Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 25/10/2016
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trình tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV.
A02.03_dtND_quy_dinh_chi_tiet_Luat_TNTG.doc
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật tín ngưỡng, tôn giáo ngày tháng năm 2016;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ,
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo,
Chương I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi là Luật) về sinh hoạt tôn giáo tập trung; thay đổi tên, thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; trình tự, thủ tục đăng ký pháp nhân của tổ chức tôn giáo trực thuộc; giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, trường đào tạo tôn giáo; quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; biểu mẫu thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
2. Người có tín ngưỡng; chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo.
3. Cơ quan nhà nước; cán bộ, công chức, viên chức.
4. Cá nhân, tổ chức nước ngoài.
5. Cá nhân, tổ chức khác có liên quan.
Chương II. SINH HOẠT TÔN GIÁO TẬP TRUNG
Điều 3. Sinh hoạt tôn giáo tập trung
1. Nhóm tín đồ của tổ chức tôn giáo; của tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo sau khi được chấp thuận sinh hoạt tôn giáo tập trung được thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo theo quy định của tổ chức tôn giáo;
b) Sử dụng kinh sách, đồ dùng việc đạo tại địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung;
c) Mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành đối với tín đồ của tổ chức tôn giáo; mời chức việc đối với tín đồ của tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo để hướng dẫn thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo tại địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung;
d) Thay đổi địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo;
đ) Bầu, cử, thay đổi người đại diện.
g) Treo biển tên gọi của nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung. Tên gọi của nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung không trùng với tên các tổ chức đã được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo hoặc công nhận tổ chức tôn giáo và tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội hoặc tên các danh nhân, anh hùng dân tộc. (tên gọi của nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung là tên địa danh nơi có địa điểm hợp pháp).
2. Người theo tôn giáo không thuộc tổ chức đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc cấp đăng ký hoạt động tôn giáo Đối với nhóm người sau khi được chấp thuận sinh hoạt tôn giáo tập trung được thực hiện các hoạt động quy định tại điểm d, điểm đ và điểm g khoản 1 Điều này.
3. Người đại diện cho nhóm tín đồ, nhóm người sinh hoạt tôn giáo tập trung chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động tại địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung.
4. Trường hợp nội dung sinh hoạt tôn giáo thay đổi, bổ sung so với văn bản đăng ký quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật, người đại diện có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký các nội dung thay đổi, bổ sung đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung trong thời hạn 20 ngày trước khi thay đổi.
Văn bản đăng ký thay đổi, bổ sung nêu rõ tên tôn giáo, tôn chỉ, mục đích, nội dung sinh hoạt trước khi thay đổi; nội dung thay đổi, bổ sung so với trước; hình thức sinh hoạt tôn giáo; họ và tên, nơi cư trú của người đại diện; địa điểm, thời gian, số lượng người tham gia sinh hoạt.
5. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký. Trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Điều 4. Thông báo về việc mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành hoặc mời chức việc hướng dẫn thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo cho của nhóm tín đồ của tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung
Người đại diện của nhóm tín đồ sinh hoạt tôn giáo tập trung có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung về việc mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành để hướng dẫn thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo trong thời hạn 20 ngày trước khi thực hiện.
Văn bản thông báo nêu rõ tên chức sắc, chức việc, nhà tu hành được mời; tên tổ chức quản lý trực tiếp chức sắc, chức việc, nhà tu hành; chức vụ, phẩm trật; nội dung hướng dẫn; thời gian thực hiện kèm theo văn bản chấp thuận của tổ chức tôn giáo trực thuộc hoặc tổ chức tôn giáo; tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo.
Điều 5. Thay đổi địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung
1. Trước khi thay đổi địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung, người đại diện của nhóm tín đồ, nhóm người sinh hoạt tôn giáo tập trung có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi dự kiến địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung.
Văn bản đề nghị nêu rõ lý do thay đổi, địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung trước khi thay đổi, dự kiến địa điểm hợp pháp mới, dự kiến thời gian thay đổi địa điểm.
2. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ, ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Điều 6. Thông báo thay đổi người đại diện của nhóm tín đồ, nhóm người sinh hoạt tôn giáo tập trung
Sau khi thay đổi người đại diện của nhóm tín đồ, nhóm người sinh hoạt tôn giáo tập trung, tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức tôn giáo trực thuộc; tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo; nhóm người sinh hoạt tôn giáo tập trung có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả bầu, cử người đại diện.
Văn bản thông báo nêu rõ lý do thay đổi; họ và tên, nơi cư trú của người được bầu, cử làm người đại diện kèm theo biên bản cuộc họp bầu, cử người đại diện.
Điều 7. Thông báo việc bầu hoặc cử người lãnh đạo tổ chức của tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo
1. Người được bầu hoặc cử làm người lãnh đạo của tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích.
2. Tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo sau khi bầu hoặc cử người lãnh đạo tổ chức có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 19 của Luật trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày có kết quả bầu hoặc cử.
Văn bản thông báo nêu rõ họ và tên người lãnh đạo tổ chức, tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo kèm theo sơ yếu lí lịch, phiếu lý lịch tư pháp và biên bản cuộc họp bầu hoặc cử người lãnh đạo tổ chức.
3. Trường hợp phát hiện người được bầu hoặc cử lãnh đạo tổ chức không đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 19 của Luật có văn bản yêu cầu tổ chức được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo thu hồi kết quả bầu hoặc cử.
Chương III. THAY ĐỔI TÊN, TRỤ SỞ CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO, TỔ CHỨC TÔN GIÁO TRỰC THUỘC; ĐĂNG KÝ PHÁP NHÂN CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO TRỰC THUỘC; GIẢI THỂ TỔ CHỨC TÔN GIÁO, TỔ CHỨC TÔN GIÁO TRỰC THUỘC, TRƯỜNG ĐÀO TẠO TÔN GIÁO
Điều 8. Thay đổi tên của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Trước khi thay đổi tên, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật đối với việc thay đổi tên của tổ chức tôn giáo; khoản 2 Điều 29 của Luật đối với việc thay đổi tên của tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Văn bản đề nghị nêu rõ lý do thay đổi; tên tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước và sau khi thay đổi; thời điểm thay đổi tên.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Điều 9. Thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Trước khi thay đổi trụ sở, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở mới.
Văn bản đề nghị nêu rõ lý do thay đổi; địa chỉ trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước và sau khi thay đổi; thời điểm thay đổi trụ sở.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
3. Sau khi được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở mới chấp thuận về việc thay đổi trụ sở, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật. Văn bản thông báo thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 10. Trình tự, thủ tục đăng ký pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất trước ngày Luật có hiệu lực, sau ngày Luật có hiệu lực, tổ chức tôn giáo gửi hồ sơ đăng ký đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 22 của Luật để đăng ký pháp nhân cho tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị trong đó nêu rõ tên tổ chức tôn giáo trực thuộc; họ và tên người đại diện và lãnh đạo tổ chức; trụ sở của tổ chức; số lượng tín đồ tại thời điểm đề nghị; phạm vi hoạt động;
b) Văn bản tóm tắt quá trình hình thành và hoạt động của tổ chức tôn giáo trực thuộc;
c) Danh sách, sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp, bản tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo của người đại diện và thành viên ban lãnh đạo tổ chức tôn giáo trực thuộc;
d) Hiến chương của tổ chức tôn giáo trực thuộc;
đ) Bản kê khai và giấy tờ chứng minh tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo trực thuộc.
2. Trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật có văn bản chấp thuận tổ chức tôn giáo trực thuộc là pháp nhân phi thương mại; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
3. Đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất theo quy định của Luật, nếu đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật và được tổ chức tôn giáo đề nghị thì hồ sơ đề nghị thành lập, chia, tách, sáp nhập hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc đồng thời là hồ sơ đăng ký pháp nhân phi thương mại.
Thời hạn trả lời tổ chức tôn giáo trực thuộc là pháp nhân phi thương mại đồng thời là thời điểm chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc. Trường hợp tổ chức tôn giáo trực thuộc không đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản không chấp thuận.
Điều 11. Trình tự, thủ tục giải thể tổ chức tôn giáo
1. Tổ chức tôn giáo tự giải thể có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị cho giải thể đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 22 của Luật.
Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Đơn đề nghị giải thể tổ chức tôn giáo;
b) Dự kiến phương thức xử lý tài sản và thời hạn thanh toán các khoản nợ.
2. Tổ chức tôn giáo bị giải thể theo quy định tại điểm b, điểm c Điều 31 của Luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 22 của Luật:
a) Gửi văn bản thông báo về việc giải thể cho tổ chức tôn giáo trong đó nêu rõ lý do giải thể; dự kiến thời gian giải thể đến tổ chức tôn giáo;
b) Trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi thông báo, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm kiểm kê tài sản, dự kiến phương thức xử lý tài sản và thời hạn thanh toán các khoản nợ (nếu có) theo quy định của pháp luật và hiến chương của tổ chức.
Sau thời hạn 75 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi thông báo nếu tổ chức tôn giáo tiếp tục không hoạt động hoặc không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến bị đình chỉ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định giải thể.
3. Tổ chức tôn giáo tự giải thể, cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thể tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo quyết định giải thể tổ chức tôn giáo trên ba số báo viết hoặc báo điện tử ở trung ương đối với tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ở báo địa phương đối với tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Điều 12. Trình tự, thủ tục giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Trường hợp tổ chức tôn giáo giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc theo hiến chương của tổ chức, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi thông báo về việc giải thể đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc.
2. Trường hợp tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thực hiện việc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị và gửi thông báo kết quả giải thể đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có văn bản giải thể.
3. Văn bản thông báo về việc giải thể quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, tên tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể; lý do giải thể; phương thức xử lý tài sản, thời hạn thanh toán các khoản nợ và thời gian bị giải thể.
4. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo quyết định giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc trên ba số báo viết hoặc báo điện tử ở địa phương sau khi giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Điều 13. Trình tự, thủ tục giải thể trường đào tạo tôn giáo
1. Trường hợp tổ chức tôn giáo giải thể trường đào tạo tôn giáo theo hiến chương của tổ chức, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi thông báo về việc giải thể đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày giải thể trường đào tạo tôn giáo.
2. Trường hợp trường đào tạo tôn giáo bị giải thể theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thực hiện việc giải thể trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị và gửi thông báo kết quả giải thể trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có văn bản giải thể.
3. Văn bản thông báo về việc giải thể quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này nêu rõ tên Trường đào tạo tôn giáo bị giải thể; lý do giải thể; phương thức xử lý tài sản, thời hạn thanh toán các khoản nợ và thời gian bị giải thể.
4. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo quyết định giải thể trường đào tạo tôn giáo trên ba số báo viết hoặc báo điện tử ở trung ương và địa phương nơi có trường đào tạo sau khi giải thể trường đào tạo tôn giáo.
Điều 14. Trình tự, thủ tục phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài
1. Trước khi người Việt Nam được tổ chức tôn giáo nước ngoài phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị của tổ chức tôn giáo, trong đó nêu rõ lý do đề nghị, họ và tên, phẩm trật, chức vụ, phạm vi phụ trách;
b) Bản tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo của người được đề nghị;
c) Sơ yếu lý lịch và phiếu lý lịch tư pháp của người Việt Nam được đề nghị.
2. Trước khi phong phẩm, suy cử, suy tôn cho người nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị của tổ chức tôn giáo, trong đó nêu rõ lý do đề nghị, họ và tên, phẩm trật, quốc tịch;
b) Tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo của người được đề nghị;
c) Văn bản xác nhận của cơ quan ngoại giao tại Việt Nam của quốc gia nơi người nước ngoài có quốc tịch và bản sao hộ chiếu của người có quốc tịch nước ngoài được dịch sang tiếng Việt có chứng thực.
3. Trường hợp phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử không thuộc quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, tổ chức tôn giáo ở nước ngoài phải có sự thỏa thuận trước bằng văn bản với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
4. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị hợp lệ.
Trường hợp người được đề nghị phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử không đáp ứng điều kiện theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 32 và khoản 1 Điều 51 của Luật thì cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có văn bản từ chối.
5. Người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử quy định tại Điều này được hoạt động tôn giáo theo chức danh được công nhận.
Điều 15. Hoạt động quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
1. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân ngoài nước theo quy định của pháp luật.
2. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều này về việc tổ chức quyên góp, trong đó nêu rõ mục đích, phạm vi, cách thức, thời gian, cơ chế quản lý, sử dụng tài sản được quyên góp.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi nhận được thông báo của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc về việc quyên góp có trách nhiệm giám sát việc thực hiện theo nội dung thông báo.
3. Thẩm quyền:
a) Trước khi tổ chức quyên góp 05 ngày làm việc, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức quyên góp đối với trường hợp tổ chức quyên góp trong phạm vi một xã, phường, thị trấn;
b) Trước khi tổ chức quyên góp 10 ngày làm việc, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi tổ chức quyên góp đối với trường hợp tổ chức quyên góp vượt ra ngoài phạm vi một xã nhưng trong phạm vi một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
c) Trước khi tổ chức quyên góp 15 ngày, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức quyên góp đối với trường hợp tổ chức quyên góp vượt ra ngoài phạm vi một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
4. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thực hiện việc quyên góp phải bảo đảm công khai, minh bạch đối với các khoản quyên góp, kể cả việc phân bổ; không được lợi dụng danh nghĩa cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc để quyên góp phục vụ lợi ích cá nhân hoặc những mục đích trái pháp luật.
5. Tài sản được dâng cúng, công đức tại cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc phải được sử dụng đúng mục đích thông báo, phục vụ cho hoạt động tín ngưỡng, lợi ích của cộng đồng và hoạt động tôn giáo.
Điều 16. Ban hành biểu mẫu về thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
1. Ban hành 58 biểu mẫu về thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo kèm theo Nghị định này, gồm:
a) 07 biểu mẫu của cơ quan, thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký hiệu từ A1 đến A7 (có phụ lục kèm theo).
b) 51 biểu mẫu của tổ chức, cá nhân có liên quan ký hiệu từ B1 đến B51 (có phụ lục kèm theo).
2. Biểu mẫu về thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo có tên, số, ký hiệu và kích cỡ thống nhất sử dụng khổ giấy A4 (210mm x 297mm).
Điều 17. Nguyên tắc sử dụng biểu mẫu
1. Trong quá trình thực hiện hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thống nhất sử dụng biểu mẫu về thủ tục hành chính được ban hành theo Nghị định này.
2. Việc ghi các nội dung trong biểu mẫu phải bằng tiếng Việt, trừ tên giao dịch quốc tế của tổ chức tôn giáo (nếu có), không viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu.
3. Biểu mẫu về thủ tục hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được lưu trữ theo quy định của pháp luật hiện hành về văn thư lưu trữ.
Chương IV. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 18. Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
Điều 19. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Báo cáo Giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 25/10/2016
Số hiệu:36/BC-UBTVQH14
Mô tả:
Tài liệu trình tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV.
A02.01_bc_gtrinh_ve_DA_Luat_TNTG.doc
Tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận, đóng góp ý kiến về dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay sau Kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội (sau đây viết tắt là UBTVQH) đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật. Dự thảo Luật đã được UBTVQH cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý tại Phiên họp thứ 3 (tháng 9/2016) và gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội.
Trên cơ sở ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan hữu quan, UBTVQH xin báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
1. Về tên gọi và bố cục dự thảo Luật
- Về tên dự thảo Luật
Đa số đại biểu tán thành tên gọi của Luật là Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Một số đại biểu đề nghị đổi tên Luật là Luật hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Luật tổ chức, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Luật thực hiện quyền tín ngưỡng, tôn giáo; Luật dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo.
UBTVQH đề nghị giữ tên gọi của Luật là Luật tín ngưỡng, tôn giáo để bao quát phạm vi điều chỉnh của Luật, trong đó có cả việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như tổ chức, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Tên gọi này cũng phù hợp và có tính kế thừa các văn bản của Đảng, Nhà nước cũng như hệ thống pháp luật có liên quan đã ban hành.
- Về bố cục của dự thảo Luật
Nhiều đại biểu cho rằng kết cấu, bố cục của dự thảo Luật còn chưa hợp lý và đề nghị có chương riêng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được kết cấu lại khoa học, chặt chẽ hơn, gồm 9 chương, 8 mục và 68 điều. Bên cạnh việc sắp xếp, bổ sung một số điều luật và đổi tên các chương, mục, dự thảo Luật đã thiết kế một chương mới (Chương II) gồm 4 điều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người
Nhiều đại biểu cho rằng những nội dung quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và sự tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước trong dự thảo Luật còn chưa tương xứng và thiếu cụ thể.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã khẳng định và cụ thể hóa nội hàm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân, tổ chức và người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Chương II (Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo). Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người tại Chương I (Những quy định chung).
3. Về lĩnh vực tín ngưỡng
Nhiều đại biểu đề nghị bổ sung những quy định cụ thể hơn nhằm thể hiện sự phong phú của lĩnh vực tín ngưỡng và bảo đảm hoạt động tín ngưỡng đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
UBTVQH đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các quy định cụ thể, đầy đủ hơn về lĩnh vực tín ngưỡng. Tuy nhiên, các loại hình tín ngưỡng ở nước ta rất đa dạng, phong phú, gắn với bản sắc văn hóa, phong tục tập quán. Do vậy, UBTVQH đề nghị dự thảo Luật chỉ quy định những nội dung đã ổn định, rõ ràng liên quan đến tín ngưỡng. Về ban quản lý, người đại diện và tài sản của cơ sở tín ngưỡng; hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng và lễ hội tín ngưỡng để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện.
Ngoài ra, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật cũng đã quy định một số nội dung về nguyên tắc tổ chức các hoạt động tín ngưỡng và lễ hội tín ngưỡng; bố cục lại và quy định chặt chẽ hơn về hoạt động tín ngưỡng tại Chương III. Theo đó, việc thực hiện các hoạt động tín ngưỡng phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.
Có đại biểu cho rằng lễ hội tín ngưỡng cũng là hoạt động tín ngưỡng, chỉ cần thông tin trong bản đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm của cơ sở tín ngưỡng.
UBTVQH cho rằng, lễ hội tín ngưỡng thường diễn ra với quy mô lớn, tập trung đông người với nhiều hoạt động đa dạng, thời gian kéo dài. Do vậy, ngoài việc đưa vào bản đăng ký hoạt động tín ngưỡng chung của cơ sở tín ngưỡng, trước khi tổ chức lễ hội, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng cần thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được hỗ trợ khi cần thiết, nhất là trong việc bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn trong lễ hội.
4. Về công nhận tổ chức tôn giáo
Một số đại biểu đề nghị quy định theo hướng khi tổ chức đã đăng ký hoạt động tôn giáo và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của một tổ chức tôn giáo thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và công nhận ngay.
Một số đại biểu đề nghị nghiên cứu điều chỉnh các quy định về điều kiện đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo rõ ràng, chặt chẽ hơn.
UBTVQH cho rằng, việc quy định tổ chức có đăng ký hoạt động tôn giáo sau một thời gian hoạt động ổn định mới được xem xét công nhận tổ chức tôn giáo là cần thiết, để thấy rõ ảnh hưởng và phương thức hoạt động của tổ chức tôn giáo đó trong thực tiễn trước khi công nhận, bảo đảm tổ chức tôn giáo hoạt động ổn định, theo nghi lễ, hành vi tôn giáo đã đăng ký. Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới cũng quy định về điều kiện này khi xem xét công nhận tổ chức tôn giáo.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, UBTVQH đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu và lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân hữu quan về khoảng thời gian hoạt động ổn định của tổ chức trước khi được công nhận. Tiếp thu ý kiến của các tổ chức, cá nhân, dự thảo Luật hiện nay đã điều chỉnh khoảng thời gian này giảm từ 10 năm (theo dự thảo trình Quốc hội tháng 10/2015) xuống 05 năm để vừa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của việc quản lý nhà nước, vừa phù hợp với nguyện vọng của các tổ chức tôn giáo (theo quy định hiện hành, thời gian kiểm nghiệm thực tiễn trước khi công nhận tổ chức tôn giáo là 23 năm). Đồng thời, tiến hành rà soát, thể hiện rõ ràng, chặt chẽ hơn các quy định về điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo.
5. Về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo
Nhiều đại biểu đề nghị nghiên cứu quy định ngay trong Luật về pháp nhân của tổ chức tôn giáo thống nhất với các quy định của Bộ luật dân sự (sửa đổi) mới được thông qua tại kỳ họp 10 Quốc hội khóa XIII.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã bổ sung một điều quy định về tư cách pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 30). Theo đó, “Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận”. Tổ chức tôn giáo trực thuộc sau khi được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, nếu có nhu cầu đăng ký pháp nhân phi thương mại thì phải được tổ chức tôn giáo đề nghị, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó và nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Để quy định này được khả thi và thống nhất với Bộ luật dân sự, dự thảo Luật cũng đã bổ sung và điều chỉnh một số quy định liên quan đến điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo, điều lệ, tên gọi và trụ sở của tổ chức tôn giáo để phù hợp với tổ chức của một pháp nhân, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục đăng ký pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Quy định về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo là một nội dung mới, quan trọng của dự thảo Luật nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của tổ chức tôn giáo, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Quy định này là phù hợp với xu thế quản lý trong nhà nước pháp quyền, pháp luật quốc tế cũng như thực tiễn hoạt động của các tổ chức tôn giáo.
6. Về hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo
Nhiều đại biểu đề nghị dự thảo Luật quy định cụ thể hơn về việc các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tham gia vào các hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện.
