Tờ trình về Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 18/06/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, tháng 5-6/2020
A20.02_TTr131-CP_ve_DA_Luat_Thoa_thuan_QT.doc
Kính gửi: Quốc hội.
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT) như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ
Pháp lệnh về ký kết và thực hiện TTQT (Pháp lệnh 2007) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20/04/2007 đã thực hiện tốt vai trò là cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế (TTQT) . Kể từ ngày Pháp lệnh có hiệu lực thi hành (ngày 01/07/2007) cho đến thời điểm hiện tại, theo số liệu ghi nhận tại Bộ Ngoại giao, các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của các tổ chức đã ký tổng cộng 2.107 TTQT, trong đó các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ký 1.109 TTQT, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký 821 TTQT. Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thực thi Pháp lệnh 2007 (Báo cáo tổng kết kèm theo) cho thấy, Pháp lệnh 2007 này cùng với pháp luật về điều ước quốc tế (Luật Điều ước quốc tế (ĐƯQT) năm 2016 thay thế cho Luật Ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 2005 ) đã phục vụ tích cực cho việc triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời gian qua. Các TTQT (không phải ĐƯQT) được ký kết và triển khai trên nhiều kênh, bao gồm các chủ thể được quy định tại Pháp lệnh 2007 (Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của các tổ chức), và cả cấp đơn vị trực thuộc cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan cấp tỉnh. Nội dung hợp tác theo các TTQT trải rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác nước ngoài khác nhau. Việc ký kết và thực hiện các TTQT thời gian qua đã thúc đẩy hợp tác quốc tế giữa các cấp, các ngành, các tổ chức của nước ta với các đối tác nước ngoài, góp phần không chỉ thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, qua nhiều kênh, mà còn góp phần giải quyết những vấn đề quan trọng, phức tạp như bảo vệ chủ quyền biển đảo, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, qua đó tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác nước ngoài cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, triển khai nhiều chương trình kinh tế, xã hội, trong đó có xóa đói, giảm nghèo, khắc phục thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, phục vụ công cuộc bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, xã hội, thúc đẩy hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới, nâng cao vị thế của nước ta. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Pháp lệnh 2007 cũng cho thấy có một số bất cập do có những vấn đề phát sinh hoặc do thay đổi quy định pháp luật có liên quan, đặt ra yêu cầu hoàn thiện quy định về TTQT.
Việc ban hành Luật TTQT là cần thiết vì những lý do cơ bản sau:
1. Việc ban hành Luật TTQT là cần thiết nhằm tạo cơ sở cho việc thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế. Chủ trương hội nhập quốc tế (không chỉ gồm hội nhập kinh tế quốc tế) được quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 2013 . Chủ trương của Đảng về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã được nêu rõ trong nhiều văn bản của Đảng, nhất là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 và Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh trọng tâm thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định kinh tế - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
2. Một số bất cập trong pháp luật hiện hành đòi hỏi có giải pháp khắc phục.
Thứ nhất, một số quy định mới được ban hành có liên quan đến ký kết và thực hiện TTQT.
- Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 không sử dụng khái niệm cơ quan giúp việc của Quốc hội mà chỉ liệt kê cơ quan của Quốc hội bao gồm Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực của Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Luật này cũng quy định rõ Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Do đó, việc Pháp lệnh 2007 sử dụng khái niệm “cơ quan giúp việc của Quốc hội” và “người đứng đầu cơ quan của Quốc hội” là không phù hợp với pháp luật hiện hành.
- Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn thống nhất quản lý nhà nước về đối ngoại và hội nhập quốc tế (khoản 1 Điều 22), phù hợp quy định của Hiến pháp năm 2013 (khoản 3 Điều 96). Theo đó, Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ quy định bộ, cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ, quyền hạn ký kết và tổ chức thực hiện TTQT theo quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế (Điều 8).
- Luật Chính quyền địa phương năm 2015 quy định HĐND làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số (khoản 3 Điều 5). Do đó, việc Pháp lệnh 2007 sử dụng khái niệm “người đứng đầu cơ quan cấp tỉnh” và quy định người đứng đầu cơ quan cấp tỉnh quyết định việc ký kết TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh là không phù hợp.
- Luật ĐƯQT 2016 (thay thế cho Luật Ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 2005), quy định thêm tiêu chí cụ thể về khái niệm ĐƯQT, đó là “làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế” (khoản 1 Điều 2 Luật ĐƯQT 2016). Các TTQT được ký kết với danh nghĩa Nhà nước hay Chính phủ mà không là ĐƯQT thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật ĐƯQT 2016, và cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh 2007 (thực tiễn các TTQT này xem tại mục 2 dưới đây).
Ngày 24/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT, có hiệu lực kể từ ngày 10/10/2018 (Quyết định số 36/2018 của Thủ tướng Chính phủ); văn bản hướng dẫn này mang tính chất tạm thời trong lúc chờ Pháp lệnh được nâng lên thành Luật.
- Luật Quản lý nợ công 2017 (thay thế Luật Quản lý nợ công 2009), cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật này có quy định riêng cho ký kết, thực hiện thỏa thuận về vay nợ nước ngoài, trong đó có nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của các nhà tài trợ nước ngoài (ODA) và vay ưu đãi của nước ngoài.
- Nghị định 35/2011/NĐ-CP về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ngày 18/5/2011 quy định trong quá trình ký kết, gia nhập ĐƯQT, TTQT, các bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm gửi hồ sơ đó đến Bộ Công an để lấy ý kiến về sự phù hợp với yêu cầu bảo vệ an ninh, trật tự (khoản 3 Điều 6).
- Bên cạnh đó, quy định về việc ký kết và thực hiện văn bản ghi nhớ, thỏa thuận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài được quy định tại Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài (trước đó là Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ).
- Chỉ thị 22/CT-TTg năm 2017 về tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực hiện cam kết, TTQT do Thủ tướng Chính phủ ban hành (thay thế Chỉ thị 09/CT-TTg năm 2012 về tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác ĐƯQT, TTQT) quy định một số nhiệm vụ trọng tâm của các bộ, ngành, cơ quan cấp tỉnh trong công tác ký kết, thực hiện cam kết, TTQT.
Thứ hai, một số bất cập của Pháp lệnh 2007 dẫn đến khó khăn trong triển khai công tác TTQT đòi hỏi có quy định rõ ràng hơn, cụ thể gồm các bất cập sau đây:
- Pháp luật hiện hành chưa quy định về việc ký kết TTQT (văn bản hợp tác quốc tế) của đơn vị trực thuộc. Thực tế, một số đơn vị trực thuộc bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đã ký kết nhiều văn bản hợp tác để thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cụ thể, đáp ứng yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao và báo cáo từ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, từ ngày Pháp lệnh 2007 có hiệu lực đến ngày 31/12/2019, có tổng cộng 3.378 văn bản hợp tác quốc tế cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp công lập), trong đó có 1.695 văn bản hợp tác quốc tế cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, và 1.953 văn bản thỏa thuận hợp tác cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc UBND cấp tỉnh. Ngoài ra, cấp tỉnh, huyện của một số tổ chức như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã ký các văn bản hợp tác với đối tác nước ngoài, trong đó đa số là các thỏa thuận nhận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài. Như vậy, thực tế ký kết TTQT ở cấp đơn vị trực thuộc là khá phổ biến và dự kiến, trong tương lai số lượng văn bản loại này sẽ còn được ký kết nhiều hơn nữa, nhất là trong bối cảnh nhu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng tăng cao. Trong khi đó, khung pháp luật hiện hành vẫn còn để ngỏ, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh về thủ tục ký kết đối với TTQT loại này. Điều này dẫn đến sự lúng túng của các đơn vị trực thuộc của các cơ quan, tổ chức trong quá trình ký kết các TTQT vì không biết phải tuân theo quy trình nào, có phải xin ý kiến của trung ương không.
- Về kỹ thuật văn bản, một số điều khoản trong Pháp lệnh 2007 chưa thể hiện rõ tính chất pháp lý, do đó gây khó khăn cho việc thực hiện (ví dụ: khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh 2007 về nội dung của TTQT không rõ là TTQT chỉ được phép có những nội dung như liệt kê, hay quy định này chỉ có tính chất mô tả).
- Nội dung không thuộc phạm vi TTQT quy định tại các điểm từ a – đ khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh 2007 đều thuộc quan hệ cấp Nhà nước, Chính phủ, thực chất là nội dung phải thuộc ĐƯQT, “làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế” (theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật ĐƯQT 2016). Trên thực tế, nhiều TTQT được ký kết bao gồm nội dung liên quan gián tiếp tới nội dung hợp tác thuộc khuôn khổ ĐƯQT, nhằm cụ thể hóa về việc triển khai các cam kết, ĐƯQT ở cấp Nhà nước, Chính phủ (như TTQT song phương với một số nước về hợp tác tăng cường năng lực trong lĩnh vực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hoặc TTQT giữa các tỉnh biên giới về hợp tác quản lý biên giới, thúc đẩy thương mại vùng biên…).
Thứ ba, Pháp lệnh 2007 chưa quy định trình tự rút gọn cho trường hợp gấp trong khi bảo đảm các yêu cầu về ký kết TTQT; cũng chưa quy định trình tự đề xuất, ký kết và thực hiện các TTQT hợp tác liên ngành, hoặc liên tỉnh, liên thành phố gồm từ ba bộ, ngành, hoặc ba tỉnh, thành phố trở lên. Đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh 2007 hiện nay chủ yếu là TTQT hợp tác đơn ngành thuộc phạm vi phụ trách của một bộ, ngành hoặc một địa phương. Pháp lệnh 2007 cũng chưa tính đến các trường hợp cần ký gấp TTQT cần có thủ tục rút gọn để phục vụ yêu cầu đối ngoại, bảo đảm lợi ích quốc gia mà mới quy định thủ tục chung áp dụng cho tất cả các trường hợp ký kết TTQT.
Thứ tư, thực tế trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số vụ tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài. Các tranh chấp này có thể phát sinh do cam kết của các địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các TTQT được ký kết. Hiệp định bảo hộ đầu tư giữa một bên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một bên là Liên minh Châu Âu và các nước thành viên của Liên minh Châu Âu ký ngày 30/6/2019 cũng có những quy định riêng liên quan đến loại TTQT này. Thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, để tăng cường quản lý đối với TTQT về đầu tư, cần có quy định chặt chẽ hơn đối với các TTQT liên quan đến đầu tư.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT TTQT
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật TTQT nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về công tác ký kết và thực hiện các văn bản hợp tác quốc tế không là ĐƯQT, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật; quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong công tác TTQT; bảo đảm triển khai và quản lý một cách thống nhất, nâng cao hiệu quả ký kết, thực hiện TTQT, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, cả về công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm và nguồn vốn của các nước và tổ chức quốc tế phục vụ công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.
2. Quan điểm chỉ đạo
- Nội dung của Luật quy định về công tác TTQT phải phù hợp với Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
- Phải thể chế hóa chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế, đặc biệt là Chỉ thị 04-CT/TW năm 2011 về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới do Bộ Chính trị ban hành, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại ban hành kèm theo Quyết định số 272-QĐ/TW ngày 21/01/2015 của Bộ Chính trị khoá XI và Kết luận số 33-KL/TW ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị khoá XII, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030… Đồng thời, phải bảo đảm không phình bộ máy, tăng biên chế theo chủ trương tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Việc xây dựng Luật phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh 2007 và Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; phải kế thừa và phát huy các quy định còn giá trị của Pháp lệnh 2007 và Quyết định số 36; khắc phục những bất cập trong thực tiễn thời gian qua, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
- Phải tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối ngoại ở tất cả các kênh Quốc hội, Nhà nước, nhân dân giữa nước ta và các nước, tổ chức quốc tế, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát huy nội lực, tranh thủ các nguồn lực ở bên ngoài, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước trong giai đoạn mới hội nhập sâu rộng.
- Trong quá trình xây dựng Luật, để bảo đảm chất lượng, tính khả thi của dự án Luật, cần tham khảo rộng rãi, thực chất ý kiến tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học.
- Phải quy phạm hoá 04 chính sách đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, theo đó:
i) Chính sách 1: TTQT bao gồm các cam kết mang tính chính trị về hợp tác quốc tế, không mang tính ràng buộc pháp lý, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý quốc tế đối với Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Mục tiêu của chính sách này là quy định rõ nội dung, tính chất của TTQT theo hướng phân biệt với ĐƯQT, đồng thời phân biệt với hợp đồng/thỏa thuận về giao dịch về dân sự, kinh tế, tài chính, đầu tư, từ đó xác định quy định pháp luật được áp dụng với các loại thỏa thuận khác nhau, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý công tác ký kết, thực hiện TTQT, khắc phục sự không rõ ràng về nội dung TTQT và yêu cầu tuân thủ quy định về pháp luật chuyên ngành đối với nội dung hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cụ thể.
ii) Chính sách 2: Mở rộng phạm vi chủ thể ký kết TTQT phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay.
iii) Chính sách 3: Xác định rõ và đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với công tác ký kết và tổ chức thực hiện TTQT.
iv) Chính sách 4: Đơn giản hóa trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN
Ngày 18/08/2017 và ngày 18/10/2017, Bộ Ngoại giao đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh 2007 tại Bà Rịa – Vũng Tàu và Hà Nội. Trên cơ sở các tham luận và trao đổi tại Hội nghị, Bộ Ngoại giao đã xây dựng Báo cáo tổng kết về những kết quả và hạn chế của Pháp lệnh 2007 trong thời gian 10 năm qua (Báo cáo số 5147/BC-BNG-LPQT kèm theo).
Theo quy trình xây dựng luật quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Ngoại giao đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật tại Quyết định số 2785/QĐ-BNG ngày 05/9/2019, gồm đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Nội vụ, Công an, Quốc phòng, Công Thương, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT), Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số đơn vị thuộc Bộ Ngoại giao. Ban soạn thảo đã tiến hành một số hoạt động như:
- Tổ chức một số phiên họp toàn thể Ban soạn thảo, Tổ biên tập để xin ý kiến của Ban soạn thảo về chủ trương, định hướng lớn của dự án Luật và ý kiến cụ thể đối với hồ sơ dự án Luật.
- Đề nghị các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cung cấp thông tin về quy định của pháp luật nước sở tại về ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT, đồng thời tiến hành sưu tầm, dịch văn bản pháp luật của các nước và các tài liệu liên quan đến kinh nghiệm thực tiễn các nước trong ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT (Báo cáo về thực tiễn các quy định của một số quốc gia về việc ký kết và thực hiện văn bản hợp tác không phải là ĐƯQT kèm theo).
- Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của bộ, ngành, Bộ Ngoại giao đã tổng hợp và soạn thảo Báo cáo tổng kết thi hành Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (kèm theo).
- Ngày 08/01/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số 83/BNG-LPQT đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan cho ý kiến đối với Hồ sơ dự án Luật TTQT. Cho đến thời điểm Bộ Tư pháp tổ chức họp thẩm định (ngày 18/02/2020), Bộ Ngoại giao vẫn chưa nhận được ý kiến góp ý chính thức bằng văn bản của các Bộ: Giao thông vận tải, Công an, Tài chính, KHĐT, Lao động - Thương binh và Xã hội; UBND thành phố Hà Nội; Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam… Tuy nhiên, tại cuộc họp thẩm định, đa phần các cơ quan này đã phát biểu ý kiến tham gia. Bộ Ngoại giao đã ghi nhận và tiếp thu, giải trình đầy đủ (Bảng tiếp thu, giải trình kèm theo hồ sơ).
- Hồ sơ này cũng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao. Sau khi tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ Ngoại giao đã chỉnh sửa Hồ sơ nói trên (Bảng tổng hợp ý kiến kèm theo).
- Ngày 07/02/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số 359/BNG-LPQT đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định Hồ sơ dự án Luật TTQT theo Điều 58 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Bộ Ngoại giao đã tiếp thu các ý kiến thẩm định trong Hồ sơ dự án Luật TTQT (Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định kèm theo).
- Ngày 03/3/2020, tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng hai, các thành viên Chính phủ đã thảo luận và cho ý kiến về dự án Luật TTQT. Trên cơ sở ý kiến của các thành viên Chính phủ và ý kiến thẩm tra của Văn phòng Chính phủ tại CV số 1615/BC-VPCP ngày 03/3/2020 về dự án Luật TTQT, Bộ Ngoại giao đã có Báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ tiếp thu, giải trình các ý kiến này, đồng thời chỉnh lý dự thảo Luật và các tài liệu kèm theo (số 883/BC-BNG-LPQT ngày 13/3/2020).
- Ngày 03/4/2020, Văn phòng Chính phủ đã có công văn số 2591/VPCP-PL thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đối với Báo cáo nêu trên của Bộ Ngoại giao.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Về bố cục của dự thảo Luật
Dự thảo Luật TTQT gồm 07 Chương, 53 điều, bao gồm:
Chương I (Những quy định chung) gồm 08 điều từ Điều 1 đến Điều 8;
Chương II (Ký kết TTQT) gồm 10 mục, 25 điều từ Điều 9 đến Điều 34;
Chương III (Hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện TTQT) gồm 03 điều từ Điều 35 đến Điều 37;
Chương IV (Trình tự, thủ tục rút gọn) gồm 03 điều, từ Điều 38 đến Điều 40;
Chương V (Thực hiện TTQT) bao gồm 03 điều từ Điều 41 đến Điều 43;
Chương VI (Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức) gồm 08 điều từ Điều 44 đến Điều 51;
Chương VII (Điều khoản thi hành) gồm 02 điều từ Điều 52 đến Điều 53.
2. Một số nội dung cơ bản của dự thảo Luật
Dự thảo Luật đã quy phạm hóa 04 chính sách đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, thể hiện cụ thể ở một số nội dung sau:
2.1. Về phạm vi điều chỉnh
a) Chủ thể ký kết TTQT
Theo Pháp lệnh 2007, cơ quan nhà nước ở trung ương bao gồm cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
So với Pháp lệnh 2007, phạm vi điều chỉnh mở rộng thêm quy định về việc ký kết, thực hiện TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ; TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TTQT nhân danh UBND cấp huyện, xã; cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
b) Loại TTQT mà việc ký kết, thực hiện không do Luật điều chỉnh
Luật không điều chỉnh việc ký kết và thực hiện thỏa thuận về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài; thỏa thuận về cho vay, viện trợ của Việt Nam cho nước ngoài; thỏa thuận về viện trợ phi chính phủ nước ngoài; hợp đồng theo Bộ luật Dân sự; hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
c) Khái niệm và đặc trưng của TTQT
Dự thảo Luật quy định “TTQT là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài, không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế”.
Bên cạnh đó, tại khoản 5 Điều 3: “Cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện, UBND cấp xã, cơ quan trung ương của tổ chức, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức không được ký kết TTQT ràng buộc Nhà nước, Chính phủ Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức Việt Nam không ký kết TTQT đó”. Quy định này được hiểu là TTQT chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên ký kết.
Cùng với quy định tại khoản 2 Điều 2 (về Bên ký kết Việt Nam) và các quy định loại trừ tại khoản 2 Điều 1, định nghĩa TTQT tại Luật này đã thể hiện các đặc trưng của TTQT để phân biệt TTQT với ĐƯQT và các hợp đồng dân sự, thương mại, đầu tư.
2.2. Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết TTQT
Chương II (Ký kết TTQT) bao gồm 10 mục, 25 điều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết TTQT, hồ sơ lấy ý kiến và hồ sơ trình về đề xuất ký kết, bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan trong việc cho ý kiến đề xuất ký kết TTQT và việc ký TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao.
a) Về trình tự, thủ tục ký kết áp dụng chung với các loại TTQT
Đối với thẩm quyền, thủ tục, hồ sơ trình về đề xuất ký kết TTQT, Luật này kế thừa các quy định của Pháp lệnh 2007 và hợp nhất các quy định của Quyết định 36/2018/QĐ-TTg đối với các TTQT được ký nhân danh Nhà nước, Chính phủ.
Theo đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, trên cơ sở thực tiễn công tác ĐƯQT, TTQT của hai cơ quan này có đặc thù riêng , dự thảo Luật quy định Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT trong Công an nhân dân, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT trong Quân đội (Điều 29).
b) Thủ tục đối với TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện và UBND cấp xã
Luật quy định các nguyên tắc về trình tự, thủ tục cho loại thỏa thuận này và quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ; Chủ tịch UBND cấp tỉnh quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT nhân danh cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện và UBND cấp xã (khoản 4 Điều 22, khoản 4 Điều 23).
c) Thủ tục đối với TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức
Cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của cơ quan cấp tỉnh của tổ chức quyết định việc ký kết TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức (Điều 26).
d) Thủ tục đối với các TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức
So với Pháp lệnh 2007 Luật bổ sung thêm quy định về thủ tục đối với các TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức (Điều 27) để giải quyết các vướng mắc, bất cập như đã nêu tại Mục I Tờ trình, theo đó, trước khi tiến hành các thủ tục thông thường, cơ quan, tổ chức ký kết cần chỉ định cơ quan, tổ chức đầu mối ký kết.
