Chiều ngày 29 tháng 10 năm 2012, Quốc hội đã thảo luận ở Tổ về dự thảo Nghị quyết lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn (sau đây gọi tắt là dự thảo Nghị quyết). Về cơ bản, các vị đại biểu Quốc hội tán thành với nhiều nội dung trong Tờ trình và dự thảo Nghị quyết do Ủy ban thường vụ Quốc hội trình, đồng thời, góp thêm nhiều ý kiến về một số nội dung cụ thể. Đoàn thư ký kỳ họp đã tiến hành tổng hợp ý kiến các vị đại biểu Quốc hội về dự thảo Nghị quyết này.
Để phục vụ cho việc thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội tại Hội trường, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin gửi đến các vị đại biểu Quốc hội Báo cáo dự kiến tiếp thu, giải trình một số vấn đề liên quan về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn như sau:
1. Về thẩm quyền và phạm vi những người được lấy phiếu tín nhiệm
- Nhiều ý kiến đề nghị Quốc hội chỉ tập trung lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, các ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Phó thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước; Hội đồng nhân dân chỉ lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch, uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên của Uỷ ban nhân dân mà không lấy phiếu tín nhiệm đối với Phó Chủ tịch, Phó Chủ nhiệm, ủy viên Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Phó trưởng ban, ủy viên các Ban của Hội đồng nhân dân. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị chỉ nên lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ thuộc cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp; mở rộng việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh như giám đốc sở hoặc tương đương (ở cấp tỉnh), trưởng phòng và tương đương (ở cấp huyện).
Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin được báo cáo như sau:
Căn cứ vào yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương (khóa XI) là “hướng dẫn để sớm thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn”, dự thảo Nghị quyết đã trình Quốc hội xác định những người cần được lấy phiếu tín nhiệm là toàn bộ những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Tuy nhiên, do tổng số những người được bầu hoặc phê chuẩn là khá lớn, việc lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp của Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân sẽ khó bảo đảm về mặt thời gian; đồng thời để tránh tình trạng dàn trải, hình thức, kém hiệu quả trong việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì việc giao cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân chỉ thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt, có tầm ảnh hưởng rộng (ví dụ ở Quốc hội chỉ lấy phiếu đối với 49 người) như các ý kiến đại biểu Quốc hội phát biểu tại phiên thảo luận Tổ và giao cho Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Hội đồng nhân dân trực tiếp lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của cơ quan mình là hợp lý.
Với những lý do trên đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị đại biểu Quốc hội tiếp tục cho ý kiến để xem xét, cân nhắc thận trọng về vấn đề này, vừa bảo đảm chất lượng, hiệu quả của việc lấy phiếu tín nhiệm, vừa phù hợp với yêu cầu được nêu trong Nghị quyết trung ương 4 của Đảng. Trong lần tiếp thu tới, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến trình Quốc hội giao Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn cụ thể việc lấy phiếu tín nhiệm tại Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Hội đồng nhân dân đối với các chức danh Phó Chủ tịch, Phó Chủ nhiệm, ủy viên Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội, Phó trưởng Ban, ủy viên Ban của Hội đồng nhân dân.
Do tính chất, đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta và cũng phù hợp với Nghị quyết trung ương 4 thì cần phải lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, chứ không phải chỉ riêng cơ quan hành pháp, tư pháp. Còn việc mở rộng lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh như giám đốc sở… như ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội sẽ được quy định trong một văn bản khác.
- Có ý kiến đề nghị trong Nghị quyết cần nêu rõ việc áp dụng các quy định về lấy phiếu tín nhiệm tại các địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, hiện nay, tại các huyện, quận, phường đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân được xác định là cơ quan hành chính nhà nước trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp trên. Chủ tịch, Phó Chủ tịch và uỷ viên Ủy ban nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Do vậy, những người này không thuộc phạm vi những người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu và cũng không được lấy phiếu tín nhiệm tại Hội đồng nhân dân theo quy định của Nghị quyết này.
2. Căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm
- Có ý kiến đề nghị cần cụ thể hóa các căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm quy định tại Điều 4 của dự thảo Nghị quyết.
Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, phạm vi những người được lấy phiếu tín nhiệm khá đa dạng, đảm nhiệm các chức vụ và trong các lĩnh vực công tác khác nhau. Do đó, việc xác định một cách chi tiết các căn cứ đánh giá phù hợp với tất cả các đối tượng này là điều khó có thể thực hiện được. Đây cũng là vấn đề đã được thảo luận, cân nhắc kỹ trong quá trình soạn thảo Nghị quyết. Căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm thể hiện trong dự thảo Nghị quyết đã được xây dựng dựa trên cơ sở các quy định về tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ trong Luật cán bộ, công chức, Quy chế đánh giá cán bộ, công chức của Bộ Chính trị, yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết trung ương 4.
Tuy nhiên, Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng cho rằng, các căn cứ này chỉ là những tiêu chí cơ bản, mang tính định hướng. Việc đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cân nhắc, bỏ phiếu đánh giá, thăm dò mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn không chỉ dựa trên cơ sở tự nhận xét của người được lấy phiếu tín nhiệm, kết quả đánh giá xếp loại cán bộ, đảng viên do cơ quan có thẩm quyền tiến hành được nêu trong báo cáo công tác của người được lấy phiếu tín nhiệm mà còn căn cứ vào ý kiến của cử tri cùng các thông tin khác có liên quan được đại biểu thu nhận từ các kênh khác nhau để thực hiện trách nhiệm quan trọng này.
3. Thời điểm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm
- Bên cạnh đa số ý kiến tán thành về quy định thời điểm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm như trong dự thảo Nghị quyết, vẫn có một số ý kiến đề nghị chỉ nên lấy phiếu tín nhiệm hai lần trong một nhiệm kỳ hoặc lấy phiếu tín nhiệm vào kỳ họp cuối mỗi năm.
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm sẽ làm cho người giữ chức vụ thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn luyện, phát huy trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ; đồng thời, cũng để các cơ quan có thẩm quyền kịp thời xem xét, điều chỉnh việc sắp xếp, bố trí cán bộ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quy định về thời điểm lấy phiếu tín nhiệm bắt đầu từ năm thứ hai của nhiệm kỳ là để bảo đảm thời gian cần thiết cho việc thể hiện năng lực lãnh đạo, quản lý của người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Kỳ họp của Quốc hội thường tiến hành vào tháng 5 và tháng 10; kỳ họp Hội đồng nhân dân tiến hành vào khoảng giữa năm và cuối năm. Do vậy, việc lựa chọn thời điểm lấy phiếu tín nhiệm vào kỳ họp đầu tiên trong năm kể từ năm thứ hai của nhiệm kỳ là phù hợp vì sau một năm hoạt động, đã có đủ điều kiện để xem xét, đánh giá kết quả công tác của người được lấy phiếu tín nhiệm.
4. Về quy trình lấy phiếu tín nhiệm
a) Về thủ tục lấy phiếu tín nhiệm.
- Có ý kiến đề nghị cân nhắc điều chỉnh một số mốc thời gian trong quy trình lấy phiếu tín nhiệm; bổ sung một số tài liệu liên quan đến người được lấy phiếu tín nhiệm như báo cáo của cơ quan quản lý cán bộ, ý kiến của cấp ủy nơi cư trú, nơi làm việc, tổng hợp ý kiến của cử tri... để cung cấp thêm thông tin cho đại biểu khi tiến hành bỏ phiếu.
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, về cơ bản các quy định về trình tự, thủ tục trong dự thảo Nghị quyết (bao gồm cả các mốc thời gian cụ thể) đã được xây dựng dựa trên cơ sở các quy định hiện hành của Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân cũng như tính toán cụ thể để phù hợp với yêu cầu về việc gửi tài liệu, giải trình ý kiến của đại biểu. Thủ tục lấy phiếu tín nhiệm đã được thiết kế theo hướng quy định đơn giản, rõ ràng, tránh trùng lặp với các quy trình đánh giá khác và không tạo khó khăn, áp lực cho người được lấy phiếu tín nhiệm cũng như các cơ quan, tổ chức có liên quan như ý kiến của nhiều vị đại biểu Quốc hội đã nêu.
b) Mức độ thể hiện tín nhiệm.
- Đây là nội dung được nhiều đại biểu quan tâm. Bên cạnh các ý kiến tán thành như dự thảo Nghị quyết, có nhiều ý kiến đề nghị chỉ nên quy định 3 mức độ thể hiện tín nhiệm là “tín nhiệm cao”, tính nhiệm trung bình”, “tín nhiệm thấp”, bỏ mức “chưa có ý kiến” hoặc chỉ nên có 2 mức là “tín nhiệm” và “không tín nhiệm”.
Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc lấy phiếu tín nhiệm để thăm dò mức độ tín nhiệm hằng năm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn là một quy trình mới, kết quả lấy phiếu tín nhiệm làm cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bố trí, sử dụng cán bộ và có tác động trực tiếp đến uy tín, khả năng điều hành, lãnh đạo của người được lấy phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên, để bảo đảm tính thận trọng, khách quan trong đánh giá, nhìn nhận về từng cán bộ, đề nghị trong dự thảo Nghị quyết nên cho phép đại biểu có cơ hội thể hiện ý kiến riêng của mình về người được lấy phiếu tín nhiệm. Do vậy, xin phép được sửa lựa chọn “chưa có ý kiến” trên phiếu tín nhiệm thành “ý kiến khác”.
c) Xử lý kết quả lấy phiếu tín nhiệm
- Nhiều ý kiến đề nghị cần công khai kết quả lấy phiếu tín nhiệm ở Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc thêm về việc công bố tỷ lệ phiếu bầu cụ thể vì có thể có thể gây áp lực, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín cũng như khả năng lãnh đạo, điều hành của đồng chí giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy lấy phiếu tín nhiệm là việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân thay mặt cho cử tri, nhân dân thăm dò mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, qua đó, giúp cho người được lấy phiếu tín nhiệm thấy rõ được mức độ tín nhiệm của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với bản thân để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm, chất lượng, hiệu quả công tác của mình. Đồng thời, cũng để nhân dân, cử tri biết để theo dõi, giám sát. Do đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý với đề nghị của nhiều vị đại biểu Quốc hội là cần công khai kết quả lấy phiếu tín nhiệm. Theo đó, Ban kiểm phiếu có trách nhiệm công bố công khai kết quả số phiếu cụ thể của từng người ngay tại phiên họp lấy phiếu tín nhiệm. Kết quả này còn được Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân sử dụng làm căn cứ để trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm khi cần thiết. Cách làm này cũng phù hợp với nguyên tắc công khai trong hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
- Có ý kiến đề nghị nếu kết quả lấy phiếu tín nhiệm chỉ đạt dưới 50% tổng số đại biểu tín nhiệm thì cần chuyển ngay sang bỏ phiếu tín nhiệm hoặc nếu có trên 2/3 tổng số đại biểu không tín nhiệm thì trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân xem xét miễn nhiệm luôn.
Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin được báo cáo thêm như sau:
Nghị quyết trung ương 4 và quy định của Luật cán bộ, công chức đã đặt ra yêu cầu: những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ.[1] Theo quy định của dự thảo Nghị quyết, người có hai năm liên tiếp tín nhiệm thấp (số phiếu “tín nhiệm thấp” chiếm trên 50% tổng số đại biểu) thì Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm. Hơn nữa, Nghị quyết cũng đã quy định khi người có tín nhiệm quá thấp (số phiếu “tín nhiệm thấp” chiếm trên 70% tổng số đại biểu) thì Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân cũng có thể trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm mà không cần chờ kết quả lấy phiếu tín nhiệm lần hai. Bên cạnh đó, dự thảo Nghị quyết còn quy định người có tín nhiệm thấp có thể xin từ chức nếu xét thấy bản thân không đủ tín nhiệm hoặc không đủ khả năng đảm nhiệm chức vụ được giao, tránh việc phải bỏ phiếu tín nhiệm hoặc miễn nhiệm tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Cơ quan hoặc người đã giới thiệu để Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm người đó cũng có thể chủ động trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm người có tín nhiệm thấp để điều động sang đảm nhiệm chức vụ khác phù hợp hơn. Quy định như dự thảo Nghị quyết vừa bảo đảm được tính linh hoạt, vừa đạt được mục tiêu của việc lấy phiếu tín nhiệm trong công tác cán bộ.
Tuy vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đề nghị Quốc hội thảo luận thêm về phương án đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm luôn đối với người có trên 50% số phiếu là “tín nhiệm thấp”, đồng thời xem xét miễn nhiệm đối với người có trên 70% số phiếu “tín nhiệm thấp” như ý kiến của một số đại biểu Quốc hội.
5. Về việc bỏ phiếu tín nhiệm
- Có ý kiến đề nghị bổ sung trường hợp lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo kiến nghị của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; bổ sung trường hợp lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo kiến nghị của Ban của Hội đồng nhân dân để thống nhất giữa quy định về bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân .
Ủy ban thường vụ Quốc hội xin được báo cáo như sau:
Quy định trong dự thảo Nghị quyết về các trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân cũng như thủ tục thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm cơ bản dựa trên các quy định hiện hành của Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng các văn bản khác có liên quan, chỉ bổ sung thêm 2 trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm căn cứ vào kết quả lấy phiếu tín nhiệm. Trên thực tế, Quốc hội và Hội đồng nhân dân tuy đều là cơ quan đại diện của nhân dân, nhưng lại có số lượng đại biểu chênh lệch rất lớn, quy mô, tầm ảnh hưởng cũng có nhiều đặc điểm riêng. Do vậy, quy định về các trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội và các trường hợp bỏ phiếu tại Hội đồng nhân dân có sự khác biệt nhất định. Vấn đề này đã được Quốc hội cân nhắc khá kỹ khi xem xét, thông qua các Luật nói trên. Vì các lý do nêu trên, xin phép Quốc hội cho giữ như dự thảo Nghị quyết; nếu bổ sung các trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm mới thì đề nghị thảo luận kỹ về cách thức thực hiện cũng như hệ quả pháp lý của từng trường hợp cụ thể.
- Có ý kiến đề nghị người không được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì được đưa ra để Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc cách chức.
Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy bãi nhiệm hay cách chức là một hình thức kỷ luật được áp dụng đối với người có khuyết điểm, vi phạm nghiêm trọng và đã có kết luận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; còn miễn nhiệm hay phê chuẩn việc miễn nhiệm được áp dụng đối với người không còn đủ khả năng đảm nhiệm chức vụ (có thể là do các nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan khác nhau như sức khỏe, chuyển công tác, năng lực hạn chế, không phù hợp với vị trí đang đảm nhiệm...). Vì vậy, chỉ nên áp dụng hình thức miễn nhiệm, phê chuẩn việc miễn nhiệm đối với người không còn được Quốc hội tín nhiệm nữa. Những người có khuyết điểm rõ ràng, vi phạm pháp luật nghiêm trọng cần được đưa ra để Quốc hội xem xét bãi nhiệm, cách chức ngay mà không cần qua bước bỏ phiếu tín nhiệm.
*
* *
Trên đây là một số vấn đề liên quan đến dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin trân trọng báo cáo các vị đại biểu Quốc hội.
| UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
[1] Theo Nghị quyết trung ương 4 (Khóa XI) thì “Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ”. Luật cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ 02 năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc có 02 năm liên tiếp, trong đó 01 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bố trí công tác khác. Cán bộ 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền miễn nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ.”
TỜ TRÌNH
dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết số 27/2012/QH13 của Quốc hội về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Dự thảo Nghị quyết đã được gửi lấy ý kiến của các cơ quan hữu quan ở trung ương và địa phương, đồng thời được đưa ra lấy ý kiến tại Hội nghị lãnh đạo tỉnh ủy, thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến đóng góp, dự thảo Nghị quyết đã được chỉnh lý, hoàn thiện. Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội các nội dung cơ bản của dự thảo Nghị quyết này như sau:
I. VỀ SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG NGHỊ QUYẾT
Nghị quyết trung ương 4 (khoá XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết trung ương 4) đã đặt ra yêu cầu cần “hướng dẫn để sớm thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn”. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định Quốc hội "bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn". Trên thực tế, việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn chưa được thực hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong số các nguyên nhân này là do pháp luật chưa quy định rõ các căn cứ, cơ sở để các chủ thể có quyền có thể đề xuất việc bỏ phiếu tín nhiệm, chưa làm rõ mối liên hệ giữa việc đánh giá tín nhiệm cán bộ với việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; chưa tạo nên sự gắn kết giữa quy trình lấy phiếu tín nhiệm với bỏ phiếu tín nhiệm và phân biệt rõ tầm quan trọng của hai quy trình này. Trong đó, lấy phiếu tín nhiệm được hiểu là việc làm định kỳ hằng năm, nhằm đánh giá sự tín nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn làm cơ sở cho việc thực hiện công tác cán bộ; còn bỏ phiếu tín nhiệm là việc đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân thể hiện thái độ tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do mình bầu ra hoặc phê chuẩn trong những trường hợp do luật quy định (hình thức này gần với bỏ phiếu bất tín nhiệm ở một số quốc gia khác).