UBTVQH nhận thấy, trong thực tế, các tôn giáo đã và đang tham gia nhiều hoạt động xã hội, có nhiều đóng góp cho cộng đồng, xã hội, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo. Tuy nhiên, để bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống pháp luật, Luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ quy định cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tổ chức, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Đối với các hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo…, Luật này chỉ quy định mang tính nguyên tắc; những vấn đề cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành.
7. Về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có yếu tố nước ngoài
Một số đại biểu đề nghị bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và quy định cụ thể hơn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã dành một mục với 7 điều luật quy định về hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài (Mục 2 Chương VI) và thiết kế một điều về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài trong Chương Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 8, Chương II). Theo đó, người nước ngoài về cơ bản có quyền sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như công dân Việt Nam, kể cả việc theo học tại cơ sở đào tạo tôn giáo Việt Nam hay được tổ chức tôn giáo Việt Nam phong phẩm, suy tôn, suy cử làm chức sắc.
Có ý kiến đại biểu đề nghị bổ sung quy định về trình tự, thủ tục giảng đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam đối với chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài. Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã bổ sung khoản 4, 5 Điều 48.
Có ý kiến đại biểu đề nghị bổ sung điều kiện phải có sự chấp thuận trước của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài. Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được chỉnh lý như khoản 1 Điều 51.
8. Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
- Về phương thức quản lý
Nhiều đại biểu cho rằng dự thảo Luật còn quá nhiều quy định mang nặng tính hành chính, “xin - cho” và đề nghị quy định theo hướng giảm các thủ tục hành chính, tăng hình thức thông báo.
UBTVQH đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý dự thảo Luật để các quy định về thủ tục hành chính phù hợp hơn với quan điểm xây dựng Luật. Đến nay, rất nhiều nội dung trong dự thảo đã chuyển từ hình thức đăng ký - cấp phép hoặc đề nghị - chấp thuận sang hình thức thông báo. Dự thảo Luật cũng minh bạch hoá các quy định về thủ tục hành chính, thẩm quyền và thời gian xử lý... Những điểm mới này nhằm góp phần tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; đồng thời thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với những vấn đề thuộc về nội bộ của tổ chức tôn giáo.
- Về cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Nhiều đại biểu cho rằng, việc quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay còn phân tán và đề nghị quy định ngay trong Luật cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương để bảo đảm sự thống nhất và thuận lợi trong quản lý về lĩnh vực này.
UBTVQH nhận thấy, hiện nay Chính phủ đã thống nhất quản lý về tín ngưỡng, tôn giáo. Theo phân công của Chính phủ, Bộ Nội vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện việc quản lý lễ hội tín ngưỡng nhưng chưa có cơ quan nào quản lý nhà nước về tín ngưỡng. Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tiễn còn thiếu đồng bộ; vì vậy việc đặt ra yêu cầu cần có một cơ quan phù hợp chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm sự thống nhất trong quản lý về lĩnh vực này là xác đáng.
Tuy nhiên, việc quy định cụ thể ngay trong Luật cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương cần được xem xét thận trọng, kỹ lưỡng. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về vấn đề này như trong dự thảo Luật trình Quốc hội: giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước và phân công cụ thể cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
9. Về các hành vi bị nghiêm cấm
Nhiều đại biểu cho rằng, quy định về các hành vi bị nghiêm cấm như dự thảo Luật còn chung chung và đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể hơn, phù hợp với các trường hợp, lý do hạn chế quyền con người theo quy định của Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm đặc thù trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo như: kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi… Về cơ bản, các hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 dự thảo Luật đã bao quát nhiều nội dung, thống nhất với quy định của Hiến pháp 2013 về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân.
10. Về giải thích từ ngữ
Nhiều đại biểu đề nghị bổ sung giải thích một số thuật ngữ như “tín ngưỡng”, “tôn giáo”, “địa điểm hợp pháp”… Một số đại biểu đề nghị nghiên cứu thể hiện lại các khái niệm như “nhà tu hành”, “chức sắc”, “chức việc”, “hoạt động tín ngưỡng”, “cơ sở tôn giáo”…
Tiếp thu ý kiến đại biểu, Điều 2 dự thảo Luật đã bổ sung việc giải thích một số từ ngữ như “tín ngưỡng”, “tôn giáo”, “địa điểm hợp pháp”, “hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài”, “người đại diện”… để làm rõ hơn các nội dung tương ứng được quy định trong dự thảo Luật. Các từ ngữ khác cũng được rà soát và điều chỉnh hợp lý hơn.
Ngoài các nội dung nêu trên, các đại biểu cũng đóng góp nhiều ý kiến cụ thể khác về nội dung và kỹ thuật văn bản. UBTVQH đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với Cơ quan soạn thảo để rà soát và chỉnh lý nghiêm túc và hợp lý trong dự thảo Luật lần này.
Trên đây là báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 12/10/2016
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trình cho ý kiến tại Phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
2._dtbc_gtrinh_dt_Luat_TNTG.doc
Tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận, đóng góp ý kiến về dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay sau Kỳ họp, theo sự chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (UBVHGDTNTN&NĐ) đã chủ trì, phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tổ chức nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật.
Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và các cơ quan hữu quan, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ xin báo cáo một số vấn đề lớn về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
1. Về tên gọi và bố cục dự thảo Luật
- Về tên dự thảo Luật
Một số đại biểu đề nghị đổi tên Luật là Luật hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Luật tổ chức, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Luật thực hiện quyền tín ngưỡng, tôn giáo; Luật dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đề nghị giữ tên gọi của Luật là Luật tín ngưỡng, tôn giáo để bao quát phạm vi điều chỉnh của Luật, trong đó có cả việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như tổ chức, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Tên gọi này cũng phù hợp và có tính kế thừa các văn bản của Đảng cũng như hệ thống pháp luật có liên quan.
- Về bố cục của dự thảo Luật
Nhiều đại biểu cho rằng kết cấu, bố cục của dự thảo Luật còn chưa hợp lý và đề nghị có chương riêng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được kết cấu lại khoa học, chặt chẽ hơn, gồm 9 chương, 8 mục và 69 điều. Bên cạnh việc sắp xếp, bổ sung một số điều luật và đổi tên các chương, mục, dự thảo Luật đã thiết kế một chương mới (Chương II) gồm 4 điều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người
Nhiều đại biểu cho rằng những nội dung quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và sự tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước trong dự thảo Luật còn chưa tương xứng và thiếu cụ thể.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã khẳng định và cụ thể hóa nội hàm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân, tổ chức và người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Chương II (Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo). Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người tại Chương I (Những quy định chung).
3. Về lĩnh vực tín ngưỡng
Nhiều đại biểu đề nghị bổ sung những quy định cụ thể hơn nhằm thể hiện sự phong phú của lĩnh vực tín ngưỡng và bảo đảm hoạt động tín ngưỡng đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các quy định cụ thể, đầy đủ hơn về lĩnh vực tín ngưỡng. Tuy nhiên, các loại hình tín ngưỡng ở nước ta rất đa dạng và phức tạp, hình thành và tồn tại dựa trên cơ sở lý luận chưa chặt chẽ, thiếu tính hệ thống mà việc luật hóa là khó khả thi. Do vậy, đề nghị dự thảo Luật chỉ quy định những nội dung đã ổn định, rõ ràng liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng; ban quản lý, người đại diện và tài sản của cơ sở tín ngưỡng; hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng và lễ hội tín ngưỡng để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện.
Ngoài ra, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật cũng đã quy định một số nội dung về nguyên tắc tổ chức các hoạt động tín ngưỡng và lễ hội tín ngưỡng; bố cục lại và quy định chặt chẽ hơn về hoạt động tín ngưỡng tại Chương III. Theo đó, việc thực hiện các hoạt động tín ngưỡng phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.
Có đại biểu cho rằng lễ hội tín ngưỡng cũng là hoạt động tín ngưỡng, chỉ cần thông tin trong bản đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm của cơ sở tín ngưỡng.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, lễ hội tín ngưỡng thường diễn ra với quy mô lớn, tập trung đông người với nhiều hoạt động đa dạng, thời gian kéo dài. Do vậy, ngoài việc đưa vào bản đăng ký hoạt động tín ngưỡng chung của cơ sở tín ngưỡng, trước khi tổ chức lễ hội, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng cần thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được hỗ trợ khi cần thiết, nhất là trong việc bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn trong lễ hội.
4. Về công nhận tổ chức tôn giáo
Một số đại biểu đề nghị quy định theo hướng khi tổ chức đã đăng ký hoạt động tôn giáo và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của một tổ chức tôn giáo thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và công nhận ngay.
Một số đại biểu đề nghị nghiên cứu điều chỉnh các quy định về điều kiện đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo rõ ràng, chặt chẽ hơn.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, việc quy định tổ chức có đăng ký hoạt động tôn giáo sau một thời gian hoạt động ổn định mới được xem xét công nhận tổ chức tôn giáo là cần thiết, nhằm kiểm nghiệm thực tiễn hoạt động của tổ chức trước khi công nhận, bảo đảm tổ chức tôn giáo hoạt động ổn định, tồn tại lâu dài. Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới cũng quy định về điều kiện này khi xem xét công nhận tổ chức tôn giáo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu và lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân hữu quan về khoảng thời gian hoạt động ổn định của tổ chức trước khi được công nhận. Tiếp thu ý kiến của các tổ chức, cá nhân, dự thảo Luật hiện nay đã điều chỉnh khoảng thời gian này giảm từ 10 năm (theo dự thảo trình Quốc hội tháng 10/2015) xuống 05 năm để vừa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của việc quản lý nhà nước, vừa phù hợp với nguyện vọng của các tổ chức tôn giáo (theo quy định hiện hành, thời gian kiểm nghiệm thực tiễn trước khi công nhận tổ chức tôn giáo là 23 năm). Đồng thời, tiến hành rà soát, thể hiện rõ ràng, chặt chẽ hơn các quy định về điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo.
5. Về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo
Nhiều đại biểu đề nghị nghiên cứu quy định ngay trong Luật về pháp nhân của tổ chức tôn giáo thống nhất với các quy định của Bộ luật dân sự (sửa đổi) mới được thông qua tại kỳ họp 10 Quốc hội khóa XIII.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã bổ sung một điều quy định về tư cách pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 30). Theo đó, “Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận”. Tổ chức tôn giáo trực thuộc sau khi được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, nếu có nhu cầu đăng ký pháp nhân phi thương mại thì phải được tổ chức tôn giáo đề nghị, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó và nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Để quy định này được khả thi và thống nhất với Bộ luật dân sự, dự thảo Luật cũng đã bổ sung và điều chỉnh một số quy định liên quan đến điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo, điều lệ, tên gọi và trụ sở của tổ chức tôn giáo để phù hợp với tổ chức của một pháp nhân, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục đăng ký pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Dự thảo Luật chỉ quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đăng ký pháp nhân phi thương mại. Khi các tổ chức này thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giáo dục, y tế..., tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc phải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
6. Về hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo
Nhiều đại biểu đề nghị dự thảo Luật quy định cụ thể hơn về việc các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tham gia vào các hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, Luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ nên quy định mang tính nguyên tắc để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức tôn giáo thực hiện các hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo phù hợp với năng lực, đường hướng hoạt động và phát huy tốt vai trò của mình trong đời sống xã hội. Những vấn đề cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục… để tổ chức tôn giáo thực hiện các hoạt động này cần tuân thủ pháp luật chuyên ngành.
Tuy nhiên, việc tổ chức tôn giáo tham gia thực hiện các hoạt động giáo dục vẫn còn hai loại ý kiến.
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị dự thảo Luật chỉ quy định chung về việc tổ chức tôn giáo được thực hiện các hoạt động giáo dục còn những nội dung cụ thể sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật về giáo dục.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị dự thảo Luật quy định rõ cho phép các tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở giáo dục, thực hiện hoạt động giáo dục bình đẳng với các tổ chức xã hội khác.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ nhất trí với loại ý kiến thứ hai vì lý do sau:
Theo thống kê của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cá nhân của tổ chức tôn giáo đã tổ chức gần 270 trường và 900 nhóm, lớp mầm non độc lập tại 39 tỉnh, thành phố trong cả nước, với gần 126.000 trẻ em theo học; nhiều trường trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề. Nhìn chung, các cơ sở giáo dục do các cá nhân của tổ chức tôn giáo thành lập bảo đảm các yêu cầu, điều kiện của pháp luật về giáo dục; hoạt động ổn định và có hiệu quả.
Để tiếp tục phát huy được vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong việc cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức tôn giáo, các chuyên gia và nhiều đại biểu Quốc hội đều tán thành chủ trương để các tổ chức tôn giáo được tham gia rộng hơn vào các hoạt động giáo dục, thành lập các cơ sở giáo dục ở các cấp học khác của hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy nhiên, pháp luật về giáo dục hiện hành chưa quy định tổ chức tôn giáo được thành lập nhà trường, vì vậy dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo phải quy định rõ vấn đề này để khả thi trong thực tiễn.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ kính đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về vấn đề này.
7. Về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có yếu tố nước ngoài
Một số đại biểu đề nghị bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và quy định cụ thể hơn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã dành một mục với 7 điều luật quy định về hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài (Mục 2 Chương VI) và thiết kế một điều về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài (Điều 8) trong Chương Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Chương II). Theo đó, người nước ngoài về cơ bản có quyền sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như công dân Việt Nam, kể cả việc theo học tại cơ sở đào tạo tôn giáo Việt Nam hay được tổ chức tôn giáo Việt Nam phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử.
8. Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
- Về phương thức quản lý
Nhiều đại biểu cho rằng dự thảo Luật còn quá nhiều quy định mang nặng tính hành chính, “xin - cho” và đề nghị quy định theo hướng giảm các thủ tục hành chính, tăng hình thức thông báo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý dự thảo Luật để các quy định về thủ tục hành chính phù hợp hơn với quan điểm xây dựng Luật. Đến nay, rất nhiều nội dung trong dự thảo đã chuyển từ hình thức đăng ký - cấp phép hoặc đề nghị - chấp thuận sang hình thức thông báo. Dự thảo Luật cũng minh bạch hoá các quy định về thủ tục hành chính, thẩm quyền và thời gian xử lý... Những điểm mới này nhằm góp phần tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; đồng thời thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với những vấn đề thuộc về nội bộ của tổ chức tôn giáo.
- Về cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Đa số đại biểu cho rằng, việc quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay còn phân tán và đề nghị quy định ngay trong Luật cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương để bảo đảm sự thống nhất và thuận lợi trong quản lý về lĩnh vực này.
Hiện nay, theo phân công của Chính phủ, Bộ Nội vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện việc quản lý lễ hội tín ngưỡng; chưa có cơ quan nào quản lý nhà nước về tín ngưỡng. Việc giao chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo cho Bộ Nội vụ cũng chưa thật sự phù hợp, vì mới chỉ dựa trên sự tiếp cận theo góc độ quản lý tổ chức mà chưa chú trọng việc bảo đảm cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như là hoạt động văn hóa, tinh thần. Do đó, quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tiễn còn phân tán, thiếu đồng bộ và chưa hiệu quả.
Vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị phải có một cơ quan nhà nước phù hợp chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm sự thống nhất và thuận lợi trong quản lý về lĩnh vực này.
Về vấn đề này, có ba loại ý kiến:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị phải có một cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo độc lập để phản ánh đúng tính phức tạp, quan trọng của lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội hiện nay.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị khi chưa thể sắp xếp được thì giữ nguyên như hiện nay.
Loại ý kiến thứ ba đề nghị đưa chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thống nhất quản lý và bảo đảm cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như là hoạt động văn hóa, tinh thần.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV đã xem xét, quyết định cơ cấu tổ chức Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021, vì vậy, việc quy định trong Luật cơ quan quản lý nhà nước độc lập cần được xem xét thận trọng, kỹ lưỡng.
Dự thảo Luật hiện nay đang giao Chính phủ quy định chi tiết về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ kính đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến thêm về vấn đề này.
9. Về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử
Có đại biểu đề nghị quy định trước khi tổ chức tôn giáo thực hiện việc phong chức, phong phẩm phải có ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, dự thảo Luật quy định tổ chức tôn giáo đăng ký hoặc báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi thực hiện phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc là phù hợp với yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường hậu kiểm và không can thiệp vào công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo.
Có đại biểu đề nghị không quy định đăng ký đối với việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chỉ đăng ký đối với chức việc.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã thiết kế 2 hình thức báo cáo với các quy trình cụ thể khi tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, bao gồm:
- Thông báo đối với việc phong phẩm, suy tôn, suy cử chức sắc;
- Đăng ký đối với việc bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc.
Việc phong Linh mục (được thực hiện ở nước ngoài), Giám mục và Hồng y của Giáo hội Công giáo được điều chỉnh theo quy định về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài.
10. Về cơ sở đào tạo tôn giáo
Một số đại biểu đề nghị không nên quy định quá chặt chẽ về cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo vì cơ sở đào tạo tôn giáo không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo là yêu cầu của các tổ chức tôn giáo để đào tạo, bồi dưỡng tín đồ và những người chuyên hoạt động tôn giáo, phục vụ cho công tác nhân sự lãnh đạo, quản lý và phát triển tổ chức tôn giáo. Theo thống kê của Bộ Nội vụ, hiện nay các tổ chức tôn giáo đã thành lập hơn 50 cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, nhiều tổ chức tôn giáo khác cũng đang xúc tiến việc thành lập các cơ sở này.
Với sự phát triển của các tổ chức tôn giáo cũng như các cơ sở đào tạo tôn giáo, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo cần có những quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập các cơ sở đào tạo tôn giáo để tạo thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo trong việc chuẩn bị hồ sơ thành lập, đồng thời thuận tiện trong việc thẩm định, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng giảm bớt các thủ tục thông tin báo cáo, tôn trọng quyền tự quyết của tổ chức tôn giáo trong hoạt động đào tạo của tổ chức.
11. Về các hành vi bị nghiêm cấm
Nhiều đại biểu cho rằng, quy định về các hành vi bị nghiêm cấm như dự thảo Luật còn chung chung và đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể hơn, phù hợp với các trường hợp, lý do hạn chế quyền con người theo quy định của Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã chỉ đạo bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm đặc thù trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo như: kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi… Về cơ bản, các hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 dự thảo Luật đã bao quát nhiều nội dung, thống nhất với quy định của Hiến pháp 2013 về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân.
12. Về giải thích từ ngữ
Nhiều đại biểu đề nghị bổ sung giải thích một số thuật ngữ như “tín ngưỡng”, “tôn giáo”,,“tổ chức tín ngưỡng”, “địa điểm hợp pháp”… Một số đại biểu đề nghị nghiên cứu thể hiện lại các khái niệm như “nhà tu hành”, “chức sắc”, “chức việc”, “hoạt động tín ngưỡng”…
Tiếp thu ý kiến đại biểu, Điều 2 dự thảo Luật đã bổ sung việc giải thích một số từ ngữ như “tín ngưỡng”, “tôn giáo”, “địa điểm hợp pháp”, “hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài”, “người đại diện”… để làm rõ hơn các nội dung tương ứng được quy định trong dự thảo Luật. Các từ ngữ khác cũng được rà soát và điều chỉnh hợp lý hơn.
Ngoài các nội dung lớn nêu trên, các đại biểu cũng đóng góp nhiều ý kiến cụ thể khác về nội dung và kỹ thuật văn bản. Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo để rà soát và chỉnh lý nghiêm túc và hợp lý trong dự thảo Luật lần này.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ xin gửi kèm theo dự thảo Luật và dự thảo Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong dự thảo Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đề nghị không trình bày các nội dung về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử và cơ sở đào tạo của tôn giáo.
Báo cáo về các vấn đề xin ý kiến Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 12/10/2016
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trình cho ý kiến tại Phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.
1._bc75-UBVHGD_xin_yk_UBTVQH_ve_Luat_TNTG.doc
Tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận, đóng góp ý kiến về dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay sau Kỳ họp, theo sự chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (UBVHGDTNTN&NĐ) đã chủ trì, phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tổ chức nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật.
Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và các cơ quan hữu quan, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ xin báo cáo một số vấn đề lớn về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
1. Về tên gọi và bố cục dự thảo Luật
- Về tên dự thảo Luật
Một số đại biểu đề nghị đổi tên Luật là Luật hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Luật tổ chức, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Luật thực hiện quyền tín ngưỡng, tôn giáo; Luật dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đề nghị giữ tên gọi của Luật là Luật tín ngưỡng, tôn giáo để bao quát phạm vi điều chỉnh của Luật, trong đó có cả việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như tổ chức, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Tên gọi này cũng phù hợp và có tính kế thừa các văn bản của Đảng cũng như hệ thống pháp luật có liên quan.
- Về bố cục của dự thảo Luật
Nhiều đại biểu cho rằng kết cấu, bố cục của dự thảo Luật còn chưa hợp lý và đề nghị có chương riêng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được kết cấu lại khoa học, chặt chẽ hơn, gồm 9 chương, 8 mục và 69 điều. Bên cạnh việc sắp xếp, bổ sung một số điều luật và đổi tên các chương, mục, dự thảo Luật đã thiết kế một chương mới (Chương II) gồm 4 điều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người
Nhiều đại biểu cho rằng những nội dung quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và sự tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước trong dự thảo Luật còn chưa tương xứng và thiếu cụ thể.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã khẳng định và cụ thể hóa nội hàm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân, tổ chức và người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Chương II (Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo). Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người tại Chương I (Những quy định chung).
