập hồ sơ, thống kê và quản lý
- Không đồng ý với quan điểm nêu tại khoản 2, bổ sung các tiêu chí đưa ra khỏi danh sách thống kê quản lý của địa phương như sau:
+ Vắng mặt tại địa phương trên 3 năm
+ Thi hành án phạt tù có thời hạn trên 3 năm
+ Chết
+ Trong thời hạn 02 năm kể từ ngày bị phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà có tài liệu xác định người đó không còn sử dụng trái phép chất ma túy.
|
Nghiên cứu
|
29 |
Chương V Cai nghiện ma túy |
Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Chương V chưa có quy định về căn cứ xác định người nghiện ma túy.
Có thể xác định một số trường hợp như: người nghiện ma túy tự khai báo, gia đình của người nghiện ma túy khái báo hoặc đã bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần trong khoảng thời gian nhất định hoặc các quy định khác dựa trên cơ sở chẩn
|
Nghiên cứu, pháp điển từ Nghị định 136
|
Bộ Tư pháp: Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc thiết kế lại Chương V về cai nghiện ma túy theo hướng: 1) quy định rõ nguyên tắc, các hình thức, biện pháp cai nghiện ma túy; 2) đối với từng hình thức cai nghiện cần quy định rõ đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng, thời hạn, tổ chức thực hiện. Trong trường hợp các luật khác có quy định nội dung này và phù hợp thì dự thảo Luật chỉ quy định các nội dung cơ bản và viện dẫn tới các quy định cụ thể có liên quan để bảo đảm tính thống nhất. |
Nghiên cứu |
Cục Cảnh sát giao thông, BCA: đề nghị bổ sung quy định về “cai nghiện ma túy đối với người nước ngoài”. |
Tiếp thu
|
UBND và Công an TP Hải Phòng:
+ Đề nghị sửa tên chương thành “Điều trị nghiện chất ma túy”
+ Đề nghị bỏ Điều 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 42
+ Đề nghị bổ sung điều quy định về xác định người nghiện ma túy, thời gian rà soát định kỳ với người sử dụng ma túy để xác định tình trạng nghiện, phục vụ việc thống kê người nghiện ma túy.
|
- Nghiên cứu
- Đề nghị giữ các điều như dự thảo
- Nghiên cứu, tiếp thu
|
Bộ Y tế:
- Đề nghị bổ sung Điều về Xác định người nghiện ma túy.
- Đề nghị sửa tên Chương thành “Cai nghiện và điều trị nghiện ma túy” vì:
+ “nghiện là một bệnh não mãn tính, tái phát cần được điều trị lâu dài” quan điểm này đã được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 19 Nghị định 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế nên cần được luật hóa.
+ Đối với đối tượng là người nghiện ma túy bên cạnh công tác cai nghiện thuộc ngành LĐTBXH còn có hoạt động về “điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện” quy định tại Nghị Định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/6/2017. Nhiệm vụ này cũng được thể hiện trong QĐ số 291/QĐ-TTg ngày 21/2/2020 của TTCP ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.TTCP giao Bộ Y tế “chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone”.
+ Bộ Y tế đã xây dựng Hướng dẫn can thiệp lạm dụng ma túy dạng Amphetamine và Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các rối loạn tâm thần thường gặp do sử dụng MTTH dạng Amphetamine. Bộ Y tế cũng sẽ tiếp tục cập nhật bổ sung các hướng dẫn chuyên môn về điều trị nghiện ma túy hoặc can thiệp về lạm dụng ma túy khi có các khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới dựa trên bằng chứng khoa học.
- Đề nghị bổ sung Điều Chính sách về điều trị nghiện
|
- Tiếp thu
- Đề nghị giữ nguyên tên chương như dự thảo
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: đề nghị bổ sung Điều vềXác định người nghiện ma túy, cụ thể:
1. Việc xác định người nghiện ma túy được áp dụng đối với các trường hợp quy định tại điểm b và c khoản 1 Điều … của Luật này.
2. Giám đốc Trung tâm y tế cấp huyện; Giám đốc cơ sở cai nghiện thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy.
3. Trình tự, thủ tục và hồ sơ đề nghị xác định người nghiện ma túy:
a) Khi phát hiện người sử dụng trái phép chất ma túy thuộc các trường hợp quy định tại điểm b và c khoản 1 Điều … của Luật này, cơ quan lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị xác định người nghiện ma túy gửi Giám đốc trung tâm y tế cấp huyện; Giám đốc cơ sở quản lý người sử dụng ma túy chưa xác định được nơi cư trú;
b) Trưởng khoa khám bệnh thuộc trung tâm y tế cấp huyện, Trưởng phòng y tế thuộc cơ sở quản lý người sử dụng ma túy chưa xác định được nơi cư trú có trách nhiệm giúp Giám đốc trung tâm y tế, Giám đốc cơ sở quản lý người sử dụng ma túychưa xác định được nơi cư trú trong việc thẩm định hồ sơ xác định người nghiện ma túy.
c) Trong thời hạn 5 ngày làm việc, Giám đốc Trung tâm y tế cấp huyện; Giám đốc cơ sở quản lý người sử dụng ma túy chưa xác định được nơi cư trú phải có văn bản xác định người nghiện ma túy.
d) Hồ sơ đề nghị xác định người nghiện ma túy gồm:
- Văn bản đề nghị xác định nghiện ma túy;
- Biên bản về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; - Tài liệu chứng minh người sử dụng ma túy trái phép thuộc trường hợp quy định tại điểm b và c khoản 1 Điều … của Luật này.
4. Bộ Y tế quy định cụ thể về tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện chất; quy trình chuyên môn xác định người nghiện ma túy.
|
Nghiên cứu, tiếp thu, có chỉnh sửa, mở rộng người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện theo quy định hiện hành.
|
30 |
Điều 29. Chính sách của Nhà nước về cai nghiện ma túy
1. Áp dụng chế độ cai nghiện đối với người nghiện ma túy, khuyến khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện.
2. Tổ chức cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc.
3. Khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện việc cai nghiện tự nguyện cho người nghiện ma túy; hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, sau cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy.
4. Hỗ trợ kinh phí thực hiện cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy.
5. Tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hỗ trợ, đầu tư vào hoạt động cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
|
Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật quy định “hỗ trợ kinh phí thực hiện cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy”, tuy nhiên, Bộ Tư pháp nhận thấy, quy định này chưa thực sự phù hợp với mục tiêu tại chính sách khuyến khích xã hội hóa công tác cai nghiện tự nguyện là giảm đầu tư, chi ngân sách của Nhà nước. Theo đó, để có cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá rõ hơn về tính khả thi, các tác động tích cực, tiêu cực về kinh tế, xã hội cũng như chi phí của quy định này đối với kinh phí Nhà nước. |
Nghiên cứu |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: đề nghị sửa khoản 5 “Tổ chức, cá nhân trong nướcvà nước ngoài hỗ trợ, đầu tư vào hoạt động …” |
Tiếp thu |
Cục Kế hoạch và tài chính, BCA: Khoản 3 đề nghị bỏ cụm từ sau cai nghiện ma túy “…hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, sau cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy;.. ”. Theo quy định của Luật Xử lý VPHC biện pháp quản lý sau cai đã được bãi bỏ, đồng thời việc hỗ trợ sau cai thuộc hoạt động của phòng, chống tái nghiện ma túy. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo đây là hỗ trợ sau khi hoàn thành cai nghiện, không phải là biện pháp quản lý sau cai nghiện |
Công an thành phố Hà Nội: Khoản 5 Điều 29 và điểm d, Khoản 1, Điều 43 sửa câu “Tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài” thành “tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài”. |
Tiếp thu |
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: đề nghị sửa đổi như sau:
1. Áp dụng chế độ cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy; khuyến khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện.
2. Tổ chức cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc. Xây dựng hệ thống dịch vụ hỗ trợ đối với người tự nguyện cai nghiện, người sau cai nghiện ma túy ở cộng đồng.
3. Đảm bảo kinh phí tổ chức cai nghiện bắt buộc; hỗ trợ kinh phí đối với người nghiện tự nguyện cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và tại cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc.
4. Khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức, tham gia thực hiện việc cai nghiện tự nguyện cho người nghiện ma túy; hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, sau cai nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy.
5. Tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài đầu tư vào hoạt động cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy, phòng, chống tái nghiện được miễn giảm tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định cụ thể chính sách ưu đãi theo quy định tại Khoản 5 Điều này".
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
UBND TP Hải Phòng:
- Đề nghị sửa đổi như sau:
“3. Khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện việc điều trị nghiện tự nguyện cho người nghiện ma túy; hỗ trợ hoạt động điều trị nghiện chất ma túy, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng và phòng, chống tái nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp điều trị nghiện chất ma túy.
4. Hỗ trợ kinh phí thực hiện điều trị nghiện ma túy; hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng và phòng, chống tái nghiện ma túy”
- Khoản 4 chưa quy định mức hỗ trợ kinh phí và trình tự thủ tục đối với việc hỗ trợ kinh phí, đề nghị nghiên cứu, bổ sung hoặc giao thẩm quyền quy định chi tiết nội dung này.
|
Nghiên cứu
|
31 |
Điều 30. Trách nhiệm người nghiện ma túy, gia đình và Ủy ban nhân dân cấp xã
1. Người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a) Tự khai báo về tình trạng nghiện ma túy của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc Ủy ban nhân dân cấpxã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) nơi cư trú và tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy;
b) Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về cai nghiện ma túy.
2. Gia đình người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a) Khai báo với Ủy ban nhân dân cấp xã về người nghiện ma túy trong gia đình mình và đăng ký hình thức cai nghiện cho người đó;
b) Động viên, giúp đỡ và quản lý người nghiện ma túy cai nghiện tại cơ sở cai nghiện, tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng theo sự hướng dẫn, giám sát của cán bộ y tế và Ủy ban nhân dân cấp xã;
c) Theo dõi, giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn người nghiện sử dụng trái phép chất ma túy hoặc có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội;
d) Hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện và đóng góp kinh phí cai nghiện theo quy định của pháp luật.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức cho người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy khai báo về tình trạng nghiện ma túy và đăng ký hình thức cai nghiện.
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: hiện tại Luậtquy định Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm: tổ chức cho người nghiện khai báo và đăng ký thức cai nghiện; tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng. Quy định này không phù hợp với thực tiễn, trong 20 năm thi hành Luật không có người nghiện nào tự khai báo; Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cai nghiện kém hiệu quả cần thay đổi mô hình tổ chức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng. Để phù hợp, không chồng chéo trách nhiệm của cơ quan quản lý điều này chỉ quy định trách nhiệm của người nghiện ma túy và gia đình người nghiện ma túy, cụ thể là:
“Điều…Trách nhiệm của người nghiện, gia đình người nghiện ma túy
1. Người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a) Thực hiện các quy định của pháp luật về cai nghiện ma túy và tuân thủ các hướng dẫn của cơ quan chuyên môn về cai nghiện ma túy;
b) Đóng tiền sử dụng dịch vụ cai nghiện theo quy định của pháp luật.
2. Gia đình người nghiện ma túy có trách nhiệm:
- Hỗ trợ người nghiện ma túy trong quá trình cai nghiện và hòa nhập cộng đồng sau cai nghiện ma túy;
- Phối hợp với các cơ quan trong việc lập hồ sơ áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc và thực hiện các hoạt động về cai nghiện.
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật quy định người nghiện ma túy có trách nhiệm khai báo và tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy (khoản 1) và Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức cho người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy khai báo về tình trạng nghiện ma túy và đăng ký hình thức cai nghiện (khoản 3). Bộ Tư pháp nhận thấy, Điều này quy định người nghiện ma túy tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy và chưa có sự thống nhất với các đối tượng cai nghiện cũng như biện pháp cai nghiện tại Điều 33, Điều 34 và Điều 35 dự thảo Luật. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc rà soát, chỉnh lý lại để bảo đảm tính thống nhất của nội dung. |
Nghiên cứu |
- Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Khoản 1: người nghiện ma túy có trách nhiệm khai báo với cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã. Cần cân nhắc quy định như vậy có phù hợp không vì trong cả 2 trường hợp, Công an xã đều là cơ quan có trách nhiệm thống kê, lập hồ sơ theo dõi, quản lý. |
Không còn quy định trong dự thảo Luật |
- UBND TP Hồ Chí Minh: các Điều 30, 36 và 41 điều chỉnh theo hướng quy định thành 02 Điều luật quy định về (1) Trách nhiệm của người nghiện ma túy và gia đình và (2) Trách nhiệm của UBND các cấp. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
- Điểm a khoản 1: Tự khai báo với UBND cấp xã nơi cư trú và tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy;
- Điểm a khoản 2: Khai báo với UBND cấp xã về người nghiện ma túy trong gia đình mình và đăng ký hình thức cai nghiện ma túy cho người đó trong trường hợp người nghiện ma túy không tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy.
- Điểm b khoản 2: Động viên, giúp đỡ và quản lý người nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện, tại gia đình và tạicộng đồng theo sự hướng dẫn, giám sát của cán bộ y tế và Ủy ban nhân dân cấp xã;
- Điểm c khoản 2: Theo dõi, giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn người nghiện ma túy hoặc có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội;
|
Nghiên cứu
|
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an: điểm a, khoản 1 không khả thi đề nghị chỉnh lý. |
Tiếp thu |
Thành viên ban soạn thảo, Đ/c Nguyễn Thái Bình, PCT Cục Hậu Cần: Điểm a Khoản 1 đề nghị bỏ từ “hoặc”, vì người nghiện ma túy ngoài việc khai báo với đơn vị còn phải khai báo với chính quyền địa phương nơi cư trú để quản lý để quản lý, theo dõi, đồng thời cũng để thống nhất với quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 27. |
Nội dung này không còn quy định trong dự thảo Luật |
Công an tỉnh Hà Nam: khoản 1 đề nghị sửa như sau “Tự khai báo về tình trạng người nghiện ma túy của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc, Ủy ban nhân dân cấpxã hoặc Công an cấp xã nơi cư trú và tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy” |
Nội dung “Tự khai báo về tình trạng nghiện” không còn quy định trong dự thảo Luật |
Công an thành phố Hà Nội:
- Điểm a Khoản 1 bổ sung: “tự khai báo về tình trạng nghiện ma túy của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an cấp xã nơi cư trú và tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy”.
- Điểm c Khoản 1 bổ sung: “người nghiện ma túy khi chuyển nơi cư trú có trách nhiệm thông báo cho Công an cấp xã nơi cư trú và nơi đến biết để theo dõi, quản lý”.
|
- Nội dung “Tự khai báo về tình trạng nghiện” không còn quy định trong dự thảo Luật
- Nghiên cứu
|
Công an tỉnh Quảng Ninh:
- Điểm a Khoản 1: cụm từ “Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã)” sửa thành “Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã)”.
- Điểm a Khoản 2: cụm từ “Khai báo với Ủy ban nhân dân cấp xã về người nghiện ma túy trong gia đình mình” sửa thành “Khai báo với Ủy ban nhân dân cấp xã về người nghiện ma túy trong gia đình” bỏ chữ “mình”.
|
Nội dung này không còn quy định trong dự thảo Luật
|
Công an tỉnh Hải Dương: khoản 2 về nội dung “đóng góp kinh phí cai nghiện” đề nghị bổ sung quy định “Chính phủ quy định chi tiết điều này” |
Nghiên cứu |
Công an tỉnh Sơn La: Điểm a, khoản 1 đề nghị bỏ cụm từ: “sau đây gọi chung là cấp xã” vì đã được quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 27. |
Nội dung này không còn quy định trong dự thảo Luật |
32 |
Điều 31. Thống kê người nghiện ma túy
1. Công an cấp xã lập hồ sơ quản lý, theo dõi và thống kê người nghiện ma túy cư trú trên địa bàn quản lý.
2. Người nghiện ma túy trong thời gian 03 năm kể từ ngày kết thúc một hình thức cai nghiện mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách người nghiện.
3. Bộ Y tế có trách nhiệm thống kê người nghiện ma túy đang tham gia chương trình điều trị nghiện bằng thuốc thay thế.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm thống kê người nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện.
5. Bộ Công an có trách nhiệm thống kê người nghiện cư trú ngoài xã hội, trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục và tổng hợp số liệu người nghiện trong toàn quốc.
|
UBND TP Hải Phòng: đề nghị làm rõ căn cứ khoa học của khoản 2. |
Nghiên cứu |
UBND tỉnh Tây Ninh, đề nghị điều chỉnh Khoản 2: “Người nghiện ma túy trong thời gian 02 năm kể từ ngày kết thúc một hình thức cai nghiện mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách người nghiện” |
Nghiên cứu, tiếp thu |
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị sửa
- Khoản 2 “Người nghiện ma túy trong thời gian 02 năm kể từ ngày kết thúc một hình thức cai nghiện mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách người nghiện”.
- Khoản 3 đề nghị thay đổi cụm từ “điều trị nghiện” thành “cai nghiện”
|
Nghiên cứu, tiếp thu
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
Bộ Y tế: Khoản 2 đề nghị bổ sung “…kể từ ngày kết thúc một hình thức cai nghiệnhoặc điều trị nghiện mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách người nghiện”. |
Nghiên cứu |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: đề nghị bổ sung chỉnh sửa:
- Khoản 2: Người nghiện ma túy trong thời gian 03 năm kể từ ngàyngười nghiện ma túy kết thúc một hình thức cai nghiện mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách người nghiện.
- Khoản 3: Bộ Y tế có trách nhiệm thống kê người nghiện ma túy đang tham gia chương trình điều trị cainghiện ma túybằng thuốc thay thế.
- Khoản 5: Bộ Công an có trách nhiệm thống kê người nghiệnma túy cư trú ngoài xã hội, trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục và tổng hợp số liệu người nghiệnma túy trong toàn quốc.
|
-Đề nghị không bổ sung
- Đề nghị không bổ sung
- Tiếp thu bổ sung từ “ma túy”
|
UBND tỉnh và Công an tỉnh Kom Tum bổ sung khoản 1 cụm từ “người tái nghiện ma túy” sau câu “Công an cấp xã lập hồ sơ quản lý, theo dõi và thống kê người nghiện ma túy” vì hiện nay số người tái nghiện sau cai nghiện chiếm tỉ lệ rất cao, do đó phối hợp với những đối tượng này cần có chính sách phù hợp. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì tái nghiện là người nghiện. |
Cục Kế hoạch và tài chính, BCA: Hiệu chỉnh cụm từ “cơ sở giáo dục” thành “cơ sở giáo dục bắt buộc” để tránh nhầm lẫn đối với các cơ sở giáo dục nói chung và phù hợp với Luật xử lý vi phạm hành chính. |
Tiếp thu |
UBND tỉnh Đồng Nai: khoản 2 đề nghị thay từ “người nghiện” bằng từ “quản lý”: “…mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa ra khỏi danh sách quản lý”. |
Nghiên cứu |
Công an TP Hà Nội:
- Khoản 2 bổ sung các tiêu chí đưa ra khỏi danh sách thống kê, quản lý của địa phương như sau:
+ Vắng mặt tại địa phương trên 3 năm
+ Thi hành án phạt tù có thời hạn trên 5 năm
+ Chết
+ Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày kết thúc một hình thức cai nghiện mà có tại liệu xác định người đó không còn sử dụng trái phép chất ma túy.
|
Nghiên cứu |
Công an TP Cần Thơ: đề nghị nghiên cứu biểu mẫu thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy và người nghiện ma túy. |
Đề nghị không bổ sung, nội dung này quy định trong văn bản của Chính phủ |
Công an tỉnh Quảng Ngãi: Khoản 5 đề nghị bổ sung như sau: “…, trại giam, trường giáo dưỡng, nhà trường và cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục bắt buộc và tổng hợp số liệu người nghiện trong toàn quốc.” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
33 |
Điều 32. Các biện pháp và hình thức cai nghiện ma túy
1. Các biện pháp cai nghiện ma túy bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tự nguyện;
b) Cai nghiện ma túy bắt buộc.
2. Các hình thức cai nghiện ma túy bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tại gia đình;
b) Cai nghiện ma túy tự nguyện tại cộng đồng;
c) Cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện.
|
Công an tỉnh Bình Dương: điểm b Khoản 2 bổ sung “Cai nghiện ma túy tại cộng đồng (trong đó có hình thức điều trị cắt cơn băng thuốc thay thế methadone tại các trung tâm điều trị)”. |
Đề nghị không bổ sung |
UBND và Công an TP Hải Phòng: đề nghị sửa thành: “các biện pháp điều trị nghiện chất ma túy do Chính phủ quy định”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Bộ Tư pháp: Tại Mục 75 Phụ lục 4 Luật Đầu tư quy định kinh doanh dịch vụ cai nghiện ma túy tự nguyện là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa đề cập đến cai nghiện ma túy tự nguyện, do đó, đề nghị rà soát để bổ sung nội dung liên quan đến điều kiện kinh doanh dịch vụ cai nghiện tự nguyện tại Luật này bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Đầu tư. |
Nghiên cứu |
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:
- Thống nhất với dự thảo về biện pháp cai nghiện (tự nguyện, bắt buộc) và không quy định biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng. Thực tiễn cho thấy, quy định cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định là không phù hợp với thực tế (cơ sở vật chất, cán bộ chuyên môn), không khả thi.
- Theo quy định hiện hành, có 3 hình thức cai nghiện (tại gia đình, cộng đồng và cơ sở cai nghiện). Thực tế, hình thức cai nghiện tại gia đình và cai nghiện tại cộng đồng về bản chất chỉ là một hình thức (người nghiện tự nguyện cai nghiện với sự hỗ trợ, quản lý của gia đình họ và các tổ chức đoàn thể, chính quyền cấp xã). Do vậy, nên gộp hai hình thức này thành hình thức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng (Điểm a Khoản 2) để làm cơ sở cho việc quy định việc tổ chức thực hiện hình thức cai nghiện này. Đồng thời, làm rõ hơn đối với hình thức cai nghiện tập trung (các dịch vụ điều trị, cai nghiện, hỗ trợ được cung cấp tại 1 cơ sở khép kín) tại cơ sở cai nghiện bắt buộc (công lập) và cơ sở cai nghiện tư nhân (điểm b khoản 2).
- Biện pháp cai nghiện tự nguyện được áp dụng đối với cả tất cả các hình thức cai nghiện (Điều 33, 34); biện pháp cai nghiện bắt buộc chỉ áp dụng đối với hình thức cai nghiện tập trung tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
“Điều …Các biện pháp và hình thức cai nghiện ma túy
1. Các biện pháp cai nghiện ma túy bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tự nguyện;
b) Cai nghiện ma túy bắt buộc.
2. Các hình thức cai nghiện ma túy bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng;
b) Cai nghiện ma túy tập trung tại cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc và cơ sở cai nghiện ma túy do tư nhân đầu tư, thành lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoạt động (sau đây gọi là cơ sở cai nghiện tư nhân)".
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
34 |
Điều 33. Biện pháp cai nghiện ma túy tự nguyện
1. Biện pháp cai nghiện tự nguyện được áp dụng với người nghiện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc cơ sở cai nghiện.
2. Người nghiện ma túy và gia đình đăng ký hình thức cai nghiện tự nguyện phù hợp và đóng góp kinh phí. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho các trường hợp cai nghiện tự nguyện.
3. Thời hạn cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tự nguyện tại cộng đồng, cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện từ sáu tháng đến mười hai tháng.
4. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện tại cộng đồng, hướng dẫn, hỗ trợ cai nghiện ma túy tại gia đình.
5. Chính phủ quy định chi tiết về cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện tự nguyện ma túy tại cộng đồng và cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện.
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:
- Về cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng: Theo quy định hiện hành, việc tổ chức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng được giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã. Qua thực tiễn gần 20 năm triển khai cho thấy quy định này không khả thi, thể hiện ở các điểm sau: (1) Về nguyên tắc, cai nghiện là việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về tâm lý, xã hội, y tế mang tính chuyên môn kỹ thuật và ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng con người, vì vậy phải do các cơ quan chuyên môn đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn thực hiện, trong khi Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính, không phải là đơn vị cung cấp dịch vụ. (2) Các dịch vụ hỗ trợ tâm lý, xã hội, y tế cơ bản ở cộng đồng hiện nay không thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nên việc huy động để hỗ trợ người cai nghiện rất khó khăn; (3) Nguồn lực ở nhiều xã, phường, thị trấn không đảm bảo cho việc tổ chức cai nghiện; (4) Nhiều xã, phường, thị trấn có rất ít người nghiện nên tổ chức cai nghiện tại mỗi xã, phường, thị trấn là không hiệu quả mà cần tổ chức theo cụm liên xã.
Từ những vấn đề trên, việc tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng cần quy định theo nguyên tắc: đây là hình thức tự nguyện cai nghiện do cơ quan chuyên môn thực hiện (đơn vị cung cấp dịch vụ y tế, xã hội) với sự tham gia phối hợp của gia đình, các tổ chức xã hội tại cộng đồng dân cư. Giao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc tổ chức mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu cai nghiện tại gia đình, cộng đồng của địa phương. Cụ thể đề xuất sửa đổi như sau:
“ Điều … Cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng
1. Cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng là việc người nghiện ma túy đăng ký tự nguyện cai nghiện với sự giám sát của cơ quan chuyên môn và hỗ trợ của các dịch vụ cơ bản tại cộng đồng, bao gồm: tư vấn, xây dựng kế hoạch cai nghiện ma túy; khám, kiểm tra sức khỏe, điều trị hội chứng cai và các bệnh khác; trị liệu, phục hồi tâm lý, sức khỏe và phòng, chống tái nghiện ma túy.
2. Thời hạn cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng được thực hiện trên cơ sở kế hoạch cai nghiện và thỏa thuận giữa người cai nghiện và cơ quan cung cấp dịch vụ hỗ trợ.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng.
4. Người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy có trách nhiệm đóng góp kinh phí sử dụng dịch vụ. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đối với người cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng.
5. Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và nội dung hỗ trợ, mức hỗ trợ kinh phí đối với người tự nguyện cai nghiện".
- Về cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện:
Hiện nay, đối với việc cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy mới chỉ được quy định trong các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống ma túy và Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng "được phép tiếp nhận" và thực hiện, bên cạnh chức năng cai nghiện bắt buộc.
Trên tinh thần đổi mới đối với các hình thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ xã hội công lập, dự thảo sửa đổi lần này quy định theo nguyên tắc: cơ sở cai nghiện bắt buộc (công lập) hay tư nhân được phép tiếp nhận người tự nguyện vào cai nghiện theo hình thức cung cấp dịch vụ (theo hợp đồng); xác định rõ quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong việc cung cấp, sử dụng dịch vụ và đảm bảo nguyên tắc về chuyên môn.
Để cụ thể hóa các chính sách khuyến khích của nhà nước đối với tư nhân tham gia hoạt động cai nghiện và hỗ trợ sau cai nghiện, đề nghị bổ sung 01 Điều quy định về việc thành lập, tổ chức, đăng ký hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân. Đặc biệt, thay đổi việc cấp giấy phép theo cơ chế xin - cho đối với cơ sở tư nhân như hiện tại bằng việc trên cơ sở các điều kiện, tiêu chuẩn do nhà nước quy định, cơ sở tư nhân được phép thành lập, đăng ký hoạt động; phân cấp quản lý cho các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ở địa phương, cụ thể:
"Điều … Cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc và cơ sở cai nghiện do tổ chức, cá nhân đầu tư, thành lập (sau đây gọi chung là cơ sở cai nghiện tư nhân)
1. Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc và cơ sở cai nghiện tư nhân (sau đây gọi chung là cơ sở cai nghiện) được tiếp nhận, tổ chức cai nghiện ma túy cho người tự nguyện cai nghiện tại cơ sở theo hình thức hợp đồng cung cấp dịch vụ.
2. Thời hạn cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện thực hiện theo thỏa thuận giữa người cai nghiện, gia đình người cai nghiện với cơ sở cai nghiện, nhưng thời gian ít nhất là 6 tháng.
3. Người tự nguyện cai nghiện tại cơ sở cai nguyện có trách nhiệm thực hiện nghiêm nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện; trả chi phí cai nghiện theo quy định. Giám đốc cơ sở cai nghiện ma túy có trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ cai nghiện cho người tự nguyện cai nghiện; xây dựng, niêm yết công khai giá dịch vụ cai nghiện tại cơ sở theo quy định của pháp luật".
"Điều ... Thành lập, tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện tư nhân
1. Tổ chức, cá nhân trong nước được đầu tư, thành lập cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở hỗ trợ sau cai nghiện ma túy tại Việt Nam.
2. Cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở hỗ trợ sau cai nghiện ma túy theo quy định tại Khoản 1 Điều này phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về cai nghiện, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy.
3. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn; trình tự, thủ tục thành lập, đăng ký hoạt động và tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở hỗ trợ sau cai nghiện ma túy".