Để triển khai thực hiện Nghị quyết trung ương 4, Nghị quyết của Quốc hội về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, thì việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn là cần thiết. Đây cũng là một bước cụ thể hóa các quy định hiện hành của Hiến pháp và luật, khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy trình bỏ phiếu tín nhiệm hiện nay; góp phần đưa các quy định của Hiến pháp và luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn đi vào cuộc sống.
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU XÂY DỰNG NGHỊ QUYẾT VỀ VIỆC LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM, BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM ĐỐI VỚI NGƯỜI GIỮ CHỨC VỤ DO QUỐC HỘI, HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN BẦU HOẶC PHÊ CHUẨN
1. Mục đích
Việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn nhằm đạt được các mục đích sau đây:
- Thứ nhất, tăng cường hiệu quả giám sát, bảo đảm để Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực hiện tốt hơn trách nhiệm của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan đại biểu của nhân dân thay mặt nhân dân giám sát người giữ các chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; qua đó, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của những người này trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng như trước cử tri cả nước và từng địa phương.
Qua việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn nhận biết rõ sự đánh giá của đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân về mức độ tín nhiệm trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình; trên cơ sở đó, có biện pháp phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của bản thân.
- Thứ hai, đáp ứng yêu cầu của công tác cán bộ; bổ sung căn cứ để thực hiện công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ một cách hiệu quả, đúng người, đúng việc; khuyến khích những người tín nhiệm thấp tự nguyện từ chức; kịp thời đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý những người không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao mà không phải chờ đến hết nhiệm kỳ.
- Thứ ba, cụ thể hóa quy trình bỏ phiếu tín nhiệm đã được Hiến pháp và pháp luật quy định theo tinh thần Nghị quyết trung ương 4; gắn kết quy trình lấy phiếu tín nhiệm với quy trình bỏ phiếu tín nhiệm. Theo đó, kết quả của lấy phiếu tín nhiệm sẽ là một căn cứ để Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
2. Yêu cầu
- Việc xây dựng quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn phải được tiến hành trên cơ sở các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ và yêu cầu của Nghị quyết trung ương 4, quy định của Hiến pháp và pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm.
- Quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm phải được thực hiện một cách dân chủ, công bằng, công khai, khách quan, có cơ sở pháp lý; quy trình lấy phiếu tín nhiệm cần đơn giản, rõ ràng; quy trình bỏ phiếu tín nhiệm cần chặt chẽ, thận trọng; bảo đảm hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước ở trung ương và địa phương, sự lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ.
- Đề cao vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; ngăn ngừa việc lợi dụng lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm để gây khó khăn cho việc thực hiện công tác cán bộ của Đảng.
III. VỀ QUY TRÌNH LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM, BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM
Để đáp ứng mục đích, yêu cầu nêu trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình Quốc hội quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; cụ thể như sau:
1. Về thẩm quyền và phạm vi những người được lấy phiếu tín nhiệm
Căn cứ vào yêu cầu của Nghị quyết trung ương 4, các quy định của Hiến pháp và luật về những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, đồng thời để bảo đảm tính khả thi của việc lấy phiếu tín nhiệm, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị quy định về thẩm quyền và phạm vi những người được lấy phiếu tín nhiệm cụ thể như sau:
• Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội, các thành viên khác của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Tổng kiểm toán nhà nước (tổng số là 49 người).
• Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm đối với các Phó Chủ tịch, Phó Chủ nhiệm và các uỷ viên của Hội đồng, Uỷ ban (tổng số là 380 người, trong đó mỗi Ủy ban có từ 30-50 thành viên).
• Hội đồng nhân dân lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân (02-03 người), Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân (02-04 người); Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên của Uỷ ban nhân dân (03-13 người).
• Các Ban của Hội đồng nhân dân lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của ban mình, trừ Trưởng ban (gồm từ 02 đến 04 ban, mỗi ban có từ 05-15 người).
Sau khi lấy phiếu tín nhiệm, Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực các Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm gửi kết quả lấy phiếu tín nhiệm đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để tổng hợp, báo cáo Quốc hội; các Ban của Hội đồng nhân dân có trách nhiệm gửi kết quả lấy phiếu tín nhiệm đến Thường trực Hội đồng nhân dân để tổng hợp, báo cáo Hội đồng nhân dân cấp mình. Quốc hội, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm.
2. Căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm
Trên cơ sở các quy định về tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ trong Luật cán bộ, công chức, Quy chế đánh giá cán bộ, công chức của Bộ Chính trị, yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết trung ương 4, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề xuất các nội dung cơ bản làm căn cứ cho việc đánh giá tín nhiệm như sau:
- Một là, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật đối với từng chức danh cụ thể.