3. Về lĩnh vực tín ngưỡng
Nhiều đại biểu đề nghị bổ sung những quy định cụ thể hơn nhằm thể hiện sự phong phú của lĩnh vực tín ngưỡng và bảo đảm hoạt động tín ngưỡng đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các quy định cụ thể, đầy đủ hơn về lĩnh vực tín ngưỡng. Tuy nhiên, các loại hình tín ngưỡng ở nước ta rất đa dạng và phức tạp, hình thành và tồn tại dựa trên cơ sở lý luận chưa chặt chẽ, thiếu tính hệ thống mà việc luật hóa là khó khả thi. Do vậy, đề nghị dự thảo Luật chỉ quy định những nội dung đã ổn định, rõ ràng liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng; ban quản lý, người đại diện và tài sản của cơ sở tín ngưỡng; hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng và lễ hội tín ngưỡng để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện.
Ngoài ra, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật cũng đã quy định một số nội dung về nguyên tắc tổ chức các hoạt động tín ngưỡng và lễ hội tín ngưỡng; bố cục lại và quy định chặt chẽ hơn về hoạt động tín ngưỡng tại Chương III. Theo đó, việc thực hiện các hoạt động tín ngưỡng phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.
Có đại biểu cho rằng lễ hội tín ngưỡng cũng là hoạt động tín ngưỡng, chỉ cần thông tin trong bản đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm của cơ sở tín ngưỡng.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, lễ hội tín ngưỡng thường diễn ra với quy mô lớn, tập trung đông người với nhiều hoạt động đa dạng, thời gian kéo dài. Do vậy, ngoài việc đưa vào bản đăng ký hoạt động tín ngưỡng chung của cơ sở tín ngưỡng, trước khi tổ chức lễ hội, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng cần thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được hỗ trợ khi cần thiết, nhất là trong việc bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn trong lễ hội.
4. Về công nhận tổ chức tôn giáo
Một số đại biểu đề nghị quy định theo hướng khi tổ chức đã đăng ký hoạt động tôn giáo và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của một tổ chức tôn giáo thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và công nhận ngay.
Một số đại biểu đề nghị nghiên cứu điều chỉnh các quy định về điều kiện đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo rõ ràng, chặt chẽ hơn.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, việc quy định tổ chức có đăng ký hoạt động tôn giáo sau một thời gian hoạt động ổn định mới được xem xét công nhận tổ chức tôn giáo là cần thiết, nhằm kiểm nghiệm thực tiễn hoạt động của tổ chức trước khi công nhận, bảo đảm tổ chức tôn giáo hoạt động ổn định, tồn tại lâu dài. Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới cũng quy định về điều kiện này khi xem xét công nhận tổ chức tôn giáo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu và lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân hữu quan về khoảng thời gian hoạt động ổn định của tổ chức trước khi được công nhận. Tiếp thu ý kiến của các tổ chức, cá nhân, dự thảo Luật hiện nay đã điều chỉnh khoảng thời gian này giảm từ 10 năm (theo dự thảo trình Quốc hội tháng 10/2015) xuống 05 năm để vừa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của việc quản lý nhà nước, vừa phù hợp với nguyện vọng của các tổ chức tôn giáo (theo quy định hiện hành, thời gian kiểm nghiệm thực tiễn trước khi công nhận tổ chức tôn giáo là 23 năm). Đồng thời, tiến hành rà soát, thể hiện rõ ràng, chặt chẽ hơn các quy định về điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo.
5. Về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo
Nhiều đại biểu đề nghị nghiên cứu quy định ngay trong Luật về pháp nhân của tổ chức tôn giáo thống nhất với các quy định của Bộ luật dân sự (sửa đổi) mới được thông qua tại kỳ họp 10 Quốc hội khóa XIII.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã bổ sung một điều quy định về tư cách pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 30). Theo đó, “Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận”. Tổ chức tôn giáo trực thuộc sau khi được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, nếu có nhu cầu đăng ký pháp nhân phi thương mại thì phải được tổ chức tôn giáo đề nghị, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó và nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Để quy định này được khả thi và thống nhất với Bộ luật dân sự, dự thảo Luật cũng đã bổ sung và điều chỉnh một số quy định liên quan đến điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo, điều lệ, tên gọi và trụ sở của tổ chức tôn giáo để phù hợp với tổ chức của một pháp nhân, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục đăng ký pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Dự thảo Luật chỉ quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đăng ký pháp nhân phi thương mại. Khi các tổ chức này thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giáo dục, y tế..., tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc phải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
6. Về hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo
Nhiều đại biểu đề nghị dự thảo Luật quy định cụ thể hơn về việc các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tham gia vào các hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo để bảo đảm tính khả thi khi thực hiện.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, Luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ nên quy định mang tính nguyên tắc để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức tôn giáo thực hiện các hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo phù hợp với năng lực, đường hướng hoạt động và phát huy tốt vai trò của mình trong đời sống xã hội. Những vấn đề cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục… để tổ chức tôn giáo thực hiện các hoạt động này cần tuân thủ pháp luật chuyên ngành.
Tuy nhiên, việc tổ chức tôn giáo tham gia thực hiện các hoạt động giáo dục vẫn còn hai loại ý kiến.
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị dự thảo Luật chỉ quy định chung về việc tổ chức tôn giáo được thực hiện các hoạt động giáo dục còn những nội dung cụ thể sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật về giáo dục.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị dự thảo Luật quy định rõ cho phép các tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở giáo dục, thực hiện hoạt động giáo dục bình đẳng với các tổ chức xã hội khác.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ nhất trí với loại ý kiến thứ hai vì lý do sau:
Theo thống kê của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cá nhân của tổ chức tôn giáo đã tổ chức gần 270 trường và 900 nhóm, lớp mầm non độc lập tại 39 tỉnh, thành phố trong cả nước, với gần 126.000 trẻ em theo học; nhiều trường trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề. Nhìn chung, các cơ sở giáo dục do các cá nhân của tổ chức tôn giáo thành lập bảo đảm các yêu cầu, điều kiện của pháp luật về giáo dục; hoạt động ổn định và có hiệu quả.
Để tiếp tục phát huy được vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong việc cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức tôn giáo, các chuyên gia và nhiều đại biểu Quốc hội đều tán thành chủ trương để các tổ chức tôn giáo được tham gia rộng hơn vào các hoạt động giáo dục, thành lập các cơ sở giáo dục ở các cấp học khác của hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy nhiên, pháp luật về giáo dục hiện hành chưa quy định tổ chức tôn giáo được thành lập nhà trường, vì vậy dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo phải quy định rõ vấn đề này để khả thi trong thực tiễn.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ kính đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về vấn đề này.
7. Về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có yếu tố nước ngoài
Một số đại biểu đề nghị bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và quy định cụ thể hơn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã dành một mục với 7 điều luật quy định về hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài (Mục 2 Chương VI) và thiết kế một điều về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài (Điều 8) trong Chương Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Chương II). Theo đó, người nước ngoài về cơ bản có quyền sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như công dân Việt Nam, kể cả việc theo học tại cơ sở đào tạo tôn giáo Việt Nam hay được tổ chức tôn giáo Việt Nam phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử.
8. Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
- Về phương thức quản lý
Nhiều đại biểu cho rằng dự thảo Luật còn quá nhiều quy định mang nặng tính hành chính, “xin - cho” và đề nghị quy định theo hướng giảm các thủ tục hành chính, tăng hình thức thông báo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh lý dự thảo Luật để các quy định về thủ tục hành chính phù hợp hơn với quan điểm xây dựng Luật. Đến nay, rất nhiều nội dung trong dự thảo đã chuyển từ hình thức đăng ký - cấp phép hoặc đề nghị - chấp thuận sang hình thức thông báo. Dự thảo Luật cũng minh bạch hoá các quy định về thủ tục hành chính, thẩm quyền và thời gian xử lý... Những điểm mới này nhằm góp phần tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; đồng thời thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với những vấn đề thuộc về nội bộ của tổ chức tôn giáo.
- Về cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Đa số đại biểu cho rằng, việc quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay còn phân tán và đề nghị quy định ngay trong Luật cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương để bảo đảm sự thống nhất và thuận lợi trong quản lý về lĩnh vực này.
Hiện nay, theo phân công của Chính phủ, Bộ Nội vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện việc quản lý lễ hội tín ngưỡng; chưa có cơ quan nào quản lý nhà nước về tín ngưỡng. Việc giao chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo cho Bộ Nội vụ cũng chưa thật sự phù hợp, vì mới chỉ dựa trên sự tiếp cận theo góc độ quản lý tổ chức mà chưa chú trọng việc bảo đảm cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như là hoạt động văn hóa, tinh thần. Do đó, quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tiễn còn phân tán, thiếu đồng bộ và chưa hiệu quả.
Vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị phải có một cơ quan nhà nước phù hợp chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm sự thống nhất và thuận lợi trong quản lý về lĩnh vực này.
Về vấn đề này, có ba loại ý kiến:
Loại ý kiến thứ nhất đề nghị phải có một cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo độc lập để phản ánh đúng tính phức tạp, quan trọng của lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội hiện nay.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị khi chưa thể sắp xếp được thì giữ nguyên như hiện nay.
Loại ý kiến thứ ba đề nghị đưa chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thống nhất quản lý và bảo đảm cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như là hoạt động văn hóa, tinh thần.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV đã xem xét, quyết định cơ cấu tổ chức Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021, vì vậy, việc quy định trong Luật cơ quan quản lý nhà nước độc lập cần được xem xét thận trọng, kỹ lưỡng.
Dự thảo Luật hiện nay đang giao Chính phủ quy định chi tiết về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ kính đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến thêm về vấn đề này.
9. Về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử
Có đại biểu đề nghị quy định trước khi tổ chức tôn giáo thực hiện việc phong chức, phong phẩm phải có ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, dự thảo Luật quy định tổ chức tôn giáo đăng ký hoặc báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi thực hiện phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc là phù hợp với yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường hậu kiểm và không can thiệp vào công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo.
Có đại biểu đề nghị không quy định đăng ký đối với việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chỉ đăng ký đối với chức việc.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã thiết kế 2 hình thức báo cáo với các quy trình cụ thể khi tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, bao gồm:
- Thông báo đối với việc phong phẩm, suy tôn, suy cử chức sắc;
- Đăng ký đối với việc bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc.
Việc phong Linh mục (được thực hiện ở nước ngoài), Giám mục và Hồng y của Giáo hội Công giáo được điều chỉnh theo quy định về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài.
10. Về cơ sở đào tạo tôn giáo
Một số đại biểu đề nghị không nên quy định quá chặt chẽ về cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo vì cơ sở đào tạo tôn giáo không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo là yêu cầu của các tổ chức tôn giáo để đào tạo, bồi dưỡng tín đồ và những người chuyên hoạt động tôn giáo, phục vụ cho công tác nhân sự lãnh đạo, quản lý và phát triển tổ chức tôn giáo. Theo thống kê của Bộ Nội vụ, hiện nay các tổ chức tôn giáo đã thành lập hơn 50 cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, nhiều tổ chức tôn giáo khác cũng đang xúc tiến việc thành lập các cơ sở này.
Với sự phát triển của các tổ chức tôn giáo cũng như các cơ sở đào tạo tôn giáo, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ cho rằng, dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo cần có những quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập các cơ sở đào tạo tôn giáo để tạo thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo trong việc chuẩn bị hồ sơ thành lập, đồng thời thuận tiện trong việc thẩm định, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng giảm bớt các thủ tục thông tin báo cáo, tôn trọng quyền tự quyết của tổ chức tôn giáo trong hoạt động đào tạo của tổ chức.
11. Về các hành vi bị nghiêm cấm
Nhiều đại biểu cho rằng, quy định về các hành vi bị nghiêm cấm như dự thảo Luật còn chung chung và đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể hơn, phù hợp với các trường hợp, lý do hạn chế quyền con người theo quy định của Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã chỉ đạo bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm đặc thù trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo như: kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi… Về cơ bản, các hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 dự thảo Luật đã bao quát nhiều nội dung, thống nhất với quy định của Hiến pháp 2013 về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân.
12. Về giải thích từ ngữ
Nhiều đại biểu đề nghị bổ sung giải thích một số thuật ngữ như “tín ngưỡng”, “tôn giáo”,,“tổ chức tín ngưỡng”, “địa điểm hợp pháp”… Một số đại biểu đề nghị nghiên cứu thể hiện lại các khái niệm như “nhà tu hành”, “chức sắc”, “chức việc”, “hoạt động tín ngưỡng”…
Tiếp thu ý kiến đại biểu, Điều 2 dự thảo Luật đã bổ sung việc giải thích một số từ ngữ như “tín ngưỡng”, “tôn giáo”, “địa điểm hợp pháp”, “hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài”, “người đại diện”… để làm rõ hơn các nội dung tương ứng được quy định trong dự thảo Luật. Các từ ngữ khác cũng được rà soát và điều chỉnh hợp lý hơn.
Ngoài các nội dung lớn nêu trên, các đại biểu cũng đóng góp nhiều ý kiến cụ thể khác về nội dung và kỹ thuật văn bản. Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo để rà soát và chỉnh lý nghiêm túc và hợp lý trong dự thảo Luật lần này.
Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ xin gửi kèm theo dự thảo Luật và dự thảo Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong dự thảo Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Thường trực UBVHGDTNTN&NĐ đề nghị không trình bày các nội dung về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử và cơ sở đào tạo của tôn giáo.
Báo cáo về việc Giải trình, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.04_bc_gtrinh_yk_UBTVQH_ve_DA_Luat.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo Tiếp thu, giải trình báo cáo thẩm định dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Bộ Tư pháp
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.10_bc_gtrinh_bc_tham_dinh_dt_Luat_TNTG.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo thẩm định dự án Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.09_bc_tham_dinh_dt_Luat_TNTG.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo Tiếp thu, giải trình ý kiến các tổ chức tôn giáo góp ý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.16_bc_gtrinh_yk_cac_to_chuc_TG.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.06_bc_tong_ket_10nam_PL_TNTG.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến các địa phương góp ý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.14_bc_gtrinh_yk_dia_phuong_ve_dt_Luat.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Tờ trình về dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.01_TTr_DA_Luat_tin_nguong,_ton_giao.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến các Bộ, ngành góp ý dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.12_bc_gtrinh_yk_Bo,_nganh_ve_dt_Luat.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo thẩm tra dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.17_bc-VHGD_thtra_DA_an_Luat_tin_nguong,_ton_giao.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Báo cáo đánh giá tác động về dự án Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.05_bc_danh_gia_tac_dong_dt_Luat_TNTG.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Bản thuyết minh chi tiết về Dự án Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 05/11/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Tài liệu trong Hồ sơ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp 10, Quốc hội khóa XIII.
A26.03_thuyet_minh_DA_Luat_TNTG.doc
Xin vui lòng xem nội dung chi tiết trong file đính kèm (vui lòng click 2 lần vào tiêu đề tài liệu để tải file đính kèm).
Bản thuyết minh chi tiết dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 27/08/2015
Số hiệu:
Mô tả:
Dự thảo trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 40, Quốc hội khóa XIII, tháng 8-2015
3._Thuyet_minh_Luat_tin_nguong_ton_giao.doc
Thực hiện Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015; Nghị quyết số 780/NQ-UBTVQH13 ngày 25/6/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Chính phủ đã giao cho Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi là dự án Luật). Bộ Nội vụ xin báo cáo bản thuyết minh chi tiết về các điều, khoản của dự thảo Luật như sau:
I. Chương I – Những quy định chung (gồm 5 điều, từ Điều 1 đến Điều 5)
- Điều 1: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
Điều 1 dự thảo Luật xác định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật, bao gồm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo, tổ chức tôn giáo, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Dự thảo Luật lần đầu tiên đã xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Về đối tượng áp dụng của Luật bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật tập trung vào việc giải quyết những vấn đề liên quan nhằm bảo đảm cho mọi người, người có tín ngưỡng, tôn giáo, cho tổ chức tôn giáo và người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 2: Giải thích từ ngữ
Nhằm giúp người đọc có cách hiểu chung thống nhất về các quy phạm được quy định trong Luật, dự thảo Luật đã giải thích một số từ ngữ được sử dụng nhiều lần trong dự thảo, bao gồm các từ ngữ “tín đồ”, “nhà tu hành”, “chức sắc, chức việc”, “suy cử”, “hoạt động tín ngưỡng”, “lễ hội tín ngưỡng”, “sinh hoạt tôn giáo”, “hoạt động tôn giáo”, “cơ sở tín ngưỡng”, “cơ sở tôn giáo”, “tổ chức tôn giáo”, “tổ chức tôn giáo trực thuộc”.
Trong các từ ngữ được giải thích trên có 07 (bảy) từ ngữ được giữ nguyên từ Pháp lệnh, 01 (một) từ ngữ (chức sắc, chức việc) được giữ nguyên từ Pháp lệnh và bổ sung thêm (chức việc); 04 (bốn) từ ngữ mới được bổ sung đó là:
- Suy cử là việc tôn và bầu tín đồ giữ một vị trí trong tổ chức tôn giáo.
- Lễ hội tín ngưỡng là lễ hội tổ chức các hoạt động tín ngưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. Trong khi hoạt động tín ngưỡng được giải thích là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội của các cộng đồng người Việt Nam.
- Sinh hoạt tôn giáo được hiểu là việc thực hành nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bày tỏ niềm tin tôn giáo. Đó là những cách thức sinh hoạt của người có niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
- Tổ chức tôn giáo trực thuộc là đơn vị thuộc hệ thống tổ chức tôn giáo được thành lập theo hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo nhằm quản lý tổ chức, phục vụ hoạt động tôn giáo, tu hành tập thể, hoạt động xã hội.
Như vậy, tổ chức tôn giáo trực thuộc được hiểu bao gồm các cả tổ chức tôn giáo thuộc cấp hành chính đạo từ cấp dưới trung ương đến cấp cơ sở của các tổ chức tôn giáo; hội đoàn, dòng tu; các ban, ngành, viện ở các cấp của tổ chức tôn giáo.
- Điều 3: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 3 dự thảo Luật quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Đây cũng là một nội dung mới, thể chế hóa Điều 24 của Hiến pháp năm 2013 cũng như phù hợp với công ước, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được coi là một quyền tự thân, không do một tổ chức, một cá nhân hay một Nhà nước nào ban tặng. Vì là một quyền tự thân nên không ai được phép tước bỏ, ép buộc, xâm phạm và Nhà nước phải tôn trọng, bảo hộ quyền tự do ấy.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn là quyền được tự do bày tỏ niềm tin, đức tin của mình; quyền hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp; quyền tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.
Điều 2 dự thảo cũng quy định các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tôn giáo, tránh được sự mặc cảm của các tổ chức tôn giáo do ra đời sau hoặc có số lượng tín đồ, chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự ít. Quy định này một lần nữa nói lên chính sách tôn trọng, bảo hộ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước ta đối với các tổ chức tôn giáo là như nhau, cho dù tổ chức tôn giáo đó ra đời, được công nhận sớm hay muộn. Bên cạnh sự bảo đảm của Nhà nước đối với quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật, Nhà nước cũng luôn khuyến khích các hoạt động nhằm giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 4: Quyền, nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo
Điều 4 dự thảo Luật quy định về quyền, nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo. Điều này gồm có ba khoản; khoản 1 quy định đối với người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo là công dân Việt Nam được hưởng mọi quyền công dân, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của công dân đối với Tổ quốc. Trên thực tế quyền, trách nhiệm này không chỉ là quyền, trách nhiệm của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo mà còn là quyền, trách nhiệm của bất cứ ai là công dân Việt Nam.
Dự thảo cũng quy định một số nghĩa vụ khác của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo như có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ pháp luật.
Bên cạnh việc quy định quyền, nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo nói chung, Điều 4 dự thảo đã đưa ra quy định đảm bảo cả quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của những người bị hạn chế quyền công dân đó là người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện được sử dụng kinh sách và bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo mà mình tin theo. Đây là những quy định đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, phù hợp với quy định về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại Hiến pháp năm 2013 cũng như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
- Điều 5: Các hành vi bị nghiêm cấm
Trên cơ sở kế thừa các hành vi bị nghiêm cấm của Pháp lệnh, Điều 5 dự thảo Luật cũng đưa ra các hành vi bị nghiêm cấm. Việc đưa ra các hành vi bị nghiêm cấm để phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 gồm: Phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; cản trở tổ chức, cá nhân thực hiện hoặc tham gia hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp; lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm hại quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, xúc phạm danh nhân, anh hùng dân tộc; sử dụng cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo vào các hoạt động trái pháp luật.
Tùy từng trường hợp, khi vi phạm các điều cấm này, tổ chức, cá nhân sẽ bị xử lý theo quy định như bị tạm đình chỉ hoạt động, thu hồi đăng ký hoặc giải thể tổ chức.
II. Chương II – Hoạt động tín ngưỡng (gồm 5 điều, từ Điều 6 đến Điều 10)
- Điều 6: Hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng
Điều 6 đưa ra các giới hạn khi thực hiện hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng và việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng trong cộng đồng dân cư phải thực hiện theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các quy định pháp luật khác có liên quan. Đối với các cơ sở tín ngưỡng là nhà thờ dòng họ sẽ không áp dụng theo quy định về người đại diện, ban quản lý; đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm; hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng.
- Điều 7: Người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng
Khoản 1 Điều 7 quy định điều kiện của người đại diện, thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng. Để trở thành người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng người đó phải đáp ứng các yêu cầu như là công dân Việt Nam, có uy tín trong cộng đồng dân cư và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Điều kiện này là cơ sở để cộng đồng dân cư, cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ khi bầu, cử người đại diện, thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng (khoản 2). Đối với từng loại cơ sở tín ngưỡng, Chính phủ sẽ quy định chi tiết về người đại diện, thành viên ban quản lý, thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục Điều này.