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý
|
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
Đề nghị bổ sung chỉnh sửa:
- Khoản 1: Biện pháp cai nghiệnma túy tự nguyện được áp dụng với người nghiện ma túy cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc cơ sở cai nghiện.
- Khoản 3: Thời hạn cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cơ sở cai nghiện từ sáu tháng đến mười hai tháng.
- Khoản 5: Chính phủ quy định chi tiết về cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng và cơ sở cai nghiện.
|
- Tiếp thu
- Dự thảo đã quy định “cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng”
|
UBND TP Hồ Chí Minh: tại Khoản 3 đề nghị tách riêng thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở, trong đó quy định thời gian cai nghiện tối thiểu là 06 tháng và không quy định thời gian tối đa để đảm bảo sự linh hoạt và phù hợp với nhu cầu cai nghiện của người tự nguyện đi cai nghiện. |
Nghiên cứu |
Bộ Tài chính: Về thời hạn cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cơ sở cai nghiện ma túy, đề nghị nghiên cứu bổ sung đối với trường hợp người nghiện ma túy và gia đình có nhu cầu và nguyện vọng cai nghiện nhiều hơn thời hạn 6 tháng đến 12 tháng quy định tại khoản 3. |
Tiếp thu |
35 |
Điều 34. Biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc
1. Biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc áp dụng với người nghiện từ đủ 18 tuổi trở lên.
2. Trình tự, thủ tục, đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo Luật Xử lý vi phạm hành chính.
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: đề nghị sửa như sau:"Điều … Đối tượng, hồ sơ, trình tự thủ tục và thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc
1. Biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc áp dụng với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên trong các trường hợp sau:
a) Người đã bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc mà vẫn còn nghiện.
Người chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc mà trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày quyết định hoàn thành thời gian cai nghiện bắt buộc mà không sử dụng ma túy thì được coi là không bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc.
b) Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã phường thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà vẫn còn nghiện.
c) Người không có nơi cư trú ổn định.
2. Hồ sơ, trình tự, thủ tục và thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”.
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý
|
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA: đề nghị bổ sung chỉnh sửa khoản 1 “Biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc áp dụng với người nghiệnma túy từ đủ 18 tuổi trở lên.” |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Nghệ An: Khoản 1 đề nghị bổ sung như sau: “Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi thuộc một trong các trường hợp sau:
-Không tham gia bất kỳ hình thức cai nghiện nào tại thời điểm lập hồ sơ (kể cả hình thức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng; cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện; điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone, điều trị nghiện ma túy bằng thuốc Buprenorphine);
- Trong thời gian tham gia cai nghiện ma túy bằng một trong các hình thức (cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện, điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone, điều trị nghiện ma túy bằng thuốc Buprenorphine) mà bị phát hiện có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc có hành vi xâm phạm tài sản, sức khỏe của người khác, vi phạm trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Sau khi thực hiện một số biện pháp cai nghiện (cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện, cai nghiện bắt buộc …) mà bị phát hiện tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy”.
|
Nghiên cứu, tiếp thu |
36 |
Điều 35. Cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi
Việc quản lý, cai nghiện đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:
Việc cai nghiện cho người từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi cần được coi là một dịch vụ hỗ trợ hay biện pháp chăm sóc thay thế đối với trẻ em có "hoàn cảnh đặc biệt" theo Luật Trẻ em, không nên coi là biện pháp xử lý hành chính, cần quy định cụ thể trong Luật này. Trước hết, cần khuyến khích việc tự nguyện cai nghiện, chỉ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để cai nghiện khi tình trạng nghiện ma túy ảnh hưởng đến việc phát triển bình thường của trẻ.Về thẩm quyền, để đảm bảo thống nhất với Luật Trẻ em (thẩm quyền áp dụng biện pháp chăm sóc thay thế quy định tại Khoản 3 Điều 52 Luật Trẻ em) giao Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến của tư vấn của cơ quan bảo vệ trẻ em cùng cấp để đảm bảo quyền, lợi ích tốt nhất đối với trẻ em; giao Chính phủ quy định cụ thể về trình tự thủ tục lập hồ sơ. Cụ thể:
"Điều …Cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi
1. Cha, mẹ hoặc người giám hộ của người nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi phải khai báo về tình trạng nghiện ma túy và đăng ký tự nguyện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc cơ sở cai nghiện ma túy theo quy định tại các Điều ... của Luật này.
2. Trường hợpcha mẹ, người giám hộ không đăng ký tự nguyện cai nghiện; đã cai nghiện tự nguyện mà vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thì được đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy buộc để cai nghiện ma túy với thời gian cai nghiện từ 6 tháng đến 12 tháng.
3. Việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc do Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến của tư vấn của cơ quan bảo vệ trẻ em cùng cấp để đảm bảo quyền, lợi ích tốt nhất đối với trẻ em.
4. Chính phủ quy định cụ thể về trình tự thủ tục lập hồ sơ đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ cở cai nghiện ma túy bắt buộc.
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật quy định “Việc quản lý, cai nghiện đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính”. Hiện nay, tại Luật Phòng, chống ma túy hiện hành không coi cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính, do đó, nếu quy định viện dẫn tới Luật Xử lý vi phạm hành chính trong đó quy định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là tăng hình thức áp dụng đối với người chưa thành niên. Bên cạnh đó, đối tượng này còn được áp dụng hình thức cai nghiện tự nguyện, nên quy định đối tượng này phải thực hiện việc cai nghiện theo Luật xử lý vi phạm hành chính là đã bỏ qua hình thức cai nghiện tự nguyện là không phù hợp. Do đó, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo quy định cụ thể việc cai nghiện cho đối tượng này tại dự thảo Luật mà không áp dụng theo Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm có các biện pháp cai nghiện phù hợp với thể chất, sự phát triển tâm sinh lý và mục đích chăm sóc, giáo dục đối tượng này. Đồng thời, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bám sát các quy định tại dự thảo Luật xử lý vi phạm hành chính để thống nhất quan điểm về quản lý, xử lý và các biện pháp cai nghiện đối với đối tượng này tại cả hai dự thảo Luật, bảo đảm các biện pháp phải phù hợp với các quy định tại Công ước quyền trẻ em, các khuyến nghị của tổ chức bảo vệ trẻ em và về phòng, chống ma túy. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
Bộ Ngoại giao: do Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa có quy định cụ thể về cai nghiện cho người từ 12 đến 18 tuổi, đề nghị bổ sung các quy định về cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi, đảm bảo các quyền trẻ em và quyền của người vị thành niên theo quy định của Luật Trẻ em, Luật Thanh niên 2005 và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. |
Tiếp thu |
Bộ Tài Chính: đề nghị Bộ Công an rà soát quy định quản lý, cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vì Luật xử lý vi phạm hành chính không quy định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Vĩnh Long: đề nghị quy định cụ thể hơn vì Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định, dự thảo viện dẫn Luật Xử lý vi phạm hành chính là không phù hợp. |
Tiếp thu |
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị sửa đổi điều này vì Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định về nội dung này và không nên áp dụng với người dưới 18 tuổi. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vẫn quy định áp dụng cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi |
Công an TP Hà Nội: Khoản 1 Điều 26 và các Điều 34, 35: Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Vì vậy, cần có quy định cụ thể đối với từng trường hợp, từng lứa tuổi, cụ thể:
- Đối với người sử dụng trái phép chất ma túy:
+ Áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình đối với người người sử dụng trái phép chất ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính và bị phạt cảnh cáo một lần trong 06 tháng tiếp tục tái phạm; trường hợp không có nơi cư trú ổn định thì có thể xem xét bàn giao cho người đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ hoặc quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
+ Áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người sử dụng trái phép chất ma túy từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong thời hạn 6 tháng đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và có nơi cư trú ổn định; trường hợp không có nơi cư trú ổn định thì áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định tại Điều 92 của dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Đối với người nghiện ma túy:
+ Áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi có nơi cư trú ổn định.
+ Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nghiện ma túy đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn nghiện hoặc người đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định thì được cai nghiện tại khu vực dành riêng cho họ trong cơ sở cai nghiện bắt buộc.
|
Nghiên cứu |
37 |
Điều 36. Trách nhiệm của người nghiện ma túy khi cai nghiện bắt buộc
1. Tuân thủ nội quy, quy chế và chịu sự quản lý, giáo dục, điều trị nghiện của cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Lao động, học tập, học nghề, chữa bệnh để cai nghiện và góp phần đảm bảo đời sống trong thời gian cai nghiện.
|
Công an TP Hà Nội: Khoản 1 bỏ chữ “bắt buộc” sau chữ “cai nghiện” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND tỉnh Lào Cai:
Khoản 1 đề nghị thay đổi cụm từ “điều trị nghiện” thành “cai nghiện”
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
38 |
Điều 37. Cai nghiện ma túy cho người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh trường giáo dưỡng
1. Nhà nước áp dụng phương pháp cai nghiện thích hợp đối với người nghiện ma túy là người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh của trường giáo dưỡng. Cơ quan quản lý các cơ sở này phối hợp chặt chẽ với cơ quan y tế địa phương để thực hiện quy định này.
2. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Giám đốc cơ sở giáo dục, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã về việc cai nghiện ma túy của người nghiện ma túy quy định tại khoản 1 Điều này khi họ trở về nơi cư trú.
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:
Đề nghị sửa Khoản 1 như sau:
1. Nhà nước tổ chức cai nghiện ma túy với các phương pháp, hình thức phù hợp đối với người nghiện trong các trại tạm giam, trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.
2. Cơ quan quản lý các cơ sở này phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền ở địa phương để thực hiện quy định này.
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
Bộ Tư pháp: Dự thảo Luật quy định “Nhà nước áp dụng phương pháp cai nghiện thích hợp …”. Tuy nhiên, quy định này chưa quy định cụ thể về phương pháp cai nghiện thích hợp; trong khi chức năng của các cơ sở này hiện tại không phải là cai nghiện nhưng thực tế phải tổ chức hoạt động cai nghiện ma túy; hơn nữa, việc quy định các cơ sở này phối hợp với cơ quan y tế địa phương để thực hiện nhưng chưa đưa ra cơ chế, cách thức của việc phối hợp này. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo thể hiện cụ thể hơn nội dung này. |
Nghiên cứu |
Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an: Điều 37 quy định về cai nghiện ma túy cho người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh trường giáo dưỡng. Tuy nhiên, hình thức này chưa được quy định tại Điều 32 các biện pháp và hình thức cai nghiện ma túy. Đề nghị nghiên cứu chỉnh lý |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Cục Kế hoạch và tài chính, BCA: Hiệu chỉnh cụm từ “cơ sở giáo dục” thành “cơ sở giáo dục bắt buộc” để tránh nhầm lẫn đối với các cơ sở giáo dục nói chung và phù hợp với Luật xử lý vi phạm hành chính. |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Vĩnh Long: Khoản 1 cần quy định cụ thể hơn, dự thảo còn chung chung. |
Nghiên cứu |
Công an tỉnh Đồng Tháp: Tại khoản 2 đề nghị bổ sung cụm từ “Trưởng Nhà tạm giữ”. Vì trên thực tế trong một số trường hợp ở Nhà tạm giữ vẫn có tạm giam người nghiện ma túy, khi bị Tòa kết án tù có thời hạn nếu bằng với thời gian tạm giữ, tạm giam; thời hạn tù nhiều hơn thời hạn tạm giữ tạm giam không quá 02 tháng; án treo, cải tạo không giam giữ, trắng án, miễn trách nhiệm hình sự, thì người này sẽ trở về địa phương. Do đó, quy định Trưởng Nhà tạm giữ phải thông báo cho UBND cấp xã về việc cai nghiện ma túy của người nghiện ma túy quy định tại Khoản 1 Điều này khi họ trở về nơi cư trú, cho phù hợp với thực tế. |
Nghiên cứu |
Công an tỉnh Hà tĩnh, Sơn La, Quảng Ngãi: Sau cụm từ “cơ sở giáo dục”. đề nghị bổ sung từ “bắt buộc” cho đúng với tên gọi của cơ sở. |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Hà tĩnh: Khoản 2 đề nghị bổ sung cụm từ “nơi có người nghiện ma túy”vào sau cụm từ “Ủy ban nhân dân cấp xã” |
Đề nghị không bổ sung |
39 |
Điều 38. Cơ sở cai nghiện ma túy
1. Cơ sở cai nghiện được bố trí các khu:
a) Khu dành riêng cho người cai nghiện bắt buộc;
b) Khu dành cho người cai nghiện tự nguyện;
c) Khu lưu trú cho người xác định tình trạng nghiện và chờ lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Trong cơ sở cai nghiện, những người nghiện ma túy sau đây phải được bố trí vào các khu vực tách riêng với những người nghiện ma túy khác để quản lý và chữa bệnh:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Phụ nữ;
c) Người có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm;
d) Người có hành vi gây rối trật tự.
3. Cơ sở cai nghiện ma túy có trách nhiệm thực hiện đúng phương pháp cai nghiện đã được cơ quan có thẩm quyền duyệt; tổ chức lao động, học tập, chữa bệnh cho người cai nghiện ma túy.
4. Người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma túy được quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật để quản lý chặt chẽ, giáo dục, chữa bệnh cho người cai nghiện và yêu cầu chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân giúp đỡ khi cần thiết; kiểm tra hành chính người nghiện, đồ vật trong cơ sở cai nghiện khi phát hiện có dấu hiệu cất giấu chất ma túy, các vật dụng cấm trong người, đồ vật.
5. Chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân có trách nhiệm phối hợp thực hiện các biện pháp bảo vệ cơ sở cai nghiện ma túy và hỗ trợ cán bộ, công chức, nhân viên tại các cơ sở này khi có yêu cầu.
6. Cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy được sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ để ngăn chặn hành vi gây rối của người nghiện ma túy, truy tìm người nghiện bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện.
7. Cơ sở cai nghiện ma túy phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe, tài sản của người cai nghiện ma túy.
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: đề nghị sửa như sau: Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc
1. Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc được thành lập và tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
2. Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc được bố trí các khu sau:
a) Khu lưu trú tạm thời đối với người xác định tình trạng nghiện và chờ lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
b) Khu dành riêng cho người cai nghiện bắt buộc;
c) Khu dành riêng cho người cai nghiện tự nguyện.
3. Trong các khu quy định tại Khoản 2 Điều này phải bố trí các khu vực riêng biệt đối với các đối tượng sau:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Phụ nữ;
c) Người có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm;
d) Người có hành vi gây rối trật tự.
4. Quyền và trách nhiệm của cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc
a) Người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc được quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật để quản lý, giáo dục, chữa trị cho người cai nghiện và yêu cầu chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân giúp đỡ khi cần thiết; kiểm tra hành chính người nghiện, đồ vật trong cơ sở cai nghiện khi phát hiện có dấu hiệu cất giấu chất ma túy, các vật dụng cấm trong người, đồ vật;
b) Cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc được sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ để ngăn chặn hành vi gây mất trật tự, an toàn, chống người thi hành công vụ của người cai nghiện tại cơ sở; truy tìm người cai nghiện nghiện bỏ trốn; được trang bị trang phục thống nhất theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
c) Thực hiện nghiêm túc các quy định chuyên môn về cai nghiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; đảm bảo chế độ lao động, học tập, chữa bệnh đối với người cai nghiện ma túy;
d) Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe, tài sản của người cai nghiện ma túy".
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
Bộ Tư pháp:Dự thảo Luật quy định cơ sở cai nghiện được bố trí khu lưu trú cho người xác định tình trạng nghiện và chờ lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bộ Tư pháp nhận thấy, quy định này mới chỉ phù hợp với hình thức, biện pháp cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính, trong khi đó, hiện nay còn có các hình thức cai nghiện và cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện do các tổ chức, cá nhân khác thực hiện. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại các hình thức cai nghiện, các yêu cầu, điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết đối với cơ sở cai nghiện ma túy theo từng hình thức cai nghiện để quy định cụ thể về vấn đề này, bảo đảm bao quát đầy đủ, toàn diện và thuận lợi khi áp dụng. |
Nghiên cứu |
Bộ Ngoại giao:
- Khoản 1,2 đề nghị bổ sung quy định cơ sở cai nghiện ma túy bố trí khu dành riêng cho người cai nghiện thuộc hai giới tính nam và nữ; sửa điểm b khoản 2 thành “phụ nữ đang mang thai hoặc chăm sóc con nhỏ dưới 36 tháng tuổi”.
- Khoản 6 đề nghị làm rõ quy định về “công cụ, phương tiện hỗ trợ ngăn chặn hành vigây rối của người nghiện ma túy, truy tìm người nghiện bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện” do hành vi gây rối có thể do người nghiện cố tình gây ra hoặc không kiểm soát được bản thân nên mỗi trường hợp cần cách xử lý khác nhau, cần có quy định cụ thể để đảm bảo tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe, tài sản của người nghiện ma túy, đồng thời không gây chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan liên quan.
- Khoản 7 đề nghị điều chỉnh thành “cơ sở cai nghiện ma túy có trách nhiệm tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe, tài sản của người nghiện ma túy.”
|
- Đề nghị không bổ sung vì trường hợp phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không thuộc đối tượng đưa vào CNBB
- Nghiên cứu
- Đề nghị không bổ sung
|
Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Tại khoản 3 Điều 38 có quy định về việc cơ sở cai nghiện tổ chức lao động cho người cai nghiện ma túy. Đề nghị bổ sung quy định làm rõ việc sử dụng kết quả lao động của người cai nghiện ma túy (tương tự Điều 34 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 - Sử dụng kết quả lao động của phạm nhân) và phù hợp với điểm b Khoản 1 Điều 43 trong dự thảo. |
Nghiên cứu |
UBND tỉnh và Công an tỉnh Điện Biên: tại khoản 4 đề nghị bổ sung cụm từ “và tạm giữ các đồ vật cấm đó” vào sau cụm từ “kiểm tra hành chính người nghiện, đồ vật trong cơ sở cai nghiện khi phát hiện có dấu hiệu cất giấu chất ma túy, các vật dụng cấm trong người, đồ vật” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Sơn La:
- Điểm c, khoản 2 đề nghị quy định cụ thể đối với người nghiện ma túy có bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm nào thì được bố trí khu vực tách riêng để quản lý và chữa bệnh. Như vậy sẽ đảm bảo chặt chẽ, thống nhất, công bằng, đúng quy định
- Khoản 7 đề nghị bổ sung: “Cơ sở cai nghiện ma túy phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người cai nghiện ma túy”.
|
-Đề nghị không bổ sung, nội dung này sẽ thực hiện theo hướng dẫn của Bộ LĐTBXH
- Đề nghị không bổ sung
|
UBND TP Hồ Chí Minh:
- Điểm c Khoản 1đề nghị quy định tách thành 02 khu vực (1) Khu lưu trú cho người xác định tình trạng nghiện và (2) Khu chờ lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Đề nghị thay đổi vị trí của Khoản 5 và Khoản 6 để đảm bảo tính chặt chẽ về nội dung. Ngoài ra, việc trao cho cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy quyền “được sử dụng công cụ, phương tiện hỗ trợ để ngăn chặn hành vi gây rối của người nghiện ma túy, truy tìm người nghiện bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện” nhưng phải đảm bảo việc “chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân” tập huấn trang bị kiến thức, kỹ năng trong việc sử dụng các công cụ, phương tiện này nhằm hạn chế tối đa thiệt hại xảy ra trong quá trình ngăn chặn hành vi gây rối của người nghiện cũng như đảm bảo đúng phương án, an toàn cho các lực lượng tham gia.
|
- Nghiên cứu
- Nội dung Khoản 5 không còn quy định trong dự thảo Luật
|
UBND tỉnh Lào Cai: đề nghị bổ sung khoản e “người có tiền sử bệnh về não bộ”. |
Đề nghị không bổ sung |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
- Khoản 4: “Người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma túy được …; kiểm tra hành chính người nghiệnma túy, đồ vật trong cơ sở cai nghiện…”
- Khoản 6: “Cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy …, truy tìm người nghiện ma túy bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện”.
|
Tiếp thu |
40 |
Điều 39. Chấp hành hình phạt khi đang cai nghiện bắt buộc
Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội, nếu thời gian bị phạt tù ít hơn thời gian cai nghiện ma túy thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù phải tiếp tục cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trường hợp phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì vẫn phải thực hiện cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.
|
Bộ Tư pháp: Điều 117 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Trường hợp phát hiện người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đã thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định, thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đang thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết địnhđối với người đó và chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; trường hợp bị Toà án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình phạt tù thì người đó có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính”.Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc chỉnh sửa quy định: “Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội, nếu thời gian bị phạt tù ít hơn thời gian cai nghiện ma túy thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù phải tiếp tục cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc” tại Điều 39 dự thảo Luật để bảo đảm thống nhất với quy định nêu trên của Luật Xử lý vi phạm hành chính. |
Tiếp thu |
Công an tỉnh Thanh Hóa: đề nghị nghiên cứu quy định cho thống nhất với Điều 117 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể trường hợp người bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính thực hiện hành vi phạm tội trong (hoặc trước) thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu bị tòa án phạt tù thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (trong đó có biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc). |
Tiếp thu, để phù hợp với Luật Xử lý VPHC |
Công an tỉnh Bình Dương: “Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội thì chỉ chấp hành hình phạt tù do Tòa án tuyên về hành vi phạm tội, việc đang bị cai nghiện ma túy bắt buộc tại cơ sở cai nghiện sẽ đưa vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Bổ sung thêm “đưa các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, trong đó có đối tượng từng bị cai nghiện bắt buộc thành tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự” |
- Đề nghị không bổ sung vì nội dung này thuộc phạm viđiều chỉnhcủa BLHS
|
UBND TP Hồ Chí Minh: Quy định của Điều này trái với Điều 117 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp xử lý hành chính như sau: “Trường hợp bị Tòa án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính”. Trong thực tế có thể phát sinh người đang cai nghiện bắt buộc cố tình phạm các tội ít nghiêm trọng với khung hình phạt thấp hơn thời gian cai nghiện bắt buộc. Điều 37 của dự thảo đã có quy định về cai nghiện ma túy cho người bị tạm giam, phạm nhân, nên người cai nghiện ma túy bắt buộc sau khi chấp hành xong hình phạt tù cần tiếp tục tham gia cai nghiện ma túy là đúng với tình hình cai nghiện hiện nay. Do đó đề nghị trong quá trình góp ý sửa đổi Luật xử lý vi phạm hành chính, cần nghiên cứu chỉnh sửa nội dung này để giải quyết được bất cập giữa hai luật khi áp dụng trong thực tiễn. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
Công an tỉnh Đồng Tháp: Đề xuất bổ sung cụm từ “mà vẫn còn nghiện” phía sau cụm từ “sau khi chấp hành án phạt tù” |
Đề nghị không bổ sung |
41 |
Điều 40. Hòa nhập cộng đồng và phòng, chống tái nghiện
1. Người nghiện ma túy sau khi chấp hành xong thời gian cai nghiện ma túy bắt buộc tại cơ sở cai nghiện được tạo điều kiện tham gia các hoạt động hỗ trợ hòa nhập cộng đồng và các chương trình phòng, chống tái nghiện.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức các hoạt động hòa nhập cộng đồng.
3. Chính phủ quy định cụ thể các hoạt động hỗ trợ hòa nhập cộng đồng, chương trình phòng, chống tái nghiện.
|
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch đề nghị nghiên cứu quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, các tổ chức, đoàn thể trong việc tổ chức các hoạt động hòa nhập cộng đồng . |
Nghiên cứu |
UBND TP Hồ Chí Minh: Đề nghị bổ sung thêm điều khoản tại Điều 30 hoặc Điều 40 để quy định về trách nhiệm của người nghiện đã hoàn thành cai nghiện và của gia đình trong việc hòa nhập cộng đồng và phòng, chống tái nghiện, để làm cơ sở ban hành Nghị định quy định cụ thể về việc khai báo, trình diện, thực hiện đầy đủ các hoạt động hỗ trợ hòa nhập cộng đồng và các chương trình phòng, chống tái nghiện của người hoàn thành cai nghiện có và không có nơi cư trú ổn định. |
Nghiên cứu |
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội: đề nghị sửa như sau: “Điều … Hỗ trợ xã hội sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện
1. Người sau cai nghiện ma túy được tạo điều kiện hỗ trợ học nghề, tìm việc làm và tham giachương trình phòng, chống tái nghiện, các hoạt động xã hội để hòa nhập cộng đồng.
2. Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc hỗ trợ sau cai nghiện ma túy theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
3. Chính phủ quy định cụ thể chính sách, dịch vụ hỗ trợ sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện đối với người sau cai nghiện ma túy".
|
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
42 |
Điều 41. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp nơi có người nghiện ma túy cư trú
Ủy ban nhân dân các cấp nơi có người nghiện ma túy có trách nhiệm lập kế hoạch tổ chức cai nghiện tự nguyện, hòa nhập cộng đồng và phòng, chống tái nghiện trên địa bàn quản lý; chỉ đạo cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với cơ quan Công an, Y tế, Giáo dục và đào tạo cùng cấp và các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức cai nghiện ma túy, quản lý, giáo dục người nghiện ma túy và người đã cai nghiện ma túy; hỗ trợ, tạo điều kiện cho người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng.
|
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: đề nghị sửa như sau: “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương; chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức phòng, chống ma túy tại địa phương; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy, quản lý việc cai nghiện bắt buộc, cai nghiện tự nguyện, hỗ trợ sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện, hòa nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma túy". |
Nghiên cứu, tiếp thu và có chỉnh lý |
UBND tỉnh Lào Cai: tại Điều 39 và Điều 41 nội dung của Điều gồm nhiều quy định riêng biệt, tuy nhiên chưa được thiết kế thành các khoản, điểm. đề nghị xem xét chỉnh lý kỹ thuật trình bày các nội dung đảm bảo tính minh bạch của quy phạm pháp luật, thuận lợi cho việc áp dụng, chỉ dẫn, sửa đổi, bổ sung, thay thế đối với từng quy định. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
43 |
Điều 42. Can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy
1. Biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy là biện pháp làm giảm hậu quả tác hại liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện gây ra cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
2. Biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy được triển khai trong nhóm người nghiện ma túy thông qua chương trình, dự án phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
3. Chính phủ quy định cụ thể các biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy và tổ chức thực hiện các biện pháp này.
|
Bộ Tư pháp: dự thảo Luật quy định biện pháp can thiệp giảm tác hại được triển khai trong nhóm người nghiện ma túy nhưng không áp dụng đối với người có hành vi sử dụng ma túy tổng hợp; việc thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại chỉ thông qua chương trình, dự án và giao Chính phủ quy định cụ thể. Trong khi đó, với sự xuất hiện của các loại ma túy tổng hợp hiện nay và những tác hại, hậu quả của việc sử dụng chúng cho người sử dụng và từ người sử dụng gây ra cho gia đình, cộng đồng, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các biện pháp can thiệp giảm tác hại của việc sử dụng ma túy tổng hợp; các biện pháp can thiệp, nguyên tắc, cách thức, thẩm quyền áp dụng biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy và sử dụng ma túy tổng hợp tại dự thảo Luật để làm cơ sở cho Chính phủ quy định chi tiết. |
Nghiên cứu |
Công an TP Hà Nội: chuyển khoản 1 sang Điều 3 do đây là khái niệm. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Bộ Y tế:
1. Biện Pháp can thiệp giảm tác hại của sử dụng ma túy, nghiện ma túy là các hoạt động hỗ trợ về mặt y tế và xã hội nhằm làm giảm tác hại do hành vi sử dụng ma túy của người sử dụng ma tú, người nghiện ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
2. Biện pháp can thiệp giảm tác hại của sử dụng ma túy, nghiện ma túy thực hiện theo các quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.
|
Nghiên cứu
|
44 |
Điều 43. Huy động nguồn lực xã hội trong tổ chức cai nghiện ma túy
1. Kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức cai nghiện ma túy, hòa nhập cộng đồng, can thiệp giảm tác hại, phòng, chống tái nghiện ma túy được quy định tại các điều 33, 34, 35, 37, 38, 40 và 42 của Luật này, bao gồm:
a) Ngân sách nhà nước;
b) Đóng góp của người cai nghiện ma túy, thân nhân và gia đình họ;
c) Kết quả lao động trị liệu của người nghiện tại cơ sở cai nghiện;
d) Các nguồn tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
2. Người nghiện ma túy, gia đình của người nghiện ma túy, có trách nhiệm đóng góp kinh phí cai nghiện theo quy định của Chính phủ; trường hợp có hoàn cảnh khó khăn thì được xét giảm hoặc miễn đóng góp kinh phí cai nghiện.