- Hai là, tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống.
3. Thời điểm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm
Về thời điểm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm, đề nghị quy định việc lấy phiếu tín nhiệm cần được tiến hành định kỳ hằng năm theo tinh thần của Nghị quyết trung ương 4.
Để bảo đảm thời gian cần thiết cho việc thể hiện năng lực lãnh đạo, quản lý của người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, hội đủ điều kiện để đánh giá một cách toàn diện kết quả công tác trong năm trước đó, đồng thời phù hợp với thời điểm bắt đầu và kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đề nghị quy định rõ thời điểm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm là vào kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân đầu năm, kể từ năm thứ hai của nhiệm kỳ. Việc lấy phiếu tín nhiệm tại Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Hội đồng nhân dân cần được tổ chức trước khi Quốc hội, Hội đồng nhân dân lấy phiếu tín nhiệm để Quốc hội, Hội đồng nhân dân có thể ra nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm.
4. Về quy trình lấy phiếu tín nhiệm
Quy trình lấy phiếu tín nhiệm sẽ bao gồm quy trình lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân, quy trình lấy phiếu tín nhiệm tại phiên họp toàn thể của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Ban của Hội đồng nhân dân. Cụ thể như sau:
• Quy trình lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp Quốc hội:
a) Người được Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm có báo cáo công tác bằng văn bản về các nội dung thuộc căn cứ đánh giá trong năm trước đó. Báo cáo được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội chậm nhất là 30 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội gửi thông báo về việc lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp và báo cáo công tác của người được lấy tín nhiệm đến đại biểu Quốc hội chậm nhất là 20 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội.
b) Quốc hội quyết định ngày lấy phiếu tín nhiệm trong chương trình kỳ họp.
c) Chậm nhất là 10 ngày, trước ngày Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm, đại biểu Quốc hội có thể gửi yêu cầu bằng văn bản đến người được lấy phiếu tín nhiệm đề nghị làm rõ những nội dung thuộc căn cứ đánh giá đối với chức danh liên quan. Người được lấy phiếu tín nhiệm trả lời đại biểu bằng văn bản đối với các yêu cầu mà đại biểu đã nêu.
d) Quốc hội thực hiện lấy phiếu tín nhiệm bằng hình thức bỏ phiếu kín tại phiên họp toàn thể. Trên phiếu thể hiện tên, chức vụ của người được lấy phiếu tín nhiệm và các mức độ đánh giá tín nhiệm: “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm trung bình”, “tín nhiệm thấp”, “chưa có ý kiến”.
đ) Quốc hội thành lập Ban kiểm phiếu để xác định và công bố số phiếu tín nhiệm của từng người.
e) Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổng hợp kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với tất cả những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (bao gồm cả kết quả lấy phiếu tín nhiệm tại Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội); trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm.
• Quy trình lấy phiếu tín nhiệm tại phiên họp toàn thể của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội:
a) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội thông báo về thời gian tiến hành phiên họp lấy phiếu tín nhiệm đến thành viên của Hội đồng, Ủy ban mình chậm nhất là 45 ngày, trước ngày khai mạc phiên họp.
b) Các Phó Chủ tịch, Phó Chủ nhiệm, ủy viên của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có báo cáo công tác bằng văn bản về việc thực hiện các nội dung thuộc căn cứ đánh giá trong năm trước đó. Báo cáo được gửi đến Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội chậm nhất là 30 ngày, trước ngày khai mạc phiên họp của cơ quan này.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội gửi báo cáo công tác của người được lấy phiếu tín nhiệm đến thành viên của cơ quan mình chậm nhất là 25 ngày, trước ngày tiến hành phiên họp lấy phiếu tín nhiệm.
c) Chậm nhất là 05 ngày, trước khi bắt đầu phiên họp lấy phiếu tín nhiệm, thành viên của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có thể gửi yêu cầu bằng văn bản đến người được lấy phiếu tín nhiệm đề nghị làm rõ những nội dung thuộc căn cứ đánh giá đối với chức danh liên quan. Người được lấy phiếu tín nhiệm có trách nhiệm trả lời đại biểu bằng văn bản đối với các yêu cầu mà đại biểu đã nêu.
d) Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thực hiện lấy phiếu tín nhiệm bằng hình thức bỏ phiếu kín. Trên phiếu thể hiện tên, chức vụ của người được lấy phiếu tín nhiệm và các mức độ đánh giá tín nhiệm: “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm trung bình”, “tín nhiệm thấp”, “chưa có ý kiến”.