đ) Thủ tục đối với TTQT liên quan đến an ninh, quốc phòng, đầu tư
So với Pháp lệnh 2007, Luật bổ sung điều mới quy định về TTQT liên quan đến an ninh, quốc phòng, đầu tư, theo đó, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức, ngoài việc tuân theo thủ tục chung còn có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ KHĐT trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định việc ký kết TTQT (Điều 28).
e) Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và cơ quan liên quan trong việc ký kết TTQT
Nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý nhà nước về ký kết và thực hiện TTQT, Luật bổ sung 02 điều quy định về trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và trách nhiệm của cơ quan liên quan trong việc cho ý kiến về đề xuất ký TTQT, theo đó làm rõ các nội dung cụ thể cần cho ý kiến đối với đề xuất ký TTQT (Điều 32 và Điều 33).
g) Rà soát và ủy quyền ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ
Trên cơ sở hợp nhất các quy định của Quyết định 36/2018/QĐ-TTg, đồng thời do tính chất của các thỏa thuận nhân danh Nhà nước, Chính phủ là các cam kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ, Luật bổ sung 02 điều quy định về ủy quyền ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ và rà soát, đối chiếu văn bản TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ trước khi ký (Điều 11 và Điều 12).
h) Ký TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao
Trong thời gian qua, Bộ Ngoại giao đã chủ trì, phối hợp hiệu quả với các bộ, ngành cũng như UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc rà soát văn bản, tổ chức lễ ký các văn kiện hợp tác trong chuyến thăm của đoàn cấp cao Việt Nam tại nước ngoài hoặc của đoàn cấp cao nước ngoài tại Việt Nam (trung bình mỗi năm Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp rà soát hơn 100 văn bản được ký trong chuyến thăm của đoàn cấp cao). Từ thực tiễn nêu trên, Luật bổ sung quy định về ký TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao (Điều 34), tương tự như quy định tại Luật ĐƯQT năm 2016.
2.3. Trình tự, thủ tục rút gọn
Chương IV (Trình tự, thủ tục rút gọn) bao gồm 03 điều (các điều từ 38-40) quy định về các trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn trong việc ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT và trình tự, thủ tục thực hiện. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Pháp lệnh 2007, được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy định của Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg điều chỉnh phù hợp với các loại TTQT được quy định tại Luật này nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện hội nhập quốc tế theo đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, giải quyết các khó khăn, vướng mắc đang gặp phải; rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT dưới một số điều kiện nhất định và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
2.4. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức
Chương VI (Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức) gồm 08 điều (các điều từ 44-51), quy định về trách nhiệm của các cơ quan: Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức, cũng như trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, xử lý vi phạm.
Luật kế thừa quy định của Pháp lệnh 2007 tại các nội dung này, trừ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quy định mới.
Hồ sơ dự án Luật gửi kèm theo Tờ trình bao gồm:
i) Dự thảo Luật;
ii) Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý;
iii) Bản chụp ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức;
iv) Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong dự thảo Luật;
v) Báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới;
vi) Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính;
vii) Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh 2007;
viii) Báo cáo tổng kết thi hành Quyết định 36;
ix) Báo cáo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới;
x) Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 74/2016/NĐ-CP về quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác ĐƯQT và TTQT;
xi) Báo cáo thẩm định dự án Luật TTQT số 31/BCTĐ-BTP ngày 26/02/2020 của Bộ Tư pháp;
xii) Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp của Bộ Ngoại giao số 652/BC-BNG-LPQT ngày 27/02/2020.
Trên đây là một số nội dung chủ yếu của dự án Luật TTQT, Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét cho ý kiến./.
Báo cáo thẩm tra dự án Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 18/06/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, tháng 5-6/2020
A20.01_bc-UBDN_tham_tra_Luat_Thoa_thuan_quoc_te.docx
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2020, Ủy ban Đối ngoại được giao chủ trì thẩm tra dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT) trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV. Ngày 22/4/2020, tại Phiên họp thứ 44, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận và thống nhất dự án Luật TTQT đủ điều kiện trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 9.Thường trực Ủy ban Đối ngoại đã gửi hồ sơ dự án Luật tới các thành viên Ủy ban Đối ngoại để cho ý kiến thẩm tra bằng văn bản.
Căn cứ Tờ trình số 131/TTr-CP ngày 10/4/2020 của Chính phủ, trên cơ sở kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến tham gia thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các thành viên Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Đối ngoại xin báo cáo Quốc hội như sau:
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Sự cần thiết ban hành Luật
Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI ban hành Pháp lệnh ký kết và thực hiện TTQT; Pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện TTQT, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của đất nước và triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta thời gian qua.
Việc ban hành Luật TTQT nhằm tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế, nhất là sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn nhu cầu ký kết TTQT, thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Các ý kiến tham gia thẩm tra đều nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật TTQT theo Tờ trình của Chính phủ.
2. Về hồ sơ dự án Luật
Các ý kiến đều cho rằng hồ sơ dự án Luật TTQT đã được Chính phủ chuẩn bị đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Về tính hợp hiến, hợp pháp và tính tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên
Dự thảo Luật phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng dự thảo Luật có một sốquy định thiếu tính thống nhất, cụ thể khoản 1 Điều 2 dự thảo Luật quy định: “Thỏa thuận quốc tế là cam kết bằng văn bản không được làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế”; trong khi tại khoản 5 Điều 2 dự thảo Luật quy định: “Ký là hành vi pháp lý của người có thẩm quyền hoặc người được ủy quyền dùng chữ ký của mình để chấp nhận sự ràng buộc của TTQT đối với cơ quan, tổ chức ký TTQT”; Điều 7 dự thảo Luật quy định về các hình thức chấp nhận sự ràng buộc của TTQTvàkhoản 5 Điều 3 dự thảo Luật quy định: “không được ký kết TTQT ràng buộc Nhà nước, Chính phủ Việt Nam”.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ
1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1 dự thảo Luật)
Các ý kiến cho rằng phạm vi điều chỉnh của dự thảo đã mang tính bao quát về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện và tổ chức thực hiện TTQT.
Có ý kiến cho rằng việc ký kết và thực hiện thỏa thuận về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài đã được quy định tại Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và Luật Quản lý nợ công năm 2017; hợp đồng dân sự đã được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015; hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã được quy định tại dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV. Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và dự thảo Luật này cũng không điều chỉnh các thỏa thuận về cho vay, viện trợ của Việt Nam cho nước ngoài; thỏa thuận về viện trợ phi chính phủ nước ngoài sẽ tạo ra khoảng trống pháp lý.
2. Về khái niệm thỏa thuận quốc tế (khoản 1 Điều 2 dự thảo Luật)
Về khái niệm TTQT, dự thảo Luật quy định:“Thỏa thuận quốc tế là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài, không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế”. Nhiều ý kiến cho rằng đã là cam kết quốc tế ở thì đều có sự ràng buộc ở các mức độ khác nhau trong quan hệ quốc tế giữa các chủ thể tham gia ký kết. Khi đã chấp nhận sự ràng buộc của TTQT thì đương nhiên phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể ký kết, nhất là khi dự thảo Luật đã mở rộng ký kết gồm cả Nhà nước, Chính phủ; nếu phát sinh quyền và nghĩa vụ thì sẽ trùng với quy định Luật Điều ước quốc tế năm 2016. Do đó, Ủy ban Đối ngoại cho rằng cần làm rõ bản chấtcủa TTQT để làm cơ sở cho việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật, tránh chồng lấn với Luật Điều ước quốc tế năm 2016; bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định trong dự thảo Luật này và trong hệ thống pháp luật.
3. Về bên ký kết Việt Nam (khoản 2 Điều 2 dự thảo Luật)
Các ý kiến đều nhất trí chủ trương mở rộng chủ thể ký kết TTQT về phía Việt Namđể phù hợp hơn với chủ trương hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc một số nội dung cụ thể sau:
(1) Dự thảo Luật quy định chủ thể ký kết TTQT chỉ là cơ quan của Quốc hội, chưa bao quát hết các chủ thể có thẩm quyền ký kết TTQT về phía Quốc hội. Đề nghị bổ sung chủ thể ký kết là Tổng Thư ký Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Nhóm Nghị sĩ hữu nghị.
(2)Có ý kiến cho rằng việc mở rộng chủ thể ký kết TTQT đến Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã cần được cân nhắc thận trọngdo hợp tác quốc tế luôn tiềm ẩn những vấn đề nhạy cảm về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đòi hỏi cơ quan, tổ chức tham mưu và chủ thể ký kết phải có năng lực nhất định, do đó không phải cơ quan, tổ chức nào cũng được trao quyền ký kết TTQT. Nhiều ý kiến cho rằng không nên phân cấp cho nhiều chủ thể ký kết TTQT dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất giữa các địa phương, nhất là giữa các địa phương có chung đường biên giới với cùng một quốc gia như ở Việt Nam.
(3) Có ý kiến cần quy định đầy đủ, chặt chẽ về đối tượng cơ quan trung ương và cơ quan cấp tỉnh của các tổ chức chính trị-xã hội, chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; do những chủ thể này chưa bao quát hết các loại hình tổ chức ngoài nhà nước (như Quỹ xã hội, quỹ từ thiện; tổ chức phi chính phủ, các tổ chức khoa học - công nghệ ngoài công lập ...), các tổ chức nêu trên có hoặc không có cấp tỉnh, hoặc có cấp tỉnh song không nhất thiết là “cơ quan cấp tỉnh” của các tổ chức đó.
(4) Có ý kiến cho rằng thực tế các đơn vị sự nghiệp công lập (nhất là các cơ sở nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, giáo dục, y tế …) đã ký kết nhiều TTQT thời gian qua và trên thực tế vẫn có nhu cầu ký kết TTQT. Đề nghị nghiên cứu bổ sung chủ thể này vào dự thảo Luật.
(5) Có ý kiến đề nghị nghiên cứu tổng kết việc ký kết TTQT của các tổ chức tôn giáo để có quy định phù hợp.
4. Về bên ký kết nước ngoài (khoản 3 Điều 2 dự thảo Luật)
Một số ý kiến cho rằng quy định “bên ký kết nước ngoài” gồm cá nhân nước ngoài là chưa tương xứng với quy định với “bên ký kết Việt Nam” và chưa có chủ thể quan trọng là Nghị viện/Quốc hội và các cơ quan thuộc Nghị viện/Quốc hội nước ngoài. Cần lượng hóa danh mục các chủ thể nước ngoài để chủ động kiểm soát phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra, để bảo đảm tính khái quát, đề nghị làm rõ chủ thể ký kết nước ngoài là “cơ quan”vì pháp luật nước ngoài thường không sử dụng khái niệm chung này như ở Việt Nam. Có ý kiến cho rằng cần xác định rõ bên ký kết nước ngoài phải có tư cách ký kết TTQT theo pháp luật để ngăn ngừa việc ký các TTQT mà không xác định được rõ địa vị pháp lý của bên nước ngoài, tránh gây ra hậu quả đáng tiếc sau khi ký kết.
5. Về nguyên tắc ký kết và thực hiện TTQT (Điều 3 dự thảo Luật)
Nhiều ý kiến tán thành việc quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm trong dự thảo Luật để bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc nhưng không được trùng lắp với các nguyên tắc ký kết, thực hiện TTQT.Tại khoản 6 Điều 3 dự thảo Luật có một số nội dung trùng lắp, mâu thuẫn với các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 8 dự thảo Luật; tại khoản 2 Điều 8 quy định: “Cấm ký kết TTQT làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế”, nhưng lại không bị coi là hành vi không được ký TTQT. Mặt khác, việc quy định cả điều khoản “không được” và điều khoản “cấm” trong dự thảo là không rõ ràng về mặt pháp lý, gây nên sự trùng lắp và thiếu nhất quán. Do đó, các ý kiến đề nghị thể hiện nội dung này tại một điều luật.
6. Về việc ký kết TTQT (Chương II dự thảo Luật)
- Về trình tự, thủ tục và lấy kiến ký kết TTQT:Đề nghị tiếp tục nghiên cứu quy định chặt chẽ, khả thi, thực hiện cải cách hành chính; quy định về quy trình, thủ tục rút gọn phải tính đến các tình huống cụ thể, đáp ứng yêu cầu đối ngoại đột xuất.
Các Điều 14, 16, 18 và 20 dự thảo Luậtquy định về trình tự, thủ tục xử lý trong trường hợp cơ quan được lấy ý kiến không đồng ý việc ký TTQT. Tuy nhiên, tại các Điều 10, 22, 23, 25 dự thảo Luật không có quy định xử lý trong trường hợp tương tự, do đó cần rà soát để đảm bảo sự thống nhất trong dự thảo Luật.
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng chưa quy định quy trình xin chủ trương đối với cấp có thẩm quyền của các chủ thể có thẩm quyền ký TTQT quy định tại các Điều 14,16,18 và 20, trước khi xây dựng bộ hồ sơ, gửi lấy ý kiến Ủy ban Đối ngoại, Bộ Ngoại giao và các cơ quan hữu quan.
- Về việc giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hướng dẫn cụ thể việc ký kết, tổ chức thực hiện TTQT đối với đơn vị trực thuộc/Ủy ban nhân dân cấp dưới tại khoản 4 Điều 22, khoản 4 Điều 23 và Điều 29 dự thảo Luật: Nhiều ý kiến cho rằng, quy định như tại dự thảo Luật có thể tạo ra sự thiếu thống nhất, đồng bộ về quy trình ký kết và thực hiện TTQT và đề nghị giao Chính phủ quy định hướng dẫn thống nhất về trình tự, thủ tục ký kết, ủy quyền ký kết, tổ chức thực hiện các TTQT của các cơ quan, đơn vị trên phạm vi cả nước.
- Về thủ tục ký kết TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức (Điều 27 dự thảo Luật): Có ý kiến cho rằng dự thảo Luật cần quy định thẩm quyền quyết định ký TTQT trong trường hợp TTQT do nhiều cơ quan, tổ chức cùng ký kết; quy định tiêu chí xác định cơ quan, tổ chức đầu mối và giải pháp pháp lý xử lý trong trường hợp không thống nhất được đầu mối ký kết TTQT.
7. Về chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện TTQT (Điều 37 dự thảo Luật)
Dự thảo Luật chỉ quy định về trình tự, thủ tục chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện TTQT, chưa quy định cụ thể về các trường hợp chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện TTQT, các nội dung này đã được quy định tại Pháp lệnh ký kết và thực hiện TTQT năm 2007. Đa số ý kiến đề nghị dự thảo Luật tiếp tục kế thừa quy định có liên quan của Pháp lệnh này, đồng thời bổ sung quy định TTQT có thể chấm dứt theo quy định của TTQT đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.
Ngoài ra, các ý kiến góp ý về từ ngữ, kỹ thuật lập pháp, Ủy ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh sửa để hoàn thiện dự án Luật trình Quốc hội. Trên đây là Báo cáo thẩm tra dự án Luật Thỏa thuận quốc tế, Ủy ban Đối ngoại kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.
Ủy ban Đối ngoại trân trọng đề nghị các vị đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về một số nội dung sau:(i) Về phạm vi điều chỉnh; (ii) Về khái niệm thỏa thuận quốc tế; (iii) Về bên ký kết Việt Nam;(iv) Về bên ký kết nước ngoài; (v) Về nguyên tắc ký kết và thực hiện TTQT; (vi)Về việc ký kết TTQT ; (vii) Về chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện TTQT.
Tờ trình tóm tắt về Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 18/06/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, tháng 5-6/2020
A2002_TTr251-CP_ve_DA_Luat_Thoa_thuan_QT_tomtat___20200521183639.doc
Kính gửi: Quốc hội.
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT) như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THOẢ THUẬN QUỐC TẾ
Việc ban hành Luật Thỏa thuận quốc tế là cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý toàn diện, đầy đủ và vững chắc hơn để thực hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước về hội nhập quốc tế, đáp ứng những nhu cầu về pháp luật và thực tiễn đặt ra:
Thứ nhất, ban hành Luật này sẽ tạo cơ sở cho việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 2013 về hội nhập quốc tế. Chủ trương của Đảng về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã được nêu rõ trong nhiều văn bản của Đảng, nhất là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 và Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
Thứ hai, Luật này sẽ điều chỉnh quy định về ký kết thỏa thuận quốc tế phù hợp với các văn bản mới được ban hành, sửa đổi như Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Chính quyền địa phương năm 2015, Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Luật Quản lý nợ công năm 2017, Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ v.v...
Thứ ba, ban hành Luật này là cần thiết, nhằm đáp ứng nhu cầu ký kết văn bản hợp tác quốc tế ở các cấp chưa được quy định trong Pháp lệnh như thỏa thuận quốc tế cấp Cục, Tổng Cục, các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, cơ quan cấp tỉnh của các tổ chức như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, v.v… Luật cũng quy định trình tự rút gọn cho trường hợp gấp để phục vụ yêu cầu đối ngoại; quy định trình tự đề xuất, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế của nhiều bộ, ngành, hoặc tỉnh, thành phố.
Thứ tư, ban hành Luật này là cần thiết nhằm khắc phục những điểm chưa thống nhất về kỹ thuật trong Pháp lệnh 2007 gây khó khăn cho việc giải thích và thực hiện.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT THOẢ THUẬN QUỐC TẾ
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật Thỏa thuận quốc tế nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về công tác ký kết và thực hiện các văn bản hợp tác quốc tế không phải là điều ước quốc tế, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật; quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong công tác thỏa thuận quốc tế; bảo đảm triển khai và quản lý một cách thống nhất, nâng cao hiệu quả ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, cả về công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm và nguồn vốn của các nước và tổ chức quốc tế phục vụ công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.
2. Quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, phù hợp với Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Thứ hai, thể chế hóa chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế.
Thứ ba, trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh 2007 và Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ tư, tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối ngoại ở tất cả các kênh Quốc hội, Nhà nước, nhân dân.
Thứ năm, để bảo đảm chất lượng và tính khả thi của dự án Luật, cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học một cách rộng rãi, thực chất.
Thứ sáu, quy phạm hoá 04 chính sách đã được thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật gồm: i) Chính sách 1: quy định rõ nội dung, tính chất của thỏa thuận quốc tế theo hướng phân biệt với điều ước quốc tế, đồng thời phân biệt với hợp đồng/thỏa thuận về giao dịch về dân sự, kinh tế, tài chính, đầu tư; ii) Chính sách 2: Mở rộng phạm vi chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay; iii) Chính sách 3: Xác định rõ và đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với công tác ký kết và tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế; iv) Chính sách 4: Đơn giản hóa trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN
Trong quá trình xây dựng dự án Luật này, cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Ngoại giao đã nghiêm túc thực hiện các bước xây dựng Luật theo các quy định của pháp luật liên quan và chỉ đạo của Chính phủ. Cụ thể như sau:
- Trên cơ sở tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh 2007, Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật đã tiến hành một số hoạt động như: tổ chức một số phiên họp toàn thể Ban soạn thảo, Tổ biên tập; đề nghị các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cung cấp thông tin về quy định của pháp luật nước sở tại về ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế, lấy ý kiến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đặc biệt, nhiều cơ quan, địa phương đã phát hiện vấn đề, có những ý kiến sâu sắc, xuất phát từ thực tiễn, Ban soạn thảo đã tiếp thu và đưa vào dự thảo Luật.
- Hồ sơ dự án Luật cũng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao. Sau khi tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ Ngoại giao đã trao đổi kỹ với các cơ quan liên quan để chỉnh lý Hồ sơ nói trên.
- Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện nghiêm túc quy trình thẩm định Luật, hoàn chỉnh hồ sơ để xin ý kiến thành viên Chính phủ và trình Quốc hội.
Dự án Luật đã được Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội thẩm tra; Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, kết luận đủ điều kiện trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.