3. Cơ sở cai nghiện ma túy được tiếp nhận các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài để cai nghiện cho người nghiện ma túy và phải quản lý, sử dụng các khoản đóng góp, tài trợ đó theo quy định của pháp luật.
|
Công an tỉnh Kom Tum: tại Khoản 2 đề nghị hướng dẫn rõ hơn trường hợp nào gọi là hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh khó khăn ở mức độ nào thì được xét giảm hoặc miễn đóng góp kinh phí cai nghiện. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, thực hiện theo văn bản của Chính phủ. |
Công an TP Hà Nội: Khoản 2 bỏ cụm từ “có trách nhiệm đóng góp kinh phí cai nghiện theo quy định của Chính phủ” do đã quy định tại điểm b, Khoản 1 Điều này. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Bộ Y tế:
- Đề nghị sửa tên Điều thành “Huy động nguồn lực xã hội trong tổ chức cai nghiện ma túy và điều trị nghiện ma túy”;
- Tại các Khoản 1,2,3 thêm quy định về biện pháp điều trị nghiện trong các nội dung của các khoản này
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
UBND tỉnh Lào Cai:
- Điểm b, Khoản 1 bổ sung “Đóng góp của người cai nghiện ma túy, thân nhân và gia đình họ; trừ trường hợp được miễn giảm theo quy định của Chính phủ”.
- Điểm c, Khoản 1 “Kết quả lao động trị liệu của người nghiện tại cơ sở cai nghiện(nếu có)”
- Khoản 2, 3 đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định rõ các nội dung hoặc giao trách nhiệm quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đảm bảo tính khả thi luật khi có hiệu lực thi hành.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Nghiên cứu
|
45 |
Điều 44. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch về phòng, chống ma túy.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
3. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phòng, chống ma túy.
4. Ban hành, sửa đổi, bổ sung, công bố danh mục chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần.
5. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
6. Quyết định thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các cơ sở khác về cai nghiện ma túy; tổ chức và quản lý việc cai nghiện ma túy và hòa nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma túy.
7. Tổ chức đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.
8. Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy.
9. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về phòng, chống ma túy.
10. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy.
11. Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
12. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
|
Công an TP Hà Nội:
- Khoản 9 sửa chữ “về” thành “trong”
- Bổ sung khoản quy định “Tổ chức công tác rà soát, thống kê, quản lý đối với người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy và công tác đưa người nghiện ma túy tham gia các hình thức cai nghiện”
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Nghiên cứu
|
Bộ Tư pháp: Khoản 6 quy định “các cơ sở khác về cai nghiện ma túy”, tuy nhiên, tại dự thảo Luật chưa có các quy định cụ thể về các loại cơ sở cai nghiện trong khi chỉ có 2 hình thức cai nghiện “bắt buộc và tự nguyện” nhưng Điều 32 dự thảo Luật quy định về bố trí, sắp xếp của cơ sở cai nghiện. Hiện nay, có một số tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo tham gia các hoạt động cai nghiện có tính chất từ thiện và nhân đạo trong khi cơ sở cai nghiện tự nguyện là cơ sở kinh doanh có điều kiện. Theo đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần phải quy định rõ những nội dung này để làm cơ sở cho việc áp dụng. |
Tiếp thu |
Bộ Y tế: đề nghị bổ sung “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc” sau cụm từ “ thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
46 |
Điều 45. Phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
2. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các cơ quan hữu quan trong phòng, chống ma túy.
4. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương; chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức phòng, chống ma túy tại địa phương; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy, việc cai nghiện ma túy và hòa nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma túy.
|
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
Khoản 4: “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương; chỉ đạo triển khai tuyên truyền, giáo dục, vàtổ chức phòng, chống ma túy tại địa phương; … đã cai nghiện ma túy”.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Phú Yên: Khoản 4, Điều 45 Dự thảo quy định: “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng chống ma túy” và khoản 2 Điều 44 quy định: “Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy”. Cần quy định cụ thể, rõ ràng việc UBND cấp huyện, cấp xã được phép ban hành văn bản quy phạm pháp luật thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương không? |
Nghiên cứu |
Công an TP Hà Nội: bổ sung Khoản 4: “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương; chỉ đạo tuyên truyền, giáo dục, tổ chức phòng, chống ma túy tại địa phương; tổ chức việc rà soát, thống kê, quản lý…” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, việc thống kê đã quy định cụ thể trong điều luật |
UBND TP Hải Phòng: khoản 4 đề nghị bổ sung trách nhiệm “Ban hành Quy chế quản lý các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy trên địa bàn” |
Tiếp thu |
47 |
Điều 46. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch phòng, chống tội phạm về ma túy; tổng hợp kết quả thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy của các bộ, ngành trình Chính phủ.
2. Chủ trì phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy; tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
3. Ban hành và tổ chức thực hiện quy chế quản lý chất ma túy và tiền chất phục vụ đấu tranh chống tội phạm về ma túy.
4. Tổ chức lực lượng điều tra các tội phạm về ma túy, hướng dẫn các cơ quan khác tiến hành điều tra ban đầu các tội phạm này theo quy định của pháp luật.
5. Tổ chức công tác giám định chất ma túy và tiền chất.
6. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, giám định chất ma túy và tiền chất; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
7. Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy; quản lý thông tin về các tội phạm về ma túy; giám sát, quản lý, theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy.
8. Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo việc lập hồ sơ và tổ chức đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, giữ gìn an ninh, trật tự tại các cơ sở cai nghiện, kiểm tra hoạt động cai nghiện ma túy tại cộng đồng và trong các cơ sở cai nghiện.
9. Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm về ma túy.
10. Bộ trưởng Bộ Công an cấp, thu hồi giấy phép quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu chất ma túy sử dụng trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm.
|
Bộ Tư pháp: Khoản 8 dự thảo Luật quy định Bộ Công an có trách nhiệm: “Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo việc lập hồ sơ và tổ chức đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, giữ gìn an ninh, trật tự tại các cơ sở cai nghiện, kiểm tra hoạt động cai nghiện ma túy tại cộng đồng và trong các cơ sở cai nghiện”. Tuy nhiên, việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quy định tại Điều 103 Luật Xử lý vi phạm hành chính, Cơ quan Công an chỉ có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài liệu và lập hồ sơ đề nghị quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Khoản 1 Điều 110 Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ quan đã gửi hồ sơ đề nghị có trách nhiệm tổ chức thi hành…”. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc chỉnh lý quy định tại khoản 8 Điều 46 dự thảo Luật cho phù hợp với quy định nêu trên của Luật XLVPHC. |
Nghiên cứu, tiếp thu |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
- Khoản 1: Xây dựng và tổ chức thực hiện … chống ma túy của các bộ, ngành, địa phương trình Chính phủ.
- Khoản 6: Kiện toàn tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ … liên quan đến ma túy.
- Khoản 10: Bộ trưởng BCA… sử dụng trong công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
|
Công an TP Hà Nội:
- Bổ sung Khoản 7 “lập hồ sơ, quản lý người nghiện ma túy” để phù hợp với Điều 31.
- “Tổ chức chữa bệnh, lao động, học tập, học nghề tại các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng cho người sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Phối hợp với Bộ y tế trong công tác xác định tình trạng nghiện, để tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện.
|
- Tiếp thu
- Đề nghị không bổ sung
- Nghiên cứu
|
Công an tỉnh Quảng Ninh: Khoản 7 bổ sung “…giám sát, quản lý, theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy thuộc thẩm quyền quản lý”. |
Đề nghị không bổ sung |
UBND tỉnh Lạng Sơn: đề nghị bổ sung vào Khoản 1 nhiệm vụ: căn cứ tình hình thực tiễn, chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, đề xuất bổ sung sửa đổi các quy định của pháp luật về phòng, chống tội phạm và tên nạn ma túy. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Công an tỉnh Hà Nam: Khoản 7 đề nghị thêm cụm từ “người nghiện ma túy” thành “…giám sát, quản lý, theo dõi người nghiện ma túy…” |
Nghiên cứu tiếp thu |
Bộ Y tế: đề nghị bổ sung trách nhiệm của Bộ Công an phối hợp với Bộ Y tế trong việc xác định người nghiện ma túy vì xác định tình trạng nghiện diễn ra trong một thời gian dài. |
Nghiên cứu |
48 |
Điều 47. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy ở khu vực biên giới trên đất liền, trên biển, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
2. Phối hợp với cơ quan hữu quan của nước khác để phát hiện, ngăn chặn các hành vi phạm pháp luật về ma túy, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy tại địa bàn theo quy định của Khoản 1 Điều này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy của Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát biển.
|
Bộ Quốc Phòng:chỉnh lý như sau:
“1. Chủ trì xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy ở khu vực biên giới đất liền, khu vực biên giới biển, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
2. Phối hợp kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; trưng cầu giám định chất ma túy, tiền chất và mẫu vật, mẫu phẩm sinh học cần thiết để phát hiện tội phạm.
3. Tiến hành điều tra các tội phạm về ma túy theo quy định của pháp luật; áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, kỹ thuật để điều tra, phát hiện tội phạm về ma túy; tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin tội phạm về ma túy tại địa bàn được quy định tại khoản 1 Điều này.
4. Hợp tác với lực lượng chức năng của các quốc gia có chung đường biên giới đấu tranh, ngăn chặn tội phạm về ma túy.
5. Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảovệngười tố giác, người làm chứng, người bị hại, người biết việc trong các vụ án vềma túy.
6. Phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền đề nghị cung cấp, khai thác thông tin, tài liệu quy định tại các điểm d, đ, khoản 1 Điều 13 Luật này để điều tra, phát hiện tội phạm vềma túy.
7. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy của Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát biển”.
Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, quy định của Luật Tổ chức cơ quan Điều tra hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo vì có nhiều nội dung đã được quy định ở các điều luật khác. Nội dung điều này quy định trách nhiệm chung của Bộ Quốc phòng, vì vậy quy định như trong dự thảo là đầy đủ. |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
Khoản 2: Phối hợp với cơ quan hữu quan của các nước để phát hiện, ngăn chặn các hành vivi phạm pháp luật về ma túy, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở địa bàn theo quy định tạiKhoản 1 Điều này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
|
Tiếp thu một phần để chỉnh lý cho phù hợp |
UBND tỉnh Lào Cai: Khoản 3 bổ sung “Tổ chức bộ máyđào tạo, bồi dưỡng”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
49 |
Điều 48. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Chỉ đạo cơ quan Hải quan thực hiện hoạt động phòng, chống ma túy theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Chủ trì phối hợp với Bộ Công an và các bộ, ngành, chính quyền địa phương xây dựng dự toán kinh phí phòng, chống ma túy trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và triển khai thực hiện theo quy định của pháp luật.
|
Bộ Tài Chính: Đề nghị sửa Khoản 2 “Bộ Tài Chính: chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan trình cấp có thẩm quyền bố trí kinh phí chi thường xuyên để thực hiện công tác phòng, chống ma túy theo quy định về phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành”. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
50 |
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch tổ chức cai nghiện ma túy; chỉ đạo tổ chức cai nghiện ma túy và giải quyết các vấn đề xã hội do nghiện ma túy gây ra.
2. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác cai nghiện ma túy và giải quyết các vấn đề xã hội do nghiện ma túy gây ra.
3. Chủ trì phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan và chính quyền địa phương xây dựng, hướng dẫn hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy; dạy nghề, tạo việc làm, tư vấn, hỗ trợ, tạo điều kiện vật chất và tinh thần để giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.
4. Thống kê, đánh giá tình hình cai nghiện ma túy và giải quyết các vấn đề xã hội sau cai nghiện.
5. Hướng dẫn, chỉ đạo việc thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện bắt buộc, cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các cơ sở khác về cai nghiện ma túy.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế về cai nghiện ma túy và giải quyết các vấn đề xã hội sau cai nghiện.
|
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, pháp luật về cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau nghiện ma túy; chỉ đạo giải quyết các vấn đề xã hội do nghiện ma túy gây ra.
2. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy.
3. Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan và chính quyền địa phương xây dựng, hướng dẫn việc tổ chức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng và cai nghiện tại cơ sở cai nghiện; xây dựng, hướng dẫn thực hiện hỗ trợ sau cai nghiện, phòng, chống tái nghiện ở cộng đồng.
4. Thực hiện thống kê về cai nghiện, hỗ trợ sau cai nghiện, phòng, chống tái nghiện theo quy định của pháp luật.
5. Hướng dẫn, chỉ đạo việc thành lập, giải thể và tổ chức hoạt động cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở hỗ trợ sau cai nghiện ma túy do cá nhân, tổ chức đầu tư, thành lập.
6. Hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc giáo dục về phòng, chống ma túy trong hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
7. Thực hiện hợp tác quốc tế về cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện và hòa nhập cộng đồng cho người nghiện ma túy.
|
Tiếp thu có chỉnh lý |
Bộ Nội Vụ: Để phù hợp với điểm a khoản 2 mục III Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; vì vậy, tại khoản 2 đề nghị bỏ cụm từ “tổ chức bộ máy”. |
Tiếp thu |
51 |
Điều 50. Trách nhiệm của Bộ Y tế
1. Ban hành danh mục, quy chế quản lý thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất sử dụng trong lĩnh vực y tế và tổ chức thực hiện quy chế đó; ban hành và chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức thực hiện quy chế quản lý chất ma túy sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa học.
2. Quy định việc nghiên cứu thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy; cấp, thu hồi giấy phép lưu hành thuốc, phương pháp cai nghiện ma túy; hướng dẫn, thủ tục xác định người nghiện ma túy; hỗ trợ về người, chuyên môn kỹ thuật y tế để cai nghiện ma túy.
3. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa học.
4. Chỉ đạo các cơ sở y tế phối hợp xét nghiệm, xác định tình trạng nghiện ma túy và cai nghiện cho người nghiện ma túy ở xã, phường, thị trấn.
5. Bộ trưởng Bộ Y tế cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu thuốc cai nghiện ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất gây nghiện, thuốc dạng phối hợp có chứa dược chất hướng thần, thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất , chất ma túy, tiền chất sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa học.
|
UBND tỉnh Lạng Sơn: khoản 2 đề nghị bổ sung cụm từ “chủ trì phối hợp với các bộ, ban, ngành và” trước cụm từ “hướng dẫn, thủ tục xác định người nghiện ma túy; hỗ trợ về người, chuyên môn kỹ thuật y tế để cai nghiện ma túy.” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, đang nghiên cứu quy định cụ thể thẩm quyền xác định nghiện trong Luật, pháp điển hóa từ Nghị định của Chính phủ |
Bộ Tư pháp: Khoản 4 Điều 3 dự thảo Luật quy định: “Tiền chất là các hóa chất cần thiết trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma túy, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành”. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 50 dự thảo Luật lại quy định Bộ Y tế có trách nhiệm: “Ban hành danh mục, quy chế quản lý thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất...”. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, chỉnh sửa cho phù hợp để bảo đảm tính thống nhất của dự thảo Luật. |
Tiếp thu |
Bộ Y tế:
- Đề nghị bổ sung: Trình Chính phủ ban hành quy định về điều kiện kinh doanh, hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược đối với các cơ sở kinh doanh thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc.
- Đề nghị sửa: Bộ trưởng Bộ Y tế cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu thuốc cai nghiện ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, chất ma túy, tiền chất sử dụng trong lĩnh vực y tế theo quy định hiện hành.
- Đề nghị bổ sung “thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc” sau cụm từ “ thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần”.
- Đề nghị bổ sung: Quản lý, hướng dẫn tổ chức thực hiện hoạt động điều trị nghiện và can thiệp giảm tác hại trong phạm vi cả nước.
Ban hành các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật trong chẩn đoán, can thiệp, cai nghiện, điều trị nghiện ma túy.
|
Tiếp thu
- Tiếp thu
- Tiếp thu
- Nghiên cứu
|
52 |
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Công thương
Phương án 1:
1. Theo dõi, hướng dẫn, đề xuất Chính phủ ban hành danh mục, quy chế quản lý tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy chế đó;
2. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp.
3. Bộ trưởng Bộ Công Thương cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu tiền chất sử dụng trong các lĩnh vực sản xuất, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này.
Phương án 2: Bỏ khoản 1
1. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp.
2. Bộ trưởng Bộ Công Thương cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu tiền chất sử dụng trong các lĩnh vực sản xuất, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này.
|
Chọn phương án 1:
- Bộ Công thương, Bộ Tư pháp, Cục Cảnh sát hình sự, Cục CS Giao thông - BCA; Cục Điều tra Hình sự - Bộ Quốc Phòng; UBND tỉnh Lạng Sơn,Tiền Giang, TP Hồ Chí Minh, Lào Cai, Bạc Liêu, UBND tỉnh và Công an tỉnh Điện Biên,Thừa Thiên Huế; CAT Ninh Bình, Tuyên Quang, Hà Nam, Hải Dương, Bắc Giang, Bình Dương, Vĩnh Long, Tiền Giang, Hà Tĩnh, Sơn La, Phú Yên, Quảng Ngãi, Bạc Liêu, Hà Nội, Bộ Quốc phòng, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ.
- Công an tỉnh Hưng Yên: Đề nghị chỉnh sửa khoản 1 như sau “Theo dõi tham mưu, đề xuất Chính phủ ban hành danh mục, quy chế quản lý tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy chế đó”; tại khoản 3 đề nghị bỏ “trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này” do điều 53 không có khoản 2.
- UBND tỉnh và Công an tỉnh Hà Giang: đề nghị sửa khoản 3 thành “… trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 50 của Luật này”.
- Công an tỉnh Vĩnh Phúc: chọn phương án 1 phù hợp thống nhất như quy định trách nhiệm đối với Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đề nghị sửa khoản 1 “ban hành danh mục, quy chế quản lý tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy chế đó”. Khoản 2 xem lại vì điều 53 không có khoản 2.
- Công an tỉnh Quảng nam: Khoản 3 đề nghị bỏ cụm từ “Khoản 2 Điều 53 và thay thế bằng Khoản 2 Điều 50”.
- Công an tỉnh Nghệ An: đề nghị phương án khác sửa đổi quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 41 Luật Phòng, chống ma túy như sau: “Bộ Công thương có trách nhiệm chủ trì, phối hợp các bộ, ngành liên quan xem xét, trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung và công bố danh mục tiền chất công nghiệp;
+ Quy định điểm b, khoản 1 và khoản 2 Điều 41 Luật Phòng, chống ma túy thành khoản 2 và khoản 3 Điều 51 như trong Dự thảo luật”.
- Bộ Tư pháp: Theo quy định tại khoản 8 Điều 2 Nghị định số 98/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương thì Bộ Công Thương có nhiệm vụ: “Quản lý nhà nước về hóa chất, tiền chất trong lĩnh vực công nghiệp, tiền chất thuốc nổ, vật liệu nổ công nghiệp theo quy định của pháp luật; hóa chất thuộc Công ước cấm phát triển, sản xuất, tàng trữ, sử dụng và phá hủy vũ khí hóa học; hóa chất sử dụng trong các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng. Do đó, Bộ Tư pháp cho rằng, Điều 51 dự thảo Luật quy định theo phương án 1 là phù hợp.
- Bộ Công thương: đề nghị chỉnh sửa như sau:
1. Theo dõi, hướng dẫn, đề xuất Chính phủ ban hành danh mục, các quy định quản lý, kiểm soát tiền chất, hỗn hợp chất chứa tiền chất trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy định đó.
2. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất trong lĩnh vực công nghiệp.
3. Bộ trưởng Bộ Công Thương cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu tiền chất trong các lĩnh vực sản xuất, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 50 của Luật này và các hỗn hợp chất có chứa tiền chất trong lĩnh vực công nghiệp.
|
- Tiếp thu
- Tiếp thu một phần
- Tiếp thu
- Nghiên cứu
- Tiếp thu
- Nghiên cứu
- Tiếp thu
- Nghiên cứu
|
Chọn phương án 2:
- UBND tỉnh và Công an tỉnh Kom Tum, nhưng cần xem xét lại cụm từ “trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này” vì điều 53 của luật này không thấy có khoản 2.
- UBND tỉnh và Công an tỉnh Cà Mau: đề nghị bỏ “khoản 2 Điều 53 của Luật này” thay bằng cụm từ “khoản 5 Điều 50 và khoản 5 Điều 55 của Luật này”.
- Công an tỉnh Quảng Ninh: xem xét điều 53 chưa có khoản 2.
- Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an; CAT Gia Lai; Văn Phòng Cơ quan CSĐT;
- Công an TP Cần Thơ, Đồng Tháp, Trà Vinh, Kom Tum, Bộ Tài Chính.
|
- Tiếp thu
|
53 |
Điều 52. Trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Ban hành và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phòng, chống ma túy; xây dựng, tổ chức thực hiện các dự án giáo dục phòng, chống ma túy trong nhà trường, các cơ sở giáo dục khác.
|
Công an tỉnh Hưng Yên: đề nghị quy định trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan lồng ghép nội dung tuyên truyền về phòng, chống ma túy vào các hoạt động giáo dục và đào tạo trong nhà trường đối với học sinh, sinh viên vì đây là những người dễ bị lôi kéo vào việc sử dụng trái phép chất ma túy. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định trong dự thảo đã đầy đủ các nội dung phòng, chống ma túy trong trường học. |
54 |
Điều 53. Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông
Chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt Nam; chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phòng, chống ma túy.
|
Bộ Thông tin và Truyền thông:
- Do Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam cũng là cơ quan báo chí, đề nghị bổ sung cụm từ “cơ quan” và sửa đổi như sau:
“Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt Nam; chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí thực hiện nhiệm
vụ tuyên truyền phòng, chống ma túy.”
- Trong trường hợp cần thiết, có thể bố cục riêng 01 Điều về trách nhiệm của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam.
|
- Tiếp thu
- Nghiên cứu
|
55 |
Điều 54. Trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan lồng ghép nội dung tuyên truyền về phòng, chống ma túy vào các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch; chỉ đạo, trực tiếp tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn các hoạt động văn hóa, dịch vụ, thể thao và du lịch không để sơ hở làm phát sinh tệ nạn ma túy.
|
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch đề nghị nghiên cứu bổ sung thêm nội dung “tăng cương chỉ đạo, hướng dẫn, phát huy hiệu quả phòng trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa góp phần bài trừ tệ nạn ma túy” |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, quy định như trong dự thảo đã đầy đủ nội dung và phù hợp |
Công an tỉnh Phú Yên: Đề nghị bổ sung cụm từ “Tội phạm” vào trước cụm từ “tệ nạn ma túy” nhằm nâng cao trách nhiệm, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn các hoạt động văn hóa, dịch vụ, thể thao và du lịch không để sơ hở làm phát sinh tội phạm và tệ nạn ma túy. |
Nghiên cứu |
56 |
Điều 55. Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
1. Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Dân tộc và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức xóa bỏ cây có chứa chất ma túy.
2. Thực hiện chương trình trợ giúp chuyển hướng sản xuất có hiệu quả, ổn định đời sống của nhân dân.
3. Ban hành danh mục, quy chế quản lý thuốc thú y chứa chất ma túy, tiền chất và tổ chức thực hiện quy chế đó.
4. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất phục vụ trong lĩnh vực nông nghiệp.
5. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
|
|
|
57 |
Điều 56. Kiểm tra, thanh tra trong quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Các cơ quan quy định tại các điều từ Điều 45 đến Điều 55 của Luật này, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
1. Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về quản lý các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống tệ nạn ma túy; cai nghiện ma túy; nghiên cứu khoa học, huấn luyện nghiệp vụ phòng, chống ma túy.
2. Xử lý các vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố, điều tra các hành vi có dấu hiệu của tội phạm về ma túy.
|
|
|
58 |
Điều 57. Kinh phí đảm bảo cho công tác phòng, chống ma túy
Kinh phí cho công tác phòng, chống ma túy do ngân sách nhà nước đảm bảo theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
|
Công an tỉnh Bình Dương: bổ sung nguồn kinh phí từ tiền, tài sản tịch thu được trong các vụ án về ma túy. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Bộ Tài Chính: trường hợp có nội dung chi đầu tư cho công tác phòng, chống ma túy thuộc nguồn vốn đầu tư công, đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc bố trí vốn đầu tư công của ngân sách trung ương cho công tác phòng, chống ma túy, theo đó đề nghị sửa như sau “Kinh phí cho công tác phòng, chống ma túy do ngân sách nhà nước đảm bảo theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật đầu tư công và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.” |
Tiếp thu |
59 |
Điều 58. Chính sách hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh vực phòng, chống ma túy trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia với các nước; khuyến khích các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam hỗ trợ lẫn nhau về cơ sở vật chất, tăng cường năng lực pháp luật, thông tin, công nghệ và đào tạo cho hoạt động phòng, chống ma túy.
|
Học viện an ninh: đề nghị bổ sung nội dung hỗ trợ hợp tác trên lĩnh vực y tế “…các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam hỗ trợ lẫn nhau về cơ sở vật chất, tăng cường năng lực pháp luật, thông tin, công nghệ, đào tạo và y tếcho hoạt động phòng, chống ma túy” |
Tiếp thu |
60 |
Điều 59. Cơ sở pháp lý trong hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Trên cơ sở các quy định của Luật này và các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện các chương trình hợp tác về phòng, chống ma túy với các cơ quan hữu quan của các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
|
|
|
61 |
Điều 60. Hợp tác quốc tế giải quyết các vụ việc cụ thể về ma túy
Việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan của Việt Nam với nước có liên quan để giải quyết vụ việc cụ thể về ma túy phải tuân theo các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước có liên quan đã ký kết hoặc tham gia, hoặc theo thỏa thuận trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước có liên quan.
|
|
|
62 |
Điều 61. Tương trợ tư pháp trong phòng, chống ma túy
1. Nhà nước Việt Nam dành ưu tiên cho nước ký kết điều ước quốc tế song phương với Việt Nam sự tương trợ tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma túy.
2. Nhà nước Việt Nam có thể từ chối tương trợ tư pháp trong các trường hợp sau:
a) Yêu cầu tương trợ tư pháp không phù hợp với các điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và pháp luật Việt Nam;
b) Việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp gây tổn hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của Việt Nam.
|
|
|
63 |
Điều 62. Thỏa thuận giữa các cơ quan tư pháp
Trong trường hợp Việt Nam và nước có liên quan không cùng tham gia điều ước quốc tế đa phương hoặc chưa ký với nhau điều ước quốc tế song phương thì các cơ quan tư pháp của Việt Nam trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn của mình, được thỏa thuận trực tiếp với cơ quan tư pháp của nước có liên quan trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy.
|
- Cục Đối ngoại, Bộ Công an: Cân nhắc có nên quy định Điều này hay không vì nội dung này đã có trong Luật Tương trợ tư pháp năm 2007. Quy định như dự thảo không đầy đủ, thiếu chính xác và không thực sự cần thiết. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
64 |
Điều 63. Chuyển giao hàng hóa có kiểm soát
Nhà nước Việt Nam thực hiện yêu cầu chuyển giao hàng hóa có kiểm soát trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia để phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội về ma túy. Quyết định sử dụng biện pháp này được tiến hành theo thỏa thuận giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và của nước có liên quan.
|
Công an tỉnh Bình Dương: xem xét quy định cho phép lực lượng phòng, chống ma túy Việt Nam được áp dụng biện pháp chuyển giao hàng hóa có kiểm soát được đấu tranh chống tội phạm ma túy trên toàn lãnh thổ VN. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND TP Hồ Chí Minh: đề nghị cần có điều luật quy định về chuyển giao hàng hóa có kiểm soát trên lãnh thổ Việt Nam để các lực lượng đấu tranh chuyên trách thực hiện trong quá trình điều tra, khám phá các vụ vận chuyển, mua bán ma túy xuyên quốc gia, có yếu tố nước ngoài |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
65 |
Điều 64. Khen thưởng trong công tác phòng, chống ma túy
Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có thành tích trong đấu tranh phòng, chống ma tuý, cai nghiện ma túy thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
|
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch đề nghị bỏ chương VII về khen thưởng và xử lý vi phạm. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Bộ Quốc phòng: Bỏ nội dung quy định về khen thưởng; rà soát nội dung quy định về xử lý vi phạm để thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan. |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Đề nghị cân nhắc bỏ Chương này để bảo đảm phù hợp quy định tại khoản
2 Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 về ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật vì nội dung các quy định tại Điều 64 và Điều 65 Chương VIII dự thảo Luật trùng lặp quy định của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013 và Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2017.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:“Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có thành tích trong đấu tranh phòng, chống ma tuý, cai nghiện ma túy, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người nghiện ma túy thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật". |
Tiếp thu |
66 |
Điều 65. Xử lý vi phạm trong công tác phòng, chống ma túy
1. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật; việc xử lý phải kiên quyết, công khai và thông báo cho cơ quan, tổ chức, chính quyền cơ sở nơi người vi phạm làm việc hoặc cư trú.