- Điều 8: Đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm
Để thuận tiện cho cơ sở tín ngưỡng hoạt động, Điều 8 quy định hằng năm trước ngày 15 tháng 11, người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm gửi bản đăng ký các hoạt động tín ngưỡng diễn ra vào năm sau đến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Bản đăng ký nêu rõ tên cơ sở tín ngưỡng; người tổ chức, chủ trì hoạt động; dự kiến số lượng người tham gia, nội dung, hình thức tổ chức sinh hoạt, thời gian diễn ra hoạt động tín ngưỡng. Theo tinh thần cải cách hành chính, Điều này cũng như một số điều khác của dự thảo Luật quy định rất cụ thể về thời hạn, trách nhiệm phải trả lời của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi nhận được bản đăng ký hợp lệ.
Điều 8 cũng đưa ra các hoạt động tín ngưỡng không phải đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm bao gồm những hoạt động tín ngưỡng thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp huyện).
- Điều 9: Hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng
Điều 9 dự thảo Luật quy định về quyền của người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng đó là được tổ chức các hoạt động tín ngưỡng theo nội dung đăng ký đã được Ủy ban nhân dân cấp xã chấp thuận. Khi tổ chức các hoạt động tín ngưỡng họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động tín ngưỡng diễn ra tại cơ sở. Bên cạnh đó Điều 9 cũng quy định về trách nhiệm của những người tham gia hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng đó là thực hiện nếp sống văn minh, tuân thủ pháp luật và các quy định của cơ sở tín ngưỡng.
- Điều 10: Tổ chức lễ hội tín ngưỡng
Điều 10 quy định về ba loại lễ hội tín ngưỡng khi tổ chức phải được sự chấp thuận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, bao gồm lễ hội tổ chức lần đầu; lễ hội khôi phục lại sau thời gian gián đoạn và lễ hội tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi về nội dung, thời gian, địa điểm, quy mô so với trước. Ngoài ba loại lễ hội tín ngưỡng trên đối với những lễ hội tín ngưỡng khác, trước khi tổ chức 15 ngày làm việc, người tổ chức có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi diễn ra lễ hội về thời gian, địa điểm, nội dung, hình thức tổ chức lễ hội và danh sách ban tổ chức lễ hội.
Ngoài ra điều này cũng đưa ra các trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng thì Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền quyết định tạm đình chỉ việc tổ chức lễ hội. Về nguồn thu từ việc tổ chức lễ hội, luật cũng quy định phải được công khai trong ban tổ chức và sử dụng để phục vụ cho hoạt động tín ngưỡng và lợi ích của cộng đồng.
Chính phủ sẽ quy định chi tiết trình tự, thủ tục tổ chức các lễ hội tín ngưỡng được quy định tại khoản 1 Điều này.
III. Chương III – Đăng ký sinh hoạt tôn giáo, đăng ký hoạt động tôn giáo (gồm 5 điều, từ Điều 11 đến Điều 15)
- Điều 11: Đăng ký sinh hoạt tôn giáo
Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 11 dự thảo Luật đã quy định về việc tập trung sinh hoạt tôn giáo của những nhóm người có nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo nhưng chưa có tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận thì đăng ký sinh hoạt tôn giáo với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức sinh hoạt tôn giáo. Mặt khác, để tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xem xét cho đăng ký sinh hoạt tôn giáo, cũng như thuận lợi cho nhóm người có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo biết để thực hiện, Điều này đã có các quy định về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo gồm nội dung sinh hoạt không vi phạm quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 5 Luật này; có địa điểm hợp pháp về nhà đất để sinh hoạt tôn giáo; người đại diện là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Trước đây, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định đăng ký sinh hoạt tôn giáo là mốc đầu tiên của một tổ chức, sau thời hạn nhất định kể từ ngày được sự chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo, tổ chức có thể thực hiện các bước tiếp theo như đăng ký hoạt động tôn giáo sau đó xin công nhận tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, hiện nay dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo lại không lấy mốc đăng ký sinh hoạt tôn giáo làm tiền đề để thực hiện các bước tiếp theo của một tổ chức mà xem đăng ký sinh hoạt chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của những người chưa có tổ chức tôn giáo. Quy định như vậy nhằm hạn chế các nhóm tín đồ chỉ có nhu cầu bày tỏ niềm tin hình thành tổ chức tôn giáo.
- Điều 12: Điều kiện cấp đăng ký hoạt động tôn giáo
Để đảm bảo quyền hoạt động tôn giáo, Điều 12 đã đưa ra các điều kiện để một tổ chức được đăng ký hoạt động tôn giáo. Các điều kiện này bao gồm có giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tôn chỉ, mục đích hoạt động gắn bó với dân tộc và không trái với quy định của pháp luật; không thuộc tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; tên gọi của tổ chức không trùng với tên các tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc tên các danh nhân, anh hùng dân tộc; có địa điểm hợp pháp về nhà đất để đặt trụ sở; có người đại diện là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; không vi phạm quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 5 Luật này.
Như vậy, một tổ chức đồng thời phải đáp ứng được tất cả các điều kiện trên và nếu có nhu cầu thì có thể đăng ký hoạt động tôn giáo. Các điều kiện này được quy định nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận diện một tổ chức khi đăng ký hoạt động tôn giáo, mặt khác cũng loại bỏ được những nhóm người, tổ chức lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đăng ký hoạt động không vì mục đích tôn giáo (tà đạo).
- Điều 13: Cấp đăng ký hoạt động tôn giáo
Theo khoản 1 Điều 13 dự thảo Luật, hiện có hai cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Tùy thuộc vào phạm vi hoạt động của tổ chức tôn giáo, nếu tổ chức có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh có trách nhiệm cấp đăng ký; nếu tổ chức có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Về trình tự, thủ tục cấp đăng ký hoạt động tôn giáo sẽ do Chính phủ quy định.
- Điều 14: Hoạt động tôn giáo của tổ chức sau khi được cấp đăng ký
Tổ chức sau khi được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo được thực hiện một số nội dung công việc như tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, thực hiện lễ nghi, giảng đạo tại địa điểm đã đăng ký; tổ chức đại hội thông qua hiến chương, điều lệ và các nội dung có liên quan trước khi đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; bầu cử, suy cử những người lãnh đạo tổ chức; mở lớp bồi dưỡng giáo lý; sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tôn giáo; hoạt động từ thiện nhân đạo. Đây là những quyền cơ bản đầu tiên mà tổ chức được thực hiện sau khi được cấp đăng ký hoạt động. So với các quyền của tổ chức tôn giáo sau khi được công nhận về tổ chức thì quyền của tổ chức hạn chế chỉ ở 06 (sáu) nội dung trên.
Dự thảo cũng quy định khi thực hiện các hoạt động tôn giáo trên, tổ chức phải tuân thủ quy định của Luật này và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Điều 15: Thu hồi đăng ký hoạt động tôn giáo
Dự thảo Luật lần đầu tiên đưa ra chế tài nghiêm khắc khi tổ chức đã được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo vi phạm các quy định pháp luật. Đối với tổ chức tôn giáo đã được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo bị thu hồi đăng ký trong trường hợp hoạt động không đúng với tôn chỉ, mục đích của tổ chức khi đăng ký hoặc vi phạm quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 5 của dự thảo Luật.
Mặt khác, khoản 2 Điều này đưa ra các cơ quan có thẩm quyền thu hồi đăng ký hoạt động tôn giáo khi các tổ chức này vi phạm các quy định đó là cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh đối với tổ chức có phạm vi hoạt động ở một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với tổ chức có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Về trình tự, thủ tục thu hồi đăng ký hoạt động tôn giáo sẽ do Chính phủ quy định chi tiết.
IV. Chương IV – Tổ chức tôn giáo (gồm 12 điều, từ Điều 16 đến Điều 27)
- Điều 16: Điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo
Điều 16 dự thảo đã đưa ra các điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo. Điều kiện đầu tiên đó là tổ chức đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định liên tục trong 10 (mười) năm, không vi phạm quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 5 Luật này. Với điều kiện này, tổ chức tôn giáo sau khi được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo phải hoạt động liên tục trong thời gian 10 (mười) năm (không bị gián đoạn). Thời gian 10 (mười) năm là thời hạn để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét tổ chức đó có đủ khả năng để tồn tại, phát triển, đủ khả năng về nhân vật lực, đặc biệt hoạt động không vi phạm các quy định của pháp luật. Theo quy định tại Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo thì tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo kể từ khi đăng ký sinh hoạt, đăng ký hoạt động phải đáp ứng hoạt động ổn định 23 năm.
Điều kiện thứ hai, tổ chức phải có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hoạt động không trái với quy định của pháp luật. Đây là điều kiện rất quan trọng, bởi thông qua Hiến chương, điều lệ của tổ chức có thể biết được mục đích, đường hướng hoạt động, cơ cấu tổ chức,… của tổ chức ấy, đặc biệt có thể biết được tôn chỉ, mục đích của tổ chức có gắn trái với quy định của pháp luật không. Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định điều kiện về trụ sở và người đại diện hợp pháp của tổ chức. Như vậy, để được công nhận tổ chức tôn giáo, tổ chức phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên.
- Điều 17: Công nhận tổ chức tôn giáo
Điều 17 quy định về công nhận tổ chức tôn giáo bao gồm thẩm quyền quyết định việc công nhận tổ chức tôn giáo và Chính phủ sẽ quy định chi tiết trình, tự, thủ tục công nhận tổ chức tôn giáo. Về thẩm quyền, tùy thuộc vào phạm vi hoạt động của tổ chức tôn giáo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương nếu tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, công nhận.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, để giảm tải công việc cho Thủ tướng Chính phủ, nội dung này được giao cho cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
- Điều 18: Điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
Bên cạnh các quy định về điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo, Điều 18 dự thảo Luật cũng có các quy định dự liệu cho tổ chức tôn giáo khi đã được thành lập, sau một thời gian hoạt động có sự phát triển về số lượng tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành có thể thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc. Đây cũng là một quy luật tất yếu cần tính tới trong tương lai cho một tổ chức.
Các điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc bao gồm tổ chức tôn giáo có văn bản đề nghị; sau khi được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức vẫn thuộc hệ thống tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận; đáp ứng điều kiện quy định tại hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo; có địa điểm hợp pháp về nhà đất để đặt trụ sở; không vi phạm quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 5 Luật này.
- Điều 19: Chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
Điều 19 dự thảo Luật quy định thẩm quyền chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc do hai cơ quan đó là nếu tổ chức tôn giáo thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có phạm vi hoạt động trong một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, quyết định và trả lời bằng văn bản cho tổ chức tôn giáo. Nếu việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương xem xét, quyết định và trả lời bằng văn bản cho tổ chức tôn giáo.
Quy định thẩm quyền chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc đã được quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, so với Pháp lệnh nội dung, thẩm quyền tại điều này đã có sự thay đổi:
- Pháp lệnh chỉ có quy định tổ chức tôn giáo cơ sở do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền chấp thuận cho thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất. Các tổ chức tôn giáo trực thuộc khác thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, công tác quản lý và hoạt động của các tổ chức tôn giáo gặp khó khăn. Khắc phục tình trạng này, dự thảo Luật trong phần giải thích từ ngữ đã bỏ cụm từ tổ chức tôn giáo cơ sở thay bằng giải thích tổ chức tôn giáo trực thuộc. Theo quy định tại khoản 12 Điều 2 dự thảo về tổ chức tôn giáo trực thuộc được hiểu bao gồm cả các cấp hành chính đạo, dòng tu, hội đoàn, các ban, ngành, viện các cấp của tổ chức tôn giáo.
- Thẩm quyền chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập tổ chức tôn giáo không phải là tổ chức tôn giáo cơ sở trước đây thuộc Thủ tướng Chính phủ. Một mặt để giảm tải công việc cho Thủ tướng Chính phủ, mặt khác đối với các nội dung này Thủ tướng Chính phủ thường ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương vì vậy dự thảo Luật đã để thẩm quyền này thuộc cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương. Đây cũng là một quy định phù hợp với thực tiễn.
Về trình tự, thủ tục chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc do Chính phủ quy định.
- Điều 20: Thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo
Dự thảo Luật cũng dự liệu các hoạt động khác của tổ chức tôn giáo khi đã được Nhà nước công nhận. Để phát triển giáo hội, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chức sắc, nhà tu hành của các tổ chức tôn giáo là cần thiết. Điều 20 dự thảo đã khẳng định quyền được thành lập cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ hoặc quy định của tổ chức tôn giáo và phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó khoản 2 điều này đưa ra các điều kiện cụ thể cho việc thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo gồm có đề án thành lập cơ sở đào tạo phù hợp với quy mô hoạt động của tổ chức tôn giáo; được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự kiến đặt trụ sở chính của cơ sở đào tạo chấp thuận; có cơ sở vật chất, thiết bị, tài chính bảo đảm cho việc đào tạo; có dự kiến cụ thể về chương trình đào tạo, số lượng, cơ cấu đội ngũ giảng viên và người quản lý đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng và trình độ đào tạo.
Điều 20 dự thảo cũng khẳng định cơ sở đào tạo tôn giáo không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Về trình tự, thủ tục chấp thuận việc thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo do Chính phủ quy định.
Đây là nội dung mới, cụ thể so với quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo khi có nhu cầu thành lập cơ sở đào tạo.
- Điều 21: Thông báo hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo
Điều 21 dự thảo quy định trong thời hạn 30 ngày làm việc trước khi thực hiện hoạt động đào tạo, người đại diện cơ sở đào tạo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về các nội dung: Quyết định của tổ chức tôn giáo về việc thành lập cơ sở đào tạo; quy chế hoạt động và tổ chức của cơ sở đào tạo; chương trình đào tạo và giáo trình, tài liệu giảng dạy, học tập trong đó môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam là môn học chính khóa; danh sách trích ngang ban lãnh đạo, giảng viên và người quản lý; dự kiến chỉ tiêu và kế hoạch tuyển sinh; nguồn lực tài chính để đảm bảo hoạt động của cơ sở đào tạo; bản thuyết minh các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo.
Đây cũng là một nội dung mới của dự thảo Luật. Bên cạnh đó khoản 2 điều này cũng quy định nếu sau thời hạn 01 năm kể từ ngày cơ sở đào tạo được hoạt động, nếu cơ sở đào tạo không triển khai hoạt động thì phải làm lại thủ tục thông báo hoạt động đào tạo theo quy định.
- Điều 22: Việc tuyển sinh của cơ sở đào tạo tôn giáo
Điều 22 dự thảo Luật quy định việc tuyển sinh của cơ sở đào tạo tôn giáo phải thực hiện theo quy chế hoạt động và quy chế tuyển sinh của cơ sở đã được phê duyệt. Trước khi tuyển sinh, ban lãnh đạo cơ sở đào tạo có trách nhiệm gửi bản thông báo chỉ tiêu tuyển sinh đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Nội dung bản thông báo nêu rõ số lượng học viên dự kiến tuyển sinh và các điều kiện bảo đảm. Điều 22 cũng quy định điều kiện của người theo học tại cơ sở đào tạo phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Có thể thấy nội dung điều này đã được kế thừa từ các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 23: Người nước ngoài theo học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam
Bên cạnh việc quy định công dân Việt Nam có thể theo học tại các cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, Điều 23 dự thảo Luật còn quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được nhận người nước ngoài vào học tại các cơ sở đào tạo tôn giáo. Tuy nhiên người nước ngoài theo học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam phải tôn trọng phong tục tập quán của Việt Nam; tuân thủ quy định về xuất, nhập cảnh và các quy định pháp luật khác có liên quan; được ban lãnh đạo cơ sở đào tạo đồng ý và làm thủ tục đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương xem xét, quyết định. Để thuận tiện cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi nhận người nước ngoài vào học tại cơ sở đào tạo, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều này đã quy định chi tiết về trình tự, thủ tục thực hiện cũng như quy định về việc người nước ngoài trong thời gian theo học và sau khi tốt nghiệp cơ sở đào tạo tôn giáo nếu hoạt động tôn giáo ở Việt Nam phải tuân thủ quy định về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam; sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam và giảng đạo của chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài tại Việt Nam.
Đây là quy định kế thừa từ Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP.
- Điều 24: Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ sở đào tạo tôn giáo
Điều 24 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ sở đào tạo tôn giáo. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, dự thảo Luật quy định: Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, các cơ quan liên quan hướng dẫn chương trình, nội dung và kiểm tra việc giảng dạy môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nhà nước theo thẩm quyền đối với cơ sở đào tạo tôn giáo trên địa bàn; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ sở đào tạo theo đề án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Việc quy định trách nhiệm nêu trên để các cơ quan biết thực hiện, mặt khác để các tổ chức, cá nhân tôn giáo biết liên hệ khi thực hiện các công việc có liên quan.
- Điều 25: Mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo
Điều 25 dự thảo Luật quy định về việc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Trên thực tế thì không phải tổ chức tôn giáo nào cũng có điều kiện để thành lập cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo. Việc quy định mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo mở ra cơ hội cho các tổ chức tôn giáo chưa đủ điều kiện để thành lập cơ sở đào tạo. Đây cũng là một quy định hợp lý, phù hợp với thực tế. Khoản 1 điều này quy định quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền chấp thuận việc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Điều 25 đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục khi mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo.
- Điều 26: Tạm đình chỉ hoạt động, giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Khoản 1 Điều 26 quy định trong quá trình hoạt động tôn giáo, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị tạm đình chỉ hoạt động nếu hoạt động không đúng hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận hoặc vi phạm khoản 5, khoản 6 Điều 5 Luật này.
Khoản 2 Điều 26 quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc giải thể trong các trường hợp như tổ chức tôn giáo tự giải thể hoặc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc; hết thời hạn tạm đình chỉ hoạt động nhưng tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị tạm đình chỉ.
Bên cạnh đó, điều này cũng quy định về thẩm quyền tạm đình chỉ hoạt động, giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc cũng như giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục tạm đình chỉ hoạt động, giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
- Điều 27: Tạm đình chỉ hoạt động đào tạo, giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo
Đây là quy định mới so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Cũng như các hoạt động tôn giáo, cơ sở đào tạo tôn giáo bị tạm đình chỉ hoạt động đào tạo, giải thể cơ sở đào tạo trong trường hợp không bảo đảm các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật này hoặc vi phạm quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 5 Luật này. Dự thảo Luật cũng quy định cơ sở đào tạo tôn giáo giải thể trong các trường hợp: Theo đề nghị của tổ chức tôn giáo hoặc hết thời hạn tạm đình chỉ hoạt động đào tạo nhưng cơ sở đào tạo không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị tạm đình chỉ.
Điều 27 dự thảo Luật cũng quy định về thẩm quyền tạm đình chỉ, giải thể cơ sở đào tạo cũng như giao Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục tạm đình chỉ hoạt động đào tạo, giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo.
V. Chương V – Hoạt động tôn giáo (gồm 14 điều, từ Điều 28 đến Điều 41)
- Điều 28: Hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Một trong các quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đó là được tổ chức hội nghị, đại hội theo hiến chương, điều lệ hoặc quy định của tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, trước khi tổ chức hội nghị, đại hội phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khoản 2 điều này quy định cụ thể về thẩm quyền chấp thuận đối với hội nghị, đại hội. Đối với hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo trực thuộc có phạm vi hoạt động trong một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thẩm quyền thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; đối với hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có phạm vi hoạt động trong một tỉnh, thẩm quyền thuộc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh; đối với hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thẩm quyền thuộc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương; đối với hội nghị, đại hội không thuộc các quy định trên, thẩm quyền thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức hội nghị, đại hội.
So với việc phân cấp thẩm quyền về nội dung này tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã có sửa đổi. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định thẩm quyền chấp thuận đối với ba loại hội nghị: Hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo cơ sở; hội nghị, đại hội cấp trung ương, toàn đạo và hội nghị, đại hội không thuộc hai trường hợp trên, thẩm quyền chấp thuận sẽ thuộc về Ủy ban nhân dân cấp huyện, cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Dự thảo luật lần này đưa nội dung tổ chức tôn giáo trực thuộc vào điều chỉnh đồng thời mở rộng nội hàm của khái niệm bao gồm rất nhiều loại tổ chức được gọi là tổ chức tôn giáo trực thuộc như các tổ chức thuộc cấp hành chính đạo của tổ chức tôn giáo (trừ tổ chức cấp trung ương), dòng tu, hội đoàn, các ban, ngành, viện của tổ chức tôn giáo. Với số lượng đối tượng điều chỉnh đa dạng, phức tạp liên quan đến nhiều cấp của tổ chức tôn giáo, việc phân cấp thẩm quyền chấp thuận cho tổ chức hội nghị, đại hội cần phải cân nhắc rất kỹ. Dự thảo đã bổ sung thẩm quyền cho cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 28 đưa ra trường hợp hội nghị, đại hội bị tạm đình chỉ nếu việc tổ chức ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe cộng đồng.
Về trình tự, thủ tục đề nghị tổ chức hội nghị, đại hội, dự thảo Luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết.
- Điều 29: Đăng ký hiến chương, điều lệ sửa đổi
Điều 29 dự thảo quy định về việc đăng ký hiến chương, điều lệ sửa đổi của tổ chức tôn giáo. Cụ thể, đó là tổ chức tôn giáo khi sửa đổi hiến chương, điều lệ có trách nhiệm đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy phạm vi hoạt động, tổ chức tôn giáo có thể đăng ký với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Để thuận tiện cho các tổ chức tôn giáo khi thực hiện nội dung này, dự thảo luật quy định về văn bản đăng ký cần nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, người đại diện, lý do, nội dung sửa đổi kèm theo hiến chương, điều lệ sửa đổi.