IV. TÊN GỌI, BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Tên gọi dự thảo Luật: Luật Thỏa thuận quốc tế
2. Bố cục của dự thảo Luật
Trên cơ sở 04 chính sách đã được Chính phủ, Quốc hội nhất trí thông qua, dự thảo Luật được thiết kế gồm 07 Chương, 53 điều, cụ thể:
Chương I (Những quy định chung) gồm 08 điều từ Điều 1 đến Điều 8;
Chương II (Ký kết thỏa thuận quốc tế) gồm 10 mục, 25 điều từ Điều 9 đến Điều 34;
Chương III (Hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện thỏa thuận quốc tế) gồm 03 điều từ Điều 35 đến Điều 37;
Chương IV (Trình tự, thủ tục rút gọn) gồm 03 điều, từ Điều 38 đến Điều 40;
Chương V (Thực hiện thỏa thuận quốc tế) bao gồm 03 điều từ Điều 41 đến Điều 43;
Chương VI (Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức) gồm 08 điều từ Điều 44 đến Điều 51;
Chương VII (Điều khoản thi hành) gồm 02 điều từ Điều 52 đến Điều 53.
2. Một số nội dung cơ bản của dự thảo Luật
Dự thảo Luật đã quy phạm hóa 04 chính sách đã được thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, với nội dung tóm tắt như sau (nội dung đầy đủ đã được thể hiện trong Tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội):
a) Về phạm vi điều chỉnh
- Về chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế:
Theo Pháp lệnh 2007, cơ quan nhà nước ở trung ương bao gồm cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
So với Pháp lệnh 2007, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật mở rộng thêm quy định về việc ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế nhân danh Nhà nước, Chính phủ; thỏa thuận quốc tế nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thỏa thuận quốc tế nhân danh UBND cấp huyện, xã; cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
- Về loại thỏa thuận quốc tế mà việc ký kết, thực hiện không do Luật điều chỉnh:
Luật không điều chỉnh việc ký kết và thực hiện thỏa thuận về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài; thỏa thuận về cho vay, viện trợ của Việt Nam cho nước ngoài; thỏa thuận về viện trợ phi chính phủ nước ngoài; hợp đồng theo Bộ luật Dân sự; hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
- Về khái niệm và đặc trưng của thỏa thuận quốc tế:
Dự thảo Luật quy định “Thỏa thuận quốc tế là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài, không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế”.
Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 3 dự thảo Luật quy định: “Cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện, UBND cấp xã, cơ quan trung ương của tổ chức, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức không được ký kết thỏa thuận quốc tế ràng buộc Nhà nước, Chính phủ Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức Việt Nam không ký kết thỏa thuận quốc tế đó”, qua đó khẳng định thỏa thuận quốc tế chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên ký kết.
b) Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết thỏa thuận quốc tế
Chương II (Ký kết thỏa thuận quốc tế) bao gồm 10 mục, 25 điều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết thỏa thuận quốc tế, hồ sơ lấy ý kiến và hồ sơ trình về đề xuất ký kết, bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan trong việc cho ý kiến đề xuất ký kết thỏa thuận quốc tế và việc ký thỏa thuận quốc tế trong chuyến thăm của đoàn cấp cao.
c) Trình tự, thủ tục rút gọn
Chương IV (Trình tự, thủ tục rút gọn) bao gồm 03 điều quy định về các trường hợp được áp dụng thủ tục rút gọn trong việc ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn thỏa thuận quốc tế và trình tự, thủ tục thực hiện. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Pháp lệnh 2007, được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy định của Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg cũng như quy định tương tự tại Luật Điều ước quốc tế năm 2016, nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện hội nhập quốc tế theo đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, giải quyết các khó khăn, vướng mắc đang gặp phải; rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn thỏa thuận quốc tế dưới một số điều kiện nhất định.
Trên đây là một số nội dung chủ yếu của dự án Luật TTQT, Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét cho ý kiến./.
Báo cáo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
13_-_bc596-BNG_kinh_nghiem_qte_ve_TTQT.pdf
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm
Dự thảo Nghị định về quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
12_-_dtND_sua_doi,_bo_sung_ND_74_ve_kinh_phi_TTQT.doc
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật Thoả thuận quốc tế ngày tháng năm ;
Căn cứ Luật ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao;
Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác thỏa thuận quốc tế.
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 74/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 về quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thoả thuận quốc tế
1. Sửa đổi Điều 1 như sau:
“Nghị định này quy định về quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ theo quy định của Luật điều ước quốc tế năm 2016 (sau đây gọi chung là công tác điều ước quốc tế) và công tác ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế nhân danh Nhà nước, Chính phủ, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức và các cơ quan theo quy định của Luật thỏa thuận quốc tế năm 2020 (sau đây gọi chung là công tác thỏa thuận quốc tế).”
2. Sửa đổi Điều 2 như sau:
“Nghị định này áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế theo quy định tại Luật điều ước quốc tế năm 2016 và Luật thỏa thuận quốc tế năm 2020.”
3. Sửa đổi tên Điều 4 và bổ sung khoản 4, 5 Điều 4 như sau:
“Điều 4. Nguồn ngân sách bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế
4. Kinh phí cho công tác thoả thuận quốc tế của tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được đảm bảo từ nguồn kinh phí cho công tác thỏa thuận quốc tế của cơ quan nhà nước ở trung ương;
5. Kinh phí cho công tác thoả thuận quốc tế của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã được đảm bảo từ ngân sách địa phương.”
4. Bổ sung điểm d vào khoản 1; sửa đổi, bổ sung điểm c, d, đ khoản 2;bổ sung điểm d vào khoản 3 Điều 6 như sau:
“d. Xây dựng dự thảo thỏa thuận quốc tế, dự thảo thỏa thuận quốc tế sửa đổi, bổ sung.”
“c. Tổ chức họp lấy ý kiến;
d. Dịch tài liệu có liên quan;
đ. Biên soạn báo cáo góp ý.”
“d. Dịch tài liệu có liên quan.”
Điều 2. Điều khoản thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính trong dự thảo Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
11_-_bc1214-BNG_danh_gia_tac_dong_TTHC_trong_Luat_TTQT.doc
Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và Quyết định số 842/QĐ-TTg ngày 8/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật thuộc Chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh năm 2020, Bộ Ngoại giao được phân công chủ trì soạn thảo dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT).
Thực hiện quy định tại Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015, báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính trong dự thảo Luật TTQT Bộ Ngoại giao như sau:
I. Thống kê các thủ tục hành chính trong dự thảo Luật TTQT
So với Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT năm 2007 (Pháp lệnh), dự thảo Luật TTQT giữ nguyên 05 thủ tục hành chính (sau đây viết tắt là TTHC), bổ sung thêm 11 TTHC mới, cụ thể bao gồm các TTHC mới về:
i) Đề xuất ký kết TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ;
ii) Đề xuất ký kết TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ;
iii) Đề xuất ký kết TTQT nhân danh cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã;
iv) Đề xuất ký kết TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp;
v) Đề xuất ký kết TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức;
vi) Đề xuất ký kết TTQT liên quan đến đầu tư;
vii) Đề xuất ký kết TTQT liên quan đến an ninh;
viii) Đề xuất ký kết TTQT liên quan đến quốc phòng;
ix) Đề xuất ký kết TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ theo thủ tục rút gọn;
x) Đề xuất ký kết TTQT nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức theo thủ tục rút gọn;
xi) Đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo thủ tục rút gọn.
Các TTHC được sửa đổi bao gồm:
i) Đề xuất ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội;
ii) Đề xuất ký TTQT nhân danh Hội đồng nhân dân (HĐND), UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Các TTHC được sửa đổi, bổ sung và thêm mới nhằm mục đích cụ thể hóa 02 chính sách lớn đã được Quốc hội thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng luật là Chính sách 2 “Mở rộng phạm vi chủ thể ký kết TTQT phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay” và Chính sách 4 “Đơn giản hóa trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT”, đồng thời nhằm đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức bộ máy.
Danh mục tổng hợp các TTHC được liệt kê trong Phụ lục kèm theo Báo cáo này.
II. Đánh giá tác động của các TTHC
1. Nhóm TTHC về đề xuất ký kết TTQT
a) Thủ tục đề xuất ký kết TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, HĐND, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức
Dự thảo Luật kế thừa quy định của Pháp lệnh đối với thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, HĐND, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức.
Các điểm mới của dự thảo Luật đối với nhóm TTHC này:
- Về thẩm quyền quyết định việc ký, phù hợp với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, dự thảo Luật quy định cơ quan của Quốc hội quyết định việc ký kết TTQT nhân danh cơ quan của Quốc hội thay vì quy định thẩm quyền thuộc về người đứng đầu cơ quan của Quốc hội. Sự thay đổi này nhằm bảo đảm đúng nguyên tắc các cơ quan của Quốc hội hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Tương tự, đối với TTQT nhân danh HĐND cấp tỉnh, thẩm quyền quyết định việc ký kết thuộc về HĐND cấp tỉnh thay vì người đứng đầu cơ quan cấp tỉnh như quy định tại Pháp lệnh TTQT. Dự thảo Luật cũng bỏ khái niệm “cơ quan giúp việc của Quốc hội” để phù hợp với quy định của Luật Tổ chức Quốc hội.
- Bổ sung về thời hạn gửi bản sao TTQT đã được ký kết đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Bộ Ngoại giao (thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày tổ chức việc ký kết). Việc quy định thời hạn này nhằm góp phần bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước về công tác TTQT, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức trong việc ký kết và thực hiện TTQT.
b) Thủ tục đề xuất ký kết TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ
Trên cơ sở hợp nhất các quy định tại Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/8/2018 quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT, Luật TTQT bổ sung thêm quy định về thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ, theo đó, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cần lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan. Cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến về đề xuất ký kết TTQT.
Hồ sơ lấy ý kiến và hồ sơ trình xin ý kiến về đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ tương tự như hồ sơ tương ứng của thủ tục ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, HĐND, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức.
Về thời hạn, dự thảo Luật quy định tương tự thủ tục ký TTQT nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan trung ương của tổ chức.
c) Thủ tục đề xuất ký kết TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện và UBND cấp xã
Trên cơ sở nhất trí của Quốc hội đối với Chính sách “Mở rộng phạm vi chủ thể ký kết TTQT phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay” được kiến nghị tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, dự thảo Luật bổ sung TTHC về đề xuất ký TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã. Thẩm quyền quyết định việc ký kết thuộc về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đối với TTQT nhân danh tổng cục, cục; Chủ tịch UBND cấp tỉnh đối với TTQT nhân danh cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã.
Về thủ tục, dự thảo Luật có các quy định mang tính chất nguyên tắc để Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc ký kết và tổ chức thực hiện TTQT nhân danh tổng cục, cục. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quy định cụ thể việc ký kết và tổ chức thực hiện TTQT nhân danh cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện và UBND cấp xã. Trình tự, thủ tục ký kết các TTQT này tương tự các TTQT khác, theo đó cần lấy ý kiến cơ quan, tổ chức liên quan, cơ quan tham mưu về hợp tác quốc tế/đối ngoại của bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh và trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Việc quy định trình tự, thủ tục nêu trên làm tăng cường trách nhiệm của cơ quan, đơn vị tham mưu về hợp tác quốc tế của bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan chuyên môn về công tác đối ngoại của UBND cấp tỉnh; đảm bảo phù hợp với yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính.
d) Thủ tục đề xuất ký kết TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức
Quy định về thủ tục này nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động ký kết và thực hiện TTQT liên ngành, lĩnh vực, giải quyết được các khó khăn, vướng mắc gặp phải, tạo điều kiện để các cơ quan phát huy hiệu quả công tác hợp tác quốc tế.
Đối với loại TTQT này, trước khi tiến hành theo các thủ tục thông thường, các cơ quan, đơn vị, tổ chức cần thống nhất chỉ định cơ quan, tổ chức đầu mối ký kết. Quy định này là cần thiết nhằm đảm bảo đơn giản hóa thủ tục hành chính, chỉ 01 cơ quan tiến hành các thủ tục đề xuất ký mà không phải tất cả cơ quan, đơn vị, tổ chức ký kết tiến hành thủ tục hành chính.
đ) Thủ tục đề xuất ký kết TTQT liên quan đến đầu tư, an ninh, quốc phòng
- Thủ tục đề xuất ký kết TTQT liên quan đến đầu tư: Việc quy định thêm thủ tục này nhằm mục đích tránh việc các địa phương ký TTQT phát sinh tranh chấp về đầu tư hoặc hạn chế phạm vi quyết định chính sách của Chính phủ, Nhà nước. Thực tế trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số vụ tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài. Các tranh chấp này có thể phát sinh do cam kết của các địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các TTQT được ký kết. Quy định này cũng nhằm tăng cường quản lý đối với TTQT về đầu tư thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Về thủ tục, ngoài việc tuân theo thủ tục thông thường, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước khi quyết định việc ký kết TTQT.
- Thủ tục đề xuất ký kết TTQT liên quan đến an ninh, quốc phòng: Việc quy định thêm thủ tục này nhằm mục đích luật hóa các quy định tại Nghị định 35/2011/NĐ-CP về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Về thủ tục, ngoài việc tuân theo thủ tục thông thường, cơ quan ký kết có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Công an nếu TTQT liên quan đến an ninh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng nếu TTQT liên quan đến quốc phòng, an ninh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Quốc phòng trước khi quyết định việc ký kết TTQT.
e) Thủ tục đề xuất ký kết TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức
Dự thảo Luật quy định Cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của cơ quan cấp tỉnh của tổ chức quyết định việc ký kết TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức nhằm đảm bảo thể chế hóa quy chế quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại ban hành kèm theo Quyết định số 272-QĐ/TW ngày 21/01/2015 của Bộ Chính trị.
g) Thủ tục đề xuất ký kết TTQT theo thủ tục rút gọn
Trên thực tế, Bộ Ngoại giao nhận thấy xảy ra nhiều trường hợp phát sinh đột xuất nhu cầu ký kết TTQT với đối tác nước ngoài mà không có kế hoạch từ trước và căn cứ nhu cầu đối ngoại, theo quyết định của các cấp có thẩm quyền, đặc biệt là trong các chuyến thăm cấp cao của Việt Nam ra nước ngoài hay nhân dịp đối tác nước ngoài thăm và làm việc tại Việt Nam, sáng kiến các nước đưa ra tại các diễn đàn song phương và đa phương đòi hỏi phải có quyết định ngay. Khi xảy ra tình trạng như vậy, các cơ quan đề xuất không thể thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục ký kết quy định tại Pháp lệnh do không bảo đảm về mặt thời gian. Trong khi đó, việc không nắm bắt kịp thời cơ hội hợp tác với đối tác nước ngoài, không tham gia được vào quá trình tăng cường hợp tác quốc tế trên các cơ chế song phương, khu vực, đa phương sẽ không bảo đảm phục vụ tối ưu lợi ích của đất nước, nhiệm vụ và lợi ích của cơ quan, tổ chức, địa phương của Việt Nam, chưa bảo đảm triển khai chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế.
Dự thảo Luật bổ sung TTHC về đề xuất ký kết TTQT theo thủ tục rút gọn trong 02 trường hợp:
- Đề xuất ký kết TTQT nhân danh Chính phủ, Nhà nước trong trường hợp đáp ứng 03 điều kiện như sau: i) việc ký, thông qua, sửa đổi, bổ sung, tạm đình chỉ thực hiện, chấm dứt hiệu lực TTQT phù hợp với chủ trương, đề án đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kiến nghị cấp có thẩm quyền và được cấp có thẩm quyền phê duyệt; ii) Cần phải xử lý gấp do yêu cầu về chính trị, đối ngoại; iii) Bên hoặc các bên nước ngoài không yêu cầu giấy ủy quyền cho việc ký thỏa thuận.
- Đề xuất ký kết TTQT nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức trong trường hợp đáp ứng một trong các điều kiện như sau: i) Được cơ quan có thẩm quyền cho phép ký nhân dịp đoàn cấp cao Việt Nam tại nước ngoài hoặc của đoàn cấp cao nước ngoài tại Việt Nam; ii) Cần phải xử lý gấp do yêu cầu về chính trị đối ngoại. Theo đó, thời hạn các cơ quan được lấy ý kiến phải trả lời bằng văn bản trong thời hạn 04 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ (so với thủ tục thông thường là 07 ngày làm việc).
Về hồ sơ, văn bản đề xuất ký không cần bao gồm nội dung đánh giá sự phù hợp của nội dung của TTQT đối với các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên trong cùng lĩnh vực và/hoặc TTQT đã được ký kết.
Từ những phân tích nêu trên, việc giữ nguyên 02 TTHC và sửa đổi, bổ sung 02 TTHC, thêm mới 09 TTHC về đề xuất ký kết TTQT là cần thiết, hợp pháp và hợp lý, tạo điều kiện phát huy hiệu quả công tác TTQT.
2. Nhóm TTHC về sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT
Ngoài việc giữ nguyên các thủ tục về sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT, dự thảo Luật bổ sung thủ tục đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo thủ tục rút gọn.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT hoàn toàn mang tính chất kỹ thuật như gia hạn thời hạn hiệu lực của TTQT, thay đổi cơ quan đầu mối thực hiện TTQT nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Pháp lệnh. Việc thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo các quy định của Pháp lệnh là không cần thiết, gây tốn kém về chi phí, nhân sự và lãng phí thời gian.
Dự thảo Luật quy định thủ tục rút gọn theo hướng cơ quan đề xuất không nhất thiết phải lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan. Trong trường hợp được lấy ý kiến, cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 04 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến.
Việc bổ sung thủ tục đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo thủ tục rút gọn là cần thiết, hợp pháp và hợp lý nhằm giải quyết các bất cập trên thực tế.
3. Nhóm TTHC về chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện TTQT
TTHC về chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện TTQT cơ bản giữ nguyên như trong Pháp lệnh.
Theo đó, thời hạn các cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến.
Việc giữ nguyên TTHC về chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện TTQT là cần thiết, hợp pháp và hợp lý, tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan đề xuất ký kết TTQT thực hiện.
Trên đây là Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính trong dự thảo Luật TTQT của Bộ Ngoại giao./.
Nơi nhận:
- Chính phủ;
- Thủ tướng Chính phủ;
- PTTg, BT Phạm Bình Minh;
- Văn phòng Chính phủ;
- Các đ/c Thứ trưởng;
- Lưu: HC, LPQT. KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(Đã ký)
Lê Hoài Trung
PHỤ LỤC
DANH MỤC THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
TRONG DỰ THẢO LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ
1. Đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ
2. Đề xuất ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội
3. Đề xuất ký TTQT nhân danh Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước
4. Đề xuất ký TTQT nhân danh bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
5. Đề xuất ký TTQT nhân danh Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
6. Đề xuất ký TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ
7. Đề xuất ký TTQT nhân danh cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã
8. Đề xuất ký TTQT nhân danh cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
9. Đề xuất ký TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
10. Đề xuất ký TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức
11. Đề xuất ký TTQT liên quan đến đầu tư
12. Đề xuất ký TTQT liên quan đến an ninh
13. Đề xuất ký TTQT liên quan đến quốc phòng
14. Đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT
15. Đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ theo thủ tục rút gọn
16. Đề xuất ký TTQT nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức theo thủ tục rút gọn
17. Đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo thủ tục rút gọn
18. Đề xuất chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện TTQT
Báo cáo về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
10_-_bc1215-BNG_long_ghep_gioi_trong_Luat_TTQT.doc
Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và Quyết định số 842/QĐ-TTg ngày 8/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật thuộc Chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh năm 2020, Bộ Ngoại giao được phân công chủ trì soạn thảo dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT).
Thực hiện quy định tại Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015, Bộ Ngoại giao báo cáo về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật TTQT như sau:
I. Quá trình xây dựng dự án Luật TTQT
Ngày 18/08/2017 và ngày 18/10/2017, Bộ Ngoại giao đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT năm 2007 (Pháp lệnh) tại Bà Rịa – Vũng Tàu và Hà Nội. Trên cơ sở các tham luận và trao đổi tại Hội nghị, Bộ Ngoại giao đã xây dựng Báo cáo tổng kết về những kết quả và hạn chế của Pháp lệnh trong thời gian 10 năm qua (Báo cáo số 5147/BC-BNG-LPQT kèm theo). Đồng thời, Bộ Ngoại giao cũng tổng kết và xây dựng Báo cáo tổng kết thi hành Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg ngày 24/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là điều ước quốc tế (Báo cáo kèm theo).
Theo quy trình xây dựng luật quy định tại Luật Ban hành VBQPPL, Bộ Ngoại giao đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật tại Quyết định số 2785/QĐ-BNG ngày 05/9/2019, gồm đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Nội vụ, Công an, Quốc phòng, Công Thương, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số đơn vị thuộc Bộ Ngoại giao. Ban soạn thảo đã tiến hành một số hoạt động như:
- Tổ chức một số phiên họp toàn thể Ban soạn thảo, Tổ biên tập để xin ý kiến của Ban soạn thảo về chủ trương, định hướng lớn của dự án Luật và ý kiến cụ thể đối với hồ sơ dự án Luật.