2. Người nào sử dụng tài sản, phương tiện của mình để chứa chấp hoặc tạo điều kiện cho các hoạt động trái phép về ma tuý; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền về phòng, chống ma tuý; cản trở, chống đối, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người tố giác, người làm chứng, người bị hại, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
3. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của Luật này trong khi thi hành nhiệm vụ về phòng, chống ma tuý thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
4. Người đứng đầu chính quyền các cấp vàThủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm về tình hình ma túy tại địa phương, cơ quan, đơn vị được giao phụ trách.
|
UBND tỉnh Lào Cai:
- Khoản 2 bổ sung “…nhân phẩm của người tố giác, người làm chứng, người chứng kiến, người phiên dịch, người bị hại và người thân của họ, hoặc…”
- Đề nghị bổ sung chế tài xử lý đối với cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức khi phát hiện mà che giấu, không cung cấp thông tin về người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy cho cơ quan chức năng có thẩm quyền.
|
- Đề nghị giữ nguyên như dự thảo
- Nghiên cứu
|
67 |
Điều 66. Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động phòng, chống ma túy
Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
|
|
|
68 |
Điều 67. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày ..... tháng ...... năm ........
Những văn bản hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi,bổ sung năm 2008) có nội dung không trái với Luật này tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản thay thế. Nội dung của văn bản hướng dẫn Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) trái với Luật này thì hết hiệu lực.
|
Công an tỉnh Vĩnh Phúc: đề nghị sửa cấu trúc và bổ sung để quy định nội dung Điều này thành 3 khoản gồm:
- Khoản 1 quy định về hiệu lực thi hành của Luật này;
- Khoản 2 (bổ sung) quy định về việc hết hiệu lực của Luật Phòng chống ma túy số 23/2000/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy, số 16/2008/QH12.
- Khoản 3 quy định về chuyển tiếp những văn bản hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008)
|
Tiếp thu |
Bộ Quốc phòng: đề nghị quy định về việc hết hiệu lực của Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008). |
Tiếp thu |
Bộ Nội Vụ: đề nghị rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi bổ sung 2008) hết hiệu lực để quy định cho phù hợp với khoản 2 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015. |
Tiếp thu |
UBND tỉnh Lào Cai:
- Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy được ban hành để thay thế Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH 10 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy số 16/2008/QH12. Do đó đề nghị nghiên cứu bổ sung, quy định rõ về tình trạng pháp lý của Luật Phòng, chống ma túy số số 23/2000/QH 10 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy số 16/2008/QH12 khi Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) có hiệu lực thi hành, đảm bảo tránh chồng chéo trong hệ thống pháp luật hiện hành.
- Quy định “những văn bản hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi bổ sung 2008) có nội dung không trái với Luật này tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản thay thế. Nội dung văn bản hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi bổ sung 2008) trái với luật này thì hết hiệu lực” còn chung chung dẫn đến khó khăn cho quá trình triển khai áp dụng. đề nghị rà soát các văn bản hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy 2008 có nội dung không còn phù hợ với Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) để quy định về hiệu lực thi hành cho phù hợp hoặc có quy định giao cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện rà soát, xử lý hoặc kiến nghị xử lý đối với các văn bản có nội dung không còn phù hợp đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành về Phòng, chống ma túy.
|
Tiếp thu
|
UBND TP Hải Phòng: Theo quy định tại khoản 1 điều 12 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 thì: “Văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản khác phải xác định rõ tên văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành”. Đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát, liệt kê đầy đủ các quy định, văn bản bị thay thế sau khi luật này có hiệu lực thi hành; không quy định “Những văn bản hướng dẫn Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi,bổ sung năm 2008) có nội dung không trái với Luật này tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản thay thế. Nội dung sửa của văn bản hướng dẫn Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) trái với Luật này thì hết hiệu lực.” |
Tiếp thu |
69 |
Điều 68. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật này./.
|
Công an tỉnh Vĩnh Phúc: đề nghị sửa thành “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này” cho phù hợp, đầy đủ. |
Nghiên cứu |
70 |
Các nội dung khác |
Cục Kỹ thuật nghiệp vụ BCA:
- Chương II quy định về trách nhiệm PCMT, nhưng Điều 14 chương này quy định về xử lý tài sản, phương tiện bị tịch thu trong các vụ vi phạm pháp luật là chưa phù hợp. đề nghị nghiên cứu chuyển sang Chương I hoặc chương VII cho phù hợp.
- Đề nghị nghiên cứu bổ sung nội dung quy định về theo dõi, quản lý người không có quốc tịch sử dụng trái phép chất ma túy, chính sách của nhà nước đối với người không có quốc tịch nghiện ma túy.
|
Nghiên cứu |
Bộ Tư pháp:
- Đề nghị rà soát thêm các quy định tại dự thảo Luật để bảo đảm ngôn ngữ, kỹ thuật trình bày bảo đảm phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể:
- Một số quy định còn chung chung, chưa bảo đảm tính rõ ràng của văn bản, ví dụ như: quy định:“Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy” (Điều 2); quy định “cơ quan hữu quan” nêu tại khoản 7 Điều 47 dự thảo Luật, “các quy định khác của pháp luật có liên quan” (khoản 1 Điều 48), “cơ quan, tổ chức hữu quan”, “các cơ sở khác” (khoản 3 Điều 49).
Đề nghị quy định cụ thể hơn một số quy định tại dự thảo Luật, như: quy định “các cơ quan hữu quan khác” và “các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật” (khoản 3 Điều 13); quy định:“đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền” (khoản 1 Điều 16); nội dung theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Điều 19) là các cơ quan và biện pháp, hình thức nào, được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào; quy định“số lượng hạn chế” (khoản 1 Điều 22), “kém chất lượng” (Điều 24) thì mức độ, số lượng là bao nhiêu được coi là hạn chế hoặc kém chất lượng để bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, tránh tình trạng áp dụng tùy tiện, không thống nhất trên thực tế; “các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật” (khoản 4 Điều 38) là các biện pháp cưỡng chế gì, được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào.
- Khoản 3 Điều 12 dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của cơ quan Công an, Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Viện kiểm sát, Tòa án và chính quyền các cấp chưaphù hợp với tên gọi và nội dung của Điều này là “chính sách đối với người tham gia phòng, chống ma túy”. Theo đó, đề nghị cân nhắc đưa nội dung này vào từng điều quy định về trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan cho phù hợp.
- Đề nghị cân nhắc bổ sung cụm từ “người quản lý hợp pháp” vào sau cụm từ “chủ sở hữu”, bổ sung cụm từ “hoặc sử dụng trái phép và không có lỗi trong việc để người khác sử dụng vào vi phạm pháp luật” vào sau cụm từ “bị chiếm đoạt” tại điểm a khoản 1 Điều 23 dự thảo Luật để bảo đảm tính đầy đủ, chính xác.
- Khoản 2 Điều 13 dự thảo Luật quy định: “Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện quy định tại điểm d điểm đ và điểm e khoản 1 Điều này theo yêu cầu của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy” khôngphù hợp với tên gọi và nội dung của Điều 13 dự thảo Luật: “Trách nhiệm, quyền hạn của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy”;do đó, đề nghị nghiên cứu, cân nhắc đưa nội dung này vào từng điều Điều 7, 8, 9, 10, 11 quy định về trách nhiệm cho phù hợp.
|
Nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc |
Bộ Ngoại giao:
- Đề nghị đưa chương VII lên trước chương VI để đảm bảo bố cục hợp lý, do theo quy định tại Điều 45, hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy cũng là một nội dung thuộc quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy, đồng thời Chương VI cũng có các quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan trong công tác này.
- Tại Chương VI đề nghị bổ sung điều khoản quy định về trách nhiệm của Bộ Ngoại giao: “phối hợp thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy; chỉ đạo cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tuyên truyền về phòng, chống ma túy đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, tăng cường nắm tình hình tội phạm ma túy có liên quan đến Việt Nam”.
- Để góp phần hoàn thiện hồ sơ xây dựng luật, đề nghị bổ sung các tài liệu theo quy định tại Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, đặc biệt là Báo cáo lồng gép về vấn đề bình đẳng giới và báo cáo tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến các Bộ, ngành
|
Nghiên cứu
|
CAT Ninh Thuận: đề nghị tiếp tục quy định biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và quản lý sau cai tại cơ sở cai nghiện, tại nơi cư trú |
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo |
UBND TP Hồ Chí Minh: Đề nghị bổ sung điều Luật quy định về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy. |
|
CAT Thừa Thiên Huế: đề nghị thực hiện thể thức, kỹ thuật trình bày theo quy định Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. |
Nghiên cứu |
Bộ Công thương: đề nghị bổ sung sửa đổi cho thống nhất với quy định của Luật Đầu tư 2014, cụ thể:
Theo quy định tại Phụ lục 4 của Luật Đầu tư 2014, kinh doanh tiền chất công nghiệp thuộc danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 7 Luật Đầu tư quy định như sau:
“2. Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện được quy định tại Phụ lục 4 của Luật này.
3. Điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành, nghề quy định tại khoản 2 Điều này được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCNVN là thành viên. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy định về đầu tư, kinh doanh.”
Trên cơ sở quy định của Luật Đầu tư 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định 113/2017/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hóa chất, trong đó có quy định về điều kiện sản xuất, kinh doanh tiền chất công nghiệp; hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất công nghiệp. Khoản 5 Điều 3 Nghị định 113/2017/NĐ-CP quy định tiền chất công nghiệp được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. Ngày 15/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 73/2018/NĐ-CP quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.
|
Nghiên cứu |
Công an TP Hà Nội:
- Cần quy định trong Luật riêng một Chương về công tác quản lý người nghiện ma túy.
Tiêu chí xác định người nghiện ma túy:
+ Được cơ quan y tế có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện (có phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện của người có thẩm quyền).
+ Người đang tham gia điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuôc thay thế theo quy định của Chính phủ.
+ Người đã hoặc đang tham gia một trong các hình thức cai nghiện nay có tài liệu chứng minh việc tái sử dụng trái phép chất ma túy.
+ Người đã một lần bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm thứ 2.
|
Đề nghị giữ nguyên như dự thảo, vì việc xác định tình trạng nghiện phải do người có thẩm quyền xác định theo hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế |
- Công an tỉnh Nghệ An:
+ Đối với các trường hợp sử dụng trái phép chất ma túy không chấp hành các quy định về nghĩa vụ của họ như: không hợp tác với cơ quan Công an, không khai báo về tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy, trong thời gian quản lý, theo dõi, tiếp tục có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bỏ đi nơi khác sinh sống mà không khai báo… thì trong dự thảo Luật chưa quy định việc áp dụng các biện pháp quản lý nghiêm khắc hơn
+ Đề nghị quy định về việc thành lập các trung tâm điều trị người nghiện ma túy, người sử dụng trái phép chất ma túy ngoài công lập, nhằm thu hút các nguồn lực ngoài xã hội vào công tác cai nghiện, điều trị người nghiện, người sử dụng ma túy.
|
- Nghiên cứu đề xuất quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính
- Nghiên cứu
|
Trên đây là Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý hồ sơ dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) của Bộ Công an./.
Báo cáo thẩm định dự án Luật Phòng, chống ma túy của Bộ Tư pháp
Cơ quan ban hành: Bộ Tư pháp
Ngày ban hành: 31/07/2020
Số hiệu:154/BCTĐ-BTP
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
3.-BG-thẩm-định-BTP-compressed--1-.pdf
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm.
Tờ trình Dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành: 26/08/2020
Số hiệu:386/TTr-CP
Mô tả:
Tài liệu phục vụ phiên họp thứ 48 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
tranthithuy-2020943513918241-1.-TO-TRINH.doc
CHÍNH PHỦ
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số: 386/TTr-CP
|
Hà Nội, ngày 26tháng8năm 2020
|
TỜ TRÌNH
Dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT
1. Cơ sở chính trị, pháp lý
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: "Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế".
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về "tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy" (gọi tắt là Chỉ thị 36) đã đưa ra yêu cầu "Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi cho công tác phòng, chống ma túy. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản pháp luật khác có liên quan theo hướng đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn công tác phòng, chống ma túy, có chế tài nghiêm khắc hơn đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy...”.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng rất quan tâm, chỉ đạo sát sao công tác phòng, chống ma túy, đặc biệt nhấn mạnh đến công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy. Ngày 16/9/2016, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 295/TB-VPCP thông báo Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, theo đó đồng chí Phó Thủ tướng giao Bộ Công an “... Nghiên cứu trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy...”. Ngày 05/6/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 25/CT-TTg về "tăng cường công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy trong tình hình mới" (gọi tắt là Chỉ thị 25), trong đó xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống ma túy theo hướng bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tăng cường công tác phòng ngừa, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đẩy mạnh công tác cai nghiện tự nguyện, giảm cai nghiện bắt buộc”, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an “Chủ trì tổng kết, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy...”.
Nghị quyết số 121/NQ-CP ngày 21/12/2019 của Chính phủ về Hội nghị Chính phủ với địa phương và Phiên họp thường kỳ tháng 12 năm 2019, Chính phủ đã thống nhất cơ bản thông qua các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) do Bộ Công an trình.
Ngày 29/02/2020 Văn phòng Chính phủ có Công văn số 1562/VPCP-PLvề việc chỉnh lý dự thảo Đề nghị Chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh năm 2021, trong đó Thủ tướng Chính phủ phân công Bộ Công an chủ trì soạn thảo dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
Nghị quyết số 106/2020/QH14 ngày 10/6/2020 của Quốc hội khóa XIV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 đã bổ sung dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, theo đó dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV (tháng 10/2020) và xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 11 khóa XIV (tháng 3/2021).
Tại Phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 7 năm 2020 tổ chức vào ngày 12/8/2020, Chính phủ đã nhất trí trình Quốc hội dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
2. Cơ sở thực tiễn
Việc triển khai thực hiện Luật Phòng, chống ma túy đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực như: công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy đi vào nề nếp và có hiệu quả; nhận thức của cán bộ, công chức các cấp và đông đảo người dân trong xã hội về tác hại của ma túy và trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân được nâng lên; công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy đã có sự đổi mới về nội dung đa dạng về hình thức, huy động được sự tham gia của nhiều cấp, nhiều ngành, đông đảo quần chúng, nhiều mô hình tuyên truyền giáo dục phòng, chống ma túy có hiệu quả được triển khai, nhân rộng; từng bước đổi mới công tác cai nghiện ma túy; công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy đạt được nhiều kết quả; phát hiện, điều tra, khám phá nhiều tổ chức, đường dây tội phạm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy lớn trong nước và xuyên quốc gia, thu giữ lượng ma túy rất lớn. Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy được thực hiện nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật. Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã tạo nền tảng pháp lý cho việc thực hiện công tác phòng, chống ma túy. Những kết quả triển khai thực hiện Luật Phòng, chống ma túy đã giúp kiềm chế sự gia tăng của tội phạm và tệ nạn ma túy, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Việc ban hành và thực hiện có hiệu quả Luật Phòng, chống ma túy đã thể hiện trách nhiệm quốc tế của Việt Nam trong thực thi các Công ước quốc tế về phòng, chống ma túy cũng như các Nghị quyết liên quan của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh và đa dạng của nền kinh tế, đời sống văn hóa – xã hội nên một số quan hệ xã hội mới liên quan đến phòng, chống ma túy xuất hiện nhưng chưa có quy định điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Chưa có quy định về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy:
Số người sử dụng trái phép chất ma túy trong những năm vừa qua ngày càng gia tăng, đặc biệt là sử dụng ma túy tổng hợp, hình thức sử dụng phong phú, đa dạng từ hút, hít, tiêm chích sang uống, ngậm (ma túy tổng hợp, thuốc hướng thần)... Tình hình sử dụng trái phép chất ma túy có xu hướng gia tăng đang diễn biến phức tạp, nhất là từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có hiệu lực thi hành thì hành vi sử dụng trái phép chất ma túy không bị coi là tội phạm và không bị xử lý hình sự. Sự phát triển bùng nổ của các loại hình kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự như vũ trường, quán Bar, nhà hàng
[1]…. đã tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng tổ chức sử dụng ma túy tổng hợp.Nhiều trường hợp sử dụng ma túy, nhất là ma túy tổng hợp, ngay từ lần sử dụng đầu tiên đã gây ra nguy hiểm cho chính bản thân mình và gây mất an ninh, trật tự;đặc biệt người sử dụng ma túy tổng hợp bị loạn thần (ngáo đá), không kiểm soát được hành vi gây ra các vụ thảm án, gây hoang mang trong dư luận nhân dân, có những vụ đối tượng giết chính người thân của mình. Trong khi đó, chưa có quy định của pháp luật về quản lý đối tượng này nên mặc dù thấy được tính chất nguy hiểm, hậu quả gây ra cho xã hội, nhưng quản lýngười sử dụng trái phép chất ma túy chưa được quan tâm một cách đúng mức, dẫn đến hậu quả do những người sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội trong thời gian qua là vô cùng nghiêm trọng, gây bất an trong nhân dân. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định hiện nay chỉ bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000đ là chưa đủ sức răn đe. Do đó, cần phải quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy và "có chế tài nghiêm khắc hơn đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy" theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị 36 của Bộ Chính trị.
Thứ hai:Quy định về công tác cai nghiện còn một số bất cập:
Số người nghiện gia tăng, năm 2009 cả nước có 146.731 người nghiện có hồ sơ quản lý, đến tháng 12/2019 cả nước có 235.314 người nghiện có hồ sơ quản lý (tăng 60%), xuất hiện nhiều chất ma túy mới, nhất là ma túy tổng hợp. Công tác lập hồ sơ đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gặp khó khăn, người nghiện ở ngoài xã hội nhiều, tác động rất lớn đến tình hình trật tự, an toàn, xã hội; đội ngũ cán bộ làm công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu, hiệu quả không cao, nhiều địa phương làm mang tính hình thức; công tác quản lý sau cai tại nơi cư trú và tại cơ sở quản lý sau cai không còn phù hợp; chưa có quy định về cai nghiện ma túy với người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài bị trục xuất về nước do nghiện ma túy. Công tác xã hội hóa cai nghiện còn nhiều khó khăn, hiện nay các cơ sở cai nghiện do các tổ chức, cá nhân thành lập chưa được quan tâm và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, trong khi đây là lĩnh vực lợi nhuận không cao nên không thu hút được các nhà đầu tư. Cơ sở vật chất ở một số cơ sở cai nghiện còn thiếu, xuống cấp, chưa được quan tâm đầu tư thỏa đáng, dẫn đến khó khăn, bất tiện trong sinh hoạt, dễ gây bức xúc cho học viên. Các học viên sau khi cai nghiện ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc trở về cộng đồng khó kiếm việc làm để ổn định cuộc sống.
Thứ ba:Luật Phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2008 có một số nội dung chưa bảo đảm sự thống nhất đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Cụ thể như: Mâu thuẫn với Luật Xử lý vi phạm hành chính về quy định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Luật phòng, chống ma túy quy định việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch UBND cấp huyện, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Mâu thuẫn với Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự về thẩm quyền điều tra của Bộ đội Biên phòng, cụ thể: Luật Phòng, chống ma túy quy định cơ quan chuyên trách Phòng, chống ma túy của Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát Biển có chức năng phòng ngừa, ngăn chặn hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thầntại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soát; Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Cơ quan điều tra quy định thẩm quyền điều tra của Bộ đội Biên phòng ngoài việc có thẩm quyền điều tra về tội phạm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, còn có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra với các tội khác như: tội trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác chứa chất ma túy; sản xuất trái phép chất ma túy; chiếm đoạt chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; Cảnh sát Biển được tiến hành điều tra đối với các tội: Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy; chiếm đoạt chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy. Điều 259 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thêm một số hành vi mới như: "Vi phạm quy định về tạm nhập, tái xuất, giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát, cho phép sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần" nhưng trong Luật Phòng, chống ma túy chưa quy định nghiêm cấm các hành vi này. Sự không thống nhất giữa Luật Phòng, chống ma túy với các Bộ luật và luật nêu trên đã ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến hiệu quả công tác phòng, chống ma túy.
Ngoài ra còn một số vấn đề của thực tiễn đang đặt ra, nhưng luật Phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 chưa đáp ứng được, cụ thể như sau:
Phòng, chống ma túy là lĩnh vực đặc thù, có nhiều hiểm nguy, trung bình trong 05 năm gần đây, cả nước phát hiện khoảng 20.000 vụ với trên 30.000 đối tượng vi phạm pháp luật về ma túy, khối lượng chất ma túy thu giữ tính bằng tấn. Tội phạm ma túy trong nước tổ chức, câu kết với các đối tượng người nước ngoài ngày càng chặt chẽ, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu các tổ chức tội phạm ma túy xuyên quốc gia phần lớn sinh sống ở nước ngoài. Cán bộ trong lĩnh vực phòng, chống ma túy luôn đứng trước các hiểm nguy, hy sinh, nguy cơ lây nhiễm HIV... Nhưng Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) chưa tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho cơ chế phối hợp điều tra của lực lượng điều tra trong nước với các nước, các tổ chức phòng, chống ma túy quốc tế; chưa có chính sách ưu đãi đối với lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
Một số hoạt động chưa được đưa vào kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy như tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, đây là các hoạt động trên thực tiễn diễn ra thường xuyên, rất dễ bị các đối tượng lợi dụng hoạt động phạm tội về ma túy. Một số loại thuốc có chứa chất ma túy, tiền chất cũng chưa được quy định kiểm soát. Thực tế các đối tượng đã lợi dụng sản xuất ma túy tổng hợp từ các loại thuốc này
[2]. Tính đến nay, cả nước đã phát hiện, bắt giữ 44 vụ sản xuất trái phép chất ma túy (trong đó có 01 vụ sản xuất Heroine, 43 vụ sản xuất ma túy tổng hợp), 15 vụ sản xuất ma túy tổng hợp bằng cách chiết xuất tiền chất từ thuốc tân dược (chiếm 35%).
Xuất phát từ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) là yêu cầu cấp thiết, khách quan để thể chế hóa quan điểm của Đảng, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng, chống ma túy, đồng thời bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống ma túy trong tình hình mới.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
1. Mục đích
- Việc xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) nhằm tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống ma túy và khắc phục những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2008 góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống ma túy, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phòng, chống ma túy. Trong đó, lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt, chủ trì công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
- Nâng cao nguồn lực cho công tác phòng, chống ma túy, củng cố lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy. Quản lý tốt người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy, góp phần ngăn chặn, đấu tranh từng bước loại trừ tệ nạn ma túy, tội phạm ma túy ra khỏi đời sống xã hội.
- Mở rộng tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm ma túy. Ngăn chặn có hiệu quả nguồn ma túy thẩm lậu vào trong nước, kiên quyết không để Việt Nam là địa bàn trung chuyển ma túy quốc tế.
2. Quan điểm chỉ đạo
-Quán triệt và thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống ma túy, đặc biệt là tại Chỉ thị số 36 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 25 của Thủ tướng Chính phủ.
- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến công tác phòng, chống ma túy.
- Tổng kết đầy đủ và toàn diện về công tác phòng, chống ma túy trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống ma túy hiện nay và trong những năm tiếp theo.
- Đảm bảo phù hợp với thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là 03 Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về ma túy các năm 1961, 1971, 1988, các cam kết quốc tế, khu vực và một số công ước quốc tế về quyền con người. Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn công tác phòng, chống ma túy của một số quốc gia trên thế giới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
Quá trình xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công an tiến hành soạn thảo theo đúng trình tự, thủ tục của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, cụ thể như sau:
1. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập theo Quyết định số 1532/QĐ-BCA-C04, ngày 04/3/2020 và ban hành Kế hoạch xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) theo Quyết định số 1533/QĐ-BCA-C04 ngày 04/3/2020 của Bộ Công an.
2. Xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
3. Đăng tải dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), dự thảo Tờ trình Chính phủ trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Cổng Thông tin điện tử của Bộ Công an; tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ủy ban nhân dân và Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các đơn vị thuộc Bộ Công an, thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập đối với dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) và dự thảo Tờ trình Chính phủ.
4. Tổ chức và tham dự các cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm trong qua trình xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) nhằm trao đổi, thảo luận về các nội dung sửa đổi, bổ sung và xây dựng các quy định mới.
5. Ngày 28/7/2020, Bộ Tư pháp đã tổ chức cuộc họp thẩm định dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
6. Ngày 12/8/2020 Chính phủ tổ chức phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 7/2020 nhất trí trình Quốc hội dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) để xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV.
7. Ngày 26/8/2020 Văn phòng Chính phủ có công văn số 7099/VPVP-PL về việc tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi); trong đó, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến giao Bộ trưởng Bộ Công an thừa ủy quyền Thủ tướng, thay mặt Chính phủ, ký Tờ trình Quốc hội khóa XIV về dự án Luật để xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2020).
Trên cơ sở ý kiến của thành viên Chính phủ,Chính phủ đãtổng hợp, nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), xin trình Quốc hội xem xét cho ý kiến.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Bố cục
Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) gồm 8 chương, 69 điều, so với Luật phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 tăng 13 điều, trong đó giữ nguyên 7 điều, sửa đổi, bổ sung47 điều và 15 điều mới;cụ thể như sau:
Chương I. Những quy định chung
Chương II. Trách nhiệm phòng, chống ma túy
Chương III. Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Chương IV. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
Chương V. Cai nghiện ma túy
Chương VI. Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Chương VII. Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Chương VIII. Điều khoản thi hành
2. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy, công tác cai nghiện và quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, tạo môi trường lành mạnh, an ninh, an toàn góp phần phục vụ phát triển kinh tế xã hội; tăng cường hợp tác quốc tế; việc xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống ma túy trong tình hình mới và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Quá trình xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Cơ quan chủ trì đã bám sát 03 chính sách được Chính phủ thông qua.Trên cơ sở kế thừa các Điều luật của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2008,dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và bổ sung nhiều nội dung mới so với Luật Phòng, chống ma túy hiện hành.
Bổ sung tiêu đề cho tất cả các điều luật
[3], sửa đổi, bổ sung một số khái niệm, nội dung đã có;xây dựng chương mới "Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy" (Chương IV); về cai nghiện ma túy quy định cụ thể nội dung nhà nước và ngân sách nhà nước đảm bảo xây dựng cơ sở cai nghiện công lập và tổ chức cai nghiện bắt buộc; hỗ trợ một phần kinh phí cho người nghiện cai nghiện tự nguyện. Khuyến khích người nghiện cai nghiện tự nguyện, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Khuyến khích thành lập cơ sở cai nghiện tư nhân. Các cá nhân, tổ chức đầu tư vào công tác cai nghiện được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật;biện pháp cai nghiện tại cộng đồng, gia đình theo hướng giao cho cơ quan có chuyên môn thực hiện, đảm bảo hiệu quả công tác cai nghiện; bãi bỏ biện pháp quản lý sau cai để phù hợp với quy định của Hiến pháp về quyền con người, thay biện pháp quản lý sau cai bằng công tác hỗ trợ xã hội sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện để khuyến khích, động viên người nghiện không tái nghiện. Căn cứ quy định tại Khoản 3, Điều 8 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, không quy định Chương "Khen thưởng và xử lý vi phạm". Nội dung các quy định về sửa đổi, bổ sung và quy định mới, cụ thể như sau:
2.1.Chương I - Các quy định chung
Gồm có 5 Điều, từ Điều 1 đến Điều 5. Dự thảo Luật đã kế thừa và bổ sung một số nội dung cụ thể như sau:
a) Phạm vi áp dụng
Mở rộng thêm phạm vi áp dụng của Luật so với Luật Phòng, chống ma túy hiện hành, cụ thể: Luật này quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạmvàtệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đếnma túy; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, cai nghiện ma túy, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy, hợp tác quốc tế về ma túy và quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
b) Bổ sung đối tượng áp dụng của luật
Bổ sung Điều luật quy định đối tượng áp dụng của luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy (Điều 2).
c) Giải thích từ ngữ
- Tách khái niệm "tội phạm về ma túy" ra khỏi "tệ nạn ma túy" nhằm xác định đúng tính chất của "tội phạm về ma túy" và "tệ nạn ma túy" vì tệ nạn là hiện tượng xã hội còn tội phạm là hành vi cụ thể được qui định trong Bộ luật Hình sự cần tập trung đấu tranh.
- Bổ sung khái niệm: người sử dụng trái phép chất ma túy là người tự ý hoặc đồng ý cho người khác đưa chất ma túyvào cơ thể mình mà không được sự cho phép của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền.
Việc bổ sung khái niệm này để phân biệt với “người nghiện ma túy”, ngăn chặn họ tiếp tục sử dụng và dẫn đến nghiện ma túy, kịp thời giám sát, quản lý, giáo dục không để họ gây rối trật tự, đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và tài sản của người khác.
- Bổ sung khái niệm cai nghiện ma túy: Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tâm lý, xã hội và y tế giúp người nghiện thay đổi nhận thức, hành vi, phục hồi thể chất, tinh thần nhằm giảm sử dụng ma túy, tác hại của ma túy. Việc bổ sung khái niệm này giúp nhận thức đầy đủ về công tác cai nghiện ma túy.