Để tăng trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan khi thực hiện các nội dung này, khoản 2 điều này quy định trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời bằng văn bản. Về thời hạn trả lời, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92 quy định trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản hiến chương, điều lệ sửa đổi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ phải trả lời, tuy nhiên qua thực tế thực hiện với thời gian 07 ngày làm việc, cơ quan quản lý nhà nước không thể kịp để trả lời tổ chức tôn giáo đặc biệt với một nội dung phức tạp như xem xét hiến chương, điều lệ sửa đổi.
- Điều 30: Điều kiện phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử của tổ chức tôn giáo
Trong quá trình hoạt động, cùng với việc phát triển tín đồ, đội ngũ chức sắc của các tổ chức tôn giáo cũng không ngừng gia tăng. Nhà nước xác định đây là công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo và các tổ chức tôn giáo tự quyết định theo hiến chương, điều lệ hoặc quy định của tổ chức tôn giáo, Nhà nước không can thiệp. Đây cũng là một quyền cơ bản của tổ chức tôn giáo và khoản 1 điều 30 dự thảo đã quy định về quyền này.
Tuy nhiên, sau khi phong, bầu, tổ chức tôn giáo phải đăng ký danh sách người được phong, được bầu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhà nước sẽ căn cứ vào các điều kiện như ứng nhân đó phải là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc; nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Chỉ khi đáp ứng các điều kiện này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới chấp thuận đăng ký phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử của tổ chức tôn giáo. Nội dung này đã được quy định trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và hiện nay vẫn là cơ sở để các tổ chức tôn giáo cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.
- Điều 31: Chấp thuận đăng ký người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử
Điều 31 dự thảo Luật quy định thẩm quyền chấp thuận đăng ký người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc sau khi thực hiện việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có trách nhiệm đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy từng trường hợp có thể đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh.
Các trường hợp phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương gồm có thành viên Ban thường trực Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự; thành viên Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự; Hoà thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam; thành viên Ban Thường vụ, Chủ tịch các Ủy ban Hội đồng Giám mục Việt Nam, Hồng y, Tổng giám mục, Giám mục, Giám mục phó, Giám mục phụ tá, Giám quản, Chủ tịch Liên hiệp Bề trên thượng cấp Việt Nam, người đứng đầu dòng tu và tổ chức tu hành tập thể khác của Giáo hội Công giáo Việt Nam; thành viên Ban trị sự trung ương và tương đương của các tổ chức Tin lành; thành viên Hội đồng Chưởng quản, Hội đồng Hội thánh, Ban Thường trực Hội thánh, Phối sư và chức sắc tương đương trở lên của các Hội thánh Cao đài; thành viên Ban Trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo; những chức vụ, phẩm trật tương đương của các tổ chức tôn giáo khác; người đứng đầu cơ sở đào tạo tôn giáo.
Ngoài các trường hợp trên, sau khi thực hiện phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh.
Người được chấp thuận đăng ký phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử được hoạt động tôn giáo theo chức danh đã đăng ký.
Đây cũng là quy định được kế thừa từ Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Điều 32: Phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài
Điều 32 dự thảo quy định về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài, đó là việc tổ chức tôn giáo ở nước ngoài phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho những người thuộc tổ chức tôn giáo ở Việt Nam hoặc tổ chức tôn giáo ở Việt Nam phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử người có quốc tịch nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo của Việt Nam. Đây là một quy định mới, phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay ở nước ta cũng như việc đối xử tương ứng trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài phải được sự chấp thuận trước bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Người được đề nghị phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện như: Là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc; nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Nếu là người có quốc tịch nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam còn phải đáp ứng các điều kiện đó là được đào tạo tại cơ sở đào tạo tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam hoặc hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ít nhất 05 năm; tuân thủ pháp luật Việt Nam.
Đối với tổ chức tôn giáo có người được đề nghị hoặc đề nghị phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Văn bản nêu rõ lý do đề nghị, họ và tên, phẩm trật, chức vụ, phạm vi phụ trách, tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo của người được đề nghị. Trường hợp người Việt Nam được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài chưa được cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chấp thuận thì không được sử dụng chức danh đó để hoạt động tôn giáo tại Việt Nam.
- Điều 33: Hoạt động tôn giáo của người được chấp thuận đăng ký phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử
Điều 33 dự thảo Luật quy định người được chấp thuận đăng ký phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử quy định tại Điều 31, Điều 32 Luật này được hoạt động tôn giáo theo chức danh đã đăng ký.
- Điều 34: Thông báo thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành
Điều 34 dự thảo Luật quy định về thông báo thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi đi và nơi đến. Văn bản thông báo nêu rõ họ tên, phẩm trật, chức vụ tôn giáo của người được thuyên chuyển, lý do thuyên chuyển, nơi hoạt động tôn giáo trước khi thuyên chuyển, nơi thuyên chuyển đến.
- Điều 35: Thông báo về việc cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc trong tôn giáo
Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc thuộc quyền quản lý, tùy trường hợp có trách nhiệm gửi văn bản thông báo đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh. Điều 35 dự thảo quy định văn bản cần nêu rõ lý do cách chức, bãi nhiệm kèm theo văn bản của tổ chức tôn giáo về việc cách chức, bãi nhiệm. Đây là quy định được kế thừa từ Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 36: Giảng đạo, truyền đạo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành
Thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo là một trong những chức năng chính của chức sắc, chức việc, nhà tu hành. Đây cũng là một quyền của chức sắc, chức việc, nhà tu hành. Tuy nhiên, ở mỗi nội dung công việc đều có giới hạn nhất định như đối với việc thực hiện lễ nghi tôn giáo chỉ thực hiện trong phạm vi phụ trách; đối với giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo. Khi thực hiện các quyền này, họ còn có một số nghĩa vụ, đó là nghĩa vụ giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.
Ngoài ra khoản 2 điều này cũng đưa ra trường hợp chức sắc, chức việc, nhà tu hành giảng đạo, truyền đạo ngoài cơ sở tôn giáo phải được sự chấp thuận bằng văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi dự kiến giảng đạo, truyền đạo; trình tự, thủ tục giảng đạo, truyền đạo ngoài cơ sở tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành.
- Điều 37: Tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành
Bên cạnh việc quy định tạm đình chỉ đối với hoạt động của tổ chức tôn giáo, dự thảo Luật đã đưa ra quy định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành khi họ hoạt động không đúng quy định tại Điều 33 hoặc vi phạm quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 5 Luật này. Điều 33 cũng quy định cơ quan có thẩm quyền tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành. Về trình tự, thủ tục tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành sẽ do Chính phủ quy định.
- Điều 38: Cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo
Điều 38 dự thảo Luật đưa ra các quy định về cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo. Đối với cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo có sự tham gia của tín đồ trong phạm vi một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải được sự chấp thuận bằng văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi tổ chức cuộc lễ. Đối với cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo có sự tham gia của tín đồ đến từ nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc đến từ nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được sự chấp thuận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức cuộc lễ. Điều 38 đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo.
- Điều 39: Đăng ký người vào tu tại cơ sở tôn giáo
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người, quyền tự thân không phải do một tổ chức, cá nhân nào ban phát. Lần đầu tiên Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người không kể già trẻ, trai gái, người có quốc tịch Việt Nam, người có quốc tịch nước ngoài hay người không có quốc tịch. Vào tu tại một cơ sở tôn giáo hay theo bất cứ một tôn giáo nào đều là quyền lựa chọn của mỗi người. Tuy nhiên sự lựa chọn đó phải trên cơ sở tự nguyện, không ai được ép buộc hoặc cản trở. Riêng đối với người chưa thành niên khi đi tu phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Bên cạnh việc quy định quyền này của mọi người, để đảm bảo an ninh, trật tự khoản 2 Điều này quy định người phụ trách cơ sở tôn giáo khi nhận người vào tu có trách nhiệm đăng ký người vào tu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú. Quy định này mới so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 40: Đăng ký hoạt động tôn giáo hằng năm
Điều 40 dự thảo Luật đưa ra các quy định liên quan đến đăng ký hoạt động tôn giáo hằng năm. Đây là quy định được kế thừa từ Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Khoản 1 Điều 40 dự thảo quy định hằng năm trước ngày 15 tháng 11, người đại diện tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi bản đăng ký hoạt động tôn giáo diễn ra vào năm sau với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bản đăng ký nêu rõ các hoạt động diễn ra trong năm, nội dung, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều này đưa ra các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc về việc đăng ký hoạt động tôn giáo hằng năm.
Nếu như Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định chỉ tổ chức tôn giáo cơ sở phải đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo hằng năm thì dự thảo Luật đã quy định cả các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đều phải đăng ký hoạt động tôn giáo hằng năm. Đây là một quy định mới, khắc phục bất cập từ Pháp lệnh. Bên cạnh đó, dự thảo đưa ra bốn cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy phạm vi hoạt động có trách nhiệm trong việc tiếp nhận và trả lời tổ chức tôn giáo, đó là các cơ quan Ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh và cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
- Điều 41: Hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đăng ký hằng năm
Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi thực hiện các hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đã đăng ký hằng năm hoặc có thay đổi nội dung, thời gian, địa điểm, người đại diện tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến một trong các cơ quan tùy theo phạm vi hoạt động: Ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh và cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Điều 41 dự thảo quy định cụ thể về văn bản đề nghị cần nêu rõ nội dung, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động, các điều kiện bảo đảm cũng như trách nhiệm trả lời của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
VI. Chương VI – Quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ (gồm 04 điều từ Điều 42 đến Điều 45)
- Điều 42: Quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ
Cũng như các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ bên cạnh các hoạt động tôn giáo trong nước còn có nhu cầu giao lưu, tham gia các hoạt động tôn giáo quốc tế. Đây là một thực tế và pháp luật cần dự liệu. Nội dung này từ Pháp lệnh đã có quy định. Dự thảo Luật trên cơ sở kế thừa tiếp tục có những sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Khoản 1 Điều 42 quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ thực hiện các hoạt động quốc tế theo quy định của hiến chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam.
Khoản 2 Điều 42 dự thảo cũng quy định nghĩa vụ khi thực hiện các hoạt động quốc tế, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ phải tuân thủ pháp luật của quốc gia sở tại.
- Điều 43: Mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo
Bên cạnh việc tham gia các hoạt động tôn giáo ở nước ngoài, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc còn có nhu cầu mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo. Điều 43 dự thảo quy định cụ thể các trường hợp khi mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo và tùy trường hợp chủ thể mời là tổ chức nào sẽ được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thực hiện hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương xem xét, chấp thuận bằng văn bản.
Để thuận tiện cho việc thực hiện mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo, dự thảo Luật giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục chấp thuận các nội dung này.
- Điều 44: Tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài
Bên cạnh các hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo trong nước, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc cũng có nhu cầu tham gia các hoạt động tôn giáo quốc tế, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài. Khoản 1 Điều 44 dự thảo Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành tham gia hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài sau khi có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Điều này cũng quy định chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ sau khi hoàn thành khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài, nếu được tổ chức tôn giáo ở nước ngoài phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, khi về Việt Nam hoạt động tôn giáo, tùy từng trường hợp, tổ chức tôn giáo quản lý trực tiếp có trách nhiệm đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Bên cạnh đó Điều 44 dự thảo cũng đưa ra các yêu cầu đối với người Việt Nam khi hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của công dân Việt Nam.
Về trình tự, thủ tục tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài sẽ do Chính phủ quy định.
- Điều 45: Gia nhập tổ chức tôn giáo quốc tế
Điều 45 dự thảo Luật quy định tổ chức tôn giáo được tham gia các tổ chức tôn giáo quốc tế, tuy nhiên khi tham gia các tổ chức này, tổ chức tôn giáo phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Đây cũng là một trong những quy định mới của dự thảo Luật so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
VII. Chương VII – Hoạt động của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ trong lĩnh vực xuất bản, giáo dục, đào tạo, y tế, từ thiện, nhân đạo (gồm 03 điều, từ Điều 46 đến Điều 48)
- Điều 46: Xuất bản phẩm liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
Để đảm bảo quyền xuất bản phẩm liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, Điều 46 dự thảo Luật quy định tổ chức, cá nhân tham gia xuất bản sách kinh, ấn phẩm tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng việc đạo theo quy định của pháp luật.
- Điều 47: Hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Việc tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Những năm qua, các tổ chức tôn giáo đã tích cực tham gia vào chủ trương xã hội hóa bằng các việc làm thiết thực như tham gia thành lập các cơ sở bảo trợ xã hội, ủng hộ đồng bào lũ lụt,… Những hoạt động đó phần nào góp sức cùng Nhà nước giải quyết các khó khăn của xã hội. Hiện nay vấn đề về giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội được quy định rất cụ thể, chi tiết trong các văn bản pháp luật có liên quan từ điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoạt động,… Đây cũng là một trong những nội dung mới, mở rộng, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo nếu đủ điều kiện thực hiện theo quy định.
Khoản 1 Điều này quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thực hiện các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội theo quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, khi thực hiện các hoạt động này, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc không được truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo tại cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế và bảo trợ xã hội do tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thành lập, quản lý.
- Điều 48: Hoạt động từ thiện, nhân đạo của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ
Bên cạnh các quy định cho phép tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trực tiếp thực hiện các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, Điều 48 dự thảo Luật quy định Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ thực hiện hoạt động từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật.
Khi thực hiện các hoạt động này, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ không được lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo để thực hiện các hoạt động vì mục đích khác. Đây là nội dung mới của dự thảo Luật so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
VIII. Chương VIII – Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (gồm 05 điều, từ Điều 49 đến Điều 53)
- Điều 49: Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Cũng như các tổ chức xã hội khác, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có tài sản phục vụ cho hoạt động tôn giáo. Để bảo hộ cho các tài sản này, Điều 49 dự thảo Luật quy định tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm việc xâm phạm tài sản đó.
Tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo là các tài sản được tạo lập theo quy định tại hiến chương, điều lệ, quy định của giáo hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
- Điều 50: Hoạt động quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Hoạt động quyên góp cũng là một trong các quyền của tổ chức tôn giáo. Khoản 1 Điều 50 dự thảo quy định cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện quyền này, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc tổ chức quyên góp, trong đó nêu rõ mục đích, phạm vi, cách thức, thời gian, cơ chế quản lý, sử dụng tài sản được quyên góp. Khi nhận được thông báo của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc về việc quyên góp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm giám sát việc thực hiện theo nội dung thông báo.
Về thẩm quyền, khoản 3 Điều này quy định tùy từng trường hợp nếu tổ chức quyên góp trong phạm vi một xã thì thẩm quyền tiếp nhận thông báo thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức quyên góp; nếu tổ chức quyên góp vượt ra ngoài phạm vi một xã nhưng trong phạm vi một huyện thẩm quyền tiếp nhận thông báo thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi tổ chức quyên góp; nếu tổ chức quyên góp vượt ra ngoài phạm vi một huyện thì thẩm quyền tiếp nhận thông báo thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức quyên góp. Cũng tại khoản này còn có quy định về việc các cơ quan có thẩm quyền không có ý kiến khác thì cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được tổ chức quyên góp theo nội dung thông báo.
Khi tổ chức quyên góp, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thực hiện việc quyên góp phải bảo đảm tính công khai, minh bạch đối với các khoản quyên góp, kể cả việc phân bổ; không được lợi dụng danh nghĩa cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc để quyên góp phục vụ lợi ích cá nhân hoặc những mục đích trái pháp luật.
Khoản 5 Điều này quy định về mục đích sử dụng tài sản được dâng cúng, quyên góp phải được sử dụng đúng mục đích, phục vụ cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và lợi ích của cộng đồng.
Bên cạnh việc tiếp nhận tài sản quyên góp trong nước, khoản 6 Điều này còn quy định về việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản quyên góp có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Điều 51: Đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo
§iÒu 159 LuËt §Êt ®ai năm 2013 quy ®Þnh về đất cơ sở tôn giáo như sau:
“ Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo”.
Về đất cơ sở tín ngưỡng, Điều 160 cũng quy định “1. Đất tín ngưỡng bao gồm đất có công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ.
2. Việc sử dụng đất tín ngưỡng phải đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
3. Việc xây dựng, mở rộng các công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ của cộng đồng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Bên cạnh đó còn nhiều điều khoản trong Luật Đất đai năm 2013 quy định về đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo. Vì vậy, tại dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ quy định khái quát, dẫn nguồn khi thực hiện việc quản lý, sử dụng đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Điều 52: Cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo
Luật Xây dựng được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2014. Bên cạnh việc quy định về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, cấp giấy phép xây dựng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước,… còn có các quy định liên quan đến xây dựng cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo. Từ việc quy định cụ thể đó trong Luật Xây dựng, dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ quy định khái quát, dẫn nguồn văn bản pháp luật áp dụng khi thực hiện xây dựng, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo và công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo là di tích lịch sử.
Khoản 1 Điều 52 quy định việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo và công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng và pháp luật có liên quan.
Tại khoản 2 quy định về việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng đối với các công trình, nhà ở riêng lẻ xây dựng trong đô thị, trung tâm cụm xã, trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa. Quy định này nhằm chỉ rõ những công trình không phải là nơi thờ tự, hoạt động tôn giáo việc xây dựng thực hiện theo quy định pháp luật về xây dựng có liên quan để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xây dựng của tổ chức, cá nhân tôn giáo.
- Điều 53: Di dời công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo
Điều 53 dự thảo Luật đưa ra quy định về việc di dời các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo. Việc di dời các công trình này trong các trường hợp vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật có liên quan.
IX. Chương IX – Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam (gồm 03 điều, từ Điều 54 đến Điều 56)
- Điều 54: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền cơ bản của con người, quyền tự thân, vốn có, không do một cá nhân, tổ chức hay Nhà nước nào ban tặng. Ở Việt Nam, quyền này không chỉ của công dân Việt Nam, mà còn là quyền của người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch và được pháp luật thừa nhận.
Dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo tại Điều 54 đã đưa ra các quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam đó là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; được sinh hoạt tôn giáo; vào tu tại cơ sở tôn giáo; được mời chức sắc là người Việt Nam hoặc người nước ngoài để thực hiện các lễ nghi tôn giáo, được giảng đạo, vào tu tại cơ sở tôn giáo; theo học tại cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo hoặc lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; được mang theo xuất bản phẩm tôn giáo và đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu của bản thân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh quyền này, khi vào Việt Nam, họ phải tôn trọng các quy định của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam.
- Điều 55: Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam
Thời gian gần đây, với xu thế giao lưu, hội nhập, nhiều người nước ngoài đến Việt Nam để học tập, công tác. Bên cạnh các công việc đó, họ còn có nhu cầu được thỏa mãn đức tin, được sinh hoạt tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo của Việt Nam hoặc tập trung thành nhóm để sinh hoạt. Nội dung này đã được quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên Pháp lệnh chỉ cho phép họ được tập trung sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo của Việt Nam. Điều này đã hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài bởi lẽ có một số tôn giáo người nước ngoài tin theo chưa có ở Việt Nam như Chính thống giáo, đạo Sikh, Thần đạo,… nên không có cơ sở tôn giáo ở Việt Nam, mặt khác nhiều cơ sở tôn giáo ở nước ta chật chội không đủ sức chứa, mặt khác sự bất đồng ngôn ngữ cũng khiến cho việc thực hành các lễ nghi khó khăn. Trước tình hình đó việc quy định cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo hoặc các địa điểm hợp pháp khác như tín đồ tôn giáo Việt Nam là cần thiết và khoản 1 Điều 55 dự thảo Luật đã truyền tải nội dung này. Đây là nội dung mới, khắc phục bất cập của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo về việc không cho phép người nước ngoài thuê địa điểm để sinh hoạt tôn giáo.
Cơ quan có thẩm quyền chấp thuận cho người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo riêng tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi người nước ngoài đăng ký sinh hoạt tôn giáo. Về trình tự, thủ tục cho người nước ngoài tập trung để sinh hoạt tôn giáo riêng tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam do Chính phủ quy định.
- Điều 56: Giảng đạo của chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài tại Việt Nam
Khoản 1 Điều 56 dự thảo Luật quy định quyền của chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài được giảng đạo tại Việt Nam sau khi có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Quy định này một mặt đáp ứng nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam được nghe chức sắc, nhà tu hành nước ngoài thuyết giảng, mặt khác là cơ sở để người nước ngoài có nhu cầu tập trung sinh hoạt tôn giáo riêng được mời chức sắc, nhà tu hành có cùng ngôn ngữ thuyết giảng cho mình. Trong quá trình giảng đạo, chức sắc, nhà tu hành phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam và tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam.
Khoàn 2 điều này quy định trách nhiệm của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, người nước ngoài tập trung sinh hoạt tôn giáo riêng tại Việt Nam khi mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo tại Việt Nam gửi văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Về thẩm quyền, thời hạn, khoản 3 Điều này quy định trong thời hạn 25 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản.
X. Chương X – Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo (gồm 08 điều, từ Điều 57 đến Điều 64)
Đây là một chương mới của dự thảo Luật so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Chương này gồm 08 điều, cụ thể:
- Điều 57: Nguyên tắc quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 57 dự thảo Luật quy định Nhà nước thống nhất và đảm bảo việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định các nguyên tắc: Trong phạm vi, nhiệm vụ của mình các tổ chức, cá nhân thực hiện và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật và bất cứ tổ chức, cá nhân nào vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Điều 58: Nội dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Dự thảo Luật quy định tại Điều 58 nội hàm của quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm các nội dung: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, đề án, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm về chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác tôn giáo; tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về tín ngưỡng, tôn giáo; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 59: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế phần lớn thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Bởi vậy, dự thảo Luật quy định, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước. Điều này có nghĩa là chủ thể phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ gồm các cơ quan hành chính nhà nước mà còn bao gồm các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp và tư pháp, nhưng đầu mối thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là thuộc về Chính phủ.