- Đề nghị các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cung cấp thông tin về quy định của pháp luật nước sở tại về ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế (ĐƯQT), đồng thời tiến hành sưu tầm, dịch văn bản pháp luật của các nước và các tài liệu liên quan đến kinh nghiệm thực tiễn các nước trong ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT (Báo cáo về thực tiễn các quy định của một số quốc gia về việc ký kết và thực hiện văn bản hợp tác không phải là ĐƯQT kèm theo).
Ngày 08/01/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số 83/BNG-LPQT đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan cho ý kiến đối với Hồ sơ dự án Luật TTQT. Hồ sơ này cũng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao. Sau khi tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ Ngoại giao đã chỉnh sửa Hồ sơ nói trên.
Ngày 07/02/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số 359/BNG-LPQT đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định Hồ sơ dự án Luật TTQT theo Điều 58 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015. Bộ Ngoại giao đã tiếp thu các ý kiến thẩm định trong Hồ sơ dự án Luật TTQT (Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định kèm theo).
Trong các hoạt động nêu trên, Bộ Ngoại giao với tư cách là cơ quan chủ trì soạn thảo đều quan tâm thực hiện việc lồng ghép bình đẳng giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới.
II. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật
1. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong việc thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật TTQT
Thực hiện quy định tại Điều 21 Luật Bình đẳng giới và các VBQPPL quy định chi tiết về lồng ghép giới trong xây dựng VBQPPL, Ban soạn thảo, Tổ biên tập của dự án Luật được xây dựng, cơ cấu với thành phần dựa trên ba yêu cầu cơ bản:
Một là, bảo đảm được quy định chung của Luật Ban hành VBQPPL;
Hai là, đáp ứng được những đặc thù về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự án Luật;
Ba là, đáp ứng được yêu cầu về lồng ghép giới trong thực hiện dự án Luật với sự tham gia của đại diện cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và chuyên gia về giới.
Bộ Ngoại giao đã thành lập Ban soạn thảo (20 đồng chí), Tổ biên tập (26 đồng chí) với sự tham gia của đại diện các bộ, ngành, cơ quan có liên quan gồm: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ Tòa án nhân dân tối cao...; trong đó có các cơ quan liên quan đến quản lý nhà nước về bình đẳng giới như: Bộ Tư pháp, Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ của Bộ Ngoại giao, Ban nữ công của Bộ Ngoại giao. Tỷ lệ nữ giới trong thành phần Ban soạn thảo, Tổ biên tập là 28/46 đồng chí, chiếm tỷ lệ 60,86%.
2. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các hoạt động xây dựng dự án Luật TTQT
Trong quá trình lấy ý kiến về dự án Luật, Bộ Ngoại giao thực hiện nghiêm túc việc tham vấn ý kiến của đại diện cơ quan, chuyên gia về giới như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã tổng hợp ý kiến và nghiên cứu để hoàn thiện dự thảo Luật.
Ngoài ra, Bộ Ngoại giao cũng tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm có sự tham gia của các nhà khoa học, chuyên gia; đăng tải dự thảo Luật trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Ngoại giao, Cổng thông tin điện tử của Chính phủ để lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác.
3. Nội dung lồng ghép bình đẳng giới trong dự thảo Luật TTQT
Về phạm vi điều chỉnh, dự thảo Luật này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện và tổ chức thực hiện TTQT. Theo đó, bên ký kết Việt Nam bao gồm Nhà nước, Chính phủ; Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước ở trung ương); Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan cấp tỉnh); tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; UBND cấp huyện và UBND cấp xã; cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan trung ương của tổ chức); cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan cấp tỉnh, huyện của tổ chức).
Do đó, dự án Luật TTQT điều chỉnh hành vi của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; UBND cấp huyện và UBND cấp xã và cơ quan trung ương, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức trong quá trình ký kết và thực hiện TTQT, không điều chỉnh hành vi của cá nhân. Do đó, có thể nói yêu cầu về lồng ghép bình đẳng giới không cao như các văn bản quy phạm pháp luật khác. Qua rà soát, nội dung dự thảo Luật TTQT đã đáp ứng các nguyên tắc bình đẳng giới.
Mặc dù dự thảo Luật TTQT không trực tiếp điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của cá nhân, không có tác động trực tiếp đến vấn đề giới, tuy nhiên, dự thảo Luật TTQT có một số tác động gián tiếp đến vấn đề giới, thể hiện cụ thể như sau:
a) Dự thảo Luật tiếp tục kế thừa các quy định của Pháp lệnh về nguyên tắc ký kết và thực hiện TTQT và quy trình, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT, thể hiện tại Điều 3 dự thảo Luật.
Về nguyên tắc ký kết và thực hiện, cần đảm bảo phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, trong đó có Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy định chi tiết thi hành, đồng thời, cần đảm bảo phù hợp với ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên, trong đó có Công ước CEDAW về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, phù hợp với chủ trương, chính sách đối ngoại (trong đó có chủ trương tham dự các diễn đàn quốc tế liên quan đến bình đẳng giới).
Chương II dự thảo Luật quy định về quy trình, thủ tục ký kết các loại TTQT, theo đó, cơ quan đề xuất cần đánh giá tác động của TTQT dự định ký kết về mặt chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội và các tác động khác. Như vậy, nếu TTQT có tác động về bình đẳng giới thì tác động này cần được cơ quan đề xuất đánh giá trước khi tiến hành ký kết TTQT. Đồng thời, dự thảo Luật cũng yêu cầu cơ quan đề xuất lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan trước khi quyết định ký TTQT. Do đó, trong trường hợp TTQT dự kiến ký có nội dung liên quan đến bình đẳng giới thì cơ quan đề xuất cần tham khảo ý kiến của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… Quy định này phù hợp với Luật Bình đẳng giới và gián tiếp có tác động tích cực trong việc bảo đảm bình đẳng giới.
b) Dự thảo Luật có Chương riêng quy định về trình tự, thủ tục rút gọn (Chương IV), theo đó, quy định các trường hợp được áp dụng thủ tục rút gọn đối với quy trình đề xuất ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc và cơ quan trung ương của các tổ chức. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Pháp lệnh, được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy định của Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/8/2018 quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT điều chỉnh phù hợp với các loại TTQT được quy định tại Luật này nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện hội nhập quốc tế theo đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, giải quyết các khó khăn, vướng mắc đang gặp phải; rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT dưới một số điều kiện nhất định và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Thủ tục rút gọn này cho phép rút ngắn thời hạn cho ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan (từ 07 ngày làm việc xuống 04 ngày làm việc); rút ngắn 1 bước trong quy trình đề xuất ký TTQT nhân danh Chính phủ là không cần thiết trình Chính phủ, Chủ tịch nước trước khi ký; giảm bớt tài liệu trong Hồ sơ lấy ý kiến về đề xuất ký (bỏ nội dung đánh giá sự tương thích với ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên trong cùng một lĩnh vực, đánh giá sự phù hợp của nội dung TTQT với các quy định của pháp luật Việt Nam).
Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính này đã tạo điều kiện cho Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội, các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới (như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp) và các tổ chức liên quan trực tiếp đến bình đẳng giới như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… tăng cường hợp tác về bình đẳng giới với các bên ký kết nước ngoài, qua đó nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, tận dụng được các cơ hội và nguồn lực để thực hiện bình đẳng giới.
c) Chương V dự thảo Luật quy định về Thực hiện TTQT bao gồm 3 điều, được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh, làm rõ hơn trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; UBND cấp huyện và UBND cấp xã trong việc thực hiện TTQT và luật hóa các quy định của Chỉ thị số 22/CT-TTg về tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các cam kết, TTQT, theo đó quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị tham mưu về hợp tác quốc tế của cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan chuyên môn về công tác đối ngoại của cơ quan cấp tỉnh trong việc thực hiện TTQT trong việc thực hiện TTQT. Theo đó, các cơ quan cần bảo đảm tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh TTQT do cơ quan đó đã ký kết, xây dựng Kế hoạch thực hiện TTQT, báo cáo về tình hình ký kết và thực hiện TTQT với cơ quan có thẩm quyền. Các quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với công tác ký kết và tổ chức thực hiện TTQT, đảm bảo phát huy hiệu quả nội dung hợp tác quốc tế với bên ký kết nước ngoài, trong đó bao gồm các TTQT về bình đẳng giới và các TTQT có liên quan.
Các quy định trong dự thảo Luật không tạo ra bất kỳ sự phân biệt đối xử về giới, phù hợp với các quy định của Luật Bình đẳng giới, Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản luật có liên quan. Vì vậy, nếu các quy định này của dự thảo Luật được thông qua sẽ mang lại lợi ích cho xã hội rất lớn, góp phần thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới.
Trên đây là Báo cáo của Bộ Ngoại giao về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật TTQT./.
Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
9_-_bc533-BNG_danh_gia_tac_dong_CS_trong_Luat_TTQT.pdf
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm
Báo cáo tổng kết thi hành Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg ngày 24/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
8_-_bc595-BNG_tong_ket_thi_hanh_QD_36.pdf
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm
Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh Ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
7_-_bc5147-BNG_tong_ket_PL_ky_ket_va_thhien_TTQT.pdf
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm
Bản chụp ý kiến góp ý dự án Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
6_-_Ban_chup_yk_gop_y_DA_Luat_TTQT.pdf
Bảng tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến của các cơ quan, tổ chức về dự thảo Luật thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
5_-_Tong_hop_gtrinh_yk_gop_y_Luat_TTQT.docx
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm
Báo cáo về việc tiếp thu, giải trình các ý kiến thẩm định về Dự thảo Luật thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
4_-_bc652-BNG_gtrinh_tham_dinh_DA_Luat_TTQT.pdf
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm
Báo cáo thẩm định Dự án Luật thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
3_-_bc31-BTP_tham_dinh_DA_Luat_Thoa_thuan_QT.pdf
Xin vui lòng click vào tiêu đề để tải file đính kèm
Tờ trình Về Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/04/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu kèm theo dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 44 (tháng 4/2020)
1_-_TTr131-CP_ve_DA_Luat_Thoa_thuan_QT.doc
Kính gửi: Quốc hội.
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT) như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ
Pháp lệnh về ký kết và thực hiện TTQT (Pháp lệnh 2007) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20/04/2007 đã thực hiện tốt vai trò là cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế (TTQT) . Kể từ ngày Pháp lệnh có hiệu lực thi hành (ngày 01/07/2007) cho đến thời điểm hiện tại, theo số liệu ghi nhận tại Bộ Ngoại giao, các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của các tổ chức đã ký tổng cộng 2.107 TTQT, trong đó các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ký 1.109 TTQT, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký 821 TTQT. Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thực thi Pháp lệnh 2007 (Báo cáo tổng kết kèm theo) cho thấy, Pháp lệnh 2007 này cùng với pháp luật về điều ước quốc tế (Luật Điều ước quốc tế (ĐƯQT) năm 2016 thay thế cho Luật Ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 2005 ) đã phục vụ tích cực cho việc triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời gian qua. Các TTQT (không phải ĐƯQT) được ký kết và triển khai trên nhiều kênh, bao gồm các chủ thể được quy định tại Pháp lệnh 2007 (Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của các tổ chức), và cả cấp đơn vị trực thuộc cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan cấp tỉnh. Nội dung hợp tác theo các TTQT trải rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác nước ngoài khác nhau. Việc ký kết và thực hiện các TTQT thời gian qua đã thúc đẩy hợp tác quốc tế giữa các cấp, các ngành, các tổ chức của nước ta với các đối tác nước ngoài, góp phần không chỉ thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, qua nhiều kênh, mà còn góp phần giải quyết những vấn đề quan trọng, phức tạp như bảo vệ chủ quyền biển đảo, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, qua đó tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác nước ngoài cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, triển khai nhiều chương trình kinh tế, xã hội, trong đó có xóa đói, giảm nghèo, khắc phục thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, phục vụ công cuộc bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, xã hội, thúc đẩy hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới, nâng cao vị thế của nước ta. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Pháp lệnh 2007 cũng cho thấy có một số bất cập do có những vấn đề phát sinh hoặc do thay đổi quy định pháp luật có liên quan, đặt ra yêu cầu hoàn thiện quy định về TTQT.
Việc ban hành Luật TTQT là cần thiết vì những lý do cơ bản sau:
1. Việc ban hành Luật TTQT là cần thiết nhằm tạo cơ sở cho việc thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế. Chủ trương hội nhập quốc tế (không chỉ gồm hội nhập kinh tế quốc tế) được quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 2013 . Chủ trương của Đảng về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã được nêu rõ trong nhiều văn bản của Đảng, nhất là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 và Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh trọng tâm thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định kinh tế - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
2. Một số bất cập trong pháp luật hiện hành đòi hỏi có giải pháp khắc phục.
Thứ nhất, một số quy định mới được ban hành có liên quan đến ký kết và thực hiện TTQT.
- Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 không sử dụng khái niệm cơ quan giúp việc của Quốc hội mà chỉ liệt kê cơ quan của Quốc hội bao gồm Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực của Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Luật này cũng quy định rõ Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Do đó, việc Pháp lệnh 2007 sử dụng khái niệm “cơ quan giúp việc của Quốc hội” và “người đứng đầu cơ quan của Quốc hội” là không phù hợp với pháp luật hiện hành.
- Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn thống nhất quản lý nhà nước về đối ngoại và hội nhập quốc tế (khoản 1 Điều 22), phù hợp quy định của Hiến pháp năm 2013 (khoản 3 Điều 96). Theo đó, Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ quy định bộ, cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ, quyền hạn ký kết và tổ chức thực hiện TTQT theo quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế (Điều 8).
- Luật Chính quyền địa phương năm 2015 quy định HĐND làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số (khoản 3 Điều 5). Do đó, việc Pháp lệnh 2007 sử dụng khái niệm “người đứng đầu cơ quan cấp tỉnh” và quy định người đứng đầu cơ quan cấp tỉnh quyết định việc ký kết TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh là không phù hợp.
- Luật ĐƯQT 2016 (thay thế cho Luật Ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 2005), quy định thêm tiêu chí cụ thể về khái niệm ĐƯQT, đó là “làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế” (khoản 1 Điều 2 Luật ĐƯQT 2016). Các TTQT được ký kết với danh nghĩa Nhà nước hay Chính phủ mà không là ĐƯQT thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật ĐƯQT 2016, và cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh 2007 (thực tiễn các TTQT này xem tại mục 2 dưới đây).
Ngày 24/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT, có hiệu lực kể từ ngày 10/10/2018 (Quyết định số 36/2018 của Thủ tướng Chính phủ); văn bản hướng dẫn này mang tính chất tạm thời trong lúc chờ Pháp lệnh được nâng lên thành Luật.
- Luật Quản lý nợ công 2017 (thay thế Luật Quản lý nợ công 2009), cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật này có quy định riêng cho ký kết, thực hiện thỏa thuận về vay nợ nước ngoài, trong đó có nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của các nhà tài trợ nước ngoài (ODA) và vay ưu đãi của nước ngoài.
- Nghị định 35/2011/NĐ-CP về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ngày 18/5/2011 quy định trong quá trình ký kết, gia nhập ĐƯQT, TTQT, các bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm gửi hồ sơ đó đến Bộ Công an để lấy ý kiến về sự phù hợp với yêu cầu bảo vệ an ninh, trật tự (khoản 3 Điều 6).
- Bên cạnh đó, quy định về việc ký kết và thực hiện văn bản ghi nhớ, thỏa thuận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài được quy định tại Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài (trước đó là Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ).
- Chỉ thị 22/CT-TTg năm 2017 về tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực hiện cam kết, TTQT do Thủ tướng Chính phủ ban hành (thay thế Chỉ thị 09/CT-TTg năm 2012 về tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác ĐƯQT, TTQT) quy định một số nhiệm vụ trọng tâm của các bộ, ngành, cơ quan cấp tỉnh trong công tác ký kết, thực hiện cam kết, TTQT.
Thứ hai, một số bất cập của Pháp lệnh 2007 dẫn đến khó khăn trong triển khai công tác TTQT đòi hỏi có quy định rõ ràng hơn, cụ thể gồm các bất cập sau đây:
- Pháp luật hiện hành chưa quy định về việc ký kết TTQT (văn bản hợp tác quốc tế) của đơn vị trực thuộc. Thực tế, một số đơn vị trực thuộc bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đã ký kết nhiều văn bản hợp tác để thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cụ thể, đáp ứng yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao và báo cáo từ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, từ ngày Pháp lệnh 2007 có hiệu lực đến ngày 31/12/2019, có tổng cộng 3.378 văn bản hợp tác quốc tế cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp công lập), trong đó có 1.695 văn bản hợp tác quốc tế cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, và 1.953 văn bản thỏa thuận hợp tác cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc UBND cấp tỉnh. Ngoài ra, cấp tỉnh, huyện của một số tổ chức như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã ký các văn bản hợp tác với đối tác nước ngoài, trong đó đa số là các thỏa thuận nhận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài. Như vậy, thực tế ký kết TTQT ở cấp đơn vị trực thuộc là khá phổ biến và dự kiến, trong tương lai số lượng văn bản loại này sẽ còn được ký kết nhiều hơn nữa, nhất là trong bối cảnh nhu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng tăng cao. Trong khi đó, khung pháp luật hiện hành vẫn còn để ngỏ, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh về thủ tục ký kết đối với TTQT loại này. Điều này dẫn đến sự lúng túng của các đơn vị trực thuộc của các cơ quan, tổ chức trong quá trình ký kết các TTQT vì không biết phải tuân theo quy trình nào, có phải xin ý kiến của trung ương không.
- Về kỹ thuật văn bản, một số điều khoản trong Pháp lệnh 2007 chưa thể hiện rõ tính chất pháp lý, do đó gây khó khăn cho việc thực hiện (ví dụ: khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh 2007 về nội dung của TTQT không rõ là TTQT chỉ được phép có những nội dung như liệt kê, hay quy định này chỉ có tính chất mô tả).
- Nội dung không thuộc phạm vi TTQT quy định tại các điểm từ a – đ khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh 2007 đều thuộc quan hệ cấp Nhà nước, Chính phủ, thực chất là nội dung phải thuộc ĐƯQT, “làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế” (theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật ĐƯQT 2016). Trên thực tế, nhiều TTQT được ký kết bao gồm nội dung liên quan gián tiếp tới nội dung hợp tác thuộc khuôn khổ ĐƯQT, nhằm cụ thể hóa về việc triển khai các cam kết, ĐƯQT ở cấp Nhà nước, Chính phủ (như TTQT song phương với một số nước về hợp tác tăng cường năng lực trong lĩnh vực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hoặc TTQT giữa các tỉnh biên giới về hợp tác quản lý biên giới, thúc đẩy thương mại vùng biên…).
Thứ ba, Pháp lệnh 2007 chưa quy định trình tự rút gọn cho trường hợp gấp trong khi bảo đảm các yêu cầu về ký kết TTQT; cũng chưa quy định trình tự đề xuất, ký kết và thực hiện các TTQT hợp tác liên ngành, hoặc liên tỉnh, liên thành phố gồm từ ba bộ, ngành, hoặc ba tỉnh, thành phố trở lên. Đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh 2007 hiện nay chủ yếu là TTQT hợp tác đơn ngành thuộc phạm vi phụ trách của một bộ, ngành hoặc một địa phương. Pháp lệnh 2007 cũng chưa tính đến các trường hợp cần ký gấp TTQT cần có thủ tục rút gọn để phục vụ yêu cầu đối ngoại, bảo đảm lợi ích quốc gia mà mới quy định thủ tục chung áp dụng cho tất cả các trường hợp ký kết TTQT.
Thứ tư, thực tế trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số vụ tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài. Các tranh chấp này có thể phát sinh do cam kết của các địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các TTQT được ký kết. Hiệp định bảo hộ đầu tư giữa một bên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một bên là Liên minh Châu Âu và các nước thành viên của Liên minh Châu Âu ký ngày 30/6/2019 cũng có những quy định riêng liên quan đến loại TTQT này. Thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, để tăng cường quản lý đối với TTQT về đầu tư, cần có quy định chặt chẽ hơn đối với các TTQT liên quan đến đầu tư.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT TTQT
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật TTQT nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về công tác ký kết và thực hiện các văn bản hợp tác quốc tế không là ĐƯQT, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật; quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong công tác TTQT; bảo đảm triển khai và quản lý một cách thống nhất, nâng cao hiệu quả ký kết, thực hiện TTQT, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, cả về công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm và nguồn vốn của các nước và tổ chức quốc tế phục vụ công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.