đ) Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thành lập Ban kiểm phiếu để xác định và công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm.
e) Thường trực Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội gửi kết quả lấy phiếu tín nhiệm đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để tổng hợp, báo cáo Quốc hội ra nghị quyết chung về việc lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp gần nhất.
• Quy trình lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp Hội đồng nhân dân và tại phiên họp của các ban của Hội đồng nhân dân về cơ bản cũng gồm các bước tương tự như quy trình lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và đã được thể hiện cụ thể trong dự thảo Nghị quyết. Thường trực Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tổng hợp và báo cáo kết quả lấy phiếu tín nhiệm với Hội đồng nhân dân; trình Hội đồng nhân dân thông qua nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm.
5. Việc sử dụng kết quả lấy phiếu tín nhiệm
Theo Nghị quyết trung ương 4 thì “những người 02 năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ”. Luật cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ 02 năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc có 02 năm liên tiếp, trong đó 01 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bố trí công tác khác. Cán bộ 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền miễn nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ.” Căn cứ vào các quy định này, việc xử lý và sử dụng kết quả lấy phiếu tín nhiệm sẽ được thực hiện như sau:
• Sau khi kết thúc việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân có trách nhiệm báo cáo cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với từng chức vụ cụ thể để xem xét, xử lý theo quy trình công tác cán bộ.
• Người có quá nửa tổng số đại biểu đánh giá “tín nhiệm thấp” có thể xin từ chức nếu xét thấy bản thân không đủ tín nhiệm hoặc không đủ khả năng đảm nhiệm chức vụ đó; cơ quan hoặc người đã giới thiệu để Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm có thể trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm người đó để điều động sang vị trí công tác khác phù hợp hơn, đồng thời chủ động đề nghị cơ quan có thẩm quyền lựa chọn người để giới thiệu thay thế; trường hợp đã hết nhiệm kỳ thì không tiếp tục giới thiệu tái cử chức vụ đó nhiệm kỳ tiếp theo.
• Người được lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân mà có trên hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân đánh giá “tín nhiệm thấp” thì Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm mà không cần chờ kết quả lấy phiếu tín nhiệm lần thứ hai; đồng thời đề nghị cơ quan có thẩm quyền chuẩn bị nhân sự thay thế.
• Người có 02 năm liên tiếp có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân đánh giá “tín nhiệm thấp” thì Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm.
• Những người được lấy phiếu tín nhiệm tại Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Ban của Hội đồng nhân dân mà có số phiếu đánh giá “tín nhiệm thấp” chiếm tỷ lệ cao thì xem xét, báo cáo cấp có thẩm quyền để Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng nhân dân trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch, Ủy viên Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm, Ủy viên Ủy ban của Quốc hội hoặc Phó trưởng Ban, Ủy viên các Ban của Hội đồng nhân dân.
6. Về việc sửa đổi, bổ sung quy trình bỏ phiếu tín nhiệm
Với việc bổ sung quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm như đã trình bày ở phần trên, đối tượng, quy trình bỏ phiếu tín nhiệm hiện nay cũng cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn, cụ thể là:
• Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm;
b) Khi có kiến nghị của ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội;
c) Khi có kiến nghị của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội;
d) Người được lấy phiếu tín nhiệm có trên hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp”;
đ) Người được lấy phiếu tín nhiệm 02 năm liên tiếp có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp”.
• Thường trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên của Ủy ban nhân dân khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Khi có yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;
b) Khi có kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
c) Người được lấy phiếu tín nhiệm có trên hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân đánh giá “tín nhiệm thấp”;
d) Người được lấy phiếu tín nhiệm 02 năm liên tiếp có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân đánh giá “tín nhiệm thấp”.
Quy trình thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm tại kỳ họp Quốc hội, kỳ họp Hội đồng nhân dân cơ bản giữ như quy định tại Điều 88 của Luật tổ chức Quốc hội, Điều 13 của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Điều 34 của Nội quy kỳ họp Quốc hội, Điều 56 của Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Đối với người có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm có trách nhiệm trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm đối với người không được Quốc hội, Hội đồng nhân dân tín nhiệm.
*
* *
Trên đây là Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Uông Chu Lưu