+ Về cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo: Để giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và nhất là có cơ chế theo dõi, đánh giá việc bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dự thảo Luật dự kiến giao cho cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở đó Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngoài ra, dự thảo Luật quy định trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.
- Điều 60: Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận
Để nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết toàn dân, Điều 60 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên gồm các nội dung: Tập hợp đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan có thẩm quyền; tham gia xây dựng pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ, người có tín ngưỡng, các tổ chức tôn giáo và nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; giám sát việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật còn quy định trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đó là trách nhiệm phản biện xã hội đối với các dự thảo chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình; phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc tuyên truyền, vận động và thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 61: Thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 61 dự thảo Luật quy định thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo trong cả nước.
Khoản 2 Điều này, quy định các nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo gồm: Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban nhân dân các cấp; thanh tra việc chấp hành pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ; thanh tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Điều 62: Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về tín ngưỡng, tôn giáo
Trong quá trình thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, có thể xảy ra trường hợp cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, vì vậy, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại Điều 62 cơ chế cho phép các đối tượng trên có quyền khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
- Điều 63: Giải quyết tố cáo về tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 63 dự thảo Luật quy định về quyền của mọi tổ chức, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.
- Điều 64. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 64 dự thảo Luật quy định người có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
XI. Chương XI – Điều khoản thi hành (gồm 03 điều, từ Điều 65 đến Điều 67)
- Điều 65: Điều khoản chuyển tiếp
Điều 65 dự thảo Luật quy định các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đã được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo theo quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo không phải làm thủ tục đăng ký, công nhận theo quy định của Luật này; Hội đoàn tôn giáo, dòng tu và tổ chức tu hành tập thể của các tổ chức tôn giáo đã được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo theo quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo không phải làm thủ tục đăng ký theo quy định của Luật này.
- Điều 66: Hiệu lực thi hành
Điều 66 dự thảo Luật dự kiến thời điểm có hiệu lực của Luật. Đây là khoảng thời gian để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu thực hiện Luật.
Điều 66 dự thảo cũng đưa ra quy định khi Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực thi hành cũng là thời điểm Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hết hiệu lực.
- Điều 67: Quy định chi tiết
Điều 67 dự thảo Luật quy định trách nhiệm của Chính phủ trong việc quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật.
Trên đây là nội dung thuyết minh chi tiết về các điều, khoản của dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Bộ Nội vụ trân trọng báo cáo./.
Báo cáo đánh giá tác động của dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Cơ quan ban hành:
Ngày ban hành: 27/08/2015
Số hiệu:
Mô tả:
(Trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 40, Quốc hội khóa XIII, tháng 8-2015)
4._bc_RIA_Luat_tin_nguong_ton_giao.doc
Giới thiệu
Ở nước ta, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người, quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định và luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, ban hành nhiều chính sách để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, các quan điểm, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo (sau đây gọi là Nghị quyết số 25-NQ/TW), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (Pháp lệnh) đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành, tạo hành lang pháp lý để ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng như chính sách của Nhà nước đối với tôn giáo, quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Nội dung của Pháp lệnh đã quán triệt, thể chế hóa đầy đủ những quan điểm, chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước được ghi nhận trong các kỳ Đại hội; bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế điều chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà đặc biệt là những Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Pháp lệnh cũng thể hiện chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tổ chức tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương, điều lệ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Điều đó đã làm lành mạnh hoá các quan hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của tín đồ và tổ chức tôn giáo, vì lợi ích chung của toàn xã hội trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế. Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, thực hiện đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo".
Tuy nhiên, qua tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh và các văn bản quy định chi tiết thi hành, có thể thấy vẫn còn những bất cập, thiếu sót trong các quy định của Pháp lệnh với tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng phát triển và có những vấn đề phức tạp phát sinh. Pháp lệnh còn thiếu cụ thể hoặc chưa bảo đảm phù hợp với thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, chưa phát huy được vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong việc cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội. Hoạt động tín ngưỡng và trách nhiệm quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong Pháp lệnh mới chỉ quy định ở mức độ đơn giản, trong khi định hướng xã hội về tín ngưỡng còn hạn chế dẫn đến tư tưởng duy tâm thần bí có xu hướng mở rộng trong xã hội, nhiều cá nhân đã lợi dụng hoạt động tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân làm ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự công cộng, sức khỏe cộng đồng, lợi dụng tôn giáo để xâm hại an ninh trật tự…
Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn hoạt động tôn giáo chưa được quy định trong Pháp lệnh như vấn đề tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo; thẩm quyền đình chỉ các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong hoạt động tôn giáo; chưa có quy định về tổ chức, cá nhân tôn giáo tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm về các vấn đề liên quan của đời sống xã hội hoặc tổ chức, cá nhân tổ chức hội nghị, hội thảo về tôn giáo…
Có thể thấy, những hạn chế, vướng mắc, bất cập như nêu trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sớm tiến hành xây dựng văn bản thay thế Pháp lệnh để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng như ổn định tình hình, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này. Bên cạnh đó, tại Báo cáo Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã nêu rõ: “tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng”.
Cùng với đó, Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi rất quan trọng về quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Điều 24 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người quan trọng, cơ bản, được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Hiến pháp cũng bổ sung nguyên tắc về việc hạn chế quyền con người trong các trường hợp nhất định phải do luật định, theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người, nên việc quy định hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải được quy định cụ thể và bằng luật. Đồng thời, tại Hiến pháp cũng đã phân định thẩm quyền của Quốc hội, thẩm quyền của Chính phủ trong quyết định các chính sách tôn giáo, quản lý nhà nước về tôn giáo. Đây là các vấn đề đặt ra cần phải ban hành luật để cụ thể hoá đầy đủ nội dung, quy định và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngoài ra, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, hoạt động tôn giáo trên thế giới rất đa dạng, có nhiều biến động phức tạp cũng như sức ép về các vấn đề nhân quyền, dân chủ từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia lớn đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tôn giáo cũng như công tác quản lý tôn giáo ở Việt Nam. Còn có hiện tượng một số tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo bị các thế lực xấu, phản động trong và ngoài nước lợi dụng, sử dụng chống Đảng, Nhà nước Việt Nam, gây rối hoặc bạo loạn phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta hiện nay. Đây cũng là các vấn đề nảy sinh trong hoạt động tôn giáo, đặt ra yêu cầu cần sớm sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật mới để hoàn thiện cơ sở pháp lý, giải quyết tổng thể các vấn đề phát sinh trong công tác tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Từ những căn cứ nêu trên, yêu cầu phải có một đạo luật để điều chỉnh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, tạo ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực đầy đủ hơn, cao hơn để quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, phù hợp với Hiến pháp mới và các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, việc xây dựng dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Theo đó, tại Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh khoá XIII và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 đã đưa dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những dự án Luật cụ thể hoá quyền con người theo quy định của Hiến pháp năm 2013 đầu tiên được ban hành trong năm 2016 và Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo nhằm mục đích khắc phục những hạn chế trong hoạt động xây dựng pháp luật và hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Việc sửa đổi Luật nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể:
(I) Thể chế hóa các quan điểm của Đảng và Hiến pháp 2013 nhằm hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo;
(II) Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người;
(III) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo để ổn định tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo;
(IV) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính;
(V) Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo điều kiện để quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và các giá trị dân chủ, văn minh của loài người và chủ nghĩa xã hội được phát huy; giữ vững niềm tin của người có tín ngưỡng, tôn giáo vào chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước;
(VI) Góp phần thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống Đảng và Nhà nước. Thể hiện trách nhiệm quốc gia đối với việc thực hiện pháp luật quốc tế.
Trong quá trình soạn thảo dự thảo Luật, một số chính sách/nội dung lớn của dự thảo Luật được đưa ra để thực hiện các mục tiêu nêu trên. Nhiều giải pháp, phương án được các cơ quan, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học đề xuất để giải quyết các vấn đề trong dự thảo Luật. Trong bối cảnh đó, thực hiện đánh giá tác động các chính sách/nội dung lớn của dự thảo Luật vừa là thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, vừa để có thể giúp tìm ra một cơ sở chung cho các phương án có lợi nhất. Khi thực hiện RIA cho dự thảo Luật, mục tiêu trước mắt là cung cấp cơ sở để trao đổi về nội dung của dự thảo Luật một cách minh bạch và giúp Quốc hội có đủ dữ liệu đánh giá lợi ích và chi phí của các phương án đang xem xét. Báo cáo RIA xác định các phương án cụ thể, đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của các phương án đó và trình bày kết quả đánh giá để so sánh các phương án với nhau một cách rõ ràng.
Với mục đích đó, Bộ Nội vụ – Ban Tôn giáo Chính phủ (cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo Luật theo sự phân công của Chính phủ) tiến hành đánh giá các chính sách/nội dung quan trọng trong dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo trên phương diện tác động cải thiện luật pháp. Đối tượng đánh giá theo phương pháp RIA là dự thảo Luật được đưa ra lấy ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức tôn giáo. Trong quá trình đánh giá, nhiều phương án lựa chọn cho một số quy định trong dự thảo Luật đã được cân nhắc; các thông tin về tác động tích cực và tác động tiêu cực của các phương án lựa chọn cũng đã được đưa ra thảo luận và được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp ý kiến. Các thông tin đó đặc biệt có ích khi còn có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung của dự thảo, cho dù có nhiều ý kiến thống nhất về tác động của Luật.
Sau khi so sánh tác động ảnh hưởng về mặt lợi ích - chi phí của các giải pháp khác nhau (xem Phần III và Phần IV Báo cáo), Nhóm chuyên gia thấy rằng nếu chọn lựa các giải pháp có lợi nhất đối với hoạt động thống kê thì dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo cần phải quy định cụ thể các vấn đề sau đây:
a) Quy định cụ thể chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
b) Luật hóa các biện pháp quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với đặc điểm, yêu cầu quản lý và hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo
c) Quy định rõ các hoạt động xã hội, từ thiện của tổ chức tôn giáo trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội; khẳng định Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ thực hiện hoạt động từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật và một số điều cấm trong hoạt động xã hội từ thiện của tổ chức tôn giáo và chính sách khuyến khích của Nhà nước.
d) Quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài ở Việt Nam và các hoạt động được thực hiện; bổ sung quy định về người nước ngoài được thuê địa điểm để sinh hoạt tôn giáo.
đ) Thống nhất giao cho một cơ quan quản lý nhà nước để thực hiện việc quản lý nhà nước cả hai hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo. Riêng đối với hoạt động lễ hội tín ngưỡng mang tính chất, ý nghĩa của các di sản văn hoá thì giao cho Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quản lý việc tổ chức các lễ hội
II. Đánh giá tác động của văn bản và sử dụng phương pháp RIA trong việc đánh giá dự thảo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
1. RIA giúp công tác xây dựng VBQPPL hiệu quả hơn
RIA là phương pháp được sử dụng phổ biến ở nhiều nước để đánh giá tác động của các luật, chính sách mới đối với cuộc sống. RIA là công cụ đánh giá các tác động tích cực (lợi ích) và tiêu cực (chi phí) của một hành động mà Chính phủ dự kiến thực hiện, giúp các nhà hoạch định chính sách xác định được các phương án tốt nhất và tồi nhất. RIA, nếu được tiến hành theo đúng cách thức, sẽ có tác dụng cải thiện đáng kể kết quả của các chính sách trong văn bản, và giảm đáng kể rủi ro gây ra do sai sót khiến chi phí tăng lên làm phương hại đến đời sống người dân và nền kinh tế.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những cải cách pháp lý quan trọng nhằm cụ thể hoá đầy đủ nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về một trong những quyền con người quan trọng, cơ bản hàng đầu, trong đó có việc cụ thể hoá các giới hạn của quyền tín ngưỡng, tôn giáo và nâng cao trách nhiệm bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Đây cũng là một trong những Luật có tác động sâu sắc tới sự ổn định và phát triển xã hội của đất nước, là công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, có nhiều biến động phức tạp cũng như sức ép về các vấn đề nhân quyền, dân chủ từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia lớn trong hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.
Tại dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo có đề xuất nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng, tuy nhiên, thực hiện phương pháp đánh giá tác động đối với các chính sách/nội dung cơ bản của dự thảo chỉ xác định các vấn đề ưu tiên đánh giá và dùng phương pháp của đánh giá tác động để lựa chọn ra một số chính sách/nội dung quan trọng, có nhiều tác động cơ bản tới các đối tượng để đánh giá, phân tích. Đó còn là các chính sách/nội dung trong dự thảo văn bản mà cách thức tiếp cận vẫn đang còn nhiều tranh luận, đưa ra các phương án/lựa chọn khác nhau để giải quyết vấn đề.
Mục tiêu của việc tiến hành đánh giá tác động của dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo cũng phù hợp với các mục tiêu chung của RIA là:
- Hỗ trợ các nhà lập pháp xây dựng các phương án có khả năng phân bổ lại các nguồn lực hạn chế trong quản lý công để tránh bị ảnh hưởng của các vấn đề pháp lý, các cách thức giải quyết quá phức tạp, không cần thiết;
- Xác định các phương án có nhiều khả năng giảm bớt chi phí và sai sót trong chính sách công;
- Làm tăng tính linh hoạt và phù hợp với nhu cầu tương lai của Luật tín ngưỡng, tôn giáo trong một môi trường xã hội và pháp lý thay đổi nhanh chóng;
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm tạo ra kết quả mong muốn trong việc thực hiện các mục tiêu chính sách công;
- Nâng cao tính minh bạch của các chính sách và quy định.
2. Quy trình thực hiện RIA – lấy ý kiến và phương pháp RIA
Quy trình thực hiện RIA được tiến hành theo các bước sau:
- Xác định các vấn đề ưu tiên dựa trên các tiêu chí rõ ràng;
- Xác định các mục tiêu của vấn đề;
- Lựa chọn các giải pháp để giải quyết từng vấn đề;
- Xác định phương pháp RIA cho từng vấn đề thông qua việc xác định các yếu tố chi phí và lợi ích chính;
- Xác định nhu cầu dữ liệu phân tích;
- Xác định phương pháp thu thập dữ liệu và tham vấn về phương pháp đó;
- Thu thập, tập hợp dữ liệu và tham vấn bằng phương pháp đã thống nhất;
- Đánh giá, phân tích các dữ liệu đã thu thập được;
- Nhóm nghiên cứu dự thảo thống nhất về cách diễn giải kết quả phân tích, thống nhất các giải pháp và kết luận;
- Viết báo cáo RIA.
Tổng cộng có 5 vấn đề với 15 lựa chọn được xem xét trong quá trình đánh giá tác động của 5 vấn đề nêu trên. Mỗi vấn đề sẽ có một giải pháp có tính chất vạch ranh giới - giải pháp giữ nguyên hiện trạng, tức là không thay đổi tình trạng hiện có của vấn đề. Giải pháp giữ nguyên hiện trạng luôn được sử dụng trong RIA bởi phân tích RIA luôn tính tới các tác động ngoài lề, nghĩa là phải so sánh tác động của tất cả các giải pháp thay đổi với giải pháp giữ nguyên hiện trạng để tìm hiểu rõ hơn tác động bên lề nếu có thay đổi.
Năm vấn đề của dự thảo Luật được đánh giá sau đây:
(1). Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo Hiến pháp năm 2013.
(2). Về quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng; tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo.
(3). Hoạt động xã hội vì mục đích từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo.
(4). Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam.
(5). Phân định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Thực hiện RIA cho Luật tín ngưỡng, tôn giáo là công việc rất khó khăn vì đây là luật điều chỉnh về quyền con người, vừa điều chỉnh về quản lý nhà nước, do đó các tác động của chính sách/nội dung được đánh giá thường nặng về định tính hơn là có thể tính toán được các chi phí cụ thể; một chính sách thường phải sử dụng nhiều giải pháp đồng thời mới có thể thực hiện được hiệu quả.
III. Đánh giá tác động các chính sách/vấn đề của dự thảo Luật
1. Vấn đề 1: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo Hiến pháp năm 2013
1.1. Xác định vấn đề
Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, còn các vấn đề liên quan đến việc ghi nhận và bảo đảm quyền được sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam thì chưa được ghi nhận cụ thể. Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống tại Việt Nam ngày càng nhiều, có nhu cầu tập trung thành nhóm riêng để sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, việc giải quyết nơi sinh hoạt tôn giáo riêng, nhất là đối với các loại hình tôn giáo mà Việt Nam chưa có hoặc rất hạn chế về cơ sở thờ tự cho các đối tượng này còn gặp khó khăn vì chưa có quy định. Do đó, khi thể chế hóa các quy định của Hiến pháp cũng như quyết định chính sách về tôn giáo, các cơ quan nhà nước chưa có cơ sở pháp lý cần thiết để quy định cụ thể về vấn đề này. Hiện nay việc bảo đảm, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài và công tác quản lý nhà nước đối với đối tượng này còn đang bỏ ngỏ, chủ yếu thực hiện theo chỉ đạo của Đảng và Chính phủ.
Khắc phục những bất cập trong quy định của Hiến pháp năm 1992, Điều 24 Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi Điều 70 Hiến pháp năm 1992 theo hướng khẳng định "mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào". Quy định này đã mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ "công dân" thành "mọi người", thể hiện đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người mà không phải chỉ là quyền công dân như Hiến pháp 1992 trước đây. Đồng thời, Hiến pháp khẳng định rõ "Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Theo đó, quy định này đã rõ ràng hơn quy định trước đây trong Hiến pháp 1992 “ Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dung tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".
Các quy định, nội dung và tinh thần mới này của Hiến pháp đã đặt ra yêu cầu cần phải được cụ thể hoá chi tiết trong Luật. Theo đó, Luật sẽ quy định chủ thể "mọi người" của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là những đối tượng cụ thể nào, khái niệm này có bị giới hạn ở đối tượng cụ thể nào không hay mở rộng tới mọi đối tượng trong xã hội, gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch sinh sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài... Luật cũng sẽ quy định cụ thể các chính sách của Nhà nước trong việc tôn trọng quyền tự do theo hoặc không theo tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo, các chính sách bảo hộ của Nhà nước đối với hoạt động hợp pháp của tổ chức tôn giáo, tôn trọng và hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động hợp pháp của các tổ chức tôn giáo, chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định nguyên tắc “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ của cộng đồng”. Theo đó, Luật sẽ cụ thể hoá nguyên tắc này trong các quy định về hành vi ngăn cấm, về các điều kiện để tổ chức tôn giáo được đăng ký thành lập, sinh hoạt tôn giáo, trong các hoạt động của tổ chức tôn giáo, trong các quy định về xử lý vi phạm pháp luật của tổ chức tôn giáo... Quy định này là cần thiết để bảo đảm Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trong một tổng thể chung về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Các quy định này cũng đã được khoản 3 Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc ghi nhận “quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
1.2. Mục tiêu của chính sách
- Cụ thể hóa đầy đủ và chính xác quy định, nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và phù hợp với quy định của Công ước về các quyền dân sự và chính trị.
- Bảo đảm sự ghi nhận của Nhà nước và quyền bình đẳng, công bằng của mọi đối tượng trong xã hội về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các đối tượng trong xã hội, làm cơ sở cho việc quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền phù hợp với từng đối tượng của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Xác định rõ giới hạn của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các trường hợp cụ thể để bảo đảm tôn trọng tối đa quyền tự do của mọi người, đồng thời xác lập các hành vi ngăn cấm, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong một tổng thể chung về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
1.3. Các phương án giải quyết
Phương án 1: Giữ nguyên như hiện nay.
Phương án 2: Quy định cụ thể chủ thể "mọi người" của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch sinh sống và làm việc trong lãnh thổ Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài...
Phương án 3: Quy định các chủ thể như phương án 2 và bổ sung cả người bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân theo quy định của pháp luật có liên quan.
1.4. Đánh giá tác động của các phương án
a) Phương án 1
Nếu giữ như hiện nay tức là chỉ quy định chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo là công dân Việt Nam thì chưa bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị. Phương án này cũng chưa giải quyết được những vướng mắc, bất cập về việc thiếu cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các đối tượng không phải là công dân Việt Nam như người nước ngoài, người không quốc tịch và các đối tượng khác, khó khăn cho công tác quản lý đối với sinh hoạt tôn giáo do không có quy định cụ thể, nhất là các chế tài xử lý vi phạm hoặc khi cần thiết phải hạn chế một số hoạt động tôn giáo của người nước ngoài sinh sống, học tập và làm việc tại Việt Nam trong các tôn giáo mới, tôn giáo lạ có những ảnh hưởng nhất định tới an ninh xã hội.
b) Phương án 2
Phương án này nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, theo đó, chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được mở rộng tới các chủ thể bao gồm: công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch sinh sống và làm việc trong lãnh thổ Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài...
Lợi ích của phương án:
- Đối với Nhà nước:
+ Mở rộng chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để Nhà nước có đủ cơ sở xác lập các cơ chế bảo đảm và tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước đối với mọi đối tượng được hưởng quyền và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ để Nhà nước xác lập các giới hạn của quyền và các nghĩa vụ cụ thể cho mọi đối tượng hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử của Nhà nước trong ghi nhận và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Là cơ sở để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
+ Nâng cao trách nhiệm và thể hiện rõ việc tổ chức thực thi cam kết của Nhà nước trong việc tôn trọng và thực hiện có hiệu quả các quyền được Công ước quốc tế ghi nhận bằng hoạt động lập pháp cũng như bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trên thực tế.
- Đối với tổ chức, cá nhân:
+ Mở rộng phạm vi chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, trên cơ sở đó các tổ chức, cá nhân có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Vì quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được coi là một quyền tự thân, không do một tổ chức, một cá nhân hay một Nhà nước nào ban tặng và không ai được phép tước bỏ, ép buộc, xâm phạm và Nhà nước phải tôn trọng, bảo hộ quyền tự do ấy.