2. Quan điểm chỉ đạo
- Nội dung của Luật quy định về công tác TTQT phải phù hợp với Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
- Phải thể chế hóa chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế, đặc biệt là Chỉ thị 04-CT/TW năm 2011 về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới do Bộ Chính trị ban hành, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại ban hành kèm theo Quyết định số 272-QĐ/TW ngày 21/01/2015 của Bộ Chính trị khoá XI và Kết luận số 33-KL/TW ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị khoá XII, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030… Đồng thời, phải bảo đảm không phình bộ máy, tăng biên chế theo chủ trương tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Việc xây dựng Luật phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh 2007 và Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; phải kế thừa và phát huy các quy định còn giá trị của Pháp lệnh 2007 và Quyết định số 36; khắc phục những bất cập trong thực tiễn thời gian qua, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
- Phải tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối ngoại ở tất cả các kênh Quốc hội, Nhà nước, nhân dân giữa nước ta và các nước, tổ chức quốc tế, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát huy nội lực, tranh thủ các nguồn lực ở bên ngoài, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước trong giai đoạn mới hội nhập sâu rộng.
- Trong quá trình xây dựng Luật, để bảo đảm chất lượng, tính khả thi của dự án Luật, cần tham khảo rộng rãi, thực chất ý kiến tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học.
- Phải quy phạm hoá 04 chính sách đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, theo đó:
i) Chính sách 1: TTQT bao gồm các cam kết mang tính chính trị về hợp tác quốc tế, không mang tính ràng buộc pháp lý, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý quốc tế đối với Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Mục tiêu của chính sách này là quy định rõ nội dung, tính chất của TTQT theo hướng phân biệt với ĐƯQT, đồng thời phân biệt với hợp đồng/thỏa thuận về giao dịch về dân sự, kinh tế, tài chính, đầu tư, từ đó xác định quy định pháp luật được áp dụng với các loại thỏa thuận khác nhau, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý công tác ký kết, thực hiện TTQT, khắc phục sự không rõ ràng về nội dung TTQT và yêu cầu tuân thủ quy định về pháp luật chuyên ngành đối với nội dung hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cụ thể.
ii) Chính sách 2: Mở rộng phạm vi chủ thể ký kết TTQT phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay.
iii) Chính sách 3: Xác định rõ và đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với công tác ký kết và tổ chức thực hiện TTQT.
iv) Chính sách 4: Đơn giản hóa trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN
Ngày 18/08/2017 và ngày 18/10/2017, Bộ Ngoại giao đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh 2007 tại Bà Rịa – Vũng Tàu và Hà Nội. Trên cơ sở các tham luận và trao đổi tại Hội nghị, Bộ Ngoại giao đã xây dựng Báo cáo tổng kết về những kết quả và hạn chế của Pháp lệnh 2007 trong thời gian 10 năm qua (Báo cáo số 5147/BC-BNG-LPQT kèm theo).
Theo quy trình xây dựng luật quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Ngoại giao đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật tại Quyết định số 2785/QĐ-BNG ngày 05/9/2019, gồm đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Nội vụ, Công an, Quốc phòng, Công Thương, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT), Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số đơn vị thuộc Bộ Ngoại giao. Ban soạn thảo đã tiến hành một số hoạt động như:
- Tổ chức một số phiên họp toàn thể Ban soạn thảo, Tổ biên tập để xin ý kiến của Ban soạn thảo về chủ trương, định hướng lớn của dự án Luật và ý kiến cụ thể đối với hồ sơ dự án Luật.
- Đề nghị các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cung cấp thông tin về quy định của pháp luật nước sở tại về ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT, đồng thời tiến hành sưu tầm, dịch văn bản pháp luật của các nước và các tài liệu liên quan đến kinh nghiệm thực tiễn các nước trong ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT (Báo cáo về thực tiễn các quy định của một số quốc gia về việc ký kết và thực hiện văn bản hợp tác không phải là ĐƯQT kèm theo).
- Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của bộ, ngành, Bộ Ngoại giao đã tổng hợp và soạn thảo Báo cáo tổng kết thi hành Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (kèm theo).
- Ngày 08/01/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số 83/BNG-LPQT đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan cho ý kiến đối với Hồ sơ dự án Luật TTQT. Cho đến thời điểm Bộ Tư pháp tổ chức họp thẩm định (ngày 18/02/2020), Bộ Ngoại giao vẫn chưa nhận được ý kiến góp ý chính thức bằng văn bản của các Bộ: Giao thông vận tải, Công an, Tài chính, KHĐT, Lao động - Thương binh và Xã hội; UBND thành phố Hà Nội; Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam… Tuy nhiên, tại cuộc họp thẩm định, đa phần các cơ quan này đã phát biểu ý kiến tham gia. Bộ Ngoại giao đã ghi nhận và tiếp thu, giải trình đầy đủ (Bảng tiếp thu, giải trình kèm theo hồ sơ).
- Hồ sơ này cũng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao. Sau khi tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ Ngoại giao đã chỉnh sửa Hồ sơ nói trên (Bảng tổng hợp ý kiến kèm theo).
- Ngày 07/02/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số 359/BNG-LPQT đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định Hồ sơ dự án Luật TTQT theo Điều 58 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Bộ Ngoại giao đã tiếp thu các ý kiến thẩm định trong Hồ sơ dự án Luật TTQT (Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định kèm theo).
- Ngày 03/3/2020, tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng hai, các thành viên Chính phủ đã thảo luận và cho ý kiến về dự án Luật TTQT. Trên cơ sở ý kiến của các thành viên Chính phủ và ý kiến thẩm tra của Văn phòng Chính phủ tại CV số 1615/BC-VPCP ngày 03/3/2020 về dự án Luật TTQT, Bộ Ngoại giao đã có Báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ tiếp thu, giải trình các ý kiến này, đồng thời chỉnh lý dự thảo Luật và các tài liệu kèm theo (số 883/BC-BNG-LPQT ngày 13/3/2020).
- Ngày 03/4/2020, Văn phòng Chính phủ đã có công văn số 2591/VPCP-PL thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đối với Báo cáo nêu trên của Bộ Ngoại giao.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Về bố cục của dự thảo Luật
Dự thảo Luật TTQT gồm 07 Chương, 53 điều, bao gồm:
Chương I (Những quy định chung) gồm 08 điều từ Điều 1 đến Điều 8;
Chương II (Ký kết TTQT) gồm 10 mục, 25 điều từ Điều 9 đến Điều 34;
Chương III (Hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện TTQT) gồm 03 điều từ Điều 35 đến Điều 37;
Chương IV (Trình tự, thủ tục rút gọn) gồm 03 điều, từ Điều 38 đến Điều 40;
Chương V (Thực hiện TTQT) bao gồm 03 điều từ Điều 41 đến Điều 43;
Chương VI (Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức) gồm 08 điều từ Điều 44 đến Điều 51;
Chương VII (Điều khoản thi hành) gồm 02 điều từ Điều 52 đến Điều 53.
2. Một số nội dung cơ bản của dự thảo Luật
Dự thảo Luật đã quy phạm hóa 04 chính sách đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, thể hiện cụ thể ở một số nội dung sau:
2.1. Về phạm vi điều chỉnh
a) Chủ thể ký kết TTQT
Theo Pháp lệnh 2007, cơ quan nhà nước ở trung ương bao gồm cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
So với Pháp lệnh 2007, phạm vi điều chỉnh mở rộng thêm quy định về việc ký kết, thực hiện TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ; TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TTQT nhân danh UBND cấp huyện, xã; cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
b) Loại TTQT mà việc ký kết, thực hiện không do Luật điều chỉnh
Luật không điều chỉnh việc ký kết và thực hiện thỏa thuận về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài; thỏa thuận về cho vay, viện trợ của Việt Nam cho nước ngoài; thỏa thuận về viện trợ phi chính phủ nước ngoài; hợp đồng theo Bộ luật Dân sự; hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
c) Khái niệm và đặc trưng của TTQT
Dự thảo Luật quy định “TTQT là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài, không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế”.
Bên cạnh đó, tại khoản 5 Điều 3: “Cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện, UBND cấp xã, cơ quan trung ương của tổ chức, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức không được ký kết TTQT ràng buộc Nhà nước, Chính phủ Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức Việt Nam không ký kết TTQT đó”. Quy định này được hiểu là TTQT chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên ký kết.
Cùng với quy định tại khoản 2 Điều 2 (về Bên ký kết Việt Nam) và các quy định loại trừ tại khoản 2 Điều 1, định nghĩa TTQT tại Luật này đã thể hiện các đặc trưng của TTQT để phân biệt TTQT với ĐƯQT và các hợp đồng dân sự, thương mại, đầu tư.
2.2. Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết TTQT
Chương II (Ký kết TTQT) bao gồm 10 mục, 25 điều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết TTQT, hồ sơ lấy ý kiến và hồ sơ trình về đề xuất ký kết, bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan trong việc cho ý kiến đề xuất ký kết TTQT và việc ký TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao.
a) Về trình tự, thủ tục ký kết áp dụng chung với các loại TTQT
Đối với thẩm quyền, thủ tục, hồ sơ trình về đề xuất ký kết TTQT, Luật này kế thừa các quy định của Pháp lệnh 2007 và hợp nhất các quy định của Quyết định 36/2018/QĐ-TTg đối với các TTQT được ký nhân danh Nhà nước, Chính phủ.
Theo đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, trên cơ sở thực tiễn công tác ĐƯQT, TTQT của hai cơ quan này có đặc thù riêng , dự thảo Luật quy định Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT trong Công an nhân dân, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT trong Quân đội (Điều 29).
b) Thủ tục đối với TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện và UBND cấp xã
Luật quy định các nguyên tắc về trình tự, thủ tục cho loại thỏa thuận này và quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT nhân danh tổng cục, cục thuộc bộ; Chủ tịch UBND cấp tỉnh quy định cụ thể việc ký kết và thực hiện TTQT nhân danh cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND cấp huyện và UBND cấp xã (khoản 4 Điều 22, khoản 4 Điều 23).
c) Thủ tục đối với TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức
Cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của cơ quan cấp tỉnh của tổ chức quyết định việc ký kết TTQT nhân danh cơ quan cấp tỉnh của tổ chức (Điều 26).
d) Thủ tục đối với các TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức
So với Pháp lệnh 2007 Luật bổ sung thêm quy định về thủ tục đối với các TTQT nhân danh nhiều cơ quan, tổ chức (Điều 27) để giải quyết các vướng mắc, bất cập như đã nêu tại Mục I Tờ trình, theo đó, trước khi tiến hành các thủ tục thông thường, cơ quan, tổ chức ký kết cần chỉ định cơ quan, tổ chức đầu mối ký kết.
đ) Thủ tục đối với TTQT liên quan đến an ninh, quốc phòng, đầu tư
So với Pháp lệnh 2007, Luật bổ sung điều mới quy định về TTQT liên quan đến an ninh, quốc phòng, đầu tư, theo đó, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức, ngoài việc tuân theo thủ tục chung còn có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ KHĐT trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định việc ký kết TTQT (Điều 28).
e) Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và cơ quan liên quan trong việc ký kết TTQT
Nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý nhà nước về ký kết và thực hiện TTQT, Luật bổ sung 02 điều quy định về trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và trách nhiệm của cơ quan liên quan trong việc cho ý kiến về đề xuất ký TTQT, theo đó làm rõ các nội dung cụ thể cần cho ý kiến đối với đề xuất ký TTQT (Điều 32 và Điều 33).
g) Rà soát và ủy quyền ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ
Trên cơ sở hợp nhất các quy định của Quyết định 36/2018/QĐ-TTg, đồng thời do tính chất của các thỏa thuận nhân danh Nhà nước, Chính phủ là các cam kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ, Luật bổ sung 02 điều quy định về ủy quyền ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ và rà soát, đối chiếu văn bản TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ trước khi ký (Điều 11 và Điều 12).
h) Ký TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao
Trong thời gian qua, Bộ Ngoại giao đã chủ trì, phối hợp hiệu quả với các bộ, ngành cũng như UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc rà soát văn bản, tổ chức lễ ký các văn kiện hợp tác trong chuyến thăm của đoàn cấp cao Việt Nam tại nước ngoài hoặc của đoàn cấp cao nước ngoài tại Việt Nam (trung bình mỗi năm Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp rà soát hơn 100 văn bản được ký trong chuyến thăm của đoàn cấp cao). Từ thực tiễn nêu trên, Luật bổ sung quy định về ký TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao (Điều 34), tương tự như quy định tại Luật ĐƯQT năm 2016.
2.3. Trình tự, thủ tục rút gọn
Chương IV (Trình tự, thủ tục rút gọn) bao gồm 03 điều (các điều từ 38-40) quy định về các trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn trong việc ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT và trình tự, thủ tục thực hiện. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Pháp lệnh 2007, được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy định của Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg điều chỉnh phù hợp với các loại TTQT được quy định tại Luật này nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện hội nhập quốc tế theo đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, giải quyết các khó khăn, vướng mắc đang gặp phải; rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT dưới một số điều kiện nhất định và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
2.4. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức
Chương VI (Trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức) gồm 08 điều (các điều từ 44-51), quy định về trách nhiệm của các cơ quan: Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức, cũng như trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, xử lý vi phạm.
Luật kế thừa quy định của Pháp lệnh 2007 tại các nội dung này, trừ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quy định mới.
Hồ sơ dự án Luật gửi kèm theo Tờ trình bao gồm:
i) Dự thảo Luật;
ii) Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý;
iii) Bản chụp ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức;
iv) Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong dự thảo Luật;
v) Báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới;
vi) Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính;
vii) Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh 2007;
viii) Báo cáo tổng kết thi hành Quyết định 36;
ix) Báo cáo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới;
x) Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 74/2016/NĐ-CP về quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác ĐƯQT và TTQT;
xi) Báo cáo thẩm định dự án Luật TTQT số 31/BCTĐ-BTP ngày 26/02/2020 của Bộ Tư pháp;
xii) Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp của Bộ Ngoại giao số 652/BC-BNG-LPQT ngày 27/02/2020.
Trên đây là một số nội dung chủ yếu của dự án Luật TTQT, Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét cho ý kiến./.
Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh ký kết và thực hiện Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/02/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong hồ sơ dự án đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
08_Bao_cao_tong_ket_5147.pdf
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm.
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/02/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong hồ sơ dự án đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
07_Bao_cao_kinh_nghiem_quoc_te.doc
Thực hiện Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và Quyết định số 842/QĐ-TTg ngày 8/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật thuộc Chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh năm 2020, Bộ Ngoại giao được giao chủ trì soạn thảo dự án Luật Thỏa thuận quốc tế. Trên cơ sở đó, Bộ Ngoại giao đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, Bộ Ngoại giao đã tổng hợp kinh nghiệm từ gần 40 nước trên thế giới. Hầu hết các nước được tham khảo không cấm việc ký kết các thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế.
Báo cáo này tập trung phân tích 03 nội dung sau: (i) hình thức văn bản quy định trình tự thủ tục ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế; (ii) chủ thể ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế; (iii) trình tự, thủ tục ký kết các thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế. Bảng tổng hợp chi tiết thông tin mà các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cung cấp xin xem tại Phụ lục kèm theo Báo cáo này.
Nội dung cụ thể như sau:
1. Hình thức văn bản quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế
Qua tham khảo, Bộ Ngoại giao nhận thấy 03 xu hướng sau:
a. Tại nhiều nước, không có luật riêng hoặc văn bản pháp luật chuyên biệt quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết thỏa thuận quốc tế không phải là điều ước quốc tế. Tại một số quốc gia, nội dung quy định chung về việc ký kết thỏa thuân hợp tác được nêu tại các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền hay quy chế làm việc của các cơ quan. Ví dụ: Bun-ga-ri không có quy định riêng về trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện mà căn cứ vào chức năng, quyền hạn của các cơ quan theo luật, quy định hoặc pháp luật riêng đối với từng cơ quan (Điều 21.5 Luật Chính quyền địa phương tự quản của Bun-ga-ri quy định: Hội đồng thành phố quyết định sự tham gia của thành phố trong các hiệp hội, quan hệ hợp tác với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ nước ngoài). Tại Hung-ga-ri, Nhật Bản, việc ký kết thỏa thuận quốc tế không phải điều ước quốc tế căn cứ vào thẩm quyền được quy định trong văn bản pháp luật/ Quy chế về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ký kết. Bra-xin quy định tại Sắc lệnh về chức năng, nhiệm vụ của bộ, ngành và địa phương. Cộng hòa Liên bang Đức thực hiện theo Quy chế hoạt động liên bộ của Chính phủ Đức. Tại Vương quốc Bỉ, không có quy định pháp luật chuyên biệt về trình tự, thủ tục cam kết các văn bản mang tính chất chính trị (không tạo ra quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quốc tế), các thỏa thuận vay, viện trợ và các văn bản thỏa thuận hợp tác quốc tế giữa các bộ, ngành của Bỉ với đối tác nước ngoài do luật tổ chức chính phủ, điều lệ Quỹ tín dụng, Quy chế Cơ quan hợp tác và phát triển Bỉ điều chỉnh và theo luật chung, tức theo quy định pháp luật về thẩm quyền ký kết, mức độ cam kết và ngân sách để thực hiện cam kết.
Một số quốc gia không có sự phân biệt cụ thể giữa trình tự, thủ tục ký kết các điều ước quốc tế và các thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế. Ví dụ, tại Hy Lạp, tất cả các văn bản hợp tác quốc tế được ký kết ở cấp nhà nước đều được coi là điều ước quốc tế (“treaty”) theo Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế, kể cả những văn bản không tạo ra quyền và nghĩa vụ quốc tế. Nếu văn bản nào theo quy định của Hiến pháp cần phải được Quốc hội thông qua thì sẽ được đưa ra Quốc hội. Đối với những văn bản còn lại, không có quy trình cụ thể riêng và các văn bản sẽ có hiệu lực ngay sau khi ký. Trung Quốc chỉ có Luật trình tự ký kết điều ước nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1990, phạm vi điều chỉnh bao gồm các điều ước, hiệp định và các văn kiện khác mang tính chất điều ước, hiệp định song phương, đa phương giữa Trung Quốc và đối tác nước ngoài. Tại Triều Tiên, trình tự ký kết và thực hiện các loại văn bản hợp tác quôc tế không phân biệt giữa điều ước quốc tế và văn bản hợp tác quốc tế khác và được quy định tại Luật Điều ước năm 1988.
b. Có văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết thỏa thuận (hoặc văn kiện quốc tế) không phải là điều ước quốc tế
Tại Cộng hòa Pháp, Chỉ thị ngày 30/5/1997 của Thủ tướng Pháp quy định về việc ký kết các TTQT giữa các cơ quan chính quyền (các bộ) của Pháp với các cơ quan nước ngoài. Tại Thái Lan, Nghị quyết của Chính phủ Thái Lan trao quyền cho các đơn vị thuộc bộ, ngành được ký kết thỏa thuận hợp tác với đối tác nước ngoài. Tại Liên bang Nga, thủ tục ký kết các thỏa thuận quốc tế không phải là điều ước quốc tế được quy định tại Nghị định số 79 ngày 7/2/2003 của Chính phủ Liên bang Nga quy định Quy chế chuẩn bị và ký các văn kiện quốc tế không phải là điều ước quốc tế của Liên bang Nga (trong đó quy định văn kiện quốc tế nhân danh Chính phủ Liên bang Nga, các văn kiện quốc tế liên chính phủ không phải là điều ước quốc tế của Liên bang Nga). Ngoài ra, các quy định chung về ký kết thỏa thuận quốc tế được quy định tại Hiến pháp Liên bang Nga 1993, Luật Điều ước quốc tế 1995, Luật quản lý nhà nước các hoạt động ngoại thương 1995, Luật hợp tác quốc tế và các hoạt động ngoại thương của các chủ thể Liên bang Nga 1999, Pháp lệnh Tổng thống về trách nhiệm của Bộ Ngoại giao Liên bang Nga 1995, Pháp lệnh Tổng thống về vai trò phối hợp của Bộ Ngoại giao Liên bang Nga 1996.
c. Có văn bản mang tính chất hướng dẫn (mà không phải các văn bản quy phạm pháp luật) về ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế
Thông thường, đối với các trường hợp này, văn bản của Bộ Ngoại giao hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục ký kết các thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế. Ví dụ: tại Thụy Sỹ có Sổ tay hướng dẫn của Bộ Ngoại giao; tại Vương quốc Anh, Úc có Hướng dẫn của Bộ Ngoại giao. Ngoài ra, một số nước có hướng dẫn về việc ký kết các thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế tại văn bản khác ngoài văn bản hướng dẫn của Bộ Ngoại giao như Mexico (Hướng dẫn của Quốc hội đối với việc đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế).