- Bổ sung khái niệm thuốc tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Đây là loại thuốc cần đưa vào hoạt động kiểm soát liên quan đến ma túy, không để tội phạm lợi dụng sản xuất ma túy từ các loại thuốc này.
d) Về chính sách phòng, chống ma túy
Bổ sung quy định để đảm bảo điều kiện cho công tác phòng, chống ma túy, tăng cường nguồn lực và năng lực cho các cơ quan chuyên trách phòng, chống ma túy, cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Cụ thể: Kinh phí cho công tác phòng, chống ma túy do ngân sách nhà nước đảm bảo theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật đầu tư công và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, các cơ quan thực hiện công tác cai nghiện ma túy, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
2.2.Chương II - Trách nhiệm phòng, chống ma túy
Gồm có 7 Điều, từ Điều 6 đến Điều 12. Dự thảo đã kế thừa các quy định cũ và sửa đổi, bổ sung các nội dung, cụ thể như sau:
a) Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
Việc quy định cá nhân, gia đình có trách nhiệm: “Đấu tranh với các hành vi trái phép về ma túy của thân nhân và của người khác" không khả thi, rất khó khăn để thực hiện. Vì vậy, Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đã quy định theo hướng cá nhân, tổ chức có trách nhiệm giúp đỡ, cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm ma túy.
b) Trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
- Bổ sung nội dung quy định để cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân đấu tranh với tội phạm ma túy hiệu quả hơn: "Phối hợp với cơ quan chức năng chống tội phạm ma túy của các nước và các tổ chức chống tội phạm ma túy quốc tế để trao đổi thông tin tiến hành điều tra các vụ án liên quan đến tội phạm ma túy xuyên quốc gia".
- Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy thuộc Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan trong phạm vi địa bàn, khu vực quản lý được phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy chứ không chỉ hạn chế ở các hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần như quy định của Luật hiện hành. Việc bổ sung nội dung này để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy của các lực lượng Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan.
2.3. Chương III - Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Gồm có 10 Điều, từ Điều 13 đến Điều 22. Về cơ bản nội dung được kế thừa như quy định cũ, trong đó có nội dung được bổ sung như sau:
Bổ sung thuốc tiền chất;nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất cần được kiểm soát, không để tội phạm lợi dụng sản xuất ma túy tổng hợp.
Bổ sung hoạt động tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập là những hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy cần phải kiểm soát.
Đối với các hoạt động quản lý nhà nước về tiền chất đã được quy định cụ thể và thực hiện theo pháp luật về Dược, pháp luật về Hóa chất, vì vậy không quy định cụ thể trong luật này.
2.4. Chương IV - Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
Gồm có 5 Điều. Đây là chương được quy định mới trong luật. Xuất phát từ tình hình phức tạp của người sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian vừa qua, nhưng pháp luật chưa có quy định quản lý những người này. Qua khảo sát thực tiễn, dự thảo luật đã xây dựng các quy định nhằm quản lý tốt người sử dụng trái phép chất ma túy. Việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy được áp dụng ngay lần đầu người đó sử dụng trái phép chất ma túy, mục đích là ngăn chặn không để họ tiếp tục sử dụng, từ đó góp phần làm giảm người nghiện ma túy, điều này có tác dụng rất tốt ngay chính với người sử dụng trái phép chất ma túy, gia đình của họ và xã hội. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành. Trong thời gian quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy nếu người đó thuộc đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Xử lý vi phạm hành chính, nếu được xác định tình trạng nghiện thì thực hiện theo các quy định về công tác cai nghiện. Các nội dung cụ thể như sau:
a) Xác định người sử dụng trái phép chất ma túy
- Người bị coi là người sử dụng trái phép chất ma túy là người có xét nghiệm dương tính với chất ma túy, việc sử dụng chất ma túy của người đó không được pháp luật cho phép và chưa xác định được tình trạng nghiện.
- Cơ quan Y tế và Công an có thẩm quyền xét nghiệm.
- Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là biện pháp phòng ngừa nhằm giúp người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật của họ.
b) Chính sách quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xãgiao Công an cấp xã chủ trì phối hợp cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng cấp và gia đình quản lý, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túytổ chức phân công cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng cấp phối hợp với gia đình giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy.
- Quy định rõ trách nhiệm người sử dụng trái phép chất ma túy; gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan.
- Nhà nước đảm bảo kinh phí cho xét nghiệm và đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm.
- Thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy: 01 năm đối với người sử dụng trái phép chất ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên; 06 tháng đối với người sử dụng trái phép chất ma túy dưới 18 tuổi, kể từ ngày xác định được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy gần nhất của người đó.
c) Thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy
- Quy định Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn quản lý.
- Bộ Công an có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn và thực hiện việc thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy.
2.5. Chương V - Cai nghiện ma túy
Gồm có 20 Điều, từ Điều 28 đến Điều 47. Nội dung của Chương V được sửa đổi cơ bản và toàn diện, khắc phục tình trạng bất cập trong công tác cai nghiện thời gian qua, đảm bảo tính đồng bộ với pháp luật Xử lý vi phạm hành chính, đồng thời bổ sung các quy định mới đảm bảo công tác cai nghiện hiệu có hiệu quả, cụ thể như sau:
- Quy định về xác định tình trạng nghiện, người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện. Đây là quy định nhằm giúp phân biệt phân biệt người nghiện với người sử dụng để có cách ứng xử phù hợp.
- Về chính sách cai nghiện theo hướng tạo điều kiện cho người nghiện cai nghiện tự nguyện, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; nếu người nghiện vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy hoặc vi phạm bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc lợi dụng việc cai nghiện tự nguyện để không bị áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc thì sẽ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nhà nước đảm bảo kinh phí cho công tác cai nghiện bắt buộc, xây dựng các cơ sở công lập; hỗ trợ một phần kinh phí cho công tác cai nghiện tự nguyện. Có chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư vào công tác cai nghiện. Khuyến khích thành lập các cơ sở cai nghiện tư nhân. Cán bộ làm việc tại cơ sở cai nghiện công lập được sử dụng trang phục thống nhất theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để góp phần bảo vệ cho cán bộ, đồng thời có cơ sở để xử lý các hành vi chống đối người thi hành công vụ trong các cơ sở cai nghiện công lập, góp phần không để xảy ra tình trạng gây rối, bỏ trốn tại các cơ sở cai nghiện ma túy công lập đối với người nghiện bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Quy định về hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân được tổ chức hoạt động cai nghiện tự nguyện. Chỉ có cơ sở cai nghiện ma túy công lập mới tiếp nhận người nghiện bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tại các cơ sở có bố trí các khu riêng phù hợp với từng đối tượng và để đảm bảo quyền lợi cho người cai nghiện.
- Sửa đổi các quy định về cai nghiện tại gia đình, cộng đồng. Theo đó, việc tiến hành cai nghiện tại gia đình, cộng đồng do cơ quan chuyên môn thực hiện.Cơ sở cai nghiện ma túy công lập, cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân và các cơ sở y tế, xã hội khác có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được phép cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy tự nguyệntại gia đình, cộng đồng.Cơ sở cung cấp dịch vụ cai nghiện có trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ cai nghiện ma túy; niêm yết công khai giá dịch vụ cai nghiện ma túy theo quy định của pháp luật. Việc đổi mới công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng theo mô hình này không làm phát sinh tổ chức bộ máy mới và ngân sách nhà nước.
Giao cho Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm quản lý, kiểm tra, hướng dẫn, tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng trên địa bàn quản lý.
- Bổ sung các quy định cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân theo hình thức hợp đồng cung cấp dịch vụ cai nghiện giữa các cơ sở đối với người nghiện. Thời gian cai nghiện thực hiện theo thỏa thuận giữa người nghiện, gia đình người nghiện với cơ sở cai nghiện, nhưng thời gian tối thiểu là 6 tháng.
- Quy định cụ thể các trường hợp áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên và cai nghiện cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Đối tượng, trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện từ đủ 18 tuổi trở lên vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thực hiện theo pháp luật về Xử lý vi phạm hành chính. Đối tượng, trình tự, thủ tục đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy.
Người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thuộc trường hợp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì thẩm quyền quyết định do Tòa án nhân dâp cấp huyện trên cơ sở tham khảo ý kiến của cơ quan bảo vệ trẻ em cùng cấp và không coi là việc xử lý vi phạm hành chính.Cơ sở cai nghiện đảm bảo quyền được học văn hóa cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Có chế độ cai nghiện riêng, phù hợp và đảm bảo quyền trẻ em cho độ tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
- Bổ sung quy định về cai nghiện ma túy cho người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài bị trục xuất về nước do nghiện ma túy. Theo đó tạo điều kiện cho người nước ngoài cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện, nếu không đăng ký cai nghiện tự nguyện thì trục xuất về nước. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài bị trục xuất về nước do nghiện ma túy thì phải đến cơ quan chuyên môn xác định tình trạng nghiện, nếu có kết quả xác định là nghiện thì thực hiện theo các quy định về cai nghiện.
- Không quy định biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng, vì thực tế biện pháp này không đủ nguồn lực về con người, vật chất và không hiệu quả. Những năm gần đây, nhiều địa phương không triển khai thực hiện được hoặc thực hiện mang tính hình thức.
- Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập mà bị phát hiện thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu bị tòa án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Bổ sung quy định về công tác thống kê người nghiện ma túy cho các Bộ, ngành, trong đó Bộ Công an có trách nhiệm tổng hợp số liệu chung về người nghiện. Đảm bảo công tác thống kê người nghiện được chính xác, kịp thời.
2.6. Chương VI - Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Gồm 13 Điều, từ Điều 48 đến Điều 60. Về cơ bản nội dung chương này kế thừa các quy định cũ; sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các Bộ cho phù hợp với các nội dung được sửa đổi, bổ sung trong luật. Cụ thể như sau:
- Bổ sung trách nhiệm cho Bộ Công an về giám sát, quản lý, theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy. Bộ Quốc phòng về phối hợp với cơ quan hữu quan của nước khác để phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy và kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở khu vực biên giới và trên biển. Bộ Y tế trong quản lý thuốc tiền chất; nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thông quản lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Quy định trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho phù hợp với các nội dung về công tác cai nghiện ma túy được sửa đổi.
- Phân công trách nhiệm cụ thể cho Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy, theo đó:
Bộ Thông tin và truyền thông có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan; chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phòng, chống ma túy.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan lồng ghép nội dung tuyên truyền về phòng, chống ma túy vào các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch; chỉ đạo, trực tiếp tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn các hoạt động văn hóa, dịch vụ, thể thao và du lịch không để sơ hở làm phát sinh tệ nạn ma túy.
Quy định cụ thể như trên để nâng cao trách nhiệm của từng Bộ, đồng thời phù hợp với chức năng của các Bộ.
2.7. Chương VII - Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Gồm 7 Điều, từ Điều 61 đến Điều 67. Các quy định về Hợp tác quốc tế phòng, chống ma túy được kế thừa quy định cũ. Đây là quy định mang tính nguyên tắc, chính sách. Trong đó có sửa đổi quy định về các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp thực hiện theo pháp luật về tương trợ tư pháp để đảm bảo tính thống nhất pháp luật.
2.8. Chương VIII - Điều khoản thi hành
Dự thảo Luật quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm quy định chi tiết tại các điều, khoản được giao trong luật.
Trên đây là Tờ trình Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Chính phủtrình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
Nơi nhận:
- Như trên (80 bản);
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Văn phòng Quốc hội;
- Tổng Thư ký Quốc hội;
- Ủy ban về các vấn đề về xã hội của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Tư pháp;
- Lưu: VT, PL (05 bản).
|
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
(Đã ký)
Đại tướng Tô Lâm
|
[1] Theo thống kê của Cục C04, năm 2019 cả nước có 3.879 cơ sở kinh doanh có điều kiện (Vũ trường, quán Bar, nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng, Club…) có biểu hiện liên quan đến tội phạm và tệ nạn ma túy. Đã xử lý hành chính 13.868 đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại các cơ sở này; độ tuổi dưới 18 chiếm 4%, từ đủ 18 đến 35 tuổi chiếm 85%, từ 35 tuổi trở lên chiếm 11%.
Theo báo cáo ma túy thế giới, năm 2018 trên toàn thế giới ước tính có 450.000 ca tử vong do sử dụng ma túy năm 2015; trong số đó có 167.750 người chết do liên quan trực tiếp đến các rối loạn sử dụng ma túy, chủ yếu là quá liều.
[2]Năm 2017 Công an TP Hà Nội bắt giữ 04 vụ/04 đối tượng, Công an Lạng Sơn bắt 02 vụ chiết xuất Ketamin từ thuốc thú y KetamilInjection, thuốc gây mê cho động vật khi phẫu thuật.
[3] Theo quy định tại khoản 3, Điều 10, Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14, ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về Quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và khoản 3, Điều 62 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:"Phần, chương, mục, tiểu mục, điều trong văn bản phải có tiêu đề. Tiêu đề là cụm từ chỉ nội dung chính của phần, chương, mục, tiểu mục, điều".
Tờ trình Dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ hoạt động thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề Xã hội.
1.-TO-TRINH-QH.docx
CHÍNH PHỦ
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số: /TTr-CP
|
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
|
TỜ TRÌNH
Dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi)
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT
1. Cơ sở chính trị, pháp lý
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: "Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế".
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về "tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy" (gọi tắt là Chỉ thị 36) đã đưa ra yêu cầu "Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi cho công tác phòng, chống ma túy. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản pháp luật khác có liên quan theo hướng đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn công tác phòng, chống ma túy, có chế tài nghiêm khắc hơn đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy...”.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng rất quan tâm, chỉ đạo sát sao công tác phòng, chống ma túy, đặc biệt nhấn mạnh đến công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy.Ngày 16/9/2016, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 295/TB-VPCP thông báo Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, theo đó đồng chí Phó Thủ tướng giao Bộ Công an “... Nghiên cứu trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy...”. Ngày 05/6/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 25/CT-TTg về "tăng cường công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy trong tình hình mới" (gọi tắt là Chỉ thị 25), trong đó xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống ma túy theo hướng bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tăng cường công tác phòng ngừa, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đẩy mạnh công tác cai nghiện tự nguyện, giảm cai nghiện bắt buộc”, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an “Chủ trì tổng kết, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy...”.
Nghị quyết số 121/NQ-CP ngày 21/12/2019 của Chính phủ về Hội nghị Chính phủ với địa phương và Phiên họp thường kỳ tháng 12 năm 2019, Chính phủ đã thống nhất cơ bản thông qua các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) do Bộ Công an trình.
Ngày 29/02/2020 Văn phòng Chính phủ có Công văn số 1562/VPCP-PLvề việc chỉnh lý dự thảo Đề nghị Chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh năm 2021, trong đó Thủ tướng Chính phủ phân công Bộ Công an chủ trì soạn thảo dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
Nghị quyết số 106/2020/QH14 ngày 10/6/2020 của Quốc hội khóa XIV về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 đã bổ sung dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, theo đó dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV (tháng 10/2020) và xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 11 khóa XIV (tháng 3/2021).
Tại Phiên họp Chính phủ chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 7 năm 2020 tổ chức vào ngày 12/8/2020, Chính phủ đã nhất trí trình Quốc hội dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
2. Cơ sở thực tiễn
Việc triển khai thực hiện Luật Phòng, chống ma túy đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực như: công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy đi vào nề nếp và có hiệu quả; nhận thức của cán bộ, công chức các cấp và đông đảo người dân trong xã hội về tác hại của ma túy và trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân được nâng lên; công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy đã có sự đổi mới về nội dung đa dạng về hình thức, huy động được sự tham gia của nhiều cấp, nhiều ngành, đông đảo quần chúng, nhiều mô hình tuyên truyền giáo dục phòng, chống ma túy có hiệu quả được triển khai, nhân rộng; từng bước đổi mới công tác cai nghiện ma túy; công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy đạt được nhiều kết quả; phát hiện, điều tra, khám phá nhiều tổ chức, đường dây tội phạm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy lớn trong nước và xuyên quốc gia, thu giữ lượng ma túy rất lớn. Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy được thực hiện nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật. Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã tạo nền tảng pháp lý cho việc thực hiện công tác phòng, chống ma túy. Những kết quả triển khai thực hiện Luật Phòng, chống ma túy đã giúp kiềm chế sự gia tăng của tội phạm và tệ nạn ma túy, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Việc ban hành và thực hiện có hiệu quả Luật Phòng, chống ma túy đã thể hiện trách nhiệm quốc tế của Việt Nam trong thực thi các Công ước quốc tế về phòng, chống ma túy cũng như các Nghị quyết liên quan của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh và đa dạng của nền kinh tế, đời sống văn hóa – xã hội nên một số quan hệ xã hội mới liên quan đến phòng, chống ma túy xuất hiện nhưng chưa có quy định điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Chưa có quy định về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy:
Số người sử dụng trái phép chất ma túy trong những năm vừa qua ngày càng gia tăng, đặc biệt là sử dụng ma túy tổng hợp, hình thức sử dụng phong phú, đa dạng từ hút, hít, tiêm chích sang uống, ngậm (ma túy tổng hợp, thuốc hướng thần)... Tình hình sử dụng trái phép chất ma túy có xu hướng gia tăng đang diễn biến phức tạp, nhất là từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có hiệu lực thi hành thì hành vi sử dụng trái phép chất ma túy không bị coi là tội phạm và không bị xử lý hình sự. Sự phát triển bùng nổ của các loại hình kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự như vũ trường, quán Bar, nhà hàng
[1]…. đã tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng tổ chức sử dụng ma túy tổng hợp.Nhiều trường hợp sử dụng ma túy, nhất là ma túy tổng hợp, ngay từ lần sử dụng đầu tiên đã gây ra nguy hiểm cho chính bản thân mình và gây mất an ninh, trật tự;đặc biệt người sử dụng ma túy tổng hợp bị loạn thần (ngáo đá), không kiểm soát được hành vi gây ra các vụ thảm án, gây hoang mang trong dư luận nhân dân, có những vụ đối tượng giết chính người thân của mình. Trong khi đó, chưa có quy định của pháp luật về quản lý đối tượng này nên mặc dù thấy được tính chất nguy hiểm, hậu quả gây ra cho xã hội, nhưng quản lýngười sử dụng trái phép chất ma túy chưa được quan tâm một cách đúng mức, dẫn đến hậu quả do những người sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội trong thời gian qua là vô cùng nghiêm trọng, gây bất an trong nhân dân. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định hiện nay chỉ bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000đ là chưa đủ sức răn đe. Do đó, cần phải quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy và "có chế tài nghiêm khắc hơn đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy" theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị 36 của Bộ Chính trị.
Thứ hai:Quy định về công tác cai nghiện còn một số bất cập:
Số người nghiện gia tăng, năm 2009 cả nước có 146.731 người nghiện có hồ sơ quản lý, đến tháng 12/2019 cả nước có 235.314 người nghiện có hồ sơ quản lý (tăng 60%), xuất hiện nhiều chất ma túy mới, nhất là ma túy tổng hợp. Công tác lập hồ sơ đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gặp khó khăn, người nghiện ở ngoài xã hội nhiều, tác động rất lớn đến tình hình trật tự, an toàn, xã hội; đội ngũ cán bộ làm công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu, hiệu quả không cao, nhiều địa phương làm mang tính hình thức; công tác quản lý sau cai tại nơi cư trú và tại cơ sở quản lý sau cai không còn phù hợp; chưa có quy định về cai nghiện ma túy với người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài bị trục xuất về nước do nghiện ma túy. Công tác xã hội hóa cai nghiện còn nhiều khó khăn, hiện nay các cơ sở cai nghiện do các tổ chức, cá nhân thành lập chưa được quan tâm và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, trong khi đây là lĩnh vực lợi nhuận không cao nên không thu hút được các nhà đầu tư. Cơ sở vật chất ở một số cơ sở cai nghiện còn thiếu, xuống cấp, chưa được quan tâm đầu tư thỏa đáng, dẫn đến khó khăn, bất tiện trong sinh hoạt, dễ gây bức xúc cho học viên. Các học viên sau khi cai nghiện ở các cơ sở cai nghiện bắt buộc trở về cộng đồng khó kiếm việc làm để ổn định cuộc sống.
Thứ ba:Luật Phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2008 có một số nội dung chưa bảo đảm sự thống nhất đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Cụ thể như: Mâu thuẫn với Luật Xử lý vi phạm hành chính về quy định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Luật phòng, chống ma túy quy định việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch UBND cấp huyện, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Mâu thuẫn với Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự về thẩm quyền điều tra của Bộ đội Biên phòng, cụ thể: Luật Phòng, chống ma túy quy định cơ quan chuyên trách Phòng, chống ma túy của Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát Biển có chức năng phòng ngừa, ngăn chặn hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thầntại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soát; Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Cơ quan điều tra quy định thẩm quyền điều tra của Bộ đội Biên phòng ngoài việc có thẩm quyền điều tra về tội phạm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, còn có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra với các tội khác như: tội trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác chứa chất ma túy; sản xuất trái phép chất ma túy; chiếm đoạt chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; Cảnh sát Biển được tiến hành điều tra đối với các tội: Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy; chiếm đoạt chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy. Điều 259 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thêm một số hành vi mới như: "Vi phạm quy định về tạm nhập, tái xuất, giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát, cho phép sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần" nhưng trong Luật Phòng, chống ma túy chưa quy định nghiêm cấm các hành vi này. Sự không thống nhất giữa Luật Phòng, chống ma túy với các Bộ luật và luật nêu trên đã ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến hiệu quả công tác phòng, chống ma túy.
Ngoài ra còn một số vấn đề của thực tiễn đang đặt ra, nhưng luật Phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 chưa đáp ứng được, cụ thể như sau:
Phòng, chống ma túy là lĩnh vực đặc thù, có nhiều hiểm nguy, trung bình trong 05 năm gần đây, cả nước phát hiện khoảng 20.000 vụ với trên 30.000 đối tượng vi phạm pháp luật về ma túy, khối lượng chất ma túy thu giữ tính bằng tấn. Tội phạm ma túy trong nước tổ chức, câu kết với các đối tượng người nước ngoài ngày càng chặt chẽ, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu các tổ chức tội phạm ma túy xuyên quốc gia phần lớn sinh sống ở nước ngoài. Cán bộ trong lĩnh vực phòng, chống ma túy luôn đứng trước các hiểm nguy, hy sinh, nguy cơ lây nhiễm HIV... Nhưng Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) chưa tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho cơ chế phối hợp điều tra của lực lượng điều tra trong nước với các nước, các tổ chức phòng, chống ma túy quốc tế; chưa có chính sách ưu đãi đối với lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
Một số hoạt động chưa được đưa vào kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy như tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, đây là các hoạt động trên thực tiễn diễn ra thường xuyên, rất dễ bị các đối tượng lợi dụng hoạt động phạm tội về ma túy. Một số loại thuốc có chứa chất ma túy, tiền chất cũng chưa được quy định kiểm soát.Thực tế các đối tượng đã lợi dụng sản xuất ma túy tổng hợp từ các loại thuốc này
[2]. Tính đến nay, cả nước đã phát hiện, bắt giữ 44 vụ sản xuất trái phép chất ma túy (trong đó có 01 vụ sản xuất Heroine, 43 vụ sản xuất ma túy tổng hợp), 15 vụ sản xuất ma túy tổng hợp bằng cách chiết xuất tiền chất từ thuốc tân dược (chiếm 35%).
Xuất phát từ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) là yêu cầu cấp thiết, khách quan để thể chế hóa quan điểm của Đảng, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng, chống ma túy, đồng thời bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống ma túy trong tình hình mới.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
1. Mục đích
- Việc xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) nhằm tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống ma túy và khắc phục những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2008 góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống ma túy, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phòng, chống ma túy. Trong đó, lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt, chủ trì công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
- Nâng cao nguồn lực cho công tác phòng, chống ma túy, củng cố lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy. Quản lý tốt người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy, góp phần ngăn chặn, đấu tranh từng bước loại trừ tệ nạn ma túy, tội phạm ma túy ra khỏi đời sống xã hội.
- Mở rộng tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm ma túy. Ngăn chặn có hiệu quả nguồn ma túy thẩm lậu vào trong nước, kiên quyết không để Việt Nam là địa bàn trung chuyển ma túy quốc tế.
2. Quan điểm chỉ đạo
-Quán triệt và thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống ma túy, đặc biệt là tại Chỉ thị số 36 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 25 của Thủ tướng Chính phủ.
- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến công tác phòng, chống ma túy.
- Tổng kết đầy đủ và toàn diện về công tác phòng, chống ma túy trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống ma túy hiện nay và trong những năm tiếp theo.
- Đảm bảo phù hợp với thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là 03 Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về ma túy các năm 1961, 1971, 1988, các cam kết quốc tế, khu vực và một số công ước quốc tế về quyền con người. Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn công tác phòng, chống ma túy của một số quốc gia trên thế giới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
Quá trình xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công an tiến hành soạn thảo theo đúng trình tự, thủ tục của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, cụ thể như sau:
1. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tậptheo Quyết định số 1532/QĐ-BCA-C04, ngày 04/3/2020 và ban hành Kế hoạch xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) theo Quyết định số 1533/QĐ-BCA-C04 ngày 04/3/2020 của Bộ Công an.
2. Xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
3. Đăng tải dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), dự thảo Tờ trình Chính phủ trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Cổng Thông tin điện tử của Bộ Công an; tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ủy ban nhân dân và Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các đơn vị thuộc Bộ Công an, thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập đối với dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) và dự thảo Tờ trình Chính phủ.
4. Tổ chức và tham dự các cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm trong qua trình xây dựng dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) nhằm trao đổi, thảo luận về các nội dung sửa đổi, bổ sung và xây dựng các quy định mới.
5. Ngày 28/7/2020, Bộ Tư pháp đã tổ chức cuộc họp thẩm định dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
6. Ngày 12/8/2020 Chính phủ tổ chức phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 7/2020 nhất trí trình Quốc hội dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) để xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV.
Trên cơ sở ý kiến của thành viên Chính phủ,Chính phủ đãtổng hợp, nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), xin trình Quốc hội xem xét cho ý kiến.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Bố cục
Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) gồm 8 chương, 69 điều, so với Luật phòng, chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 tăng 13 điều, trong đó giữ nguyên 7 điều, sửa đổi, bổ sung47 điều và 15 điều quy định mới;cụ thể như sau:
Chương I. Những quy định chung
Chương II. Trách nhiệm phòng, chống ma túy
Chương III. Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Chương IV. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
Chương V. Cai nghiện ma túy
Chương VI. Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Chương VII. Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Chương VIII. Điều khoản thi hành
2. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy, công tác cai nghiện và quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, tạo môi trường lành mạnh, an ninh, an toàn góp phần phục vụ phát triển kinh tế xã hội; tăng cường hợp tác quốc tế; việc xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống ma túy trong tình hình mới và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Quá trình xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Cơ quan chủ trì đã bám sát 03 chính sách được Chính phủ thông qua.Trên cơ sở kế thừa các Điều luật của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2008,dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và bổ sung nhiều nội dung mới so với Luật Phòng, chống ma túy hiện hành.
Bổ sung tiêu đề cho tất cả các điều luật
[3], sửa đổi, bổ sung một số khái niệm, nội dung đã có;xây dựng chương mới "Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy" (Chương IV); về cai nghiện ma túy quy định cụ thể nội dung nhà nước và ngân sách nhà nước đảm bảo xây dựng cơ sở cai nghiện công lập và tổ chức cai nghiện bắt buộc; hỗ trợ một phần kinh phí cho người nghiện cai nghiện tự nguyện. Khuyến khích người nghiện cai nghiện tự nguyện, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Khuyến khích thành lập cơ sở cai nghiện tư nhân. Các cá nhân, tổ chức đầu tư vào công tác cai nghiện được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật;biện pháp cai nghiện tại cộng đồng, gia đình theo hướng giao cho cơ quan có chuyên môn thực hiện, đảm bảo hiệu quả công tác cai nghiện; bãi bỏ biện pháp quản lý sau cai để phù hợp với quy định của Hiến pháp về quyền con người, thay biện pháp quản lý sau cai bằng công tác hỗ trợ xã hội sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện để khuyến khích, động viên người nghiện không tái nghiện. Căn cứ quy định tại Khoản 3, Điều 8 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, không quy định Chương "Khen thưởng và xử lý vi phạm". Nội dung các quy định về sửa đổi, bổ sung và quy định mới, cụ thể như sau:
2.1.Chương I - Các quy định chung
Gồm có 5 Điều, từ Điều 1 đến Điều 5. Dự thảo Luật đã kế thừa và bổ sung một số nội dung cụ thể như sau:
a) Phạm vi áp dụng
Mở rộng thêm phạm vi áp dụng của Luật so với Luật Phòng, chống ma túy hiện hành, cụ thể: Luật này quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạmvàtệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đếnma túy; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, cai nghiện ma túy, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy, hợp tác quốc tế về ma túy và quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
b) Bổ sung đối tượng áp dụng của luật
Bổ sung Điều luật quy định đối tượng áp dụng của luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy (Điều 2).
c) Giải thích từ ngữ
- Tách khái niệm "tội phạm về ma túy" ra khỏi "tệ nạn ma túy" nhằm xác định đúng tính chất của "tội phạm về ma túy" và "tệ nạn ma túy" vì tệ nạn là hiện tượng xã hội còn tội phạm là hành vi cụ thể được qui định trong Bộ luật Hình sự cần tập trung đấu tranh.