+ Thông qua việc giới hạn rõ ràng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của từng chủ thể, các chủ thể sẽ biết rõ phạm vi, mức độ thực hiện quyền của mình, các giới hạn của quyền để thực hiện đúng pháp luật và được Nhà nước bảo hộ.
+ Là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức, cá nhân đề nghị Nhà nước ghi nhận, bảo hộ quyền của mình và là cơ sở để khiếu nại, khởi kiện khi có các hành vi xâm hại tới quyền của tổ chức, cá nhân một cách bất hợp pháp.
+ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn là quyền được tự do bày tỏ niềm tin, đức tin của mình; quyền hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp; quyền tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.
+ Khẳng định các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tôn giáo, tránh được sự mặc cảm của các tổ chức tôn giáo do ra đời sau hoặc có số lượng chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ, cơ sở thờ tự ít. Quy định này một lần nữa nói lên chính sách tôn trọng, bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước ta đối với các tổ chức tôn giáo là như nhau, cho dù tổ chức tôn giáo đó ra đời, được công nhận sớm hay muộn. Bên cạnh sự bảo đảm của Nhà nước đối với quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật, Nhà nước cũng luôn khuyến khích, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo.
Tác động tiêu cực:
Việc mở rộng đối tượng của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị về cơ bản đem lại các tác động tích cực cho cả Nhà nước và các tổ chức, cá nhân. Tác động tiêu cực của phương án hầu như không rõ rệt, chỉ là các tác động lên khu vực Nhà nước khi phải ban hành các chính sách để bảo đảm thực thi tốt hơn quyền của các chủ thể được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ... và tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo để hiểu đúng tinh thần của pháp luật trong việc ghi nhận, bảo đảm thực hiện các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
c) Phương án 3
Các tác động của phương án này về cơ bản tương tự như phương án 2, đồng thời quy định rõ hơn quyền của các đối tượng là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân theo quy định của pháp luật có liên quan. Đây là quy định rất tích cực cho các đối tượng này vì họ đang là đối tượng bị hạn chế một số quyền theo quy định của pháp luật, nhưng riêng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, họ được Nhà nước ghi nhận và được đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của cá nhân họ. Bên cạnh đó, việc ghi nhận sau khi họ chấp hành xong án phạt tù hoặc quản chế theo quy định của pháp luật thì được chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo và quản lý tổ chức tôn giáo và để thực hiện được quyền chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo phải được tổ chức tôn giáo đăng ký và được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là những quy định hoàn toàn mới, đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, phù hợp với quy định về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người quy định tại Hiến pháp năm 2013 cũng như Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị.
1.5. Kết luận và kiến nghị
Trên cơ sở kết quả đánh giá tác động của từng phương án và so sánh tác động tích cực và hạn chế giữa các phương án, Nhóm nghiên cứu thấy rằng dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo cần phải quy định cụ thể chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như phương án 3.
2. Vấn đề 2. Về quản lý nhà nước đối với hoạt động của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo
3.1. Xác định vấn đề
Hiện nay, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định về hoạt động của cơ sở tín ngưỡng, hoạt động và tổ chức của tổ chức tôn giáo tương đối phù hợp với thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và yêu cầu quản lý nhà nước đối với các đối tượng này. Các quy định về đăng ký sinh hoạt tôn giáo; điều kiện đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo (cấp trung ương hoặc trực thuộc); thành lập trường, giải thể trường, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển chức sắc trong tôn giáo; trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết được quy định trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết và hạn chế sự can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động nội bộ của các tổ chức tôn giáo.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn hàng trăm cơ sở tín ngưỡng đang hoạt động, đang tổ chức các lễ hội tín ngưỡng, cầu cúng mang tính chất tâm linh... đáp ứng nhu cầu tâm linh, tinh thần của một bộ phận lớn quần chúng nhân dân, hoạt động đúng theo thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh một cách chuyên biệt.
2.2. Mục tiêu của chính sách
- Luật hóa các quy định phù hợp trong các văn bản của Chính phủ về các hoạt động cần phải có sự quản lý của nhà nước phải tiến hành đăng ký để vừa tạo điều kiện cho công tác quản lý, vừa là cơ sở để Nhà nước bảo hộ, kịp thời hỗ trợ các điều kiện cần thiết cho các tổ chức tôn giáo trong hoạt động của mình.
- Công khai, minh bạch và đơn giản hóa trình tự, thủ tục hành chính trong các thủ tục quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo và các hoạt động tín ngưỡng.
2.3. Các phương án giải quyết
a) Phương án 1: Giữ nguyên như hiện nay - chỉ quy định mang tính nguyên tắc về các biện pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo, còn các quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục để Chính phủ quy định và không bổ sung các quy định về quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng.
b) Phương án 2: Luật hóa các quy định cụ thể về biện pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tổ chức và hoạt động đối với tổ chức tôn giáo hiện đang quy định tại Nghị định số 92/2012/NĐ-CP đã được thực tiễn chứng minh là phù hợp và được các tổ chức tôn giáo đồng tình.
c) Phương án 3: Tương tự như phương án 2, bổ sung quy định về quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng.
2.4. Đánh giá tác động của các phương án
a) Phương án 1
Nếu thực hiện theo phương án này, các quy định về quản lý đối với tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo vẫn sẽ chỉ được quy định trong văn bản của Chính phủ. Theo đó, một số quy định về điều kiện, tiêu chuẩn để các tổ chức tôn giáo, các cá nhân được Nhà nước công nhận, chấp thuận hoặc cho đăng ký thực hiện các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo sẽ do văn bản dưới luật quy định là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013. Điều này sẽ dễ dẫn đến khả năng các quy định hạn chế quyền của tổ chức, cá nhân không phải do luật định. Hơn nữa, nhiều hoạt động tín ngưỡng đang còn bỏ trống, chưa có cơ sở pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước có thể kịp thời hỗ trợ, can thiệp nhằm bảo đảm các hoạt động đó diễn ra đúng mục đích, tránh được sự lợi dụng để gây phương hại, ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục, sức khỏe, trật tự và lợi ích của cộng đồng.
b) Phương án 2
Thực hiện theo phương án này, Luật sẽ quy định cụ thể về các nội dung quản lý bao gồm: đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm của cơ sở tín ngưỡng; đăng ký sinh hoạt tôn giáo; đăng ký hoạt động tôn giáo; các nội dung liên quan đến tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo, bao gồm: điều kiện để thành lập, công nhận, cơ quan có thẩm quyền chấp thuận việc thành lập, công nhận; về tất cả các hoạt động của tổ chức tôn giáo, bao gồm: hội nghị, đại hội, thẩm quyền chấp thuận hội nghị, đại hội, hiến chương, điều lệ sửa đổi; điều kiện, thẩm quyền chấp thuận phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho chức sắc, nhà tu hành trong tổ chức tôn giáo ở Việt Nam cũng như người có quốc tịch nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo của Việt Nam, trách nhiệm thông báo của tổ chức khi cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc; thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành cần có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi đến và thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi đi.
Lợi ích của phương án:
- Đối với Nhà nước:
+ Quy định cụ thể, rõ ràng các nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, là cơ sở pháp lý cao nhất để tăng hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước, bảo đảm các hoạt động quản lý nhà nước được toàn diện, phù hợp với hoạt động tín ngưỡng, tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo.
+ Bảo đảm nguyên tắc các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, theo đó, các cơ quan nhà nước chỉ được thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước đã được Luật quy định, không tự mình đặt ra thêm các biện pháp can thiệp vào hoạt động nội bộ của các tổ chức tôn giáo và các hoạt động của các cơ sở tín ngưỡng.
+ Thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện, phân cấp và giao trách nhiệm cho các cấp chính quyền phù hợp với nhu cầu quản lý, năng lực quản lý và đối tượng quản lý.
+ Hạn chế các khiếu nại, khiếu kiện của các tổ chức tôn giáo do các quy định về thủ tục hành chính, các biện pháp quản lý đối với họ đã rõ ràng, cụ thể, thuận tiện.
- Đối với tổ chức tôn giáo, cá nhân:
+ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước bảo đảm thông qua các biện pháp quản lý nhà nước ngày càng theo hướng thông thoáng, cởi mở hơn đối với việc thành lập tổ chức, các hoạt động tôn giáo diễn ra trong năm, các hoạt động tín ngưỡng được đăng ký, chấp thuận hoặc thông qua thủ tục thông báo.
+ Hoạt động nội bộ của tổ chức tôn giáo được tôn trọng, hạn chế tối đa sự can thiệp mệnh lệnh hành chính vào tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo.
+ Là cơ sở pháp lý công khai, minh bạch để các cá nhân, tổ chức tôn giáo được biết và thực hiện quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước các cơ quan nhà nước, đồng thời là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và yêu cầu cơ quan nhà nước thực hiện chỉ trong khuôn khổ pháp luật.
Hạn chế của phương án:
Về cơ bản, các biện pháp quản lý nhà nước đang được thực hiện theo quy định của Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, các chi phí phát sinh do tổ chức thực hiện các thủ tục hành chính từ phía cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức tôn giáo, cá nhân đã được đánh giá kỹ trong quá trình xây dựng Nghị định, do đó, khi Luật hoá các biện pháp này thì về cơ bản không làm phát sinh thêm chi phí cho cả hai phía.
c) Phương án 3:
Các tác động tích cực của phương án này về cơ bản tương tự như phương án 2, chỉ phát sinh thêm đối với biện pháp quy định về quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng. Theo đó, bằng việc bổ sung quy định các hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng hàng năm phải được đăng ký hoạt động với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ bảo đảm các hoạt động tín ngưỡng tại cộng đồng sẽ bảo đảm thuần phong mỹ tục, phát huy bản sắc văn hoá tiên tiến, đem lại đời sống tâm linh, tinh thần tích cực cho cộng đồng, đồng thời hạn chế tối đa các hoạt động tín ngưỡng đã lạc hậu hoặc mê tín dị đoan. Việc đăng ký hoạt động tín ngưỡng không cản trở hay gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, ngược lại còn là biện pháp để Nhà nước kịp thời hỗ trợ các hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng trong việc bảo đảm an ninh trật tự, an toàn trong khi tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, kịp thời can thiệp để bảo vệ tài sản, sức khoẻ của người tham gia vào các hoạt động tín ngưỡng có phạm vi tổ chức rộng lớn.
2.5. Kết luận và kiến nghị
Trên cơ sở kết quả đánh giá tác động của từng phương án và so sánh tác động tích cực và hạn chế giữa các phương án, Nhóm nghiên cứu thấy rằng dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo cần phải quy định cụ thể về quản lý nhà nước đối với hoạt động của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức và hoạt động của tổ chức tôn giáo như phương án 3.
3. Vấn đề 3. Hoạt động xã hội vì mục đích từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo
3.1. Xác định vấn đề
Thời gian qua, hoạt động xã hội của tổ chức, cá nhân tôn giáo thường tập trung vào giáo dục mầm non, dạy nghề, nhân đạo, cứu trợ, y tế… Với các hình thức và nội dung hoạt động phong phú như mở trường, lớp mầm non, lớp học tình thương, trung tâm dạy nghề, trung tâm bảo trợ xã hội, ủng hộ đồng bào bão lụt, cung cấp cơm, cháo, nước sôi cho người nghèo, người bệnh đã phần nào làm giảm bớt khó khăn cho xã hội, làm vơi nỗi đau về thể xác và tinh thần cho người được thụ hưởng; chia sẻ gánh nặng với Nhà nước và xã hội, góp phần cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên, theo quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo hiện hành thì các tổ chức tôn giáo được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tham gia các hoạt động trên, điều đó làm hạn chế và không phát huy hết vai trò, tiềm lực của các tổ chức tôn giáo. Bên cạnh đó, một số luật chuyên ngành mới được ban hành trong thời gian qua như Luật phòng chống HIV, AIDS; Luật khám bệnh, chữa bệnh... đã cho phép tổ chức tôn giáo được thành lập các cơ sở nhân đạo, từ thiện để chăm sóc, nuôi dưỡng người nhiễm HIV và thực hiện các hoạt động khác trong phòng, chống HIV/AIDS.
Trên thực tế, việc tổ chức các hoạt động xã hội, từ thiện của một số tổ chức tôn giáo còn gặp nhiều khó khăn do giữa pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và pháp luật chuyên ngành chưa có các quy định cụ thể, thống nhất để tạo thuận lợi cho tổ chức tôn giáo được tham gia vào các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Một số tổ chức tôn giáo còn đưa các vấn đề về sinh hoạt tôn giáo, các hoạt động tôn giáo vào trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo, làm ảnh hưởng tới mục đích, ý nghĩa của hoạt động và phần nào mang màu sắc của việc ép buộc phải thực hiện các hoạt động tôn giáo nhưng hiện các cơ quan nhà nước cũng chưa có cơ sở pháp lý để hạn chế, ngăn cấm hoặc xử lý kịp thời. Một số hoạt động nhân đạo, từ thiện như khám chữa bệnh của các tổ chức tôn giáo gây ra những hậu quả xấu cho sức khỏe của người dân, tín đồ, nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em mồ côi trong các cơ sở tôn giáo với điều kiện cơ sở vật chất không bảo đảm hoặc vì động cơ, mục đích không chính đáng... nhưng cũng chưa được xử lý nghiêm vì còn thiếu cơ chế xác định thẩm quyền xử lý vi phạm, chế tài xử lý vi phạm để làm lành mạnh hóa hoạt động từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo.
3.2. Mục tiêu của chính sách
- Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hoá trong một số lĩnh vực, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được tham gia sâu rộng vào các hoạt động xã hội hoá vì mục đích từ thiện, nhân đạo, vừa phát huy được vai trò và tiềm năng của tổ chức, cá nhân tôn giáo, đồng thời hạn chế được các mặt tiêu cực trong thời gian qua.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành thực hiện các hoạt động xã hội vì mục đích từ thiện nhân đạo, phát triển cộng đồng, phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và theo quy định của pháp luật.
3.3. Các phương án
Phương án 1
Giữ nguyên như hiện nay, tức là chỉ quy định Nhà nước khuyến khích tổ chức tôn giáo được tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện.
Phương án 2
Quy định rõ các hoạt động xã hội, từ thiện của tổ chức tôn giáo trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, còn việc thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Đồng thời khẳng định Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ thực hiện hoạt động từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật.
Phương án 3
Tương tự như phương án 2, nhưng quy định cụ thể về một số điều cấm trong hoạt động xã hội từ thiện của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và chính sách khuyến khích của Nhà nước.
Theo phương án này, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thực hiện các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội theo quy định pháp luật. Trong hoạt động xã hội, từ thiện, nhân đạo, tổ chức tôn giáo không được phép truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo tại cơ sở giáo dục, đào tạo do tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thành lập, quản lý theo quy định của pháp luật về giáo dục, đào tạo; không được lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo để thực hiện các hoạt động vì mục đích khác.
3.4. Đánh giá tác động của các phương án
a) Phương án 1: Giữ nguyên như hiện hành
Thực hiện theo phương án này, các tổ chức tôn giáo vẫn sẽ được Nhà nước khuyến khích tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo, tuy nhiên, các bất cập, hạn chế như nêu tại mục 3.1 vẫn chưa được khắc phục và việc thu hút các tổ chức tôn giáo tham gia sâu rộng, đóng góp tích cực cho các hoạt động xã hội, từ thiện, vì lợi ích cộng đồng khó đạt được.
b) Phương án 2:
Thực hiện theo phương án này sẽ đem lại các tác động tích cực như sau:
- Đối với Nhà nước:
+ Tạo sự đồng bộ, thống nhất, cụ thể trong chính sách của Nhà nước đối với việc khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, từ thiện nhân đạo.
+ Đóng góp của các tổ chức tôn giáo trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo và tiềm lực từ việc huy động các tổ chức tôn giáo vào các hoạt động này là rất lớn và có ý nghĩa to lớn, giúp các cơ quan nhà nước giảm tải gánh nặng, sức ép lên các đơn vị sự nghiệp công lập.
+ Đối tượng mà tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành hướng tới thường là những thành phần “ dễ bị tổn thương”, những đối tượng thiệt thòi trong xã hội, đặc biệt là những đối tượng do nhiều nguyên nhân khác nhau chưa được các cấp chính quyền, đoàn thể của Nhà nước quan tâm đầy đủ. Với sự giúp đỡ của tổ chức, cá nhân tôn giáo, nhiều em thơ đã biết đọc, biết viết, được cắp sách tới trường; nhiều cụ già cô đơn không nơi nương tựa được sống vui vẻ trong phần còn lại của cuộc đời; nhiều con người lầm lỡ đã được cứu vớt, được làm lại cuộc đời; nhiều bệnh nhân đã được chăm sóc, nuôi dưỡng, chữa lành bệnh; nhiều thanh niên đã học được nghề phù hợp và có việc làm, thu nhập ổn định...
+ Trong khi nhiều cơ sở giáo dục, cơ sở y tế công lập còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về thái độ phục vụ, về giá cả, chất lượng phục vụ... thì nhiều cơ sở giáo dục, khám chữa bệnh của tổ chức tôn giáo đã đạo lập được niềm tin với người dân. Rất nhiều cơ sở giáo dục của tổ chức tôn giáo không chỉ thu hút con em là người có đạo mà cả con em của cán bộ, công chức. Họ gửi con em mình không chỉ vì học phí thấp mà cơ bản là ở sự nhiệt tình, chu đáo, tận tuỵ, hết lòng với công việc, không kể thời gian của đội ngũ giáo viên. Nhiều cơ sở y tế không chỉ là nơi khám chữa bệnh ban đầu bằng các phương tiện kỹ thuật mà còn là nơi chăm sóc, điều trị bằng “liệu pháp tinh thần”, giúp bệnh nhân mau lành bệnh. Người đến học, đến khám chữa bệnh tại cơ sở của tôn giáo không chỉ được học chữ, học văn hoá, được chữa bệnh mà còn được học làm người, học được tình yêu thương, chia sẻ giữa con người với con người.
+ Bằng các hoạt động từ thiện nhân đạo, tổ chức, cá nhân tôn giáo đã thu hút được một nguồn nhân lực, vật lực, tài lực đáng kể trong xã hội để góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá của Đảng, Nhà nước; chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước, với xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế và giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra. Với hoạt động đầy tính nhân văn của mình, các tổ chức, cá nhân tôn giáo góp phần tô đậm, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.
+ Là cơ sở để các tổ chức tôn giáo có điều kiện phát huy hết tiềm năng, khả năng, những đóng góp cho xã hội. Hơn nữa, nếu quy định rõ trong luật sẽ có cơ sở nhận diện các hoạt động nào là được phép, hoạt động nào không được phép để xử lý khi các tổ chức tôn giáo hoạt động vượt ra ngoài các quy định của pháp luật.
- Đối với tổ chức tôn giáo, tín đồ tôn giáo:
+ Chức sắc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo hầu hết là những người đã xuất gia, chuyên lo hoạt động tôn giáo, hoạt động xã hội, không bị vướng bận nhiều về gia đình riêng do đó có nhiều thời gian và tâm trí dành cho các hoạt động mang tính chất nhân đạo, xã hội.
+ Hoạt động tôn giáo do tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện liên quan đến vấn đề tâm linh của con người, nên rất nhiều tổ chức, cá nhân muốn thông qua tổ chức, cá nhân tôn giáo để làm việc thiện và mong muốn sẽ nhận được sự may mắn, bình an trong cuộc sống trần gian cũng như khi sang “ thế giới bên kia”.
+ Tham gia chủ trương xã hội hóa hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, từ thiện nhân đạo vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm đối với mỗi tín đồ tôn giáo. Các hoạt động đều mang tính tự nguyện, không vụ lợi nên họ có trách nhiệm với công việc. Những công việc họ làm mang lại những kết quả, hiệu quả thiết thực đã tạo được niềm tin với mọi người. Khi họ tổ chức các hoạt động mang tính chất nhân đạo, từ thiện được mọi người tin tưởng và ủng hộ.
+ Kịp thời bổ sung, cập nhật các thông tin, hiểu biết cho các tổ chức tôn giáo về chủ trương xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của Đảng và Nhà nước để thực hiện hiệu quả, chất lượng.
+ Một số cấp chính quyền địa phương chưa thực sự khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia các chủ trương này, thậm chí có nơi còn e ngại.
+ Nhìn chung đội ngũ giáo viên, y, bác sỹ tại các cơ sở giáo dục, cơ cở y tế của tổ chức tôn giáo vừa thiếu, vừa yếu, trình độ chưa đáp ứng yêu cầu trong từng lĩnh vực. Các cơ sở khám chữa bệnh bằng thuốc đông y, thuốc nam hoạt động chủ yếu bằng kinh nghiệm gia truyền. Khi mở các cơ sở giáo dục, cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức tôn giáo chủ yếu phải sử dụng giáo viên, bác sĩ đang làm việc trong các cơ quan nhà nước hoặc những người đã nghỉ hưu với nhiều hình thức mà chủ yếu là tự nguyện không hưởng lương hoặc tiền công mang ý nghĩa tượng trưng, nhất là các cơ sở y tế.
+ Cơ sở vật chất để thực hiện các hoạt động này còn rất hạn hẹp, nhiều nơi chưa đáp ứng theo qui định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo có rất ít cơ sở riêng để thực hiện các hoạt động này, thông thường họ phải sử dụng khuôn viên cơ sở thờ tự để thực hiện các hoạt động xã hội. Tại nhiều Chùa Phật giáo Nam tông được sử dụng là nơi dạy học, các cơ sở của Tịnh độ cư sĩ cũng là phòng thuốc nam, các trụ sở dòng tu đạo Công giáo là lớp mầm non… Với việc sử dụng cơ sở thờ tự làm nơi dạy học, rất khó thực hiện nguyên tắc trong quản lý hoạt động giáo dục: “ Tách nhà thờ khỏi trường học” .