2. Chủ thể ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế
a. Liên quan đến các cơ quan Nhà nước: Chủ thể ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế được các quốc gia quy định rất đa dạng, từ Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan thuộc trung ương tới các cấp chính quyền địa phương và các đơn vị trực thuộc.
Tại Thụy Sỹ, các chủ thể ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế bao gồm: (i) Hội đồng Liên bang (Chính phủ); (ii) các bộ/ngành được ký các văn kiện ít quan trọng từ góc độ chính sách; (iii) các thực thể khác khi được Quốc hội hoặc Chính phủ ủy quyền ký điều ước quốc tế trong cùng lĩnh vực); (iv) Chính quyền cấp Bang được ký kết điều ước quốc tế và văn kiện hợp tác quốc tế khác trong lĩnh vực thuộc phạm vi thẩm quyền đã phân cấp nhưng trước khi ký phải thông báo cho chính quyền Liên bang, thường chỉ ký với đối tác cấp thấp.
Tại Liên bang Nga, các văn bản hợp tác quốc tế cấp Nhà nước do Tổng thống quyết định đàm phán và ký kết. Các văn bản cấp Chính phủ, bộ, ngành do Chính phủ quyết định tiến hành đàm phán và ký kết. Tổng thống, Thủ tướng, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan liên bang, Trưởng cơ quan đại diện của LB Nga ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế có quyền chủ trì đàm phán các văn bản hợp tác quốc tế.
b. Liên quan đến các tổ chức đoàn thể, chưa có thông tin của quốc tế về việc ký kết các thỏa thuận của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các nước (tuy Bộ Ngoại giao đã đề nghị các Cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài giúp tìm hiểu ở nước sở tại).
3. Trình tự, thủ tục ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế
Về nguyên tắc ký kết thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế, một số nước có quy định cụ thể về các điều kiện đối với các văn bản sẽ được ký kết. Ví dụ: Tại Cộng hòa Pháp, theo Hiến pháp và Luật về chính quyền địa phương, Chính quyền địa phương có thể ký thỏa thuận hợp tác với đối tác nước ngoài nếu thỏa mãn 3 điều kiện: (i) không trái với chính sách đối ngoại của Pháp (ví dụ không thể ký thỏa thuận với 1 nước không được Pháp công nhận); (ii) nội dung thỏa thuận liên quan đến các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương; (iii) phù hợp với luật và cam kết quốc tế của Pháp. Tại Thái Lan, Nghị quyết của Chính phủ trao quyền cho các cơ quan cấp Vụ trực thuộc các bộ, ngành trung ương đứng ra ký kết TTQT không phải là ĐƯQT với các đối tác nước ngoài mà không cần báo cáo lên Chính phủ nếu đáp ứng một số tiêu chí (không phải là điều ước quốc tế, vấn đề thỏa thuận nằm trong chức năng nhiệm vụ của Vụ; thỏa thuận không được có tác động thay đổi các chính sách lớn của Thái Lan; thỏa thuận không được ảnh hưởng tới ngân sách đã được phê duyệt; thỏa thuận có thể được thực hiện theo quy định pháp luật hiện hành mà không cần ra luật mới; Bộ trưởng quản lý Vụ phải chấp nhận nội dung thỏa thuận; thỏa thuận phải có ý kiến của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao).
Qua tham khảo, Bộ Ngoại giao nhận thấy hầu hết các nước đều quy định cần lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan trước khi ký kết văn bản. Ví dụ, tại Vương quốc Anh, các văn bản hợp tác không phải điều ước quốc tế thường được các bộ/ngành ký với các đối tác dưới dạng Bản ghi nhớ (MoU). Dự thảo các MoU cần được gửi tới các đơn vị liên quan của Bộ Ngoại giao để các chuyên gia pháp ý thẩm định, văn bản dịch ra tiếng nước ngoài cũng cần được kiểm tra. Yêu cầu phối hợp liên bộ của MoU cũng giống như đối với điều ước quốc tế.
Một số nước quy định bắt buộc lấy ý kiến của Bộ Tư pháp. Tại Liên bang Nga, đối với các văn bản hợp tác giữa các chủ thể liên bang và chính quyền, cơ quan hành chính của chủ thể liên bang (thành phố, tỉnh, nước cộng hòa) cần phải có ý kiến phối hợp của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, cơ quan có thẩm quyền liên quan. Sau khi có ý kiến đồng ý của các bộ, ngành, trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến trước khi ký kết. Sau khi ký kết văn bản hợp tác, các địa phương chủ động tổ chức thực hiện, lưu trữ, quản ký văn bản; báo cáo Bộ Ngoại giao khi có yêu cầu. Tại Ô-xtơ-rây-li-a, đề xuất ký kết cần được lấy ý kiến của các bộ, ngành liên quan để xem xét thông qua về mặt chính sách, gửi Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp để thẩm định tính pháp lý và sự phù hợp với các quy định hiện hành. Sau khi đề xuất được chấp nhận, cơ quan đề xuất soạn thảo văn bản và gửi dự thảo cho Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp để thẩm định toàn văn. Nếu văn bản có nội dung mang tính ràng buộc thi hành, dự thảo văn bản cần được Hội đồng chấp pháp thông qua trước khi ký kết, đặc biệt khi liên quan nghĩa vụ tài chính. Tất cả văn bản sau khi ký đều phải gửi bản sao cho Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp để theo dõi triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, một số nước không quy định việc lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp như Ba Lan, Nhật Bản, Ô-xtơ-rây-li-a, đối với các văn bản hợp tác quốc tế không là điều ước quốc tế, các bộ, ngành, địa phương có thẩm quyền ký kết văn bản hợp tác với đối tác nước ngoài, không cần xin ý kiến và phê chuẩn của Quốc hội, Tổng thống hay Thủ tướng và Bộ Ngoại giao, tuy nhiên phải bảo đảm ngôn ngữ của văn bản không phải là điều ước quốc tế, theo hướng dẫn của Bộ Ngoại giao.
Chưa có cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài nào cho biết có quy định về một số trình tự, thủ tục rút gọn đối với việc ký kết các thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế trong các trường hợp có yêu cầu gấp về mặt đối ngoại.
Trên đây là Báo cáo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế của Bộ Ngoại giao./.
Bản scan công văn góp ý cho Dự án Luật của các cơ quan
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/02/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ dự án Luật được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
06_Ban_scan_cong_van_gop_y_cua_cac_co_quan_update_12.2.2020.pdf
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm.
Bảng tổng hợp tiếp thu, giải trình ý kiến của các cơ quan, tổ chức về dự thảo luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/02/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ dự án Luật được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
05_Bang_tiep_thu_tong_hop_y_kien_gop_y_du_thao.xls
Xin vui lòng xem nội dung trong file đính kèm.
Báo cáo về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/02/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong hồ sơ dự án đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
04_Bao_cao_binh_dang_gioi.doc
Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và Quyết định số 842/QĐ-TTg ngày 8/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật thuộc Chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh năm 2020, Bộ Ngoại giao được phân công chủ trì soạn thảo dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT).
Thực hiện quy định tại Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015, Bộ Ngoại giao báo cáo về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật Thỏa thuận quốc tế như sau:
I. Quá trình xây dựng dự án Luật TTQT
Ngày 18/08/2017 và ngày 18/10/2017, Bộ Ngoại giao đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT năm 2007 (Pháp lệnh) tại Bà Rịa – Vũng Tàu và Hà Nội. Trên cơ sở các tham luận và trao đổi tại Hội nghị, Bộ Ngoại giao đã xây dựng Báo cáo tổng kết về những kết quả và hạn chế của Pháp lệnh trong thời gian 10 năm qua (Báo cáo số 5147/BC-BNG-LPQT kèm theo).
Theo quy trình xây dựng luật quy định tại Luật Ban hành VBQPPL, Bộ Ngoại giao đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật tại Quyết định số 2785/QĐ-BNG ngày 05/9/2019, gồm đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Nội vụ, Công an, Quốc phòng, Công Thương, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số đơn vị thuộc Bộ Ngoại giao. Ban soạn thảo đã tiến hành một số hoạt động như:
- Tổ chức một số phiên họp toàn thể Ban soạn thảo, Tổ biên tập để xin ý kiến của Ban soạn thảo về chủ trương, định hướng lớn của dự án Luật và ý kiến cụ thể đối với hồ sơ dự án Luật.
- Đề nghị các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cung cấp thông tin về quy định của pháp luật nước sở tại về ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là điều ước quốc tế (ĐƯQT), đồng thời tiến hành sưu tầm, dịch văn bản pháp luật của các nước và các tài liệu liên quan đến kinh nghiệm thực tiễn các nước trong ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT (Báo cáo về thực tiễn các quy định của một số quốc gia về việc ký kết và thực hiện văn bản hợp tác không phải là ĐƯQT kèm theo).
Ngày 08/01/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số 83/BNG-LPQT đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan cho ý kiến đối với Hồ sơ dự án Luật TTQT. Hồ sơ này cũng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao. Sau khi tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ Ngoại giao đã chỉnh sửa Hồ sơ nói trên.
Ngày /02/2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số /BNG-LPQT đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định Hồ sơ dự án Luật TTQT theo Điều 58 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015. Bộ Ngoại giao đã tiếp thu các ý kiến thẩm định trong Hồ sơ dự án Luật TTQT (Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định kèm theo).
Trong các hoạt động nêu trên, Bộ Ngoại giao với tư cách là cơ quan chủ trì soạn thảo đều quan tâm thực hiện việc lồng ghép bình đẳng giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới.
II. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật
1. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong việc thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật TTQT
Thực hiện quy định tại Điều 21 Luật Bình đẳng giới và các VBQPPL quy định chi tiết về lồng ghép giới trong xây dựng VBQPPL, Ban soạn thảo, Tổ biên tập của dự án Luật được xây dựng, cơ cấu với thành phần dựa trên ba yêu cầu cơ bản:
Một là, bảo đảm được quy định chung của Luật Ban hành VBQPPL;
Hai là, đáp ứng được những đặc thù về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự án Luật;
Ba là, đáp ứng được yêu cầu về lồng ghép giới trong thực hiện dự án Luật với sự tham gia của đại diện cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và chuyên gia về giới.
Bộ Ngoại giao đã thành lập Ban soạn thảo (20 đồng chí), Tổ biên tập (26 đồng chí) với sự tham gia của đại diện các bộ, ngành, cơ quan có liên quan gồm: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ Tòa án nhân dân tối cao...; trong đó có các cơ quan liên quan đến quản lý nhà nước về bình đẳng giới như: Bộ Tư pháp, Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ của Bộ Ngoại giao, Ban nữ công của Bộ Ngoại giao. Tỷ lệ nữ giới trong thành phần Ban soạn thảo, Tổ biên tập là 28/46 đồng chí, chiếm tỷ lệ 60,86%.
2. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các hoạt động xây dựng dự án Luật TTQT
Trong quá trình lấy ý kiến về dự án Luật, Bộ Ngoại giao thực hiện nghiêm túc việc tham vấn ý kiến của đại diện cơ quan, chuyên gia về giới như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã tổng hợp ý kiến và nghiên cứu để hoàn thiện dự thảo Luật.
Ngoài ra, Bộ Ngoại giao cũng tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm có sự tham gia của các nhà khoa học, chuyên gia; đăng tải dự thảo Luật trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Ngoại giao, Cổng thông tin điện tử của Chính phủ để lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác.
3. Nội dung lồng ghép bình đẳng giới trong dự thảo Luật TTQT
Về phạm vi điều chỉnh, dự thảo Luật này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện và tổ chức thực hiện TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước ở trung ương); Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan cấp tỉnh); đơn vị trực thuộc của cơ quan nhà nước ở trung ương, đơn vị trực thuộc của cơ quan cấp tỉnh (sau đây gọi là đơn vị trực thuộc); cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan trung ương của tổ chức). Do đó, dự án Luật TTQT điều chỉnh hành vi của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc và cơ quan trung ương của tổ chức trong quá trình ký kết và thực hiện TTQT, không điều chỉnh hành vi của cá nhân. Do đó, có thể nói yêu cầu về lồng ghép bình đẳng giới không cao như các văn bản quy phạm pháp luật khác. Qua rà soát, nội dung dự thảo Luật TTQT đã đáp ứng các nguyên tắc bình đẳng giới.
Mặc dù dự thảo Luật TTQT không trực tiếp điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của cá nhân, không có tác động trực tiếp đến vấn đề giới, tuy nhiên, dự thảo Luật TTQT có một số tác động gián tiếp đến vấn đề giới, thể hiện cụ thể như sau:
a) Dự thảo Luật tiếp tục kế thừa các quy định của Pháp lệnh về nguyên tắc ký kết và thực hiện TTQT và quy trình, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT, thể hiện tại Điều 4 dự thảo Luật.
Về nguyên tắc ký kết và thực hiện, cần đảm bảo phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, trong đó có Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy định chi tiết thi hành, đồng thời, cần đảm bảo phù hợp với ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên, trong đó có Công ước CEDAW về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, phù hợp với chủ trương, chính sách đối ngoại (trong đó có chủ trương tham dự các diễn đàn quốc tế liên quan đến bình đẳng giới). Đồng thời, Điều 8 dự thảo Luật quy định một trong các hành vi bị cấm là các hành vi vi phạm quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục trong ký kết và thực hiện TTQT được quy định tại VBQPPL chuyên ngành, trong đó có Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy định chi tiết thi hành.
b) Chương II dự thảo Luật quy định về quy trình, thủ tục ký kết các loại TTQT, theo đó, cơ quan đề xuất cần đánh giá tác động của TTQT dự định ký kết về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và các tác động khác. Như vậy, nếu TTQT có tác động về bình đẳng giới thì tác động này cần được cơ quan đề xuất đánh giá trước khi tiến hành ký kết TTQT. Đồng thời, dự thảo Luật cũng yêu cầu cơ quan đề xuất lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan trước khi quyết định ký TTQT. Do đó, trong trường hợp TTQT dự kiến ký có nội dung liên quan đến bình đẳng giới thì cơ quan đề xuất cần tham khảo ý kiến của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… Quy định này phù hợp với Luật Bình đẳng giới và gián tiếp có tác động tích cực trong việc bảo đảm bình đẳng giới.
c) Dự thảo Luật có Chương riêng quy định về trình tự, thủ tục rút gọn (Chương IV), theo đó, quy định các trường hợp được áp dụng thủ tục rút gọn đối với quy trình đề xuất ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, đơn vị trực thuộc và cơ quan trung ương của các tổ chức. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Pháp lệnh , được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy định của Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/8/2018 quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT điều chỉnh phù hợp với các loại TTQT được quy định tại Luật này nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện hội nhập quốc tế theo đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, giải quyết các khó khăn, vướng mắc đang gặp phải; rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT dưới một số điều kiện nhất định và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Thủ tục rút gọn này cho phép rút ngắn thời hạn cho ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan (từ 07 ngày làm việc xuống 04 ngày làm việc); rút ngắn 1 bước trong quy trình đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ là không cần thiết trình Chính phủ, Chủ tịch nước trước khi ký; giảm bớt tài liệu trong Hồ sơ lấy ý kiến về đề xuất ký (bỏ nội dung đánh giá sự tương thích với ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên trong cùng một lĩnh vực).
Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính này đã tạo điều kiện cho Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội, các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới (như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp) và các tổ chức liên quan trực tiếp đến bình đẳng giới như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam … tăng cường hợp tác về bình đẳng giới với các bên ký kết nước ngoài, qua đó nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, tận dụng được các cơ hội và nguồn lực để thực hiện bình đẳng giới.
d) d) Chương V dự thảo Luật quy định về Thực hiện TTQT bao gồm 4 điều, được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh , làm rõ hơn trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, Bộ Ngoại giao, đơn vị trực thuộc trong việc thực hiện TTQT và luật hóa các quy định của Chỉ thị số 22/CT-TTg về tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các cam kết, TTQT, theo đó quy định rõ trách nhiệm của đơn vị đầu mối về công tác TTQT của cơ quan nhà nước ở trung ương, đơn vị trực thuộc và cơ quan cấp tỉnh trong việc thực hiện TTQT. Theo đó, các cơ quan cần bảo đảm tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh TTQT do cơ quan đó đã ký kết, xây dựng Kế hoạch thực hiện TTQT, báo cáo về tình hình ký kết và thực hiện TTQT với cơ quan có thẩm quyền. Các quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với công tác ký kết và tổ chức thực hiện TTQT, đảm bảo phát huy hiệu quả nội dung hợp tác quốc tế với bên ký kết nước ngoài, trong đó bao gồm các TTQT về bình đẳng giới và các TTQT có liên quan.Các quy định trong dự thảo Luật không tạo ra bất kỳ sự phân biệt đối xử về giới, phù hợp với các quy định của Luật Bình đẳng giới, Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản luật có liên quan. Vì vậy, nếu các quy định này của dự thảo Luật được thông qua sẽ mang lại lợi ích cho xã hội rất lớn, góp phần thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới.
Trên đây là Báo cáo của Bộ Ngoại giao về việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo Luật TTQT./.
Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính trong dự thảo Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 19/02/2020
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ dự án Luật được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
03_Bao_cao_danh_gia_tac_dong_thu_tuc_hanh_chinh.doc
Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và Quyết định số 842/QĐ-TTg ngày 8/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật thuộc Chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh năm 2020, Bộ Ngoại giao được phân công chủ trì soạn thảo dự án Luật Thỏa thuận quốc tế (TTQT).
Thực hiện quy định tại Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015, Bộ Ngoại giao báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính trong dự thảo Luật TTQT như sau:
I. Thống kê các thủ tục hành chính trong dự thảo Luật TTQT
So với Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT năm 2007 (Pháp lệnh), dự thảo Luật TTQT giữ nguyên 07 thủ tục hành chính (sau đây viết tắt là TTHC), bổ sung thêm 07 TTHC mới, cụ thể bao gồm các TTHC mới về:
i) Đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ;
ii) Đề xuất ký TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
iii) Đề xuất ký TTQT liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức;
iv) Đề xuất ký TTQT về đầu tư;
v) Đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ theo thủ tục rút gọn;
vi) Đề xuất ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức theo thủ tục rút gọn;
vii) Đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo thủ tục rút gọn.
Các TTHC được bổ sung mới nhằm mục đích cụ thể hóa 02 chính sách lớn đã được Quốc hội thông qua tại giai đoạn Đề nghị xây dựng luật là Chính sách 2 “Mở rộng phạm vi chủ thể ký kết TTQT phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay” và Chính sách 4 “Đơn giản hóa trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT”.
Danh mục tổng hợp các TTHC được liệt kê trong Phụ lục kèm theo Báo cáo này.
II. Đánh giá tác động của các TTHC
1. Nhóm TTHC về đề xuất ký TTQT
a) Thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức
Dự thảo Luật kế thừa quy định của Pháp lệnh đối với thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức.
Điểm mới của dự thảo Luật là bổ sung về thời hạn gửi bản sao TTQT đã được ký kết đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Bộ Ngoại giao (thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày tổ chức việc ký kết). Việc quy định thời hạn này nhằm góp phần bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước về công tác TTQT, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức trong việc ký kết và thực hiện TTQT.
b) Thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ
Trên cơ sở hợp nhất các quy định tại Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/8/2018 quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT, Luật TTQT bổ sung thêm quy định về thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ, theo đó, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cần lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan. Cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến về đề xuất ký kết TTQT.
Hồ sơ lấy ý kiến và hồ sơ trình xin ý kiến về đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ tương tự như hồ sơ tương ứng của thủ tục ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức.
Về thời hạn, dự thảo Luật quy định tương tự thủ tục ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức.
c) Thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc
Trên cơ sở nhất trí của Quốc hội đối với Chính sách “Mở rộng phạm vi chủ thể ký kết TTQT phù hợp với chủ trương, nhu cầu và thực tiễn hợp tác quốc tế hiện nay” được kiến nghị tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, dự thảo Luật bổ sung TTHC về đề xuất ký TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật, đơn vị trực thuộc bao gồm vụ, văn phòng, thanh tra, cục, tổng cục, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; ban, văn phòng, các tổ chức sự nghiệp khác trực thuộc thuộc cơ quan thuộc Chính phủ; cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ủy ban nhân dân cấp huyện; các Ban của Hội đồng nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Hội đồng nhân dân cấp huyện.
Về thủ tục, đối với TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc, đơn vị trực thuộc cần lấy ý kiến đơn vị đầu mối về công tác TTQT của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động hợp tác thuộc TTQT. Trường hợp nội dung TTQT dự kiến ký kết có liên quan đến các vấn đề phức tạp, nhạy cảm về mặt đối ngoại, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao. Trường hợp nội dung TTQT dự kiến ký kết có liên quan đến các vấn đề, lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm về an ninh, quốc phòng, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh lấy ý kiến của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Sau khi hoàn thiện hồ sơ, đơn vị trực thuộc trình người đứng đầu cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh quyết định.