- Bổ sung khái niệm: người sử dụng trái phép chất ma túy là người tự ý hoặc đồng ý cho người khác đưa chất ma túyvào cơ thể mình mà không được sự cho phép của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền.
Việc bổ sung khái niệm này để phân biệt với “người nghiện ma túy”, ngăn chặn họ tiếp tục sử dụng và dẫn đến nghiện ma túy, kịp thời giám sát, quản lý, giáo dục không để họ gây rối trật tự, đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và tài sản của người khác.
- Bổ sung khái niệm cai nghiện ma túy: Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tâm lý, xã hội và y tế giúp người nghiện thay đổi nhận thức, hành vi, phục hồi thể chất, tinh thần nhằm giảm sử dụng ma túy, tác hại của ma túy. Việc bổ sung khái niệm này giúp nhận thức đầy đủ về công tác cai nghiện ma túy.
- Bổ sung khái niệm thuốc tiền chất; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Đây là loại thuốc cần đưa vào hoạt động kiểm soát liên quan đến ma túy, không để tội phạm lợi dụng sản xuất ma túy từ các loại thuốc này.
d) Về chính sách phòng, chống ma túy
Bổ sung quy định để đảm bảo điều kiện cho công tác phòng, chống ma túy, tăng cường nguồn lực và năng lực cho các cơ quan chuyên trách phòng, chống ma túy, cai nghiện ma túy và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Cụ thể: Kinh phí cho công tác phòng, chống ma túy do ngân sách nhà nước đảm bảo theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật đầu tư công và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, các cơ quan thực hiện công tác cai nghiện ma túy, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
2.2.Chương II - Trách nhiệm phòng, chống ma túy
Gồm có 7 Điều, từ Điều 6 đến Điều 12. Dự thảo đã kế thừa các quy định cũ và sửa đổi, bổ sung các nội dung, cụ thể như sau:
a) Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
Việc quy định cá nhân, gia đình có trách nhiệm: “Đấu tranh với các hành vi trái phép về ma túy của thân nhân và của người khác" không khả thi, rất khó khăn để thực hiện. Vì vậy, Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) đã quy định theohướng cá nhân, tổ chức có trách nhiệm giúp đỡ, cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm ma túy.
b) Trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
- Bổ sung nội dung quy định để cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân đấu tranh với tội phạm ma túy hiệu quả hơn: "Phối hợp với cơ quan chức năng chống tội phạm ma túy của các nước và các tổ chức chống tội phạm ma túy quốc tế để trao đổi thông tin tiến hành điều tra các vụ án liên quan đến tội phạm ma túy xuyên quốc gia".
- Mở rộng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy thuộc Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan trong phạm vi địa bàn, khu vực quản lý được phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy chứ không chỉ hạn chế ở các hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần như quy định của Luật hiện hành. Việc bổ sung nội dung này để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy của các lực lượng Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan.
2.3. Chương III - Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Gồm có 10 Điều, từ Điều 13 đến Điều 22. Về cơ bản nội dung được kế thừa như quy định cũ, trong đó có nội dung được bổ sung như sau:
Bổ sung thuốc tiền chất;nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất cần được kiểm soát, không để tội phạm lợi dụng sản xuất ma túy tổng hợp.
Bổ sung hoạt động tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập là những hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy cần phải kiểm soát.
Đối với các hoạt động quản lý nhà nước về tiền chất đã được quy định cụ thể và thực hiện theo pháp luật về Dược, pháp luật về Hóa chất, vì vậy không quy định cụ thể trong luật này.
2.4. Chương IV - Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
Gồm có 5 Điều.Đây là chương được quy định mới trong luật.Xuất phát từ tình hình phức tạp của người sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian vừa qua, nhưng pháp luật chưa có quy định quản lý những người này. Qua khảo sát thực tiễn, dự thảo luật đã xây dựng các quy định nhằm quản lý tốt người sử dụng trái phép chất ma túy. Việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy được áp dụng ngay lần đầu người đó sử dụng trái phép chất ma túy, mục đích là ngăn chặn không để họ tiếp tục sử dụng, từ đó góp phần làm giảm người nghiện ma túy, điều này có tác dụng rất tốt ngay chính với người sử dụng trái phép chất ma túy, gia đình của họ và xã hội. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành. Trong thời gian quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy nếu người đó thuộc đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Xử lý vi phạm hành chính, nếu được xác định tình trạng nghiện thì thực hiện theo các quy định về công tác cai nghiện. Các nội dung cụ thể như sau:
a) Xác định người sử dụng trái phép chất ma túy
- Người bị coi là người sử dụng trái phép chất ma túy là người có xét nghiệm dương tính với chất ma túy, việc sử dụng chất ma túy của người đó không được pháp luật cho phép và chưa xác định được tình trạng nghiện.
- Cơ quan Y tế và Công an có thẩm quyền xét nghiệm.
- Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là biện pháp phòng ngừa nhằm giúp người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật của họ.
b) Chính sách quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xãgiao Công an cấp xã chủ trì phối hợp cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng cấp và gia đình quản lý, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túytổ chức phân công cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng cấp phối hợp với gia đình giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy.
- Quy định rõ trách nhiệm người sử dụng trái phép chất ma túy; gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan.
- Nhà nước đảm bảo kinh phí cho xét nghiệm và đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm.
- Thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy: 01 năm đối với người sử dụng trái phép chất ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên; 06 tháng đối với người sử dụng trái phép chất ma túy dưới 18 tuổi, kể từ ngày xác định được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy gần nhất của người đó.
c) Thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy
- Quy định Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn quản lý.
- Bộ Công an có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn và thực hiện việc thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy.
2.5. Chương V - Cai nghiện ma túy
Gồm có 20 Điều, từ Điều 28 đến Điều 47. Nội dung của Chương V được sửa đổi cơ bản và toàn diện, khắc phục tình trạng bất cập trong công tác cai nghiện thời gian qua, đảm bảo tính đồng bộ với pháp luật Xử lý vi phạm hành chính, đồng thời bổ sung các quy định mới đảm bảo công tác cai nghiện hiệu có hiệu quả, cụ thể như sau:
- Quy định về xác định tình trạng nghiện, người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện.Đây là quy định nhằm giúp phân biệt phân biệt người nghiện với người sử dụng để có cách ứng xử phù hợp.
- Về chính sách cai nghiện theo hướng tạo điều kiện cho người nghiện cai nghiện tự nguyện, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; nếu người nghiện vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy hoặc vi phạm bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc lợi dụng việc cai nghiện tự nguyện để không bị áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc thì sẽ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nhà nước đảm bảo kinh phí cho công tác cai nghiện bắt buộc, xây dựng các cơ sở công lập; hỗ trợ một phần kinh phí cho công tác cai nghiện tự nguyện. Có chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư vào công tác cai nghiện. Khuyến khích thành lập các cơ sở cai nghiện tư nhân. Cán bộ làm việc tại cơ sở cai nghiện công lập được sử dụng trang phục thống nhất theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để góp phần bảo vệ cho cán bộ, đồng thời có cơ sở để xử lý các hành vi chống đối người thi hành công vụ trong các cơ sở cai nghiện công lập, góp phần không để xảy ra tình trạng gây rối, bỏ trốn tại các cơ sở cai nghiện ma túy công lập đối với người nghiện bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Quy định về hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân được tổ chức hoạt động cai nghiện tự nguyện. Chỉ có cơ sở cai nghiện ma túy công lập mới tiếp nhận người nghiện bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tại các cơ sở có bố trí các khu riêng phù hợp với từng đối tượng và để đảm bảo quyền lợi cho người cai nghiện.
- Sửa đổi các quy định về cai nghiện tại gia đình, cộng đồng. Theo đó, việc tiến hành cai nghiện tại gia đình, cộng đồng do cơ quan chuyên môn thực hiện.Cơ sở cai nghiện ma túy công lập, cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân và các cơ sởy tế, xã hội khác có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được phép cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy tự nguyệntại gia đình, cộng đồng.Cơ sở cung cấp dịch vụ cai nghiện có trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ cai nghiện ma túy; niêm yết công khai giá dịch vụ cai nghiện ma túy theo quy định của pháp luật. Việc đổi mới công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng theo mô hình này không làm phát sinh tổ chức bộ máy mới và ngân sách nhà nước.
Giao cho Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm quản lý, kiểm tra, hướng dẫn, tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng trên địa bàn quản lý.
- Bổ sung các quy định cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân theo hình thức hợp đồng cung cấp dịch vụ cai nghiện giữa các cơ sở đối với người nghiện. Thời gian cai nghiện thực hiện theo thỏa thuận giữa người nghiện, gia đình người nghiện với cơ sở cai nghiện, nhưng thời gian tối thiểu là 6 tháng.
- Quy định cụ thể các trường hợp áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên và cai nghiện cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Đối tượng, trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thực hiện theo pháp luật về Xử lý vi phạm hành chính.
Người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thuộc trường hợp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì thẩm quyền quyết định do Tòa án nhân dâp cấp huyện trên cơ sở tham khảo ý kiến của cơ quan bảo vệ trẻ em cùng cấp và không coi là việc xử lý vi phạm hành chính.Cơ sở cai nghiện đảm bảo quyền được học văn hóa cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Có chế độ cai nghiện riêng, phù hợp và đảm bảo quyền trẻ em cho độ tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
- Bổ sung quy định về cai nghiện ma túy cho người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài bị trục xuất về nước do nghiện ma túy. Theo đó tạo điều kiện cho người nước ngoài cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện, nếu không đăng ký cai nghiện tự nguyện thì trục xuất về nước. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài bị trục xuất về nước do nghiện ma túy thì phải đến cơ quan chuyên môn xác định tình trạng nghiện, nếu có kết quả xác định là nghiện thì thực hiện theo các quy định về cai nghiện.
- Không quy định biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng, vì thực tế biện pháp này không đủ nguồn lực về con người, vật chất và không hiệu quả. Những năm gần đây, nhiều địa phương không triển khai thực hiện được hoặc thực hiện mang tính hình thức.
- Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập mà bị phát hiện thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu bị tòa án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Bổ sung quy định về công tác thống kê người nghiện ma túy cho các Bộ, ngành, trong đó Bộ Công an có trách nhiệm tổng hợp số liệu chung về người nghiện. Đảm bảo công tác thống kê người nghiện được chính xác, kịp thời.
2.6. Chương VI - Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Gồm 13 Điều, từ Điều 48 đến Điều 60. Về cơ bản nội dung chương này kế thừa các quy định cũ; sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của các Bộ cho phù hợp với các nội dung được sửa đổi, bổ sung trong luật. Cụ thể như sau:
- Bổ sung trách nhiệm cho Bộ Công an về giám sát, quản lý, theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy. Bộ Quốc phòng về phối hợp với cơ quan hữu quan của nước khác để phát hiện, ngăn chặn các hành vivi phạm pháp luật về ma túy và kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy ở khu vực biên giới và trên biển. Bộ Y tế trong quản lý thuốc tiền chất; nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc.Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thông quản lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất. Quy định trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho phù hợp với các nội dung về công tác cai nghiện ma túy được sửa đổi.
- Phân công trách nhiệm cụ thể cho Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy, theo đó:
Bộ Thông tin và truyền thông có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan; chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phòng, chống ma túy.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan lồng ghép nội dung tuyên truyền về phòng, chống ma túy vào các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch; chỉ đạo, trực tiếp tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn các hoạt động văn hóa, dịch vụ, thể thao và du lịch không để sơ hở làm phát sinh tệ nạn ma túy.
Quy định cụ thể như trên để nâng cao trách nhiệm của từng Bộ, đồng thời phù hợp với chức năng của các Bộ.
2.7. Chương VII - Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Gồm 7 Điều, từ Điều 61 đến Điều 67.Các quy định về Hợp tác quốc tế phòng, chống ma túy được kế thừa quy định cũ.Đây là quy định mang tính nguyên tắc, chính sách. Trong đó có quy định về các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp thực hiện theo pháp luật về tương trợ tư pháp để đảm bảo tính thống nhất pháp luật.
2.8. Chương VIII - Điều khoản thi hành
Dự thảo Luật quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm quy định chi tiết tại các điều, khoản được giao trong luật.
Trên đây là Tờ trình Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Chính phủtrình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
Nơi nhận:
- Như trên (80 bản);
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Văn phòng Quốc hội;
- Tổng Thư ký Quốc hội;
- Ủy ban về các vấn đề về xã hội của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Tư pháp;
- Lưu: VT, PL (05 bản).
|
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN
Đại tướng Tô Lâm
|
[1] Theo thống kê của Cục C04, năm 2019 cả nước có 3.879 cơ sở kinh doanh có điều kiện (Vũ trường, quán Bar, nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng, Club…) có biểu hiện liên quan đến tội phạm và tệ nạn ma túy. Đã xử lý hành chính 13.868 đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại các cơ sở này; độ tuổi dưới 18 chiếm 4%, từ đủ 18 đến 35 tuổi chiếm 85%, từ 35 tuổi trở lên chiếm 11%.
Theo báo cáo ma túy thế giới, năm 2018 trên toàn thế giới ước tính có 450.000 ca tử vong do sử dụng ma túy năm 2015; trong số đó có 167.750 người chết do liên quan trực tiếp đến các rối loạn sử dụng ma túy, chủ yếu là quá liều.
[2]Năm 2017 Công an TP Hà Nội bắt giữ 04 vụ/04 đối tượng, Công an Lạng Sơn bắt 02 vụ chiết xuất Ketamin từ thuốc thú y KetamilInjection, thuốc gây mê cho động vật khi phẫu thuật.
[3] Theo quy định tại khoản 3, Điều 10, Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14, ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về Quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và khoản 3, Điều 62 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:"Phần, chương, mục, tiểu mục, điều trong văn bản phải có tiêu đề. Tiêu đề là cụm từ chỉ nội dung chính của phần, chương, mục, tiểu mục, điều".
Bảng đối chiếu so sánh giữa Luật Phòng, chống ma túy (2000), sửa đổi bổ sung năm 2008 với Dự thảo Lần 5
Cơ quan ban hành: Bộ Công an
Ngày ban hành:
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu phục vụ hoạt động thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề Xã hội.
2.1.-SO-SANH-DU-THAO-5--VOI-LUAT-CU.docx
Luật Phòng, chống ma túy năm 2000
(sửa đổi, bổ sung năm 2008)
|
Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) Lần 5
|
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
|
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
|
Điều 1.
Luật này quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma tuý; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma tuý.
|
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; cai nghiện ma túy; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma túy; quản lý nhà nước và hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
|
|
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy.
|
Điều 2
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
4. Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành.
5. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
6. Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý do Chính phủ quy định.
7. Phòng, chống ma tuý là phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma tuý và kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý.
8. Tệ nạn ma tuý là tình trạng nghiện ma tuý, tội phạm về ma tuý và các hành vi trái phép khác về ma tuý.
9. Các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý bao gồm các hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, bảo quản, tàng trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh các chất quy định tại các khoản 1, 4 và 5 Điều này, được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.
10. Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý là việc cho phép, theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động quy định tại khoản 9 Điều này và phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng các hoạt động đó vào mục đích khác.
11. Người nghiện ma tuý là người sử dụng chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này.
|
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
4. Tiền chất là các hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma túy, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành.
5. Thuốc gây nghiện là thuốc có chứa dược chất kích thích hoặc ức chế thần kinh dễ gây ra tình trạng nghiện đối với người sử dụng thuộc Danh mục dược chất gây nghiện do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
6. Thuốc hướng thần là thuốc có chứa dược chất kích thích hoặc ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng thuộc Danh mục dược chất hướng thần do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
7. Thuốc tiền chất là thuốc có chứa tiền chất thuộc Danh mục tiền chất dùng làm thuốc do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
8. Thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất là các loại thuốc thú y có chứa các chất quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều này.
9. Cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định.
10. Phòng, chống ma túy là phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
11. Tội phạm về ma túy là các hành vi phạm tội được quy định tại Chương Các tội phạm về ma túy trong Bộ luật Hình sự.
12. Tệ nạn ma túy là tình trạng nghiện ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy mà chưa đến mức hoặc không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
13. Các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy bao gồm các hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, bảo quản, tồn trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập các chất, thuốc quy định tại các khoản 1, 4, 5, 6, 7, 8 Điều này và nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.
14. Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là việc cho phép, theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động quy định tại khoản 13 Điều này và phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng các hoạt động đó vào mục đích pháp luật cấm.
15. Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này.
16. Người sử dụng trái phép chất ma túy là người tự ý hoặc đồng ý cho người khác đưa chất ma túy vào cơ thể mình mà không được sự cho phép của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền.
17. Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tâm lý, xã hội và y tế giúp người nghiện thay đổi nhận thức, hành vi, phục hồi thể chất, tinh thần nhằm giảm sử dụng ma túy, tác hại của ma túy.
|
Điều 3
Nghiêm cấm các hành vi sau đây:
1. Trồng cây có chứa chất ma tuý;
2. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán, phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nghiên cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần;
3. Sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý; xúi giục, cưỡng bức, lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma tuý;
4. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma tuý;
5. Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội về ma tuý mà có;
6. Chống lại hoặc cản trở việc cai nghiện ma tuý;
7. Trả thù hoặc cản trở người có trách nhiệm hoặc người tham gia phòng, chống ma tuý;
8. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý;
9. Các hành vi trái phép khác về ma tuý.
|
Điều 4. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Trồng cây có chứa chất ma túy.
2. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, mua bán, phân phối, giám định, xử lý, trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh, nghiên cứu trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
3. Giao nhận, quản lý, kiểm soát, lưu giữ, cấp phát chất ma túy, tiền chất; cho phép người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng thần trái quy định của pháp luật.
4. Sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; xúi giục, cưỡng bức, rủ rê, dụ dỗ, lôi kéo, chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma túy.
5. Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất, sử dụng trái phép chất ma túy.
6. Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội về ma túy mà có.
7. Chống lại hoặc cản trở việc cai nghiện ma túy.
8. Trả thù hoặc cản trở người có trách nhiệm hoặc người tham gia phòng, chống ma túy.
9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
10. Hướng dẫn trồng cây có chứa chất ma túy, sản xuất trái phép chất ma túy, sử dụng chất ma túy, quảng cáo, tiếp thị chất ma túy trên không gian mạng.
11. Các hành vi trái phép khác về ma túy.
|
Điều 4
1. Phòng, chống ma tuý là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội.
2. Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia phòng, chống tệ nạn ma tuý; tổ chức đấu tranh chống các tội phạm về ma tuý và sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, pháp luật, văn hoá, xã hội, nghiệp vụ để tuyên truyền, vận động nhân dân, cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia phòng, chống tệ nạn ma tuý; kết hợp phòng, chống tệ nạn ma tuý với phòng, chống các loại tội phạm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác.
|
Điều 5. Chính sáchcủa Nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Phòng, chống ma túy là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội.
2. Nhà nước có chính sách khuyến khích, bảo vệ, hỗ trợ cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia phòng, chống ma túy; tổ chức đấu tranh chống các tội phạm về ma túy và sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, nghiệp vụ để tuyên truyền, vận động Nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia phòng, chống ma túy; kết hợp phòng, chống ma túy với phòng, chống các loại tội phạm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác.
3. Kinh phí cho công tác phòng, chống ma túy do ngân sách nhà nước đảm bảo theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
4. Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, cơ quan thực hiện công tác cai nghiện ma túy, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
5. Chính phủ quy định chi tiết chính sách ưu đãi đặc biệt tại khoản 4 Điều này.
|
Điều 5
1. Nhà nước Việt Nam thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống ma tuý và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi; hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống ma tuý.
2. Cá nhân, tổ chức nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam về phòng, chống ma tuý.
|
(Chuyển xuống Chương VII)
|
Chương II
TRÁCH NHIỆM PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
|
Chương II
TRÁCH NHIỆM PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
|
Điều 6
Cá nhân, gia đình có trách nhiệm:
1. Giáo dục thành viên trong gia đình, thân nhân về tác hại của ma tuý và thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống ma tuý; quản lý chặt chẽ, ngăn chặn thành viên trong gia đình tham gia tệ nạn ma tuý;
2. Thực hiện đúng chỉ định của thầy thuốc về sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần để chữa bệnh;
3. Đấu tranh với các hành vi trái phép về ma tuý của thân nhân và của người khác;
4. Tham gia, hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma tuý tại các cơ sở cai nghiện và tại cộng đồng; theo dõi, giúp đỡ người đã cai nghiện ma tuý hoà nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.
|
Điều 6. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
1. Thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy; giáo dục thành viên trong gia đình, thân nhân về tác hại của ma túy và thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy; quản lý, ngăn chặn thành viên trong gia đình tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy.
2. Thực hiện đúng chỉ định của cơ quan chuyên môn về sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất để chữa bệnh.
3. Hợp tác với cơ quan chức năng đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy; tham gia hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện ma túy, tại cộng đồng và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; theo dõi, giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện ma túy.
4. Cung cấp kịp thời những thông tin về tội phạm và tệ nạn ma túy, việc trồng cây có chứa chất ma túy cho cơ quan Công an hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tham gia xóa bỏ cây có chứa chất ma túy do chính quyền địa phương tổ chức.
|
Điều 7
Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm phát hiện, cung cấp nhanh chóng các thông tin về tệ nạn ma tuý cho cơ quan công an hoặc cơ quan khác có thẩm quyền. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết kịp thời những thông tin, tố giác về tệ nạn ma tuý.
|
Điều 8
1. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm phát hiện, báo cáo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền việc trồng cây có chứa chất ma tuý; tham gia triệt phá cây có chứa chất ma tuý do chính quyền địa phương tổ chức.
2. Tại các vùng phải xoá bỏ cây có chứa chất ma tuý, các cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp để thay thế việc trồng cây có chứa chất ma tuý; quy hoạch cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và thị trường phù hợp để nhân dân chuyển hướng sản xuất có hiệu quả.
|
|
Điều 9
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
1. Tổ chức và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tuyên truyền, giáo dục nhân dân kiến thức, pháp luật về phòng, chống ma tuý; xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, văn minh;
2. Phòng ngừa, ngăn chặn người của tổ chức mình và mọi công dân tham gia tệ nạn ma tuý;
3. Giám sát hoạt động phòng, chống ma tuý ở cơ quan, nhà trường, các cơ sở giáo dục khác và địa bàn dân cư;
4. Phối hợp với chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm quyền để vận động cai nghiện ma tuý; tham gia giáo dục, dạy nghề, tìm việc làm và giúp đỡ người đã cai nghiện ma tuý hoà nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.
|
Điều 7. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp
1. Tổ chức và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về phòng, chống ma túy trong Nhân dân; vận động Nhân dân tham gia phòng, chống ma túy và thực hiện phong trào "Toàn dân tham gia phòng, chống ma túy".
2. Phòng ngừa, ngăn chặn người của tổ chức mình và mọi công dân vi phạm pháp luật về ma túy.
3. Phối hợp với chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm quyền để vận động cai nghiện ma túy, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; tham gia cảm hóa, giáo dục, dạy nghề, tìm việc làm và giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện ma túy.
|
Điều 10
Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm:
1. Tổ chức thực hiện chương trình giáo dục về phòng, chống ma tuý; giáo dục pháp luật về phòng, chống ma tuý và lối sống lành mạnh cho học sinh, sinh viên, học viên; quản lý chặt chẽ, ngăn chặn học sinh, sinh viên, học viên tham gia tệ nạn ma tuý;
2. Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên, học viên về phòng, chống ma tuý;
3. Phối hợp với cơ quan y tế và chính quyền địa phương tổ chức xét nghiệm khi cần thiết để phát hiện học sinh, sinh viên, học viên nghiện ma tuý.
|
Điều 8. Trách nhiệm của nhà trường và các cơ sở giáo dục
1. Tổ chức thực hiện chương trình giáo dục về phòng, chống ma túy; giáo dục pháp luật về phòng, chống ma túy và lối sống lành mạnh cho học sinh, sinh viên, học viên; quản lý chặt chẽ, ngăn chặn học sinh, sinh viên, học viên tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy.
2. Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên, học viên về phòng, chống ma túy.
3. Phối hợp với cơ quan y tế và chính quyền địa phương tổ chức xét nghiệm khi cần thiết để phát hiện học sinh, sinh viên, học viên nghiện ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
|
Điều 11
Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức phòng, chống ma tuý ở cơ quan, đơn vị mình; phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia tệ nạn ma tuý; tuyên truyền, động viên cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và nhân dân phát hiện, tố giác, đấu tranh với tệ nạn ma tuý.
|
Điều 9. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân
1. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức phòng, chống ma túy ở cơ quan, đơn vị mình; phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, người lao động thuộc quyền quản lý và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia tội phạm và tệ nạn ma túy; tuyên truyền, động viên cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, người lao động; cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, Nhân dân phát hiện, tố giác, đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy.
2. Tại các vùng xóa bỏ cây có chứa chất ma túy, các cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp để thay thế việc trồng cây có chứa chất ma túy; quy hoạch cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và thị trường phù hợp để Nhân dân chuyển hướng sản xuất có hiệu quả.
|
Điều 12
Các cơ quan thông tin, tuyên truyền có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nhận thức rõ về tác hại của ma tuý; chủ trương, chính sách, pháp luật, biện pháp của Nhà nước về phòng, chống ma tuý.
|
Điều 10. Trách nhiệm của các cơ quan báo chí, truyền thông
Các cơ quan báo chí, truyền thông có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật, biện pháp của Nhà nước về phòng, chống ma túy; tuyên truyền giáo dục để Nhân dân nhận thức rõ về tác hại của ma túy.
|
Điều 14
1. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia các hoạt động phòng, chống ma tuý được Nhà nước bảo vệ và giữ bí mật.
2. Trường hợp cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức do tham gia phòng, chống ma tuý mà bị thiệt hại về tài sản thì được Nhà nước đền bù; trường hợp cá nhân bị thương tích, tổn hại về sức khoẻ hoặc bị thiệt hại về tính mạng thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chế độ, chính sách đặc biệt theo quy định của Chính phủ.
3. Cơ quan công an, hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, viện kiểm sát, toà án và chính quyền các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
|
Điều 11. Chính sách đối với người tham gia phòng, chống ma túy
1. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia các hoạt động phòng, chống ma túy được Nhà nước bảo vệ và giữ bí mật.
2. Trường hợp cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức do tham gia phòng, chống ma túy mà bị thiệt hại về tài sản thì được Nhà nước đền bù; trường hợp cá nhân bị thương tích, tổn hại về sức khỏe hoặc bị thiệt hại về tính mạng thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của Chính phủ.
3. Cơ quan Công an, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Viện kiểm sát, Tòa án và chính quyền các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
|
Điều 13
1. Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma tuý thuộc Công an nhân dân được tiến hành một số hoạt động sau đây:
a) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện các hoạt động ngăn chặn, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý;
b) Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát cần thiết để phát hiện tội phạm về ma tuý;
c) Trưng cầu giám định mẫu vật, mẫu phẩm sinh học cần thiết để phát hiện tội phạm về ma tuý;
d) Yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, tình hình tài chính và tài khoản tại ngân hàng khi có căn cứ cho rằng có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 8 Điều 3 của Luật này;
đ) Yêu cầu cơ quan bưu điện mở bưu kiện, bưu phẩm để kiểm tra khi có căn cứ cho rằng trong bưu kiện, bưu phẩm đó có chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần;
e) Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác, người làm chứng và người bị hại trong các vụ án về ma tuý.
2. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này theo yêu cầu của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy.
3. Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Hải quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan công an,các cơ quan hữu quan khác thực hiện và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thầntại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soát.
4. Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma tuý trong việc thực hiện, phối hợp thực hiện các hoạt động quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này.”
|
Điều 12. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
1. Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân được tiến hành một số hoạt động sau đây:
a) Chủ trì thực hiện các hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy;
b) Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, khoa học - kỹ thuật cần thiết để điều tra, phát hiện tội phạm về ma túy;
c) Trưng cầu giám định mẫu vật, mẫu phẩm sinh học cần thiết để phát hiện tội phạm về ma túy;
d) Yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan, phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu, tình hình tài chính và tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khi có căn cứ cho rằng có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 4, 5, 6, 9 Điều 4 của Luật này;
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động bưu chính, dịch vụ chuyển phát mở bưu kiện, bưu phẩm, hàng hóa để kiểm tra khi có căn cứ cho rằng trong bưu kiện, bưu phẩm, hàng hóa đó có chứa chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất;
e) Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố giác, người làm chứng và người bị hại trong các vụ án về ma túy;
g) Phối hợp với cơ quan chức năng chống tội phạm ma túy của các nước và các tổ chức chống tội phạm ma túy quốc tế để trao đổi thông tin và tiến hành điều tra các vụ án liên quan đến tội phạm ma túy xuyên quốc gia.
2. Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều này theo yêu cầu của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy.
3. Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan Công an, các cơ quan hữu quan khác thực hiện và áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy tại khu vực hoặc địa bàn quản lý, kiểm soát.
4. Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy trong việc thực hiện các hoạt động quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này.
|
Chương III
KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG HỢP PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN MA TÚY
|
Chương III
KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG HỢP PHÁP
LIÊN QUAN ĐẾN MA TÚY
|
Điều 15
Việc nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, bảo quản, tàng trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần phải được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
|
Điều 13. Quản lý các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Việc nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, bảo quản, tồn trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất phải được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
|
Điều 16
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức được vận chuyển chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần phải đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền, chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng hàng của mình và có biện pháp bảo vệ an toàn, không để bị thất thoát.
2. Việc vận chuyển các chất quy định tại khoản 1 Điều này của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
Điều 14. Quản lý hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức được vận chuyển chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất phải đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền, chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng hàng của mình và có biện pháp bảo vệ an toàn, không để bị thất thoát.
2. Việc vận chuyển các chất quy định tại khoản 1 Điều này của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
|
Điều 17
Việc tồn trữ, bảo quản, kê đơn và bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần để chữa bệnh tại các cơ sở y tế phải thực hiện theo quy định của Bộ Y tế.
|
Điều 15. Quản lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc tại cơ sở kinh doanh dược, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở hoạt động dược không thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược
Việc tồn trữ, bảo quản, kê đơn, cấp phát, sử dụng, tiêu hủy, kinh doanh thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc tại các cơ sở kinh doanh dược, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và các cơ sở có hoạt động dược không thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược được thực hiện theo quy định của pháp luật về Dược.
|
|
Điều 16. Quản lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
Việc sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, tồn trữ, bảo quản, kê đơn và bán thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất để chữa bệnh cho động vật tại các cơ sở thú y phải thực hiện theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
|
Điều 18
Cá nhân, cơ quan, tổ chức tiến hành các hoạt động quy định tại các điều 15, 16 và 17 của Luật này phải lập hồ sơ về các hoạt động đó theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và thông báo cho các cơ quan có liên quan khi có yêu cầu để phối hợp quản lý, kiểm soát chặt chẽ.
|
Điều 17. Lập hồ sơ các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Cá nhân, cơ quan, tổ chức tiến hành các hoạt động quy định tại các Điều 13, 14, 15 và 16 của Luật này phải lập hồ sơ về các hoạt động đó theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và thông báo cho các cơ quan có liên quan khi có yêu cầu để phối hợp quản lý, kiểm soát chặt chẽ.
|
Điều 19
Chỉ cơ quan, tổ chức có đủ điều kiện do Chính phủ quy định mới được phép nhập khẩu, xuất khẩu chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần.
Điều 20
1. Các trường hợp vận chuyển quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần phải có giấy phép quá cảnh của Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam. Tổ chức cần vận chuyển quá cảnh phải gửi đơn và hồ sơ xin phép quá cảnh kèm theo giấy phép của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu đến Bộ Công an Việt Nam để làm thủ tục.
Giấy phép quá cảnh được gửi cho tổ chức xin phép, hải quan cửa khẩu nơi có hàng quá cảnh đi qua và các cơ quan khác có liên quan. Giấy phép quá cảnh có giá trị một lần trong thời hạn được ghi trong giấy phép.
2. Việc vận chuyển quá cảnh các chất quy định tại khoản 1 Điều này phải theo đúng hành trình đã ghi trong giấy phép quá cảnh. Tổ chức vận chuyển quá cảnh phải làm thủ tục, chịu sự kiểm soát của cơ quan hải quan và các cơ quan khác có thẩm quyền của Việt Nam.
Điều 21
Mọi trường hợp vận chuyển chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần vào, ra hoặc qua lãnh thổ Việt Nam mà không có giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam hoặc không tuân thủ các quy định khác của pháp luật Việt Nam về vận chuyển, nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh thì đều bị coi là vận chuyển trái phép.
|
Điều 18. Nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất,nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
1. Chỉ cơ quan, tổ chức có đủ điều kiện do Chính phủ quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép mới được phép nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
2. Các trường hợp vận chuyển quá cảnh lãnh thổ Việt Nam các chất, thuốc quy định tại khoản 1 Điều này phải có giấy phép quá cảnh của Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam. Tổ chức cần vận chuyển quá cảnh phải gửi đơn và hồ sơ xin phép quá cảnh kèm theo giấy phép của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu đến Bộ Công an Việt Nam để làm thủ tục.
Giấy phép quá cảnh được gửi cho tổ chức xin phép, Hải quan cửa khẩu nơi có hàng quá cảnh đi qua và các cơ quan khác có liên quan. Giấy phép quá cảnh có giá trị một lần trong thời hạn được ghi trong giấy phép.
Việc vận chuyển quá cảnh các chất, thuốc quy định tại khoản 1 Điều này phải theo đúng hành trình đã ghi trong giấy phép quá cảnh. Tổ chức vận chuyển quá cảnh phải làm thủ tục, chịu sự kiểm soát của cơ quan Hải quan và các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Mọi trường hợp vận chuyển các chất, thuốc quy định tại khoản 1 Điều này vào, ra hoặc qua lãnh thổ Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không tuân thủ các quy định khác của pháp luật Việt Nam về vận chuyển, nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh thì đều bị coi là vận chuyển trái phép.
|
Điều 22
Việc giao, nhận, vận chuyển, tàng trữ, bảo quản, sử dụng, nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần vì mục đích quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của Chính phủ.
|
Điều 19. Hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh
Việc giao, nhận, vận chuyển, tồn trữ, bảo quản, sử dụng, nhập khẩu, xuất khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc vì mục đích quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của Chính phủ.
|
Điều 23
1. Việc mang theo một số lượng hạn chế thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần dự phòng cho việc sơ cứu, cấp cứu trong cuộc hành trình hoặc du lịch quốc tế trên tàu thuỷ, tàu bay, tàu hoả, ô tô hoặc các phương tiện vận tải khác không bị coi là mang hàng xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam.
Người chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện vận tải có trách nhiệm làm thủ tục khai báo với cơ quan hải quan của Việt Nam, giải trình về số lượng thuốc đã sử dụng và áp dụng các biện pháp an toàn thích hợp để ngăn chặn việc sử dụng không đúng mục đích hoặc vận chuyển trái phép các thuốc đó. Khi cần thiết, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam được tiến hành kiểm tra, kiểm soát trên các phương tiện vận tải đó.
2. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần để chữa bệnh của cá nhân khi nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam được thực hiện theo quy định của Bộ Y tế Việt Nam và phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
|
Điều 20. Vận chuyển, tồn trữ thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất vì mục đích y tế
1. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất dự phòng cho việc sơ cứu, cấp cứu trong cuộc hành trình hoặc du lịch quốc tế trên tàu thủy, tàu bay, tàu hỏa, ôtô hoặc các phương tiện vận tải khác không bị coi là mang hàng xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam.
Người chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện vận tải có trách nhiệm làm thủ tục khai báo với cơ quan Hải quan của Việt Nam, giải trình về số lượng thuốc đã sử dụng và áp dụng các biện pháp an toàn thích hợp để ngăn chặn việc sử dụng không đúng mục đích hoặc vận chuyển trái phép các thuốc đó. Khi cần thiết, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam được tiến hành kiểm tra, kiểm soát trên các phương tiện vận tải đó.
2. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất để điều trị bệnh cho bản thân người nhập cảnh, xuất cảnh hoặc quá cảnh lãnh thổ Việt Nam được thực hiện theo quy định của Bộ Y tế Việt Nam và phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
|
Điều 24
1. Chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần bị thu giữ trong các vụ án hình sự phải tiêu huỷ, trừ trường hợp chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần được sử dụng trong các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý bị chiếm đoạt được trả lại cho chủ sở hữu.
2. Việc xử lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng thực hiện theo quy định của Bộ Y tế.
3. Việc xử lý chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này và tiền chất thực hiện theo quy định của Chính phủ.
|
Điều 21. Xử lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thu giữ trong vụ vi phạm pháp luật về ma túy
1. Chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thu giữ trong các vụ án hình sự, vụ vi phạm hành chính phải tiêu hủy, trừ trường hợp chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất được sử dụng trong các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy bị chiếm đoạt được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp.
2. Chính phủ quy định cụ thể việc xử lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất không thuộc khoản 1 Điều này.
|
Điều 22. Xử lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng
1. Việc xử lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng thực hiện theo quy định của Bộ Y tế.
2. Việc xử lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất kém chất lượng hoặc quá hạn sử dụng thực hiện theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
|
|
Chương IV
QUẢN LÝ NGƯỜI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
|
|
Điều 23. Xác định người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Người bị coi là người sử dụng trái phép chất ma túy là người có xét nghiệm dương tính với chất ma túy, việc sử dụng chất ma túy của người đó không được pháp luật cho phép và chưa xác định được tình trạng nghiện.
2. Cơ quan có thẩm quyền xét nghiệm ma túy:
a) Cơ quan Y tế;
b) Cơ quan Công an.
|
|
Điều 24. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là biện pháp phòng ngừa nhằm giúp người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy và kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật của họ.
Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy không phải là biện pháp xử lý hành chính.
2. Thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là 01 năm đối với người sử dụng trái phép chất ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên; 06 tháng đối với người sử dụng trái phép chất ma túy dưới 18 tuổi, kể từ ngày xác định được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy gần nhất của người đó.
3. Nội dung quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy:
a) Xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể theo yêu cầu của Công an cấp xã, không quá 3 lần trong thời hạn quản lý;
b) Xác định tình trạng nghiện;
c) Tư vấn, động viên, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy để giúp họ không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.
4. Trách nhiệm quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú có trách nhiệm tổ chức quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
b) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú giao Công an cấp xã chủ trì phối hợp cơ quan, tổ chức, đoàn thể cùng cấp và gia đình quản lý, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy.
c) Trường hợp nơi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy không phải ở nơi người đó cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện thông báo cho gia đình người đó và chuyển các tài liệu liên quan đến hành vi sử dụng trái phép chất ma túy cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để tổ chức quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.
5. Khi người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển đi khỏi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi chuyển đi có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi chuyển đến trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển khỏi địa phương để phối hợp theo dõi, quản lý.
6. Các trường hợp dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy:
a) Trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy nếu người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy thì áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
b) Trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy nếu người sử dụng trái phép chất ma túy được xác định là người nghiện ma túy thì thực hiện theo các quy định của pháp luật về cai nghiện ma túy.
7. Nhà nước bảo đảm kinh phí xét nghiệm và đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm.
|
|
Điều 25. Trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Tự khai báo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc Công an cấp xã nơi cư trú;
2. Phải chấp hành việc quản lý, theo dõi và xét nghiệm theo yêu cầu của Công an cấp xã.
|
|
Điều 26. Trách nhiệm của gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan
1. Gia đình người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm:
a) Theo dõi, quản lý, giáo dục, động viên người sử dụng trái phép chất ma túy chấm dứt việc sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Khi phát hiện người thân có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy phải thông báo với Công an cấp xã nơi cư trú; ngăn chặn người sử dụng trái phép chất ma túy có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội;
c) Hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm.
2. Cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy làm việc có trách nhiệm:
a) Động viên, giúp đỡ, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy chấm dứt việc sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Phối hợp với gia đình, cơ quan có thẩm quyền đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm thông báo cho cơ quan Công an nơi gần nhất.
|
|
Điều 27. Thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Công an cấp xã thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú trên địa bàn quản lý.
2. Đưa ra khỏi danh sách thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy đối với người đã hết thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 2 Điều 24 hoặc thuộc trường hợp dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 6 Điều 24 của Luật này.
3. Bộ Công an có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn và thực hiện việc thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy.
|
Chương IV
CAI NGHIỆN MA TÚY
|
Chương V
CAI NGHIỆN MA TÚY
|
|
Điều 28. Xác định tình trạng nghiện ma túy
1. Người sử dụng trái phép chất ma túy bị coi là nghiện ma túy khi được cơ quan Y tế có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện theo hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế.
2. Việc xác định tình trạng nghiện ma túy áp dụng với các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, cai nghiện ma túy bắt buộc.
3. Người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện:
Bác sỹ, y sĩ, được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn về chẩn đoán, Điều trị cắt cơn nghiện ma túy do các cơ quan, tổ chức được Bộ Y tế giao tổ chức tập huấn và cấp chứng chỉ, đang làm việc tại: Các cơ sở y tế quân y, y tế quân dân y; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành Công an; phòng y tế của cơ sở cai nghiện ma túy công lập; phòng y tế của các cơ sở có chức năng tiếp nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trạm y tế xã, phường, thị trấn; phòng khám đa khoa khu vực; bệnh viện cấp huyện trở lên và bệnh viện thuộc các bộ, ngành khác.
4. Chính phủ quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của cơ sở xác định tình trạng nghiện và trình tự, thủ tục việc xác định tình trạng nghiện.
5. Bộ Y tế quy định tiêu chuẩn chẩn đoán và quy trình xác định tình trạng nghiện.
|
Điều 25
Chính sách của Nhà nước về cai nghiện ma túy bao gồm:
1. Áp dụng chế độ cai nghiện đối với người nghiện ma túy, khuyến khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện;
2. Tổ chức cơ sở cai nghiện ma tuý bắt buộc;
3. Khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện việc cai nghiện tự nguyện cho người nghiện ma túy, hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma tuý, quản lý sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy;
4. Hỗ trợ kinh phí thực hiện cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện ma túy;
5. Tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hỗ trợ, đầu tư vào hoạt động cai nghiện ma tuý, quản lý sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện ma tuý được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
|
Điều 29. Chính sách của Nhà nước về cai nghiện ma túy
1. Khuyến khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; áp dụng chế độ cai nghiện ma túy bắt buộc đối với người nghiện ma túy thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật này.
2. Tổ chức cơ sở cai nghiện ma túy công lập; khuyến khích thành lập cơ sở cai nghiện tư nhân và các tổ chức y tế, xã hội tham gia cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng.
3. Đảm bảo kinh phí tổ chức cai nghiện bắt buộc; hỗ trợ kinh phí đối với người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và tại cơ sở cai nghiện.
4. Khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện việc cai nghiện ma túy tự nguyện cho người nghiện ma túy; hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, sau cai nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy.
5. Tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vào hoạt động cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy, phòng, chống tái nghiện ma túy được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
|
Điều 26
1. Người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a) Tự khai báo về tình trạng nghiện ma túy của mình với cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) nơi cư trú và tự đăng ký hình thức cai nghiện ma túy;
b) Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về cai nghiện ma túy.
2. Gia đình người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a) Khai báo với Ủy ban nhân dân cấp xãvề người nghiện ma tuý trong gia đình mình và đăng ký hình thức cai nghiện cho người đó;
b) Động viên, giúp đỡ và quản lý người nghiện ma túy cai nghiện tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng theo sự hướng dẫn, giám sát của cán bộ y tế và Ủy ban nhân dân cấp xã;
c) Theo dõi, giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn người nghiện sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội;
d) Hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện và đóng góp kinh phí cai nghiệntheo quy định của pháp luật.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức cho người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy khai báo về tình trạng nghiện ma tuý và đăng ký hình thức cai nghiện."
|
Điều 30. Trách nhiệm của người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy
1. Người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a) Thực hiện các quy định của pháp luật về cai nghiện ma túy và tuân thủ các hướng dẫn của cơ quan chuyên môn về cai nghiện ma túy;
b) Đóng tiền sử dụng dịch vụ cai nghiện ma túy theo quy định của cơ quan có thẩm quyền;
c) Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan y tế xác định được tình trạng nghiện thì người nghiện phải đăng ký cai nghiện tự nguyện.
2. Gia đình người nghiện ma túy có trách nhiệm:
a) Hỗ trợ người nghiện ma túy trong quá trình cai nghiện ma túy và hòa nhập cộng đồng sau cai nghiện ma túy;
b) Phối hợp với các cơ quan trong việc lập hồ sơ áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc và thực hiện các hoạt động về cai nghiện ma túy.
|
Điều 26a
1. Các biện pháp cai nghiện ma tuý bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tự nguyện;
b) Cai nghiện ma túy bắt buộc.
2. Các hình thức cai nghiện ma tuý bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tại gia đình;
b) Cai nghiện ma túy tại cộng đồng;
c) Cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện.”
|
Điều 31. Các biện pháp và hình thức cai nghiện ma túy
1. Các biện pháp cai nghiện ma túy bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tự nguyện;
b) Cai nghiện ma túy bắt buộc.
2. Các hình thức cai nghiện ma túy bao gồm:
a) Cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng;
b) Cai nghiện ma túy tập trung tại cơ sở cai nghiện ma túy.
|
|
Điều 32. Cơ sở cai nghiện ma túy
1. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập là cơ sở cai nghiện do Nhà nước thành lập và giao ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý.
2. Cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân là cơ sở cai nghiện ma túy do cá nhân, tổ chức, cơ quan đầu tư, thành lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoạt động.
|
Điều 32
1. Trong cơ sở cai nghiện, những người nghiện ma tuý sau đây phải được bố trí vào các khu vực tách riêng với những người nghiện ma tuý khác để quản lý và chữa bệnh:
a) Người chưa thành niên;
b) Phụ nữ;
c) Người có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm;
d) Người đã cai nghiện nhiều lần hoặc có hành vi gây rối trật tự.
2. Cơ sở cai nghiện ma tuý có trách nhiệm thực hiện đúng phương pháp cai nghiện đã được cơ quan có thẩm quyền duyệt; tổ chức lao động, học tập, chữa bệnh cho người cai nghiện ma tuý.
3. Người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma tuý được quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật để quản lý chặt chẽ, giáo dục, chữa bệnh cho người cai nghiện và yêu cầu chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân giúp đỡ khi cần thiết.
Chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân có trách nhiệm phối hợp thực hiện các biện pháp bảo vệ cơ sở cai nghiện ma tuý và hỗ trợ cán bộ, công chức, nhân viên tại các cơ sở này khi có yêu cầu.
4. Cơ sở cai nghiện ma tuý phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người cai nghiện ma tuý.
|
Điều 33. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập
1. Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thành lập cơ sở cai nghiện ma túy công lập.
2. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập được bố trí các khu sau:
a) Khu lưu trú tạm thời đối với người xác định tình trạng nghiện ma túy và chờ lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
b) Khu dành riêng cho người cai nghiện ma túy bắt buộc;
c) Khu dành riêng cho người cai nghiện ma túy tự nguyện.
3. Trong các khu quy định tại khoản 2 Điều này phải bố trí các khu vực riêng biệt đối với các đối tượng sau:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Phụ nữ;
c) Người có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm;
d) Người có hành vi gây rối trật tự.
4. Hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy công lập:
a) Tiếp nhận và tổ chức cai nghiện ma túy cho người nghiện ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
b) Tổ chức cai nghiện tự nguyện tại cơ sở;
c) Cung cấp dịch vụ cai nghiện tại gia đình, cộng đồng.
5. Quyền và trách nhiệm của cơ sở cai nghiện ma túy công lập:
a) Thực hiện nghiêm túc các quy định chuyên môn về cai nghiện ma túy của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; đảm bảo chế độ lao động, học tập, chữa bệnh đối với người cai nghiện ma túy;
b) Tôn trọng tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người cai nghiện ma túy;
c) Người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma túy công lập được quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chếvà các quyền hạn khác theo quy định của pháp luật để quản lý, giáo dục, chữa trị cho người cai nghiện ma túy và yêu cầu chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân giúp đỡ khi cần thiết;
d) Cán bộ cơ sở cai nghiện ma túy công lập được trang bị trang phục thống nhất theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
|
|
Điều 34. Thành lập, tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân
1. Tổ chức, cá nhân được đầu tư, thành lập cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân.
2. Cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân quy định tại khoản 1 Điều này phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về cai nghiện ma túy.
3. Cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân phải bố trí các khu vực riêng biệt đối với các đối tượng sau:
a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Phụ nữ;
c) Người có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm;
4. Hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân:
a) Tổ chức cai nghiện tự nguyện tại cơ sở;
b) Cung cấp dịch vụ cai nghiện tại gia đình, cộng đồng.
5. Quyền và trách nhiệm của cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân:
a) Thực hiện nghiêm túc các quy định chuyên môn về cai nghiện ma túy của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;
b) Tôn trọng tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người cai nghiện ma túy;
6. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn; trình tự, thủ tục thành lập, đăng ký hoạt động và tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân, cơ sở hỗ trợ sau cai nghiện ma túy.
|
Điều 27
1. Hình thức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng được áp dụng đối với người tự nguyện cai nghiện, trừ trường hợp người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện tại cơ sở cai nghiện.
Trường hợp người nghiện ma túy không tự nguyện cai nghiện thì áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
2. Thời hạn cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng từ sáu tháng đến mười hai tháng.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức cai nghiện ma túy tại cộng đồng, hướng dẫn, hỗ trợ cai nghiện ma túy tại gia đình.
4. Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức cai nghiện ma tuý tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng và trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng."
|
Điều 35. Cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng
1. Cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng là việc người nghiện ma túy đăng ký cai nghiện tự nguyện với cơ quan cung cấp dịch vụ cai nghiện tại cộng đồng, bao gồm tư vấn, xây dựng kế hoạch cai nghiện ma túy; khám, kiểm tra sức khỏe, điều trị hội chứng cai và các bệnh khác; trị liệu, phục hồi tâm lý, sức khỏe và phòng, chống tái nghiện.
2. Thời hạn, địa điểm cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng được thực hiện theo thỏa thuận giữa người cai nghiện ma túy và cơ quan cung cấp dịch vụ. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ thời điểm thống nhất được thời hạn cai nghiện, cơ sở cung cấp dịch vụ phải gửi thông báo về thời hạn cai nghiện của người nghiện cho Công an cấp xã nơi người nghiện cư trú.
3. Kết thúc cai nghiện cơ sở cung cấp dịch vụ cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình cai nghiện. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đã hoàn thành chương trình cai nghiện cho người nghiện, cơ sở cung cấp dịch vụ phải gửi 01 bản cho Công an an cấp xã nơi người nghiện cư trú.
4. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày xác định được người nghiện tự ý chấm dứt việc cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cơ sở cung cấp dịch vụ có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Công an cấp xã nơi người nghiện cư trú.
5. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm quản lý, kiểm tra, hướng dẫn, tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng trên địa bàn quản lý.
Cơ sở cai nghiện ma túy công lập, cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân và các cơ sở y tế, xã hội khác có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được phép cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng.Cơ sở cung cấp dịch vụ cai nghiện có trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ cai nghiện ma túy; niêm yết công khai giá dịch vụ cai nghiện ma túy theo quy định của pháp luật.
6. Người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy có trách nhiệm đóng góp kinh phí sử dụng dịch vụ cai nghiện tự nguyện. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho các trường hợp cai nghiện ma túy tự nguyện.
7. Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng và nội dung hỗ trợ, mức hỗ trợ kinh phí đối với người tự nguyện cai nghiện ma túy; điều kiện của các cơ sở y tế, xã hội cung cấp dịch vụ cai nghiện tại gia đình, cộng đồng.
|
|
Điều 36. Cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tư nhân
1. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện tư nhân (sau đây gọi chung là cơ sở cai nghiện) được tiếp nhận, tổ chức cai nghiện ma túy cho người tự nguyện cai nghiện ma túy tại cơ sở theo hình thức hợp đồng cung cấp dịch vụ.
2. Thời hạn cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy thực hiện theo thỏa thuận giữa người cai nghiện ma túy, gia đình người cai nghiện ma túy với cơ sở cai nghiện ma túy, nhưng thời hạn ít nhất là 6 tháng. Trong thời hạn 02 ngày kể từ thời điểm thống nhất được thời hạn cai nghiện, cơ sở cai nghiện phải gửi thông báo về thời hạn cai nghiện của người nghiện cho Công an cấp xã nơi người nghiện cư trú.
3. Kết thúc cai nghiện cơ sở cai nghiện cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình cai nghiện. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận cho người nghiện cơ sở cai nghiện phải gửi 01 bản cho Công an an cấp xã nơi người nghiện cư trú.
4. Trong thời hạn 02 ngày kể từ thời điểm xác định được người nghiện tự ý chấm dứt việc cai nghiện, cơ sở cai nghiện có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Công an cấp xã nơi người nghiện cư trú.
5. Người tự nguyện cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nguyện ma túy có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện ma túy; trả chi phí cai nghiện ma túy theo quy định.
6. Giám đốc cơ sở cai nghiện ma túy có trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ cai nghiện ma túy cho người tự nguyện cai nghiện ma túy; xây dựng, niêm yết công khai giá dịch vụ cai nghiện ma túy tại cơ sở theo quy định của pháp luật.
7. Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho người cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy. Chính phủ quy định chi tiết mức hỗ trợ kinh phí đối với người tự nguyện cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện ma túy.
|
Điều 28
1. Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Việc đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thời hạn cai nghiện ma tuý tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ một năm đến hai năm.
3. Người nghiện ma tuý tự nguyện làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc và không bị coi là bị xử lý vi phạm hành chính.
4. Tổ chức và hoạt động của cơ sở cai nghiện bắt buộc, chế độ cai nghiện bắt buộc, thủ tục đưa người nghiện ma tuý quy định tại khoản 1 Điều này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
|
Điều 37. Các trường hợp áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1. Các trường hợp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc áp dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên:
a) Người nghiện ma túy không đăng ký một trong các hình thức cai nghiện tự nguyện hoặc điều trị nghiện bằng thuốc thay thế;
b) Trong thời hạn cai nghiện tự nguyện bị phát hiện có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc trong thời gian điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế vi phạm bị chấm dứt điều trị theo quy định và tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Trong thời hạn 02 năm kể từ ngày thực hiện xong quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc bị phát hiện có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
d) Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hoàn thành chương trình cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, tại cơ sở cai nghiện phát hiện có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
đ) Trong thời hạn 01 năm tính từ thời điểm người nghiện tự chấm dứt việc cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, tại cơ sở cai nghiện hoặc tự chấm dứt chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế mà tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.
2. Đối tượng, thời hạn, trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quy định của pháp luậtXử lý vi phạm hành chính.
|
Điều 30
Trong thời gian cai nghiện bắt buộc, người nghiện ma tuý có trách nhiệm:
1. Tuân thủ nội quy và chịu sự quản lý, giáo dục của cơ sở cai nghiện bắt buộc;
2. Lao động, học tập, chữa bệnh để cai nghiện và góp phần đảm bảo đời sống trong thời gian cai nghiện.
|
Điều 38. Trách nhiệm của người nghiện ma túy khi cai nghiện bắt buộc
1. Tuân thủ các quy định của pháp luật về công tác cai nghiện bắt buộc, nội quy, quy chế và chịu sự quản lý, giáo dục, điều trị của cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Lao động trị liệu, học tập, học nghề, chữa bệnh để cai nghiện ma túy và góp phần đảm bảo đời sống trong thời hạn cai nghiện ma túy.
|
|
Điều 39. Áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy cho người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam; người Việt Nam bị các nước trục xuất về nước do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy
1. Người nước ngoài nghiện ma túy phải đăng ký hình thức cai nghiện ma túy tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện ma túy hoặc điều trị nghiện bằng thuốc thay thế và trả phí theo quy định; nếu không đăng ký cai nghiện ma túy hoặc không tham gia điều trị nghiện bằng thuốc thay thế hoặc trong thời hạn cai nghiện ma túy tự nguyện, điều trị nghiện bằng thuốc thay thế mà có hành vi vi phạm pháp luật hoặc sử dụng trái phép chất ma túy thì áp dụng hình thức trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật Xử lý vi phạm hành chính.
2. Người Việt Nam bị nước ngoài trục xuất về Việt Nam do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy khi về nước phải tiến hành xác định tình trạng nghiện ma túy; nếu người đó được cơ quan Y tế có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện ma túy thì áp dụng các quy định về cai nghiện ma túy.
|
Điều 29
1. Người nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.
2. Người nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tự nguyện hoặc được gia đình làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.