+ Kinh phí chủ yếu để thực hiện chủ trương xã hội hóa có được từ sự tự nguyện đóng góp của tổ chức, cá nhân, nên nguồn kinh phí này thiếu ổn định, khó khăn cho việc hoạt động. Một số địa phương do lo ngại việc thành lập trung tâm bảo trợ xã hội của tôn giáo trên địa bàn nguồn kinh phí hoạt động không ổn định, có thể để lại gánh nặng cho địa phương nên từ chối cấp phép thành lập trung tâm.
+ Hạn chế sự tự phát trong hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong tham gia các lĩnh vực xã hội hóa vì mục đích từ thiện, nhân đạo, bảo đảm trách nhiệm hướng dẫn và tăng cường quản lý của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tôn giáo.
- Hạn chế của phương án:
+ Việc khẳng định tổ chức tôn giáo được thực hiện các hoạt động giáo dục, đào tạo, bảo trợ xã hội theo quy định của pháp luật có thể sẽ dẫn tới phải rà soát, sửa đổi hệ thống pháp luật hiện hành để quy định rõ phạm vi, điều kiện, thủ tục các tổ chức tôn giáo được tham gia thực hiện các hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, bảo trợ xã hội vì mục đích từ thiện, nhân đạo để tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, khả thi cho việc thực hiện.
+ Có thể hoạt động của các tổ chức tôn giáo trong các lĩnh vực này tăng nhanh, do đó, trách nhiệm quản lý nhà nước của các ngành, các cấp sẽ tăng lên và ngày càng đòi hỏi phải sâu sát để bảo đảm hiệu quả quản lý, hạn chế thấp nhất những tiêu cực có thể nảy sinh, do đó, chi phí về nguồn nhân lực, kinh phí cũng như yêu cầu tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng như ở các ngành, lĩnh vực chuyên môn tăng cao.
+ Đặt ra trách nhiệm phối hợp cao hơn cho các cơ quan, ban ngành, các cấp trong bảo đảm việc thực hiện hoạt động của tổ chức tôn giáo và quản lý nhà nước.
c) Phương án 3
Tác động của phương án này tương tự như phương án 2, nhưng lợi ích tăng thêm từ việc sẽ hạn chế tối đa việc tổ chức các hoạt động tôn giáo vào hoạt động từ thiện nhân đạo để không tạo nên những ảnh hưởng của tôn giáo. Đặc biệt, đối tượng học tập thường là các cháu trong độ tuổi mầm non, việc giáo dục định hướng cho các cháu ở độ tuổi này rất quan trọng. Tại các cơ sở giáo dục của tổ chức, cá nhân tôn giáo không chỉ có chăm sóc, dạy dỗ những kiến thức văn hoá cho các cháu, mà bằng nhiều hình thức còn truyền bá các tư tưởng, giá trị tôn giáo.
3.5. Kết luận và kiến nghị
Trên cơ sở kết quả đánh giá tác động của từng phương án và so sánh tác động tích cực và hạn chế giữa các phương án, Nhóm nghiên cứu thấy rằng dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo cần phải quy định cụ thể hoạt động xã hội vì mục đích từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo như phương án 3.
4. Vấn đề 4: Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam
4.1. Xác định vấn đề
Hiện nay, toàn cầu hóa là xu thế tất yếu đang cuốn hút hầu hết các quốc gia trên thế giới tham gia, trong đó, tôn giáo cũng là một vấn đề nằm trong sự vận động chung của bối cảnh thế giới. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo đang là một vấn đề mà nhiều quốc gia quan tâm. Cùng với sự phát triển theo xu thế chung của thế giới và phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, mối quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo Việt Nam diễn ra ngày càng sôi động và có tác động đến nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Cùng với sự giao lưu và hội nhập quốc tế, ngày nay nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài đến Việt Nam làm ăn, học tập, sinh sống. Với số lượng người nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều, số lượng người nước ngoài là tín đồ các tôn giáo trên thế giới vào Việt Nam đã, đang và sẽ ngày càng tăng cao. Một bộ phận không nhỏ các tổ chức, cá nhân này có nhu cầu được sinh hoạt tôn giáo tại địa phương họ cư trú và làm việc.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, chính quyền tại các địa phương nơi có nhiều người nước ngoài cư trú và làm việc đã tạo điều kiện cho họ được tập trung thành nhóm để sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở thờ tự hợp pháp của các tổ chức tôn giáo trong nước trên cơ sở quy định của pháp luật Việt Nam. Các tổ chức tôn giáo tương ứng, hợp pháp của Việt Nam luôn tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài cư trú và làm việc tại Việt Nam, cử chức sắc tôn giáo hướng dẫn sinh hoạt đạo cho họ.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vẫn còn có một số bất cập trong việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam như: có sự khác biệt quá lớn trong sinh hoạt giữa các hệ phái thuộc cùng một tôn giáo (như giữa các hệ phái Tin lành,…); số lượng người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo quá đông, các cơ sở tôn giáo tương ứng hiện có chật hẹp; người nước ngoài theo những tôn giáo không có ở Việt Nam (như Anh giáo, Chính thống giáo, Do thái giáo,…), còn có sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ… làm cho việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam gặp khó khăn.
Ở một số địa phương đã xảy ra tình trạng các nhóm tôn giáo người nước ngoài tự thuê, mượn các địa điểm (không phải là cơ sở thờ tự tương ứng của Việt Nam) để làm nơi sinh hoạt tôn giáo hay giao lưu. Có nơi chính quyền địa phương không cho phép họ thuê địa điểm để giao lưu, sinh hoạt tôn giáo đã gây ra những phản ứng, có lúc căng thẳng. Tình hình này gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc vừa đảm bảo việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ để giúp họ yên tâm học tập, sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số nội dung quy định trong văn bản quy phạm pháp luật ban hành chưa phù hợp với thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo trong tình hình mới. Cụ thể như: sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài ở ngoài cơ sở thờ tự, hoạt động từ thiện của các tổ chức tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo nước ngoài, người nước ngoài vào tu tại các cơ sở tôn giáo ở Việt Nam, tổ chức hội thảo quốc tế liên quan đến tôn giáo...
4.2. Mục tiêu của chính sách
- Tiếp tục kế thừa quy định tại Pháp lệnh về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, đồng thời, điều chỉnh để khắc phục những tồn tại, hạn chế cũng như bảo đảm phù hợp hơn với tình hình thực tiễn và những điểm đổi mới trong nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
- Tạo điều kiện cho người nước ngoài được sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam, được sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, được mời chức sắc là người Việt Nam hoặc người nước ngoài để thực hiện các lễ nghi tôn giáo cho mình.
4.3. Các phương án
Phương án 1
Giữ nguyên như hiện nay.
Phương án 2
Quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài ở Việt Nam và các hoạt động được thực hiện; bổ sung quy định về đăng ký hoạt động của tổ chức tôn giáo nước ngoài ở Việt Nam và tạo điều kiện cho người nước ngoài được thuê địa điểm để sinh hoạt tôn giáo.
Phương án 3
Tương tự như phương án 2, đồng thời bổ sung quy định về xây dựng trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo tại một số thành phố có nhiều người nước ngoài theo tín ngưỡng, tôn giáo
4.4. Đánh giá tác động của các phương án
a) Phương án 1
Thực hiện theo phương án này, sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài vẫn được bảo đảm, tuy nhiên, chưa thể hiện đầy đủ sự tôn trọng và ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cũng như các chính sách cởi mở, tạo điều kiện của Nhà nước đối với sinh hoạt tôn giáo của họ trên lãnh thổ Việt Nam. Một số khó khăn, vướng mắc trong sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài như sinh hoạt điểm nhóm, cơ sở tôn giáo ở Việt nam chật hẹp chưa phù hợp với tôn giáo của người nước ngoài cũng chưa được khắc phục.
b) Phương án 2
Lợi ích của phương án:
- Thực hiện theo phương án này đã thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta trong việc ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người nước ngoài, không có phân biệt đối xử, bất bình đẳng với công dân Việt Nam, phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và sự thống nhất trong chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nươc trong thời kỳ mới.
- Quy định này cũng bảo đảm phù hợp hơn trong chính sách tôn giáo đối với người nước ngoài tại Việt Nam và trong điều kiện hội nhập quốc tế, phù hợp với năng lực quản lý nhà nước về công tác tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; được sinh hoạt tôn giáo; được mời chức sắc là người Việt Nam để thực hiện các lễ nghi tôn giáo, được giảng đạo, vào tu tại cơ sở tôn giáo; theo học tại cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo hoặc lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; được mang theo xuất bản phẩm tôn giáo và đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu của bản thân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước trong việc bên cạnh ghi nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền của người nước ngoài, thì khi vào Việt Nam, họ phải tôn trọng các quy định của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam.
- Việc quy định về đăng ký hoạt động tôn giáo của tổ chức tôn giáo nước ngoài ở Việt Nam để họ được đối xử như các tổ chức tôn giáo trong nước và thuận lợi trong quản lý. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, đã có tổ chức tôn giáo nước ngoài xin đăng ký hoạt động tại Việt Nam nhưng chưa được chấp thuận, trong khi đó, một số tổ chức tôn giáo ở Việt Nam như Phật giáo, Cao Đài đã được thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc ở một số nước trên thế giới. Việc cho đăng ký hoạt động và quy định về hoạt động tôn giáo của cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài ở Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo và người nước ngoài có cơ sở pháp lý để hoạt động tôn giáo tại Việt Nam.
- Thông qua việc cho người nước ngoài được thuê địa điểm hợp pháp khác để sinh hoạt tôn giáo sẽ bảo đảm điều kiện thuận lợi hơn nữa cho họ trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đáp ứng nhu cầu được thỏa mãn đức tin, được sinh hoạt tôn giáo phù hợp với tôn giáo của họ, giúp họ yên tâm sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
- Góp phần đấu tranh ngăn chặn các tôn giáo hoạt động theo chiều hướng tiêu cực, xâm nhập vào Việt nam để gây chia rẽ dân tộc, ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự, an toàn xã hội, lợi ích cộng đồng, sự đoàn kết trong các tổ chức tôn giáo và ảnh hưởng tới đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
- Tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước các cấp trong việc giải quyết, xử lý các vấn đề liên quan đến sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài, nhất là trong việc tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức này được thuê địa điểm sinh hoạt tôn giáo phù hợp.
Hạn chế của phương án: Theo phương án này cần có hướng dẫn cụ thể về việc cho thuê địa điểm sinh hoạt tôn giáo để thực hiện thống nhất, thuận lợi cho cả cơ quan nhà nước và người nước ngoài.
c) Phương án 3
Thực hiện theo phương án này, các tác động tương tự như phương án 2, riêng đối với việc cho xây dựng trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo theo phương án xã hội hóa do tổ chức, cá nhân quản lý tại một số tỉnh, thành phố có đông người nước ngoài sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo sẽ có những tác động nhất định trong bối cảnh hiện này. Theo đó, tác động tích cực là sẽ tạo điều kiện cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có thể thuê khi có nhu cầu, mặt khác sẽ thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong công tác quản lý, hạn chế việc thuê địa điểm phân tán ở một số thành phố lớn. Tuy nhiên, nếu cho người nước ngoài được mua đất, xây dựng cơ sở tôn giáo ở Việt Nam ở một số thành phố lớn, trong bối cảnh hiện nay là chưa phù hợp. Vì theo quy định của Luật đất đai, người nước ngoài, tổ chức nước ngoài không phải là chủ thể được trao quyền sử dụng đất. Hơn nữa, trên thực tế, một số tổ chức tôn giáo mới được công nhận chưa có điều kiện về đất đai để xây dựng cơ sở. Người nước ngoài sinh sống rải rác trong nhiều nơi trên cả nước, nếu chỉ xây dựng tập trung trong một số địa phương cũng không bảo đảm sự thuận tiện cho sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài.
4.5. Kết luận và kiến nghị
Qua đánh giá các tác động của các phương án nêu trên, chúng tôi nhận thấy nên thực hiện theo phương án 2 là hợp lý hơn cả để vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam, thể hiện sự đối xử bình đẳng, tôn trọng và ghi nhận quyền của Nhà nước đối với họ, đồng thời là các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền của Nhà nước đối với họ phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt nam và thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan. Thực hiện theo phương án này cũng khắc phục được hạn chế của Pháp lệnh 2004 và phù hợp với Hiến pháp 2013.
5. Vấn đề 5. Phân định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
5.1. Xác định vấn đề
“Tín ngưỡng là tiền đề, là cốt lõi tinh thần của tôn giáo”, từ tín ngưỡng sinh các tôn giáo, nảy sinh các hiện tượng “đạo lạ” và “tà đạo”. Với hàng trăm tín ngưỡng truyền thống và mới phát sinh ở tất cả các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam cũng như trong tất cả các vùng miền của đất nước đã và đang đặt ra các chính sách, biện pháp tổng thể để thực hiện quản lý nhà nước với các hiện tượng tâm linh này và nếu không được quản lý từ gốc sẽ khó khăn cho việc nhận biết bản chất và quản lý các tôn giáo mới nảy sinh sau này. Trong khi đó, hiện nay chưa có sự phân công cụ thể trách nhiệm quản lý cho Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ trong việc quản lý đối với các hoạt động tín ngưỡng. Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch chỉ được phân công quản lý lễ hội trong đó có lễ hội tín ngưỡng, còn Bộ Nội vụ - Ban Tôn giáo Chính phủ chỉ được phân công quản lý nhà nước về tôn giáo.
Điều này dẫn đến trong thời gian gần đây, việc quản lý, tổ chức các sinh hoạt tín ngưỡng tại các cơ sở tín ngưỡng, các di tích ở nhiều địa phương thiếu chặt chẽ và nề nếp đã làm nảy sinh tình trạng lộn xộn, phức tạp, làm giảm giá trị của di tích, gây bức xúc đối với khách tham quan và công chúng khi đến di tích. Nhiều hoạt động tín ngưỡng mang màu sắc mê tín dị đoan, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và đời sống tinh thần lành mạnh, tốt đẹp của người dân. Nhiều hoạt động tín ngưỡng của các tổ chức tôn giáo, diễn ra ở các cơ sở tôn giáo cũng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền quản lý nhà nước nên còn lúng túng hoặc bỏ ngỏ trong công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động này.
5.2. Mục tiêu của chính sách
- Quy định thống nhất thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong công tác quản lý đối với các hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng, cộng đồng dân cư và các di tích liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
- Xác định rõ trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở các cấp chính quyền trong quản lý hoạt động tín ngưỡng, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có địa chỉ cụ thể trong việc đề xuất, kiến nghị các cơ quan nhà nước giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
5.3. Các phương án
Phương án 1
Giữ nguyên như hiện nay
Phương án 2
Thống nhất trong một cơ quan quản lý nhà nước để thực hiện việc quản lý nhà nước cả hai hoạt động này. Riêng đối với hoạt động lễ hội tín ngưỡng mang tính chất, ý nghĩa của các di sản văn hoá thì giao cho Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quản lý việc tổ chức các lễ hội
Phương án 3
Phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về tín ngưỡng và tôn giáo, theo đó, giao cho Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch quản lý thống nhất về tín ngưỡng, bao gồm cả các tín ngưỡng mang danh tôn giáo như “đạo mới”, “đạo lạ” và “tà đạo”; Bộ Nội vụ - Ban Tôn giáo Chính phủ quản lý thống nhất về tôn giáo.
5.4. Đánh giá tác động của từng phương án
a) Phương án 1
Nếu thực hiện như phương án 1 sẽ vẫn duy trì việc phân công chưa hợp lý, còn bỏ sót các nhiệm vụ về quản lý hoạt động tín ngưỡng như hiện nay. Trong bối cảnh các hoạt động tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo, các hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở tín ngưỡng ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và phức tạp về nội dung, hình thức hoạt động, nếu không có phương án giao cho một cơ quan thống nhất quản lý về vấn đề này sẽ vẫn để xảy ra nhiều bất cập, hạn chế trong công tác quản lý tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, các hoạt động tín ngưỡng mang tính truyền thống, lành mạnh cần được bảo lưu, phát huy cũng sẽ thiếu đi cơ quan có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện cần thiết để tổ chức thực hiện hiệu quả và đúng định hướng.
b) Phương án 2
- Tác động tích cực:
Thống nhất một cơ quan quản lý nhà nước sẽ đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính, một việc giao cho một cơ quan thực hiện để bảo đảm kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh và xác định trách nhiệm rõ ràng. Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự phân định rất mong manh, nhiều hoạt động tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo và là tiền đề hình thành các tổ chức tôn giáo. Do đó, việc thống nhất quản lý nhà nước hai nội dung này trong một cơ quan quản lý nhà nước sẽ đạt hiệu quả hơn là sự chia tách thành nhiều cơ quan cùng thực hiện.
Quy định thống nhất và cụ thể các thẩm quyền, trách nhiệm của một cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cũng sẽ giúp cơ quan đó xác định rõ thẩm quyền, giới hạn thẩm quyền quản lý, không còn lúng túng hoặc bỏ trống nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Bằng việc phân định rõ thẩm quyền sẽ giúp các cơ quan phân định rõ vai trò, trách nhiệm chủ trì, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng.
Lợi ích của việc quy định rõ chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo đối với công chúng là rất rõ ràng. Theo đó, thống nhất thẩm quyền quản lý trong một cơ quan để tổ chức tôn giáo, người dân biết rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của mình, thuận lợi trong việc liên hệ, thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan và là nơi hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện các hoạt động hợp pháp của mình. Đây cũng là nơi để tổ chức, cá nhân tôn giáo, các cơ sở tín ngưỡng kip thời phản ánh, kiến nghị, đề xuất các biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của họ, qua đó niềm tin của người dân vào các cơ quan hành chính nhà nước được cải thiện, mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân ngày càng gắn bó.
Việc quy định cụ thể về thẩm quyền quản lý nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo cũng sẽ làm giảm chi phí giải quyết khiếu nại, khiếu kiện từ các tổ chức, cá nhân đối với trường hợp khiếu nại, khiếu kiện các vấn đề liên quan không rõ hoặc không đúng thẩm quyền.
Về mặt chi phí: quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng và thống nhất trong cơ quan quản lý tôn giáo hiện nay sẽ dẫn đến khả năng tăng chi phí ngân sách nhà nước để các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước. Tuy nhiên, quy định này không làm phát sinh nhiều chi phí đối với khu vực ngoài nhà nước.
c) Phương án 3
Thực hiện theo phương án này sẽ dẫn tới việc chia cắt nhiệm vụ quản lý tín ngưỡng và tôn giáo thành hai lĩnh vực khác nhau và giao cho hai Bộ, ngành quản lý độc lập là chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm và sự phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo; chưa đem lại hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước. Điều này cũng sẽ gây khó khăn, lúng túng cho hai Bộ khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo phân khúc, vì các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có sự liên thông, có ranh giới rất mỏng manh, khó xác định; có khả năng dẫn tới tình trạng đùn đẩy trách nhiệm hoặc bỏ trống do không rõ đây là nhiệm vụ của Bộ, ngành nào. Việc chia tách thành hai cơ quan độc lập quản lý lĩnh vực này cũng sẽ gây khó khăn cho cơ sở tín ngưỡng, cộng đồng dân cư trong việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tín ngưỡng, về xác định thẩm quyền quản lý và phản ánh, đề xuất kiến nghị để thực hiện và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình.
5.5. Kết luận và kiến nghị
Qua đánh giá các tác động của các phương án nêu trên, chúng tôi nhận thấy nên thực hiện theo phương án 2 là hợp lý hơn cả để bảo đảm tính liên thông, thống nhất trong quản lý các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo .
IV. Kết luận chung
Kết quả của việc đánh giá tác động của các chính sách/vấn đề của dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo được phân tích và trình bày theo từng phương án, nhưng điều này không có nghĩa là 5 vấn đề có tính cải cách nêu trên không có mối liên hệ với nhau. Trên thực tế, lợi ích của quy định về báo cáo đánh giá tác động và lấy ý kiến công chúng đều dựa trên giả thiết rằng các phương án tốt nhất cho các vấn đề khác nhau được lựa chọn. Sự cải cách của mỗi vấn đề đều có tác dụng làm tăng cường lợi ích của các vấn đề khác. Nhóm nghiên cứu tin rằng các đánh giá theo phương pháp RIA như trên sẽ hỗ trợ cho cơ quan soạn thảo quyết định lựa chọn các giải pháp khả quan nhất cho cả nhà nước, doanh nghiệp và người dân nói chung, phù hợp và đáp ứng yêu cầu đổi mới, cải cách hoạt động thống kê trong thời kỳ mới.
V. Quá trình tham vấn
Nhóm nghiên cứu đã trực tiếp tham khảo ý kiến của các chuyên gia về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, các cán bộ, công chức làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ về tôn giáo và một số chuyên gia có kinh nghiệm trong công tác đánh giá tác động các dự án luật, pháp lệnh.
Nhóm nghiên cứu cũng tham khảo các thông tin, sử dụng dữ liệu từ một số trang web; sử dụng kết quả, báo cáo sẵn có của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo; tham khảo kết quả nghiên cứu của một số tổ chức quốc tế và tham khảo kinh nghiệm quốc tế về các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo.
Dự thảo Báo cáo cũng đã được lấy ý kiến tham vấn trực tiếp của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo trong các bộ, ngành, địa phương, trong các cơ quan tôn giáo tập trung để hoàn thiện hơn trước khi trình Lãnh đạo Bộ.
Trên đây là Báo cáo đánh giá tác động dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Bộ Nội vụ trân trọng báo cáo./.