Về thời hạn, tương tự như các thủ tục đề xuất ký TTQT khác, cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến về đề xuất ký kết TTQT.
Về hồ sơ, thủ tục ký TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc, tương tự thủ tục ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức.
Việc quy định trình tự, thủ tục nêu trên làm tăng cường trách nhiệm của đơn vị đầu mối về công tác TTQT của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh; tăng cường phân cấp cho chính quyền địa phương (chỉ lấy ý kiến Bộ Ngoại giao trong trường hợp nội dung TTQT dự kiến ký kết có liên quan đến các vấn đề phức tạp, nhạy cảm); đảm bảo phù hợp với yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính.
d) Thủ tục đề xuất ký TTQT liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức
Quy định về thủ tục này nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động ký kết và thực hiện TTQT liên ngành, lĩnh vực, giải quyết được các khó khăn, vướng mắc gặp phải, tạo điều kiện để các cơ quan phát huy hiệu quả công tác hợp tác quốc tế.
Đối với loại TTQT này, trước khi lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan, các cơ quan, đơn vị, tổ chức cần thống nhất bằng văn bản chỉ định cơ quan, tổ chức đầu mối ký kết. Quy định này là cần thiết nhằm đảm bảo đơn giản hóa thủ tục hành chính, chỉ 01 cơ quan tiến hành các thủ tục đề xuất ký mà không phải tất cả cơ quan, đơn vị, tổ chức ký kết tiến hành thủ tục hành chính.
Về thời hạn, tương tự như các thủ tục đề xuất ký TTQT khác, cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến về đề xuất ký kết TTQT.
Về hồ sơ, thủ tục ký TTQT liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức quy định tương tự thủ tục ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức.
đ) Thủ tục đề xuất ký TTQT về đầu tư
Theo quy định tại khoản 8 Điều 3, TTQT về đầu tư là cam kết bằng văn bản giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài liên quan đến việc chuẩn bị, bắt đầu hoặc tiếp tục đầu tư tại Việt Nam, bao gồm cả cam kết dành ưu đãi cho nhà đầu tư.
Việc quy định thêm thủ tục cho các TTQT về đầu tư nhằm mục đích tránh việc các địa phương ký TTQT phát sinh tranh chấp về đầu tư hoặc hạn chế phạm vi quyết định chính sách của Chính phủ, Nhà nước. Thực tế trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số vụ tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài. Các tranh chấp này có thể phát sinh do cam kết của các địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các TTQT được ký kết.
Về thủ tục, ngoài việc tuân theo các quy định tại các Điều 10, 18, 20 và 22 của Luật này, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước khi quyết định việc ký kết TTQT.
e) Thủ tục đề xuất ký TTQT theo thủ tục rút gọn
Trên thực tế, Bộ Ngoại giao nhận thấy xảy ra nhiều trường hợp phát sinh đột xuất nhu cầu ký kết TTQT với đối tác nước ngoài mà không có kế hoạch từ trước và căn cứ nhu cầu đối ngoại, theo quyết định của các cấp có thẩm quyền, đặc biệt là trong các chuyến thăm cấp cao của Việt Nam ra nước ngoài hay nhân dịp đối tác nước ngoài thăm và làm việc tại Việt Nam, sáng kiến các nước đưa ra tại các diễn đàn song phương và đa phương đòi hỏi phải có quyết định ngay. Khi xảy ra tình trạng như vậy, các cơ quan đề xuất không thể thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục ký kết quy định tại Pháp lệnh do không bảo đảm về mặt thời gian. Trong khi đó, việc không nắm bắt kịp thời cơ hội hợp tác với đối tác nước ngoài, không tham gia được vào quá trình tăng cường hợp tác quốc tế trên các cơ chế song phương, khu vực, đa phương sẽ không bảo đảm phục vụ tối ưu lợi ích của đất nước, nhiệm vụ và lợi ích của cơ quan, tổ chức, địa phương của Việt Nam, chưa bảo đảm triển khai chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế.
Dự thảo Luật bổ sung TTHC về đề xuất ký TTQT theo thủ tục rút gọn trong 02 trường hợp:
- Đề xuất ký kết thỏa thuận nhân danh Chính phủ, Nhà nước trong trường hợp việc ký, thông qua, sửa đổi, bổ sung, tạm đình chỉ thực hiện, chấm dứt hiệu lực TTQT phù hợp với chủ trương, đề án đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kiến nghị cấp có thẩm quyền và được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Cần phải xử lý gấp do yêu cầu về chính trị, đối ngoại; Bên hoặc các bên nước ngoài không yêu cầu giấy ủy quyền cho việc ký thỏa thuận.
- Đề xuất ký kết TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức trong trường hợp đáp ứng một trong các điều kiện như sau: i) Được cơ quan có thẩm quyền cho phép ký nhân dịp đoàn cấp cao Việt Nam tại nước ngoài hoặc của đoàn cấp cao nước ngoài tại Việt Nam; ii) Cần phải xử lý gấp do yêu cầu về chính trị đối ngoại. Theo đó, thời hạn các cơ quan được lấy ý kiến phải trả lời bằng văn bản trong thời hạn 04 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ (so với thủ tục thông thường là 07 ngày làm việc).
Về hồ sơ, văn bản đề xuất ký không cần bao gồm nội dung đánh giá sự phù hợp của nội dung của TTQT đối với các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên trong cùng lĩnh vực và/hoặc TTQT đã được ký kết.
Từ những phân tích nêu trên, việc giữ nguyên TTHC về đề xuất ký TTQT nhân danh Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức; bổ sung thủ tục đề xuất ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ, đơn vị trực thuộc, TTQT liên quan nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, TTQT về đầu tư và thủ tục đề xuất ký TTQT theo thủ tục rút gọn là cần thiết, hợp pháp và hợp lý, tạo điều kiện phát huy hiện quả công tác TTQT.
2. Nhóm TTHC về sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT
Ngoài việc giữ nguyên các thủ tục về sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT, dự thảo Luật bổ sung thủ tục đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo thủ tục rút gọn.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT hoàn toàn mang tính chất kỹ thuật như gia hạn thời hạn hiệu lực của TTQT, thay đổi cơ quan đầu mối thực hiện TTQT nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Pháp lệnh. Việc thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo các quy định của Pháp lệnh là không cần thiết, gây tốn kém về chi phí, nhân sự và lãng phí thời gian.
Dự thảo Luật quy định thủ tục rút gọn theo hướng cơ quan đề xuất không nhất thiết phải lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan. Trong trường hợp được lấy ý kiến, cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 04 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến.
Việc bổ sung thủ tục đề xuất sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT theo thủ tục rút gọn là cần thiết, hợp pháp và hợp lý nhằm giải quyết các bất cập trên thực tế.
3. Nhóm TTHC về chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện TTQT
TTHC về chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện TTQT cơ bản giữ nguyên như trong Pháp lệnh .
Theo đó, thời hạn các cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ lấy ý kiến.
Việc giữ nguyên TTHC về chấm dứt hiệu lực hoặc tạm đình chỉ thực hiện TTQT là cần thiết, hợp pháp và hợp lý, tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan đề xuất ký kết TTQT thực hiện.
Trên đây là Báo cáo đánh giá tác động thủ tục hành chính trong dự thảo Luật TTQT của Bộ Ngoại giao./.
Tờ trình dự án Luật Thỏa thuận quốc tế
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 31/01/2020
Số hiệu:
Mô tả:
TotrinhBNG_(1).doc
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ
Pháp lệnh về ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế (Pháp lệnh) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20/04/2007 đã thực hiện tốt vai trò là cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế (TTQT) . Kể từ ngày Pháp lệnh có hiệu lực thi hành (ngày 01/07/2007) cho đến thời điểm hiện tại, theo số liệu ghi nhận tại Bộ Ngoại giao, các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của các tổ chức đã ký kết tổng cộng 1978 TTQT, trong đó các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ký 1061 TTQT, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký 720 TTQT. Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thực thi Pháp lệnh (Báo cáo tổng kết kèm theo) cho thấy, Pháp lệnh này cùng với pháp luật về ĐƯQT (Luật Điều ước quốc tế (ĐƯQT) năm 2016 thay thế cho Luật Ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 2005 ) đã phục vụ tích cực cho việc triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời gian qua. Các TTQT (không phải ĐƯQT) được ký kết và triển khai trên nhiều kênh, bao gồm các chủ thể được quy định tại Pháp lệnh (Quốc hội, các cơ quan thuộc Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cơ quan cấp tỉnh, cơ quan cơ quan trung ương của các tổ chức nhân dân), và cả cấp đơn vị trực thuộc cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan cấp tỉnh. Nội dung hợp tác theo các TTQT trải rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác nước ngoài khác nhau. Việc ký kết và thực hiện các TTQT thời gian qua đã thúc đẩy hợp tác quốc tế giữa các cấp, các ngành, các tổ chức của nước ta với các đối tác nước ngoài, góp phần không chỉ thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, qua nhiều kênh, mà còn góp phần giải quyết những vấn đề quan trọng, phức tạp như bảo vệ chủ quyền biển đảo, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, qua đó tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác nước ngoài cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, triển khai nhiều chương trình kinh tế, xã hội, trong đó có xóa đói, giảm nghèo, khắc phục thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, phục vụ công cuộc bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, xã hội của ta, thúc đẩy hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới, nâng cao vị thế của nước ta. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Pháp lệnh cũng cho thấy có một số bất cập do có những vấn đề phát sinh hoặc do thay đổi quy định pháp luật có liên quan, đặt ra yêu cầu hoàn thiện quy định về TTQT.
Việc ban hành Luật TTQT là cần thiết vì những lý do cơ bản sau:
1. Việc ban hành Luật TTQT là cần thiết nhằm tạo cơ sở cho việc thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế. Chủ trương hội nhập quốc tế (không chỉ gồm hội nhập kinh tế quốc tế) được định tại Điều 12 Hiến pháp năm 2013 . Chủ trương của Đảng về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đã được nêu rõ trong nhiều văn bản của Đảng, nhất là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng và Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016, trong đó nhấn mạnh trọng tâm thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định kinh tế - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
2. Một số bất cập trong pháp luật hiện hành đòi hỏi có giải pháp khắc phục.
Thứ nhất, một số quy định mới được ban hành có liên quan đến ký kết và thực hiện TTQT.
- Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn thống nhất quản lý nhà nước về đối ngoại và hội nhập quốc tế (khoản 1 Điều 22), phù hợp quy định của Hiến pháp năm 2013 (khoản 3 Điều 96). Theo đó, Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ quy định bộ, cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ, quyền hạn ký kết và tổ chức thực hiện TTQT theo quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế (Điều 8).
- Luật ĐƯQT 2016 (thay thế cho Luật Ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 2005), quy định thêm tiêu chí cụ thể về khái niệm ĐƯQT, đó là “làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm quyền, nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế” (Điều 2.1 Luật ĐƯQT 2016). Các TTQT được ký kết với danh nghĩa Nhà nước hay Chính phủ mà không là ĐƯQT thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật ĐƯQT 2016, và cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh TTQT (thực tiễn các TTQT này xem tại mục 2 dưới đây).
Ngày 24/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT, có hiệu lực kể từ ngày 10/10/2018 (Quyết định số 36/2018 của Thủ tướng Chính phủ); văn bản hướng dẫn này mang tính chất tạm thời trong lúc chờ Pháp lệnh TTQT được nâng lên thành Luật.
- Luật Quản lý nợ công 2017 (thay thế Luật Quản lý nợ công 2009), cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật này có quy định riêng cho ký kết, thực hiện thỏa thuận về vay nợ nước ngoài, trong đó có nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của các nhà tài trợ nước ngoài (ODA) và vay ưu đãi của nước ngoài.
- Bên cạnh đó, quy định về việc ký kết và thực hiện văn bản ghi nhớ, thỏa thuận viện trợ phi Chính phủ nước ngoài được quy định tại Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài (trước đó là Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ).
Thứ hai, một số bất cập của Pháp lệnh dẫn đến khó khăn trong triển khai công tác TTQT đòi hỏi có quy định rõ ràng hơn, cụ thể gồm các bất cập sau đây:
- Pháp luật hiện hành chưa quy định về việc ký kết TTQT (văn bản hợp tác quốc tế) của đơn vị trực thuộc. Thực tế, một số đơn vị trực thuộc bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đã ký kết nhiều văn bản hợp tác để thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cụ thể, đáp ứng yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao và báo cáo từ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, từ ngày Pháp lệnh TTQT có hiệu lực đến ngày 31/12/2018, có tổng cộng 2.983 văn bản hợp tác quốc tế cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc, trong đó có 1.558 văn bản hợp tác quốc tế cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, và 1.425 văn bản thỏa thuận hợp tác cụ thể được ký kết nhân danh đơn vị trực thuộc UBND cấp tỉnh.
- Nội dung TTQT quy định tại Pháp lệnh còn chưa rõ ràng, do đó còn khó khăn trong việc phân biệt TTQT với ĐƯQT, hợp đồng/thỏa thuận giao dịch thương mại hàng hóa hoặc đầu tư. Nội dung có thể đưa vào TTQT không phải ĐƯQT – bao gồm các nội dung hợp tác trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Việt Nam với một hoặc nhiều bên ký kết nước ngoài (theo khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh), thực tế thường mang tính chất cam kết chính trị về quan hệ hợp tác, hữu nghị. Đồng thời, về nguyên tắc, nội dung TTQT phải bảo đảm không bao gồm “nội dung thuộc quan hệ cấp Nhà nước, Chính phủ” (theo các điểm từ a - đ khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh), không làm phát sinh nghĩa vụ đối với Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và chỉ có giá trị ràng buộc đối với cơ quan ký kết TTQT (theo Điều 4 của Pháp lệnh).
Nội dung không thuộc phạm vi TTQT quy định tại các điểm từ a – đ khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh TTQT đều thuộc quan hệ cấp Nhà nước, Chính phủ, thực chất là nội dung phải thuộc ĐƯQT, “làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế” (theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật ĐƯQT 2016). Trên thực tế, nhiều TTQT được ký kết bao gồm nội dung liên quan gián tiếp tới nội dung hợp tác thuộc khuôn khổ ĐƯQT, nhằm cụ thể hóa về việc triển khai các cam kết, ĐƯQT ở cấp Nhà nước, Chính phủ (như TTQT song phương với một số nước về hợp tác tăng cường năng lực trong lĩnh vực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hoặc TTQT giữa các tỉnh biên giới về hợp tác quản lý biên giới, thúc đẩy thương mại vùng biên…).
Ngoài ra, trên thực tế còn có các thỏa thuận/hợp đồng mang tính chất ràng buộc pháp lý theo pháp luật quốc gia trong lĩnh vực chuyên ngành như về thương mại, đầu tư, vay nợ nước ngoài.
Thứ ba, Pháp lệnh chưa quy định trình tự rút gọn cho trường hợp gấp trong khi bảo đảm các yêu cầu về ký kết TTQT; cũng chưa quy định trình tự đề xuất, ký kết và thực hiện các TTQT hợp tác liên ngành, hoặc liên tỉnh, liên thành phố gồm từ ba bộ, ngành, hoặc ba tỉnh, thành phố trở lên. Đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh hiện nay chủ yếu là TTQT hợp tác đơn ngành thuộc phạm vi phụ trách của một bộ, ngành hoặc một địa phương. Pháp lệnh cũng chưa tính đến các trường hợp cần ký gấp TTQT cần có thủ tục rút gọn để phục vụ yêu cầu đối ngoại, bảo đảm lợi ích quốc gia mà mới quy định thủ tục chung áp dụng cho tất cả các trường hợp ký kết TTQT.
Thứ tư, về cấp hiệu lực của văn bản, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành nhưng điều chỉnh cả việc ký kết và thực hiện TTQT nhân danh Quốc hội. Thời gian tới, nếu được cho phép mở rộng về chủ thể ký kết, thì văn bản này cần điều chỉnh cả việc ký kết và thực hiện TTQT danh nghĩa Nhà nước. Do vậy, văn bản ở cấp hiệu lực của Pháp lệnh hiện nay là chưa thực sự phù hợp mà cần nâng lên thành Luật. Mặt khác, Pháp lệnh hiện hành đã được thực hiện hơn 10 năm nên có đã đủ cơ sở tổng kết, đánh giá về sự cần thiết và tính tương thích của các quy định với đời sống thực tế để đưa vào Luật.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ
1. Mục đích
Việc xây dựng Luật TTQT nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về công tác ký kết và thực hiện các văn bản hợp tác quốc tế không là ĐƯQT, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật; quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong công tác TTQT; bảo đảm triển khai và quản lý một cách thống nhất, nâng cao hiệu quả ký kết, thực hiện TTQT, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, cả về công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm và nguồn vốn của các nước và tổ chức quốc tế phục vụ công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.
2. Quan điểm chỉ đạo
- Nội dung của Luật quy định về công tác TTQT phải phù hợp với Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
- Phải thể chế hóa chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế, đặc biệt là Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đồng thời, phải bảo đảm không phình bộ máy, tăng biên chế theo chủ trương tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Việc xây dựng Luật phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh TTQT; phải kế thừa và phát huy các quy định còn giá trị của Pháp lệnh TTQT và Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; khắc phục những bất cập trong thực tiễn thời gian qua, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
- Phải tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối ngoại ở tất cả các kênh Quốc hội, Nhà nước, nhân dân giữa nước ta và các nước, tổ chức quốc tế, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phát huy nội lực, tranh thủ các nguồn lực ở bên ngoài, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước trong giai đoạn mới hội nhập sâu rộng.
- Trong quá trình xây dựng Luật, để bảo đảm chất lượng, tính khả thi của dự án Luật, cần tham khảo rộng rãi, thực chất ý kiến tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN
Ngày 18/08/2017 và ngày 18/10/2017, Bộ Ngoại giao đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh tại Bà Rịa – Vũng Tàu và Hà Nội. Trên cơ sở các tham luận và trao đổi tại Hội nghị, Bộ Ngoại giao đã xây dựng Báo cáo tổng kết về những kết quả và hạn chế của Pháp lệnh trong thời gian 10 năm qua (Báo cáo số 5147/BC-BNG-LPQT kèm theo).
Theo quy trình xây dựng luật quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Ngoại giao đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật tại Quyết định số 2785/QĐ-BNG ngày 05/9/2019, gồm đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Nội vụ, Công an, Quốc phòng, Công Thương, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số đơn vị thuộc Bộ Ngoại giao. Ban soạn thảo đã tiến hành một số hoạt động như:
- Tổ chức một số phiên họp toàn thể Ban soạn thảo, Tổ biên tập để xin ý kiến của Ban soạn thảo về chủ trương, định hướng lớn của dự án Luật và ý kiến cụ thể đối với hồ sơ dự án Luật.
- Đề nghị các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam và cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cung cấp thông tin về quy định của pháp luật nước sở tại về ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT, đồng thời tiến hành sưu tầm, dịch văn bản pháp luật của các nước và các tài liệu liên quan đến kinh nghiệm thực tiễn các nước trong ký kết và thực hiện thỏa thuận không phải là ĐƯQT (Báo cáo về thực tiễn các quy định của một số quốc gia về việc ký kết và thực hiện văn bản hợp tác không phải là ĐƯQT kèm theo).
- Tổ chức Đoàn khảo sát liên ngành nhằm đánh giá tình hình thực hiện các quy định của Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT năm 2007, Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg, các kết quả đạt được và khó khăn vướng mắc, nguyên nhân và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về công tác TTQT (bao gồm TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ không là ĐƯQT do Bộ Quốc phòng chủ trì đề xuất, thực hiện; TTQT nhân danh Bộ Quốc phòng; văn bản hợp tác quốc tế cụ thể nhân danh đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng).
Ngày / /2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số /BNG-LPQT đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức có liên quan cho ý kiến đối với Hồ sơ dự án Luật TTQT. Hồ sơ này cũng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao. Sau khi tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ Ngoại giao đã chỉnh sửa Hồ sơ nói trên (Bảng tổng hợp ý kiến kèm theo).
Ngày / /2020, Bộ Ngoại giao đã có Công văn số /BNG-LPQT đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định Hồ sơ dự án Luật TTQT theo Điều 58 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Bộ Ngoại giao đã tiếp thu các ý kiến thẩm định trong Hồ sơ dự án Luật TTQT (Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định kèm theo).