3. Việc cai nghiện ma tuý đối với người nghiện ma tuý quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không coi là việc xử lý vi phạm hành chính.
4. Tổ chức và hoạt động của cơ sở cai nghiện bắt buộc, thẩm quyền, thời gian, chế độ cai nghiện, thủ tục đưa người nghiện ma tuý quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do Chính phủ quy định.
|
Điều 40. Cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi
1. Cha, mẹ hoặc người giám hộ của người nghiện ma tuý từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi phải khai báo về tình trạng nghiện ma túy và đăng ký tự nguyện cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng, tại các cơ sở cai nghiện ma túy hoặc tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
2. Trường hợpcha mẹ, người giám hộ không đăng ký tự nguyện cai nghiện ma túy, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, hoặc đã cai nghiện ma túy tự nguyện nhưng vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy hoặc trong quá trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế vi phạm bị chấm dứt điều trị theo quy định và tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thì đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện ma túy bắt buộc từ 06 tháng đến 12 tháng.
3. Việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện bắt buộc do Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến tư vấn của cơ quan bảo vệ trẻ em cùng cấp và không coi là việc xử lý vi phạm hành chính.
4. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập có trách nhiệm bảo đảm quyền học văn hóa cho người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi trong thời hạn cai nghiện bắt buộc.
5. Chính phủ quy định chi tiết việc lập hồ sơ đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện ma túy bắt buộc; chế độ cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
6. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp đưa người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện ma túy công lập để cai nghiện bắt buộc.
|
Điều 31
1. Nhà nước áp dụng phương pháp cai nghiện thích hợp đối với người nghiện ma túy là người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục, học sinh của trường giáo dưỡng. Cơ quan quản lý các cơ sở này phối hợp chặt chẽ với cơ quan y tế địa phương để thực hiện quy định này.
2. Giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam, giám đốccơ sở giáo dục, hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã về việc cai nghiện ma tuý của người nghiện ma tuý quy định tại khoản 1 Điều này khi họ trở về nơi cư trú.”
|
Điều 41. Cai nghiện ma túy cho người bị tạm giam, phạm nhân, trại viên của cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường giáo dưỡng
1. Nhà nước tổ chức cai nghiện ma túy với các phương pháp, hình thức phù hợp đối với người nghiện ma túy trong các trại tạm giam, trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng.
2. Cơ quan quản lý các cơ sở này phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền ở địa phương để thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
|
Điều 32a
Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà phạm tội, nếu thời gian bị phạt tù ít hơn thời gian cai nghiện ma túy thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù phải tiếp tục cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì vẫn phải thực hiện cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.
|
Điều 42. Chấp hành hình phạt tù khi đang cai nghiện ma túy bắt buộc
1. Người đang cai nghiện ma tuý bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập mà bị phát hiện thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu bị tòa án xử phạt tù thì người đó được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Trường hợp chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo thìngười đó phải tiếp tục chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
|
Điều 33
1. Người nghiện ma túy sau khi chấp hành xong thời gian cai nghiện ma túy bắt buộc tại cơ sở cai nghiện phải chịu sự quản lý sau cai nghiện từ một năm đến hai năm theo một trong hai hình thức sau đây:
a) Quản lý tại nơi cư trú do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện đối với người không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này;
b) Quản lý tại cơ sở quản lý sau cai nghiện đối với người có nguy cơ tái nghiện cao.
2. Nội dung quản lý sau cai nghiện bao gồm:
a) Quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ phòng, chống tái nghiện; hỗ trợ học nghề, tìm việc làm và tham gia các hoạt động xã hội để hoà nhập cộng đồng đối với người được quản lý tại nơi cư trú;
b) Quản lý, tư vấn, giáo dục, dạy nghề, lao động sản xuất và chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng đối với người được quản lý tại cơ sở quản lý sau cai nghiện.
3. Người được quản lý tại cơ sở quản lý sau cai nghiện tham gia lao động sản xuất được hưởng thành quả lao động của mình theo quy định của Chính phủ.
4. Người đang được quản lý tại cơ sở quản lý sau cai nghiện mà bỏ trốn thì người đứng đầu cơ sở ra quyết định truy tìm; cơ quan công an có trách nhiệm phối hợp với cơ sở quản lý sau cai nghiện trong việc truy tìm để đưa người đó trở lại cơ sở thực hiện tiếp thời gian còn lại.
5. Cơ sở quản lý sau cai nghiện phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe, tài sản của người được quản lý sau cai nghiện.
6. Người đã hoàn thành thời gian quản lý sau cai nghiện theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, gia đình tiếp nhận, tạo điều kiện học nghề, tìm việc làm, vay vốn, tham gia các hoạt động xã hội để hoà nhập cộng đồng, giúp đỡ phòng, chống tái nghiện.
7. Chính phủ quy định cụ thể tiêu chí xác định đối tượng có nguy cơ tái nghiện cao quy định tại điểm b khoản 1 Điều này; thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục đưa vào cơ sở quản lý sau cai nghiện; chế độ quản lý và chính sách hỗ trợ cho người sau cai nghiện; tổ chức và hoạt động của cơ sở quản lý sau cai nghiện.”
|
Điều 43. Hỗ trợ xã hội sau cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy
1. Người sau cai nghiện ma túy được tạo điều kiện hỗ trợ học nghề, tìm việc làm và tham gia chương trình phòng, chống tái nghiện ma túy, các hoạt động xã hội để hoà nhập cộng đồng.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc hỗ trợ sau cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy quy định tại Khoản 1 Điều này.
3. Chính phủ quy định cụ thể chính sách hỗ trợ học nghề, tìm việc làm, chương trình phòng, chống tái nghiện ma túy và các hoạt động xã hội để hoà nhập cộng đồng.
|
Điều 34
Uỷ ban nhân dân các cấp nơi có người nghiện ma tuý có trách nhiệm lập kế hoạch tổ chức cai nghiện và phòng, chống tái nghiện ma tuý tại địa phương; chỉ đạo cơ quan lao động - thương binh và xã hội chủ trì phối hợp với cơ quan công an, y tế, giáo dục và đào tạo cùng cấp và các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức cai nghiện ma tuý, quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý và người đã cai nghiện ma tuý; hỗ trợ, tạo điều kiện cho người đã cai nghiện ma tuý hoà nhập cộng đồng.
|
Điều 44. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp nơi có người nghiện ma túy cư trú
Ủy ban nhân dân các cấp nơi người nghiện ma túy cư trú có trách nhiệm lập kế hoạch tổ chức cai nghiệnma túy tự nguyện, hỗ trợ sau cai nghiện ma túyvà phòng, chống tái nghiện ma túytrên địa bàn quản lý; chỉ đạo cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với cơ quan Công an, Y tế, Giáo dục và Đào tạo cùng cấp và các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức cai nghiện ma túy, quản lý, giáo dục người nghiện ma túy và người đã cai nghiện ma túy; hỗ trợ, tạo điều kiện cho người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng.
|
Điều 34a
1. Biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma tuý là biện pháp làm giảm hậu quả tác hại liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện gây ra cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
2. Biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy được triển khai trong nhóm người nghiện ma túy thông qua chương trình, dự án phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
3. Chính phủ quy định cụ thể các biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy và tổ chức thực hiện các biện pháp này.
|
Điều 45. Can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy
1. Biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy là biện pháp biện pháp làm giảm hậu quả tác hại liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
2. Chính phủ quy định cụ thể các biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma túy và tổ chức thực hiện các biện pháp này.
|
Điều 35
1. Kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện, phòng, chống tái nghiện ma túy được quy định tại các điều 27, 28, 29, 31, 33 và 34 của Luật này, bao gồm:
a) Ngân sách nhà nước;
b) Đóng góp của người cai nghiện ma túy và gia đình họ;
c) Các nguồn tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
2. Người nghiện ma tuý, vợ hoặc chồng của người nghiện ma tuý, cha, mẹ của người chưa thành niên nghiện ma tuý có trách nhiệm đóng góp kinh phí cai nghiện theo quy định của Chính phủ; trường hợp có hoàn cảnh khó khăn thì được xét giảm hoặc miễn đóng góp kinh phí cai nghiện.
3. Cơ sở cai nghiện ma tuý được tiếp nhận các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài để cai nghiện cho người nghiện ma tuý và phải quản lý, sử dụng các khoản đóng góp, tài trợ đó theo quy định của pháp luật.
|
Điều 46. Nguồn lực trong tổ chức cai nghiện ma túy và hỗ trợ sau cai nghiện
1. Ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho cơ sở cai nghiện ma túy công lập và tổ chức cai nghiện bắt buộc.
2. Ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho người cai nghiện tự nguyện, dịch vụ hỗ trợ sau cai nghiện ma túy và phòng, chống tái nghiện ma túy đối với người sau cai nghiện ma túy.
3. Người nghiện ma túy, gia đình của người nghiện ma túy có trách nhiệm đóng góp kinh phí cai nghiện ma túy tự nguyện theo quy định của Chính phủ.
4. Người nghiện ma túy cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập có hoàn cảnh khó khăn thì được xét giảm hoặc miễn đóng góp kinh phí.
5. Cơ sở cai nghiện ma túy được tiếp nhận các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài để cai nghiện ma túy cho người nghiện ma túy và phải quản lý, sử dụng các khoản đóng góp, tài trợ đó theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 47. Thống kê người nghiện ma túy
1. Công an cấp xã lập hồ sơ quản lý, theo dõi và thống kê người nghiện ma túy cư trú trên địa bàn quản lý.
2. Đưa ra khỏi danh sách thống kê người nghiện:
a) Người nghiện ma túy trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Người nghiện ma túy trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hoàn thành chương trình cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, tại cơ sở cai nghiện hoặc hoàn thành chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế mà không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy.
3. Bộ Y tế có trách nhiệm thống kê người nghiện ma túy đang tham gia chương trình điều trị nghiện bằng thuốc thay thế.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm thống kê người nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện; người nghiện ma túy cai nghiện tại gia đình, cộng đồng.
5. Bộ Quốc phòng có trách nhiệm thống kê người nghiện ma túy trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam do Bộ Quốc phòng quản lý.
6. Bộ Công an có trách nhiệm thống kê người nghiện ma túy hiện chưa đi cai nghiện ở ngoài xã hội; người nghiện ma túy trong các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc thuộc Bộ Công an quản lý và tổng hợp số liệu người nghiện trong toàn quốc.
|
Chương V
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
|
Chương VI
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
|
Điều 36
Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma tuý bao gồm:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch về phòng, chống ma tuý;
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý;
3. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phòng, chống ma tuý;
4. Ban hành, sửa đổi, bổ sung, công bố danh mục chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần;
5. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý;
6. Quyết định thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện ma tuý bắt buộc; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các cơ sở khác về cai nghiện ma tuý; tổ chức và quản lý việc cai nghiện ma tuý và hoà nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma tuý;
7. Tổ chức đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý;
8. Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma tuý;
9. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về phòng, chống ma tuý;
10. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma tuý;
11. Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma tuý;
12. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý.
|
Điều 48. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch về phòng, chống ma túy.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
3. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phòng, chống ma túy.
4. Ban hành, sửa đổi, bổ sung, công bố danh mục chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần.
5. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
6. Quyết định thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện ma túy công lập; quy định điều kiện, tiêu chuẩn và trình tự, thủ tục thành lập, đăng ký hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở hỗ trợ sau cai nghiện ma túy do cá nhân, tổ chức đầu tư, thành lập; tổ chức và quản lý việc cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy.
7. Tổ chức đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn về ma túy.
8. Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy.
9. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về phòng, chống ma túy.
10. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy.
11. Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
12. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
|
Điều 37
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma tuý.
2. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma tuý.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các cơ quan hữu quan trong phòng, chống ma tuý.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma tuý tại địa phương; chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức phòng, chống ma tuý tại địa phương; quản lý việc cai nghiện ma tuý và hoà nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma tuý.
|
Điều 49. Phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
2. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống ma túy.
4. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương; chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức phòng, chống ma túy tại địa phương; quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy, quản lý việc cai nghiện bắt buộc, cai nghiện tự nguyện, hỗ trợ sau cai nghiện và phòng, chống tái nghiện, hòa nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma túy; ban hành quy chế quản lý các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy trên địa bàn.
|
Điều 38
1. Bộ Công an có trách nhiệm:
a) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch phòng, chống tội phạm về ma tuý; tổng hợp kết quả thực hiện kế hoạch phòng, chống ma tuý của các bộ, ngành trình Chính phủ;
b) Chủ trì phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý; tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm ma tuý;
c) Ban hành và tổ chức thực hiện quy chế quản lý chất ma tuý và tiền chất phục vụ đấu tranh chống tội phạm về ma tuý;
d) Tổ chức lực lượng điều tra các tội phạm về ma tuý, hướng dẫn các cơ quan khác tiến hành điều tra ban đầu các tội phạm này theo quy định của pháp luật;
đ) Tổ chức công tác giám định chất ma tuý và tiền chất;
e) Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý, giám định chất ma tuý và tiền chất;
g) Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma tuý; quản lý thông tin về các tội phạm về ma tuý;
h) Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo việc lập hồ sơ và tổ chức đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, giữ gìn an ninh, trật tự tại các cơ sở cai nghiện, kiểm tra hoạt động cai nghiện ma tuý tại cộng đồng và trong các cơ sở cai nghiện;
i) Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm về ma tuý.
2. Bộ trưởng Bộ Công an cấp, thu hồi giấy phép quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma tuý, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu chất ma tuý sử dụng trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm.
|
Điều 50. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch phòng, chống tội phạm về ma túy; tổng hợp kết quả thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy của các bộ, ngành trình Chính phủ.
2. Chủ trì phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy; tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
3. Ban hành và tổ chức thực hiện quy chế quản lý chất ma túy và tiền chất phục vụ đấu tranh chống tội phạm về ma túy.
4. Tổ chức lực lượng điều tra các tội phạm về ma túy, hướng dẫn các cơ quan khác tiến hành điều tra ban đầu các tội phạm này theo quy định của pháp luật.
5. Tổ chức công tác giám định chất ma túy và tiền chất.
6. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, giám định chất ma túy và tiền chất; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
7. Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy; quản lý thông tin về các tội phạm về ma túy; giám sát, quản lý, lập hồ sơ theo dõi người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy; phối hợp với cơ quan Y tế trong việc xác định tình trạng nghiện ma túy.
8. Hướng dẫn việc thu thập tài liệu lập hồ sơ và tổ chức đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, giữ gìn an ninh, trật tự tại các cơ sở cai nghiện,kiểm tra hoạt động cai nghiện ma túy tại cộng đồng và trong các cơ sở cai nghiện.
9. Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm về ma túy.
10. Bộ trưởng Bộ Công an cấp, thu hồi giấy phép quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc; thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất; cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu chất ma túy sử dụng trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm.
|
Điều 38a
Bộ Quốc phòng có trách nhiệm:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy ở khu vực biên giới trên đất liền, khu vực biên giới trên biển, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa;
2. Phối hợp với cơ quan hữu quan của nước khác để phát hiện, ngăn chặn các hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần qua biên giới theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
3. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma tuý của Bộ đội Biên phòng và lực lượng Cảnh sát biển.
|
Điều 51. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy ở khu vực biên giới trên đất liền, trên biển, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
2. Phối hợp với cơ quan hữu quan của các nước để phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy tại địa bàn theo quy định của Khoản 1 Điều này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy của Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát biển.
|
Điều 38b
Bộ Tài chính có trách nhiệm:
1. Chỉ đạo cơ quan Hải quan thực hiện hoạt động phòng, chống ma tuý theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
2. Chủ trì phối hợp với bộ, ngành, chính quyền địa phương xây dựng dự toán kinh phí phòng, chống ma tuý trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và triển khai thực hiện theo quy định của pháp luật.
|
Điều 52. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Chỉ đạo cơ quan Hải quan thực hiện hoạt động phòng, chống ma túy theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Chủ trì phối hợp với Bộ Công an và các bộ, ngành, chính quyền địa phương trình cấp có thẩm quyền bố trí kinh phí chi thường xuyên để thực hiện công tác phòng, chống ma túy theo quy định về phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành.
|
Điều 39
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch tổ chức cai nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện; chỉ đạo tổ chức cai nghiện ma tuý, quản lý sau cai nghiện và giải quyết các vấn đề xã hội sau cai nghiện;
2. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác cai nghiện ma tuý, quản lý sau cai nghiện và giải quyết các vấn đề xã hội sau cai nghiện;
3. Chủ trì phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan và chính quyền địa phương xây dựng, hướng dẫn hoạt động của cơ sở cai nghiện ma tuý, cơ sở quản lý sau cai nghiện; dạy nghề, tạo việc làm, tư vấn, hỗ trợ, tạo điều kiện vật chất và tinh thần để giúp đỡ người đã cai nghiện ma tuý hoà nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện;
4. Thống kê, đánh giá tình hình cai nghiện ma tuý, quản lý sau cai nghiện và giải quyết các vấn đề xã hội sau cai nghiện;
5. Hướng dẫn, chỉ đạo việc thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở quản lý sau cai nghiện; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các cơ sở khác về cai nghiện ma tuý;
6. Thực hiện hợp tác quốc tế về cai nghiện ma tuý và giải quyết các vấn đề xã hội sau cai nghiện.
|
Điều 53. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, pháp luật về cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy; chỉ đạo giải quyết các vấn đề xã hội do nghiện ma túy gây ra.
2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy.
3. Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan và chính quyền địa phương xây dựng, hướng dẫn việc tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện ma túy; xây dựng, hướng dẫn thực hiện hỗ trợ sau cai nghiện ma túy, phòng, chống tái nghiện ma túy ở cộng đồng.
4. Thực hiện thống kê về cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện ma túy, phòng, chống tái nghiện ma túy theo quy định của pháp luật.
5. Hướng dẫn, chỉ đạo việc thành lập, giải thể và tổ chức hoạt động cơ sở cai nghiện ma túy công lập; cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở hỗ trợ sau cai nghiện ma túy do cá nhân, tổ chức đầu tư, thành lập.
6. Hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc giáo dục về phòng, chống ma túy trong hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
7. Thực hiện hợp tác quốc tế về cai nghiện ma túy, hỗ trợ sau cai nghiện và hòa nhập cộng đồng cho người nghiện ma túy.
|
Điều 40
1. Bộ Y tế có trách nhiệm:
a) Ban hành danh mục, quy chế quản lý thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc hướng thần sử dụng trong lĩnh vực y tế và tổ chức thực hiện quy chế đó; ban hành và chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức thực hiện quy chế quản lý chất ma tuý sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa học;
b) Quy định việc nghiên cứu thuốc và phương pháp cai nghiện ma tuý; cấp, thu hồi giấy phép lưu hành thuốc, phương pháp cai nghiện ma tuý; hướng dẫn, thủ tục xác định người nghiện ma tuý; hỗ trợ về người, chuyên môn kỹ thuật y tế để cai nghiện ma tuý;
c) Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc hướng thần sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa học;
d) Chỉ đạo các cơ sở y tế phối hợp xét nghiệm, xác định và cai nghiện cho người nghiện ma tuý ở xã, phường, thị trấn."
2. Bộ trưởng Bộ Y tế cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu thuốc cai nghiện ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, chất ma tuý, tiền chất sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa học.
|
Điều 54. Trách nhiệm của Bộ Y tế
1. Theo dõi, hướng dẫn, đề xuất Chính phủ ban hành danh mục tiền chất trong lĩnh vực Y tế. Ban hành quy chế quản lý thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc sử dụng trong lĩnh vực y tế và tổ chức thực hiện quy chế đó.
2. Trình Chính phủ ban hành quy định về điều kiện kinh doanh, hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược đối với các cơ sở kinh doanh thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc.
3. Quy định việc nghiên cứu thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy; cấp, thu hồi giấy phép lưu hành thuốc, phương pháp cai nghiện ma túy; hướng dẫn, thủ tục xác định người nghiện ma túy; hỗ trợ về người, chuyên môn kỹ thuật y tế để cai nghiện ma túy.
4. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa học.
5. Chỉ đạo các cơ sở y tế phối hợp xét nghiệm, xác định tình trạng nghiện ma túy và cai nghiện cho người nghiện ma túy ở xã, phường, thị trấn.
6. Quản lý, hướng dẫn tổ chức thực hiện hoạt động điều trị nghiện bằng thuốc thay thế và can thiệp giảm tác hại.
7. Ban hành các hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật trong chẩn đoán, điều trị nghiện bằng thuốc thay thế.
8. Bộ trưởng Bộ Y tế cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu thuốc cai nghiện ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, chất ma túy, tiền chất sử dụng trong lĩnh vực y tế theo quy định hiện hành.
|
Điều 41
1. Bộ Công thương có trách nhiệm:
a) Ban hành danh mục, quy chế quản lý tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy chế đó;
b) Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp.
2. Bộ trưởng Bộ Công thương cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu tiền chất sử dụng trong các lĩnh vực sản xuất, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 40 của Luật này.
|
Điều 55. Trách nhiệm của Bộ Công thương
1. Theo dõi, hướng dẫn, đề xuất Chính phủ ban hành danh mục, quy chế quản lý tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và tổ chức thực hiện quy chế đó;
2. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp.
3. Bộ trưởng Bộ Công thương cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu tiền chất sử dụng trong các lĩnh vực sản xuất, trừ trường hợp quy định tại khoản 8 Điều 54 của Luật này.
|
Điều 42
Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm ban hành và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phòng, chống ma tuý; xây dựng, tổ chức thực hiện các dự án giáo dục phòng, chống ma tuý trong nhà trường, các cơ sở giáo dục khác.
|
Điều 56. Trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Ban hành và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phòng, chống ma túy; xây dựng, tổ chức thực hiện các dự án giáo dục phòng, chống ma túy trong nhà trường, các cơ sở giáo dục khác.
|
Điều 42a
Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan hữu quan thực hiện hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục về công tác phòng, chống ma túy.
|
Điều 57. Trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông
Chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan; chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phòng, chống ma túy.
|
|
Điều 58. Trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan lồng ghép nội dung tuyên truyền về phòng, chống ma túy vào các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch; chỉ đạo, trực tiếp tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn các hoạt động văn hóa, dịch vụ, thể thao và du lịch không để sơ hở làm phát sinh tệ nạn ma túy.
|
Điều 43
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Uỷ ban Dân tộc và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức xoá bỏ cây có chứa chất ma tuý; thực hiện chương trình trợ giúp chuyển hướng sản xuất có hiệu quả, ổn định đời sống của nhân dân.
|
Điều 59. Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
1. Chủ trì, phối hợp với Ủy ban dân tộc và các cơ quan, tổ chức có liên quan khác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức xóa bỏ cây có chứa chất ma túy; thực hiện chương trình trợ giúp chuyển hướng sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, ổn định đời sống Nhân dân.
2. Ban hành danh mục, quy định quản lý thuốc thú y chứa chất ma túy, tiền chất và tổ chức thực hiện.
3. Thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất phục vụ trong lĩnh vực nông nghiệp.
4. Thực hiện cấp, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
|
Điều 45
Các cơ quan quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 44 của Luật này, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
1. Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về quản lý các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý; phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống tệ nạn ma tuý; cai nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện; nghiên cứu khoa học, huấn luyện nghiệp vụ phòng, chống ma tuý;
2. Xử lý các vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố, điều tra các hành vi có dấu hiệu của tội phạm về ma tuý.
|
Điều 60. Kiểm tra, thanh tra trong quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Các cơ quan quy định tại các điều từ Điều 49 đến Điều 59 của Luật này, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
1. Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về quản lý các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống tệ nạn ma túy; cai nghiện ma túy; nghiên cứu khoa học, huấn luyện nghiệp vụ phòng, chống ma túy.
2. Xử lý các vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật và yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố, điều tra các hành vi có dấu hiệu của tội phạm về ma túy..
|
Chương VI
HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ
PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
|
Chương VII
HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ
PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
|
|
Điều 61. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Nhà nước Việt Nam thực hiện các điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi; hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống ma túy.
|
Điều 46
Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh vực phòng, chống ma tuý trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia với các nước trong khu vực Đông Nam á và các nước khác trên thế giới; khuyến khích các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam hỗ trợ lẫn nhau về cơ sở vật chất, tăng cường năng lực pháp luật, thông tin, công nghệ và đào tạo cho hoạt động phòng, chống ma tuý.
|
Điều 62. Chính sách hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh vực phòng, chống ma túy trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia với các nước; khuyến khích các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam hỗ trợ lẫn nhau về cơ sở vật chất, tăng cường năng lực pháp luật, thông tin, công nghệ đào tạo và y tế cho hoạt động phòng, chống ma túy.
|
Điều 47
Trên cơ sở các quy định của Luật này và các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện các chương trình hợp tác về phòng, chống ma tuý với các cơ quan hữu quan của các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
|
Điều 63. Cơ sở pháp lý trong hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Trên cơ sở các quy định của Luật này và các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện các chương trình hợp tác về phòng, chống ma túy với các cơ quan hữu quan của các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
|
Điều 48
Việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan của Việt Nam với nước có liên quan để giải quyết vụ việc cụ thể về ma tuý phải tuân theo các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước có liên quan đã ký kết hoặc tham gia, hoặc theo thoả thuận trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước có liên quan.
|
Điều 64. Hợp tác quốc tế giải quyết các vụ việc cụ thể về ma túy
Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Việt Nam với nước có liên quan để giải quyết vụ việc cụ thể về ma túy phải tuân theo các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước có liên quan đã ký kết hoặc tham gia, hoặc theo thỏa thuận trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước có liên quan.
|
Điều 49
1. Nhà nước Việt Nam dành ưu tiên cho nước ký kết điều ước quốc tế song phương với Việt Nam sự tương trợ tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma tuý.
2. Nhà nước Việt Nam có thể từ chối tương trợ tư pháp trong các trường hợp sau:
a) Yêu cầu tương trợ tư pháp không phù hợp với các điều ước quốc tế về phòng, chống ma tuý mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và pháp luật Việt Nam;
b) Việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp gây tổn hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của Việt Nam.
|
Điều 65. Tương trợ tư pháp trong phòng, chống ma túy
1. Nhà nước Việt Nam dành ưu tiên cho nước ký kết điều ước quốc tế song phương với Việt Nam sự tương trợ tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma túy.
2. Nhà nước Việt Nam có thể từ chối tương trợ tư pháp trong các trường hợp theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.
|
Điều 50
Trong trường hợp Việt Nam và nước có liên quan không cùng tham gia điều ước quốc tế đa phương hoặc chưa ký với nhau điều ước quốc tế song phương thì các cơ quan tư pháp của Việt Nam trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn của mình, được thoả thuận trực tiếp với cơ quan tư pháp của nước có liên quan trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma tuý.
|
Điều 66. Thỏa thuận giữa các cơ quan tư pháp
Trong trường hợp Việt Nam và nước có liên quan không cùng tham gia điều ước quốc tế đa phương hoặc chưa ký với nhau điều ước quốc tế song phương thì các cơ quan tư pháp của Việt Nam trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn của mình, được thỏa thuận trực tiếp với cơ quan tư pháp của nước có liên quan trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy.
|
Điều 51
Nhà nước Việt Nam thực hiện yêu cầu chuyển giao hàng hoá có kiểm soát trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia để phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội về ma tuý. Quyết định sử dụng biện pháp này được tiến hành theo thoả thuận giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và của nước có liên quan.
|
Điều 67. Chuyển giao hàng hóa có kiểm soát
Nhà nước Việt Nam thực hiện yêu cầu chuyển giao hàng hóa có kiểm soát trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia để phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội về ma túy. Quyết định sử dụng biện pháp này được tiến hành theo thỏa thuận giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và của nước có liên quan.
|
Chương VII
KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
|
|
Điều 52
Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có thành tích trong đấu tranh phòng, chống ma tuý thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 53
1. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật; việc xử lý phải kiên quyết, công khai và thông báo cho cơ quan, tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm làm việc hoặc cư trú.
2. Người nào sử dụng tài sản, phương tiện của mình để chứa chấp hoặc tạo điều kiện cho các hoạt động trái phép về ma tuý; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền về phòng, chống ma tuý; cản trở, chống đối, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người tố giác, người làm chứng, người bị hại, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
3. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của Luật này trong khi thi hành nhiệm vụ về phòng, chống ma tuý thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
|
|
Điều 54
Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
|
|
Chương VIII
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
|
Chương IX
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
|
Điều 55
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2001.
Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ.
|
Điều 68. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày ... tháng ... năm .......
2. Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy số 16/2008/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
|
Điều 56
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.
|
Điều 72. Quy định chi tiết
Chính phủ, các cơ quan có liên quan quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật này.
|
|
Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày …. tháng …... năm 2021.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
|