III. TÊN GỌI, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ, TÍNH TƯƠNG THÍCH VỚI ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN
1. Tên gọi
Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 13/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ đề ra kế hoạch xây dựng “Luật về ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế”. Bộ Ngoại giao đề xuất lấy tên Luật là “Luật Thỏa thuận quốc tế” vì tên gọi này ngắn gọn và hàm ý bao quát mọi vấn đề liên quan đến ký kết và thực hiện TTQT, phù hợp với mục đích và nội dung dự kiến xây dựng Luật. Đây cũng là kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình xây dựng Luật ĐƯQT năm 2016.
2. Phạm vi điều chỉnh
a. Đề xuất tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật
Tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, Bộ Ngoại giao đề xuất Luật này sẽ quy định về ký kết và tổ chức thực hiện TTQT nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương; cơ quan cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), cơ quan trung ương của tổ chức, kế thừa quy định tại Pháp lệnh TTQT. Đồng thời, Luật sẽ bổ sung nội dung: (i) hợp nhất hóa quy định của Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg điều chỉnh TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ; (ii) quy định việc ký kết và thực hiện TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh với đối tác nước ngoài trên cơ sở đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế và quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực, khu vực cụ thể theo quy định của pháp luật.
b. Chủ thể ký kết TTQT tại dự thảo Luật
Theo Pháp lệnh TTQT, cơ quan nhà nước ở trung ương bao gồm cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Qua rà soát, nghiên cứu các ý kiến của cơ quan, tổ chức liên quan, trên cơ sở báo cáo của các bộ, cơ quang ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội về việc ký kết các văn bản hợp tác quốc tế của đơn vị trực thuộc, báo cáo công tác ký kết, thực hiện ĐƯQT, TTQT hàng năm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, Bộ Ngoại giao nhận thấy nhu cầu ký kết văn bản hợp tác quốc tế của đơn vị trực thuộc cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước rất ít. Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là các cơ quan lập pháp, không có bộ máy hành chính giúp việc như UBND tỉnh. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước do đặc thù cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của ngành, việc thực hiện hợp tác quốc tế cần được tiến hành tập trung, không nên phân cấp.
Trên cơ sở thống nhất ý kiến của Ban soạn thảo dự án Luật, hợp nhất Quyết định 36/2018/QĐ-TTg và trên cơ sở đánh giá tác động của chính sách Mở rộng chủ thể ký kết TTQT đã được Quốc hội thống nhất tại giai đoạn Đề nghị xây dựng Luật, tiếp thu ý kiến thẩm tra của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội tại Báo cáo thẩm tra số 3362/BC-UBĐN14 ngày 25/3/2019, theo đó, để “đảm bảo không chồng chéo với các luật hiện hành cũng như không để khoảng trống pháp lý quy định về trình tự, thủ tục ký kết, thực hiện một số TTQT”, đảm bảo tính dự báo của văn bản quy phạm pháp luật, phạm vi điều chỉnh của dự thảo này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết và tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế nhân danh Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước ở Trung ương); Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan cấp tỉnh); đơn vị trực thuộc của các cơ quan nhà nước ở trung ương, đơn vị trực thuộc của cơ quan cấp tỉnh; cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan Trung ương của tổ chức).
c. Khái niệm “Thỏa thuận quốc tế”
Trong quá trình xây dựng Luật, có ý kiến cho rằng Luật cần làm rõ hơn nội hàm của khái niệm “thỏa thuận quốc tế”. Dự thảo Luật và Pháp lệnh năm 2007 đều quy định TTQT là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế được ký kết nhân danh cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh, cơ quan trung ương của tổ chức trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình với một hoặc nhiều bên ký kết nước ngoài. Việc giải thích về thuật ngữ “hợp tác quốc tế” là cần thiết để phân biệt TTQT với các loại hình hợp tác khác mang tính chất dân sự, thương mại v.v. Theo nghĩa hẹp, hợp tác quốc tế là thuật ngữ để chỉ quan hệ hợp tác với đối tác nước ngoài nhằm mục đích công, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao, phục vụ đối ngoại của đất nước.
Trường hợp giải thích khái niệm này trong dự thảo Luật: mặt thuận của phương án này là sẽ khoanh vùng được rõ ràng phạm vi điều chỉnh của Luật, loại bỏ các trường hợp cam kết bằng văn bản với đối tác nước ngoài nhằm mục đích dân sự, thương mại v.v. của các cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh và những cam kết do các hội ký với các đối tác nước ngoài nhằm mục đích tư, tạo thuận lợi cho việc áp dụng Luật. Chỉ những TTQT có mục đích công, cần phải quản lý về mặt đối ngoại mới thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Tuy nhiên, việc đưa khái niệm này vào dự thảo Luật sẽ gặp khó khăn vì chưa có văn bản nào quy định khái niệm hợp tác quốc tế. Khái niệm này được đại đa số hiểu chung, đơn thuần là quan hệ hợp tác với một đối tác có quốc tịch nước ngoài bất kỳ. Hơn nữa, việc đưa khái niệm này gắn với mục đích công sẽ loại trừ các TTQT do cơ quan trung ương của các tổ chức hội ký kết (trừ trường hợp các tổ chức có kinh phí hoạt động lấy từ ngân sách nhà nước và được Nhà nước giao trách nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể). Nghị định 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội chỉ quy định các hội ký kết, thực hiện TTQT theo quy định của pháp luật. Nếu loại trừ các TTQT do cơ quan trung ương của các tổ chức ký kết không phải mục đích công trong phạm vi điều chỉnh của Luật TTQT sẽ tạo khoảng trống pháp lý đối với công tác ký kết và thực hiện cam kết quốc tế của các hội này.
Trường hợp không giải thích khái niệm này trong dự thảo Luật: Luật không loại trừ một cách rõ ràng được các trường hợp cam kết bằng văn bản với đối tác nước ngoài nhằm mục đích dân sự, thương mại, đầu tư v.v. và những cam kết do các hội ký với các đối tác nước ngoài nhằm mục đích tư. Tuy nhiên dự thảo Luật sẽ ít gây tranh cãi về mặt thuật ngữ. Ban soạn thảo nhận thấy chỉ những TTQT cần phải quản lý nhà nước về mặt đối ngoại, phục vụ mục đích công thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật.
Trên cơ sở đó, Ban soạn thảo xin kiến nghị chọn phương án không giải thích khái niệm “hợp tác quốc tế” trong dự thảo Luật TTQT.
d. Các TTQT về vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, viện trợ phi chính phủ nước ngoài
Các TTQT này cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Tuy nhiên, do các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đã có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện (Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2016 về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, Nghị định số 132/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 16/2016/NĐ-CP về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài), Luật quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết và tổ chức thực hiện TTQT về vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, viện trợ phi chính phủ nước ngoài tuân theo các quy định tại Luật này và pháp luật chuyên ngành (khoản 3 Điều 2). Trường hợp Luật này và pháp luật liên quan không mâu thuẫn, áp dụng theo nguyên tắc hai văn bản bổ sung cho nhau, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước. Trường hợp quy định chồng chéo, không đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước, cần có điều chỉnh ở văn bản phù hợp (không nhất thiết quy định tại Luật TTQT).
3. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam; cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến công tác TTQT, kế thừa Pháp lệnh TTQT.
4. Sự tương thích của nội dung dự án Luật Thỏa thuận quốc tế với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
Luật này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT là các quy định nội bộ của Việt Nam. Đồng thời, qua rà soát cơ sở dữ liệu về ĐƯQT do Bộ Ngoại giao quản lý, không có ĐƯQT nào có liên quan về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT của Việt Nam. Do đó, Luật này không có nội dung trái với các ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên.
IV. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA DỰ ÁN LUẬT THỎA THUẬN QUỐC TẾ
Dự thảo Luật gồm 7 Chương, 43 điều, trong đó kế thừa Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT và Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg tổng cộng 8 điều, bổ sung thêm 14 điều mới, sửa đổi, bổ sung 21 Điều của Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT và Quyết định 36, thay đổi số thứ tự các điều cho phù hợp với bố cục mới của dự thảo Luật. Các quy định của Luật được sắp xếp theo trình tự của hoạt động ký kết TTQT, từ thẩm quyền quyết định, thủ tục ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, tổ chức thực hiện TTQT và trách nhiệm của các cơ quan trong việc ký kết và thực hiện TTQT. Nội dung cụ thể như sau:
1. Những quy định chung
Chương I (Những quy định chung) gồm 8 điều, bao gồm các quy định về phạm vi điều chỉnh, nội dung của TTQT, các nguyên tắc ký kết và thực hiện TTQT, hoạt động giám sát việc ký kết và thực hiện TTQT, ngôn ngữ, hình thức của TTQT.
a. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết và tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế nhân danh Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ, cơ quan của Quốc hội, cơ quan giúp việc của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước ở Trung ương); Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan cấp tỉnh); đơn vị trực thuộc của các cơ quan nhà nước ở trung ương, đơn vị trực thuộc của cơ quan cấp tỉnh; cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan Trung ương của tổ chức) (Điều 1).
b. Giải thích từ ngữ
Luật làm rõ hơn khái niệm TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ và TTQT về đầu tư.
TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế không phải là ĐƯQT, nội dung thể hiện ý định, cam kết, nhận thức chung, sự nhất trí về hợp tác và có thể dẫn chiếu ĐƯQT và văn kiện quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên, không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế và tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam (khoản 1 Điều 3).
Luật bổ sung khái niệm Thỏa thuận quốc tế về đầu tư là cam kết bằng văn bản giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài liên quan đến việc chuẩn bị, bắt đầu hoặc tiếp tục đầu tư tại Việt Nam, trong đó có thể bao gồm các cam kết dành ưu đãi cho nhà đầu tư (khi ký các TTQT này, cơ quan đề xuất cần xin ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Phù hợp với các khái niệm này, khái niệm về “bên ký kết nước ngoài” cũng được mở rộng, theo đó bao gồm cả Nhà nước, Chính phủ và các đơn vị trực thuộc của các bộ, ngành nước ngoài.
c. Các hành vi bị cấm trong hoạt động ký kết và thực hiện TTQT
Nhằm tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan cấp tỉnh về quản lý nhà nước đối với ký kết và thực hiện TTQT trong lĩnh vực phụ trách, TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc, đồng thời nhằm mục đích xử lý các vi phạm quy định về ký kết và thực hiện TTQT, Luật bổ sung quy định mới về các hành vi bị cấm trong hoạt động ký kết và thực hiện TTQT, bao gồm: i) Các hành vi vi phạm nguyên tắc ký kết và thực hiện TTQT được quy định tại Điều 4 Luật này; ii) Các hành vi vi phạm trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT được quy định tại Luật này; iii) Các hành vi vi phạm thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện TTQT được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành; iv) Không thực hiện các quy định về trách nhiệm trong ký kết và thực hiện TTQT được quy định tại Luật này (Điều 8).
d. Hình thức chấp nhận sự ràng buộc của TTQT
Luật bỏ hình thức “trao đổi văn kiện tạo thành TTQT” và “hình thức khác” do trên thực tế, qua quá trình tổng kết hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh, không có TTQT nào được ký kết dưới hai hình thức này.
e. Các quy định kế thừa Pháp lệnh TTQT 2007
Nội dung quy định về nguyên tắc ký kết và thực hiện TTQT, hoạt động giám sát việc ký kết và thực hiện TTQT, ngôn ngữ, hình thức của TTQT được kế thừa các quy định tại Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT.
2. Ký kết thỏa thuận quốc tế
Chương II (Ký kết thỏa thuận quốc tế) bao gồm 17 điều quy định về thẩm quyền, thủ tục ký kết, hồ sơ lấy ý kiến và hồ sơ trình về đề xuất ký kết, bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan trong việc cho ý kiến đề xuất ký TTQT và việc ký kết TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao.
a. Về trình tự, thủ tục ký kết áp dụng chung với các loại TTQT
Đối với thẩm quyền, thủ tục, hồ sơ trình về đề xuất ký kết TTQT, Luật này kế thừa các quy định của Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT và hợp nhất các quy định của Quyết định 36/2018/QĐ-TTg đối với các TTQT được ký nhân danh Nhà nước, Chính phủ. Luật bổ sung thêm quy định trường hợp thỏa thuận quốc tế có liên quan đến an ninh, quốc phòng, Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ gửi hồ sơ lấy ý kiến của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng (theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 35/2011/NĐ-CP về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội) và luật hóa quy định tại Chỉ thị 22/CT-TTg năm 2017 về tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực hiện cam kết, thỏa thuận quốc tế do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
b. Thủ tục đối với các TTQT liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị
Điểm mới của Luật là bổ sung thêm quy định về thủ tục đối với các TTQT liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức để giải quyết các vướng mắc, bất cập như đã nêu tại Mục I.
c. Thủ tục đối với TTQT của đơn vị trực thuộc
Khác với các loại TTQT khác, đề xuất ký kết TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc không nhất thiết phải lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao. Điều 15 Luật quy định đơn vị trực thuộc cần gửi hồ sơ lấy ý kiến đơn vị đầu mối về công tác TTQT của cơ quan chủ quản và cơ quan, tổ chức có liên quan về việc ký kết TTQT. Trường hợp nội dung TTQT dự kiến ký kết có liên quan đến các vấn đề phức tạp, nhạy cảm về mặt đối ngoại, cơ quan chủ quản của đơn vị trực thuộc cần lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao. Trường hợp nội dung TTQT dự kiến ký kết có liên quan đến các vấn đề, lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm về an ninh, quốc phòng, cơ quan chủ quản của đơn vị trực thuộc cần lấy ý kiến của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Sau khi hoàn thiện hồ sơ trên cơ sở các góp ý, cơ quan đề xuất trình cơ quan chủ quản quyết định. Trên cơ sở quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan chủ quản, cơ quan đề xuất tổ chức việc ký kết TTQT.
d. Thủ tục đối với TTQT về đầu tư
Luật bổ sung điều mới quy định về TTQT về đầu tư, theo đó, cơ quan đề xuất có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định việc ký TTQT (Điều 18).
e. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và cơ quan hữu quan trong việc ký kết TTQT
Nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý nhà nước về ký kết và thực hiện TTQT, Luật bổ sung 02 điều quy định về trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và trách nhiệm của cơ quan hữu quan trong việc cho ý kiến về đề xuất ký TTQT, theo đó làm rõ thời hạn cho ý kiến và các nội dung cụ thể cần cho ý kiến đối với đề xuất ký TTQT (Điều 21 và Điều 22).
f. Rà soát và ủy quyền ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ
Trên cơ sở hợp nhất các quy định của Quyết định 36/2018/QĐ-TTg, đồng thời do tính chất của các thỏa thuận nhân danh Nhà nước, Chính phủ là các cam kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ, Luật bổ sung thêm 02 điều quy định về ủy quyền ký TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ và rà soát, đối chiếu văn bản TTQT nhân danh Nhà nước, Chính phủ trước khi ký.
g. Ký kết TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao
Trong thời gian qua, Bộ Ngoại giao đã chủ trì, phối hợp hiệu quả với các bộ, ngành cũng như UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc rà soát văn bản, tổ chức lễ ký kết các văn kiện hợp tác trong chuyến thăm của đoàn cấp cao Việt Nam tại nước ngoài hoặc của đoàn cấp cao nước ngoài tại Việt Nam (trung bình mỗi năm Bộ Ngoại giao đã chủ trì, phối hợp rà soát hơn 100 văn bản được ký kết trong chuyến thăm của đoàn cấp cao). Từ thực tiễn nêu trên, Luật bổ sung quy định về Ký TTQT trong chuyến thăm của đoàn cấp cao (Điều 25), tương tự như quy định tại Luật ĐƯQT năm 2016.
3. Hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, gia hạn thỏa thuận quốc tế
Chương III (Hiệu lực, bổ sung, gia hạn thỏa thuận quốc tế) bao gồm 03 điều, trong đó chủ yếu kế thừa các quy định của Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT.
Điều 28 bổ sung thêm trường hợp chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện TTQT là khi xảy ra một trong các hành vi quy định tại Điều 8 (Các hành vi bị cấm) của Luật này nhằm đảm bảo các trường hợp việc ký kết TTQT vi phạm về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và vi phạm văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành sẽ được chấm dứt hiệu lực.
4. Trình tự, thủ tục rút gọn
Chương IV (Trình tự, thủ tục rút gọn) bao gồm 3 điều quy định về các trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn trong việc ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT và trình tự, thủ tục thực hiện. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT, được xây dựng trên cơ sở vận dụng các quy định của Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg điều chỉnh phù hợp với các loại TTQT được quy định tại Luật này nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức chủ động, tích cực thực hiện hội nhập quốc tế theo đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, giải quyết các khó khăn, vướng mắc đang gặp phải; rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình ký, sửa đổi, bổ sung, gia hạn TTQT dưới một số điều kiện nhất định và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
5. Thực hiện thỏa thuận quốc tế
Chương V (Thực hiện thỏa thuận quốc tế) bao gồm 3 điều, được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT, làm rõ hơn trách nhiệm của Bộ Ngoại giao trong việc thực hiện TTQT và luật hóa các quy định của Chỉ thị số 22/CT-TTg về tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các cam kết, TTQT, theo đó quy định rõ trách nhiệm của đơn vị đầu mối về công tác TTQT của cơ quan nhà nước ở trung ương, đơn vị trực thuộc và cơ quan cấp tỉnh trong việc thực hiện TTQT.
6. Quản lý nhà nước về thỏa thuận quốc tế
Chương VI (Quản lý nhà nước về thỏa thuận quốc tế) gồm 09 điều, quy định về nội dung quản lý nhà nước về TTQT, cơ quan quản lý nhà nước về TTQT, trách nhiệm của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan cấp tỉnh, cơ quan quản lý hoạt động đối ngoại của tổ chức, xử lý vi phạm, kinh phí ký kết và thực hiện TTQT.
a. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Ngoài việc kế thừa các quy định tại Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT, liên quan đến cơ quan quản lý nhà nước về TTQT, Luật bổ sung trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Bộ Ngoại giao thực hiện quản lý nhà nước đối với các TTQT nhân danh đơn vị trực thuộc nhằm cụ thể hóa chính sách về đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ qun cấp tỉnh trong quản lý nhà nước đối với công tác ký kết và tổ chức thực hiện TTQT.
b. Trách nhiệm của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội
Tại Báo cáo số 3362/BC-UBĐN14 ngày 25/3/2019 thẩm tra Đề nghị xây dựng dự án Luật TTQT trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đề nghị Ban soạn thảo rà soát, sửa đổi khoản 2 Điều 28 Pháp lệnh Ký kết và thực hiện TTQT theo hướng phân tách trách nhiệm Ủy ban Đối ngoại trong việc báo cáo Quốc hội, thông báo cho Chính phủ, Bộ Ngoại giao về hoạt động ký kết và thực hiện TTQT của Quốc hội, cơ quan của Quốc hội với trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước báo cáo về TTQT do Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước.
Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nhận thấy theo quy định tại Hiến pháp năm 2013 cũng như quy định của Luật tổ chức các cơ quan này, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Do đó, việc các cơ quan này báo cáo Quốc hội, thông báo cho Chính phủ và Bộ Ngoại giao theo định kỳ hàng năm hoặc theo yêu cầu về hoạt động ký kết và thực hiện TTQT của các cơ quan này là phù hợp.
Trên cơ sở đó, Luật đã phân tách trách nhiệm của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội và trách nhiệm của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước (thể hiện tại Điều 36 và 37 dự thảo Luật).
7. Điều khoản thi hành
Chương VII (Điều khoản thi hành) gồm 02 điều quy định về điều khoản chuyển tiếp và hiệu lực thi hành của Luật.
Đối với các thỏa thuận nhân danh Nhà nước, Chính phủ, kể từ ngày Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg quy định thủ tục ký kết, thực hiện thỏa thuận nhân danh Chính phủ và kiến nghị Chủ tịch nước quyết định ký kết thỏa thuận nhân danh Nhà nước không phải là ĐƯQT có hiệu lực (ngày 10/10/2018), theo số liệu thống kê của Bộ Ngoại giao, cho đến hiện tại đã có 20 thỏa thuận loại này được ký kết. Điều này đòi hỏi Luật có quy định về việc thực hiện, sửa đổi, bổ sung, gia hạn các TTQT đã ký theo Quyết định nêu trên, theo đó, việc thực hiện, sửa đổi, bổ sung, gia hạn các TTQT này được thực hiện theo quy định liên quan của Luật này kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (khoản 2 Điều 41).
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN Ý KIẾN KHÁC NHAU
- Việc điều chỉnh thỏa thuận bằng văn bản với đối tác nước ngoài mang tính chất dân sự, thương mại.
….
Trên đây là một số nội dung chủ yếu của dự án Luật Thỏa thuận quốc tế. Bộ Ngoại giao kính trình Chính phủ xem xét, quyết định./.